Quán trọ Hoang thôn - Sái Tuấn(Kinh dị)

Thảo luận trong 'Các Thể Loại Khác (Kinh Dị, Trinh Thám..)'

  • ^^! Nếu bạn không gửi link bài viết trên Facebook được, hãy sử dụng link trong khung này để chia sẻ bài viết :
    1. vulinh

      vulinh Well-Known Member

      Bài viết:
      20,019
      Được thích:
      24,221
      - 3 -

      Sáng hôm sau, trong tiền sảnh ngôi nhà cổ, Tiểu Chi đợi tôi ăn sáng.

      Tôi khẽ : “Hoang thôn đúng là nơi độc nhất vô nhị, vừa khiến người ta tò mò, vừa khiến người ta sợ hãi”.

      “Đây là cũng là nguyên nhân mà tôi thích tiểu thuyết của ”.

      “Tiểu Chi, tiếng sáo đêm qua rút cuộc là thế nào? Sao lại đáng sợ như vậy? Lẽ nào lo sợ tiếng sáo dẫn hồn ma quỷ về sao?”

      Nhưng tôi vẫn chưa dám kể cho Tiểu Chi nghe về người con chải đầu sau nửa đêm mà tôi nhìn thấy.

      “Suỵt, chút!” nhìn điệu bộ của Tiểu Chi như sắp bịt miệng tôi lại, ấy ngẩng đầu nhìn lên bức chân dung treo chính giữa phòng khách, người đàn ông mặc quan phục triều Minh lạnh lùng nhìn chúng tôi.

      sợ những gì chúng ta bị ông ấy nghe thấy?”

      Tiểu Chi trả lời thẳng, ấy hình như rất khiếp sợ người trong bức tranh: “Tôi đương nhiên tin ma quỷ trong truyền thuyết. Nhưng ở đây là Hoang thôn, khác với những nơi khác”.

      “Hoang thôn có ma sao?”

      “Tôi phải ý đấy. Nhưng Hoang thôn có tập tục riêng của mình, cần quan tâm nhiều, nhanh chóng ăn sáng ”.

      Buổi sáng, tôi muốn lòng vòng gặp gỡ những thôn dân nhưng bị ấy dứt khoát ngăn lại. ấy dẫn tôi ra khỏi thôn bằng con đường , ai phát ra chúng tôi. Cả buổi sáng, chúng tôi đều dạo những ngọn núi hoang vu bóng người gần đó.

      Sau bữa tối, tôi nghe thấy Tiểu Chi và cha ấy chuyện trong phòng, họ hình như vui vẻ lắm. u Dương tiên sinh từ phòng Tiểu Chi ra, dáng ông bước trong đêm tối giống xác chết.

      Tôi lặng lẽ lên cầu thang của Tiểu Chi, đẩy cửa phòng ấy.

      “Ngại quá, ban nãy tôi vừa nghe được mấy câu”. Tôi lúc đó có chút bối rối. Phòng ấy rất sạch , tường còn quét vôi, còn có cả ti vi và máy vi tính, chỉ có vài cánh cửa sổ khiến người ta nhớ tới đây là ngôi nhà cổ, “Xảy ra chuyện gì? Có phải cha cảm thấy tôi quấy nhiễu cuộc sống yên bình của hai cha con ?”

      , phải”. Tiểu Chi hình như có chút căng thẳng, bất giác lùi về phía bàn học.

      Lúc này tôi mới chú ý tối bàn có đặt khung ảnh, bên trong có tấm ảnh đen trắng của Tiểu Chi, ấy trong ảnh hấp dẫn, chỉ có ánh mắt là phảng phất buồn. Nhưng trong bức ảnh này lại có cảm giác rất khó thành lời, tôi kìm chế được hỏi: “Tiểu Chi, bức ảnh này của chụp lúc nào thế?”

      ấy lập tức trả lời, ngập ngừng lúc mới rầu rĩ : “Người trong bức ánh này chết từ lâu rồi”.

      “Cái gì? đừng có dọa tôi chứ”. Sống lưng tôi lạnh toát.

      “Đây là ảnh của mẹ tôi”.

      Căn phòng trĩu nặng hồi lâu, tôi thực ngờ rằng hai mẹ con ấy lại giống nhau đến vậy.

      “Lúc tôi còn rất , mẹ tôi lâm bệnh rồi qua đời, bà mất trong căn gác mà ở. mình cha nuôi tôi khôn lớn, tôi chỉ có thể nhìn thấy bóng dáng mẹ qua ảnh”. Tiểu Chi buồn bã trả lời, ánh mắt u sầu của ấy giống như đúc người trong ảnh.

      “Xin lỗi”. Tôi có chút áy náy nhìn ấy, hít hơi sâu , “Cha chắc rất ”.

      Tiểu Chi trả lời, khí trong phòng càng lúc càng bối rối, tôi đành vội vã rời khỏi đây.

      Trở về phòng mình, tôi dám ngủ, chỉ có thể thắp ngọn đèn dầu, khoác áo khoác cuộn tròn giường. Dưới ngọn đèn dầu độc, tôi hoảng hốt thức trắng đêm nay.

      Bỗng nhiên, tiếng sao từ nơi xa xăm truyền đến tai tôi. Tôi nhảy thót lên như bị kim châm, lắc đầu lia lịa, hy vọng rằng tiếng sáo này là ảo giác.

      Tiếng sáo vẫn tiếp tục. Tôi thể kìm nén được kích động của mình bèn xách đèn dầu lặng lẽ ra khỏi “Tiến Sỹ Đệ”.

      Hoang thôn nửa đêm mang bầu khí chết chóc, chỉ có tiếng sáo núi du dương bay bổng. Tôi ra khỏi cỗng thôn, đứng dưới tấm bia tiết hạnh nhìn ngó xung quanh, những dẫy núi liên miên trong bóng đêm giống như tòa lâu đài nghiêm ngặt. Tôi nhằm thẳng vào đỉnh núi cao nhất, xách đèn dầu chạy về hướng đó. Quả nhiên, tiếng sáo kì dị càng lúc càng , xem ra tôi tìm đúng hướng rồi.

      Trăng lên, ánh trăng lạnh lẽo đâm thủng mây đen trong bóng đêm, rắc lên núi hoang trơ trọi.

