1. Tất cả những truyện có nguồn từ diễn đàn LQĐ thì ko cần xin phép

    Những truyện của bất kì wordpress, web hay forum khác phải được sự cho phép của chính chủ và post sau chính chủ 5 chương hoặc 5 ngày

    Không chấp nhận comt khiêu khích, đòi gỡ truyện hay dùng lời lẽ nặng nề trên forum CQH. Nếu có sẽ bị xóa và ban nick vĩnh viễn!

    Quản lý box Truyện đang edit: banglangtrang123

       
    Dismiss Notice

Nhi nữ hầu môn - Tố Tố Tuyết (41)

Thảo luận trong 'Truyện Đang Edit'

  • ^^! Nếu bạn không gửi link bài viết trên Facebook được, hãy sử dụng link trong khung này để chia sẻ bài viết :
    1. huyetsacthiensu

      huyetsacthiensu Well-Known Member

      Bài viết:
      3,280
      Được thích:
      7,821
      Chương 167: Tê Hà Tự Dâng Hương
      Edit: Đường Linh

      Beta: Ánh Nguyệt

      Tuệ An trở lại Kỳ Phong viện lập tức tới thư phòng, Quan Nguyên Hạc thấy nàng đến vội đứng lên, :

      phải nàng muốn xem bệnh cho mấy con ngựa bị gãy xương, đúng lúc vừa chuyển vào phủ xong, ở ngay chuồng ngựa phía sau, nàng có cần nhìn chút ?”

      Tuệ An nghe vậy cười gật đầu, :

      “Chờ , để ta lấy rương thuốc.”

      Nàng xong liền chạy vào thư phòng, Quan Nguyên Hạc thấy nàng kích động hơi cong môi cười.

      Hai người tới chuồng ngựa, thấy phía trong có ba con ngựa gãy xương nằm đó, con kịch liệt co giật. Tuệ An nhảy vào chuồng ngựa, ngồi xổm trước mặt con ngựa vì đau đớn mà ra đầy mồ hôi kia, thấy chân trước bên phải của nó sưng tấy lên, cách nào co duỗi, liền biết nó bị nứt xương ngày đêm. Nàng lấy ra bộ ngân châm từ trong hòm thuốc, đâm hai châm vào huyệt vị bụng ngựa, tức con ngựa kia liền yên lặng rất nhiều, chỉ nằm mặt đất thở phì phò ngừng.

      Tuy Quan Nguyên Hạc vẫn biết Tuệ An rất có năng lực trong việc chữa trị cho ngựa, nhưng rốt cuộc đây cũng là lần đầu tiên y tận mắt chứng kiến nàng ra tay, thấy vậy bất giác nhướng mày, liền nhớ lại trước kia lần đầu tiên nàng tới Quan phủ, cũng là tại chuồng ngựa này, nàng và y cùng nhau đỡ đẻ cho Lưu Vân, nàng còn to gan cố ý vẩy y thân dầu mỡ.

      Hai năm qua, Tuệ An của y tự tin ung dung hơn trước rất nhiều, cũng trổ mã càng thêm xinh đẹp, thứ duy nhất thay đổi chính là vẻ thông minh linh động xen lẫn nghiêm túc và chuyên chú nơi chân mày khóe mắt kia.

      Quan Nguyên Hạc thấy Tuệ An vô cùng nghiêm túc, liền ngồi xuống bên cạnh nàng, nghe Tuệ An :

      “Nơi này rất khó ngửi, chàng cần phụng bồi ta đâu.”

      Quan Nguyên Hạc chỉ giọng hừ tiếng, lại tránh ra, Tuệ An thấy vậy cũng khuyên nhiều, chỉ hơi liếc Quan Nguyên Hạc, cười :

      “Vừa rồi châm vào hai huyệt đạo kia là để tạm dừng cơn đau, con ngựa này chỉ bị nứt xương, cũng quá nghiêm trọng, mấy ngày trước chàng cho ta phương thuốc kia, ta có bỏ thêm hai vị thuốc, làm thành thuốc cao, hôm nay tiện thể cho nó thử trước, nhìn xem hiệu quả của thuốc này thế nào.”

      Tuệ An vừa vừa thoăn thoắt chuyển tay băng bó quanh chân phía trước bị sưng của con ngựa, đợi máu chậm rãi ngừng lại, mới lau chùi miệng vết thương, bôi thuốc mỡ lên, tiếp tục dùng vải sạch băng bó miệng vết thương, lại lấy thanh trúc cố định chỗ sưng.

      Lúc làm những việc này, mười ngón tay trắng trẻo thon dài của nàng ngừng chuyển động, cực kỳ khéo léo, động tác như nước chảy mây trôi, ngón tay mảnh khảnh trắng thuần kia tràn đầy máu đen của ngựa, đối lập mãnh liệt với nhau, tôn lên vẻ đẹp kinh người.

      Quan Nguyên Hạc nhìn chớp mắt, đợi Tuệ An lại ở vết thương thắt vòng vải xong, đứng dậy, y mới dời mắt.

      Bên kia Tuệ An phân phó Mã quan buộc đầu còn lại của mảnh vải vào khung gỗ nơi cửa chuồng, treo chân con ngựa lên, mới :

      “Cách canh giờ xoa bóp đùi cho nó, ba ngày sau hãy tháo vải xuống, cho nó hoạt động cái chân bị tổn thương, bảy ngày sau ta lại đến xem.”

