1. QUY ĐỊNH BOX TRUYỆN SƯU TẦM :

    Đặt Title theo mẫu [Tên truyện] [dấu cách] - [dấu cách] [Tác giả] [Số chương]
    ----•Nội dung cần:
    - Hình minh họa (bìa truyện, hình ảnh,etc,...)
    - Nguồn
    - Tác giả
    - Tên editor +beta
    - Thể loại
    - Số chương
    Đặc biệt chọn canh giữa cho đoạn giới thiệu
    ---- Quy định :
    1. Chỉ đăng những truyện đã có ebook và đã được public trên các trang web khác
    2 . Chỉ nên post truyện đã hoàn đã có eBook.
    3. Trình bày topic truyện khoa học, bôi đen số chương để dễ nhìn
    4 . Cần có trách nhiệm post đến hết truyện. Nếu không thể tiếp tục post liên hệ Ad và Mod

  2. QUY ĐỊNH BOX EBOOK SƯU TẦM

    Khi các bạn post link eBook sưu tầm nhớ chú ý nguồn edit và Link dẫn về chính chủ

    eBook phải tải File trực tiếp lên forum (có thể thêm file mediafire, dropbox ngay văn án)

    Không được kèm link có tính phí và bài viết, hay quảng cáo phản cảm, nếu có sẽ ban nick

    Cách tải ebook có quảng cáo

Sông Đông êm đềm - Mikhail Solokhov (232 chương)

Thảo luận trong 'Truyện Phương Tây (Sưu Tầm)'

  • ^^! Nếu bạn không gửi link bài viết trên Facebook được, hãy sử dụng link trong khung này để chia sẻ bài viết :
    1. meobong271

      meobong271 Active Member

      Bài viết:
      490
      Được thích:
      32
      Chương 205


      Cũng như năm 1918, quân đội sông Đông vừa ra khỏi địa giới khu vực Khopesky lại mất sức tấn công trong cuộc tiến quân của nó. Vẫn như xưa, bọn -dắc phiến loạn của vùng Đông Thượng và phần dân chúng khu Khopesky muốn chiến đấu bên ngoài ranh giới Quân khu sông Đông. Ngày nay các đơn vị Hồng quân lại hoạt động vùng mà dân chúng đồng tình với họ, vì thế sau khi nhận được những lực lượng bổ sung mới, sức chống cự của họ cũng mạnh hơn. lần nữa, quân -dắc lại ngại chuyển sang chiến tranh phòng ngự, và bộ chỉ huy Quân đội sông Đông dùng đến mưu mẹo thế nào cũng thể thúc cho chúng chiến đấu với tinh thần kiên cường như hồi mới đây bên trong địa giới quân khu của họ, dù cho cán cân sức mạnh trong khu vực nầy vẫn ngả về phía chúng: bên là Tập đoàn quân số Chín Hồng quân bị đánh tả tơi trong những trận chiến đấu, gồm 11.000 tay súng, 5.000 tay gươm có 52 khẩu pháo yểm trợ: còn bên kia là mấy quân đoàn -dắc mới được biên chế với tổng quân số là 14.400 tay súng, 10.600 tay gươm có 56 khẩu pháo yểm trợ.
      Các chiến dịch đánh mạnh nhất diễn ra ở hai bên sườn tức là trong phạm vi hoạt động của các đơn vị thuộc Tập đoàn quân tình nguyện miền Nam Kuban. Đồng thời với cuộc tiến quân có kết quả vào sâu trong địa hạt Ukraina, bộ phận của Tập đoàn quân tình nguyện dưới quyền chỉ huy của tên tướng Vrăngghen gây áp lực rất mạnh đối với Tập đoàn quân số Mười của Hồng quân, đánh dồn tập đoàn quân nầy và tiến về hướng Saratov qua những trận chiến đấu ác liệt.
      Ngày 28 tháng Bảy, kỵ binh Kuban tiến tới sát Kamysin sau khi bắt được phần lớn lực lượng bảo vệ thành phố nầy làm tù binh. Đợt phản công của các đơn vị thuộc Tập đoàn quân số Mười bị đánh bật. Cuộc vận động gan dạ của sư đoàn kỵ binh hỗn hợp Kuban-Cherech đe doạ bao vây vu hồi sườn bên trái Tập đoàn quân số Mười, do đó bộ chỉ huy tập đoàn quân chuyển các đơn vị về mặt Bordenkovo-Latusevo-Kraxnyi Ya-Kamenka-Bannoie. Cho đến hồi nầy, đội ngũ của Tập đoàn quân số Mười gồm có 18.000 tay súng, 8.000 tay gươm và 132 khẩu pháo. Tập đoàn quân tình nguyện Kuban chống nhau với nó gồm có 7.600 tay súng, 10.750 tay gươm và 68 khẩu pháo. Ngoài ra quân Trắng còn có những đội xe tăng và số khá lớn máy bay làm những hoạt động trinh sát và tham gia các trận chiến đấu. Nhưng cả máy bay của Pháp lẫn các xe tăng và đại đội pháo của cũng đều giúp được Vrăngghen: làm thế nào đến được quá Kamysin. Trong khu vực nầy diễn ra những trận chiến đấu dai dẳng, ác liệt chỉ làm cho mặt trận có những thay đổi đáng kể.
      Đến cuối tháng Bảy các tập đoàn của Hồng quân bắt đầu chuẩn bị chuyển sang đợt phản công rộng rãi rên khắp khu vực trung tâm của Mặt trận miền Nam. Với mục đích đó, hai tập đoàn quân số Chín và số Mười hợp nhất thành binh đoàn xung kích dưới quyển chỉ huy của Sorin. Trong lực lượng dự bị của binh đoàn xung kích nầy có sư đoàn 28 và lữ đoàn trước kia phụ trách khu vực cố thủ ở Kazan, cùng sư đoàn 25 và lữ đoàn trước kia phụ trách khu vực cố thủ ở Saratov, điều từ mặt trận miền Đông về. Ngoài ra bộ chỉ huy của Mặt trận miền Nam còn điều những đơn vị thuộc lực lượng dự bị của mặt trận và sư đoàn khinh binh số 56 để tăng cường cho binh đoàn xung kích. Hướng trợ kích được dự định nhằm vào Voronez với những lực lượng của Tập đoàn quân số Tám và hai sư đoàn phối thuộc với nó là sư đoàn khinh binh số 31 điều từ mặt trận miền Đông về và sư đoàn khinh binh số Bảy.
      Thời điểm dự định chuyển sang tổng phản công vào khoảng từ mồng đến mồng mười tháng Tám. Theo kế hoạch của bộ tổng tư lệnh Hồng quân, đòn đánh của hai tập đoàn quân số Tám và số Chín được thực kèm theo với những hoạt động vu hồi của các đơn vị bên sườn: Theo kế hoạch nầy Tập đoàn quân số Mười phải gánh nhiệm vụ đặc biệt quan trọng và phức tạp. Tập đoàn quân nầy phải hoạt động phần bờ bên trái sông Đông cắt rời chủ lực của địch khỏi miền Bắc Kavkaz. ớ miền Tây, phần các lực lượng của Tập đoàn quân 14 có nhiệm vụ hoạt động đánh nhử mạnh mẽ về tuyến Travlino-Lodovaya.
      Trong khi các việc điều động binh lực cần thiết được tiến hành trong khu vực của hai tập đoàn quân số Chín và số Mười, bộ tư lệnh của quân Trắng nhằm mục đích phá vỡ đợt tấn công mà quân địch chuẩn bị hoàn thành việc tổ chức quân đoàn Mamontov. Họ trù tính chọc thủng mặt trận và tung quân đoàn nầy ra tập kích rất sâu vào hậu phương của Hồng quân. Thắng lợi của tập đoàn Vrăngghen ở hướng Sarysin cho phép kéo dài mặt trận của tập đoàn quân nầy về bên tráỉ và nhờ đó thu hẹp được mặt trận của quân đội sông Đông, rút bớt được trong biên chế của nó vài sư đoàn kỵ binh. Ngày mồng Bảy tháng Tám, ở trấn Uriupinskaia tập trung 6.000 tay gươm, 2.800 tay súng và ba đại đội pháo, mỗi đại đội có bốn khẩu đội. Ngày mồng mười, quân đoàn mới được biên chế lại dưới quyền chỉ huy của tên tướng Mamontov đột nhập vào khu vực tiếp giáp giữa hai tập đoàn số Tám và số Chín rồi tiến từ Novokhopesk về hướng Tambob.
      Theo ý đồ đầu tiên của bộ tư lệnh quân Trắng ngoài quân đoàn Mamontov, chúng còn định điều thêm quân đoàn kỵ binh của tên tướng Konovalov cùng tham gia trận tập kích vào hậu phương của Hồng quân, nhưng vì có những trận chiến đấu nổ ra trong khu vực do các đơn vị của quân đoàn Konovalov phụ trách, cho nên chúng rút được quân đoàn đó khỏi mặt trận: Tình thế như vậy cho thấy vì sao nhiệm vụ trao cho Mamontov bị giảm bớt, làm cho còn điên cuồng mơ ước cuộc trường chinh cho tới Moskva nữa. Nhiệm vụ của bây giờ chỉ là phá hoại hậu phương và các đường giao thông của địch rồi lại trở về hợp nhất với quân trắng. Chứ đầu tiên cùng Konovalov nhận được lệnh đem toàn khối kỵ binh giáng cho các tập đoàn quân Hồng quân ở khu Trung ương đòn chí mạng vào bên sườn hậu phương rồi hành quân cấp tốc, tiến sâu vào nội địa nước Nga, vừa tiến quân vừa bổ sung lực lượng bằng những tầng lớp dân chúng có tư tưởng chống Xô viết và tiếp tục tiến cho kỳ được tới Moskva.
      Tập đoàn quân số Tám khôi phục được tình thế ở cánh bên trái của nó bằng cách sử dụng lực lượng dự bị của tập đoàn quân. Cánh bên phải của tập đoàn quân số Chín bị rối loạn nhiều hơn. Nhờ áp dụng số biện pháp, tư lệnh của binh đoàn xung kích Sorin khép chặt được hai cánh bên trong của hai tập đoàn quân, nhưng vẫn chặn giữ được kỵ binh của Mamontov. Theo lệnh của Sorin, sư đoàn dự bị số 56 được điều từ khu vực Kirxanov tới ngăn chặn Mamontov. tiểu đoàn của sư đoàn nầy vận động bằng xe tải, được điều tới nhà ga Xampua, nhưng bị trong những chi đội bên sườn của quân đoàn Mamontov đánh tan trong trận tao ngộ chiến. Lữ đoàn kỵ binh của sư đoàn khinh binh số 36 được đưa yểm hộ đoạn đường sắt Tambob-Balasov cũng chịu chung số phận. Lữ đoàn nầy xông thẳng vào giữa toàn khối kỵ binh của Mamontov và bị đánh tan tác sau trận chiến đấu chớp nhoáng.
      Ngày mười tám tháng Tám, Mamontov tập kích chiếm được Tambob. Song tình hình nầy ngăn cản được chủ lực của binh đoàn xung kích Sorin mở đầu đợt tấn công, dù phải tách từ trong biên chế của binh đoàn ra gần hai sư đoàn bộ binh để chống lại Mamontov. Đồng thời cuộc tấn công ở khu vực Ukraina của Mặt trận miền Nam cũng được mở màn.
      Ở phía Bắc và đông-bắc, mặt trận gần như kéo dài thành đường thẳng từ Stayryi Oxcol tới Balasov với chỗ thụt lùi về phía Sarysin, đến nay bắt đầu ổn định. Dưới áp lực của những lực lượng lớn hơn của địch, các trung đoàn -dắc phải rút lui về phía Nam, chuyển sang những trận phản công liên tiếp, cố bám lấy từng tuyến địa hình. khi về tới địa phận vùng sông Đông, các trung đoàn ấy lại có được sức chiến đấu vừa bị mất , các vụ đào ngũ bớt hẳn , những lực lượng bổ sung được điều từ các trấn vùng trung lưu sông Đông. Các đơn vị thuộc binh đoàn xung kích của Sorin càng tiến sâu vào đất đai của quân khu sông Đông họ càng gặp phải chống cự mạnh mẽ và ác liệt. Trong những đại đội toàn dân, dân -dắc các tran phiến loạn của khu Đông Thượng tự động tuyên bố tổng động viên, tổ chức những buổi cầu kinh và lập tức tiến ra mặt trận.
      Qua những trận chiến đấu liên miên để tiến tới sông Khop và sông Đông, binh đoàn phải khắc phục sức chống cự ác liệt của quân Trắng và hoạt động trong vùng mà phần lớn dân chúng ràng có thái độ thù địch đối với các đơn vị Hồng quân, vì thế họ mất dần sức mạnh của đà tấn công lúc đầu. Trong khi đó, tại khu vực của trấn Katralinskaia và nhà ga Ketluban, bộ chỉ huy của quân Trắng tổ chức binh đoàn cơ động rất mạnh gồm ba quân đoàn Kuban và sư đoàn bộ binh số Sáu để giáng đòn vào Tập đoàn quân số Mười của Hồng quân là tập đoàn quân tiến quân thu được kết quả lớn nhất.

