1. QUY ĐỊNH BOX TRUYỆN SƯU TẦM :

    Đặt Title theo mẫu [Tên truyện] [dấu cách] - [dấu cách] [Tác giả] [Số chương]
    ----•Nội dung cần:
    - Hình minh họa (bìa truyện, hình ảnh,etc,...)
    - Nguồn
    - Tác giả
    - Tên editor +beta
    - Thể loại
    - Số chương
    Đặc biệt chọn canh giữa cho đoạn giới thiệu
    ---- Quy định :
    1. Chỉ đăng những truyện đã có ebook và đã được public trên các trang web khác
    2 . Chỉ nên post truyện đã hoàn đã có eBook.
    3. Trình bày topic truyện khoa học, bôi đen số chương để dễ nhìn
    4 . Cần có trách nhiệm post đến hết truyện. Nếu không thể tiếp tục post liên hệ Ad và Mod

  2. QUY ĐỊNH BOX EBOOK SƯU TẦM

    Khi các bạn post link eBook sưu tầm nhớ chú ý nguồn edit và Link dẫn về chính chủ

    eBook phải tải File trực tiếp lên forum (có thể thêm file mediafire, dropbox ngay văn án)

    Không được kèm link có tính phí và bài viết, hay quảng cáo phản cảm, nếu có sẽ ban nick

    Cách tải ebook có quảng cáo

Sông Đông êm đềm - Mikhail Solokhov (232 chương)

Thảo luận trong 'Truyện Phương Tây (Sưu Tầm)'

  • ^^! Nếu bạn không gửi link bài viết trên Facebook được, hãy sử dụng link trong khung này để chia sẻ bài viết :
    1. meobong271

      meobong271 Active Member

      Bài viết:
      490
      Được thích:
      32
      Chương 45


      Tháng ba năm 1914, Natalia về ở với bố mẹ chồng vào ngày tuyết tan, cảnh vật rất vui tươi. Ông Panteley Prokofievich dùng cành cây xam xám, rêu bám lờm xờm đan lại quãng hàng rào vừa bị con bò mộng húc đổ. Nước giọt từ cái mái nhà tua tủa những que băng lấp loáng như bạc. Những chỗ nước chảy xuống từ xưa còn để lại ven đường gờ mái những dải đen như nhựa chưng.
      Mặt trời bây giờ đỏ hơn, cọ mình vào khoảng sườn đồi tan hết tuyết, nũng nịu như con bò con. Cỏ đầu mùa mọc xanh rờn như đá khổng tước những mô dá phấn nhô ra như những cái đầu hói từ ngọn đồi bên bờ sông.
      Natalia bước tới sau lưng bố chồng. Nàng gầy rộc , nom khác hẳn xưa. Nàng cúi xuống chào, cái cổ tàn tật vẹo sang bên:
      - Cha vẫn khỏe chứ ạ!
      - Nataska! Khỏe lắm, con của cha, khỏe lắm! - Ông Panteley Prokofievich luống cuống trả lời. Đoạn cành cây rời khỏi tay ông rơi xuống, cong lại rồi lại thẳng ra. - Tại sao con chẳng còn nhòm ngó gì đến nhà nữa thế? Thôi, ta vào nhà trong , rồi con xem mẹ con trông thấy con mừng như thế nào.
      - Cha ạ, con về ở nhà đây… - Natalia khoát tay, hiểu ý nàng định thêm gì, rồi quay người lại. - Nếu cha đuổi con ở hẳn nhà.
      - Sao con lại thế, sao lại thế con của cha? Con có phải là người dưng nước lã đâu? Thằng Grigori có viết trong thư… Nó bảo phải chăm nom cho con đấy, con ạ.
      Hai người vào nhà. Ông Panteley Prokofievich sung sướng quá cứ khập khiễng cuống quít lăng xăng.
      Bà Ilinhitna ôm lấy Natalia, nước mắt ròng ròng. Bà hỉ mũi vào tạp dề, thầm với nàng:
      - Mày có được đứa con có phải là hay bao nhiêu … Có lẽ phải như thế mới giữ được nó. Thôi, ngồi xuống con. Con ngồi đấy để mẹ lấy bánh tráng cho con ăn nhé?
      - Cầu Chúa cứu vớt, mẹ ạ, con bây giờ… về ở nhà đây…
      Dunhiaska nhảy cỡn từ ngoài sân vào bếp, mặt đỏ như gấc. bé chạy thẳng tới ôm lấy đầu gối Natalia.
      - Chị biết xấu! Quên hết cả nhà!
      - Mày hoá rồ rồi à, con ngựa cái nầy! - Người bố quát, gíọng cố vờ nghiêm khắc.
      - Em chị lớn thế nầy rồi cơ à? - Natalia nắm lấy hai tay Dunhiaska, dang rộng ra, ngắm mặt bé.
      Mọi người cướp lời nhau cùng lúc rồi lại cùng nín lặng.
      Bà Ilinhitna đau lòng nhìn đứa con dâu bây giờ nom còn giống Natalia xưa nữa.
      - Chị về ở hẳn nhà đấy chứ? - Dunhiaska kéo tay Natalia và hỏi.
      - Ai hiểu được ấy thế nào…
      - Mặc xác nó, con là vợ chính thức của nó con còn ở đâu bây giờ! Con cứ ở đây! - Bà Ilinhitna dứt khoát và đẩy cái đĩa đất nung đựng đầy bánh tráng cho con dâu ăn.
      Natalia lưỡng lự mãi rồi mới quyết định về ở với bố mẹ chồng. Bố đẻ nàng muốn cho nàng , hết quát lác lại tìm cách cho nàng xấu hổ, và cố khuyên can nàng. Nhưng sau khi lành mạnh, nàng cảm thấy ngượng muốn nhìn vào mặt những người trong gia đình, và cứ thấy mình gần như xa lạ trong cái gia đình trước kia xiết bao thân thiết. Lần nàng tự tử chết làm nàng trở nên cách bức với bố mẹ em. Còn ông Panteley Prokofievich sau khi đưa tiễn Grigori ra lính, ông luôn khuyên nàng nên về ở nhà mình. Ông có quyết tâm sắt đá nhận Natalia về nhà ở và hoà giải với Grigori.
      Từ hôm ấy Natalia ở lại nhà Melekhov. Daria bề ngoài chẳng tỏ ra có gì bằng lòng, Petro hồ hởi, thân mật. Nhưng Daria thấy Natalia được Dunhiaska quấn quít âu yếm và bố mẹ chồng thương như con đẻ thỉnh thoảng cũng có lườm nguýt.
      Natalia vừa về ở với bố mẹ chồng hôm trước hôm sau ông Panteley Prokofievich bắt ngay Dunhiaska viết cho Grigori bức thư với những ý của ông.
      "Grigori Panteleevich, con quí của cha mẹ, cầu mong con được khỏe mạnh! Cả nhà gửi tới con lời chào thân thiết nhất, và với tâm lòng của người cha người mẹ, cha và mẹ con là bà Vaxilisa Ilinhitna gửi tới con lời chúc phước của cha mẹ. con là Petro Panteleevich cùng vợ là Daria Matveevna gửi lời chào con, chúc con khỏe mạnh và bình an hạnh phúc; em con là Evdokaia cùng tất cả mọi người trong nhà cũng gửi lời hỏi thăm con. Bức thư con gửi ngày mồng năm tháng Hai, ở nhà nhận được và chân thành cám ơn con viết thư.
      Con có viết là con ngựa đưa chân sau đạp lên chân trước. Nếu vậy phải lấy mỡ lòng lợn mà đổ cho nó như con biết. Và nếu đường trơn hoặc chỉ có băng mà có tuyết đừng đóng móng sau. Vợ con là Natalia Mironovna về ở với nhà ta và vẫn khỏe mạnh bình an.
      Mẹ con gửi cho con ít đào khô, đôi bít tất len, có cả mỡ lợn và số đồ ăn thức uống khác. Cả nhà vẫn khỏe mạnh như thường, chỉ có thằng cháu, con chị Daria chết, tin cho con biết.
      Hôm kia cha và Petro con lợp lại mái nhà kho, Petro dặn con phải chăm nom giữ gìn con ngựa. Mấy con bò cái đẻ, con ngựa cái già bắt đầu căng vú, đúng là trong bụng nó có con ngựa con đạp. Nó thụ tinh của con ngựa đực tên là Đanhết ở tàu ngựa trấn, ở nhà chờ nó đẻ vào tuần chay thứ năm. Cả nhà sung sướng thấy con làm việc quan đắc lực và được các quan khen ngợi. Con hãy làm việc quan cho mẫn cán. Phụng nhà vua sợ uổng công. nay Natalia về ở nhà ta, việc nầy con phải để tâm suy nghĩ mới được. À mới xảy việc chẳng may là hôm lễ tống tiễn mùa đông, có con thú rừng cắn chết mất ba con cừu. Thôi, chúc con khỏe mạnh và cầu Chúa cứu giúp con. Cha ra lệnh cho con là được quên vợ. Nó nết na hiền hậu và là vợ chính thức của con. Con được phá vỡ qui củ xưa(1) và phải nghe lời cha.
      Cha của con
      Thượng sĩ Panteley Melekhov".
      Trung đoàn của Grigori đóng ở Radivilôvô, thị trấn cách biên giới Nga-Áo bốn vec-xta. Khi nghe tin Natalia về ở với bố mẹ mình, chàng trả lời rất dè dặt, chỉ gửi lời hỏi thăm nàng. Nội dung bức thư của chàng có vẻ lẩn tránh loanh quanh, rất nghĩa.
      Ông Panteley Prokofievich bắt hết Dunhiaska đến Petro đọc đọc lại hàng mấy lần, cố đoán xem cái bí mà Grigori còn dấu sau những dòng chữ. Trước lễ Phục sinh ông bèn gửi bức thư nêu toạc móng heo vấn đề Grigori hết hạn lính về nhà ở với vợ hay vẫn ở với Acxinhia.
      Grigori lần lữa mãi chưa trả lời. Sau lễ Lá, ở nhà mới nhận được của chàng bức thư ngắn. Dunhiaska nuốt bớt chữ, đọc liếng thoắng. Ông Panteley Prokofievich phải vất vả lắm mới nắm được ý chính sau khi bỏ qua vô số những lời chào mừng thăm hỏi tràng giang đại hải. Mãi cuối thư mới thấy Grigori đả động đến vấn đề Natalia:
      "Cha bảo con viết thư con có ở với Natalia nữa hay thôi nhưng con xin thưa với cha rằng miếng bánh cắt ra thể làm cho liền lại được nữa. Con ăn với Natalia thế nào bây giờ, vì chính cha biết đấy, con có con rồi? Còn hứa hẹn con chẳng có thể hứa gì cả, mà đến chuyện nầy con rất đau khổ. Trước đây ít lâu ở biên giới có tóm cổ được tên buôn lậu. Chúng con có dịp gặp mặt nó. Nó bảo sắp có chiến tranh với nước Áo đến nơi rồi và hình như vua bên đó đến biên giới quan sát xem bắt đầu chiến tranh từ nơi nào và chiếm lấy những vùng đất nào. Nếu chiến tranh sắp bùng nổ có lẽ chính con cũng còn sống, vì thế thể quyết định trước chuyện gì cả".