      Nàng nhìn hai con ngựa khác, thở dài tiếng, chỉ vào con ngựa đen kia, với mã quan:

      “Con ngựa này xương đùi toàn bộ vỡ nát, có cách nào chữa trị, mang ra phủ .”

      Mã quan đáp tiếng, kêu hai gã sai vặt đặt con ngựa đen kia lên xe đẩy, con ngựa kia giống như có thể nghe hiểu tiếng người, hí vang tiếng, lại còn dùng đôi nước mắt rưng rưng nước nhìn chằm chằm vào Tuệ An, ánh nhìn tràn đầy khẩn cầu cùng bi ai. Con ngựa này vĩnh viễn có cách nào đứng thẳng, mang cũng chỉ có thể bị người làm thịt, mạng đều tận. Tuệ An nhìn đôi mắt kia của nó, trong lòng lại sinh ra cảm giác khó chịu, thở dài cái, :

      “Nếu có thể tìm được biện pháp làm mới xương tốt biết bao, người xưa từng có thể dùng xương thay xương, ta cũng thử qua, nhưng vẫn thể giác ngộ huyền cơ trong đó…”

      Quan Nguyên Hạc thấy nàng bởi vì con ngựa mà khổ sở, khỏi buồn cười, tiến lên nắm tay nàng, :

      “Ta lại biết lòng thương xót của nàng lớn như thế đấy, vì con ngựa, đáng sao? Nắng bắt đầu lên rồi, theo ta trở về .”

      Tuệ An nghe vậy liếc Quan Nguyên Hạc cái, :

      “Người phế chân vẫn còn sống được, nhưng ngựa khi gãy xương, mất chính là mạng của nó. năm biết ở biên cương có bao nhiêu con ngựa bởi vì gãy xương mà mất mạng như vậy, chẳng lẽ đáng thương sao?”

      Quan Nguyên Hạc thấy Tuệ An bĩu môi, vẻ mặt cãi chày cãi cối, trong lòng mặc dù cảm thấy buồn cười, nhưng ngẫm lại lời nàng quả thực cũng sinh lòng thổn thức. Y cảm thấy con ngựa đáng thương, chỉ nghĩ mỗi năm biên cương bởi vậy giết vô số ngựa tốt, chỉ lãng phí quân lực, tăng thêm gánh nặng cho triều đình, còn cần nhóm người tay nghề đặc biệt đến xử lý ngựa chết. Huống chi chiến mã Đại Huy vốn khan hiếm, nuôi dưỡng con ngựa cũng dễ dàng, lại bị bỏ qua như thế, xác thực là chuyện cực kỳ lãng phí. Nghĩ như vậy, nét vui vẻ mặt y bỗng nhiên biến mất, :

      “Ta cho người tìm sách rồi, nàng chờ chút .”

      Hai người trở lại phòng, tắm rửa sạch , sương phòng bày sẵn cơm, cùng nhau dùng cơm xong, Tuệ An tự về phòng nghỉ trưa, Quan Nguyên Hạc như cũ thư phòng.

      Đợi Tuệ An tỉnh dậy là buổi chiều, trời mây đen giăng lối, u u ám ám, dường như sắp mưa, nàng gọi Đông Nhi và Xuân Nhi cùng ra khỏi sân , đường về phía Mai viên.

      Khoảng cách giữa Kỳ Phong viện và Mai viên cũng xa, Tuệ An vừa vừa ngắm cảnh, ngược lại khó được thanh nhàn. Đợi qua cửa thùy hoa, nàng đột nhiên nghe thấy cách đó xa truyền đến thanh nam nữ trêu chọc, sau đó chính là vài tiếng rên rỉ mập mờ, hình như là truyền ra hòn non bộ ven đường.

      Tuệ An nghe tiếng liền biến sắc, tiểu viện này bên trái là Khiết viện của Quan Lễ Khiết, bên phải nối thẳng đến Diêu viện của hai thứ nữ khác của Quan Bạch Trạch, ban ngày ban mặt nếu để các nương đụng phải chuyện như thế, thanh danh gì đó Quan phủ cũng đừng nghĩ nữa, còn nếu để khách khứa bắt gặp, nề nếp gia phong lại càng mất hết.

      Tuệ An chỉ cho là chúng người hầu đương vụng trộm, lúc này liền nháy mắt ra hiệu cho Đông Nhi, Đông Nhi cất bước về phía hòn non bộ kia, bất ngờ từ sau núi giả có tiểu nha hoàn vừa cười vừa chạy ra, xiêm y người nha hoàn kia nửa kín nửa hở, sắc mặt ửng đỏ, mắt hạnh má đào, như có như toát ra phong tình. Nàng vừa cười vừa nghiêng đầu buộc lại tà áo, còn ra vẻ giận dỗi :

      “Đông Vân thích như vậy đây, phải Lục gia có chuyện tìm tỷ tỷ ngài sao, ngài đến nhầm chỗ rồi.”

      Lúc Đông Vân kia chuyện mặt mày tình ý, nàng vừa quay đầu, nhìn thấy Tuệ An, nhất thời liền kinh hãi biến sắc, ‘phịch’ tiếng quỳ xuống.