      Bỗng nhiên, tôi cảm thấy hình như tiếng sáo vang lên từ phía sau lưng, tôi vội vàng nhìn lên khe núi đằng sau, chỉ thấy dưới ánh trăng bàng bạc có bóng đen đứng, còn tiếng sáo thê lương đột ngột im bặt.

      Tôi xách đèn dầu chạy về phía bóng đen đó. Bóng đen hề chuyển động, đứng im tại chỗ như cái cây. Tôi giơ đèn dầu lên soi, dưới ánh đèn mờ ảo, khuôn mặt tiều tụy hốc hác ra.

      “u Dương tiên sinh?”

      Tôi kêu lên kinh ngạc, bóng đen này hóa ra là cha Tiểu Chi! tay ông ấy cầm chiếc sáo.

      u Dương tiên sinh theo phản xạ lấy tay che mặt, miệng lầm rầm : “Sao cậu lại tới đây?”

      “Đây… đây là thế nào?” đỉnh núi cao cao trong bóng đêm, ánh trăng u cùng ánh đèn dầu leo lét rọi vào mắt u Dương tiên sinh, tôi hoảng hốt : “Tiếng sao ban nãy là do bác thổi sao?”

      “Đúng vậy, tôi là thầy giáo nhà quê, sức khỏe từ trước tới nay tốt lắm, mấy hôm nay tôi toàn mất ngủ”. u Dương tiên sinh thở dài tiếng, biểu của ông dần bình tĩnh lại, “Do ngủ được, nên tôi mới lên núi thổi sáo, như vậy có thể khiến mình thư thái hơn”.

      “Cháu hiểu rồi. Nhưng cháu cảm thấy chiếc sáo này của bác rất đặc biệt”.

      u Dương tiên sinh đưa chiếc sáo vào tay tôi. Đầu ngón tay tôi lập tức cảm thấy lạnh buốt, run bắn lên cách khó hiểu. Mượn ánh sáng đèn dầu, tôi nhìn chiếc sáo này. Đây là chiếc sáo kiểu dáng truyền thống, dài khoảng bốn mươi phân, thanh sáo được quét sơn nâu, giữa lỗ sáo có treo dây màu hồng tím, màng lỗ dán lớp màng mỏng như cánh ve.

      “Có lẽ cậu tin rằng, chiếc sáo này có mấy trăm năm lịch sử rồi”.

      “Mấy trăm năm?”

      “Tiểu Chi kể cho cậu nghe về truyền thuyết Yên Chi rồi chứ”.

      Tôi gật gật đầu, xem ra Tiểu Chi và cha ấy đều vui, đại khaci1 chắc là vì chuyện này rồi.

      “Trong truyền thuyết Yên Chi, có tăng nhân hành khất tặng ấy chiếc sáo”. u Dương tiên sinh chỉ vào chiếc sáo tay tôi : “Chính là cái này”.

      Tay phải tôi cầm sáo lập tức lạnh ngắt.

      “Cậu nhất định chưa được biết kết cục của truyền thuyết Yên Chi đúng ?” u Dương tiên sinh lắc lắc đầu , “Yên Chi trong đêm tết trùng dương thổi chiếc sáo này, tương ngộ với linh hồn chồng, cùng nhau trải qua mấy đêm, cũng chính là chồng ma mà người già chúng tôi thường gọi. Sau khi Yên Chi biết được chồng mình chết, ấy đau khổ vô cùng, mấy lần định tự sát nhưng đều sống lại cách kỳ lạ. Mãi tới ba tháng sau, ấy phát mình có thai”.

      “Chồng ấy phải chết rồi sao? Lẽ nào Yên Chi mang thai của ma?”

      u Dương tiên sinh thần sắc nghiêm nghị gật đầu: “ sai, đây là kỳ tích, đứa trẻ mà ấy mang trong mình thực ra là hạt giống mà linh hồn chồng ấy chết ngoài sa trường trở về gieo hạt, đây là do ông trời có mắt nên để cậu ấy bị tuyệt tự. Khi bụng Yên Chi to dần lên mỗi ngày, người dân trong thôn bắt đầu nghi ngờ ấy vụng trộm vượt rào, họ dùng những lời lẽ ác độc sỉ nhục Yên Chi, cho rằng Yên Chi mang thai tạp chùng, thậm chí còn có cả những tên lang thang tới bắt nạt ấy. Nhưng Yên Chi kiên quyết bảo vệ minh bạch của mình, nhất mực giữ gìn tiết hạnh với chồng. Để bảo vệ đứa con trong bụng, Yên Chi chịu đựng biết bao khổ hạnh, mang thai mười tháng, rút cuộc cũng sinh ra đứa bé trai”.

      “Trời ơi, câu chuyện này là giống tiểu thuyết ‘Hồng tự’ của Hoắc Tang”.

      Trong đêm đông lạnh giá, nghe câu chuyện thê lương này, tôi bất giác nhớ tới Hải Ti Đặc trong “Hồng tự”, còn cả chữ A màu đỏ trước ngực ấy. Hải Ti Đặc thà chết cũng chịu ra tên người đàn ông đó, ấy coi con như thiên sứ mà thiên chúa ban tặng cho mình, bởi vậy ấy chấp nhận chịu đựng mọi đau khổ. Vậy Yên Chi của Hoang thôn mấy trăm năm trước sao? ấy chính là “Hồng tự” phiên bản Trung Quốc? Hay là ấy thực mang thai ma mà chồng để lại?

      “Kể từ đó, hai mẹ con Yên Chi phải chịu đựng biết bao kỳ thị và sỉ nhục, ấy mình nuôi con khôn lớn, đưa con trai đến nhà thầy giáo học. Mười mấy năm sau, Yên Chi rút cuộc lao lực mà chết, nhưng cont rai ấy thi đỗ khoa cử, từ tú tài tới cử nhân sau đó là tiến sỹ, trở thành môn sinh thiên tử bảng vàng đề danh. Sau này, tích bà mẹ Yên Chi của ông truyền tới tai hoàng đế, hoàng đế rất cảm động trước câu chuyện này nên liền ngự giá ban tặng tấm bia tiết hạnh này, để biểu dương đức hạnh của Yên Chi”.

      ngờ câu chuyện Yên Chi lại có kết cục như vậy. Tôi cúi đầu nhìn Hoang thôn dưới núi: “Hóa ra là vậy, vậy tấm bia tiết hạnh ở cổng thôn bây giờ là dành tặng Yên Chi? ‘Tiến Sỹ Đệ’ cũng là do con trai ấy xây dựng nên? Bác và Tiểu Chi nữa đều là hậu duệ của Yên Chi?”

      sai. Chiếc sáo này chính là tổ tiên nhà chúng tôi truyền lại”.