      ***
      Natalia đến lao động và sống ở nhà bố mẹ chồng, đồng thời ấp ủ niềm hy vọng mà nàng ý thức ràng nhưng vẫn ngày càng tăng: chồng nàng trở về với nàng, hơn nữa trái tim rạn nứt của nàng cũng phải có niềm hy vọng ấy làm chỗ dựa. Nàng viết cho Grigori bức thư nào, nhưng có lẽ trong nhà ai mong thư Grigori với lòng buồn nhớ và đau khổ như nàng.
      Cuộc sống trong thôn vẫn trôi theo nhịp thường, nhịp tưởng chừng bao giờ đổi khác: tráng đinh -dắc lính mãn hạn lại trở về. Thời gian trôi lúc nào biết qua những công việc nhàm toái hàng ngày. Chủ nhật đến, từ sáng sớm, nhà nào nhà nấy lại lốc nhốc kéo nhau lễ nhà thờ; đàn ông mặc áo quân phục và những chiếc quần rộng dùng trong những ngày hội, đàn bà quét bụi đường bằng gấu của những cái váy dài loạt soạt đủ các màu, có người bó chặt trong những chiếc áo hoa vai bồng, tay nhăn nhúm.
      cái bãi vuông, những chiếc xe tải vẫn cứ vươn càng lên trời, những con ngựa hí, đủ các hạng người qua qua lại lại; cạnh nhà kho chữ các đồ chữa cháy, những người Bungari trồng rau vẫn bán các thứ la-ghim bày những giá hàng dài; sau lưng họ, những đứa trẻ con vẫn xúm đông xúm đỏ, tròn xoe mắt nhìn những con lạc đà dỡ hàng ngạo nghễ lướt mắt qua bãi chợ cùng những đám người nhốn nháo với những chiếc mũ cát-két vành đỏ và những cái khăn phụ nữ lấp loáng muôn màu. Mấy con lạc đà được nghỉ ngơi sau những giờ làm việc liên miên với cái xe chở nước nhai trầu món cỏ ăn, sùi bọt mép, mắt mơ màng với ánh thiếc mạ xanh xanh.
      Tối tối các dãy phố lại rên xiết dưới những bước chân người rầm rập, bãi chơi rạt rào tiếng hát, tiếng nhảy múa theo nhịp accordeon, và mãi khuya những tiếng hát cuối cùng ở các chỗ ven lề thôn mới tan dần trong làn gió khô ấm áp.
      Natalia ra bãi chơi, nàng sung sướng lắng nghe những câu chuyện Dunhiaska kể rất ngây thơ, mộc mạc. Dunhiaska lớn lên lúc nào biết và trở thành cân đối, có vẻ đẹp riêng. bé cứ như quả táo chín sớm. Năm nay, Dunhiaska từ giã thời kỳ thiếu niên bao giờ trở lại, và được những bạn lớn tuổi hơn nhận vào đám các chưa chồng. Dunhiaska giống bố như lột: người cũng thấp thấp, da ngăm ngăm.
      Mười lăm mùa xuân qua, nhưng cái thân hình mảnh dẻ xương xương vẫn chưa tròn trặn. Trong người có cả thời thơ ấu lẫn thời thiếu niên dậy , hai thời kỳ ấy lẫn lộn với nhau cách ngây thơ và tội nghiệp: cặp vú , chỉ bằng nắm tay rắn lại, hằn dưới làn áo; hai vai cũng rộng ra; nhưng trong cặp mắt đen dài, hơi xếch, hình quả trám, lòng trắng xanh xanh, vẫn còn cái ánh vừa ngượng nghịu vừa tinh nghịch. Ở bãi chơi về, Dunhiaska chỉ kể cho mình Natalia nghe những chuyện bí mật đơn giản của mình.
      - Chị Natalia nầy, chị của em nầy, em kể cho chị nghe nhá…
      - Ừ kể kể .
      Miska Kosevoi ngồi với em suốt tối hôm qua trong đám sồi ở gần kho thóc đấy.
      - Nhưng làm sao mà má em đỏ như gấc thế?
      - Đỏ đâu mà đỏ?
      - Ra soi gương xem, cứ là bừng bừng.
      - Thôi chị! Chị chỉ làm em ngượng…
      - Thế em kể , chị làm em ngượng nữa đâu.
      Dunhiaska đưa hai bàn tay ngăm ngăm đen lên xoa cặp má đỏ ửng ấn ngón tay vào thái dương, rồi hiểu sao phá lên cười, tiếng cười rất trẻ.
      - ấy bảo: "Trông em cứ như đoá uất kim hương ngoài đồng nội ấy!"
      - Thế à? - Natalia khuyến khích em chồng. Trong khi vui với cái vui của người khác, nàng quên cả mối tình bị dày xéo, mối tình quá cố của mình.
      - Nhưng em bảo ấy: " Miska chỉ dối thôi?" ấy cứ là thề sống thề chết. - Tiếng cười của Dunhiaska vang lanh lảnh khắp nhà như tiếng nhạc ngựa. lắc đầu làm hai bím tóc đen tết rất chặt trườn xuống vai, xuống lưng như hai con thằn lằn.
      - ấy còn bảo gì em nữa?
      - ấy bảo em cho ấy chiếc khăn tay làm kỷ niệm.
      - Em cho rồi à?
      - Em bảo được, em cho đâu. mà xin người đẹp của ấy. ấy vẫn lại với ả con dâu nhà Erofeev đấy… Ả ấy là vợ lính vắng chồng tằng tịu lung tung.
      - Em cố tránh đừng gặp Miska nữa hơn.
      - Em cũng có tránh ấy đấy. - Dunhiaska cố ghìm nét cười thoáng môi rồi kể tiếp - Chúng em cùng ở bãi chơi về với nhau, tất cả có ba đứa con . Lão Mikhey rượu say bí tỉ lẵng nhẵng đuổi theo. Lão kêu rầm lên: "Các bé ngoan của lão, lại đây hôn lão cái, lão tặng cho mỗi đồng hai kopek". Rồi lão chạy bổ đến chỗ chúng em. Con Niurka bèn cầm cái cành cây đập luôn cho lão cái vào trán. Thế là cả ba chạy bán sống bán chết.
      Năm ấy hạn hán. Khúc sông trước mặt thôn cạn dần. Ở chỗ xưa kia dòng nước chảy xiết như điên cuồng nay có thể lội qua được. Những con bò sang được bờ bên kia mà ướt lưng. Đêm đêm những làn hơi nóng hổi, đặc quánh trườn từ sống núi vào trong thôn, gió làm cho khí nồng nặc mùi chỏ cháy hắc hắc. Ở chỗ con sông uốn khúc, cỏ bồng khô cháy xém cả, làn hơi nóng mịn màng vắt lơ lửng bờ sông như tấm màn vô hình. Cứ đến đêm là những đám mây lại kéo đến dầy đặc bên kia sông Đông, những tiếng sấm khô khan nổ ra ầm ầm, nhưng chẳng có giọt mưa nào rơi xuống mặt đất thở hổn hển dưới hơi nóng. Chớp nhoáng nhoàng hết sức đoảng vị, chỉ được cái cắt ngang cắt dọc bầu trời thành những mảng xanh xanh nhọn hoắt.
      Nhiều đêm có con cú kêu gác chuông nhà thờ. Những tiếng kêu khủng khiếp cứ chập chờn, lơ lửng thôn xóm. Rồi nó lại bay từ gác chuông ra bãi tha ma, chỗ đất bị những con bò con dẫm nát, và tiếp tục rền rĩ giữa những nấm mồ cỏ mọc nâu nâu. Các cụ già nghe thấy tiếng cú kêu ngoài bãi tha ma phỏng đoán với nhau về điềm trời.
      - Khốn mất rồi.
      - Sắp nổ ra chiến tranh đấy.
      - Hồi sắp chiến dịch Thổ nhĩ kỳ cũng có cú kêu như thế đấy.
      - Hay lại có dịch tả?
      - Nó bay từ nhà thờ ra với người chết đừng hòng có gì tốt lành.
      - Chao ôi, lạnh Thánh Misen(2), xin người ra ân…
      Gã Marchin nhà Sumilin, em trai của gã cụt tay Aleksey, đến bên cạnh tường bao bãi tha ma, rình con chim chết tiệt ấy hai đêm liền. Nhưng con cú vô hình và thần bí bay qua đầu gã tiếng động, đến đậu cây thánh giá ở đầu kia bãi tha ma, và những tiếng kêu đáng sợ của nó lại vẳng xuống cái thôn mơ màng. Marchin chửi câu tục tũi, nã bừa phát về phía cái bụng sệ của đám mây đen rồi bỏ về. Nhà gã ở ngay cạnh đấy. Vợ gã là mụ ốm o, nhát như cáy, nhưng lại sòn sòn năm , mắn đẻ như con thỏ cái. Thấy chồng về, mụ tru tréo:
      - Đồ ngu xuẩn, ngu khổ ngu sở! Nó làm hại gì đến hử, đồ hung thần? Làm thế mà bị Chúa phạt sao? Tôi lại bụng mang dạ chửa thế nầy. Nếu vì mà tôi đẻ non sao hả, đồ quỷ sứ?
      - Thôi câm cái mồm ! Mụ mà đẻ non được à? Đẻ quen cứ như con ngựa thằng đóng thùng, quen đường như thế mà còn! Chẳng nhẽ cứ để con chim khốn kiếp ấy nó đến đây làm người ta mất ăn mất ngủ hay sao? Con chim ma quái ấy, nó kêu toàn chuyện tai hoạ đấy. Nếu xảy ra chiến tranh, tôi bị bắt lính, còn mụ cho ra hàng lô con chó cái thế nầy làm thế nào? - Marchin vung tay về phía góc nhà, trong đó tiếng chuột kêu chi chí hoà lẫn với những tiếng ngáy của bầy trẻ nằm úp thìa.
      Trong khi chuyện với các cụ già bãi họp việc làng, ông Panteley Prokofievich trịnh trọng tuyên bố:
      - Thằng Grigori nhà tôi có viết thư về cho biết lão vua nước Áo tới biên giới, ra lệnh tập trung toàn bộ quân đội của lão vào chỗ rồi tiến về phía Moskva và Peterburg.
      Các cụ già hồi tưởng những cuộc chiến tranh xưa kia và cùng đoán già đoán non!
      - Nhìn vào mùa màng thể có chiến tranh đâu.
      - Mùa màng có gì dính dáng tới chuyện nầy?
      - Có lẽ sinh viên làm loạn đấy.
      - Việc nầy chúng ta được biết quá muộn.
      - Cũng như hồi chiến tranh với Nhật Bản.
      - Ông sắm được ngựa cho cậu cả nhà ta chưa?
      - Cần gì phải sắm trước…
      - Toàn chuyện tầm bậy!
      - Nhưng chiến tranh với ai cơ chứ?
      - Với Thổ nhĩ kỳ để dành mặt biển. Biển dù sao cũng thể chia được.
      - Chuyện ấy có gì khó khăn đâu? Cứ phân ra từng khoảnh, từng khoảnh như chúng ta chia cỏ ấy, thế là xong thôi mà!
      Câu chuyện chuyển theo hướng bông đùa, các cụ chia tay ra về.
      Cỏ ngoài bãi sắp đến ngày phải cắt, mọi người đều nóng lòng chờ đợi. Các thứ cỏ bên kia sông Đông đều bắt đầu nở hoa, nhưng cỏ bên ấy yểu, có mùi thơm, kém hẳn cỏ đồng. Cũng là đất cả nhưng mỗi nơi cỏ hút chất mầu khác. Khoảng đồng cỏ sau ngọn gò là chất đất đen thượng đẳng, sần sật như xương sụn: đàn ngựa phóng thẳng qua cũng chẳng để lại vết móng nào; đất rắn thành thử cỏ mọc lên cứng cáp, khỏe khoắn, thơm phưng phức, cao đến bụng ngựa. Nhưng sát bờ sông và bên kia sông, đất vừa ẩm vừa nhão nên cỏ mọc lên nom ỉu xìu, vô tích , có năm bò ngựa chê thèm ăn.
      Khắp thôn chỗ nào cũng đập lại hái, bào lại răng cào, đàn bà chỉ đem nước kvas cho thợ cắt cỏ cũng đủ bở hơi tai. Nhưng bất thình lình xảy ra chuyện làm chấn động từ đầu xóm đến cuối thôn.
      Tên cảnh sát trưởng trấn tên dự thẩm về thôn, cùng còn có gã sĩ quan hom hem, răng đen sì, xưa nay chưa có ai thấy mặt bao giờ. Chúng cho gọi lão ataman thôn, lôi mấy người làm chứng đến rồi kéo nhau tới thẳng nhà mục lác Lukeska.
      Tên dự thẩm cầm cái mũ cát-két vải bạt đính phù hiệu. Cả bọn theo dãy hàng rào bên trái đường phố. Mặt trời điểm những vệt sáng lên con đường . Tên dự thẩm vừa dẫm đôi giầy đầy bụi lên những vệt sáng đó, vừa hỏi lão ataman chạy lộc ngộc phía trước như con gà trống:
      - Thằng ngụ cư Stokman có nhà ?
      - Bẩm quan lớn có ạ.
      - Nó làm nghề gì?
      - Bà con thấy nó làm thợ nguội… lại làm cả thợ mộc nữa.
      - nhận thấy nó có vấn đề gì à?
      - Chẳng có vấn đề gì cả.
      Tên cảnh sát trưởng vừa vừa nặn cái trứng cá mọc ngay giữa hai hàng lông mày. thở phì phì, mồ hôi tầm tã trong bộ đồng phục bằng dạ. Tên sĩ quan răng đen cầm sợi rơm xỉa răng, cau mặt làm lên những vết nhăn đo đỏ, nhẽo nhợt chung quanh mắt.
      - Những tên nào thường lui tới nhà nó? - Tên dự thẩm đưa tay kéo lão ataman chạy phía trước.
      - Thưa vâng, đúng là có những tên đến nhà đấy ạ. Có khi chúng nó đánh bài.
      - Nhưng là những đứa nào?
      - Tên thợ máy, tên đứng cân, tên thợ cán Davydka và trong dân -dắc chúng tôi cũng có kẻ đến đó.
      Tên dự thẩm đứng lại chờ tên sĩ quan tụt lại phía sau. nâng cái mũ cát-két lên chùi mồ hôi ở chỗ tinh mũi, rồi xoay xoay cái khuy áo quân phục của tên sĩ quan, biết những gì với tên nầy và giơ ngón tay vẫy lão ataman. Lão ataman nín thở rón rén chạy tới. Những đường gân xanh nhằng nhịt cổ lão phồng lên, run run.
      - lấy hai tuần đinh, bắt mấy thằng ấy. Giải tới nhà hội đồng, chúng tôi đến ngay. chưa?
      Lão ataman ưỡn ngực đứng thẳng người, nửa thân đưa ra phía trước đến nỗi cái cổ đứng áo quân phục nằm hẳn lên đường gân to nhất như sợi dây màu lam. Lão vâng tiếng như gầm lên rồi ngược trở lại.
      Stokman ngồi quay lưng ra cửa. chỉ mặc sơ mi lót phanh cổ, dùng cưa tay cưa đường cong mảnh gỗ dán.
      - Mời ông đứng dậy. Ông bị bắt.
      - Về việc gì vậy.
      - Ông ở hai phòng à?
      - Vâng.
      - Chúng tôi đến khám nhà ông. - Viên sĩ quan bước tới gần chiếc bàn , đinh thúc ngựa vướng vào tấm thảm đặt ở ngưỡng cửa.
      nheo mắt, nhìn thấy quyển sách bèn cầm lên xem.
      - Ông làm ơn đưa tôi chìa khoá hòm nầy.
      - Thưa ngài dự thẩm, vì sao tôi phải làm như thế?
      - Chúng tôi giờ cho ông biết . Người làm chứng đâu lại đây!
      Người vợ của Stokman ở trong căn phòng thứ hai ngó nhìn ra, cửa phòng đóng hẳn. Tên dự thẩm, theo sau là tên văn thư, bước về phía đó.
      - Cái gì đây? - Tên sĩ quan giơ cuốn sách bìa vàng, khẽ hỏi.
      - quyển sách. - Stokman nhún vai.
      - Cái kiểu pha trò ấy, nên dành cho những lúc thích hợp hãy đem dùng. Tôi đề nghị trả lời những câu tôi hỏi bằng giọng khác Stokman dựa lưng vào bếp lò, cố ghìm tiếng cười gằn. Viên dự thẩm nhìn qua vai tên sĩ quan rồi chuyển con mắt sang Stokman.
      - Ông nghiên cứu à?
      - Tôi cũng muốn hiểu biết, - Stokman trả lời gọn lỏn, tay vẫn cầm lược rẽ chòm râu đen làm hai món đều nhau.
      - À ra thế!
      Tên sĩ quan lật lật vài trang rồi ném cuốn sách lên bàn. xem qua cuốn thứ hai, đặt sang bên rồi đọc bìa cuốn thứ ba và quay về phía Stokman.
      - Nhà mày còn giấu loại sách như thế nầy ở chỗ nào nữa?
      Stokman nheo mắt bên trái như nhắm bắn.
      - Có bao nhiêu đều ở đây cả.
      - Mày láo! - Tên sĩ quan vung cuốn sách dằn từng tiếng.
      - Tôi cầu…
      - Lục soát!
      Tên cảnh sát trưởng tì tay vào đốc gươm bước tới gần chiếc hòm. người tuần -dắc lục lọi trong đống đồ lót và quần áo ngoài. Xem ra những việc vừa xảy ra làm hết hồn.
      - Tôi cầu với tôi cho có lễ độ, - Stokman nốt, nheo mắt nhìn thẳng vào chỗ tinh mũi tên sĩ quan.
      - Ông im hơn, ông bạn thân mến ạ.
      Trong gian Stokman ở với vợ, chỗ nào có thể đào bới được chúng đều từ. Chúng khám cả trong gian làm việc. Tên cảnh sát trưởng ra vẻ mẫn cán, thậm chí cong ngón tay gõ vào mấy bức tường.
      Stokman bị giải đến nhà hội đồng. giữa phố, trước mặt người tuần, tay đặt lên vạt chiếc áo vét-tông cũ, còn tay kia vẩy vẩy như muốn rũ những vết bùn ngón tay. Mấy tên kia sát dãy hàng rào bên lề con đường lốm đốm ánh nắng. Tên dự thẩm vẫn đặt từng chiếc giày da xanh xanh tì sát vào những cây thân lê lên những đốm nắng. Nhưng bây giờ cầm mũ ở tay nữa, mà đội chắc chắn lên đầu, bên hai vành tai trắng bệch.
      Người cuối cùng bị thẩm vấn là Stokman. Những người bị hỏi cung xong đứng chen chúc ở phòng ngoài và bị tuần đinh canh gác:
      Kotliarov chưa kịp rửa hai bàn tay bê bết dầu ma-dút, Davydka mỉm cười ngượng nghịu, "Bồi" với chiếc vét-tông khác vai và Miska Kosevoi. Tên dự thẩm vừa lục trong cặp tài liệu màu hồng vừa hỏi Stokman đứng bên kia cái bàn:
      - Lần tôi hỏi cung ông về vụ án mạng xảy ra ở nhà máy xay, tại sao ông giấu ông là đảng viên đảng Công nhân Xã hội Dân chủ Nga?
      Stokman nín lặng nhìn cao hơn đầu tên dự thẩm.
      - Việc nầy được xác định. Ông phải chịu phần trách nhiệm xứng đáng về những việc ông làm. - Tức tối vì thấy Stokman chẳng chẳng rằng, tên dự thẩm cất cao giọng.
      - Xin ông cứ bắt đầu hỏi, - Giọng Stokman đầy vẻ chán ngán. đưa mắt về phía cái ghế bỏ đề nghị cho phép ngồi.
      Tên dự thẩm trả lời, lật loạt soạt những trang giấy, gườm gườm nhìn Stokman thản nhiên ngồi xuống.
      - Ông đến đây từ bao giờ?
      - Năm ngoái.
      Theo nhiệm vụ tổ chức của ông trao cho phải ?
      - Tôi có nhiệm vụ gì cả.
      - Ông là đảng viên của đảng ông từ hồi nào?
      - Ý ông định hỏi gì?
      - Tôi hỏi ông, - Tên dự thẩm nhấn mạnh tiếng "tôi", - Ông trở thành đảng viên đảng Công nhân Xã hội Dân chủ Nga từ bao giờ?
      - Tôi nghĩ rằng…
      - Tôi hoàn toàn cần biết ông nghĩ gì. Ông hãy trả lời câu hỏi . Chối quanh chỉ vô ích, mà lại còn có hại là khác. - Tên dự thẩm để riêng ra tờ giấy, rồi đưa ngón tay trỏ ấn tờ giấy đó xuống mặt bàn. - Đây là bản kết quả tìm hỏi gửi từ Rostov tới đây, tài liệu nầy xác định ông có tham gỉa đảng phái .
      Stokman nheo hẳn mắt, đọc lướt qua tờ giấy trắng, nhìn chằm chằm lát rồi xoa xoa đầu gối, trả lời bằng giọng rắn rỏi:
      - Từ năm nghìn chín trăm linh bảy.
      - À ra vậy. Thế ông chối nhận rằng ông được đảng ông phái đến đây à?
      - Vâng.
      - Nếu thế ông đến đây làm gì?
      - Tôi thấy ở đây cần có người làm công việc thợ nguội.
      - Vì sao ông chọn đúng khu nầy.
      - Cũng với lý do .
      - nay ông có quan hệ, hay trong thời gian ấy ông có liên hệ với tổ chức của ông ?
      - .
      - Họ có biết rằng ông đến đây ?
      - Chắc hẳn là có.
      Tên dự thẩm chẩu môi gọt bút chì bằng con dao chuôi sà cừ, mắ nhìn Stokman.
      - Ông có thư từ lại với ai trong số đồng đảng ?
      - .
      - Còn bức thư tìm thấy trong khi khám xét?
      - Bức thư ấy là của người bạn, người nầy, xin lỗi ông, chẳng có quan hệ gì với tổ chức cách mạng nào cả.
      - Ông có nhận được những chỉ thị nào ở Rostov ?
      - .
      - Mấy tên thợ nhà máy xay đến tụ tập ở nhà ông với mục đích gì?
      Stokman nhún vai, có vẻ ngạc nhiên trước câu hỏi vô nghĩ lý đến như thế.
      - Chẳng qua chỉ là đến ngồi với nhau để giết giờ trong những buổi tối mùa đông… Đánh vài ván bài…
      - Và đọc những sách mà pháp luật cấm đọc. - Tên dự thẩm nhắc.
      - . em toàn là những người rất ít chữ nghĩa.
      - Thế mà tên thợ máy nhà máy xay cùng tất cả những tên khác đều phủ nhận nầy.
      - phải như vậy.
      - Tôi có cảm tưởng như ông hoàn toàn nhận thức sơ đẳng nào…
      Nghe đến đây Stokman mỉm cười. Tên dự thẩm bất giác ngừng lại lát, rồi nốt với vẻ bực tức cố nén:
      - quả ông còn có đầu óc khôn ngoan thông thường nữa ông khăng khăng nhận tội chỉ có hại cho mình thôi. Hoàn toàn dễ hiểu là ông được đảng của ông phái đến đây để làm công việc phân hoá dân -dắc, để dành lấy họ khỏi tay chính phủ. Tôi hiểu chúng ta cứ đánh bài mò như thế nầy làm gì? Đằng nào cũng giảm bớt được tội cho ông chút nào cơ mà…
      - Đó mới chỉ là ông ước đoán thôi. Ông cho phép hút thuốc? Cám ơn ông. Đó chỉ là ước đoán, hơn nữa chẳng có căn cứ gì.
      - Xin ông cho biết ông có đọc cho bọn thợ đến nhà ông nghe cuốn sách nầy ? - Tên dự thẩm đặt bàn tay lên cuốn sách , che mất đầu đề. Phía có dòng chữ đen nền trắng: "Plekhanov".
      - Chúng tôi đọc thơ, - Stokman thở dài, hít hơi thuốc, mấy ngón tay bóp chặt cái bót xương có những vòng tròn.
      Hôm sau, buổi sáng rầu rĩ đầy sương mù, có chiếc xe thư thắng hai con ngựa chạy ra khỏi thôn, Stokman ngồi ngủ gà ngủ gật phía sau, chòm râu rúc hẳn vào trong cái cổ ngắn bê bết dầu mỡ của chiếc ghế bành tô. Vài người tuần đinh đeo gươm đứng chen chúc hai bên Stokman. Trong số đó có tên mặt rỗ tóc xoăn. Những ngón tay sần sùi, bẩn thỉu của gã nắm chặt khuỷu tay Stokman, hai con mắt trắng đầy vẻ hoảng sợ nhìn trô trố, tay trái nắm khư khư chiếc vỏ gươm bạc màu.
      Xe chạy long xòng xọc tung bụi mù mịt dãy phố. người đàn bà bé, đầu trùm khăn, đứng tựa vào hàng rào sân đập lúa nhà Melekhov.
      Chiếc xe cuốn bụi chạy qua. Người đàn bà đưa hai tay lên ôm ngực, chạy lao theo:
      - Oxia… Yosif Davydyt! Trời ơi, sao lại thế nầy?
      Stokman muốn giơ tay vẫy vợ, nhưng gã tuần đinh mặt rỗ chồm ngay dậy, kẹp chặt lấy tay trong những ngón tay bẩn thỉu, chắc như gọng kìm. Gã quát lên khàn khàn, giọng man rợ:
      - Ngồi yên! Tao chém bây giờ!
      Trong cả cuộc đời đơn giản của gã, đây là lần đầu gã thấy người chống lại cả vua Nga.