      Tuệ An nhìn nàng, sau đó phía sau hòn non bộ có nam tử quần áo chỉnh tề bước ra, lại chỉ là đứa bé trai chưa đủ lông đủ tóc, vẻ mặt hớn hở, luôn miệng hô ‘tỷ tỷ tốt’, đúng là Quan Nguyên Trác.

      Tuệ An lạnh lẽo liếc nhìn, thấy môi hồng răng trắng, thân trang phục đẹp đẽ quý giá, người còn có thể ra vài phần thanh quý bẩm sinh, chỉ có điều khuôn mặt đầy vẻ lưu manh, khiến người ta sinh lòng chán ghét.

      Quan Nguyên Trác cũng ngờ ở đây còn có người, chống lại ánh mắt của Tuệ An, run rẩy cái, nụ cười cứng ở mặt, lát mới giật mình phục hồi tinh thần, lúng túng hành lễ với Tuệ An, cúi gằm mặt mà :

      “Chị dâu!”

      Tuệ An thấy bộ dáng khúm núm kia của càng thêm chán ghét, lúc này nếu là hai hạ nhân hồ nháo, bị nàng đụng phải tất nhiên thiếu được quản giáo phen, nhưng đây lại là Quan Nguyên Trác, Tuệ An cũng chẳng thừa hơi dính đến loại chuyện này, biết đâu còn phát sinh cố với Thôi thị nữa.

      Lúc trước nàng cũng nghe bọn hạ nhân Quan Nguyên Trác suốt ngày dây dưa với bọn nha hoàn trong viện, nghĩ tới mới 13, nề nếp gia phong của Quan phủ lại nghiêm khắc, hơn nữa gặp qua Quan Nguyên Trác hai lần, nàng cũng cảm thấy đứa bé rụt rè biết lễ, chỉ cho đấy là lời đồn đại, ai ngờ thằng nhóc này còn tuổi mà dám hồ nháo như thế rồi. Thôi thị thế nào cũng là đích nữ vọng tộc, sao kiến thức hạn hẹp thế biết, cả ngày chỉ biết tranh giành quyền lợi với người khác, lại biết cách quản thúc con trẻ, nuôi ra đồ hỗn trướng bất tài như vậy, có ích lợi gì?

      Tuệ An nghĩ tới đây, bất giác cười mỉa mai, nàng thu hồi ánh mắt, cũng nhìn hai người kia nữa, sải bước về phía trước.

      Đông Nhi và Xuân Nhi sửng sốt chút, mới vội vã bước nhanh đuổi theo. Ba người lại qua hành lang, Đông Nhi mới :

      “Đông Vân là nha hoàn tam đẳng trong phòng Lan di nương, nếu để phu nhân biết chuyện, nàng hẳn là sống nổi nữa.”

      Xuân Nhi :

      “Nàng ta sợ cái gì, chỉ cần Lục thiếu gia làm ầm ĩ với phu nhân nháo hồi, còn phải chuyện gì đều theo ý sao. Lục thiếu gia chính là điểm chí mạng của phu nhân, phu nhân thương ghê lắm. Lục thiếu gia vừa thấy gia chúng ta giống như chuột thấy mèo, tiếng cũng dám , lại ngờ đúng là loại người… như vậy”

      Mặt Xuân Nhi lộ vẻ khinh bỉ, nhưng rốt cuộc nhớ thân phận Quan Nguyên Trác nên cũng mắng ra lời, Tuệ An nghe hai người chuyện, bất giác tâm tư khẽ động. Thôi thị tuy xuất thân danh môn, nhưng rốt cuộc chỉ là bàng chi, gia đình lại sa sút, chỉ sợ lúc ở trong phủ cũng chịu ít khổ, thế nên kiến thức mới hạn hẹp như thế, chỉ biết nhìn chằm chằm vào tiền bạc trong nhà. Bà gả đến nhiều năm mới sinh được Quan Nguyên Trác, Quan phủ vốn có nhiều con nối dòng, của cải cuối cùng phải đều chia cho con cháu trong nhà cả sao. Đông Vân kia cũng biết sao lại cấu kết được với Quan Nguyên Trác, nghe Lan di nương và Thôi thị hợp nhau lắm kia mà!

      Lại tới Quan Bạch Trạch cũng phải người tham luyến sắc đẹp, trong phủ chỉ có ba tiểu thiếp, còn đều có con cái bên người, mà tuổi tác các bà cũng .

      Dung di nương là con của của người hầu trong phủ, lúc mẹ đẻ Cố thị của Quan Nguyên Hạc có thai được thu làm thông phòng, bởi vì bà có Đại tiểu thư Quan Lễ Thư nên lại được nâng lên thành di nương. Đại tiểu thư sớm xuất giá, Dung di nương này cũng hơn bốn mươi, nay sủng ái chẳng được bao nhiêu.

      Mà Lan di nương cũng là do Cố thị nâng làm tiểu thiếp, nàng là lương thiếp từ ngoài vào phủ, sinh dưỡng Tứ thiếu gia Quan Thần Chi cùng Lục tiểu thư Quan Lễ Nhuế.

      Mặt khác còn có Thanh di nương, nay tuổi hơn hai mươi, là Thôi thị làm chủ nạp cho Quan Bạch Trạch, sinh dưỡng Thất tiểu thư Quan Lễ Nhược, giờ đa số thời gian Quan Bạch Trạch đều ở chỗ Thanh di nương và Lan di nương.