      Tôi nhìn chiếc sáo tay, từ nay trở dám chạm vào nó nữa, lập tức đưa lại vào tay u Dương tiên sinh. Tôi hỏi thăm dò: “Vậy tích Yên Chi rút cuộc là truyền thuyết hay là thực?”

      ai , nhưng mấy trăm năm nay người dân Hoang thôn đều tin đó là , ít nhất là chiếc sáo này là ”.

      Tôi thẫn thờ nhìn mặt u Dương tiên sinh, nếu như câu chuyện của Yên Chi là , vậy u Dương tiên sinh và cả Tiểu Chi trước mặt tôi nữa phải là hậu duệ của chồng ma sao? Lẽ nào gia tộc u Dương sống trong Tiến Sỹ Đệ là gia đình ma? Tôi bất giác lùi lại hai bước, trong đầu lên truyền thuyết gia tộc ma hút máu người ở Châu u.

      Mặt trăng chầm chậm lặn xuống, cơn gió biển mang theo hơi lạnh thổi tới, tôi đứng đỉnh dốc bắt đầu run cầm cập. Tôi xách đèn dầu xuống dốc núi, khi qua chân tấm bia đá tiết hạnh, tim bỗng run rẫy lạ thường.

      Trở về Tiến Sỹ Đệ, tôi chỉ cảm thấy khí của ngôi nhà này càng thêm u ám, càng ngày càng giống lâu đài của bá tước Dracula.

      Bỗng nhiên, trong sân tối đen, bóng trắng lướt qua. Cái bóng đó chuyển động giống hệt ma quỷ khiến tôi rùng mình. Trả qua thử thách ban nãy, gan tôi cũng bắt đầu to lên, tuy tất cả mọi thứ trong ngôi nhà cổ đều thần bí như vậy, khủng khiếp như vậy, nhưng càng như thế lại càng kích thích trí tò mò của tôi. Tôi lập tức chạy về phía cái bóng trắng, dương đèn dầu soi về phía trước.

      Hình như là chiếc áo ngủ màu trắng, phía xõa mái tóc đen dài, đó là trẻ. Ánh sáng đèn lờ mờ chiếu lên người ấy, chính là ta, chải tóc ở cạnh phòng tôi nửa đêm hôm qua. ấy hình như rất sợ hãi, chạy lên cầu thang căn gác bên cạnh.

      Tim tôi càng lúc càng đập nhanh, bám chặt theo sau ấy, rút cuộc tóm được tay ta hành lang gác hai. Nhưng tay tôi lập tức buông ra giống như bị điện giật, bởi vì cánh tay ấy lạnh toát, khiến tôi nổi cả da gà. Nhưng ấy vẫn dừng lại, cơn gió lạnh đột ngột thổi tới, mái tóc dài đen láy tuyệt đẹp bay bay trong gió.

      là ai?”

      Tôi lập cà lập cập khẽ hỏi. ấy từ từ quay đầu lại, khuôn mặt trắng bệch lên dưới ánh đèn dầu – Tiểu Chi!

      Trời ơi, tôi ngờ tới hóa ra lại là Tiểu Chi. Mặt ấy trắng bệch, môi hơi tím tái, ràng là bị gió lạnh phương bắc làm cho lạnh toát, hóa ra người ấy chỉ khoác chiếc áo ngủ mà thôi. Tôi lập tức cởi áo khoác người ra, khoác lên người ấy. Tôi ôm chặt lấy vai ấy : “ sao thế? Nửa đêm mặc áo ngủ chạy ra đây, trời lanht thế này cẩn thận bị cảm lạnh”.

      Đôi mắt vô thần của ấy nhìn tôi, hoang mang lắc đầu. Tôi vuốt tóc ấy, có chút xót xa : “ thử sờ người xem, toàn thân lạnh toát cả rồi, hà cớ gì chứ?”

      Nhưng Tiểu Chi vẫn , biểu càng có chút kỳ dị và căng thẳng, ấy đột nhiên giơ tay sờ lên trán và mũi của tôi, bàn tay lạnh buốt đó khiến tôi cảm thấy run sợ.

      Tôi lắc lắc vai ấy : “Rút cuộc xảy ra chuyện gì? Tôi muốn bị xâm hại”.

      Tiểu Chi lập tức sợ hãi trở lại, giãy khỏi lòng tôi, giống như con thú hoang lao xuống cầu thang. Tôi bám sát theo ấy, trong lúc chạy xuống cầu thang tôi bị hụt chân ngã sóng soài.

      Lúc tôi lồm cồm bò dậy Tiểu Chi mất hút rồi, chỉ còn lại áo khoác của tôi rớt mặt đất. Tôi nhìn lên phòng ấy, đèn tắt rồi.

      Trở về phòng mình, tôi mặc nguyên quần áo cuộn tròn giường, mắt nhắm mắt mở nhìn tầm bình phong, trong đầu nhớ tới biểu kỳ quái của Tiểu Chi ban nãy. Vậy xem ra, chải đầu sát vách phòng tôi đêm qua chính là ấy, nhưng tại sao ấy lại chạy ra ngoài lúc nửa đêm?

      Trước mắt tôi lại lên đôi mắt vô thần của Tiểu Chi, thần trí của ấy ban nãy hình như được minh mẫn, bộ dạng giống như mơ mơ màng màng vẫn chưa tỉnh ngủ vậy. Tôi bỗng nhớ tới nội dung trong bộ tiểu thuyết của mình, lẽ nào Tiểu Chi mộng du?

      Đúng, chỉ có khả năng này. mặt Tiểu Chi đầy vẻ hoang mang, cho dù mắt ấy mở to nhưng bỗ não vẫn trong trạng thái mơ ngủ. Tất cả những điều này đều phù hợp với đặc trưng của mộng du. Bản thân ấy vốn có nhận thức, chỉ là ấy mơ thấy giấc mơ, còn cơ thể ấy giống như nằm mơ bước ra ngoài.