      Chú thích:
      (1) Nguyên văn: "Phá vỡ luống cày" (ND)
      (2) thượng đẳng thiên sứ (archange), theo truyền thuyết Do Thái làm nhiệm vụ chỉ huy "lực lượng vũ trang nhà trời" chống các hung thần ác quỷ. (ND)

    2. meobong271

      meobong271 Active Member

      Bài viết:
      490
      Được thích:
      32
      Chương 46


      Con đường dài từ thị trấn Malkovo, trấn Kalivenskaia đến trang trại Razivinlovo bị để lại phía sau trong làn sương mù lầy nhầy xám xịt. Grigori cố hồi tưởng quãng đường sau lưng, nhưng chẳng nhớ được điều gì ra đầu ra đũa. Những vật kiến trúc quét vôi đỏ của nhà ga, tiếng bánh xe lọc xọc dưới sàn xe rung rinh, mùi phân ngựa và mùi rơm, những đường ray vô tận tuôn ra dưới đầu máy, những đám khói thỉnh thoảng lại ghé nhòm vào cửa các toa xe, cái mõm râu ria xồm xoàm của những tên hiến binh đứng sân ga ở Voronez, Kiev…
      Tới ga xép các chàng lính mới -dắc xuống tàu. bọn sĩ quan và số người mày râu nhẵn nhụi mặc áo dài kiểu Ukraina màu xám tụ tập ở ga. Họ với nhau bằng thứ tiếng xa lạ, sao hiểu được. Phải mất nhiều giờ mới dắt được những con ngựa từ các toa xe xuống qua những tấm ván bắc cầu.
      Viên phó tư lệnh hành quân ra lệnh đóng yên rồi đưa hơn ba trăm chàng -dắc đến y viện thú y. Các thủ tục khám ngựa kéo dài lê thê. Người và ngựa được biên chế vào các đại đội. Những viên quản và hạ sĩ ngái ngủ. Những con ngựa lông hạt dẻ được chọn vào đại đội . Đại đội hai gồm những con lông xám và vàng nhạt. Trong đại đội ba có toàn những con nâu sẫm. Grigori bị đưa vào đại đội bốn, trong đó có những con ngựa lông vàng óng và hạt dẻ thường. Đại đội năm gồm những con lông hồng nhạt, và đại đội sáu gồm toàn ngựa huyền. Bọn quản lại phân em -dắc về từng trung đội rồi đưa tới các đại đội đóng rải rác ở các trang trại và các thị trấn.
      Viên chánh quản Kargin, thằng cha mắt lồi, dáng hùng hổ, đeo lon tái đăng, qua trước mặt Grigori và hỏi:
      - Trấn nào?
      - Vosenskaia.
      - Cộc à (1)?
      Grigori lầm lì nhịn nhục giữa tiếng cười khúc khích cố nén của bọn -dắc trấn khác.
      Con đường chạy ra đường nhựa. Những con ngựa sông Đông trông thấy đường nhựa lần đầu vểnh tai hí rầm lên khi đặt chân lên mặt đường, cứ tưởng như con sông đóng băng, nhưng rồi cũng quen dần. Ngựa đường, móng sắt mới chưa mòn vang lên những tiếng lóc cóc khô khan. vùng đất xa lạ, đất Ba Lan nằm dài trước mặt, nham nhở những mảnh rừng héo hon tiều tụy lởm chởm như những lưỡi dao. Hôm nay trời ấm áp, u ám, hơi nước bốc ngùn ngụt. Mặt trời nóng như phải là mặt trời của vùng sông Đông, cứ chập chờn lang thang sau tấm màn the của những đám mây đen dầy đặc.
      Trang trại Razivinlovo ở cách nhà ga xép bốn vec-xta. Đoàn -dắc được nửa đường viên tư lệnh đoàn xe đuổi kịp con ngựa chạy nước kiệu nhanh, cùng có tên lính hầu. Nửa giờ sau cả đoàn đến trang trại.
      Khutor (2) nào thế nầy, thưa ngài quản? - -dắc trấn Mitiakinskaia chỉ đám ngọn cây trơ trụi trong khu vườn hỏi lão quản.
      Khutor à? Đừng nghĩ tới khu-to khu-tiếc gì nữa nhé, mày đúng là con ngựa xén bờm trấn Mitiakinskaia! Đây còn là tỉnh Quân khu sông Đông nhà mày nữa đâu.
      - Thế là đâu hả bác?
      - Ai bác cháu gì với mầy? Chà, tự nhiên với được thằng cháu quý tử! Nầy, người em ạ, đây là trang trại của công tước phu nhân Usysova. Chính là nơi đại đội bốn của chúng ta đến đóng đấy.
      Grigori âu sầu vuốt vuốt cổ ngựa. Chàng ấn mạnh chân xuống bàn đạp, đưa mắt nhìn ngôi nhà hai tầng xây rất đều đặn, hàng rào gỗ và hình dáng kỳ dị của những căn nhà phụ trong sân. Đoàn người ngựa tiến qua vườn. Ở đây cũng như ở vùng sông Đông bỏ lại nơi xa xăm kia, những cái cây xơ xác cũng thầm với gió bằng cùng thứ tiếng.
      Cuộc sống ở đây chán ngấy, làm mụ người . Các chàng trai -dắc bị cắt rời khỏi công việc làm ăn, hồi đầu đều ủ rũ phờ phạc. Họ dốc hết nỗi lòng cho nhau nghe trong những cuộc chuyện trò vào giờ nghỉ. Đại đội ở trong chái nhà lợp ngói rất rộng. em ngủ những tấm ván kê bên các cửa sổ. Đêm đêm tờ giấy dán khung cửa bong ra lại rung lên, nghe như tiếng tù và xa của trẻ chăn bò.
      Qua những tiếng ngáy đủ mọi giọng, Grigori lắng nghe tiếng giấy rưng, cảm thấy nỗi buồn nhớ đau khổ, nặng tựa đá đeo của mình tựa như khuây khoả được phần nào. Như cái kìm, tiếng rung thanh thanh kẹp vào chỗ nào đó bên dưới tim chàng. Những lúc như thế Grigori chỉ muốn đứng dậy, vào chuồng ngựa, thắng yên cho con Hạt dẻ, thúc nó phi đến rãi rót chảy như bọt xà phòng xuống mặt đất thầm, phóng thẳng về nhà.
      Hàng ngày năm giờ có kèn dậy, phải thu dọn, tắm chải cho ngựa. Trong nửa tiếng đồng hồ ngắn ngủi, lúc những con ngựa được ăn yến mạch bên cọc buộc ngựa, em trao đổi những câu rất ngắn:
      - Chỗ nầy nơi thổ tả, các cậu ạ!
      - Kiệt hết sức lực mất rồi!
      - Mà lão quản đúng là thằng chó má? Móng ngựa cũng bắt người ta cọ rửa!
      - Hôm nay ở nhà chén bánh tráng đây, đúng ngày lễ tống tiễn mùa đông mà…
      - Bây giờ mà có con bé nào để sờ nắn lát nhỉ, chà!
      - Các cậu ạ, đêm qua mình nằm mơ thấy như cùng với ông cụ nhà mình cắt cỏ bãi, chung quanh những người là người, cứ như hoa cúc dại quanh sân đập lúa ấy. - Prokho Zukov, chàng rất hiền lành, , hai con mắt dịu dàng như mắt bò non long lanh. - Cỏ cắt đến đâu nằm rạp xuống đến đấy. Dạo nầy mình cứ như bị ma quỷ ám ảnh!
      - Có lẽ bây giờ vợ mình bảo: " biết Mikolai quý làm gì đây!"
      - Ô-hô-hô! Người em ạ, có lẽ bây giờ nó cùng với bố chồng chơi cái trò lợn bột đấy.
      - Chà, cái thằng nầy…
      - Phải, đời nầy làm gì có con đàn bà nào vắng chồng mà ăn mảnh cái?
      - Nhưng các cậu có gì mà đáng lo buồn? Cũng như cái bình đựng sữa thôi, em mình hết hạn lính lại bê về chứ có sao?
      Egor Zarkov là gã vua tếu, tục tĩu, mặt dầy và trâng tráo nhất đại đội. Gã nháy mắt, mỉm nụ cười dâm đãng, xen vào câu chuyện.
      - Chuyện ấy đứt đuôi con nòng nọc rồi: thằng bố cậu chẳng để con dâu lão được yên đâu, cái con chó dái thượng thặng ấy. Xưa có câu chuyện như thế nầy nầy… - Gã đảo mắt, nhìn lượt tất cả bọn -dắc nghe gã . - Có lão quen thói mò mẫm con dâu, để cho nó được yên lúc nào, nhưng thằng con trai lại làm vướng chân lão. Các cậu có biết lão nghĩ ra kế như thế nào ? đêm lão ra sân nuôi gia súc, cố ý mở toang cổng cho bò ngựa chạy hết ra ngoài. Rồi lão vào bảo con trai: "Mày, cái thằng chết tử chết tiệt nầy, cửa ngõ mày đóng như thế à? Ra mà xem: bò ngựa chạy ra hết rồi. Ra dồn về ?" Lão già chắc mẩm thằng con ra ngoài và lão chờ đến lúc đó sang mò con dâu, nhưng thằng quý tử lại lười chảy thây. Nó khẽ bảo vợ: "Ra dồn bò ngựa về !" Vợ nó ra ngoài rồi, nó nằm lại lắng nghe. Thế là thằng bố tụt tấm phản xuống, lổm ngổm bò tới gần cái giường. Thằng con cũng chẳng đần độn gì nó cầm luôn cái gậy cán bột để chiếc ghế dài, lăm lăm chờ. Thằng bố bò tới cái giường, vừa đưa tay quờ quạng thằng con giơ cái gậy choảng đánh bốp cái vào cái đầu hói của lão và quát rầm lên: "Cút ngay, cái con chết tiệt nầy! Tập đâu cái thói nhai vải gai? Vốn là nhà nầy có con bò con ngủ đêm ở buồng trong, bạ cái gì nhai cái nấy, nhai cả quần áo. Thằng con giả tảng như đánh con bò, choảng thằng bố xong, nằm im như thóc… Lão già lại bò về phản, nằm bóp mãi cái bướu to bằng quả trứng ngỗng. Lão nằm mãi, nằm mãi mới mở được miệng: "Ivan, nầy Ivan?" - "Gì thế bố" - "Mày vừa đánh ai thể - "Con bò chứ còn ai?" "Lão già, nước mắt nước mũi đầm đìa bảo thằng con: "Cút mẹ mày , chủ gì mà lại đánh bò ngựa như thế?"
      - Cậu chúa bịa!
      - Cái thằng rỗ nhằng rỗ nhịt nầy, xích nó lại xong.
      - Làm gì mà như họp chợ thế hả? Giải tán ngay! - Lão quản bước tới quát.
      em -dắc bỏ về chỗ buộc ngựa, vừa cười vừa pha trò với nhau. Sau khi uống trà xong họ tập các động tác đội hình. Bọn hạ sĩ cố làm cho mọi người bỏ các thói quen đem từ nhà tới.
      - Nầy cái thằng lờn xề kia, thót bụng lại!
      - Nhìn bên phải… thẳng! đều… bước!
      - Toàn trung đội, đứng lại… đứng!
      - đều bước!
      - Kìa, thằng làm chuẩn bên phải, mẹ mày chứ, đứng như thế à?
      Các ngài sĩ quan đứng ngoài nhìn binh sĩ -dắc bị quần cái sân sau rộng thênh thang. Họ hút thuốc và thỉnh thoảng mới can thiệp vào các mệnh lệnh của bọn hạ sĩ.
      Bọn sĩ quan đều trau chuốt bảnh bao, chỉnh tề đĩnh đạc trong những chiếc ca-pốt xám nhạt rất diện và những cái áo quân phục may rất vừa người. Nhìn bọn chúng, Grigori cảm thấy rằng giữa mình và chúng có bức tường vô hình thể nào vượt qua: bên kia tường là cuộc sống riêng biệt trôi theo nhịp đều đặn, cuộc sống sang trọng hào hoa, chẳng có chút gì là -dắc, có bùn nhơ, có chấy rận, có sợ hãi trước bọn quản luôn luôn tát đổ đồng quang con mắt.
      em tới ở trang trại đến ngày thứ ba xảy ra việc làm Grigori cũng như tất cả các thanh niên -dắc khác đều mang ấn tượng hết sức nặng nề. em tập đội hình ngựa.
      Prokho Zykov, chàng có cặp mắt dịu dàng như mắt bò non, thường nằm mơ thấy nơi thôn trấn xa xôi vẫy gọi mình trở về, lại cưỡi con ngựa bướng bỉnh, rất trái nết. Trong khi gần con ngựa của lão quản, con ngựa của Prokho Zykov bỗng đá nó cái.
      Cái đá mạnh lắm, chỉ làm chân trái con ngựa kia sướt da chút. Lão quản thúc luôn ngựa xông tới gần Prokho và giơ roi thẳng tay quất Prokho cái vào mặt rồi quát:
      - Mắt mũi mày để ở đâu hử? Mắt mũi mày để đâu hử? Đồ chó đẻ ông cho mày biết thân! Ông phạt mày ba ngày trực nhật…
      Trong lúc ấy viên đại đội trưởng ra lệnh gì đó cho viên sĩ quan phụ trách trung đội. có nhìn thấy cái cảnh ấy, nhưng lại quay , ngáp dài đầy vẻ chán ngán, tay mân mê dây ngù ở đốc gươm. Prokho đưa tay áo ca-pốt lên chùi những giọt máu ứa ra ở vết hằn dài phồng lên má, môi run bần bật.