      Thanh di nương cũng thôi , rốt cuộc cũng là người trẻ tuổi, nhưng Lan di nương kia bây giờ gần bốn mươi, người đẹp hết thời như bà vẫn còn được cưng chiều, dĩ nhiên khiến mọi người trong phủ thể thay đổi cách nhìn. Hơn nữa bà cũng là thiếp thất duy nhất của Quan Bạch Trạch sinh hạ cả trai lẫn , nữ nhân này há lại đơn giản, chuyện nha đầu trong viện của bà dính dáng đến Quan Nguyên Trác, Thôi thị có thể biết, nhưng Lan di nương thông minh như vậy sao?

      Chẳng qua có người tìm Thôi thị gây phiền toái, Tuệ An cũng vui vẻ đứng ngoài xem náo nhiệt, nhưng hơi đâu bỏ đá xuống giếng gì đó cả.

      Trò khôi hài vừa rồi cũng khiến cho Tuệ An mất hứng, đợi lúc nàng đến Mai viên vô thức ném chuyện kia ra sau đầu.

      Nàng vào viện, gặp Vân Di đứng dưới mái hiên nhìn bầu trời, bọn nha hoàn gấp rút chuyển mấy chậu hoa quý vào phòng. Vân Di nghĩ Tuệ An lại tới đây, nàng bước nhanh tiến lên thi lễ, mặt phân phó Bạch Dung pha trà, mặt kéo tay Tuệ An, :

      “Sao lúc này chị dâu lại tới đây?”

      Tuệ An cười với Bạch Dung:

      cần vội, ta vài lời lời rồi , mắt thấy trời cũng sắp mưa rồi.”

      Thấy Bạch Dung cười đứng lại, nàng mới với Vân Di:

      “Ta coi mấy hôm nay khí trời mát mẻ, muốn ra ngoài dạo chút, định mời muội muội sáng mai theo giúp ta Tê Hà tự dâng hương, biết muội muội có rảnh ?”

      Vân Di nghe vậy liền biết lần này là vì chuyện của Vân Tri, ánh mắt nàng sáng ngời, vội cười :

      “Ta ở trong phủ sớm buồn bực từ lâu, chị dâu nguyện ý mang Vân Di theo là quá tốt. Để ta kêu Thù mama chuẩn bị đồ, biết chúng ta có nghỉ lại núi ?”

      Tuệ An cười :

      “Chỉ buổi sáng, chiều muộn liền về, ở qua đêm trong chùa đâu.”

      Vân Di cười đáp ứng, Tuệ An cũng ở lâu, xoay người lại dẫn hai người Đông Nhi ra khỏi Mai viên, Vân Di thấy mây đen trời như muốn ập xuống, vội gọi nha hoàn lấy ô đưa cho Đông Nhi mang theo, sau đó mới đè tâm tình kích động trở về trong phòng.

      Trong phòng, Thù mama thấy nàng vừa khóc vừa cười, bà thở dài tiếng, :

      nương đừng suy nghĩ nhiều nữa, vốn thân thể nương tốt, nếu còn suy nghĩ vẩn vơ, sáng mai lại ngã bệnh sao, chẳng phải thấy được Tri thiếu gia rồi?”

      Vân Di nghe vậy nhanh chóng lau lau khóe mắt, lúc này mới ngẩng mặt :

      “Vú nuôi, ta nhất định phải làm cho Tri Nhi có thể quang minh chính đại mà sống. Nỗi oan của ca ca năm đó ta thay huynh ấy rửa sạch. Vân gia ta thể cứ tiếp tục xuống dốc như vậy được. Trước kia chỉ có mình nữ tử ta đây gì cũng đều là si tâm vọng tưởng, nhưng nay Tri Nhi vẫn sống sót trở lại, đây là ông trời có mắt, nhất định là cha mẹ, ca ca cùng chị dâu trời có linh thiêng phù hộ chúng ta.”

      Thù mama nghe vậy hốc mắt đỏ lên, hồi lâu mới :

      nương nghĩ kỹ chưa? Ngài muốn đáp ứng cầu kia của Quan tướng quân?”

      Vân Di nghe vậy liền gật đầu, :

      “Phải, ta suy nghĩ kỹ lắm rồi. Giờ Tri Nhi chỉ còn lại người thân duy nhất là ta đây, ta thể khiến thằng bé phải chịu đủ tủi nhục nữa.”

      Thù mama vừa nghe vừa sụt sùi rơi nước mắt, nghẹn ngào :

      “Chỉ khổ cho nương thôi, xưa nay nương vẫn là người có chính kiến, nương nghĩ kỹ, vú nuôi cũng ngăn cản nữa, thế nhưng mặc kệ chỗ nào, nương cũng phải mang theo vú nuôi, vú nuôi hầu hạ nương cả đời.”

      Vân Di nghe vậy hốc mắt cũng đỏ theo, nàng cười tiến lên kéo tay Thù mama, :

      “Di Nhi tất nhiên chỗ nào cũng phải mang theo vú nuôi, nếu Di Nhi cũng ăn ngon ngủ yên mất.”