    2. meobong271

      meobong271 Active Member

      Bài viết:
      490
      Được thích:
      32
      Chương 206


      Chỉ có năm mà gia đình Melekhov giảm mất nửa số nhân khẩu ông Panteley Prokofievich nhận xét sai khi hôm ông rằng Thần chết bắt đầu mến ngôi nhà của ông. Vừa kịp lo cho Natalia mồ yên mả đẹp xong căn phòng trong rộng thênh thang của nhà Melekhov lại nặc mùi trầm hương và mùi cúc thỉ xa(1) Grigori ra mặt trận được mươi ngày Daria chết đuối dưới sông Đông.
      hôm thứ Bảy, ả ra đồng về bèn cùng với Dunhiaska tắm.
      Hai chị em cởi áo xống ở chỗ gần các vườn rau rồi ngồi rất lâu lớp cỏ mềm mại bị người qua lại dẫm nát. Ngay từ sáng, Daria có vẻ khó chịu, ả kêu nhức đầu, trong người khó ở và có vài lần giấu mọi người khóc thút thít… Trước khi xuống nước, Dunhiaska búi tóc, bịt đầu bằng chiếc khăn rồi liếc nhìn Daria, có vẻ thương hại:
      - Chị Daria, chị gần quá mất , có bao nhiêu gân xanh đều nổi lên tất cả?
      - Chẳng bao lâu khỏe lại thôi?
      - Chị hết nhức đầu chưa?
      - Hết rồi, nhưng thôi, chúng ta tắm , còn sớm sủa gì nữa đâu. xong, ả lấy đà nhào trước xuống nước, ngụp hẳn xuống rồi lại ngoi lên, rồi vừa phì nước ra miệng vừa bơi ra giữa dòng. Dòng nước cuồn cuộn vây bọc ả, lôi ả .
      Dunhiaska trầm trồ ngắm Daria bơi những sải rất dài như đàn ông và cũng lần xuống nước tới thắt lưng, rửa mặt, vẫy nước lên ngực và hai cánh tay rám nắng, khỏe mạnh, tròn lẳn. Trong vườn rau bên cạnh, hai ả con dâu nhà Obnhizov tưới bắp cải. Hai ả nghe thấy Dunhiaska vừa cười vừa gọi Daria:
      - Bơi trở lại thôi, chị Daria! Khéo có con cá bò nó lôi chị bây giờ!
      Daria quay lại, bơi chừng ba xa-gien, ngoi đến nửa người lên khỏi mặt nước trong nhát mắt, rồi chắp hai tay lên đầu và kêu lên: "Vĩnh biệt chị em!" - Kêu xong ả biến mất như hòn đá.
      Mười lăm phút sau, Dunhiaska chạy về nhà, mặt mày nhợt nhạt, mình chỉ có chiếc váy lót.
      - Chị Daria chết đuối mất rồi mẹ ơi! - thở hổn hển chẳng ra hơi.
      Mãi sáng hôm sau người ta mới dùng những cái móc của lưới đánh cá vớt được Daria lên. Lúc trời hửng, lão Arkhiv Pexkovaskov người dân chài nhiều tuổi và có kinh nghiệm nhất thôn Tatarsky đặt sáu đầu lưới theo dòng nước bên dưới chỗ Daria chết đuối và cùng ông Panteley Prokofievich thăm lưới. đám đàn bà con nít đứng đầy bờ, trong số đó có cả Dunhiaska. Đến lúc lão Arkhiv mắc đến cái dây thứ tư vào tay chèo, ra khỏi bờ chừng mười xa-gien, Dunhiaska nghe tiếng lão khẽ : "Có lẽ đây rồi…" Rồi lão bắt đầu kéo cái lưới rất cẩn thận, ràng phải cố gắng lắm mới lôi được đoạn dây chìm thẳng xuống dưới sâu. Rồi ở bờ bên phải có cái gì trăng trắng nhô lên, và cả hai ông già đều cúi xuống mặt nước.
      ít nước trào qua mạn thuyền và tiếng cái xác rơi đánh bịch vào trong thuyền đưa sang tới đám người đứng lặng. Đám người đồng thanh thở dài. Trong số những người đàn bà biết có ai khẽ nức nở. Khristonhia đứng gần đấy quát bọn con nít cách thô bạo: "Thôi chúng mày cút khỏi chỗ nầy ngay!". Qua hai hàng nước mắt Dunhiaska nhìn thấy lão Arkhiv đứng ở đuôi thuyền đẩy mái chèo rất khéo, rất lặng lẽ, cho thuyền vào bờ. Chiếc thuyền chạm vào đất, sát lạo sạo làm vụn lớp đá phần ven bờ. Daria nằm hai chân co lại động đậy gì nữa, bên má áp xuống chỗ đáy thuyền sũng nước. Cái thân hình trắng hếu của ả mới bắt đầu hơi xanh xanh, nom như sắc da trời, da có thể thấy những chỗ thủng sâu, dấu vết của những cái móc câu. bên bắp chân gầy gầy ngăm ngăm, dưới đầu gối chút, có vết mới sước màu hồng hồng hơi rớm máu, cạnh cái nịt vải mà có lẽ Daria quên tháo ra trước khi xuống nước. Mũi nhọn của móc câu trượt bắp chân gạch sâu đường chữ chi đứt quãng. Dunhiaska là người đầu tiên bước tới gần Daria, tay run lập cập vò chiếc tạp dề. vớ lấy chiếc khố tải xé theo đường chỉ phủ lên người Daria. Ông Panteley Prokofievich vội vã xắn quần lên cách tháo vát, bắt đầu kéo chiếc thuyền. Chẳng mấy chốc xe ngựa được đánh tới. Daria được chở về nhà Melekhov.
      Dunhiaska cố nén cái cảm giác vừa sợ vừa kình tởm, giúp mẹ lau rửa cái hài lạnh giá của người mới vừa qua đời, vẫn còn giữ cái băng buốt của luồng nước dưới đáy sông Đông. Có cái gì là lạ và khắc nghiệt khuôn mặt hơi sưng phù của Daria cũng như trong cái ánh bềnh bệch của hai con mắt bị nước rửa đến bạc màu. Những hạt cát sông bám tóc ả lấp lánh như bạc, rong bùn dính má ả từng sợi ẩm ướt màu xanh lá cây và trong hai cánh tay dang rộng, buông thõng từ chiếc ghế dài xuống cách bất lực, lại có vẻ yên tâm thanh thản đến nỗi Dunhiaska vừa nhìn thấy vội vã lánh ra xa, trong lòng vừa ngạc nhiên vừa hoảng sợ vì Daria chết rồi sao mà khác ả Daria chớt nhả hay cười và đời mới đây đến thế. Và sau nầy, trong thời gian rất dài hễ nhớ lại cái cảm giác lạnh như băng bộ ngực và cái bụng của Daria, tính chất còn co giãn da thịt hai chân hai tay cứng đờ của ả, Dunhiaska lại run bắn lên và cố hết sức mau chóng quên hết tất cả những chuyện ấy . Vì sợ ban đêm nằm mơ thấy Daria như khi ả chết, cho nên suốt tuần Dunhiaska phải nằm chung giường với bà Ilinhitna và trước khi nằm xuống, bao giờ cũng đọc kinh và thầm cầu nguyện: "Lạy Chúa tôi! Xin Người khiến cho tôi khỏi mơ thấy Daria? Xin Người che chở tôi, lạy Chúa tôi?".
      Nếu như hai ả con dâu nhà Obnhizov kể lại rằng họ có nghe thấy Daria kêu: "Vĩnh biệt chị em!" có lẽ người chết đuối được chôn cất cách lặng lẽ, có chuyện gì ầm ĩ, nhưng sau khi được biết rằng trước khi chết Daria có kêu chứng tỏ ràng rằng ả chủ tâm tự kết liễu đời mình, lão cố đạo Visarion kiên quyết tuyên bố rằng người tự tử được chôn cất theo nghi thức công giáo. Ông Panteley Prokofievich nổi giận:
      - Sao cha lại chịu làm lễ? Nó phải là con chiên của Chúa hay sao?
      - Tôi thể làm lễ an táng cho người tự tử được, luật pháp cho phép làm như thế đâu.
      - Thế theo ý cha nó được chôn cất như thế nào, như con chó ấy à?
      - Theo ý tôi ông muốn thế nào cũng được, song thể nào đưa ra nghĩa địa, ở đấy chỉ chôn những con chiên ngoan đạo thôi.
      - thể như thế được, cha làm ơn cho! - Ông Panteley Prokofievich chuyển sang van lơn - Gia đình tôi xưa nay chưa từng phải chịu cái nhục như thế bao giờ.
      - Tôi thể làm như thế được. Tôi kính trọng ông, ông Panteley Prokofievich ạ, tôi coi ông là con chiên gương mẫu trong giáo khu, nhưng làm thế nào được. Nếu có ai báo cáo lên cha tư tế trong giáo khu, tôi thể tránh khỏi tai vạ. - Lão cố đạo vẫn khăn khăng nghe.
      Nếu thế là nhục nhã. Ông Panteley Prokofievich bèn cố tìm mọi cách để thuyết phục lão cố đạo cứng đầu cứng cổ. Ông hứa trả nhiều tiền hơn và trả bằng giấy bạc Nicolai, thứ giấy bạc có giá trị đảm bảo nhất, lại thêm rằng biếu lão con cừu đầy năm. Nhưng cuối cùng ông thấy rằng mọi lời thương lượng đều chỉ hoài công vô ích bèn đe doạ:
      - Tôi đem nó chôn ở chỗ nào ngoài nghĩa địa. Nó là con dâu chính thức của nhà tôi chứ phải đứa đến ăn nhờ ở đợ. Chồng nó hy sinh trong khi chiến đấu với quân Đỏ và có hàm sĩ quan, thế mà cha lại ra với tôi những lời bừa bãi khó nghe như thế hay sao? , cha ơi, cha làm như thế xong đâu, cha làm lễ chôn cất cho xứng với tôn kính mà tôi đáng được hưởng! Tạm thời tôi cứ quàn nó ở nhà trong, còn tôi lên thưa ngay chuyện nầy lên ông ataman trấn. Để ông ấy chuyện với cha!
      Rồi ông Panteley Prokofievich bước ra khỏi nhà lão cố đạo lời chào, thậm chí ông còn đóng cửa đánh sầm trong lúc nổi nóng. Những lời hăm doạ của ông có tác dụng: nửa giờ sau lão cố đạo cho người đến rằng cha Visarion đến nhà ngay.
      Daria được chôn cất với đủ mọi nghi thức ở nghĩa địa, bên cạnh Petro. Trong khi đào huyệt ông Panteley Prokofievich còn ngắm trước để tìm chỗ cho mình. Ông vừa cầm xẻng đào vừa nhìn quanh, bụng bảo dạ rằng tìm đâu ra chỗ nào khác tốt hơn chỗ nầy, mà cũng chẳng tìm kiếm thêm làm gì. cây tiêu huyền mới trồng trước dây bao lâu vươn những cái cành xanh non rì rầm mộ Petro. Những đám lá ngọn cây bị mùa thu vừa sang nhuộm thành màu vàng, cái màu đầy đắng cay của tàn héo. Những con bò non lại mãi dẫm thành những con đường mòn len lỏi qua dãy hàng rào đổ nát và những nấm mồ. Sát bên dãy tường bao có con đường chạy ra cối xay gió. Những cái cây mà thân nhân những người quá cố chăm nom vun trồng: phong, tiêu huyền, keo, cũng như những cây mận gai dại đều xanh rờn, tươi tắn và hồ hởi. Chung quanh những cái cây ấy, thỏ ti mọc loăn xoăn rậm rì, cải dầu cuối mùa ra hoa vàng hoe, yến mạch và cỏ nga quan chịu những bông nặng hạt. Những cây thánh giá đều bị bìm bìm cuốn đầy từ chân đến ngọn, xanh mướt như chào đón. Chỗ nầy đúng là khoảng đất khô ráo, vui mắt.
      Trong khi đào huyệt thỉnh thoảng ông già lại quẳng cái xẻng xuống, ngồi lên chất đất sét ẩm ướt hút thuốc và nghĩ tới cái chết. Nhưng xem ra thời thế chuyển tới lúc người già đâu còn có thể chết cách yên ổn trong ngôi nhà cha sinh mẹ đẻ và được chôn cất ở nơi mà cha ông mình tìm được chỗ yên nghỉ cuối cùng…
      Sau khi Daria được chôn cất xong, nhà Melekhov lại càng trở nên hiu quạnh. Người ta gặt lúa chở về nhà, đập thóc, thu hoạch vụ dưa rất tốt. Cả nhà chờ đợi tin tức của Grigori nhưng khi chàng ra mặt trận đến nay chẳng được nghe nhận tin gì của chàng. Bà Ilinhitna nhiều lần : "Nó cũng chẳng buồn gửi lời hỏi thăm hai đứa con nữa, cái thằng khốn khiếp? Vợ chết rồi là chẳng còn thiết gì đến ai trong nhà nầy nữa…" Sau đó càng có nhiều gã -dắc lính về thôn Tatarsky thăm gia đình. Có những tin đồn rằng quân -dắc bị đánh bật mặt trận Balasov và chúng rút lui về sông Đông, để lợi dụng dòng nước làm chướng ngại vật và cố thủ đến mùa đông. Còn về chuyện đến mùa đông tình hình ra sao, tất cả những tên ở mặt trận về đều toạc móng heo: "Hễ sông Đông kết băng là bọn Đỏ xua ngay chúng ta ra tới bờ biển".
      Ông Panteley Prokofievich ra sức làm công việc đập lúa, tựa như đặc biệt chú ý gì tới những lời đồn đại được truyền trong vùng ven sông Đông, nhưng ông cũng thể nào làm ngơ trước những chuyện xảy ra. Sau khi được biết rằng mặt trận lan tới, ông càng hay quát tháo bà Ilinhitna và Dunhiaska, càng trở nên dễ nổi nóng. Ông vẫn thường hay làm việc nọ việc kia để sửa sang nhà cửa, nhưng chỉ cần công việc trong tay có chỗ nào trôi chảy là ông giận dữ quẳng hết đấy, vừa nhổ nước bọt vừa văng tục, chạy ra sân đập thóc, đứng ngoài ấy chờ cơn giận nguôi . nhiều lần Dunhiaska được chứng kiến những trận lôi đình như thế. hôm ông chữa cái ách bò, nhưng việc làm gặp chuyện trục trặc. hai gì cả, ông già phát điên lên, vớ luôn cái rìu bổ tan cái ách ra, cuối cùng chỉ còn lại những mảnh vụn. Hôm ông sửa lại cái cổ ngựa cũng thế. buổi tối ông ngồi dưới ánh đèn se chỉ gai và vá lại chỗ da bọc cổ ngựa bị sứt chỉ. biết vì chỉ mục hay vì ông già nóng nảy mà sợi chỉ gai đứt liền hai lần. Chỉ cần có thế là đủ cho ông Panteley Prokofievich văng tục câu ghe gớm, nhảy chồm lên đập lăn chiêng cái ghế đẩu, giơ chân đá nó ra tới bếp lò, rồi gầm lớn và như con chó, ông nhe răng cắn đứt đường viền bằng da cái cổ ngựa. Sau đó ông ném cái cổ ngựa xuống sàn nhà, nhảy cỡn lên như con gà trống, dẫm bành bạch lên . Bà Ilinhitna ngủ sớm, nghe thấy những tiếng ầm ĩ, hốt hoảng nhảy chồm dậy. Nhưng sau khi biết đầu đuôi câu chuyện, bà nhịn được nữa bèn trách ông già:
      - Cái lão đáng nguyền rủa nầy, sống đến già rồi mà còn phát điên phát ngộ như vậy à? Cái cổ ngựa ấy nó làm gì nên tội với ông hử?
      Ông Panteley Prokofievich nhìn vợ trừng trừng bằng hai con mắt mất hết lí trí và gào lên:
      - Câ… â… ngay, con mụ đốn mạt nầy? - Rồi ông vớ mảnh của cổ ngựa, ném bà già.