      Trong khi ngựa dóng hàng Grigori đưa mắt nhìn bọn sĩ quan, thấy chúng vẫn chuyện trò với nhau, như chẳng có gì xảy ra. Năm ngày sau, Grigori cho ngựa uống nước, đánh rơi cái gàu xuống giếng. Lão quản nhảy xổ đến trước mặt chàng như con chim ưng và giơ tay.
      - Chớ động vào tôi! - Grigori giọng thầm, mắt vẫn nhìn xuống làn nước gợn lăn tăn dưới thành giếng bằng gỗ.
      - Cái gì? Đồ sâu bọ, có xuống lấy lên ! Ông lại đánh cho đổ máu mồm bây giờ!
      - Tôi lấy lên nhưng chớ động vào tôi! - Grigori vẫn ngửng đầu lên, kéo dài giọng tách bạch từng tiếng.
      Nếu bên bờ giếng còn có những em -dắc khác có lẽ việc diễn ra theo hướng như thế và chắc hẳn lão quản đánh Grigori, nhưng bọn giữ ngựa đứng bên cạnh dãy tường bao nên thể nghe được câu chuyện. Lão quản bước tới gần Grigori nhưng mắt vẫn nhìn về phía bọn -dắc. Lão khàn khàn, cặp mắt cú vọ long lên trong cơn giận điên cuồng:
      - Mày muốn gì với ông hử? Mày ăn với cấp như thế à?
      - Nầy, Semion Egorov, chớ có gây chuyện với tôi!
      - Mày doạ ông phải ? Ông cho mày xuống giếng!
      - Tôi bảo cho biết, - Grigori ngửng lên khỏi khung giếng bằng gỗ, - Hễ đánh tôi thế nào tôi cũng giết ! Hiểu chưa?
      Lão quản kinh ngạc há hốc cái miệng vuông như mõm cá chép, còn biết trả lời sao nữa. Thời điểm để phạt qua rồi mà khuôn mặt xám xịt, nhợt nhạt như vôi của Grigori hứa hẹn điều gì tốt lành. Lão quản bối rối khỏi chỗ cái giếng, vừa vừa trượt chân lớp bùn nhầy nhụa bị dẫm nát dọc theo đường rãnh dẫn nước tới những cái máng cho ngựa uống nước khoét trong những khúc gỗ. Lão vài bước rồi mới quay lại vung nắm tay to như cái búa tạ và :
      - Ông báo cáo đại đội trưởng? Ông lên báo cáo đại đội trưởng ngay bây giờ cho mà xem?
      Tuy vậy, hiểu sao lão tâu gì với viên đạị đội trưởng. Nhưng Grigori bị lão trù liền hai tuần, hơi chút là lão bẻ hành bẻ tỏi, chưa đến lưọt lão cắt gác cho chàng và lão cũng tránh nhìn vào mắt chàng nữa.
      Cái nếp sống đơn điệu, chán ngấy làm tiêu hao dần sức sống con người. Cho đến tối, khi có kèn ngủ, binh lính dốc sức cách vô vị vào những buổi tập đội hình bộ binh và đội hình ngựa, những công việc làm vệ sinh trong trại, tắm chải và cho ngựa ăn, đọc thuộc lòng những lời "huấn từ" ngớ ngẩn(3). Đến mười giờ tối, điểm danh và cắt gác xong bắt đầu nguyện kinh. Lão quản đưa cặp mắt tròn xoe như hai hòn bi thiếc nhìn khắp hàng quân lượt rồi cất cái giọng có lẽ đẻ ra khàn đặc đọc bài kinh "Lạy cha".
      Sáng hôm sau, các trò chán ngáy ấy lại bắt đầu diễn lại, và những ngày khác nhau nhưng cũng giống nhau như những em sinh đôi cứ nối đuôi trôi qua.
      Trong trang trại, ngoài mụ vợ già của lão quản lý dinh cơ, chỉ có người đàn bà mà toàn đại đội đều dán mắt vào, các sĩ quan cũng ngoại lệ. Đó là Frania, Ba Lan khá trẻ, khá xinh Frania rất hay chạy từ nhà xuống bếp, nơi lão đầu bếp có lông mày nắm quyền sinh sát.
      Đại đội phân ra từng trung đội để luyện tập các động tác đứng. Mọi người đều xuýt xoa đưa mắt đưa mày theo dõi cái váy xám loạt soạt của Frania. Cảm thấy binh sĩ -dắc và bọn sĩ quan luôn luôn nhìn mình chằm chằm, Frania càng như đổ thêm dầu vào ngọn lửa nhục dục cháy rực trong ba trăm con mắt, cứ núng nính cặp mông, hết chạy nhà xuống bếp lại dưới bếp lên nhà, lần lượt mỉm cười với từng trung đội, riêng mỗi ngài sĩ quan được nàng mỉm cười cái. Ai cũng được Frania chú ý tới, nhưng nghe đồn chỉ có gã trung uý tóc xoăn râu rậm tán có kết quả nhất.
      Chuyện nầy xảy ra vào ngày chưa sang xuân. Hôm ấy Grigori trực nhật trong tàu ngựa. Chàng có mặt nhiều nhất ở đầu tàu ngựa vì ở đấy mấy con ngựa đực của bọn sĩ quan buộc gần vài con ngựa cái nên chung sống với nhau hoà bình lắm. Lúc ấy là giờ nghỉ để ăn trưa. Grigori giơ roi đuổi con ngựa chân trắng của viên đại uý rồi chạy ra ngó vào cái khung buộc con Hạt Dẻ của chàng. Con ngựa nhóp nhép nhai rơm. Nó co bên chân sau bị thương trong buổi tập chém và liếc con mắt hồng hồng nhìn chủ.
      Grigori sửa lại đoạn dây buộc mõm cho nó nghe thấy trong góc tối của chuồng ngựa có tiếng chân người chạy rầm rập và tiếng kêu ú ớ. Chàng hơi ngạc nhiên trước những tiếng động bất thường đó, vội bước qua dãy khung buộc ngựa. Bóng tối lầy nhầy bất thần ập vào lối làm mắt chàng như mù. Cửa tàu ngựa đóng đánh rầm và biết có ai kêu lên bằng giọng cố giữ cho khỏi vang to:
      - Nhanh lên các cậu?
      Grigori rảo bước.
      - Ai đấy?
      Tên hạ sĩ Popop sờ soạng lần ra cửa đâm sầm phải Grigori.
      - Cậu đấy à, Grigori? - Tên kia đặt tay lên vai Grigori, khẽ hỏi.
      - Hượm . Có chuyện gì thế?
      Tên hạ sĩ nắm lấy tay áo Grigori, cười với cái cười của kẻ phạm tội:
      - Nầy… Đứng lại, mày đâu hử?
      Grigori giằng tay ra, mở toang cánh cửa. cái sân bóng người, con gà mái hoa bị cắt cộc đuôi chạy chạy lại lăng xăng. Nó biết rằng lão đầu bếp định ngày mai bắt nó giết thịt để nấu xúp cho ngài quản lý, nên vẫn ra bới bới đống phân và kêu cục cục như còn phân vân chưa biết nên đẻ trứng vào chỗ nào.
      Ánh sáng bất thần ùa vào làm mắt Grigori hoa lên lát. Chợt thấy những tiếng lao nhao trong góc tầu ngựa tối om mỗi lúc dữ, chàng bèn đưa tay lên che mắt, quay người lại. Chàng vịn tay vào tường về phía đó. Những đốm nắng nhảy múa tường và những cái máng ăn đặt ngay trước cửa. Ánh sáng làm mắt Grigori cay sè, phải dim lại. Thằng "vua cù" Zarkov từ trước mặt tới vấp phải Grigori. Nó vừa vừa cài khuy cái quần trễ xuống, đầu lắc lư:
      - Cậu làm gì thế? Các cậu làm gì ở đây thế? Vào nhanh lên , - Zarkov há cái mồm bẩn thỉu thở vào mặt Grigori làn hơi thối hoăng, khẽ bảo - Trong kia… trong kia tuyệt lắm! Frania bị các cậu ấy lôi vào trong đó… dằn ra…
      Zakov cười khà khà bị Grigori đẩy mạnh cái. Nó đập lưng đánh bịch vào bức tường gỗ của tàu ngựa, tiếng cười bất thần tắt ngấm, Grigori chạy về phía có những tiếng láo nháo, cặp mắt quen dần với bóng tối, mở trừng trừng, trắng dã vì kinh hoàng.
      Trong góc tường để những tấm áo ngựa, lốc nhốc đám -dắc rất đông, toàn thể trung đội . Grigori chẳng chẳng rằng, xô những tên -dắc để len lên trước. Frania nằm sóng xoài dưới đất, động cựa gì cả, đầu bị chùm kín bằng những tấm áo ngựa, cặp chân trắng hếu dạng rộng tênh hênh cách khủng khiếp, chiếc váy rách nát lật lên quá ngực. tên -dắc lánh sang bên tường, nhường chỗ cho thằng khác, miệng cười méo xệch, mắt nhìn các bạn, Grigori vùng chạy ngược lại, lao mình về phía cửa.
      - Ngài quản!
      Bọn -dắc đuổi kịp Grigori ở ngay cửa. Chúng lôi chàng vào trong, đè xuống, lấy tay bịt miệng chàng. Grigori xé toạc áo quân phục tên từ cổ xuống gấu, đạp trúng bụng tên khác, nhưng vẫn bị chúng đè xuống, rồi cũng như Frania, chàng bị chúng lấy tấm áo ngựa chùm kín đầu. Chúng trói tay chàng lại, rồi chẳng chẳng rằng để khỏi bị nhận ra tiếng, chúng khiêng chàng ra ném vào cái máng ăn bỏ . Tối mắt tối mũi vì mùi lông thối hoăng trong tấm áo ngựa, Grigori đạp hai chân vào thành máng, cố kêu lên. Chỉ còn nghe thấy những tiếng rầm rì ở trong góc và tiếng cánh cửa cọt kẹt mỗi khi có thằng -dắc ra hay vào. Chừng hai mươi phút sau, Grigori được cởi trói. Lão quản cùng hai tên -dắc trung đội khác đứng ở cửa.
      - Liệu mà giữ mồm giữ miệng! - Lão quản , mắt lão hấp háy nhìn sang bên cạnh.
      - Đừng có giở trò ngu xuẩn, nếu … chúng tao cắt tai. - Dubok, thằng -dắc trung đội khác, mỉm cười.
      Grigori nhìn thấy hai tên khiêng cái bọc to màu xám: Frania (hai chân đẩy căng cái váy thành hai góc nhọn, thõng xuống động đậy). Chúng leo lên cái máng ngựa, rồi ném cái bọc màu xám ấy qua lỗ hổng tường. Chỗ ấy có tấm gỗ đóng chắc, long ra. Bên kia bức tường là khu vườn. Phía mỗi khung buộc ngựa đều có vuông cửa sổ vừa vừa bẩn. Bọn -dắc đạp chân ầm ầm leo lên tường xem Frania rơi từ lỗ hổng tường xuống rồi làm gì. Vài tên vội vã chạy ra ngoài tàu ngựa. Cả Grigori cũng tò mò muốn biết, cái tò mò của loài thú vật. Chàng bám lấy cây xà ngang hai tay thay nhau lần ra tới bên cái cửa sổ, rồi khi tìm được chỗ đặt chân, chàng nhìn xuống dưới. Hàng mấy chục con mắt nhòm qua những khuôn cửa sổ ám khói, nhìn xuống người con nằm dưới chân tường.
      Frania nằm ngửa, chân đưa ra đưa vào như lưỡi kéo, tay cào cấu đám tuyết tan dở dưới chân tường. Grigori nhìn thấy mặt Frania, nhưng nghe thấy tiếng thở hổn hển cố giữ cho khỏi bật ra quá to của bọn -dắc và tiếng những con ngựa nhai rơm ngau ngáu, nhàng khoái trá.
      Frania nằm giờ lâu rồi lổm ngổm bò dậy. Hai tay rủn ra, run bần bật. Grigori nhìn mồn . Frania lảo đảo đứng dậy, đầu tóc rũ rượi, người hoàn toàn đổi khác, còn nhận ra được nữa, hai con mắt lướt qua lướt lại rất lâu, rất lâu dãy cửa sổ. Rồi bám tay vào những bụi kim ngân, tay kia dựa vào tường để đẩy mình
      Grigori nhẩy từ bức tường gỗ xuống, và sát mãi tay vào cổ. Chàng cảm thấy nghẹt thở.
      Chàng ra đến cửa thằng mà chàng thậm chí nhớ được tên, nó với chàng dứt khoát, rành rọt:
      - Hễ mày hé răng với ai có Chúa chứng giám, chúng tao giết ngay! chưa?
      Đến buổi tập, viên trung đội trưởng thấy cái áo ca-pôt của Grigori đứt cái khuy bèn hỏi:
      - Ai lôi kéo mày thế nầy? Ăn mặc cái mốt gì mà lạ thế hử?
      Grigori nhìn xuống vòng tròn mà cái khuy hằn dạ, nhớ lại chuyện vừa xảy ra, lòng đau như cắt. lâu lắm, đây là lần đầu tiên thiếu chút nữa chàng khóc.

      Chú thích:
      (1) Mỗi trấn -dắc đều có biệt hiệu riêng. Biệt hiệu của trấn Vôsencatà là Chó đực. (Lời chú của tác giả).
      (2) Thôn -dắc (ND)
      (3) Trong quân đội Nga hoàng, hàng ngày lính tráng phải đọc thuộc lòng bài "huấn từ" Trung thành với Chúa, với vua, với nước (ND)