      Thù mama nghẹn ngào gật đầu, vuốt ve tóc Vân Di, than tiếng mới :

      “Trước kia vẫn nghĩ Quan tướng quân là người tốt, ai ngờ ngài ấy thế nhưng…”

      Vân Di nghe vậy vội vàng cắt đứt lời Thù mama :

      “Vú nuôi về sau chớ có mấy lời này nữa, chúng ta nên cảm ơn người ta mới đúng, người ta quen biết, lại chiếu cố chúng ta lâu như vậy, cứu ta ra khỏi bể khổ, đây là đại ân đại đức, ở đâu còn dám cầu gì hơn, người ta lại nợ chúng ta cái gì. Huống chi cũng phải là ngài ấy ép buộc ta, là tự ta nguyện ý…”

      Thù mama nghe vậy, cho là đúng :

      “Trước kia dù sao thiếu gia cũng từng dìu dắt chiếu cố Quan tướng quân, chính là nể mặt thiếu gia…”

      Vân Di nghe vậy lần nữa cắt lời Thù mama , lắc đầu:

      “Vú nuôi đừng bừa, Quan tướng quân là thân phận nào, ngài ấy có xuất thân như vậy, cần gì ca ca ta phải dìu dắt, chẳng qua là nhớ tình đồng đội nên mới thế thôi. Nếu chúng ta còn được nước lấn tới, cầu nhà người ta phải làm thế này thế nọ, chẳng phải là làm trò cười cho thiên hạ hay sao?”

      Thù mama thấy khuôn mặt tái nhợt của Vân Di lên nụ cười quật cường, bà đành thở dài, hồi lâu mới :

      nương đúng lắm, về sau vú lời này nữa.”

      ***

      Hôm sau, trận mưa qua để lại khí tươi mát, trời đất trong lành, mặt nước yên ả, phảng phất như rửa hết bụi bặm còn sót lại.

      Sáng sớm chiếc xe ngựa từ cửa hông ra khỏi Quan phủ, Tuệ An kéo tay Vân Di ngồi lên xe, nàng vén tấm rèm lụa, thấy Quan Nguyên Hạc mặc trường bào xanh thẫm ngồi lưng ngựa ở phía trước vô thức nhoẻn miệng cười, vừa quay đầu lại nhận được ánh mắt trêu ghẹo của Vân Di, mặt Tuệ An ửng hồng, trừng Vân Di cái vội vàng phất rèm xuống. Vân Di che miệng cười khanh khách, lát mới nhìn vẻ mặt đỏ ửng của Tuệ An :

      “Chị dâu cứ ngắm tiếp , Vân Di nhìn thấy gì cả.”

      Tuệ An cười quay qua cù Vân Di, hai người cười đùa hồi, sau đó mới cầm tay hàn huyên chuyện:

      “Vân Di thực hâm mộ chị dâu, người có tâm có thể thành thân thuộc.”

      Tuệ An nghe vậy nắm tay của nàng, :

      “Yên tâm , chờ muội sau này gả cho lang quân như ý, nhất định cảm thấy hâm mộ ta nữa. Muội tính tình tốt, bộ dáng cũng tốt, còn sợ tương lai tìm được ‘người có tâm’ sao, đến lúc đó xem ta cười muội thế nào!”

      Vân Di nghe vậy liền thu lại nụ cười mặt, sau đó mới :

      “Chị dâu thế Vân Di lại dám nhận đâu, Vân Di trêu ghẹo chị dâu nữa, chị dâu cũng bỏ qua cho Vân Di .”

      Tuệ An đắc ý nhướng mày, hai người lại náo loạn hồi, thấy ra khỏi cửa thành, Tuệ An vén rèm lên nhìn phong cảnh ven đường. Bên ngoài bốn bề xanh biếc, chim chóc thi nhau hót líu lo, bầu trời phủ màu ngọc bích, gió phất qua mặt lại càng mang theo hơi ẩm của nước mưa đêm qua, khiến lòng người khoan khoái thôi.

      Nàng cười quay lại, thấy Vân Di chống tay vào cửa sổ cũng nhìn ra bên ngoài, vẻ mặt có chút đơn đau thương hơi sững sờ, lại kéo tay của nàng, :

      “Lại nhớ đến đứa cháu kia của muội à? Sao muội hay suy nghĩ vẩn vơ thế, thân thể mới dưỡng tốt chẳng bao lâu, muội chẳng bao giờ chịu nghe lời cả!”

      Vân Di nghe vậy quay đầu lại, cười :

      “Tính ra chị dâu cũng chỉ hơn Vân Di chưa đầy nửa tuổi, vậy mà giọng điệu khi tràn đầy răn dạy rồi, giống như trưởng bối của Vân Di ấy.”

      Tuệ An sững sờ, thầm nghĩ quả là lớn hơn rất nhiều đấy, mặt lại cười :

      “Muội nha đầu kia, lại trêu ghẹo ta!”

      Trong xe ngựa vang lên tiếng cười đùa của hai người, Quan Nguyên Hạc cưỡi ngựa trước, nghe tiếng cũng hơi quay đầu nhìn lại, khóe môi cong cong.

      Giờ Thìn hai khắc, xe ngựa đến chân núi Tê Hà, nơi này sớm có vô số người đến người , hối hả ngược xuôi, quả nhiên đến đây thắp hương bái Phật đúng là ít.

      Xe ngựa thể lên núi, Tuệ An và Vân Di cùng nhau xuống xe, Tê Hà tự an vị ở tít đỉnh núi, đường từ chân núi trải dài lên được tu sửa hằng năm, cực kỳ bằng phẳng, đều là đá xanh lót đường. Giữa sườn núi còn có tăng nhân mặc tăng bào dẫn đường, dưới chân núi cũng có dân chúng mở quán cho khách hành hương nghỉ chân.