      Dunhiaska cười đến thở được nữa, vội chạy lao ra phòng ngoài như viên đạn. Còn ông già sau khi làm ầm ĩ nhà cửa lên lúc, ông cũng nguôi dần. Ông xin lỗi vợ vì những lời thô lỗ trong cớn tức giận, rồi đưa tay lên gãi gáy, è è trong họng nhìn giờ lâu những mảnh còn lại của cái cổ ngựa rủi ro, cố nghĩ xem còn có thể dùng được vào việc gì. Những cơn phát khùng tương tự của ông già còn diễn diễn lại nhiều lần. Nhưng sau khi rút được kinh nghiệm đắng cay của việc đây, bà Ilinhitna dùng chiến thuật khác để can ngăn chồng: ông Panteley Prokofievich vừa bắt đầu cười bớt và đập phá đồ dùng nào đó là bà già ngay giọng ôn tồn nhưng khá to: "Cứ đập , ông Prokofievich! Cứ phá nữa ! Tôi với ông còn có thể kiếm được nữa cơ mà?" Và thậm chí bà còn thử giúp chồng đập phá thêm. Thế là ông Panteley Prokofievich lập tức nguội ngay. Ông nhìn vợ phút bằng cặp mắt hồn rồi run run hai tay thọc vào các túi tìm thuốc lá. Ông ngượng ngùng kiếm chỗ nào khác ngồi xuống, hút điếu thuốc để trấn tĩnh lại sau cơn thần kinh, và vừa chửi thầm cái tính hay cáu của mình, vừa nhẩm tính số thiệt hại. con lợn sữa ba tháng chạy vào trong vườn trở thành vật hy sinh cho cơn thịnh nộ gì kiềm chế nổi của ông già. Ông Panteley Prokofievich cầm cái cọc đánh gãy cột xương sống của nó, nhưng chỉ năm phút sau ông dùng cái đinh nhổ những sợi lông con lợn bị chọc tiết rồi vừa vừa nhìn bộ mặt sầm sầm của bà Ilinhitna bằng cặp mắt khẩn khoản của kẻ hối lỗi:
      - Cái con lợn oắt xà lai nầy là tội nợ… Nhưng dù sao nó cũng thoát chết được đâu. Bây giờ lại đúng là mùa dịch lợn: như thế nầy ít nhất cũng còn được ăn, nếu nó chết dịch lại mất toi. Có đúng thế , bà lão? Hừ, nhưng làm gì mà bà cứ đứng lù lù như đám mây mang mưa đá thế nầy? Mà nó cũng ba lần đáng nguyền rủa, cái con lợn ranh nầy! Nếu được là con lợn sữa hẳn hoi đành, đằng nầy nó chỉ là mẫu lợn mà thôi? cần dùng đến cái cọc, chỉ sỉ ít nước mũi cũng đủ cho nó toi mạng rồi? Mà lại có cái tật phá hại nữa chứ! Bới mất hàng bốn chục búi khoai tây!
      - Khoai tây khắp vườn chỉ đếm được ba chục búi là cùng, - Bà Ilinhitna khẽ sửa lại lời chồng.
      - Phải, nhưng nếu có bốn mươi búi nó cũng đến phá cả bốn mươi thôi, cái thói của nó như thế mà! Cám ơn Chúa giúp chúng ta thoát được nợ, cái của nghiệp chướng nầy! - Ông Panteley Prokofievich nghĩ ngợi hai gì, trả lời ngay.
      Sau khi tiễn chân bố, hai đứa trẻ đâm ra buồn nhớ. Tối tăm mặt mũi vì công việc trong nhà, bà Ilinhitna thể lúc nào cũng để ý tới chúng nó được. Vì thế hai đứa hoàn toàn được tự do, chơi nghịch suốt ngày trong vườn hay ngoài sân đập lúa. hôm sau bữa trưa thằng Misatka biến mất hút, mãi khi mặt trời lặn mới về nhà. Thấy bà Ilinhitna hỏi đâu, nó trả lời rằng nó cùng với những trẻ khác chơi bên bờ sông Đông. Nhưng con Poliuska lập tức mách ngay.
      - Misatka dối đấy bà ạ! Misatka sang bên thím Acxinhia đấy!
      - Nhưng cháu làm thế nào biết được? - Bà Ilinhitna hỏi. Cái tin ấy làm bà vừa ngạc nhiên vừa khó chịu.
      - Cháu nhìn thấy Misatka leo qua hàng rào từ sân bên ấy trở về mà.
      - Cháu sang bên ấy có phải ? Nào, cháu , cháu của bà, sao cháu lại đỏ mặt lên thế?
      Thằng Misatka nhìn thẳng vào mắt bà nó trả lời:
      - Lúc nãy cháu dối đấy bà ạ… Đúng đấy, cháu ra sông đâu cháu ở bên thím Acxinhia.
      - Cháu sang bên ấy làm gì?
      - Thím ấy gọi cháy, cháu mới sang.
      - Thế sao cháu lại dối bà là cháu chơi với bọn trẻ.
      Thằng Misatka cúi đầu xuống trong giây, nhưng nó lại ngước hai con mắt rất thẳng thắn, khẽ :
      - Cháu sợ bà mắng…
      - Nhưng bà mắng cháu làm gì? Khô-ô-ông… Thế thím ấy gọi cháu sang làm gì? Cháu làm những gì ở bên ấy?
      - Chẳng làm gì cả. Thím ấy trông thấy cháu, thím ấy gọi: "lại đây với thím nào!" Cháu chạy lại, thím ấy dắt cháu vào trong nhà, cho cháu ngồi lên cái ghế dựa…
      - Rồi sao nữa? - Bà Ilinhitna sốt ruột, hỏi thêm, nhưng bà vẫn giấu rất khéo nỗi xúc động tràn ngập trong lòng mình.
      - Cho cháu ăn bánh tráng nguội, rồi lại cho cháu cái nầy. - Thằng Misatka móc trong túi ra miếng đường, giơ lên khoe cách kiêu hãnh, rồi lại giấu ngay vào trong túi.
      - Thế thím ấy với cháu những gì? Có lẽ cũng có hỏi gì chứ?
      - Thím ấy bảo cháu sang chơi với thím ấy, kẻo thím ấy ở nhà mình buồn lắm, thím ấy hứa cho cháu quà… Thím ấy dặn cháu đừng là sang nhà thím ấy. Thím ấy bảo nếu mắng cháu…
      - Té ra là thế đấy… - Bà Ilinhitna giọng hổn hển vì cơn tức giận mà bà cố ghìm nén - Nhưng thím ấy hỏi cháu những gì?
      - Thím ấy có hỏi đấy.
      - Nếu vậy thím ấy hỏi những gì nào? Cháu cứ kể , cháu của bà, đừng có sợ!
      - Thím ấy hỏi cháu có nhớ bố ? Cháu bảo là có nhớ. Thím ấy lại hỏi đến bao giờ bố mới về và ở nhà nhận được những tin gì của bố, nhưng cháu bảo là cháu biết, và bố đánh nhau ở ngoài mặt trận. Sau đó thím ấy bế cháu cho cháu ngồi lên đầu gối và kể chuyện cổ tích cho cháu nghe. - Thằng Misatka long lanh hai con mắt, mỉm cười, vẻ mặt phấn khởi hẳn lên - Câu chuyện hay lắm! về thằng Vanhiuska gì ấy có đàn thiên nga cho nó ngồi lên lưng, bay đưa nó , lại có con mụ phù thuỷ.
      Bà Ilinhitna mím môi, lắng nghe thằng Misatka thú tội, rồi bằng giọng nghiêm khắc.
      - Cháu của bà, cháu đừng sang bên nhà thím ấy nữa, đừng làm như thế. Mà thím ấy cho quà cũng đừng nhận gì cả, đừng nhận nhé, nếu ông mà biết ông đánh cháu đấy! Cầu Chúa cho ông đừng biết, nếu ông lột da cháu ra! Đừng sang nữa nhé, cháu của bà!
      Nhưng bất chấp những lời dặn dò nghiêm khắc, hai hôm sau thằng Misatka lại sang nhà Astakhov. Chỉ nhìn cái áo sơ-mi xíu của thằng bé, bà Ilinhitna biết ngay: chỗ tay áo bị toạc mà ban sáng bà còn chưa kịp khâu lại được vá víu cẩn thận, ngoài ra cổ áo còn có thêm cái khuy xà cừ mới trắng loá. Khi được biết rằng Dunhiaska bận công việc đập lúa, suốt ngày lo được tới việc sửa sang quần áo cho trẻ con, bà Ilinhitna bèn hỏi có vẻ trách moc:
      - Cháu lại sang bên nhà láng giềng đấy à?
      - Cháu lại sang… - Thằng Misatka luống cuống trả lời nhưng nó lại thêm ngay - Cháu sang nữa đâu bà ạ, bà đừng mắng cháu nhé…
      Bà Ilinhitna quyết định ngay là bà chuyện với Acxinhia, dứt khoát bảo nàng phải để thằng Misatka được yên và đừng đem quà bánh cùng những chuyện cổ tích ra mua chuộc nó nữa. Bà nghĩ thầm: "Cái con đáng nguyền rủa, nó đưa con Natalia đến chỗ chết, thế mà bây giờ lại định gần gụi hai đứa trẻ để rồi dùng chúng nó làm mê muội đầu óc thằng Grigori. Chà, đúng là con rắn độc! Chồng còn sống sờ sờ mà lại mơ ước về làm dâu nhà nầy… Nhưng nó giở được trò gì đâu! Chẳng nhẽ sau khi nó làm tội tày đình như thế, thằng Grigori lại còn lấy nó hay sao?
      Cặp mắt sắc sảo đầy đố kỵ của bà mẹ khỏi nhận thấy rằng trong những hôm chàng ở nhà, Grigori tránh gặp mặt Acxinhia. Bà hiểu rằng chàng làm như thế phải vì sợ miệng đời mai mỉa, mà chàng coi Acxinhia là kẻ có tội gây ra cái chết của vợ mình. Trong thâm tâm bà Ilinhitna hy vọng rằng cái chết của Natalia vĩnh viễn chia rẽ Grigori và Acxinhia, và Acxinhia bao giờ về nhà mình được.
      Ngay chiều hôm ấy, bà Ilinhitna trông thấy Acxinhia ở bến đò ven sông bèn gọi:
      - Nầy, chị lại đây với tôi lát, tôi có chuyện cần .
      Acxinhia đặt đôi thùng xuống bình tĩnh bước tới chào bà.
      - Thế nầy nầy, chị chàng thân mến ạ, - bà Ilinhitna vừa bắt đầu vừa nhìn đầy vẻ dò hỏi vào mặt chị láng giềng, khuôn mặt rất đẹp nhưng bà ghét cay ghét đắng. - Tại sao chị lại dụ dỗ trẻ con nhà người ta như thế? Tại sao chị lại gọi thằng bé bên tôi sang nhà chị để dỗ ngon dỗ ngọt nó? Ai nhờ chị vá áo và cho nó quà nầy bánh nọ như thế? Chị tưởng mẹ nó chết rồi còn ai trông nom nó nữa hay sao? Chị tưởng có chị người ta thể thu xếp được ổn thoả mọi mặt hay sao? Chị có còn lương tâm nữa hay , đồ mặt dày?
      - Nhưng cháu làm điều gì phải nào? Có gì mà cụ lại chửi mắng cháu như thế? - Acxinhia hỏi, mặt nàng đỏ bừng lên.
      - Lại còn có gì phải nữa à? Có phải sau khi chính chị đưa con Natalia xuống mồ bây giờ chị có quyền động đến con nó hay ?
      - Cụ gì vậy, thưa cụ? Cụ đúng rồi. Ai đưa Natalia xuống mồ? Chính chị ấy tự gây ra chuyện đấy thôi.
      - Thế phải là do chị à?
      - , việc ấy cháu biết.
      - Nhưng tôi tôi biết? - Bà Ilinhitna xúc động quát lên.
      - Nhưng cụ ạ, cụ đừng làm rầm lên, tôi phải là con dâu cụ mà cụ có thể mắng mỏ quát tháo. Để được nghe quát tháo tôi có chồng tôi rồi.
      - Tôi guốc trong bụng chị! Tôi nhìn thấy bụng dạ của chị như thế nào rồi! Chị phải là con dâu tôi! Nhưng chị mon men muốn làm con dâu tôi? Chị định đầu tiên gạ gẫm hai đứa để sau mò đến thằng Grigori có phải ?
      - Tôi tính đến chuyện làm con dâu cụ đâu. Cụ có lý trí nữa rồi, cụ ơi! Chồng tôi vẫn còn sống cơ mà.
      - Nhưng ngay trong khi chồng chị còn sống sờ sờ chị tìm cách tằng tịu với thằng khác rồi đấy?
      Mặt Acxinhia tái nhợt , nàng :
      - Tôi hiểu vì sao cụ lại gây chuyện với tôi và làm nhục tôi như thế… Tôi chưa bao giờ bám lấy ai và định bám lấy ai đâu. Còn cái chuyện tôi chuyện trò với thằng cháu nhà cụ có gì là tai hại? Chính cụ cũng biết đấy, tôi có con cái gì cả, tôi thích chơi với con nhà người khác cho lòng dạ chút, vì thế tôi mới gọi nó… Thế mà cụ nghĩ rằng tôi mua chuộc nó? Cho con trẻ mẩu đường mà cũng là mua với chuộc? Mà tôi mua chuộc nó làm gì cơ chứ? Chỉ có Chúa mới hiểu được là cụ muốn những gì!
      - Hồi mẹ nó còn sống sao chị gọi nó sang? Nhưng con Natalia vừa chết chị ra cái điều nhân đức.
      - Ngay khi Natalia còn sống nó cũng có sang chơi cơ mà! - Acxinhia hơi mỉm cười và .
      - Chị láo, đồ mặt dầy!
      - Cụ hãy hỏi nó trước rồi hãy quy cho người khác cái tội láo.
      - Nhưng thôi, dù sao từ nay trở chị cũng đừng dụ dỗ thằng bé sang nhà chị nữa. Và chị đừng tưởng rằng làm như thế thằng Grigori chị hơn đâu. Chị bao giờ làm vợ nó được đâu, chị phải hiểu lấy điều đó!
      Cơn giận làm mặt Acxinhia méo hẳn , nàng giọng khàn khàn:
      - Thôi cụ im ! ấy xin phép cụ đâu! Và cụ chớ có can thiệp vào việc của người khác.
      Bà Ilinhitna còn muốn thêm gì nữa, nhưng Acxinhia lầm lì quay , trở về chỗ đôi thùng. Nàng hất mạnh cái đòn gánh lên vai, làm nước tròng cả ra, rồi bước thoăn thoắt theo con đường .
      Từ hôm ấy, mỗi khi gặp người nào trong nhà Melekhov, Acxinhia còn chào hỏi gì nữa, cứ qua với vẻ mặt kiêu hãnh như quỷ dữ Xa-tăng, lỗ mũi phập phồng. Nhưng hễ trông thấy thằng Misatka ở đâu là nàng hốt hoảng nhìn quanh, và nếu gần đấy có ai nàng chạy ngay đến với nó, cúi xuống, ôm xiết nó vào ngực mình, hôn lấy hôn để vầng trán rám nắng và hai con mắt đen thầm của nhà Melekhov, rồi vừa khóc vừa cười, khẽ những lời chẳng ra đầu ra đũa gì cả: "Cháu Grigorievich(1) dấu của thím! Cháu ngoan của thím? Thím nhớ cháu quá mất? Thím Acxinhia của cháu ngu ngốc lắm… Chao ôi! Người đâu mà ngu ngốc!" Rồi nụ cười cứ run run đọng mãi môi nàng và hai con mắt ướt đẫm của nàng cứ bừng bừng sung sướng, như mắt trẻ.
      Đến cuối tháng Tám, ông Panteley Prokofievich bị động viên. Cùng lúc với ông, tất cả đàn ông -dắc cầm nổi cây súng đều phải rời khỏi thôn Tatarsky. Số đàn ông còn ở lại trong thông toàn là những kẻ tàn tật, những thằng con trai chưa thành niên, và những ông già lụ khụ. Lần nầy là tổng động viên. Trừ những người ràng là tàn phế, chẳng ai qua Uỷ ban khám sức khỏe mà được miễn.
      Sau khi nhận được của tên ataman thôn lệnh đến trình diện tại địa điểm tập trung, Panteley Prokofievich vội vã từ biệt bà già, hai đứa cháu và Dunhiaska, rồi ông è è trong họng, quỳ xuống, cúi rạp đầu xuống đất làm lễ hai lần và vừa làm dấu phép trước những bức hình thánh, vừa :