      Tôi thở hơi dài, ngờ Tiểu Chi lại có tật mộng du, có lẽ bản thân ấy cũng biết. Hoang thôn đúng là nơi khiến người ta phát điên, tôi thực rất mệt mỏi, từ từ nhắm mắt lại…

      - 4 -

      Bảy giờ sáng, tôi mờ mắt ra. Ánh sáng xuyên qua cửa sổ giấy rọi lên bức bình phong khiến ngôi nhà cổ này có chút sinh khí.

      Tôi thể chịu đựng được nữa, vốn cho rằng chuyến du hành tới Hoang thôn lạng mạn và thú vị, nhưng lúc này lại khiến tôi hoảng sợ tới đỉnh điểm, tôi quyết định phải rời khỏi Hoang thôn ngay tức khắc.

      Tiểu Chi ở trong tiền sảnh ngôi nhà cổ, sắc mặt ấy khá ổn, nhìn ra dáng vẻ mộng du nửa đêm hôm qua, tôi nghĩ hay là toạc ra vẫn tốt hơn. Tôi ngẩng đầu lên nhìn bức chân dung dưới tấm biển “Nhân Ái Đường”, người đàn ông triều Minh trong bức tranh cũng nhìn tôi, ông ấy chắc là con trai của Yên Chi, vậy cha của ông ấy có thực là hồn ma chết trận ? Tôi dám nghĩ tiếp , tức tốc ăn hết bữa sáng.

      muốn về rồi à?” Tiểu Chi nhận ra khi nhìn thấy hành lý của tôi.

      “Xin lỗi, tôi nên tới Hoang thôn, càng nên quấy nhiễu cuộc sống yên bình của gia đình ”.

      “Tôi biết ở được lâu”. Tiểu Chi mím mọi : “ có còn tới Hoang thôn nữa ?”

      biết”. Tôi nhìn vào đôi mắt ngây thơ của ấy, trong lòng bỗng nhớ tới ánh trăng dốc núi đêm qua, “Vậy sao? Đợi sau khi tốt nghiệp đại học ở Thượng Hải rồi, có còn về Hoang thôn nữa ?”

      Ánh mắt ấy hình như rất rối loạn, lí nhí trả lời: “Tôi nhất định trở lại, kể cả có chết bên ngoài tôi cũng phải về nhà”.

      Tôi bỗng run rẩy, câu của ấy khiến tôi cảm thấy có chút kỳ dị. Lúc này tôi ngửi thấy mùi thối rữa của hoa lan tỏa ra từ người của Tiểu Chi, mùi vị sộc lên mụi là lan vào phổi khiến tim tôi cũng trở nên chát đắng.

      Tôi chầm chậm tiến tới cổng “Tiến Sỹ Đệ”, đứng cạnh ngưỡng cửa nhìn vào mắt Tiểu Chi : “Có lẽ, chúng ta gặp lại nhau nữa, bảo trọng nhé”.

      Ánh mắt Tiểu Chi vẫn u buồn nhường vậy, ấy hình như còn muốn thêm điều gì đó, nhưng tôi bước qua ngưỡng cửa ngôi nhà cổ. Tôi dám quay đầu lại nhìn, chỉ biết cúi đầu bước về phía trước, muốn tiêu hủy tất cả mọi chướng ngại trong lòng. Tôi đến chân tấm bia tiết hạnh, ngẩng đầu nhìn bốn chữ tấm bia – “Trinh Liệt m Dương” mà lòng cảm thấy có chút giễu cợt và bi ai.

      Tôi đáp chuyến xe trở về thị trấn Tây Lãnh. Nhưng chuyến xe khách về Thượng Hải khởi hành từ lâu rồi, chuyến tiếp theo phải đợi tới bốn giờ chiều.

      Buổi chiều, nhân vài tiếng đồng hồ rỗi rãi, tôi tới bảo tàng văn hóa của thị trấn Tây Lãnh, đánh liều gặp viện trưởng viện bảo tàng. Tôi dựa vào thân phận mà Tiểu Chi bịa ra cho tôi, tự xưng là tới đây để khảo sát lịch sử và phong tục tập quán. Viện trưởng ràng bị tôi phét, tôi ra hết những nghi ngờ về tấm bia tiết hạnh ở Hoang thôn cho ông nghe.

      Viện trưởng là người đàn ông trung niên ngoài năm mươi tuổi, ông ấy trầm ngâm hồi lâu, lấy từ trong kho ra tấm in thác bản. In thác bản chính là văn thể được sao chép lại từ văn bia hoặc bản khắc bằng giấy và mực, tương đương với bản photo cổ đại. Tôi nhìn sơ qua tấm in thác bản, chằng chịt văn tự rất dài, được in lại từ bản khắc bia đá, nghiễm nhiên có bất cứ dấu câu nào, khi đọc rất nhức mắt. Tôi chau mày nín thở, giống như suy luận để phá án, nghiên cứu từng câu từng chữ, mất có buổi chiều mới có thể hiểu được tấm in thác bản này.

      Dưới đây, tôi dùng ngôn ngữ địa để thuật lại tóm tắt nội dung ghi chép tấm in thác bản:

      “Những năm Gia Tĩnh triều Minh, nạn cướp biển hoành hành nghiêm trọng phía đông nam, u Dương An người Hoang thôn được triệu tập nhập ngũ. Trước lúc lên đường, hẹn ước cùng người vợ mới cưới chưa được bao lâu, tết trùng dương ba năm sau trở về quê đoàn viên, nếu như gặp được nhau, hai người cùng nhau tự tử để minh chứng. Sau đó, tết trùng dương ba năm sau tới, u Dương An vẫn đánh trận tại Quảng Đông xa xôi ngàn dặm, biết rằng mình chắc chắn còn cách nào khác để thực lời nguyện ước nên quyết tâm tự tử vì tình nơi chiến trường. Đêm tết trùng dương, quan quân và cướp biển đánh nhau ác liệt, u Dương An xông lên hàng đầu chiến tuyến, kết quả bị vô số tên bắn trúng người, ngã gục ngay tại trận địa. Nhưng u Dương An vốn chết trận, chỉ là bị thương nặng hôn mê mà thôi, sau đó được ngư dân cứu mạng. Khi u Dương An thương tích đầy mình trở về nhà, quan quân và cướp biển lại chiến đấu quyết liệt, tên thủ lĩnh cướp biển bị thất lạc đội ngũ tháo chạy, đúng lúc đó chạm mặt u Dương An đường. u Dương An đao chặt rời đầu thủ lĩnh cướp biển, ngờ nhờ đó mà lập nên công lớn, được triều đình ban thưởng cho chức quan. lâu sau, nạn cướp biển được san bằng. u Dương An áo gấm về quê, khi về tới cố hương Hoang thôn phát ra vợ mình làm theo lời nguyện ước, treo cổ tự tử chết trong đêm trùng dương. u Dương An vô cùng đau khổ, đứt từng khúc ruột, còn cách nào để sống mình cõi đời này. Nhưng vẫn muốn nhìn thấy vợ lần cuối nên thầm đào mộ vợ lên. Mở quan tài ra xem bỗng phát thi thể của vợ mình hoàn toàn chưa bị phân hủy, bên cạnh còn có chiếc sáo trúc. Vậy là u Dương An cho xây dựng nhà cao cửa rộng, khiêng quan tài của vợ về nhà. Những năm sau đó, u Dương An nhất mực sống dật, cất giấu quan tài của vợ trong nhà, trước và sau tết trùng dương hàng năm, tới lúc nửa đêm đều thổi sáo lấy ra từ trong quan tài của vợ. Cứ như vậy nhiều năm trôi qua, vào đêm 23 tháng Chạp tuyết giăng kín trời, u Dương An lại thổi sáo lần nữa, kỳ tích cuối cùng xuất , những thanh kỳ lạ bỗng phát ra từ trong quan tài của vợ, mở nắp quan tài ra xem, người vợ bỗng nhiên từ từ tỉnh dậy. u Dương An mừng vui khôn xiết, bế vợ lên giường, ngày ngày bón cháo cho , người vợ rút cuộc cũng hồi phục sức khỏe. Người vợ sau khi sống lại vẫn trẻ trung xinh đẹp, hai người họ tận hưởng cuộc sống yên bình, thậm chí còn sinh hạ người con trai. Sau này, con trai họ thi đỗ tiến sỹ, đứng đầu danh sách bảng vàng chốn kinh thành. Sau khi hoàng đế nghe xong câu chuyện này vô cùng cảm động và quyết định ngự giá ban tặng Hoang thôn tấm bia tiết hạnh, bốn chữ “Trinh Liệt m Dương” tấm bia chính là do hoàng đế Gia Tĩnh đích thân viết tặng, chẳng bao lâu sau khi tấm bia được dựng lên, u Dương An và vợ gần như cùng lúc qua đời".

      Đọc xong tấm in thác bản, tôi hoàn toàn kinh ngạc, trước mắt cứ lên những tấm văn bia mờ ảo. Tôi dụi dụi mắt: “Tâm in thác bản này ở đâu ra?”

      “Đây là tấm bia mộ”.

      “Bia mộ?” Tôi lập tức liên tưởng tới những ngôi mộ gần Hoang thôn, “Là bia mộ của u Dương An?”

      Viện trưởng gật đầu : “Hai mươi năm trước, gần Hoang thôn có ngôi mộ cổ triều Minh bị bọn đào trộm mộ xâm phạm. Thầy giáo tiểu học của Hoang thôn u Dương tiên sinh báo án, đội khảo cổ lập tức đến tiến hành khai quật khẩn cấp, u Dương tiên sinh là hậu duệ của chủ ngôi mộ, cũng là người báo án, thế nên ông cùng đội khảo cổ khai quật mộ cổ, lúc đó tôi cũng có mặt tại trường. Khai quật khảo cổ phát , trong mộ mai tàng hài cốt của đôi nam nữ, còn có cả bia mộ chí được đưa tới viện bảo tàng thành phố cất giữ, lúc đó tôi in thác bản này để bảo tồn trong viện bảo tàng thị trấn, chính là cái mà xem đây”.

      Hài cốt của đôi nam nữ? Vậy đó chính là u Dương An và Yên Chi rồi? Hóa ra là họ thực tồn tại, đến cả xương cốt cũng phát thấy rồi, nghĩ tới đây mà tôi nổi da gà: “Trong còn có thêm phát ?”

      “Đa số những lễ vật mai táng đền bị đạo tặc lấy . Nhưng tại trường khai quật còn phát thêm chiếc sáo trúc được đặt cạnh bộ xương của chhu3 mộ, bảo tồn khá hoàn hảo”. Viện trưởng bất giác thở dài: “Đáng tiếc là, trường khai quật lúc đó rất hỗn loạn, chúng tôi khống chế tốt cục diện, chiếc sáo đó sau khi được khai quật lâu mất tích cách thần bí, đó là đáng tiếc lớn nhất trong lần khai quật đó”.

      Chiếc sáo của mấy trăm năm trước? Sống lưng tôi lạnh toát: “Viện trưởng, u Dương tiên sinh xem qua bia mộ đó chưa?”

      "Ong6 ấy đương nhiên là có xem rồi, ông ấy là hậu duệ của chủ mộ và cùng tham gia trong cả quá trình khai quật, lúc làm bản photo tấm in thác bản này ông ấy cũng ở lại giúp đỡ. Tôi nhớ ông ấy lúc đó vô cùng kinh ngạc, bởi vì nội dung chép tấm bia mộ này đều hoàn toàn có trong truyền thuyết của tấm bia tiết hạnh Hoang thôn”.

      “Cũng tức là truyền thuyết về Yên Chi?”

      "Đúng vậy, Hoang thôn cùng với rất nhiều vùng lân cận đều lưu truyền câu chuyện về Yên Chi, truyền thuyết này có mười mấy phiên bản, hầu hết đều mang màu sắc thần bí kỳ dị, mọi người tin rằng hồn ma của Yên Chi vẩn nghiễm nhiên tồn tại. Nhưng tấm bia mộ của u Dương An được khai quật lên khiến tất cả những truyền thuyết khác đều trở nên mờ nhạt. Có lẽ, chỉ có thể phát chân tướng từ trong mộ".