      Đám người Tuệ An đường lên núi, Tuệ An ngồi kiệu, vừa nhìn phong cảnh vừa bộ lên núi, Vân Di bởi vì thân thể tốt nên cần người dìu .

      Đợi đến trước miếu, dưới hướng dẫn của tăng nhân, Tuệ An vào điện lễ bái, dâng hương, lại bỏ ít tiền nhang đèn, phen lăn qua lăn lại liền đến buổi trưa.

      Mấy người Quan Nguyên Hạc, Tuệ An cùng Vân Di được tăng nhân dẫn ra phía sau Điện Trai đường, Quan phủ sớm bao hết sân , tăng nhân mang bọn họ vào viện, lại mở cửa gian sương phòng. Tuệ An muốn cất bước theo, lại bị Quan Nguyên Hạc níu lấy, Tuệ An sững sờ, nghe Quan Nguyên Hạc với Vân Di:

      “Vân nương vào thôi, chúng ta qua bên kia.”

      Quan Nguyên Hạc xong liền kéo Tuệ An sang sương phòng đối diện, Tuệ An biết là cháu trai của Vân Di ở trong sương phòng đó, nàng yên tâm quay đầu lại, gặp Vân Di lảo đảo bước vào phòng, sau đó bên trong liền truyền đến hồi tiếng khóc.

    2. huyetsacthiensu

      huyetsacthiensu Well-Known Member

      Bài viết:
      3,280
      Được thích:
      7,821
      Chương 168: Hận Cũ Khó Quên
      Edit + Beta: Ánh Nguyệt

      Nghe trong nhà truyền đến tiếng khóc đứt quãng, Tuệ An bất giác thở dài, chỉ cảm thấy đời này có quá nhiều chuyện bất công, là làm cho lòng người nảy sinh thương cảm. ràng là đứa con trai kia của Hữu tướng phạm sai lầm, lại cứ phải hành hạ hai cháu đáng thương này.

      Quan Nguyên Hạc thấy Tuệ An buồn bã lắc đầu, :

      “Nghe cơm chay của Tê Hà tự cũng tệ, đợi lát nữa dùng cơm chay xong, ta dẫn nàng tham quan xung quanh chút.”

      Lúc này Tuệ An mới quay đầu lại, nhìn Quan Nguyên Hạc hỏi:

      “Thế còn chỗ này an bài thế nào? Nơi đây người đến người vô số, đừng để xảy ra chuyện ngoài ý muốn.”

      Nếu để Vân Tri bị người phát , chỉ sợ rước về phiền toái lớn, đặc biệt là giờ Quan Nguyên Hạc còn trong giai đoạn nghiền ngẫm lỗi lầm.

      Quan Nguyên Hạc nghe vậy, :

      “Yên tâm , chỗ này rất an toàn, tiểu tăng nhân vừa rồi cũng là người của ta.”

      Tuệ An nghe vậy ánh mắt chớp động, Phật môn tuy là nơi thanh tịnh nhưng hóa ra cũng chẳng thể thoát ly trần tục, các phủ khi có động tĩnh gì, chúng nữ nhân trong hậu viện liền quay người đến Phật môn dâng hương cầu nguyện. Mặc dù mục đích tới đây là đồng nhất, nhưng cũng có thể nghe ngóng được tiếng gió của các phủ. Tê Hà tự là ngôi chùa nổi danh nhất nhì ở Đại Huy, cũng chùa chiền thuộc quản lý của Hoàng gia, người lui tới phú cũng quý, có thể gài người vào chỗ này, đều là những đại gia tộc với nền móng trăm năm.

      Tuệ An vừa nghĩ vừa vào sương phòng, cơm chay của Tê Hà nức tiếng gần xa, nàng dùng chút mì chay cùng chén cháo trắng liền cùng Quan Nguyên Hạc ra khỏi tiểu viện, thẳng hướng điện Quan .

      Vừa rồi tuy là hai người thắp hương cầu phúc, nhưng quỳ lạy đều phải là Bồ Tát, cầu xin con cái nhưng lại phải cúng bái Bồ Tát mới linh nghiệm. Tuệ An kéo Quan Nguyên Hạc đường vào đại điện, trong điện vô số người hối hả quỳ lạy. Thấy đằng trước còn có hai vị phu nhân đứng chờ, Tuệ An cũng nóng nảy, chỉ đưa mắt đánh giá cảnh trí trong điện.

      Trong đại điện đa phần là nữ tử, Quan Nguyên Hạc vốn dĩ tướng mạo xuất chúng, cảm giác tồn tại lại mạnh, đứng ở trong điện rất dễ gây chú ý, dẫn tới mọi người rối rít ghé mắt liếc qua. Thấy vậy, Tuệ An khỏi trong lòng có chút ngọt, nàng ngước mắt nhìn Quan Nguyên Hạc, thấy vẻ mặt y được tự nhiên, đối diện với ánh mắt của nàng liền :

      “Ta ra ngoài chờ.”

      Lời của y còn chưa hết, Tuệ An tiến lên bước kéo lấy ống tay áo y, nhướng mày :

      “Chàng cùng ta cầu mới linh nghiệm.”

      Nàng dứt lời, thấy Quan Nguyên Hạc hơi cau mày, chân lại hề di chuyển, bất giác giương môi nở nụ cười.