      - Thôi tạm biệt, mấy mẹ con bà cháu! Xem ra lần nầy chúng ta còn được trông thấy mặt nhau nữa đâu, chưa biết chừng sắp đến ngày tận số rồi? Tôi chỉ dặn cả nhà điều là đến ngày đập lúa, cố hết sức làm cho xong trước mùa mưa. Nếu cần thuê lấy người để người ta giúp cho. Nếu tôi về được trước mùa thu hoạch có tôi, ở nhà cũng cứ làm : cụ cày mùa thu gắng được bao nhiêu cày bấy nhiêu, đại mạch phải gieo, dù chỉ được đê-xi-a-chin. Bà nó phải liệu đấy, công việc phải cố gắng mà làm, chớ có ngơi tay! Tôi và thằng Grigori có về nữa hay còn chưa biết, nhưng ở nhà cái cần phải có nhất là thóc lúa. Chiến tranh là chiến tranh, nhưng sống mà có bánh mì bỏ vào miệng cực lắm. Thôi, cầu Chúa che chở cho cả nhà.
      Bà Ilinhitna tiễn chân ông già ra tới bãi họp, nhìn theo lần cuối cùng, thấy ông khập khễng bên cạnh Khristonhia, cố theo kịp chiếc xe ngựa, rồi bà kéo chiếc tạp dề lên lau cặp mắt sưng mọng, quay về nhà, ngoái nhìn lại nữa. Đống tiểu mạch chưa đập xong còn chờ bà sàn đập lúa, sữa còn hâm trong lò, hai đứa trẻ từ sáng chưa được miếng nào vào bụng, bà già còn cơ man nào là việc phải lo, vì thế bà cứ cắm đầu cắm cổ về nhà, hoạ hoằn gặp người đàn bà đường, bà cũng chỉ lặng lẽ gật đầu chào, bắt chuyện mà cũng dừng chân. Và nếu có người quen nào hỏi bằng giọng thương hại: "Bà đưa tiễn ông quyền đấy à?, bà chỉ gật đầu cái.
      Vài hôm sau, có lúc tảng sáng bà Ilinhitna vắt sữa xong, đuổi mấy con bò ra ngõ, vừa sắp bước vào sân tiếng ì ầm trầm mà rền vẳng đến tai bà. Bà nhìn đông nhìn tây chẳng thấy trời có đám mây nào. lúc sau lại có tiếng ì ầm vẳng tới.
      - Thế nào, bà nghe thấy cái thứ nhạc ấy chưa? - Lão chăn bò dồn đàn bò xong hỏi bà.
      - Thứ nhạc chỉ chơi bè trầm thôi ấy mà.
      - Nghe có nghe thấy đấy, nhưng tôi chẳng hiểu tiếng gì cả.
      - Chẳng bao lâu hiểu thôi. Đến lúc nào chúng nó từ bên kia sông nã vào thôn hiểu ngay? Đó là pháo binh của chúng nó bắn đấy. Chúng nó làm xổ ruột xổ gan các ông lão của thôn ta đấy…
      Bà Ilinhitna làm dấu phép, lặng lẽ bước vào trong cổng xép.
      Từ hôm ấy tiếng hoả lục pháo binh vang tới ngớt bốn ngày liền. Những tiếng nổ nghe nhất lúc sáng sớm. Nhưng khi có gió đông bắc đến giữa trưa vẫn còn nghe thấy tiếng vọng ầm ì của những trận chiến đấu ở xa. Mọi công việc ngưng lại trong phút các sân đập lúa, những người đàn bà làm dấu phép, thở dài thườn thượt, nhớ tới những người thân , rì rầm vài câu kinh rồi những con lăn bằng đá lại tiếp tục kêu trầm trầm sân đập lúa, những đứa trẻ lại thúc những con bò con ngựa rảo bước, công việc lao động hàng ngày lại lấy lại cái quyền bất khả xâm phạm của nó.
      ***
      Những ngày cuối tháng Tám đẹp trời và tạnh ráo cách lạ lùng. Gió rắc bụi trấu lên khắp thôn, mùi rơm hắc mạch đập xong xông lên ngọt ngọt, mặt trời thiêu đốt thương tiếc, nhưng muôn vật đều làm người ta cảm thấy rằng mùa thu còn lâu la gì nữa.
      Ngoài bãi chăn của thôn, màu xám của ngải cứu rữa hết hoa chuyển thành màu trắng bệnh. Ngọn của những cầy tiêu huyền bên kia sông Đông đều vàng hoe. Trong các mảnh vườn, mùi táo mùa thu toả ra thơm hơn, những đường chân trời đằng xa sáng sủa, ra vẻ trời thu lắm rồi, và những cánh đồng vắng tanh xuất những đàn sếu di cư đầu tiên.
      con đường của các vị Ghet-man, hết ngày nọ qua ngày kia, thấy những đoàn xe chở đồ quân trang quân dụng nối đuôi nhau chạy từ tây sang đông qua sông Đông. thấy những người chạy nạn xuất trong các thôn ven sông. Họ cho biết rằng quân -dắc vừa chiến đấu vừa rút lui. Có người chắc chắn rằng cuộc rút lui nầy được thực theo kế hoạch, nhằm mục đích dụ quân Đỏ vào sâu rồi bao vây tiêu diệt. Dân chúng thôn Tatarsky có người bắt đầu kín đáo sửa soạn ra . Họ cho bò ngựa ăn uống béo tốt, ban đêm chôn thóc lúa và những cái hòm đựng đồ đạc quí giá xuống những cái hố. Tiếng hoả lực pháo binh lặng thời gian nhưng đến ngày mồng năm tháng Chín lại nổ ra mạnh hơn và ngày nay nghe càng rành rọt, đáng sợ hơn. Các trận chiến đấu điễn ra cách sông Đông chừng bốn mười vec-xta về hướng đông bắc thôn Tatarsky. ngày sau, cả ở phía tây, thượng lưu cũng có tiếng nổ ầm ầm. Mặt trận ràng lan tơi vùng sông Đông.
      Sau khi được biết rằng phần lớn bà con trong thôn sửa soạn rút lui, bà Ilinhitna cũng bàn với Dunhiaska về chuyện ra . Trong tâm trạng vừa do dự vừ hoang mang bà biết nên làm như thế nào với công việc làm ăn và nhà cửa, biết mình nên vứt bỏ hết thảy mà ra cùng với mọi người hay nên ở lại. Trước khi ra mặt trận, ông Panteley Prokofievich cũng có về việc đập lúa, về vụ cày mùa thu, về gia súc, nhưng chẳng đả động cầu nào đến vấn đề nếu mặt trận lan gần đến thôn Tatarsky làm thế nào để phòng bất trắc, bà Ilinhitna quyết định như thế nầy: Dunhiaska cùng hai đứa trẻ với bà con nào đó trong thôn, mang theo những đồ có giá trị nhất, còn mình cứ ở lại, dù trong trường hợp thôn xóm bị Hồng quân chiếm được.
      Đến đêm mười bảy tháng Chín, bỗng nhiên thấy ông Panteley Prokofievich về nhà. Ông bộ về từ nơi gần thị trấn Kazanskaia, phờ phạc và hung hãn. Sau khi nghỉ ngơi chừng nửa giờ, ông ngồi vào bàn và ăn bữa mà bà Ilinhitna suốt đời chưa từng thấy bao giờ. Ông đánh sạch nồi gang xúp bắp cải nấu chay to bằng nửa thùng nước rồi lại vùi đầu vào món cháo lúa mì.
      Bà Ilinhitna kinh ngạc vỗ tay đánh đét cái.
      - Lạy chúa tôi, ông ăn uống cái kiểu gì thế, ông Prokofievich! cứ như ông vừa phải nhịn đói ba ngày liền ấy?
      - Thế bà tưởng tôi được ăn rồi phải , cái mụ già ngu ngốc nầy? Đúng là ba ngày nay tôi chưa hớp được hớp cháo loãng nào vào miệng rồi đấy!
      - Nhưng sao thế, ở ngoài ấy người ta cho các ông ăn hay sao?
      - Cầu cho quỉ dữ cũng cho chúng nó ăn như thế! - Ông Panteley Prokofievich gừ gừ như con mèo và trả lời với đầy miệng cháo, - Đứa nào tháu được cái gì có cái đó mà bỏ vào miệng, nhưng tôi lại chưa học được cái nghề ăn cắp. Đối với những thằng trẻ như thế lại tốt vì lương tâm của chúng nó lại được tới hai kopek… Trong cuộc chiến tranh chết tiệt nầy, bàn tay của chúng nó lấy trộm thành thạo đến nỗi đầu tiên tôi còn hoảng lên, ngày càng hoảng sợ, nhưng rồi cuối cùng cũng thấy sợ nữa. Chúng nó nhìn thấy cái gì là lấy, là khiêng, là lôi tuốt… là cảnh Chúa Giêsu chịu tội chứ còn là chiến tranh nữa?
      - Đáng là ông nên ăn mạch quá nhiều như thế. Nếu lại xảy ra chuyện gì bây giờ. Xem kìa, bụng ông phễnh ra như bụng con nhện rồi còn gì?
      - Thôi im . Mang sữa ra đây, nhưng lấy cai lon nào to vào!
      Nhìn ông già ăn như kẻ sắp chết đói chết khát, bà Ilinhitna cầm nổi nước mắt.
      - Thế nào, ông về hẳn đấy chứ? - Bà thấy ông Panteley Prokofievich quần nhau với món cháo xong bèn hỏi.
      - Chuyện ấy còn phải chờ xem… - Ông trả lời cách mập mờ.
      - Có lẽ các ông, các cụ già ấy, được người ta cho về nhà đấy nhỉ?
      - Họ chẳng cho ai về đâu. Bọn Đỏ áp sát sông Đông rồi còn cho ai đâu? Tôi tự ý bỏ về đấy.
      - Nhưng ông làm thế rồi sau nầy có phải chịu trách nhiệm hay ? - Bà Ilinhitna lo lắng hỏi.
      - Nếu bị chúng nó tóm cổ có lẽ phải chịu trách nhiệm đấy.
      - Thế sao, ông phải trốn à?
      Thế bà nghĩ rằng tôi ra bãi chơi và thăm nhà nọ nhà kia đấy phải ? Phì, cái của đần độn ngu ngốc? - Ông Panteley Prokofievich nhổ toẹt bãi nước bọt, đầy vẻ tức tối, nhưng bà già đâu có chịu yên:
      - Chao ôi, thế tội to lắm đấy? Nếu người ta bắt được ông nhà ta bị tai hoạ.
      - Hừ, mặc cho chúng nó bắt, cho chúng nó tống cổ vào nhà tù còn hơn là kéo lê khẩu súng trường khắp các vùng đồng cỏ. - ông Panteley Prokofievich bằng giọng mệt mỏi. - Tôi chẳng còn trẻ gì nữa mà ngày nào cũng phải bốn mươi vec-xta, đào chiến hào, chạy lên xung phong, lăn lê bò toài, và tránh đạn cho chúng nó? Quỷ dữ cũng phải trốn bỏ chúng nó thôi! Tôi có ông bạn đồng đội dân vùng sông Krivaya, ông ấy bị viên đạn bắn trúng phía dưới xương bả vai bên trái, thế là hai chân giãy cái nào nữa. Những cái trò như thế chẳng có thú vị gì đâu!
      Ông già đem khẩu sung trường và cái túi dết đựng đạn vào nhà trấu để giấu , nhưng khi bà Ilinhitna hỏi cái áo choàng kiểu nông dân của ông đâu ông sầm mặt trả lời cách miễn cưỡng.
      - Đem đổi lấy cái mạng rồi. là vứt đúng hơn. Ở gần thị trấn Sumilinskaia chúng tôi bị chúng nó đuổi sát đến nỗi cái gì cũng phải vứt bỏ hết và quàng chân lên cổ mà chạy như những thằng điên. Đến lúc ấy còn đầu óc nào mà nghĩ tới cái áo choàng nữa. Có đứa mặc cái áo da ngắn mà cũng phải quẳng . Nhưng bà cần đến áo choàng ấy làm quỷ quái gì mà lại nhắc tới nó? Nếu là cái áo tốt chẳng làm gì, đằng nầy lại đúng là cái áo của thằng ăn mày…
      ra đây là chiếc áo choàng còn tốt, còn mới, nhưng tất cả những cái gì bị mất , ông già đều còn dùng vào việc gì được nữa. Ông vốn có thói quen tự an ủi mình như thế. Bà Ilinhitna cũng biết thế, vì vậy bà tranh cãi thêm gì về chuyện cái áo choàng tốt hay xấu.
      Đêm hôm ấy, cả nhà bàn với nhau rồi quyết định: bà Ilinhitna và ông Panteley Prokofievich cùng hai đứa bé ở lại nhà đến cùng để coi giữ của cải, chôn chỗ lúa đập xong, còn Dunhiaska đánh đôi bò mộng già đem hòm xiểng tới nhà người họ hàng ở vùng sông Tria, tại thôn Latysev.
      Nhưng kế hoạch ấy được thực cách trọn vẹn.
      Buổi sáng, vừa đưa tiễn Dunhiaska lên đường đến giữa trưa đội thanh tiễu đến thôn Tatarsky, gồm toàn những thằng -dắc Kalmys vùng Xansk. Có lẽ người nào trong thôn trông thấy ông Panteley Prokofievich mò về nhà, vì thế chỉ giờ sau khi đội thanh tiễu tiến vào thôn, bốn tên Kalmys phi ngựa, ông Panteley Prokofievich leo lên tầng sát mái, nhanh và khéo cách lạ lùng. Bà Ilinhitna bước ra đón khách.
      - Lão già nhà mụ ở đâu? - tên Kalmys vừa hỏi vừa xuống ngựa và bước qua trước mặt bà Ilinhitna vào cổng xếp. đeo lon thượng sĩ, thân hình cân đối, coi vẻ có tuổi.
      - Ở ngoài mặt trận. Nếu còn ở đâu được nữa? - Bà Ilinhitna trả lời bằng giọng thô bạo.
      - Đưa vào nhà, tôi khám.
      - Nhưng tìm cái gì cơ chứ?
      - Tìm lão già của mày. Chà biết thẹn! - Già thế nầy còn láo! - tên hạ sĩ còn trẻ lắc đầu ra ý trách móc, vừa vừa nhe hai hàm răng trắng nhởn sát sin sít.
      - Đừng có nhe răng nhe lợi ra, đồ bẩn thỉu? bảo có là có mà?
      - lắm mồm nữa, dẫn vào nhà? chúng tôi khắc ! - Tên Kalmys bực mình cách nghiêm khắc rồi kiên quyết bước lên thềm, hai cái chân vòng kiềng dạng rất rộng.
      Chúng xem xét các phòng rất cẩn thận, với nhau bằng tiếng Kalmys rồi hai tên ra xem những căn nhà xép ngoài sân và tên lùn choằn choằn xốc cái quần ngựa rộng thùng thình có đính nẹp, bước ra phòng ngoài. có cái mũi tẹt dí, khuôn mặt rỗ nhằng nhịt, da rám nắng nom như màu đen. Qua khoảng sáng giữa hai cánh cửa mở toang, bà Ilinhitna nhìn thấy tên Kalmys nhảy lên, bám hai tay vào sà nhà rồi leo rất lẹ lên . Năm phút sau nhảy rất khéo từ đó xuống, và sau lưng , ông Panteley Prokofievich è è trơng họng, tụt xuống rất cẩn thận, người bê bết những đất, mạng nhện vương đầy râu. Ông nhìn bà lão mím chặt môi đứng đấy và :
      - Bị chúng nó mò ra rồi, cái bọn khốn khiếp. Đúng là có đứa nào báo…
      Ông Panteley Prokofievich bị áp giải lên thị trấn Karginskaia, nơi toà án binh dã chiến đặt trụ sở. Bà Ilinhitna chỉ khóc thút thít chút rồi lại lắng nghe tiếng hoả lực pháo binh tiếp tục nổ ầm ầm, tiếng súng máy tằng tằng mồn bên kia sông Đông, sau đó bà bước vào nhà thóc để giấu dù chỉ ít lúa mì.
      Chú thích:
      (1) Cúc thỉ xa dùng để kết vòng hoa tang (ND)
      (2)Grigorievich nghĩa là con trai của Grigori (ND)