      “Ông có tin những ghi chép tấm bia mộ là ?”

      biết, nhưng từ góc độ nghiên cứu lịch sử cho thấy độ tin cậy của bia mộ cao hơn rất nhiều so với tài liệu văn hiến, càng cao hơn rất nhiều các truyền thuyết dân gian. Bởi vì người chết và mộ phần biết dối”.

      Người chết và mộ phần biết dối? Đúng vậy, thế giới này chỉ có người sống mới biết dối. Bỗng nhiên, tôi thấy mình như rơi xuống đáy vực sâu thẳm “La sinh môn” của Akira Kurosawa.

      Khi quay đầu lại, tôi mới phát ra là năm rưỡi chiều, lỡ mất chuyến xe cuối cùng trở về Thượng Hải.

      Vội vã rời khỏi viện bảo tàng, sắc đêm bao trùm thị trấn Tây Lãnh. làn gió lạnh thổi qua, tôi ngửi thấy rất nhiều mùi khói đốt, trước cửa mỗi hộ gia đình đều đốt tiền vàng mã, thậm chí còn có thể nhìn thấy số bài vị của tổ tông nhà họ.

      Trời ơi, tôi ở Hoang thôn tới mức mộng mị rồi, hôm nay là ngày 23 tháng Chạp, dương lịch là ngày 29 tháng 12, ngày mai chính là đêm trừ tịch. Trong phong tục truyền thống của người Trung Quốc, ngày 23 tháng Chạp là ngày lễ bái tổ tông, nhà nhà đều phải đốt tiền giấy, dập đầu bái lạy tổ tông.

      Tôi lập tức nhớ tới tấm bia mộ đó, năm đó u Dương An thổi chiếc sáo thần bí trong đêm 23 tháng Chạp và làm cho Yên Chi sống lại. Và hôm nay chính là ngày 23 tháng Chạp, chiếc sáo thần bí đó giờ đây ở trong tay cha của Tiểu Chi, mẹ ấy cũng mất từ lâu rồi. u Dương tiên sinh là hậu duệ của u Dương An và Yên Chi, có phải ông ấy muốn lập lại kỳ tích của tổ tiên để tiếng sáo đêm 23 tháng Chạp thức tỉnh hồn của người vợ?

      Phút chốc, tôi ra quyết định – lập tức trở lại Hoang thôn, tôi nhất định phải vén mở bức màn bí mật này.

      Bến xe thị trấn Tây Lãnh còn bóng người từ lúc nào rồi, tôi đành phải móc đèn pin ra, lần theo con đường hướng về Hoang thôn bộ hành những ngọn núi hoang vu.

      Sau hai tiếng đồng hồ, lúc tôi đặt chân tới Hoang thôn bỗng nghe thấy tiếng sáo kỳ dị, giống như thủy triều trong đêm đen dâng lên, chầm chậm ập vào tai tôi. Trong tiếng sáo đáng sợ đó, tôi thở dốc chạy về phía Hoang thôn, lờ mờ nhìn thấy tấm bia đá khổng lồ, giống như tòa lâu đài sừng sững trong bóng đêm – tới Hoang thôn rồi.

      Tức khắc, tiếng sáo núi lại dần dần mất , tôi chạy thẳng mạch tới trước cổng “Tiến Sỹ Đệ”.

      Cổng chính khóa, tôi lập tức xông vào. Đèn pin soi vào bóng tối đặc quánh của ngôi nhà cổ, hình như có tầng khói sương bay lượn, tim tôi càng đập càng nhanh, trong tiền sảnh tối om hình như có người, tôi chuyển tới sân sau, cả ngôi nhà cổ “Tiến Sỹ Đệ” tĩnh mịch như chết.

      Tôi xông vào phòng Tiểu Chi tối đen, đèn điện tài nào bật sáng được, đành phải lấy đèn pin soi, đến cả bóng ma cũng có. Sau khi bước ra tôi mới nhìn thấy, căn gác tôi từng ở sáng ánh đèn leo lắt.

      Tôi lập tức bước lên căn gác đó, khẽ đẩy cửa căn phòng tôi từng ở, lại là ngọn đèn dầu đó, ánh lửa lập lòe chiếu sáng căn phòng tăm tối, bên kia tấm bình phong sơn mài, tôi nhìn thấy bóng thiếu nữ.

      “Tiểu Chi!”

      Tôi lập tức lao tới phía sau bình phong, quả nhiên là ấy, ấy mặc chiếc áo ngủ màu trắng, xõa mái tóc dài đen bóng, thẫn thờ nhìn những bức vẽ bức bình phong. Tôi vịn vào bờ vai lạnh ngắt của ấy, ấy từ từ quay đầu lại, khuôn mặt xinh đẹp dưới ánh nến u trông đáng thương. Nhưng đôi mắt của ấy vẫn hồn, thẫn thờ nhìn tôi, ràng là lại mộng du rồi.

      Tôi lắc lắc vai ấy : “ tỉnh lại ”.

      Tiểu Chi trả lời, chỉ chớp chớp mắt giống như viên đá quý mà đen tỏa ra ánh sáng lấp lánh.

      Tôi nhìn bức tranh cuối cùng bình phong : “Có lẽ cha chưa từng với về câu chuyện của Yên Chi thực ra vẫn còn phiên bản được đào từ dưới mộ lên”.

      ấy sững ra lúc, từ từ quay đầu lại : “Hồn ma trở về?”

      Tôi bỗng chốc ngớ người ra, hình như tiếng của ấy được phát ra từ miệng mà là trực tiếp chui vào trong não tôi, … giọng của ấy giống Tiểu Chi! Hìn như đến cả đôi mắt cũng có chút giống.

      Ánh đèn dầu mù mờ rọi lên mắt và tóc ấy, lên cả áo ngủ trắng toát người giống như cố nhân bước ra từ tấm bình phong.

      Lúc này tôi mới phát ra, ấy vốn dĩ phải là Tiểu Chi.

      Bờ vai ấy lạnh toát nhường vậy, ánh mắt kỳ dị nhường vậy, tôi cảm thấy sợ hãi thấu tận xương tủy, lùi lại bước rộng: “ rút cuộc là ai?”