    3. meobong271

      meobong271 Active Member

      Bài viết:
      490
      Được thích:
      32
      Chương 47


      Đồng cỏ oi ả tràn ngập nắng vàng, lúa mì chín già mà chưa gặt rạt rào gợn sóng, hơi bốc lên như bụi vàng. Tay người dám sờ vào các bộ phận máy gặt. Đầu cũng dám ngửng lên. Bầu trời vàng vàng xanh xanh bị hun bỏng. Sau cánh đồng lúa mì là những đám cỏ linh lăng nở hoa vàng nghệ.
      Bà con toàn thôn đều ra đồng cỏ. Mọi người gặt lúa. Những con ngựa mệt lả bên những chiếc máy gặt thở dốc khò khè dưới làn khí nồng nực, trong những đám bụi cay hắc… Gió ngoài sông Đông tràn vào từng đợt hiếm hoi, cuốn bụi mù mịt. Như cái chàng mạng, hơi nóng bao quanh vùng mặt trời như có gai châm.
      Petro vật lộn với máy gặt, từ sáng uống hết nửa chỗ nước trong cái bình hai thùng. Vừa uống ít nước ấm ấm, lờm lợm chỉ phút sau cảm thấy miệng khô bỏng, áo lót quần lót ướt đẫm, mồ hôi ròng ròng mặt, hai tai rung lên ù ù lúc nào ngớt, họng như tắc lông ngưu bàng, được ra lời nữa. Daria lấy chiếc khăn vuông che kín mặt, cởi phanh ngực áo, cào lúa thành đống. Những giọt mồ hôi rất to đọng lại trong cái khe giữa hai cái vú rám nâu. Natalia đánh mấy con ngựa thắng vào máy gặt, má nàng đỏ như củ cải đường, nước mắt chảy đầm đìa. Ông Panteley Prokofievich theo những hàng lúa, mồ hôi như tắm, chiếc sơ mi ướt đẫm tài nào khô được cứ như đốt người ông. Có cảm tưởng như phải chòm râu, mà là mỡ đen bôi xe nấu chảy tuôn ra từ mặt xuống ngực ông già.
      - Ông Prokofievich tắm đấy à? - Khristonhia ngồi xe chạy qua gọi to.
      - Cứ như chuột lột! - Ông Panteley Prokofievich vẫy tay cái rồi vừa khập khiễng tiếp vừa lấy vạt áo sơ-mi lau đám mồ hôi đọng bụng.
      - Petro - Daria kêu lên, - Chao ôi, thôi !
      - Hượm cái , cắt hết đường nầy .
      - Chờ bớt nóng hãy làm tiếp. Em bỏ mặc đấy!
      Natalia cho mấy con ngựa dừng lại. Nàng thở như kéo bễ, tưởng chừng chính nàng, chứ phải mấy con ngựa kéo chiếc máy gặt. Daria dẫm hai bàn chân đen sì ủng đến thành chai lên lớp rạ, tới gần hai người.
      - Petro ạ, có cái ao cách đây xa đâu.
      - Sao, xa à, đến ba vec-xta đấy!
      - Tắm cái .
      - Dẫn được xác đến đấy … - Natalia thở dài.
      - Tội quái gì bộ. Tháo ngựa ở máy gặt ra và… phốc!
      Petro sợ hãi đưa mắt nhìn bố vừa đánh xong đống lúa. chàng xua tay:
      - Hai chị em tháo ngựa vậy!
      Daria tháo dây thắng rồi nhảy phốc lên lưng con ngựa cái, điệu bộ rất ngang tàng. Natalia hé cặp môi khô nứt mỉm cười, nàng dắt con ngựa đến bên chiếc máy gặt, ngượng nghịu leo lên cái ghế của chiếc máy gặt để chuyển sang ngồi lên lưng ngựa.
      - Thím đưa chân cho tôi, - Petro giúp Natalia ngồi lên ngựa.
      Ba người bắt đầu cho ngựa chạy. Daria phi lên trước, váy lật lên hở cả đầu gối, khăn bịt đầu trật xuống sau gáy. Daria cưỡi ngựa theo kiểu -dắc. Petro nhịn nổi phải kêu lên ở phía sau:
      - Nầy, cẩn thận đấy, khéo giập mật bây giờ?
      - Đừng sợ! - Daria vung tay.
      Trong khi vượt qua con đường, dùng về mùa hạ, Petro đưa mắt nhìn sang bên trái. Xa xa, con đường xam xám gồ cao về thôn, có đám bụi luôn luôn biến hình bị cuốn rất nhanh từ trong thôn ra.
      - Có chàng nào phi ngựa, - Petro nheo mắt.
      - Phi nhanh quá, xem kìa, bụi bốc lên ghê ! - Natalia ngạc nhiên.
      - Chuyện gì thế nhỉ? Daria? - Petro kêu to gọi vợ lúc nầy cho ngựa chạy nước kiệu ở phía trước. - Hượm xem chàng cưỡi ngựa là ai .
      Đám bụi tụt xuống chỗ trũng rồi lại từ dưới đó ngoi lên, và to bằng con kiến. Qua làn bụi có thể lờ mờ nhận ra hình người cưỡi ngựa. Chừng năm phút sau càng hơn. Petro đưa bàn tay bẩn thỉu lên vành chiếc mũ rơm đội trong khi làm việc, đăm đăm theo dõi.
      - Phi như hoá rồ như thế nầy chẳng mấy chốc con ngựa bị quỵ thôi.
      Petro cau mày bỏ bàn tay vành mũ xuống, vẻ hốt hoảng lan ra khắp mặt ta rồi ngưng đọng ở chỗ giữa hai hàng lông mày giương cao.
      Đến lúc nầy có thể nhìn thấy người cưỡi ngựa. ta cho ngựa phi nước đại, tay trái đưa lên giữ mũ cát-két, trong bàn tay phải hơi phấp phới lá cờ đỏ đầy bụi.
      Petro tránh sang bên đường. Người kia phi ngựa qua sát quá, nghe thấy cả tiếng con ngựa hít làn khí nóng bỏng vào trong phổi, phù phù như kéo bễ. há to cái miệng cá ngão, xám như màu đá, gào lên:
      - Báo động!
      Bọt mồ hôi ngựa vàng vàng rơi từng đám xuống những vết móng hằn bụi đường. Petro đưa mắt nhìn theo người cưỡi ngựa. Trong óc ta chỉ còn lưu hai ấn tượng: tiếng con ngựa sắp đứt hơi thở phì phò nặng nề và cặp mông ướt đẫm loang loáng ánh thép khi ta nhìn theo nó.
      Còn chưa nhận ra cái tai hoạ cuối cùng ập tới trước mắt, Petro vẫn đứng đực người ra nhìn đám bọt ngầu lép bép lớp bụi và những làn sóng lúa đồng lan từng đợt từng đợt về tới thôn. Từ bốn phía, tráng đinh -dắc phi ngựa về thôn qua những đống lúa vàng vừa gặt. Khắp đồng cỏ, cho tới ngọn đồi mung lung trong đám bụi vàng, chỗ nào cũng có những chàng trai phi ngựa cuốn lên từng đám bụi. Sau khi ra đường cái, họ họp lại thành đoàn, kéo dài về thôn cái đuôi bụi xám khổng lồ. Các chàng -dắc có tên trong danh sách lính đều bỏ công việc đấy, tháo ngựa ở máy gặt ra, phi về thôn. Petro thấy Khristonhia tháo ở chiếc xe ra con ngựa đáng được đưa vào trung đoàn ngự lâm của , doạng rộng hai cái chân dài ngoẵng lưng ngựa vừa đánh con ngựa phi nước đại vừa ngoái nhìn mình.
      - Có chuyện gì thế nhỉ? - Natalia kinh hãi nhìn Petro kêu lên. Và ánh mắt của nàng, ánh mắt của con thỏ trước mũi súng, làm cho Petro tỉnh ra. Petro chạy về chỗ xe đỗ, ngựa chưa đứng hẳn nhảy xuống.
      ta mặc cái quần ngựa lúc nãy cởi ra trong khi làm việc hăng, rồi vẫy tay với cha và mờ tan dần trong đám mây bụi, cũng như những người phóng ngựa rải rác đồng cỏ bị hơi nóng đốt cháy, nom như những nốt ruồi xám trôi.


      Chương 48


      đám người xám xịt đứng đông như kiến bãi. Họ túm tụm từng nhóm, có mang theo ngựa, đồ trang bị -dắc, áo quân phục với những con số khác nhau lon vai. Những gã thuộc trung đoàn ngự lâm Atamansky đội mũ cát-két màu xanh da trời, cao hơn các binh sĩ -dắc khác hẳn cái đầu, lững thững lại lại nom chẳng khác gì những con ngỗng Hà Lan giữa những con gà vịt .
      Quán rượu đóng cửa. Tên đặc phái viên quân nhăn nhăn nhó nhó, ra vẻ lo lắng bận rộn lắm. Bọn đàn bà quần lành áo tốt như trong ngày hội đứng bên những hàng rào theo dọc phố. Trong đám đông có đủ hạng người, nhưng tất cả chỉ lời: "Động viên".
      Mặt ai cũng đỏ bừng bừng như say rượu. Tâm trạng lo lắng lây sang cả những con ngựa. Chỗ nào cũng có những tiếng rít, những cảnh đá lộn, những tiếng hí dài tức tối. làn bụi lơ lửng rất thấp bãi. Khắp bãi đầy những vỏ chai rượu của ty rượu Nhà nước và những mẩu giấy gói kẹo rẻ tiền.
      Petro nắm dây cương dắt con ngựa đóng yên sẵn sàng. tên lính trung đoàn Atamansky mặt mũi đen thủi đứng bên tường bao nhà thờ cài cúc chiếc quần ngựa màu lam rộng thùng thình. Gã nhe hai hàm răng trắng lóe, toác miệng ra cười. Bên cạnh gã, -dắc bé, có lẽ là vợ hoặc nhân tình nhân ngãi gì đó, mồm năm miệng mười như con đa đa xám.
      - Cứ bám lấy con đĩ ấy nầy xé xác ra cho mà xem! -Ả doạ gã kia.
      Ả uống rượu khá say, vỏ hướng dương bám đầy những món tóc rối bù, nút buộc chiếc khăn bịt đầu in hoa tuột cả ra. Tên lính trung đoàn Atamansky mỉm cười, dạng chân khom người cố móc cái khoá dây lưng nhưng mãi được: đến con bê tuổi cũng có thể chui qua bên dưới cái đũng quần nhăn nhúm của gã mà vướng.
      - Thôi Masca, đừng chửi rầm lên nữa!
      - Đồ chó dái chết tiệt! Đồ dê cụ!
      - Thế sao nào?
      - Đồ mặt dầy vô liêm sỉ!
      Ngay cạnh đấy lão quản có khuôn mặt đóng khung trong bộ râu ngô tranh cãi với tên lính pháo binh.
      - chẳng có chuyện gì đâu. Đứng đây ngày đêm rồi lại về với mẹ đĩ thôi.
      - Còn chiến tranh sao?
      - Xì, bạn thân mến ơi! Làm gì có cường quốc nào đương đầu nổi với chúng ta?
      Chung quanh toàn là những câu chuyện bát nháo, chẳng ra đầu ra đũa gì cả. -dắc còn trẻ nữa, nhưng khá đẹp trai, giọng nóng nảy:
      - Chúng ta việc gì phải lo đến chuyện của họ. Kệ cho họ đánh nhau, lúa má của chúng ta còn chưa gặt được về kia kìa!
      - là tai vạ! Xem kìa, dồn bắt con nhà người ta đến cả chỗ nầy, biết rằng bây giờ làm ngày để ăn cả năm hay sao?
      - Lúa đánh đống đến bị bò ngựa dẫm nát cả thôi.
      - Chúng tôi lại bắt đầu gặt lúa đại mạch rồi.
      - Hình như hoàng đế nước Áo bị giết có phải ?
      - Đông cung thái tử của lão đấy(1)
      - Nầy ông bạn đồng hương, trung đoàn nào thế?
      - Nầy ông đồng , phát tài rồi nhé, mẹ kiếp?
      - À ra cậu, Steska, cậu từ đâu đến đấy?
      Ông ataman bảo rằng chúng ta bị lôi đến đây chỉ đề phòng có chuyện gì bất ngờ xảy ra thôi.
      - Chà, dân -dắc chúng mình phải giữ vững tinh thần mới được!
      - Chúng nó giở trò chậm lại năm là mình hết hạn kỳ ba rồi.
      - Thế nào bố già, sao lại thế? Bố còn chưa hết hạn lính hay sao?
      - Khi nhân dân bắt đầu bị giết hại những người già cũng chẳng thoát.
      - Cửa hàng đại lý rượu đóng cửa mất rồi!
      - Chà, cái thằng ườn thây ườn xác nầy? Lại nhà mụ Marfutka muốn thùng cũng có.
      Uỷ ban bắt đầu kiểm soát. Ba gã -dắc lôi -dắc say rượu vào nhà hội đồng. Người gã nầy máu me đầm đìa. Gã ưỡn người ra, xé toạc cái áo sơ-mi mặc mình, long cặp mắt xếch như mắt người Kalmys, gào đến khàn cả tiếng:
      - Tao đánh cho tóe máu cái bọn mu-gích nầy ra! Cho chúng nó biết tay người -dắc sông Đông.
      Những người đứng chung quanh lánh ra, cười trầm trồ, vẻ rất tán thành.
      - Phải trị chúng nó mới được!
      - Có chuyện gì mà bắt giữ cậu nầy thế?
      - đánh thằng mu-gích.
      - Phải để ý theo dõi chúng nó mới được.
      - Chúng ta còn nện chúng nó.
      - Người em ạ, năm ngàn chín trăm linh năm mình từng dẹp chúng nó. Đến là buồn cười!
      - Có chiến tranh là em mình bị lùa dẹp chúng nó đấy.
      - Thôi ! Cứ mặc cho họ thuê những đứa nào muốn dẹp để dẹp. Mặc cho bọn cảnh sát làm việc ấy cũng được, còn chúng mình cũng phải có lương tâm chứ.
      Trước quầy hàng của hiệu Mokhov có cuộc chen lấn xô đẩy. Gã Ivan nhà Tomilin chuếnh choáng hơi men vào gây với bọn chủ hiệu. Chính lão Sergey Platonovich ra múa tay khuyên nhủ dỗ dành gã "Chacha", tên chung cổ phần với lão lùi ra cửa.
      - Chao ôi, thế nầy còn ra thể thống gì nữa… Đúng là làm càn làm bậy! Thằng đâu, chạy đến mời ông ataman !
      Mãt Sergey Platonovich nhăn như bị. Tomilin chùi hai bàn tay đầm đìa mồ hôi vào quần, ép sát ngực vào người lão.
      - Đồ rắn độc, mày bắt người ta ký giấy nợ để bóp hầu bóp họng người ta, bây giờ mày sợ à? Phải, phải, ông tát nổ đồng quang con mắt mày ra, để mày mà thưa kiện ông! Mày cướp quyền lợi của người -dắc chúng ông. Mày, mày chỉ là thằng chó đẻ! Đồ rắn độc!
      Giọng đường mật, lão ataman thôn hứa hẹn những điều tốt đẹp với đám -dắc xúm đông xúm đỏ chung quanh lão.
      - Chiến tranh ấy à? đâu, có chiến tranh đâu. Quan lớn đặc phái viên quân là chỉ làm cho có hình thức thôi. Bà con ta có thể yên tâm.
      - phúc tổ tiên! Tôi về nhà là ra đồng ngay.
      - Công việc phải ngừng cả lại đấy!
      - Ông làm ơn cho biết quan nghĩ như thế nào? Ông cũng biết cho rằng nhà tôi phải gieo hạt đến hơn trăm đê-xi-a-chin đấy.
      - Timoska! lại hộ với ở nhà chúng tớ là ngày mai chúng tớ về.
      - Có lẽ họ đọc áp-phích phải? Chúng mình lại đằng ấy.
      Mãi khuya bãi vẫn chưa ngớt những tiếng ồn ào.
      Bốn ngày sau, những đoàn xe sơn đỏ chở các chiến binh -dắc từ các trung đoàn và các đại đội pháo ra biên giới Nga - Áo.
      Chiến tranh…
      Trong các ngăn bên cạnh các máng ăn, luôn luôn có tiếng ngựa hí và mùi phân ngựa ngầy ngậy. các toa xe vẫn những câu chuyện và những bài hát cũ. Thường được hát nhất là bài:
      Sông Đông êm đềm, sông Đông chính giáo,
      Xôn xao chuyển động, sóng cuộn ào ào.
      Rạp đầu vâng theo,
      Khi có lời đức vua kêu gọi.
      Ở các ga, đâu đâu cũng có những cặp mắt vừa tò mò vừa đầy vẻ kính trọng, chăm chú nhìn cái nẹp những cái quần ngựa, những khuôn mặt còn chưa phai sắc rám đen vì lao động.
      Chiến tranh!
      Báo chí gào thét ầm ĩ!
      Ở các ga, phụ nữ vẫy khăn tay, mỉm cười với các đoàn tàu chở quân -dắc và ném thuốc lá, bánh kẹo lên các toa xe. Mãi tới nơi gần Voronez mới có cụ già bé, nhân viên đường sắt, có vẻ hơi chuếnh choáng hơi men, đứa cái mũi nhọn nhọn nhòm vào trong toa xe đó. Petro Melekhov chịu hấp hơi cùng với ba mươi chàng -dắc khác:
      - Các thầy quyền ra đấy à?
      - Cụ lên đây ngồi với chúng cháu. - chàng trả lời thay tất cả - Ôi cái món thịt bò dễ thương của lão! - xong cụ cứ lắc đầu mãi, đầy vẻ trách móc.
      Chú thích:
      (1) Ở đây muổn đến François Ferdinan (1863 - 1914), năm 1889 được bác là François Josef, hoàng đế nước Áo lập làm đông cung thái tử. Ngày 28-6-1914 bị những người dân tộc chủ nghĩa Serbi ám sát. kiện nầy được coi là nguyên nhân trực tiếp gây ra Đại chiến thế giới thứ nhất. (ND)