    3. meobong271

      meobong271 Active Member

      Bài viết:
      490
      Được thích:
      32
      Chương 207



      Mười bốn tên đào ngũ bị bắt chờ xét xử. Toà án làm việc chớp nhoáng và nhàng gì cả. Chánh án là tên đại uý nhiều tuổi. hỏi bị cáo họ tên, tên theo bố, cấp bậc và phiên hiệu đơn vị, tìm hiểu xem bị cáo đào ngũ bao nhiêu lâu rồi thầm trao đổi vài câu với hai tên thẩm phán: tên thiếu uý cụt tay và lão quản râu xồm, mặt hổ phù, béo phị nhờ ăn ngồi rồi, và chỉ thế là tuyên án ngay. Phần lớn những tên đào ngũ bị phạt bằng nhục hình tức là bị đánh bằng roi. Bọn Kalmys chấp hành các bản án trong những ngôi nhà có người ở đặc biệt dùng cho việc nầy. Cái Quân đội sông Đông thiện chiến nầy có quá nhiều lính đào ngũ thành thử còn có thể công khai đem chúng ra đánh đòn trước toàn thể nhân dân như năm 1918 được nữa…
      Theo thứ tự gọi tên, ông Panteley Prokofievich là bị cáo thứ sáu. Ông hồi hộp đứng trước cái bàn của các quan toà, mặt mày nhợt nhạt, hai tay áp chặt đường chỉ quần.
      - Họ gì? - Tên đại uý hỏi nhưng ngước mắt nhìn bị cáo.
      - Bẩm quan lớn, Melekhov.
      - Tên, tên theo bố?
      - Bẩm quan lớn, Panteley Prokofievich?
      Tên đại uý rời mắt khỏi tờ giấy, nhìn ông gì chằm chằm.
      - Quê quán ông ở đâu?
      - Bẩm quan lớn, thông Tatarsky trấn Vosenskaia.
      - Ông là bố của trung uý Melekhov Grigori có phải ?
      - Thưa đúng đấy ạ, bẩm quan lớn, là bố đấy ạ - Ông Panteley Prokofievich lập tức lấy lại ngay can đảm vì ông cảm thấy ngọn roi rời ra xa dần cái thân già của mình.
      - Ông hãy nghe đây, ông biết thẹn hay sao? - Tên đại uý hỏi, hai con mắt sói móc của cứ nhìn chằm chằm vào khuôn mặt tiều tụy của ông Panteley Prokofievich.
      Đến lúc nầy ông già phá cả điều lệnh quân đội, ông đặt tay trái lên ngực, giọng mếu máo.
      - Bẩm quan lớn, bẩm quan lớn đại uý! Xin quan lớn cho tôi được suốt đời cầu Chúa che chở quan lớn, xin quan lớn đừng ra lệnh đánh tôi? Tôi có hai thằng con trai lập gia đình… thằng cả bị bọn Đỏ giết… Tôi có cháu gọi bằng ông, chả nhẽ lại đem kẻ già nua ốm yếu như tôi ra mà đánh hay sao?
      - Già cả chúng tôi cũng dạy cho biết lính phải như thế nào. Thế tưởng đào ngũ bỏ đơn vị người ta đem huân chương tặng cho đấy phải ? - Gã thiếu uý cụt tay ngắt lời ông, hai bên mép giật giật như trong cơn thần kinh.
      - Tôi cần đến huân chương làm gì… xin các ngài cứ cho tôi trở về đơn vị tôi phục vụ trung thành và ngay thẳng… Chính tôi cũng hiểu vì sao mình lại bỏ như thế có lẽ chính là do quỷ dữ làm mê muội đầu óc… - Ông Panteley Prokofievich còn đầu đũa những gì gì về thóc lúa chưa đập xong, về cái chân thọt của ông, về các công việc làm ăn phải vứt bỏ, nhưng tên đại uý giơ tay cho ông nữa, rồi ngả người về phía gã thiếu uý và thầm với gã rất lâu biết những gì. Gã thiếu uý gật đầu đồng ý và tên đại uý quay sang với ông Panteley Prokofievich:
      - Thôi được ông hết rồi chứ? Tôi có biết con trai ông, vì thế tôi lấy làm lạ rằng con như vậy mà bố lại như thế nầy. Ông bỏ đơn vị từ hôm nào? Trước đây tuần à? Sao thế, ông muốn bọn Đỏ kéo đến chiếm thôn ông, lột da ông à? Ông làm gương cho bọn trai tráng -dắc như thế à? Nếu theo đúng quân pháp chúng tôi phải đem ông ra xử và dùng nhục hình để phạt ông, nhưng vì tôn trọng cái hàm sĩ quan của con trai ông, nên tôi miễn cho ông khỏi chịu cái nhục đó. Ông là binh sĩ thường à?
      - Bẩm quan lớn, đúng đấy ạ.
      - Quân hàm?
      - Bẩm quan lớn, tôi là hạ sĩ.
      - Tước lon! - Tên đại uý gọi là "ông" nữa mà giật giọng ra lệnh cách thô lỗ - Ngay lập tức phải trở về đơn vị! phải báo cáo với đại đội trưởng rằng theo lời tuyên án của toà án binh dã chiến, mất hàm hạ sĩ. Có được tặng thưởng trong cuộc chiến tranh lần nầy hay trong các lần trước ? Thôi cút !
      Sung sướng sao cho xiết, ông Panteley Prokofievich bước ra ngoài, làm dấu phép trước cái nóc tròn của toà nhà thờ rồi…
      Vượt qua ngọn gò, theo đường cái, bỏ về nhà. "Chà lần nầy mình lẩn trốn theo kiểu ấy nữa! Chúng nó chẳng làm thế nào mà tìm ra được, dù có phái ba đại đội Kalmys đến tìm cũng thế thôi!" - Ông vừa nghĩ thầm vừa khập khiễng bước qua khoảng rạ mọc đầy cỏ dại.
      Ra đến đồng cỏ, ông quyết định rằng tốt nhất nên đường cái để khỏi bị những người qua lại chú ý: "Khéo chúng nó lại nghĩ ngay rằng mình đào ngũ. Nếu chạm trán với những thằng nhà binh quá nguyên tắc, chúng nó cho ăn roi mà chẳng cần xử xiếc gì đâu" - Ông bước từ khoảng đất cày ra con đường dùng về mùa hè, cỏ mọc um tùm, vừa vừa lên những điều mình nghĩ trong bụng và hiểu sao còn coi mình là kẻ đào ngũ nữa.
      Càng ra tới gần sông Đông càng gặp nhiều những chiếc xe tải của dân chạy loạn. Lại thấy diễn ra những cảnh tượng dạo mùa xuân, hồi quân phiến loạn rút lui sang bờ bên trái sông Đông. Khắp đồng cỏ, từ mọi nẻo thấy kéo dài những đoàn xe bò, xe ngựa chở đầy những đồ dùng làm ăn, những đoàn gia súc kêu rống ầm ĩ, những đàn cừu làm bụi bốc mù mịt như những đội kỵ binh hành tiến…
      Những tiếng bánh xe cót két, tiếng ngựa hí, tiếng người kêu la, tiếng vô số những vó ngựa lộp cộp, tiếng cừu be be, tiếng trẻ khóc, tất cả làm cho cánh đồng cỏ yên tĩnh rộng mênh mông tràn ngập những tiếng động đầy lo lắng, lúc nào ngớt:
      - Bố đâu thế, bố già? Quay trở lại thôi, bọn Đỏ theo sát chúng tôi đấy? - -dắc lạ mặt đầu quấn băng ngồi chiếc xe ngựa chạy qua kêu lên.
      - Đừng có bậy! Chúng nó ở đâu cơ chứ, cái bọn Đỏ ấy? - Ông Panteley Prokofievich luống cuống đứng lại.
      - Bên kia sông Đông? Chúng nó tiến tới gần Vosenskaia. Cụ sang với chúng nó hay sao thế?
      Ông Panteley Prokofievich cảm thấy yên tâm, ông lại tiếp và đến khi trời khắp hoàng hôn về tới thôn Tatarsky. Lúc xuống cái dốc, ông chăm chú nhìn quanh. Thôn xóm làm ông kinh ngạc vì chẳng trông thấy bóng người nào. Các phố đều vắng tanh. Nhà nào nhà nấy im phăng phắc, các cửa chớp đều đóng kín mít. tiếng người hay tiếng gia súc. Chỉ ngay bên bờ sông là có những người lại nhộn nhịp. Sau khi tới gần, ông Panteley Prokofievich nhận ra dễ dàng những tên -dắc có mang vũ khí kéo và khiêng những chiếc xuồng về thôn. Dân chúng bỏ thôn Tatarsky ra , ông Panteley Prokofievich bắt đầu thấy như thế. Ông rón rén rẽ vào ngõ, bước về nhà. Bà Ilinhitna và hai đứa trẻ ngồi trong bếp.
      - Ông đây rồi mà! - Thằng Misatka nhảy lên ôm cổ ông nó, sung sướng kêu lên.
      Bà Ilinhitna khóc oà lên vì sung sướng. Bà qua hai hàng nước mắt.
      - ngờ còn được trông thấy ông! Thôi ông Prokofievich ạ, ông muốn thế nào muốn, chứ ở lại đây tôi nghe đâu? Mặc cho tất cả cháy hết ra tro, tôi ngồi canh cái ngôi nhà trống huếch trống hoác nầy đâu. Bà con trong thôn bỏ gần hết rồi, thế mà tôi cứ ngồi lại với hai đứa trẻ như con mụ dại ấy? Ông thắng ngay con ngựa cái , chúng ta đâu cũng được! Nhưng người ta để cho ông à?
      - Để cho .
      - Cho về hẳn à?
      - Nếu bị chúng nó bắt lại là cho về hẳn…
      - Nầy, ở đây phải là chỗ để ông lẩn trốn đâu! Sáng hôm nay, lúc bọn Đỏ bên kia sông sả súng bắn sang, bà cháu tôi sợ sợ là.
      Trong lúc chúng nó bắn, bà cháu tôi cứ ngồi lì dưới hầm nhà. Nhưng bây giờ chúng nó bị xua rồi. em -dắc có đến nhà ta xin sữa và khuyên nên khỏi nơi nầy.
      - Bọn -dắc ấy phải là thôn nhà à? - Ông Panteley Prokofievich vừa hỏi thêm vừa nhìn kỹ vết đạn mới bắn vào khung cửa.
      - , người ở đâu ấy, có lẽ ở nơi nào đó vùng sông Khop.
      - Nếu thế phải thôi. - Ông Panteley Prokofievich trong tiếng thở dài.
      Gần đến tối, ông đào cái hố trong nhà để phân khô, đổ xuống bảy túi lúa mì, lấp lại cẩn thận rồi lại đổ phân khô lên. Trời vừa tối là ông thắng con ngựa cái vào chiếc xe , xếp lên hai chiếc áo choàng, túi bột, ít kê, con cừu trói chân, buộc cả hai con bò cái vào cái bục đằng sau xe, rồi cho bà Ilinhitna cùng hai đứa trẻ ngồi lên và :
      - Thôi, bây giờ vạn nhờ Chúa! - Sau khi ra khỏi cổng, ông trao dây cương cho bà già, đóng cổng, và cho đến lúc cái xe tới ngọn gò, ông cứ sụt sịt đưa tay áo trermen lên lau nước mắt, bên cạnh chiếc xe .