      ấy là mẹ của Tiểu Chi”.

      giọng khàn khàn bỗng cất lên sau lưng khiến tôi dựng cả tóc gáy, dưới ánh đèn dầu u, khuôn mặt trắng bệch hốc hác của u Dương tiên sinh đột ngột lên.

      Ông bước tới cạnh người phụ nữ, tay còn cầm cả chiếc sáo thần bí, lạnh lùng : “Cậu nhìn thấy cảnh tượng nên nhìn thấy”.

      Tôi run rẩy lắc đầu : “Thế là thế nào? Mẹ của Tiểu Chi phải chết từ lâu rồi sao?”

      u Dương tiên sinh rầu rĩ : “Hai mươi năm trước, khi Tiểu Chi mới ra đời chưa được bao lâu, tôi công tác xa thời gian dài, khi tôi trở về mẹ của Tiểu Chi lâm bệnh qua đời rồi. Nhưng tôi tài nào chấp nhận được việc ấy chết, cuộc đời tôi thể mất ấy, tôi đau khổ khôn cùng, muốn mình sống cõi đời này nữa. lâu sau, ngôi mộ cổ của tổ tiên chúng tôi bị đào trộm, tôi cùng đội khảo cổ đào được chiếc sáo thần bí này, tôi thầm cất giấu nó rồi nghiên cứu tấm bia mộ đó. Câu chuyện của tổ tiên cho tôi gợi ý lớn, tôi tin rằng chỉ cần làm theo cách được ghi chép lại bia mộ vợ tôi nhất định trở về bên tôi”.

      “Thế nên bác mới thường xuyên lên núi thổi sáo lúc nửa đêm?”

      “Đúng thế, cậu có biết phép thuật của chiếc sáo này ? Nó có thể đem người mà cậu thương trở về bên cậu. Đúng vậy, ấy trở về rồi”. Ánh mắt và khẩu khí của ông càng lúc càng dồn dập, nhàng vuốt tóc người vợ ở bên, “Mỗi khi tôi thổi sáo lúc nửa đêm, ấy thầm lặng lẽ đến “Tiến Sỹ Đệ”. Tuy tôi dần dần già , nhưng ấy mãi luôn trẻ đẹp. Tiếng sáo thê lương lúc nửa đêm dẫn ấy về nhà, ấy chải tóc trong phòng, dạo trong sân, đây chính là hốn ma trở về”.

      Tôi lại nhớ tới bức ảnh lúc mẹ Tiểu Chi còn sống trong căn phòng của ấy, ràng là giống hệt ấy, thảo nào khiến tôi tưởng lầm đó là Tiểu Chi. Lúc này, tôi nhìn đôi vợ chồng người ma trước mặt, người vợ trẻ trung xinh đẹp ngẩng đầu lên nhìn người chồng già cả héo hon, ánh mắt đó khiến tim ta vỡ vụn. Ông ấy ấy sâu đậm, bất luận là ấy còn sống hay chết, dù là người ma dương ngăn cách nhung ông vẫn khát khao người mà mình thương trở về nhà.

      u Dương tiên sinh chậm rãi : “Nước của biển mới thực là nước. Mây vu sơn mới thực là mây”.

      Lòng tôi cũng xót xa, đây là câu thơ trong bài thơ “Xa nhớ” của Nguyên Chấn sáng tác để tưởng nhớ người vợ, nhưng tôi lại nhớ tới Tiểu Chi: “Tiểu Chi sao? ấy đâu rồi?”

      u Dương tiên sinh trả lời, mắt ông đột ngột trợn tròn lên, giơ tay về phía sau lưng tôi.

      Trong giây phút tôi chuẩn bị quay đầu lại, cơn mộng mị lập tức ào tới, trước mắt chỉ có tấm bình phong cổ phản chiếu ánh đèn dầu êm u. Người phụ nữ triều Minh thổi chiếc sáo tay.

      Trong tiếng sáo du dương cổ xưa đó, vùng nước biển tối đen bao trùm lấy tôi cho tới khi mất hết mọi nhận thức…

      - 5 -

      Sáng sớm tỉnh dậy, toàn thân tôi đau nhức, đầu kêu ong ong, sau cơn mộng mị, tôi nhớ lại tất cả những gì xảy ra tối hôm qua, lập tức bật dậy sàn gỗ ngôi nhà cổ kính.

      “Tiểu Chi! Tiểu Chi!” Tôi gọi to rồi lao xuống gác, nhưng ngôi nhà cổ “Tiến Sỹ Đệ” thênh thang bóng người, tìm khắp tất cả các phòng đều chỉ thấy lớp bụi mỏng, giống như rất lâu rồi có người ở. Còn trong phòng của Tiểu Chi còn lưu lại bất cứ thứ gì chỉ trừ bức ảnh của mẹ ấy.

      Thế này là thế nào? Họ đều đâu hết rồi? Tiểu Chi và cha của ấy đâu? Tôi vẫn lớn tiếng gọi ấy, nhưng ngôi nhà cổ tĩnh mịch giống như ngôi mộ cổ. Tôi nhớ lại tất cả những gì xảy ra tối qua, mẹ của Tiểu Chi chết từ lâu, u Dương tiên sinh thổi sáo gọi hồn – đây là cơn ác mộng hay là ảo giác đáng sợ?

      , tôi dám nghĩ tiếp nữa.

      Tôi lao ra khỏi cổng “Tiến Sỹ Đệ”, phát ra Hoang thôn rút cuộc cũng có chút hơi người, có người dán những câu đối tết lên cửa nhà. Đúng, hôm nay là 30 tết rồi, là ngày trở về nhà ăn bữa cơm tất niên.

      Tôi tới thẳng ủy ban thôn và gặp trưởng thôn, buồn để ý tới những điều cấm kị nữa, hỏi thăm họ về tình hình của Tiểu Chi và u Dương tiên sinh.

      Câu trả lời của trưởng thôn khiến tôi hồn xiêu phách lạc, ông bảo u Dương tiên sinh chết từ lâu rồi, ba năm trước mất vì bệnh ung thư và mất trong “Tiến Sỹ Đệ”. Đích thân trưởng thôn tự tay khiêng xác u Dương tiên sinh ra ngoài mai táng. Còn vợ của u Dương tiên sinh hai mươi năm trước trong lúc ông công tác xa lâm bệnh qua đời tại nhà.