    4. meobong271

      meobong271 Active Member

      Bài viết:
      490
      Được thích:
      32
      Chương 49


      Trong những ngày cuối tháng sáu, trung đoàn chuyển sang diễn tập Theo mệnh lệnh của ban tham mưu sư đoàn, trung đoàn tiến tới thành phố Rovno(1) theo đội hình hành quân. Hai sư đoàn bộ binh và các đơn vị kỵ binh triển khai chung quanh thành phố. Đại đội bốn đến đóng trong các nhà dân ở làng Vladislavka.
      Chừng hai tuần sau, khi đại đội mệt lử vì cuộc thao diễn kéo dài, đến đóng tại thị trấn tên là Daborol, viên đại đội trưởng, thượng uý Polkonikov phóng ngựa từ trung đoàn bộ về.
      Grigori cùng bọn -dắc trong trung đội của chàng nằm nghỉ trong chiếc nhà bạt, thấy viên thượng uý cho con ngựa mồ hôi như tắm phi theo dãy phố hẹp.
      Binh lính trong sân nháo cả lên.
      - Hay lại xuất phát? - Prokho Zykov lên điều dự đoán rồi lắng nghe có vẻ chờ đợi.
      Tên hạ sĩ của trung đội gài cái kim vào lần lót của chiếc mũ cát-két ( vá cái quần rách).
      - Còn gì nữa, đúng là xuất phát rồi.
      - để cho người ta nghỉ ngơi chút, cái bọn quỷ dữ!
      - Lão quản rằng lữ đoàn trưởng sắp tới đây.
      "Tò-tò-tò… te-te-tò-tí-tò!" - Gã lính kèn nổi kèn báo động.
      Bọn lính -dắc đứng chồm cả lên.
      - Cái túi thuốc của mình bỏ đâu mất rồi? - Prokho Zykov tìm nhặng cả lên.
      - Đóng yên!
      - Cái túi thuốc của cậu, cho nó mất mẹ nó ! - Grigori vừa chạy ra vừa to.
      Lão quản chạy vào trong sân. Lão tới chỗ cọc buộc ngựa, tay giữ đốc gươm. Mọi người thắng ngựa xong đúng thời gian quy định trong điều lệnh. Grigori nhổ các cọc nhà bạt. Tên hạ sĩ kịp rỉ tai chàng:
      - Chiến tranh đấy, chú mầy ạ!
      - bậy đấy chứ?
      - mà lị, lão quản cho biết đấy.
      Các nhà bạt được nhổ hết. Đại đội tập họp đường phố.
      Viên đại đội trưởng cưỡi con ngựa chạy còn hăng, lại lại trước hàng quân.
      - Các trung đội thành hàng dọc! - Giọng hô oang oang các hàng lính.
      Vó ngựa đập lộp cộp. Đại đội tiến nước kiệu, rời khỏi thị trấn ra đường cái. Đại đội và đại đội năm rời khỏi làng Kukhten tiến về nhà ga xép, thỉnh thoảng lại cho ngựa đổi nước chạy.
      ngày sau, trung đoàn xuống xe lửa ở ga Vorba, cách biên giới ba mươi nhăm vec-xta. Ánh bình minh bừng lên sau rặng bạch dương bên nhà ga hứa hẹn buổi ban mai trong sáng. Chiếc đầu máy đường ray rúc còi inh tai nhức óc. Sương phủ lấp loáng các đường rầy. những tấm ván bắc cầu, những con ngựa hí ầm ĩ trong khi xuống xe. Sau két nước có những tiếng gọi nhau ơi ới, và những tiếng ra lệnh ồm ồm.
      Các binh sĩ -dắc thuộc đại đội bốn dắt ngựa tới chỗ vượt qua đường sắt. Những giọng buồn ngủ chập chờn trong bóng tối tứn bềnh bệch. Những mặt người nom chỉ lờ mờ xanh xanh, hình những con ngựa nhoà , còn ràng nữa.
      - Đại đội nào?
      - Còn cậu ở đại đội nào mà quàng quấy thế?
      - Đồ khốn nạn, tao lại cho trận bây giờ? Mày năng với sĩ quan như thế nào hử?
      - Bẩm quan lớn, tôi có lỗi! Tôi nhầm.
      - Qua đường sắt , qua đường sắt !
      - Tại sao để đứt quãng thế nầy? Đầu máy sắp chạy tới kia kìa, rảo bước lên.
      - Chánh quản, trung đội ba của đâu?
      - Đại đội nhanh nhanh lên!
      Nhưng trong hàng quân có những tiếng thầm rất khẽ:
      - Lại còn nhanh nhanh nữa, mẹ nó chứ, hai đêm ngủ rồi còn gì?
      - Semka, cho mình kéo hơi, từ tối chẳng được khói nào.
      - Lôi con ngựa đực
      - Gặm cả đai bụng, đồ quỷ sứ.
      - Còn con của mình mất móng sắt chân trước rồi.
      đại đội khác rẽ sang bên ngáng mất đường đại đội bốn. Hình những người cưỡi ngựa nổi như vẽ bằng mực tàu nền trời xanh xanh xám xám. Họ hàng bốn. Những ngọn giáo lắc lư như những thân cây hướng dương rụng hết hoa lá. Thỉnh thoảng có tiếng bàn đạp lách cách, tiếng yên ọt ẹt.
      - Nầy, những người em, các cậu đâu thế?
      - Lại nhà thằng con đỡ đầu ăn lễ rửa tội sơ sinh đây.
      - Hà-hà-hà-hà!
      - Câm ngay! Ai cho chuyện?
      Prokho Zykov nắm lấy cái mũi yên bọc sắt, nhìn vào mặt Grigori, khẽ hỏi:
      - Grigori nầy, cậu có sợ ?
      - Nhưng sợ cái gì cơ chứ?
      - Còn sao nữa, có thể là hôm nay chúng mình ra trận đấy.
      - Ra trận ra.
      - Còn mình sợ lắm? - Prokho thú nhận, những ngón tay của cứ gióng lại mãi những đoạn dây cương sương thấm lầy nhầy, lộ cả tâm trạng hoang mang lo lắng. - Suốt đêm tàu mình chẳng chợp mắt được lúc nào. Giết chết mình, mình cũng ngủ được.
      đầu đại đội rung chuyển rồi từ từ trườn . lát sau trung đội ba cất bước theo. Những con ngựa bước đều đặn. Những ngọn giáo cắm vào bên cạnh chân ngật ngưỡng, chập chờn.
      Grigori buông cương, thiu thiu ngủ. Chàng có cảm tưởng như phải hai chân trước của con ngựa bước nhịp nhàng làm chàng lắc lư yên mà là chính chàng bộ tới nơi nào đó con đường tối đen, ấm ấm, với những bước hết sức nhàng, sảng khoái.
      Prokho vẫn biết những gì bên tai chàng. Nhưng hoà trong tiếng yên ọt ẹt và tiếng vó ngựa lộp cộp, giọng trở ngại gì những ảo giác vẩn chút lo âu tràn ngập tâm hồn chàng.
      Đơn vị theo con đường . khí lặng tờ rung lên trong tai như ru ngủ. Lúa yến mạch chín dọc theo con đường bốc hơi trong sương. Những con ngựa cứ chúi đầu xuống những bông lúa thấp lè tè, làm dây cương tuột khỏi tay những chàng -dắc. ánh sáng dịu dàng luồn vào kẽ hai mí mắt sưng mọng vì mất ngủ của Grigori. Chàng ngửng đầu, vẫn nghe thấy Prokho đều đều như tiếng bánh xe bò.
      Chợt tiếng nổ rền truyền nặng nề từ xa tới qua cánh đồng yến mạch làm Grigori tỉnh hẳn.
      - Chúng nó bắn rồi! - Prokho gần như kêu lên.
      Niềm kinh hoàng làm đục ngầu cặp mắt bò non của . Grigori ngửng đầu lên: trước mắt chàng, chiếc áo ca-pôt màu xám của tên hạ sĩ trung đội lên xuống đều đều theo nhịp lưng con ngựa. Cánh đồng hai bên đờ đẫn mơ màng với những mảnh lúa chưa gặt, với con sơn ca bay chập chờn như nhảy múa ngang tầm các cột dây thép.
      khí đại đội sôi nổi hẳn lên, tiếng rền như rên rỉ của phát đại bác truyền lan khắp hàng quân như luồng điện. Viên thượng uý Polkonikov như bị phát đạn quật cho roi vào người. dẫn đại đội tiến nước kiệu. qua chỗ mấy con đường làng gặp nhau gần cái quán bỏ , bắt đầu gặp xe cộ của dân chúng chạy giặc. đại đội long kỵ binh (2) ăn bận diêm dúa phi như bay qua đại đội -dắc. Tên đại đội trưởng long kỵ binh cưỡi con ngựa hồng thuần giống và có chòm râu quai nón hung hung. đưa mắt nhìn đoàn lính -dắc cách nhạo báng rồi dùng chân thúc ngựa. đại đội lựu pháo bị sa lầy ở khoảng trũng nông sình lầy. Những tên lính dắt ngựa đánh những con ngựa tiếc tay. Bọn lính pháo binh chạy bấn lên chung quanh. gã pháo binh khác, cao lớn, mặt rỗ, mang từ trong cái quán ra ôm gỗ ván, có lẽ dỡ ở hàng rào.
      trung đoàn bộ binh đuổi kịp đại đội -dắc. Những người lính bộ binh mặc áo ca-pôt vén tà rảo bước hành quân. Ánh nắng lấp loáng những chiếc mũ sắt đánh sạch , chảy từ mũi lưỡi lê xuống. Trong đại đội bộ binh cuối cùng có gã binh nhất người bé, nhưng rất nghịch ngợm. Gã ném cho Grigori nắm bùn.
      - Cậu bắt lấy mà ném bọn Áo!
      - Đồ ngựa cái, đừng giở trò khỉ. - Grigori dùng roi ngựa quật rơi nắm bùn bay tới.
      - em -dắc ơi, gửi dùm chúng nó lời chào của bọn mình nhé!
      - Rồi chính các cậu cũng gặp mặt chúng nó thôi!
      Toán binh sĩ đầu đội hình lải nhải hát mãi bài tục tĩu.
      tên lính mông to như mông đàn bà giật lùi bên hàng quân, vừa vừa đập tay vào ống đôi ủng ngắn. Bọn sĩ quan phá lên cười. Những việc nguy hiểm còn xa xôi nữa, mùi chết chóc xông lên nồng nặc, vì thế hình như họ cũng trở nên gần gụi với binh sĩ hơn, có vẻ rộng lượng hơn.
      Những đơn vị bộ binh, những đoàn xe vận tải, những đại đội pháo, những bộ phận quân y nối nhau suốt đường từ quán rượu đến làng Gorovisug. Ai nấy đều cảm thấy hơi thở đầy chết chóc của những trận chiến đấu sắp nổ ra.
      Đến làng Bereteko trung đoàn trưởng Kaledin đuổi kịp đại đội bốn. trung tá -dắc cưỡi ngựa bên cạnh . Grigori nhìn theo cái thân hình đều đặn của viên đại tá, nghe thấy viên trung tá giọng đầy lo lắng:
      - Thưa ngài Vasili Maximovich, bản đồ ba vec-xta (3) thấy ghi thôn nầy. Chúng ta có thể rơi vào tình thế bất lợi.
      Grigori nghe thấy viên đại tá trả lời ra sao. viên phó quan đuổi kịp hai tên kia rồi vượt lên trước. Con ngựa cưỡi hơi núng mông trái. Theo thói quen Grigori đánh giá ngay là con ngựa của rất tốt.
      Xa xa, dưới chân mặt dốc thoai thoải của cánh đồng thấy ra những túp nhà mái tranh của thôn . Trung đoàn tiến với những nước ngựa chạy khi nhanh khi chậm, song ngựa đổ mồ hôi khá nhiều. Grigori đưa tay nắn nắn cái cổ sẫm màu con Hạt Dẻ, quay nhìn khắp chung quanh. Phía sau thôn nhìn thấy phần của rừng, những ngọn cây đâm lên bầu trời xanh nhạt như những mũi nhọn xanh lá cây. Tiếng pháo nổ ầm ầm sau dải rừng. Đến lúc nầy tiếng nổ của pháo binh làm các chàng kỵ bỉnh inh tai nhức óc bắt họ phải để ý đến ngựa hơn. Giữa những đợt đại bác những loạt súng trường mỗi lúc nhiều. Khói của những phát trái phá nổ xa tan dần sau khu rừng. Các loạt súng trường chập chờn chuyển sang nơi nào đó chếch nhiều hơn sang bên phải cánh rừng lúc lắng , lúc lại dội lên.
      Grigori đánh giá cẩn thận từng tiếng động, thần kinh của chàng mỗi lúc căng thẳng. Prokho Zykov cứ ngọ nguậy yên, ngơi miệng.
      - Grigori nầy, chúng nó bắn cứ y như trẻ con lấy cái gậy bật vào lan can ấy nhỉ. Có phải thế ?
      - Thôi im , sao lắm mồm thế?
      Đại đội -dắc tiến vào thôn. Binh lính lố nhố trong các sân nhà. Nhà nào cũng nhốn nháo tíu tít: các chủ nhà hối hả, sửa soạn chạy giặc. Bất cứ chỗ nào mặt của những người dân cũng in dấu hoảng hốt, lo lắng. Grigori qua cái sân, thấy mấy tên lính nhóm lửa ngay dưới mái nhà kho, nhưng chủ nhà, ông lão Belorussia cao lớn, râu tóc bạc phơ, bị đè nặng dưới cái tai hoạ bất ngờ vừa ập tới cứ bước qua mà chẳng để ý gì cả. Grigori thấy gia đình ông ném lên chiếc xe tải những cái gối bọc áo gối đổ cùng những đồ vứt khác, còn chủ nhà mang rất cẩn thận cái đai bánh xe hỏng, chẳng dùng được việc gì nữa. Có lẽ của nợ ấy nằm trong nơi xếp đồ cũ hàng chục năm rồi.
      Grigori rất ngạc nhiên trước đầu óc ngu si đần độn của cánh đàn bà. Họ lôi lên xe những chậu hoa, những bức hình thánh, nhưng để lại trong nhà những vật cần thiết và có giá trị. người biết là ai tháo tung cái gối làm lông bên trong bay mù mịt khắp phố như trận bão tuyết. Nồng nặc mùi bồ hóng cháy khét và mùi mốc meo xông ra từ các hầm nhà. Grigori đến chỗ ra khỏi thôn người Do Thái chạy tới trước mặt chàng. Tiếng kêu làm miệng người đó mở hoác giữa cặp môi mỏng dính, hệt như vết gươm chém.
      - Ngài -dắc ơi! Ngài -dắc ơi! Chao ôi, trời đất ơi!
      -dắc bé, đầu tròn xoe vung roi, chạy nước kiệu, mặc người đó kêu.
      - Đứng lại! - Viên thượng uý chỉ huy đại đội hai quát gọi gã -dắc.
      -dắc cúi rạp xuống mũi yên, chuồn vào cái ngõ.
      - Đứng lại, quân khốn kiếp! Trung đoàn nào?
      Cái đầu tròn xoe của gã -dắc áp sát cổ con ngựa. Như trong cuộc đua, gã cho ngựa phi nước đại điên rồ. Khi đến bên dãy hàng rào cao, gã kéo cương cho con ngựa chồm lên, nhàng nhảy tót sang bên kia.
      - Bẩm quan lớn, bên ấy là trung đoàn Chín. Thằng nầy đúng là thuộc trung đoàn ấy đấy. - Lão quản báo cáo với viên thượng uý.
      - Mặc mẹ nó, - Viên thượng uý cau mày rồi quay về phía người Do Thái đứng sát bàn đạp - Nó lấy của cái gì hử?
      - Thưa ngài sĩ quan… đồng hồ, thưa ngài sĩ quan! - Người Do thái quay khuôn mặt rất đẹp nhìn mấy sĩ quan vừa ngựa tới, hai con mắt hấp háy mãi.
      Viên thượng uý lấy chân đưa bàn đạp sang bên, cho con ngựa tiến lên.
      - Bọn Đức đến chúng nó cũng lấy thôi. - vừa vừa mỉm cười sau hàng ria rồi bỏ .
      Người Do Thái vẫn ngơ ngác đứng sững giữa đường, da mặt giật giật như chuột rút.
      - Lánh ra, ngài Do Thái! - Viên đại đội trưởng hất roi lên, giọng nghiêm khắc.
      Đại đội bốn tiến qua trước mặt viên đại đội trưởng, vó ngựa đập lộp cộp đều đặn, yên rít cọt kẹt. Bọn lính -dắc liếc nhìn người Do Thái lúng túng đứng đấy bằng những cặp mắt nhạo báng. Chúng bảo nhau:
      - em mình tháo xoáy sống bằng gì?
      - thằng -dắc cái gì chẳng thấy vừa mắt?
      - Nhưng phải giấu cho kín mới được.
      - Thằng cha lẹ chân lẹ tay
      - Chà, thoắt cái nó vượt được dãy hàng rào, cứ như con chó săn!
      Lão quản Kargin chậm lại sau đại đội, rồi giữa những tiếng cười truyền lan khắp các hàng quân -dắc, lão hạ cây giáo.
      - Xéo ngay, ông cho nhát xổ ruột bây giờ!
      Người Do Thái hoảng sợ há hốc miệng, quàng chân lên cổ chạy.
      Lão quản thúc ngựa đuổi theo rồi từ phía sau quất cho ta roi. Grigori nhìn thấy người Do Thái loạng choạng, đưa hai tay lên che mặt, rồi quay lại nhìn lão quản, máu tóe ra qua những ngón tay nhắn.
      - Tôi làm gì mà đánh tôi? - Người đó mếu máo kêu lên.
      Lão quản đưa đưa lại hai con mắt diều hâu tròn xoe như hai cái khuy bỏ và mỉm cười trả lời:
      - Đồ ngu xuẩn, cho mày khỏi chân đất thế nầy!
      Bên ngoài thôn, trong khoảng đất trũng mọc đầy cây hoa súng vàng và hương bồ, đám công binh làm nốt cái cầu ngắn rất rộng. Cách đấy xa có chiếc xe ô-tô đỗ, máy vẫn nổ ầm ầm, rung lên. chàng lái xe chạy chạy lại lăng xăng chung quanh viên tướng béo phị, tóc bạc phơ, ưỡn người ra, nửa ngồi nửa nằm ghế. Râu lão để thành hình tam giác theo kiểu Tây Ban Nha, má chảy xệ như hai cái túi. Viên đại tá Kalodin, trung đoàn trưởng trung đoàn 12 và viên tiểu đoàn trưởng công binh đứng bên, tay đặt vành mũ. Viên tướng vò nát cái dây đeo túi dết dã chiến, giận dữ quát viên sĩ quan công binh:
      - Ngay từ hôm qua ông được nhận lệnh phải làm xong công việc cơ mà! Im ngay! Về việc chuyên chở các vật liệu làm cầu ông phải lo liệu từ trước chứ. Im ngay?
      Tuy người sĩ quan kia vẫn câm như hến, chỉ có cặp môi run run, nhưng viên tướng vẫn gầm lên.
      - Thế bây giờ tôi làm thế nào sang được bên kia hử? Tôi hỏi ông, ông đại uý, tôi sang thế nào bây giờ?
      Viên tướng ria đen còn trẻ ngồi bên trái viên tướng già mỉm cười đánh diêm châm điếu xì gà. Viên đại uý công binh khom người chỉ biết cái gì ở phía cái cầu. Đại đội -dắc tiến qua chỗ đó, đến gần cái cầu cho ngựa xuống khe. Chân ngựa thụt xuống quá đầu gối trong chất bùn nâu đen. Vỏ bào gỗ thông rơi lả tả từ cầu xuống đầu bọn lính -dắc như những cái lông trắng.