    4. meobong271

      meobong271 Active Member

      Bài viết:
      490
      Được thích:
      32
      Chương 208


      Ngày mười bảy tháng Chín, các đơn vị thuộc binh đoàn xung kích của Sorin tiến tới sát sông Đông sau chặng tiến quân ba mươi vec-xta. Từ sáng ngày mười tám, các đại đội pháo Hồng quân gầm lên từ cửa sông Medvedicha đến thị trấn Kazanskaia. Sau đợt hoả lực chuẩn bị ngắn ngủi của pháo binh, bộ binh chiếm các thôn ven sông Đông và ba thị trấn Bukanovskaia, Elanskaia, Vosenskaia. Chỉ trong ngày, quân Trắng bị quét sạch bờ bên trái sông Đông đoạn hơn trăm năm mươi vec-xta.
      Các đại đội -dắc rút lui, vượt sông Đông cách có trật tự tới những vị trí chuẩn bị từ trước. Chúng nắm được trong tay tất cả các phương tiện vượt sông. Nhưng cầu Vosenskaia chỉ thiếu chút nữa là bị Hồng quân chiếm được. Quân -dắc chất rơm ở gần đấy và đổ sẵn dầu lên các ván cầu, chỉ chờ rút lui là châm lửa đốt. Nhưng giữa lúc chúng sắp sửa đốt tên liên lạc phi ngựa tới với cái tin cho biết rằng đại đội của trung đoàn 37 rút từ thôn Perevodnyi tới Vosenskaia, ra chỗ vượt sông. Đại đội tới muộn cho ngựa phi nước đại tới cái cầu giữa lúc bộ binh của Hồng quân tiến vào thị trấn. Dưới hoả lựa súng máy, quân -dắc vẫn kịp phi ngựa qua cầu rồi đốt cầu ngay sau lưng họ. Chúng bị chết và bị thương hơn mười tên và mất số ngựa cũng bằng ngần ấy.
      Đến cuối tháng Chạp, hai trung đoàn 22 và 23 của sư đoàn Hồng quân số 9 vẫn giữ được bờ bên trái sông Đông. Con sông ngăn cách hai bên. Hồi ấy chỗ rộng nhất quá tám mươi xa-gien, có nơi chỉ còn ba mươi. Hồng quân có những hành động tích cực để vượt sông: ở chỗ có thể lội qua được, họ cũng có thử lần, nhưng lại bị đánh bật. suốt mặt trận ở khu vực ấy, hai bên bắn nhau kịch liệt hai tuần liền bằng hoả lực pháo binh và súng trường. Quân -dắc chiếm được những điểm cao ở ngay ven bờ, kiểm soát được vùng chung quanh, chúng bắn quét những đám quân địch tập trung ở những chỗ ra sông cho họ tiến tới bờ sông lúc ban ngày. Nhưng vì các đại đội -dắc trong khu vực ấy là những bộ phận kém nhất về sức chiến đấu (toàn là những tên già lão và non trẻ từ mười sáu đến mười chín) nên chính chúng cũng tìm cách vượt sông để đuổi Hồng quân và tấn công sang bờ bên trái.
      Sau khi rút lui sang bờ bên phải sông Đông, ngay hôm đầu quân -dắc cứ tưởng nhà cửa trong các thôn bị Hồng quân chiếm đóng lập tức làm mồi cho ngọn lửa, nhưng chúng hết sức ngạc nhiên vì thấy ở bờ bên trái chẳng có đám khói nào bốc lên. Hơn nữa những người dân bên kia sông đêm đêm lẻn sang còn cho biết rằng các tài sản bị Hồng quân lấy gì cả và nếu họ có mua đồ ăn thức uống đến quả dưa, hũ sữa, họ cũng trả rộng rãi bằng tiền Xô viết.
      Điều đó làm cho quân -dắc hoang mang và hết sức thắc mắc. Chúng cứ tưởng rằng sau cuộc nổi loạn, Hồng quân phải đốt trụi tất cả các thôn xóm và thị trấn bạo động. Chúng tin chắc rằng số dân còn lại, ít nhất cũng là cánh đàn ông, bị giết hại tàn nhẫn, nhưng theo những tin chính xác Hồng quân động tới ai trong số những người yên phận làm ăn, và nhìn tình hình chung có thể đoán rằng họ thậm chí nghĩ tới chuyện trả thù.
      Đêm mười chín, những tên -dắc vùng sông Khop phụ trách vọng gác trước mặt Vosenskaia quyết định tìm hiểu thêm về thái độ kỳ quặc nầy của quân địch. -dắc to mồm khum tay làm loa, gào lên:
      - Nầy cái bọn đỏ lông kia! Sao chúng mày đốt nhà của chúng ông ! Chúng mày có diêm hay sao? Nếu bơi sang bên nầy, chúng ông cho!
      Trong bóng tối có người trả lời gã, giọng oang oang:
      - Chúng tao tóm cổ được chúng mày tại chỗ, nếu thiêu chúng mày cả người lẫn nhà thể rồi!
      - Chúng mày nghèo xác ra như thế rồi à? còn có cách gì để đốt nữa à? - Gã -dắc vùng sông Khop hỏi to cách khiêu khích.
      Người ta trả lời gã, giọng bình thản và vui vẻ:
      - Nầy con đĩ Trắng kia, mày hãy bơi sang bên nầy , chúng tao châm cho ít lửa vào đũng quần. Rồi mày được gãi suốt đời?
      Hai bên vọng gác cứ thế chửi nhau và tìm mọi cách chọc tức nhau rất lâu. Họ bắn nhau đì đẹt vài phát rồi tất cả lại lặng .
      Đến mấy ngày đầu tháng Mười, chủ lực của Quân đội sông Đông gồm hai quân đoàn tập trung trong khu vực Kazanskaia Pavlovsk, chuyển sang tấn công. Quân đoàn sông Đông số Ba, với quân số 8.000 tay súng và hơn 6.000 tay gươm, đánh bật được sư đoàn Hồng quân số 56 và bắt đầu tiến quân có kết quả về hướng đông. Ít lâu sau Quân đoàn Hai của Konovalov cũng vượt qua sông Đông. Quân số của quân đoàn nầy phần lớn là kỵ binh, vì thế chúng có khả năng thọc sâu vào trận địa địch và giáng đòn chí mạng.
      Trước kia vẫn được dùng làm lực lượng dự bị của mặt trận, sư đoàn khinh binh số 21 của Hồng quân được đem ra sử dụng. Nó cũng ghìm giữ được đôi chút bước tiến của Quân đoàn sông Đông số Ba, nhưng cũng phải bắt đầu rút lui trước áp lực của hai quân đoàn -dắc phối hợp tác chiến. Ngày 14 tháng Mười, Quân đoàn -dắc số Hai đánh tan và gần như tiêu diệt toàn bộ Quân đoàn khinh binh số 14 của Hồng quân, sau trận chiến đấu ác kiệt. Trong tuần Hồng quân bị đánh bật khỏi bờ bên trái sông Đông về tới sát thị trấn Vosenskaia. Sau khi chiếm được bàn đạp tấn công rộng lớn hai quân đoàn -dắc dồn các đơn vị thuộc Tập đoàn quân số 9 của Hồng quân tới tuyến Ludzevo - Sirinki - Vorobirka, sau khi bắt sư đoàn 23 của Tập đoàn quân số 9 phải cấp tốc tổ chức lại mặt trận ở hướng tây, từ thị trấn Vosenskaia tới thôn Krutovsky.
      Gần như cùng lúc với Quân đoàn Hai của tên tướng Konovalov, cả Quân đoàn sông Đông số có mặt trong khu vực thị trấn Kirskaia cũng thường tập vượt sông trong phạm vi của nó.
      Hai sư đoàn Hồng quân số 22 và 23 ở sườn bên trái đứng trước nguy cơ bị bao vây. Tính tới tình huống đó, bộ chỉ huy Mặt trận Đông - Nam ra lệnh cho Tập đoàn quân số 9 rút về tuyến kéo dài từ cửa sông Ikorest qua Buturlinovca, Uxpenskaia, Chisanskaia, Kumygienskaia. Nhưng tập đoàn quân cũng cố thủ được tuyến đó. Vô số những đại đội -dắc rời rạc tổ chức sau cuộc tổng động viên từ bờ bên phải vượt sông Đông rồi sau khi hợp nhất với các đơn vị chính qui của Quân đoàn -dắc số Hai, chúng tiếp tục đánh dồn, bắt tập đoàn Hồng quân rút lui rất nhanh về phía bắc. Từ 24 đến 29 tháng Mười, quân Trắng chiếm được hai nhà ga Filonovo, Povorino và thành phố Novokhopesk. Tuy nhiên, dù trong tháng Mười Quân đội sông Đông dành được những thắng lợi to đến đâu, tinh thần của bọn -dắc còn cái tin tưởng nó làm cho chúng như mọc cánh dạo mùa xuân, hồi chúng tiến quân thắng lợi về địa giới phía bắc của Quân khu. Phần lớn bọn cựu chiến binh hiểu rằng thành công nầy chỉ là tạm thời và chúng thể nào giữ vững được quá mùa đông.
      Chẳng bao lâu tình hình Mặt trận miền Nam thay đổi hẳn. Thất bại của Tập đoàn quân tình nguyện trong trận đánh tơàn lực ở hướng Orlovsky - Kromsky cùng các hoạt động tài tình của kỵ binh Budionnyi trong khu vực Voronez quyết định kết cục của cuộc chiến: trong tháng Mười , Tập đoàn quân tình nguyện rút về phía nam, để hở sườn bên trái của Quân đội sông Đông và lôi cả nó cùng rút theo.