      Còn về Tiểu Chi, trưởng thôn thở dài: “Đứa con đó rất thông minh, thi đỗ đại học ở Thượng Hải. Tiếc là năm trước bị tai nạn đường sắt tạ Thượng Hải, vậy là ngọc hoa tan nát”.

      Nghe tới đây tim tôi bỗng lạnh toát, tôi bụm miệng dám hét lên, tôi sợ mình phát điên tại đây. Cả nhà ba người trong “Tiến Sỹ Đệ” đều chết hết cả rồi. Sao lại có thể như vậy chứ? Vậy Tiểu Chi và u Dương tiên sinh mà tôi gặp là ai đây?

      Nhưng tôi lại dám hết những chuyện này ra, tôi sợ người dân Hoang thôn tưởng tôi là bệnh nhân tâm thần mà nhốt lại. Tôi thể ở lại Hoang thôn nữa rồi, có lẽ ở đây chỉ thuộc về thời đại cổ xưa nào đó, thuộc về những truyền thuyết trong sách cổ.

      Tiểu Chi – Trong lòng tôi gọi thầm tên ấy, còn người vội vã rời khỏi Hoang thôn. Tấm bia tiết hạnh vẫn dựng đứng sừng sững trước cổng thôn giống như bia mộ khổng lồ.

      Vĩnh biệt nhé, Hoang thôn.


      LỜI KẾT

      Sau khi trở về Thượng Hải, tôi hỏi người bạn làm việc trong công ty đường sắt Thượng Hải. Cậu ấy kể cho tôi nghe mùa đông năm ngoái, chính trong ga tàu điện ngầm mà tôi ký tên bán sách xảy ra vụ tai nạn nghiêm trọng: khi tàu điện ngầm chuẩn bị vào ga, nữ sinh viên hai mươi tuổi xảy chân rơi xuống đường ray, bị tàu điện cán chết tại chỗ, tên của nữ sinh đó là – u Dương Tiểu Chi.

      Cậu bạn hề để ý thấy, nước mắt tôi lặng lẽ chảy xuống. Cho tới tận lúc này tôi mới nhận ra mình Tiểu Chi tự lúc nào, xinh đẹp chết năm trước.

      Đây là câu chuyện thê lương và đẹp đẽ, tôi quyết định viết lại câu chuyện này và để nó trở thành cuốn tiểu thuyết xuất sắc. Tôi nghĩ, nếu Tiểu Chi tới trước mặt tôi vào buổi tối kí tên bán sách đó, nếu như ấy dẫn tôi tới Hoang thôn, tôi vĩnh viễn biết được câu chuyện này. Và trong cái thành phố biển người đông đúc này, ấy lại cùng tôi tương ngộ, đó chính là ân tứ mà ấy dành cho tôi. ấy ấy thích tiểu thuyết của tôi, bởi vậy ấy mới ân tứ dành cho tôi câu chuyện và linh cảm tuyệt diệu.

      Tôi còn có thể gặp lại ấy ?

      Mấy hôm sau, đường về nhà, rất ngẫu nhiên qua sạp hàng rong,t rong lòng bỗng giống như bị nhói đâm cái, chiếc sáo đập vào mắt tôi. Tôi lập tức cúi người xuống cẩn thận cầm chiếc sáo lên: dài khoảng ba bốn chục phân, thân sáo sơn màu nâu đậm, giữa lỗ sáo có treo những sợi dây màu hồng tím, màng sáo mỏng như cánh ve che lấp miệng sáo.

      thể tưởng tượng nổi, nó thực rất giống.

      Gió lạnh hoàng hôn thổi tung tóc tôi, tôi run rẩy cầm chiếc sáo, nhàng vuốt nó giống như chạm vào làn da thiếu nữ. Thanh trúc lạnh toát nhường vậy, hơi lạnh thấm sâu vào ngón tay và huyết quản khiến mắt tôi bỗng trở nên mờ ảo, khuôn mặt dẫn hồn tôi vào những giấc mơ từ từ lên.

      Tôi lập tức móc tiền ra mua chiếc sáo này, rón rén cẩn thận ôm nó vào lòng giống như nó sức sống vậy. Màn đêm dần buông xuống, tôi vội vã trở về nhà nhưng bước vào cửa mà thẳng lên sân thượng của tòa nhà.

      Sân thượng ban đêm rất lạnh, gió lạnh cắt da cắt thịt xuyên vào lóng khiến tôi có chút chao đảo. Đứng sân thượng nhìn về tứ phía, trước mắt là Thượng Hải về đêm tôi lôi cuốn con người, vô số những tòa nhà chăng đèn nhấp nháy cao sừng sững, giống như thế giới ảo ảnh trong mơ.

      Tiểu Chi, em ở đâu?

      Tôi lấy chiếc sáo trong lòng ra, ngẩng đầu nhìn lên bầu trời, chỉ thấy vầng trăng lưỡi liềm treo lơ lửng bầu trời bí . sân thượng cao cao này, ánh trăng như gột rửa chảy vào đồng tử, tôi bất giác nâng chiếc sáo lên, đặt chiếc sáo lên moi. Hít hơi sâu để khí lạnh buốt đổ vào yết hầu, tràn vào lòng ngực, mở ra cánh cửa phong trần từ đáy tim.

      Nín thở lúc, tôi thở ra hơi dài giống như được sống dậy, hơi thở ấm nóng chầm chậm tràn vào trong sáo, xoay chuyển trong chiếc sáo thon dài, va đập ngân nga, phát ra thanh cộng hưởng bi ai, rồi chuyển thành sóng du dương bay ra khỏi lỗ sáo bay bổng bầu trời đêm xa xăm và bí .

      Chìm đắm trong tiếng sáo cổ xưa du dương này, nhận thức của tôi dần dần mờ nhạt – lại ngửi thấy mùi hương u uất đó, dường như có ngón tay thon dài nhàng đặt lên vai tôi.

      Sái Tuấn

      Ngày 8 tháng 11 năm 2004


      END.

    2. ^^! Nếu bạn không gửi link bài viết trên Facebook được, hãy sử dụng link trong khung này để chia sẻ bài viết :