      Đến giữa trưa vượt biên giới. Ngựa nhảy qua những cái cột biên giới sơn lằn vằn bị lật đổ. Đạn pháo binh nổ ầm ầm ở bên phải. Xa xa thấp thoáng những cái mái ngói đỏ của . khu trang trại. Mặt trời hành hạ mặt đất bằng những tia nắng dội thẳng từ xuống. Những làn bụi cay sè rơi xuống dày đặc. Viên trung đoàn trưởng ra lệnh phái bộ phận tuần tiễu phía trước. Trung đội ba của đại đội bốn do trung uý Semelov chỉ huy bị cắt làm nhiệm vụ ấy. Trung đoàn phân thành từng đại đội ở lại phía sau trong màn bụi xám như sương mù. Đội kỵ binh gồm hơn hai mươi gã -dắc cho ngựa phi con đường đầy những vết bánh xe khô rắn, tiến quá cái trang trại.
      Viên trung uý dẫn đội tuần tiễu lang thang chừng ba vec-xta rồi cho đứng lại để đối chiếu địa hình với bản đồ. Bọn lính -dắc túm năm tụm ba hút thuốc. Grigori xuống ngựa, định nới lỏng cái đai bụng, nhưng lão quản trừng mắt nhìn chàng:
      - Ông nện cho mày trận bây giờ! Lên ngựa!
      Viên trung uý châm thuốc hút, lau lau lại cái ống nhòm lấy trong bao ra. Trước mặt mọi người là dải đồng bằng phơi mình dưới nắng giữa trưa nồng nực. Bên phải có khu rừng, với loạt cây bên lề rừng cây cao cây thấp. con đường cắm thẳng vào trong rừng, nom như cái ngòi ong. Cách nơi dừng chân khoảng vec-xta rưỡi thấy có cái làng , ngay gần đấy có khoảng bờ sông dựng đứng bị cắt nham nhở, toàn là đất sét, mặt sông trong như thuỷ tinh, có lẽ mát lắm. Viên đại uý nhìn mãi trong ống nhòm, cố mò mẫm bằng mắt những dãy phố chết lặng, bóng người.
      Nhưng chỉ thấy cảnh hoang vắng như bãi tha ma, dòng nước xanh ngắt cứ như mời chào.
      - Chắc hẳn đó là làng Korolevka? - Viên trung uý đưa mắt về phía cái làng .
      Lão quản bước tới gần , chẳng chẳng rằng. Nét mặt lão tựa như muốn : "Quan lớn biết hơn tôi nhiều. Chức phận chúng tôi mọn biết sao được?"
      - Chúng ta tiến tới đấy - Viên trung uý có vẻ còn ngần ngại.
      cất ống nhòm rồi nhăn mặt như đau răng.
      - Bẩm quan lớn, liệu có chạm trán với chúng nó ?
      - Ta nên cẩn thận chút. Nào, .
      Prokho Zykov cố tiến gần Grigori. Ngựa của hai người chạy bên cạnh nhau. Tiến vào trong dãy phố vắng tanh mà rợn cả người.
      Mỗi cửa sổ đều như sẵn sàng có bàn tay vươn ra báo thù. Mỗi khuôn cửa nhà kho mở toang đều đem lại cho người nhìn vào cảm giác độc và cái lạnh chạy rân rân dọc theo cột xương sống đến là khó chịu. Các hàng rào và khe rãnh như có sức nam châm thu hút con mắt. Đoàn tuần tiễu tiến vào các dãy phố bóng người chẳng khác gì bầy thú rừng, đàn sói xuất gần điểm dân cư trong đêm đông xanh xanh. khí chết lặng đè nặng làm đần độn cả người. Từ trong khung cửa sổ mở toang của ngôi nhà bỗng có tiếng chuông đồng hồ treo tường, đánh dóng dả cách hồn nhiên chất phác, nhưng đối với đoàn ngựa, những tiếng chuông nổ ra lại nghe như tiếng súng. Grigori thấy viên trung uý ngựa phía trước run bật lên và luống cuống đưa tay xuống vỏ súng ngăn. Từ đầu đến cuối làng chẳng thấy bóng vía người nào. Đội tuần tiễu cho ngựa lội qua con sông rất , nước lên tới bụng ngựa. Những người cưỡi ngựa thúc ngựa qua sông, nhưng thế, những con ngựa cũng thích lội xuống nước, để vừa lội vừa uống.
      Grigori nhìn làn nước ngầu đục bằng cặp mắt thèm khát: nước ngay đấy mà được hưởng, vì thế nó càng có sức hấp dẫn gần như sao cưỡng lại được. Nếu có thể chưa biết chừng chàng nhảy ngay yên xuống, và chẳng cần cởi quần áo, cứ thế nằm dài dưới luồng nước rì rầm như mơ ngủ để được cảm thấy hơi lạnh và những cơn run lan khắp sống lưng và bộ ngực đẫm mồ hôi.
      Lên tới ngọn đồi ngoài thôn mọi người nhìn thấy thành phố : những khu phố vuông vắn, những ngôi nhà gạch, những mảnh vườn xanh rờn, những cái nóc tròn nhọn của mấy toà nhà thờ.
      Viên trung uý cho ngựa tiến vào chỗ hõm đỉnh đồi, đưa ống nhòm lên mắt.
      - Chúng nó kia kìa! - kêu lên, mấy ngón tay run run.
      Lão quản rồi đến binh lính -dắc, từng người lần lượt leo lên quan sát ngọn đồi bị nắng đốt trụi. Đứng đấy mà nhìn người trong thành phố chỉ như những con kiến. Họ chạy chạy lại lăng xăng trong các phố. Những doàn xe ngựa làm tắc những đường hẻm, những người cưỡi ngựa ra rồi lại biến loang loáng. Grigori đưa tay lên che nắng, nheo mắt nhìn. Chàng nhận ra cả màu xám của thứ quân phục lạ. Những đường chiến hào mới đào nâu nâu, ra ở gần thành phố, trong đó người đông lúc nhúc.
      - Chúng nó đông khiếp… - Prokho kinh ngạc kéo dài giọng.
      Tất cả những người khác đều chẳng chẳng rằng. Họ cùng bị xâm chiếm bởi cảm giác chung. Grigori lắng nghe tiếng tim mình đập mỗi lúc nhanh ( như có thằng cha nào rất bé, nhưng nặng như chì, chạy tại chỗ trong phần bên trái lồng ngực). Chàng nhận thấy rằng cái cảm giác của mình trong khi nhìn những con người xa lạ nầy hoàn toàn khác với cảm giác của mình khi thấy "địch" trong các cuộc diễn tập.
      Viên trung uý lấy bút chì ghi biết những gì trong cuốn sổ dã chiến. Lão quản đuổi các binh sĩ xuống chân đồi, ra lệnh xuống ngựa, rồi lại leo lên với viên trung uý. Viên trung uý giơ ngón tay vẫy Grigori.
      - Melekhov?
      - Có tôi! - Grigori leo lên đồi, vừa vừa cố làm cho hai chân đỡ tê cứng.
      Viên trung uý trao cho chàng tờ giấy gấp tư.
      - Mày có con ngựa tốt hơn ngựa của những thằng khác. Phi nước đại ngay về đệ trình quan trung đoàn trưởng.
      Grigori cất kỹ mảnh giấy vào trong túi ngực, rồi vừa quay về chỗ để ngựa, vừa kéo dây mũ xuống dưới cằm.
      Viên trung uý nhìn theo Grigori cho đến khi chàng lên ngựa rồi liếc nhìn mặt đồng hồ đeo tay.
      Grigori mang bản báo cáo về đến nơi trung đoàn tiến tới Korolevka.
      Đại tá Kaledin ra lệnh cho viên phó quan, viên nầy phi ngựa như bay đến đại đội .
      Đại đội bốn tiến qua làng Korolevka rồi cứ như trong diễn tập, triển khai rất nhanh bên ngoài hàng rào. Trung uý Semenov rút từ đồi về cùng binh lính trung đội ba.
      Đại đội chỉnh đốn đội hình móng ngựa. Mòng cắn dữ quá, những con ngựa lắc đầu lia lịa, hàm thiếc lách cách. Trong bầu khí giữa trưa lặng như tờ, những tiếng vó ngựa của đại đội vượt qua mấy ngôi nhà cuối cùng trong làng vang lên trầm trầm.
      Viên thượng uý Polkonikov cho ngựa tiến lên trước hàng quân. cưỡi con ngựa cân đối, vừa chạy vừa nhảy nhảy. tay kéo dây cương, tay kia nghịch nghịch dây ngù ở đốc gươm. Grigori nín thở chờ lệnh. Ở cánh bên trái, vẳng tới những tiếng rầm rập khe khẽ của đại đội triển khai chuẩn bị chiến đấu.
      Viên thượng uý rút gươm ra khỏi vỏ, ánh thép xanh xanh thấp thoáng màu ảm đạm.
      - Đại đội!
      Lưỡi gươm ngả sang phải rồi ngả sang trái, cuối cùng chĩa thẳng về phía trước, ngang hai cái tai ngựa vươn thẳng, rồi hạ xuống. "Triển khai… tiến". Grigori nghĩ thoáng trong óc phần khẩu lệnh chưa hô.
      - Giáo sẵn sàng chiến đấu, gươm tuốt trần, xung phong! - Viên thượng uý ra lệnh xong, buông cương cho con ngựa phóng lên.
      Bị hàng trăm ngàn vó ngựa dày xéo, mặt đất ầm ì rên siết. Grigori ở ngay hàng đầu. Chàng vừa kịp hạ cây giáo xuống con ngựa chiến bị làn sóng ngựa ập tới cuốn theo lao vụt lên và phi hết tốc độ. Phía trước, con ngựa của viên thượng uý Polkonikov chồm chồm nền xâm của cánh đồng. Những luống cày lao vùn vụt phía trước tới như những cái nêm đen sịt. Đại đội gầm lên, tiếng hô khi trầm khi bổng rung chuyển cả gian. Rồi tiếng hô chuyển dần tới đại đội bốn. Những con ngựa cứ lần lượt thu gọn bốn vó xuống dưới bụng rồi duỗi dài chân, mỗi bước để lại phía sau hàng mấy xa-gien. Qua tiếng rít như xé màng tai, Grigori nghe thấy cả những phát súng nổ bùng bục, còn xa. Viên đạn đầu tiên bay vụt qua biết chỗ nào ở cao, tiếng réo kéo dài tựa như rạch đường cày bầu trời trong như thuỷ tinh. Grigori áp chặt cái cán giáo nóng hổi vào người, đến đau cả sườn, bàn tay chàng đầm đìa mồ hôi như bôi chất nước lầy nhầy. Tiếng rít của những viên đạn bay qua loạn xạ bắt chàng phải cúi rạp đầu xuống cổ ngựa ướt đẫm.
      Mùi mồ hôi ngựa xông nồng nặc vào mũi chàng. Như qua cái ống nhòm ám hơi nước, Grigori trông thấy đường ụ nâu nâu của các chiến hào cùng với những hình người xám xám bỏ chạy về phía thành phố. khẩu súng máy bắn ngớt qua đầu các binh lính -dắc. Đạn toả ra thành hình nan quạt, réo vù vù. Đơn vị -dắc phi như bay về phía trước. Vó ngựa hất bụi lên như những đám bông.
      Trước lúc bắt đầu xung phong, máu còn dồn dập ập tới chỗ giữa lồng ngực Grigori, nhưng bây giờ chỗ ấy như hoàn toàn tê dại. Chàng còn cảm thấy gì khác ngoài tiếng rung như chuông trong tai và cái đau ở các ngón chân trái. Những ý nghĩ bị niềm kinh hoàng làm cho còn mạch lạc nữa cứ quay cuồng nháo nhào trong óc thành khối đờ đẫn nặng nề.
      Người đầu tiên ngã lộn lưng ngựa xuống là viên thiếu uý Liakhovsky. Con ngựa của Prokho dẫm lên người .
      Grigori ngoái nhìn lại: trong trí nhớ của chàng còn ghi lại mẩu trong những điều chàng nhìn thấy: con ngựa của Prokho chồm qua viên thiếu uý nằm sóng soài dưới đất, nhe răng ra rồi cũng gục đầu ngã lăn xuống. Prokho bị vấp mạnh, văng khỏi yên. Hai hình ảnh được khắc sâu trong óc Grigori như con dao kim cương rạch kính và còn in lại trong thời gian rất dài: hình ảnh hai hàng lợi hồng hồng của con ngựa của Prokho với những cái răng sát sin sít rất to, và hình ảnh Prokho lộn nhào xuống đất rồi bị đạp túi bụi dưới bốn vó con ngựa của gã -dắc phi ngay phía sau. Grigori nghe thấy tiếng kêu, nhưng nhìn khuôn mặt Prokho áp sát xuống đất, nhìn cái miệng méo xệch và hai con mắt như mắt bò non lồi hẳn ra ngoài, chàng biết rằng đó là tiếng kêu man rợ còn ra tiếng người. Vẫn có những lính -dắc và những con ngựa ngã lăn xuống thêm. Qua làn nước mát trào ra vì gió, Grigori nhìn thấy trước mặt chàng những tên áo chạy ra khỏi các chiến hào.
      Lúc mới tiến từ trong thôn ra, đại đội còn dàn thành đội hình triển khai chiến đấu đều đặn, nhưng đến lúc nầy đội hình ấy nứt nẻ, tản rộng, rải khắp cánh đồng. Những người tiến đầu, trong số đó có Grigori, vẫn tiếp tục lao về phía các đường chiến hào. Còn lại bao nhiêu tiến chậm phía sau.
      tên lính Áo cao lớn, lông mày trắng bệch, mũ kê-pi kéo xuống sát mắt, cau mày quỳ xuống, gần như nhắm từ ngay trước mặt Grigori mà bóp cò. Phát đạn chì thui cháy bên má chàng, rát như lửa. Grigori cố hết sức kéo dây cương, chĩa ngọn giáo về phía trước. Tên lính Áo vừa chồm đậy bị đâm trúng ngay, sức đâm mạnh quá làm cây giáo cắm sâu vào đến nửa cán. Grigori đâm rồi kịp rút ngọn giáo ra nữa, và dưới sức nặng của cái cơ thể khuỵu xuống, chàng phải buông cán giáo ra sau khi cảm thấy nó run bắn lên. Chàng nhìn thấy tên lính Áo gập người xuống phía trước (chỉ trông thấy được cái cằm chưa cạo râu, nhọn hoắt như nêm) rồi lại ngửa hẳn ra sau, mười ngón tay co quắp, quờ quạng, cào cấu cán giáo. Grigori duỗi năm ngón tay, đặt bàn tay tê dại lên cán gươm.
      Quân Áo bỏ chạy tán loạn trong những dãy phố ngoại ô. Những con ngựa -dắc đứng chồm hẳn lên những bộ quân phục màu xám của họ.
      Ngay phút đàu sau khi phải bỏ cây giáo, Grigori kéo cổ con ngựa, và chính chàng cũng hiểu để làm gì. Nhưng chàng lại trông thấy lão quản nhe răng phi ngựa qua, bèn lấy má gươm đập cho con ngựa cái. Con ngựa vẹo cổ, phi vụt lên theo dọc phố.
      lính Áo mất trí lảo đảo chạy dọc theo dãy hàng rào của vườn hoa. ta mất súng, tay nắm rất chặt chiếc mũ kê-pi.
      Grigori nhìn thấy cái gáy thẳng đứng và đường chỉ cổ áo ướt đẫm ở chỗ sát cổ. Grigori đuổi kịp ta. Bị kích động vì bầu khí chém giết đièn cuồng chung quanh, Grigori giơ cao thanh gươm.
      Người lính Áo vẫn chạy dọc theo dãy hàng rào. Nếu cứ thế mà chém thuận tay, Grigori bèn nghiêng hẳn người yên, cầm chếch thanh gươm chém vào gáy người lính Áo. ta kêu được tiếng nào, chỉ đưa hai bàn tay lên bịt vết thương, rồi quay lưng về phía hàng rào. Grigori ghìm được ngựa, nên phi vụt qua rồi lại kéo cương, cho con ngựa chạy nước kiệu trở lại. Khuôn mặt của người lính Áo vốn vuông, nhưng vì sợ quá nên dài ra, sạm lại như màu gang. ta đặt hai tay vào đường chỉ quần, cặp môi xám ngoét lắp ba lắp bắp. Nhát gươm chém xuống thái dương lật ra mảng da lõn thõng má như miếng giẻ đỏ. Máu chảy xuống áo quân phục thành dòng ngoằn ngoèo.
      Mắt Grigori bắt gặp mắt người lính Áo, cặp mắt đầy vẻ kinh hoàng trước cái chết đờ đẫn nhìn chàng. Người lính Áo từ từ khuỵu xuống, những tiếng khò khè lọc ọc bật ra trong họng ta. Grigori cau mày vung gươm. Nhát gươm chém xuống rồi còn giật mạnh, bổ phăng cái sọ làm đôi. Người lính Áo gục xuống, hai tay vươn lên trời, như người trượt chân ngã, nửa cái sọ rơi đánh bộp xuống lớp đá trải giường. Con ngựa hí vang, chồm lên, đưa Grigori ra giữa phố.
      các đường phố chỉ còn đì đẹt vài tiếng súng. con ngựa sùi bọt mép lôi qua trước mặt Grigori xác của -dắc. Chân gã vướng vào bàn đạp, nên con ngựa kéo lê mãi đá trải đường cái thân hình trần truồng đầy thương tích. Grigori chỉ nhìn thấy cái nẹp quần đỏ và chiếc áo quân phục màu xanh lá cây rách nát bị lôi ngược lên thành đám phía đầu.
      Đầu óc Grigori rối bời bời, nặng như chì. Grigori tụt lưng ngựa xuống và cứ lắc đầu mãi. số tên -dắc vừa đuổi theo kịp đại đội ba phi ngựa qua mặt chàng. người lính bị thương được khiêng trong chiếc áo ca-pôt. Người ta cho ngựa chạy nước kiệu dồn đám tù binh áo. Họ chạy lốc nhốc sát bên nhau như bầy bò ngựa xám xịt, tiếng giầy đinh của họ vang lên sầu thảm và man rợ. Trong con mắt Grigori, những khuôn mặt của họ nhập làm thành vệt màu đất sét lạnh ngắt. Grigori ném dây cương rồi bước tới gần người lính Áo vừa bị chàng chém chết, chính chàng cũng biết để làm gì. ta vẫn nằm ở chỗ cũ bên dãy hàng rào sắt có những đường nét trang trí rất vui mắt, bàn tay nâu bẩn vương ra như chờ người người đến bố thí. Grigori nhìn vào mặt ta. Chàng có cảm tưởng như đó là mặt của kẻ ít tuổi, thậm chí đứa con nít, tuy ta có hai hàng ria chảy xệ và cáj miệng méo xệch, nghiêm khắc, đầy vẻ đau khổ, biết có phải vì cuộc sống bi thảm trước kia hay .
      - Nầy, thằng kia! - Có tiếng quát của viên sĩ quan -dắc lạ mặt cưỡi ngựa qua giữa phố.
      Grigori đưa mắt nhìn cái quân hiệu trắng đầy bụi mũ viên sĩ quan, rồi chập chững bước tới gần con ngựa. Bước chân của chàng vướng víu nặng nề như phải khiêng vai gánh nặng quá sức.
      Việc làm táng tận lương tâm và lòng hoài nghi vò nát tâm hồn chàng. Chàng nắm lấy bàn đạp mà biết làm thế nào nhấc nổi bàn chân nặng như chì.
      Chú thích:
      (1) Thành phố nầy trước Đại chiến thế giới thứ nhất thuộc Ba Lan, nay Ukraina. (ND)
      (2) loại kỵ binh, tác chiến có khi ngựa, có khi cưỡi ngựa. Gọi thế có lẽ do hình con rồng mũ sắt các đơn vị long kỵ binh đầu tiên. Ở nước ta dưới thời thuộc Pháp cũng có "lính đầu rồng" Nhưng bọn nầy có khi cưỡi… xe đạp (ND)
      (3) loại bản đồ quân của Nga, cứ ba vec-xta vẽ thành 2 cm. (ND)