      Đợi hai vị phu nhân phía trước thắp hương xong, Tuệ An liền gấp rút lôi kéo Quan Nguyên Hạc tiến lên, song song quỳ xuống nệm gấm, tiếp nhận ống thẻ tiểu sư phụ đưa lên, lắc lắc rút ra quẻ xăm.

      Tuệ An nhặt quẻ xăm đưa cho tiểu sư phụ, Quan Nguyên Hạc đứng dậy đỡ Tuệ An lên, hai người mới cùng nhau đến chỗ giải xăm ở điện bên cạnh. Vị hòa thượng giải xăm ngồi sau bàn gỗ, tiếp nhận quẻ xăm nhìn coi, giải :

      “Quẻ này nếu hỏi về đường con cái là tiểu nam đồng, tuy có trắc trở nhưng cần quá lo lắng, chỉ cần năng thắp hương xin Bồ Tát phù hộ là được. Đây là trung thượng ký*, ý phu nhân nhất định có thể cầu được con nối dòng, còn là nam thai, chỉ có điều lúc mang thai có hung hiểm, nếu sớm ngày cầu xin Bồ Tát phù hộ, sau cơn hung hiểm mọi càng thuận lợi, ngày này sang năm nhất định có thể ôm tiểu công tử vào lòng.”

      *Quẻ xăm tốt nhất là Thượng Thượng ký, xấu nhất là Hạ Hạ ký, Trung Thượng ký là quẻ trung lập, có tốt có xấu, cũng là quẻ có số lượng khá nhiều trong ống xăm.

      Tuệ An nghe vậy bất giác sững sờ, chỉ cảm thấy vị sư phụ này ràng chính là muốn tiền nhang đèn, cái gì mà chỉ cần sớm cầu xin Bồ tát nhất định có thể qua cơn hung hiểm cơ chứ. Nàng vốn chẳng phải người tin Phật, cũng chỉ cầu đứa bé mà thôi, lần này lại vừa vặn cùng Quan Nguyên Hạc tới nơi này, mới lôi kéo chàng thử lần, còn giải ra quẻ gì nàng nhưng lại quá để trong lòng.

      Quan Nguyên Hạc phủ nhận mình là kẻ gặp người giết người, gặp Phật giết Phật, người vốn dính đầy máu tanh, càng phải người tin Phật. Nghe vậy chỉ liếc mắt ra hiệu cho Quan Vinh ở sau lưng, đợi Quan Vinh dâng lên tiền nhang đèn, y liền nhìn Tuệ An. Tuệ An thấy vậy, mới cười với vị hòa thượng giải xăm:

      “Làm phiền sư phụ.”

      Tuệ An xong cũng đứng lên, theo Quan Nguyên Hạc ra khỏi đại điện.

      Người bình thường nếu cầu được quẻ tốt nhất hoặc nghe sắp có chuyện hung hiểm lập tức hỏi han đôi điều, gặp hai người Tuệ An mang thái độ như thế, vị hòa thượng giải xăm nhìn theo bóng lưng hai người xa, chỉ lắc đầu cười tiếng.

      Tuệ An cùng Quan Nguyên Hạc ra khỏi đại điện liền hướng về phía sau núi mà , cảnh sắc quanh Tê Hà tự cực kỳ có thú, núi non trùng điệp, nước chảy hoa rơi, sau núi càng là lá xanh rợp lối, có lẽ do lúc này vào giữa trưa, đúng là khi tăng nhân lẫn khách hành hương nghỉ ngơi dùng bữa trong chùa, cho nên khí phía sau núi vô cùng trong lành, cũng thấy có người nào khác.

      Quan Nguyên Hạc mang theo Tuệ An đường lên, bao lâu liền tiến vào rừng trúc, trúc xanh mọc thành hàng, biết bao nhiêu năm tuổi rồi, cây nào cây nấy to cao vững chãi, che lấp cả ánh mặt trời nóng bỏng ngày hè. Hương trúc thơm ngát tràn ngập khoang mũi, lá trúc xanh biếc còn mang theo từng giọt nước mưa của đêm qua, thỉnh thoảng có giọt theo gió rơi xuống, phất qua trán lẫn hai gò má, thấm vào vạt áo, mát lạnh như sương.

      Tuệ An cùng Quan Nguyên Hạc nắm tay về phía trước, hồi lâu mới dừng lại giữa rừng trúc, Quan Nguyên Hạc tìm tảng đá ngồi xuống, y ôm Tuệ An vào trong ngực, đầu đặt vai nàng, hít sâu hơi.

      Tuệ An thấy y lời nào, cũng yên lặng tựa vào lồng ngực y, ngước mắt nhìn lên bầu trời thấp thoáng sau lá trúc, cong môi mỉm cười.

      trận gió thổi qua, lá trúc ma sát vang lên tiếng xào xạt, bọt nước lất phất rơi xuống làm ướt áo hai người, hơi lạnh theo giọt mưa thấm vào da thịt, chọc cho Tuệ An cười lên khanh khách.

      Quan Nguyên Hạc ngắm khuôn mặt nàng tươi cười như hoa, gò má vương nước mưa hơi lắc lắc, toàn thân nhàng linh động, cũng cười :

      “Trước đây rất lâu, ta thường cùng Nhị ca tới chỗ này chơi trốn tìm.”