    5. meobong271

      meobong271 Active Member

      Bài viết:
      490
      Được thích:
      32
      Chương 209


      Ông Panteley Prokofievich cùng gia đình sống bình an vô ở thôn Latysev được hai tuần rưỡi. Vừa nghe tin Hồng quân rút khỏi sông Đông, ông sửa soạn trở về nhà. Khi chỉ còn chừng năm véc-xta là về tới thôn, ông tụt xe xuống với vẻ mặt rất kiên quyết và :
      - dẫn rệu bước như thế nầy, tôi thể nào chịu được nữa rồi? Buộc thêm hai con bò cái đáng nguyền rủa nầy làm thế nào chạy nước kiệu được. Mà chúng ta lôi chúng nó theo làm cái quái gì nhỉ! Dunhiaska! Cho hai con bò mộng đứng lại! Buộc hai con bò cái sang bên cái xe của mày, để tao cho nó chạy nước kiệu về nhà. Chưa biết chừng ở đấy, bao nhiêu nhà phụ nhà ngang chỉ còn đống tro…
      Sốt ruột thể nào chịu được nữa, ông cho hai đứa bé ngồi chiếc xe của mình sang chiếc xe rộng thênh thang của Dunhiaska, chuyển bớt đồ đạc sang bên đó cho đỡ nặng rồi với chiếc xe hẳn , ông cho con ngựa chạy nước kiệu con đường mấp mô. Mới chạy được vec-xta, con ngựa cái đổ mồ hôi đầm đìa. Nó chưa bao giờ bị chủ đối xử tàn nhẫn như thế nầy: ngọn roi lúc nào rời khỏi tay, ông luôn luôn thúc nó chạy nhanh hơn.
      - Ông đến làm con ngựa cái chạy đứt hơi mất thôi? Làm gì mà phi như hoá điên hoá cuồng thế nầy? - Bà Ilinhitna , hai tay cứ bám chặt lấy thành xe, mặt nhăn nhó vì bị xe lắc quá mạnh.
      - Dù sao nó cũng đến mồ tôi mà khóc đâu… Na-a-ào, cái con khốn kiếp nầy! Đổ mồ hôi ấy à? Đằng ấy, chưa biết chừng cả cơ nghiệp chỉ còn vài mẩu than cháy… - Ông Panteley Prokofievich rít lên qua hai hàm răng nghiến chặt.
      đúng như điều ông lo lắng: ngôi nhà vẫn còn khá nguyên vẹn, nhưng hầu hết các cửa sổ đều bị đập vỡ, cánh cửa ra vào bật khỏi bản lền, các bức tường thủng lỗ chỗ vì những vết đạn.
      Mọi thứ ngoài sân đều mang vẻ hoang tàn, thê lương. trái đạn pháo bắn sạt hẳn góc chuồng ngựa, qua thứ hai đào cái hố hình phễu sâu lắm ở gần cái giếng, phá nát cái khung gỗ thành giếng và làm gãy đôi cái cần kéo nước. Cuộc chiến tranh mà ông Panteley Prokofievich bỏ chạy tự nó dẫn xác đến ngôi nhà của ông, để lại sau nó những dấu vết dơ dáng khó coi của tàn phá. Song bọn -dắc vùng sông Khop đóng quân trong thôn còn gây ra cho nhà ông những thiệt hại lớn hơn. Ngoài sân nuôi gia súc, chúng làm đổ dãy hàng rào, chúng đào những đoạn chiến hào sâu bằng đầu người và để đỡ tốn công sức, chúng đỡ những bức tường của nhà thóc, lấy những khúc gỗ tròn lát che bên chiến hào. Chúng phá dãy tường bao bằng đá, làm những lỗ châu mai, súng máy, cho ngựa dẫm bừa bãi, nát hỏng mất nửa cây rơm, đốt hàng rào và làm ô uế cả căn nhà bếp dùng về mùa hè…
      thăm xong nhà và những gian nhà xép chung quanh sân, ông Panteley Prokofievich đưa hai tay lên ôm đầu. Lần nầy ông làm khác cái thói quen mọi khi là coi tất cả các của mất là chẳng có giá trị gì cả. Quỉ quái , làm thế nào mà ông có thể rằng tất cả những thứ mà ông chắt chiu hàn gắn kiếm được đều giá trị gì cả và chỉ đáng để phá ! căn nhà thóc phải là cái áo choàng nông dân, dựng được nó lên đâu phải mất ít tiền của.
      - như trước kia có cái nhà thóc bao giờ. -Bà Ilinhitna thở dài .
      Nhưng trước kia nó vẫn là cái nhà thóc đấy… - Ông Panteley Prokofievich lập tức trả lời ngay, nhưng chưa hết câu, ông khoát tay bỏ ra sân phơi.
      Những bức tường nhà bị những mảnh đạn pháo và những viên đạn súng trường, súng cối bắn hư hỏng, thủng lỗ chỗ như những bộ mặt rỗ, nom là ảm đạm, hoang tàn. Gió rú ù ù trong các căn phòng, bụi bám những cái bàn những chiếc ghế dài thành lớp dầy… phải mất nhiều giờ lắm mới có thể dọn dẹp, sắp xếp đâu vào đó Ngay hôm sau, ông Panteley Prokofievich cưỡi ngựa lên thị trấn và khó khăn gì lắm, cũng xin được của gã y sĩ quen biết tờ giấy chứng thực rằng vì có bệnh ở chân, người -dắc Melekhov Panteley thể bộ được và cần phải chạy chữa. Tờ chứng thực ấy giúp ông Panteley Prokofievich khỏi bị đưa ra mặt trận.
      Ông đem tờ giấy tới trình tên ataman và khi đến nhà công sở thôn, ông chống gậy, khập khiễng hết chân nọ đến chân kia để người ta dễ tin hơn.
      Đời sống trong thôn Tatarsky chưa bao giờ bận rộn và hỗn loạn như sau khi dân chúng rút lui trở về. Người ta từ nhà nọ sang nhà kia để tìm những đồ đạc bị bọn -dắc vùng sông Khop mang lung tung. Họ sục sạo ngoài đồng cỏ và dưới các khe núi để tìm những con bò lạc đàn. Thôn Tatarsky vừa bị hoả lựa pháo binh nã vào hôm đầu tiên cả đàn ba trăm con cừu ở đầu thôn biến đâu mất. Theo lời lão chăn cừu, đàn cừu ăn cỏ quả đạn pháo nổ ngay phía trước. Những con cừu hoảng lên ngoáy đuôi chạy lồng ra đồng cỏ rồi ai còn thấy chúng đâu nữa. Người ta lại tìm thấy đàn cừu ở cách thôn bốn mươi vec-xta, địa hạt trấn Elanskaia, tuần sau khi dân chúng quay trở về cái thôn bỏ hoang. Khi cừu được đưa về thôn, người ta kiểm lại thấy trong đàn có nửa là những con cừu của thôn khác, với những cái cái dấu lạ đánh tai, còn cừu của mình, cừu trong thôn thiếu mất hơn năm chục. Trong vườn rau nhà Melekhov thấy có cái máy khâu của nhà Bogatyrev, nhưng ông Panteley Prokofievich lại tìm thấy những tấm tôn kho thóc nhà mình sân đập lúa của nhà Anikey. Trong các thôn lân cận, tình hình cũng giống hệt như thế. Trong thời gian rất dài, dân chúng các thôn gần xa của vùng ven sông Đông vẫn còn tới thôn Tatarsky, và những khi gặp nhau, người ta còn hỏi mãi những câu như: "Ông bà có thấy con bò cái lông đỏ, trán hói, sừng bên trái bị gãy ?" " biết có con bò non tuổi, lông nâu lạc đến thôn ta nhỉ?".
      Có lẽ chỉ con bò non bị ninh trong những cái nồi của các đại đội -dắc và các xe nhà bếp dã chiến, song những người chủ bò bị hy vọng thúc đẩy vẫn còn ngang dọc rất lâu đồng cỏ, cho đến khi họ phải tin rằng phải vật gì mất rồi cũng tìm về được.
      Sau khi được miễn công việc nhà binh, ông Panteley Prokofievich tích cực sửa sang lại các căn nhà và dãy tường bao. Những đống lúa chưa đập xong vẫn còn nằm ngoài sân đập lúa, những con chuột háu ăn vẫn còn rúc trong đó, nhưng ông già chưa bắt tay vào việc đập lúa được, khi sân nhà còn trống huếch trống hoác, chẳng có rào dậu gì cả, nhà thóc mất tăm, và tất cả cơ ngơi còn mang cái vẻ gớm ghiếc như thế của tàn phá? Hơn nữa năm nay lại được mùa thu đẹp trời, việc đập lúa chẳng cần phải vội vã làm gì.
      Dunhiaska và bà Ilinhitna trát lại và quét vôi ngôi nhà, hết sức giúp ông Panteley Prokofievich xếp tạm dãy tường bao và làm các việc khác. Cả nhà hì hục tìm kiếm rồi cũng có được kính lắp lên cửa sổ Mọi người quét dọn nhà bếp sửa sang lại giếng nước. Ông già đích thân leo xuống dưới giếng, và đúng là ông bị cảm trong khi ở dưới ấy nên suốt tuần cứ ho sù sụ, hắt hơi; chiếc sơ-mi lúc nào cũng ướt đẫm mồ hôi. Nhưng ông chỉ uống mạch hết chai rượu nặng, rồi nằm giờ lâu cái bếp lò ấm áp là bao nhiêu bệnh tật đều tự nhiên bị xua đâu hết.
      Grigori vẫn biệt tăm. Mãi đến cuối tháng Mười ông Panteley Prokofievich mới ngẫu nhiên được biết rằng Grigori hoàn toàn khỏe mạnh và cùng trung đoàn của chàng đóng tại nơi nào đó ở tỉnh Voronez. -dắc thuộc trung đoàn của Grigori bị thương qua thôn cho ông biết tin đó. Ông già vui hẳn lên, ông sướng quá uống nốt chai rượu thuốc ngâm ớt cuối cùng, và sau đó khắp nơi chuyện, vẻ mặt kiêu hãnh như con gà trống non. Thấy ai qua ông cũng giữ lại :
      - Ông biết tin chưa? Thằng Grigori nhà tôi nó đánh chiếm Voronez đấy? Nghe hình như nó mới được thăng chức và bây giờ lại chỉ huy sư đoàn, hay chưa biết chừng, quân đoàn. Kiếm đâu ra được thằng đánh nhau giỏi như nó? Có lẽ chính ông cũng biết… - Ông già cứ thế mà bịa đặt. Ông cảm thấy ngứa ngáy, chỉ muốn chia sẻ niềm vui của mình và khoe khoang chút.
      - Con trai của ông vị hùng - Những người trong thôn với ông.
      Ông Panteley Prokofievich nháy mắt lia lịa:
      - Thế nó giống ai mà lại hùng? Tôi khoe, chứ hồi còn trẻ tôi chẳng thua gì nó đâu! Bị cái chân cái cẳng nó làm vướng bước, nếu bây giờ tôi ra gì rồi? sư đoàn dám , chứ đại đội tôi cũng biết cách nắm được đấy? Nếu chúng ta, những kẻ già cả ấy, ra trận cho nhiều tư lâu chiếm được Moskva rồi, chứ đâu đến nỗi cứ dẫm chân tại chỗ, chẳng làm thế nào trị được bọn mu-gích.
      Người cuối cùng chuyện với ông Panteley Prokofievich ngày hôm ấy là lão già Beskhirnov. Lão qua nhà Melekhov, thế là ông Panteley Prokofievich bỏ lỡ cơ hội, giữ lão lại ngay.
      - Nầy, hượm lát nào, ông Philip Apghevich? Xin chào ông. Ông hãy vào đây lát, chúng ta chuyện với nhau.
      Lão Beskhirnov bước tới, chào hỏi.
      - Ông nghe tin thằng Griska nhà tôi nó làm những trò gì chưa? - Ông Panteley Prokofievich hỏi.
      - Nhưng có chuyện gì thế?
      - Người ta lại trao cho nó sư đoàn rồi! Nó điều khiển bộ máy ghê gớm như thế đấy!
      - sư đoàn ấy à?
      - Hẳn chứ lị, sư đoàn?
      - Thế cơ à!
      - Đúng như thế đấy! Có phải chàng cha căng chú kiết nào cũng được người ta trao cho sư đoàn đâu, ông thấy thế nào?
      - Tất nhiên rồi.
      Ông Panteley Prokofievich kiêu hãnh nhìn người chuyện với mình, và tiếp câu chuyện làm ông nở ruột nở gan:
      - Chúng tôi sinh ra được thằng con làm tất cả mọi người phải ngạc nhiên. Đầy ngực huân chương, theo ông như vậy là thế nào? Lại còn biết bao nhiêu lần bị thương bên ngoài và chấn thương nữa? đứa khác có lẽ mất mạng từ bao giở bao giờ, nhưng nó vẫn chẳng sao cả, những chuyện ấy đối với nó cứ như nước đổ đầu vịt. , vùng sông Đông êm đềm còn chưa tuyệt nòi những thằng -dắc chính cống đâu?
      - Tuyệt nòi chưa tuyệt nòi, song hiểu sao ít thấy chúng nó làm được việc gì cho ra trò. - Lão già Beskhirnov có vẻ trầm ngâm, mà lão vốn dĩ phải là tay hay chuyện lắm.
      - Hừ, sao lại ít thấy việc gì ra trò? Ông xem đấy, chúng nó tống cổ được bọn Đỏ , bây giờ tiến quá Voronez, sắp tới gần Moskva rồi.
      - Nhưng hiểu sao mãi chẳng thấy chúng nó tiến tới?
      - thể chóng vánh được đâu, ông Philip Apghevich ạ. Ông phải hiểu là trong chiến tranh, hấp tấp chẳng làm được trò trống gì đâu. Rặn vội đẻ con mù đấy. Trong cái chuyện nầy, tất cả đều phải làm cách từ tốn, theo bản đồ, và như họ là, là theo kế hoạch… Cái quân mu-gích ấy, ở nước Nga chúng nó đông nghìn nghịt, cứ như đám mây đen, còn em -dắc chúng ta, thử hỏi có được bao nhiêu? Bất quá dúm?
      - Tất cả những chuyện ấy đều phải như thế đấy, nhưng có lẽ em mình còn có thể giữ được lâu la nữa đâu. Mùa đông tới có lẽ lại phải chờ có khách đến thăm, bà con ta thường như thế đấy.
      - Nếu bây giờ chiếm được Moskva trong tay chúng nó chúng nó mò được tới đây, điều đó ông đúng đấy.
      - Thế ông nghĩ rằng chúng nó chiếm được hay sao?
      - Phải chiếm lấy mới được, nhưng được hay là còn tuỳ ý Chúa. Chẳng nhẽ chúng ta trị nổi chúng nó hay sao?
      - Ôn dịch nào biết được. Thế còn ông, ông thôi hẳn chuyện đánh đấm rồi hay sao?
      - Tôi còn có thể đánh đấm gì được nữa? Nhưng nếu bị cái bệnh ở chân tôi mở mắt cho chúng nó thấy là choảng nhau với quân địch phải làm như thế nào rồi? Cái lứa có tuổi chúng ta vốn là những con người kiên định vững vàng.
      - Song nghe những ông già kiên định vững vàng ấy quàng chân lên cổ chạy trốn bọn Đỏ ở bên kia sông Đông, đến nỗi chẳng ông nào còn giữ được chiếc áo lông ngắn: vừa chạy vừa cởi bỏ quần áo và quẳng , cuối cùng trần như nhộng. Người ta pha trò rằng khắp đồng cỏ đều vàng hoe vì những chiếc áo lông ngắn, cứ như nở đầy uất kim hương ấy.
      Ông Panteley Prokofievich lườm lão Beskhirnov cái và bằng giọng lạnh như tiền:
      - Theo tôi đó chỉ là láo! Phải, có lẽ cũng có người phải quẳng bớt quần áo cho nhưng thiên hạ lại thổi phồng, láo cho to ra gấp trăm lần ấy! cái áo choàng bằng dạ có phải là cái gì ghê gớm lắm đâu, chi cái áo lông ngắn? Cái mạng con người có quý hơn , Tôi thử hỏi ông? Hơn nữa phải ông già nào cũng có thể mặc nhiều quần áo mà chạy nhanh được. Trong cái cuộc chiến tranh chết tiệt nầy cần phải có cặp chân như chân chó săn, song những người như tôi chẳng hạn kiếm đâu ra những cái chân như thế? Mà ông Philip Aghevich ạ, ông đau lòng về việc gì cơ chứ? Cầu Chúa tha tội, ông cần những cái áo lông ngắn ấy làm cái quái quỉ gì? Vấn đề phải là ở những cái áo lông ngắn hay những cái áo choàng bằng dạ, mà ở chỗ phải đánh quân địch cho có kết quả, tôi như thế có đúng hay ? Thôi, tạm biệt ông, nếu tôi chuyện với ông mãi công việc lại phải gác lại Thế nào còn con bò non của ông, ông tìm thấy chưa? Vẫn tìm à? có tăm hơi gì à? Chà, đúng là những thằng vùng sông Khop thịt nó rồi, cầu cho chúng nó ăn vào đều hóc mà chết! Còn về chuyện chiến tranh ông chớ có hoài nghi làm gì: em ta đánh bại bọn mu-gích cho mà xem? - Ông Panteley Prokofievich xong khập khiễng bước lên thềm, coi bộ rất là oai hùng.
      Nhưng xem ra đánh bại "bọn mu-gích" đâu phải là chuyện dễ dàng như thực … Đợt tấn công gần đây nhất của quân -dắc phải có sứt mẻ. giờ sau, tin vui phủ bóng đen lên tinh thần vui vẻ của ông Panteley Prokofievich. Ông vát đoạn gỗ tròn làm cái khung giếng có nghe tiếng đàn bà kêu gào kể lể than khóc người chết. Tiếng kêu khóc nghe mỗi lúc gần. Ông Panteley Prokofievich bảo Dunhiaska ra xem có chuyện gì.
      - Mày thử chạy ra xem ngoài ấy có ai chết thế. - Ông vừa vừa cắm phập lưỡi rìu xuống cái bệ bổ củi.