    5. meobong271

      meobong271 Active Member

      Bài viết:
      490
      Được thích:
      32
      Chương 50


      Các tráng đinh -dắc bị gọi vào lính đợt hai của thôn Tatarsky và các thôn lân cận từ giã gia đình hôm trước hôm sau nghỉ đêm ở thôn Eia. Bọn -dắc cuối thôn ở chung với bọn đầu thôn. Vì thế Petro Melekhov, Anikey, Khristonhia, Stepan Astakhov, Tomilin Ivan và số gã khác cùng ở nhà. Chủ nhà là ông lão cao lớn, già lụ khụ, trước kia có tham gia cuộc chiến tranh Thổ nhĩ kỳ. Cụ bắt chuyện với họ. Bọn lính -dắc trải thảm cả trong bếp lẫn ở nhà trong, nằm xuống sáp ngủ và hút điếu thuốc cuối cùng trước khi chợp mắt.
      - Nầy các thầy quyền, có lẽ ra trận phải ?
      - Ra trận đấy, bố già ạ.
      - Có lẽ đánh trận lần nầy giống lần chiến tranh Thổ nhĩ kỳ đâu. Vì bây giờ người ta dùng những vũ khí lợi hại lắm.
      - Cùng duộc thôi. Cũng là những của thổ tả như nhau thôi. Trong cuộc chiến tranh Thổ nhĩ kỳ họ đưa nhân dân nướng lần nầy cũng lại như thế, - Tomilin lầu bầu, biết chàng có chuyện bực dọc với ai.
      - Nầy bạn thân mến ạ, năng đến là hồ đồ. Chiến tranh lần nầy khác đấy.
      - Tất nhiên thế rồi, - Khristonhia ngáp dài, lấy móng tay gảy tàn thuốc, lười nhác tán thành.
      - Đằng nào chúng mình cũng phải đánh đấm, - Petro cũng ngáp dài rồi đưa tay lên miệng làm dấu phép và kéo áo ca-pôt lên trùm đầu.
      - Các con ạ, lão muốn xin với các con điều nầy nhé. Lão chân thành xin các con nhớ lấy điều lão , - Ông lão .
      Petro hất tà áo ca-pôt, lắng nghe.
      - Các con hãy nhớ lấy điều nầy: nếu muốn giữ lấy tính mạng của mình, nếu muốn ra khỏi cuộc chiến tranh đầy chết chóc được nguyên vẹn phải giữ cho đúng chân lý của con người.
      - Chân lý như thế nào? - Stepan nằm sát mép tấm thảm cất tiếng hỏi. Nụ cười của ta đầy vẻ hoài nghi.
      Từ ngày nghe tin chiến tranh bùng nổ. Stepan bắt đầu lấy lại được nét cười. Chiến tranh hấp dẫn ta, tình hình hoảng loạn chung và những nỗi đau khổ của người khác tưởng chừng xoa dịu nỗi đau khổ của chính ta.
      - Chân lý là như thế nầy nầy: trong chiến tranh chớ lấy cái gì của người khác, là . Tuyệt đối được động đến đàn bà, ngoài ra còn phải thuộc bài kinh cầu nguyện như thế nầy.
      Bọn -dắc ngọ nguậy, cùng nhao nhao.
      - Bây giờ chỉ mong của mình khỏi mất, còn nghĩ gì được đến của người khác.
      - Còn đàn bà tại sao lại được động đến? Chỉ là chuyện ngớ ngẩn. Việc ấy tôi thấy thể giữ được đâu. Còn bài kinh sao?
      - Làm thế nào mà nhịn được?
      - Đằng nào cũng thế thôi.
      - Còn bài kinh cầu nguyện thế nào hả cụ?
      Cặp mắt ông lão nghiêm hẳn lại, cụ trả lời chung tất cả mọi người:
      - Đàn bà dù sao cũng được động tới. Dứt khoát được. Nếu nhịn được hoá điên hoá rồ hoặc bị thương vì gươm đạn. Hối hận muộn. Còn bài kinh cầu nguyện lão cho các con biết. Lão có mặt từ đầu đến cuối trong cuộc chiến tranh Thổ nhĩ kỳ, cái chết lúc nào cũng lủng lẳng vai như cái túi dết, nhưng lão vẫn sống chính là nhờ bài kinh cầu nguyện nầy đấy ông lão vào nhà trong, lục lọi dưới cái ổ để hình thánh rồi mang ra tờ giấy cũ quá thành mầu nâu.
      - Đây. Các con dậy mà chép . Có lẽ sáng mai gà chưa gáy lên đường rồi chứ gì?
      Ông lão đặt tờ giấy lên bàn, lấy tay vuốt loạt soạt cho phẳng rồi bỏ ra ngoài. Anikey là người ngồi dậy trước tiên. Gió luồn que khe cửa thổi vào ngọn đèn, in những cái bóng chỗ sẫm chỗ nhạt lên bộ mặt nhẵn thín như mặt đàn bà của . Trừ Stepan, tất cả mọi người đều ngồi dậy chép. Anikey chép xong trước tất cả mọi người bèn xé lấy tờ giấy trong quyển vở, vo tròn lại buộc vào dây đeo cổ, phía thánh giá. Stepan đưa đưa lại bàn chân, chế Anikey:
      - Thế là cậu sắp sẵn cho loài rận chỗ nương thân rồi đấy. Chúng nó thể nào sống dây đeo thánh giá được. Nhưng nay cậu xây cho chúng nó cơ ngơi bằng giấy rồi. Chà!
      - Nầy, hùng rơm vừa chứ, tin im cái miệng ! - Ông lão nghiêm nét mặt ngắt lời Stepan. - Chớ có gây trở ngại cho người khác và chớ có phỉ báng tín ngưỡng. Cũng phải biết thẹn chứ, và làm như thế là có tội đấy!
      Stepan mỉm cười, gì nữa. Để khí đỡ căng thẳng. Anikey hỏi ông lão:
      - Trong bài kinh cầu nguyện có chỗ về thương và tên là nghĩa thế nào hả bố già?
      - Bài kinh cầu nguyện lúc xung phong hãm trận phải được soạn ra trong thời đại ngày nay của chúng ta đâu. Mồ ma ông cụ đẻ ra lão được ông tam đại của cụ truyền cho rồi. Và có lẽ bài kinh còn được soạn ra trước nữa kia. Thời xưa người ta vốn là đánh nhau bằng thương và cung tên mà.
      Mọi người tuỳ ý lựa chọn, ai thích bài nào chép bài nấy.
      KINH CẦU NGUYỆN TỴ SÚNG ĐẠN
      Lạy Chúa tôi, cầu Người ban phước lành. núi có khối đá trắng, ngó tựa con ngựa. Nước thấm đặc khối đá cũng như tên và đạn xuyên đặng người tôi, nô lệ của Thượng đế, đồng bạn tôi và con chiến mã của tôi. Cũng như búa đập xuống đe lại nảy lên, cầu khiến cho đạn cũng nảy khỏi người tôi. Cũng như cái cối xay quay, cầu khiến cho mũi tên cũng quay tít, tới đặng người tôi. Mặt trời mặt trăng xưa nay hằng sáng, cũng như tôi, nô lệ của Thượng đế, nhờ đó mà hằng tráng kiện. Phía sau trái núi có toà lâu đài toà lâu đài nầy bị đóng chặt cửa. Tôi ném những cái khoá xuống biển, xuống dưới khối dá trắng nóng bỏng Anto. Dù là phù thuỷ nam hay phù thuỷ nữ, dù là thầy tu hay ni , ai trông thấy đặng khối đá ấy. Nước khá chảy khỏi đại dương, cát vàng khá đêm, cũng như tôi, nô lệ của Thượng đế, ai khá dùng gì mà bắt đặng. Nhân danh đức Chúa cha, đức Chúa con và Thánh thần, Amen!
      KINH CẦU NGUYỆN TỴ GIAO CHIẾN
      đại dương, đại dương ấy có khối đá trắng Allto. khối đá Anto có người đàn ông bằng đá ở đấy muôn ngàn đời, cầu lấy cái áo bằng đá che cho tôi, nô lệ của Thượng đế, cùng các đồng bạn của tôi, từ phương đông cho tới phương đoài, từ dưới đất cho tới trời, đặng tỵ kiếm nhọn gươm sắc, tỵ mũi giáo mũi mác, tỵ những cây lao có hơ lửa và hơ lửa, tỵ dao găm, búa rìu và pháo đạn, tỵ đạn chì và các thứ vũ khí bách phát bách trúng, tỵ mọi thứ tên, dù là lông đại bàng hay lông thiên nga, lông ngỗng hay lông hạc, lông gà hay lông quạ, tỵ những trận chiến đấu với quân Thổ nhĩ kỳ, tỵ quân Krmn và quân Áo, tỵ những kẻ địch truy kích người Tarta và người Ladvia, người Đức, người Silin và người Kalmys. Cầu các Đức cha chí thánh và thần lực trời che chở cho tôi, kẻ nô lệ của Thượng đế. Amen.
      KINH CẦU NGUYỆN KHl XUNG PHONG HÃM TRẬN
      Lạy Đức mẹ chí tôn vô nhiệm nguyên tội rà Chúa Giê-su của chúng tôi. Cầu Chúa ban phước lành. Tôi là nô lệ của Thượng đế cùng các đồng bạn của tôi xung phong hãm trận, cùng với tôi còn có con ngựa. Cầu Chúa lấy mây che phủ, cầu vây quanh chúng tôi bức tường trời bằng đá thiêng. Lạy Đức thánh Dimitri Solunsky, cầu Người che chở cho tôi, nô lệ của Thượng đế, cùng các đồng bạn của tôi ở cả bốn phương tám hướng, cầu Người khiến cho những quân hung tàn bạo ngược, dù già dù trẻ, dù da đỏ hay da đen, dù là quân dị giáo, dù là bọn pháp sư phù thuỷ hay mọi loại tà đạo đều bắn bằng tên, đâm bằng giáo, chém bằng búa tầm sét, nện bằng chày, xả bằng gươm, bổ bằng rìu hoặc đâm chém bằng dao nhọn. Trong lúc nầy, mọi vật đều bày ra trước mặt tôi kẻ nô lệ của Thượng đế, độc và bị xét xử biển cả, đại dương, đảo Bllian, có cây cột thép. cái cột ấy có người thép, chống cái gậy thép, người ấy thu hút mọi thứ đồ sắt thép, thiếc, chì và mọi thứ binh khí. Nầy hỡi sắt thép ơi, ngươi hãy quay về với mẹ người là đất, hãy tránh kẻ nô lệ của Thượng đế nầy, các đồng bọn của ta và con ngựa chiến của ta. Nầy hỡi tên gỗ ơi hãy trở vể rừng, nầy hỡi lông kia hãy trở về với chim là mẹ ngươi, còn dao kia hãy trở về với cán. Cầu Người dùng mộc vàng ròng che chở cho tôi, kẻ nô lệ của Thượng đế, đặng tỵ búa rìu, tên đạn, đao thương và dao nhọn. Cầu cho thân tôi rắn tầy giáp sắt. Amen".
      Các binh sĩ -dắc chép xong mấy bài kinh cầu nguyện đều đeo dưới cái áo sơ-mi lót mình. Họ buộc các bài kinh ấy vào dây thánh giá, cùng với vật được mẹ chúc phước tặng cho, với cái gói đựng dúm đất cố hương, nhưng cả những chàng đeo các bài kinh cầu nguyện cũng chẳng được thần chết buông ta.
      Biết bao xác chết thối rữa những cánh đồng Galixi và Đông Phổ, ở Karpat và Rumani, ở khắp các nơi nào có ánh lửa chiến tranh và in móng ngựa -dắc.

    6. ^^! Nếu bạn không gửi link bài viết trên Facebook được, hãy sử dụng link trong khung này để chia sẻ bài viết :