      Chẳng mấy chốc Dunhiaska quay về với cái tin người ta vừa đưa từ mặt trận Fitlonovo về ba gã -dắc bị giết. Anikey, Khristonhia và thằng thanh niên mười bảy tuổi ở đầu kia thôn.
      Ông Panteley Prokofievich nghe tin kinh ngạc quá vội bỏ mũ xuống làm dấu phép.
      - Cầu cho họ được hưởng phúc nơi thiên đường! Xưa kia nó là tay -dắc cừ khôi biết bao… - Ông vừa bằng giọng chua chát vừa nhớ tới Khristonhia và cái hôm mới đây ông cùng từ thôn Tatarsky tới địa điểm lấy quân.
      Ông thể nào làm việc được nữa. Mụ vợ của gã Anikey gào lên như bị chọc tiết, tiếng than khóc kể lể của mụ làm trái tim của ông như ngừng đập. Để khỏi phải nghe những tiếng kêu thất thanh của người đàn bà, ông đóng chặt cánh cửa rồi bỏ vào trong nhà. Ở phòng trong, Dunhiaska lắp bắp kể cho bà Ilinhitna nghe.
      - Mẹ của con ạ, con nhìn vào thấy cái đầu của Anikey hầu như còn nữa, ở chỗ ấy chỉ có đống gì nhão nhoét. Chao ôi, mà sợ khiếp được! Đứng cách vec-xta còn ngửi thấy mùi thối hoăng… Cũng chẳng hiểu họ còn mang về đây làm gì!
      Còn Khristonhia nằm ngửa, đầy cả cái lòng xe, hai chân lõng nhõng dưới cái áo ca-pốt… Khristonhia sạch , trắng trắng là, trắng cứ như bột ấy! Chỉ dưới con mắt bên phải có cái lỗ bằng đồng mười kopek và phía sau tai thấy có máu đọng.
      Ông Panteley Prokofievich điên tiết nhổ toẹt bãi nước bọt, bước ra sân lấy cái rìu và cái mái chèo rồi khập khiễng ra sông Đông.
      - Mày với bà là ông sang bên kia sông Đông chặt củi nhé. Nghe chưa nào, thằng cháu của ông? - Ông trông thấy thằng Misatka chơi bên cạnh nhà bếp bèn vừa vừa bảo nó.
      Mùa thu tịch mịch và dịu dàng ngự trị trong khu rừng bên kia sông Đông. Lá khô rụng loạt soạt từ những cây tiêu huyền. Những bụi tầm xuân như bị bọc kín trong những đám lửa và giữa những cái lá thưa thớt, những đám quả đỏ ra rừng rực như những cái lưỡi lửa. Khắp khu rừng đều tràn ngập cái mùi hăng hắc của vỏ cây sồi mục, át tất cả các mùi khác. Mặt đất mọc đầy những dây dâu dại, bám rất chắc. Những chùm dâu chín màu xanh xám lẩn rất khéo ánh sáng mặt trời dưới những lớp nhánh ngoằn ngoèo đan vào nhau. Trong những chỗ có bóng rợp, sương mai còn đọng lại cỏ khô đến giữa trưa. cái mạng nhện bám đầy sương lóng lánh như bạc. Bầu khí lặng tờ chỉ bị ảnh hưởng bởi tiếng mổ thành thạo của mấy con chim gõ mõ và tiếng ríu rít của những con sáo thích ăn thanh lương trà. Vẻ đẹp trầm lặng và trang nghiêm của khu rừng trấn tĩnh được tâm thần ông Panteley Prokofievich. Ông bước nhàng giữa những bụi cây đưa chân bới bới lớp lá rụng ẩm ướt, bụng bảo dạ:
      "Cuộc đời, nó là thế đấy: mới hôm nào còn sống mà bây giờ được người ta rửa xác cho rồi, thằng -dắc như thế mà cũng bị chúng nó bắn chết? Cứ nghĩ là mới hôm nào nó còn đến thăm nhà, hôm vớt con Daria, nó văn còn đứng bên bờ sông? Chao ôi, Khristonhia, Khristonhia! Cả đến mà cũng bị viên đạn của quân địch nó tìm thấy ư… Lại còn Anikey nữa… trước kia là tay vui tính biết bao, hay rượu, khỏe cười, thế mà bây giờ cũng còn nữa, cũng hoá ra người thiên cổ rồi…" ông Panteley Prokofievich nhớ lại những lời Dunhiaska kể, và bỗng nhiên ông hồi tưởng cách hết sức ràng khuôn mặt tươi cười, râu ria như mặt quan hoạn của Anikey, nhưng thể nào tưởng tượng được ra gã Anikey ngày nay tắt thở, với cái đầu nát như tương. Rồi ông chợt nhớ lại câu chuyện với lão Beskhirnov, bèn tự trách mình: "Mình làm cho Chúa giận, mình khoác lác về thằng Grigori là sai. Chưa biết chừng trong lúc nầy thằng Grigori nằm lại ở nơi nào đó, bị đạn nổ nát ra rồi. Cầu Chúa tha cho cái tai nạn ấy! Nếu hai đứa già nua chúng con rồi sống như thế nào?".
      con cun cút rừng lông nâu bỗng bay vụt lên từ dưới bụi cây làm ông Panteley Prokofievich run bắn lên vì bất ngờ. Ông thẫn thờ nhìn theo đường bay vụt chéo của con chim rồi lại tiếp.
      Bên cái đầm , ông chọn được vài bụi câu, bèn bắt đầu chặt. Ông vừa làm việc vừa cố hết sức nghĩ ngợi về chuyện gì cả. Mới có năm mà Thần chết bắt mất bao nhiêu người quen thuộc và quen biết, vì thế động nghĩ tới họ là trong lòng ông lại nặng như đá đeo, toàn thế giới đều bệch màu và như bị phủ dưới tấm màn đen.
      - Bụi nầy phải đẵn mới được. Củi tốt ? Làm hàng rào đúng nhất đây. - Ông tự to với mình để xua những ý nghĩ đen tối.
      Ông Panteley Prokofievich làm cật lực hồi rồi cởi cái áo ngắn mặc ngoài, ngồi lên đống củi vừa chặt, hít lấy hít để mùi lá héo hắc hắc. Ông nhìn rất lâu đường chân trời xa nằm dưới làn khói xanh nhạt, những cánh rừng đằng xa khoác cái áo thu vàng óng, lộng lẫy với vẻ đẹp cuối mùa của nó. Gần đấy có bụi phong đen. Bụi cây diêm dúa tả sao cho xiết, toàn bộ sáng rực lên dưới ánh sáng lạnh lẽo của vừng mặt trời mùa thu, những cái cành vươn rộng của nó nặng trĩu dưới những đám lá màu huyết dụ, nom như những cái cánh của con chim thần thoại sắp bay vụt lên khỏi mặt đất. Ông ngắm mãi bụi cây, rồi bất giác đưa mắt nhìn xuống mặt đầm, thấy qua làn nước tù trong vắt có những cái lưng đen sì của vài con cá chép rất to. Đàn cá bơi sát mặt nước quá, nên có thể trông thấy cả những cái vây và những cái đuôi đỏ tía ngọ nguậy. Tất cả có chừng tám con. Có lúc những con cá lẩn xuống dưới những tấm lá chắn xanh mướt của những cây súng, nhưng rồi chúng lại bơi ra khoảng nước trong, đợp những cái lá liễu rủ chìm xuống nước. Mùa thu, cái đầm gần cạn, vì thế xuống bắt cá cũng chẳng có gì là khó khăn. Sau lúc tìm kiếm lâu lắm, ông Panteley Prokofievich thấy ngay cái sọt đáy vứt bỏ bờ hồ gần đấy, bèn quay lại cái đầm, cởi quần dài ra mò xuống nước đơm cá. Ông lạnh quá, cứ so vai rụt cổ, è è trong họng. Ông dẫm xuống bùn đến đầu gối, vừa lội lõm bõm dọc theo cái dầm, vừa úp cái sọt xuống, làm nước đục ngầu. Mỗi lần úp sọt ông đều ấn mép sọt xuống tới đáy rồi thọc tay vào trong chỉ mong có con cá khỏe quẫy sủi nước lên. Cố gắng của ông già đem lại kết quả: ông úp được ba con cá chép, mỗi con chừng mười phun-tơ. Nhưng ông thể tiếp tục úp thêm được nữa, bên chân tàn tật lạnh quá bắt đầu bị chuột rút. Sung sướng vì đánh được mấy con cá to, ông lội dưới đầm lên, lấy cỏ hương bồ chùi chân, mặc quần áo vào rồi tiếp tục đẵn củi cho ấm người. Chuyện vừa rồi dù sao cũng là thành công. phải là ai cũng có được cái may bỗng nhiên vớ được mấy con cá nặng tới gần pút? Việc nơm cá làm ông khuây khoả, giúp ông xua đuổi những ý nghĩ đen tối. Ông giấu kín cái sọt với ý định còn quay lại. Ông lo lắng nhìn quanh: biết có ai trông thấy mình ném lên bờ những con cá chép vàng óng, to bằng những con lợn con hay . Chỉ sau đó ông mới khiêng bó củi và mấy con cá xâu vào nhánh cây, lững thững ra sông Đông.
      Ông kể cho bà Ilinhitna nghe về buổi đánh cá của mình với nụ cười thoả mãn, rồi lại ngắm nghía lần nữa những con cá chép nhấp nhoáng như đồng đỏ. Nhưng bà Ilinhitna chỉ chia sẻ niềm hân hoan của ông cách bất đắc dĩ. Bà vừa viếng mấy người bị giết về mặt bà rầu rĩ, nước mắt đầm đìa.
      - Ông cũng sang viếng thằng Anikey cái chứ? - Bà hỏi.
      - Tôi đâu. Chẳng nhẽ tôi chưa được trông thấy người chết bao giờ hay sao? Tôi trông chán chê rồi, đủ lắm rồi!
      - Ông nên sang hơn. Nếu kể cũng tiện, người ta bảo rằng chỉ có chuyện viếng thăm nhau lần cuối cùng mà cũng làm.
      - Bà hãy vì Chúa để cho tôi được yên? Tôi với nó đỡ đầu cho con cái của nhau, tôi cần phải đến viếng nó làm gì cả? - Ông Panteley Prokofievich trả lời, giọng gay gắt.
      Cả dến khi đưa đám ông cũng tới. Từ sáng ông bỏ sang bên kia sông Đông và ở lại bên ấy suốt ngày. Ông đứng trong rừng tiếng chuông tang lễ bắt ông phải bỏ mũ làm dấu phép. Rồi ông bực mình cả với lão cố đạo: Kéo chuông lâu thế còn nghĩa lý gì nữa? Chà, dóng chuông cho mỗi người hồi cũng đủ chán rồi, đằng nầy lại loong coong đến hàng tiếng đồng hồ. Mà dóng mãi như thế được cái tích gì? Chỉ tổ làm cho ảo não lòng người, bắt người ta phải nghĩ nhiều thêm về cái chết. Mà thế mọi vật về mùa thu đều nhắc đến nó rồi: nào lá vàng rơi, nào tiếng những đàn ngỗng trời bay qua kêu quàng quạc trời xanh, nào lớp cỏ nằm chết rũ…
      Dù ông Panteley Prokofievich cố tìm mọi cách lẩn tránh các cảm xúc nặng nề, nhưng chẳng bao lâu ông cũng phải chịu đựng thêm cơn chấn động thần kinh. hôm trong khi ăn bữa trưa, Dunhiaska nhìn qua cửa sổ :
      - Chà, lại có ai bị giết phải đưa từ ngoài mặt trận về rồi? Đằng sau cái xe có con ngựa chiến đóng yên, buộc vào xe bằng dây cương, mà cũng nhanh… người đánh hai con ngựa, còn người chết nằm đắp áo ca-pốt. Người đánh xe ngồi xoay lưng lại, biết có phải là bà con thôn ta hay … - Dunhiaska cố nhìn kỹ hơn, rồi hai má nhợt hẳn , hơn cả tấm vải trắng.
      - Nhưng đấy là… Nhưng đấy là… - Dunhiaska lúng búng khẽ rồi bất thần kêu lên the thé - Họ đem Grigori về! Con ngựa của ấy đấy mà! - Rồi nức nở chạy ra phòng ngoài.
      Bà Ilinhitna đứng dậy khỏi bàn ăn, chỉ đưa tay lên che mắt.
      ngồi chiếc ghế dài, ông Panteley Prokofievich nặng nề đứng dậy bước ra cửa, hai tay vươn về phía trước như người mù.
      Prokho Zykov mở cổng, nhìn thoáng qua Dunhiaska chạy từ thềm xuống và bằng giọng chẳng có gì là vui vẻ:
      - Nhà ta ra đón khách ngờ nhà có khách à?
      - quý của nhà ta? quý của em! - Dunhiaska vặn hai tay vào nhau rên rỉ!
      Mãi đến lúc nầy, Prokho nhìn khuôn mặt đẫm nước mắt của Dunhiaska và trông thấy ông Panteley Prokofievich đứng lặng bên thềm nhà mới đoán ra, bèn :
      - Đừng sợ. Cả nhà đừng có sợ? Vẫn còn sống đấy. Chỉ bị thương hàn nên phải nằm mà thôi?
      Ông Panteley Prokofievich vẫn dựa lưng vào khung cửa cách bất lực.
      - Còn sống? - Dunhiaska cười dở mếu dở kêu lên với bố - Griska vẫn còn sống đấy? Cha nghe chưa? Vì ốm nên phải đưa về! Cha vào bảo cho mẹ biết ! Thế nào, sao cứ đứng như thế?
      - Đừng sợ, ông Panteley Prokofievich ạ! Tôi đưa về đến nơi vẫn còn sống đấy, nhưng về chuyện sức khỏe ông đừng hỏi. - Prokho vội xác nhận lời Dunhiaska rồi nắm dây hàm thiếc dắt con ngựa vào trong sân.
      Ông Panteley Prokofievich chập chững bước ra vài bước nhưng lại ngồi phịch ngay xuống bậc thềm. Dunhiaska chạy vụt qua như cơn gió lốc, vào an ủi mẹ. Prokho cho con ngựa đứng lại ngay bên cạnh thềm, đưa mắt nhìn ông Panteley Prokofievich.
      - Ông còn ngồi đấy làm gì hử? Ông đem cái đệm ra đây, chúng ta cùng khiêng.
      Ông già vẫn ngồi yên gì cả. Những giọt nước mắt chảy xuống ròng ròng như mưa, nhưng mặt ông vẫn đờ đẫn, đường gân thớ thịt nào động đậy. Hai lần ông đưa tay lên định làm dấu phép, nhưng đủ sức giơ đến trán nên lại buông thõng xuống. Trong họng ông cứ có cái gì lọc ọc. Đúng là ông bị mẻ sợ ghê quá nên mất hết hồn vía rồi.
      Prokho có vẻ thương hại.
      - hiểu sao tôi lại nghĩ ra để nhờ cậu nào đó về báo trước cho ông bà biết? Té ra tôi cũng là thằng ngu, đúng là thằng ngu! Thôi nào, đứng dậy ông Prokofievich, phải khiêng người ốm vào thôi. Cái đệm của nhà ông đâu? Hay là cứ khiêng tay?
      - Hượm hượm … ông Panteley Prokofievich bằng giọng khàn hẳn . - Hai chân tôi hiểu sao rã rời cả ra… Tôi cứ tưởng nó bị giết rồi… ơn Chúa. ngờ… - Ông giựt cái khuy áo cổ chiếc sơ-mi cũ, mở phanh ra, rồi há hốc miệng thở lấy thở để.
      - Thôi đứng dậy , đứng dậy nào, ông Prokofievich! - Prokho giục. - Ngoài hai chúng ta còn ai khiêng nữa à?
      ràng là ông Panteley Prokofievich phải cố gắng lắm mới đứng dậy được. Ông bước thềm xuống, lật chiếc áo ca-pốt, cúi xuống nhìn Grigori nằm mê man bất tỉnh. Trong họng ông lại có cái gì lọc ọc, nhưng ông tự chủ được, quay lại với Prokho.
      - nắm lấy chân. Chúng ta khiêng vào .
      - Hai người khiêng Grigori vào nhà trong, tháo ủng cho chàng rồi lại đặt lên giường. Dunhiaska gọi vọng từ trong bếp ra, giọng đầy lo lắng:
      - Cha ơi! Mẹ bị làm sao ấy… Cha vào trong nầy !
      Trong bếp, bà Ilinhitna nằm sàn, Dunhiaska quỳ bên cạnh, vẩy nước khuôn mặt xám ngoét của mẹ.
      - Mày chạy ngay, gọi mụ Kapitonovna, nhanh lên! Mụ ấy biết trích máu đấy. Bảo mụ ấy là cần phải trích máu cho mẹ mày, dặn nó nhớ mang các đồ dùng đến. - Ông Panteley Prokofievich ra lệnh.
      lớn đến tuổi lấy chồng như Dunhiaska thể cứ đầu trần mà chạy ra phố được. Dunhiaska bèn với lấy chiếc khăn, chít lên đầu và :
      - Làm hai đứa bé sợ đến chết khiếp! Lạy Chúa tôi, sao lại có chuyện như thế đổ xuống đầu nhà ta… Cha để ý tới chúng nó nhé, con chạy quàng lát rồi về ngay!
      Có lẽ Dunhiaska còn muốn soi qua cái gương, nhưng ông Panteley Prokofievich lại hồn, nhìn trừng trừng bằng hai con mắt ghê gớm, đến nỗi Dunhiaska phải chạy vụt ngay ra khỏi nhà bếp.
      Dunhiaska chạy ra khỏi cửa xép nhìn thấy Acxinhia. Mặt Acxinhia nhợt nhạt, cắt còn hột máu. Nàng đứng dựa vào hàng rào, hai tay thõng xuống như còn sức sống. Cặp mắt đen ảm đạm như phủ màn sương long lanh giọt nước mắt nào, nhưng trong đó lên vẻ đau khổ và van lơn đến nỗi Dunhiaska phải dừng lại giây, rồi bất giác bật ra những lời mà chính mình cũng ngờ:
      - Còn sống, vẫn còn sống đấy? ấy bị thương hàn. - xong chạy té ra ngõ, hai tay đỡ hai cái vú cao nẩy tưng tưng.
      Từ khắp nơi đều có những người tò mò chạy đến nhà Melekhov. Họ nhìn thấy Acxinhia từ từ rời khỏi cái cửa xép của nhà Melekhov, rất bất thình thình còng lưng xuống rảo bước, đưa hai tay lên che mặt.

    6. ^^! Nếu bạn không gửi link bài viết trên Facebook được, hãy sử dụng link trong khung này để chia sẻ bài viết :