      Tuệ An nghe trong thanh của y mang theo hồi ức cùng hoảng hốt, trong lòng vô thức giật thót cái. Vừa rồi Quan Nguyên Hạc mang theo nàng đường thẳng hướng bên này mà , nàng cũng phần nào nhận ra nơi này có ý nghĩa đặc biệt đối với y. Hơn nữa khi đặt mình trong rừng trúc, Tuệ An càng cảm thấy hương trúc mát lạnh ở nơi đây giống hệt mùi hương vẫn luôn thoang thoảng toát ra người y, liền biết nơi đây ắt hẳn có chút bí mật. Giờ nghe Quan Nguyên Hạc , Tuệ An liền thu lại nụ cười, vòng tay ôm eo Quan Nguyên Hạc, dựa vào trong lòng y, giọng :

      “Khi đó chắc chàng còn bé tí ?”

      Quan Nguyên Hạc có hai ca ca cùng mẹ, Đại ca chỉ sống đến bốn tuổi qua đời, Nhị ca cũng sống quá sáu tuổi. Mẫu thân Quan Nguyên Hạc là Cố thị gả vào Quan phủ năm năm liền sinh dục ba trưởng tử, tuy hai đứa bé trước thể nuôi sống, nhưng nàng vẫn được các quý phu nhân kinh thành khen là người có phúc.

      Quan Nguyên Hạc cùng vị ca ca thứ hai hơn kém nhau hai tuổi, lúc Nhị ca qua đời y mới vừa tròn bốn tuổi, đứa bé bốn tuổi có thể nhớ được bao nhiêu về người ca ca mất kia chứ? Cho nên Tuệ An nghe Quan Nguyên Hạc dùng ngữ điệu chứa chan xúc động nhắc đến vị Nhị ca kia, trong lòng mới cảm thấy kinh ngạc.

      “Ừ, khi đó ta vừa tròn bốn tuổi, ca ca cũng mới hơn sáu tuổi. Bởi vì Nhị ca mắc chứng bệnh hiếm thấy, mà chủ trì của Tê Hà tự lúc đó là Vô Tức đại sư nổi tiếng y thuật cao siêu, cho nên mẫu thân liền dẫn huynh đệ chúng ta hàng năm ghé qua Tê Hà tự. là vì chữa bệnh cho Nhị ca, hai nữa cũng là muốn tới gần Phật tổ, mong được ngài che chở, phù hộ Nhị ca sớm ngày khỏi bệnh, ai mà ngờ được…”

      Quan Nguyên Hạc đến đây, dường như nghĩ tới chuyện gì vui, đột nhiên ngừng lại, ánh mắt cũng bỗng nhiên lạnh xuống.

      Tuệ An lẳng lặng nghe, tức cảm giác được thân thể Quan Nguyên Hạc cứng đờ, cánh tay y đặt eo nàng cũng vô thức dùng sức, suýt nữa siết nàng thở nổi. Trong lòng nàng sinh nghi, tuy là ngẩng đầu nhìn vẻ mặt Quan Nguyên Hạc lúc này, nhưng nàng vẫn có thể lờ mờ cảm thụ được tâm tình rối loạn của y, nàng dám mở miệng, chỉ nhàng nâng tay phủ lên bàn tay to của y vỗ hai cái. Bấy giờ Quan Nguyên Hạc mới phục hồi tinh thần lại, thân thể buông lỏng, cọ má vào đỉnh đầu Tuệ An, tiếp tục :

      “Khi đó Nhị ca thường xuyên lén mẫu thân dẫn ta tới nơi này chơi đùa, lúc ấy chúng ta tuổi còn , chỉ cảm thấy rừng trúc này rộng lớn mênh mông, tuy là chỉ quanh quẩn có vài gốc trúc nhưng có chơi đùa thế nào cũng đủ. Kỳ lúc đó bệnh của Nhị ca chuyển biến rất nặng, mỗi ngày có đến mười canh giờ đều nằm giường bệnh, ta từng nhiều lần bắt gặp mẫu thân đêm khuya mình rơi lệ, Nhị ca mang theo ta ra ngoài chơi đùa mẫu thân sao có thể biết cho được? Mỗi lần như vậy, mẫu thân đều ở xa xa phía sau theo chúng ta, còn hết sức để Nhị ca phát , ta cũng coi như thấy… Lúc ấy ta hiểu mẫu thân vì sao cứ luôn theo chúng ta lại chẳng chịu lộ mặt, sau khi lớn lên mới biết được, mẫu thân là muốn để cho Nhị ca vui vẻ hơn chút, muốn gò bó Nhị ca ở điểm cuối cuộc đời này, làm cho Nhị ca cảm thấy thế nào mới là tự do thực …”

      Quan Nguyên Hạc rất bình tĩnh, thanh trầm thấp của y quanh quẩn trong rừng trúc, Tuệ An còn nghe được trong đó có vài phần chua xót. Nàng ngẩng đầu, đặt má mình áp vào cổ Quan Nguyên Hạc, làm cho y cảm nhận được tồn tại cùng dựa dẫm của nàng, lúc này mới hỏi:

      “Nhị ca là mắc bệnh gì?”

      Quan Nguyên Hạc cảm nhận được động tác của Tuệ An, trong lòng ấm áp, hai tay càng siết chặt, :

      “Là loại bệnh cực kỳ cổ quái, người mắc phải loại bệnh đó rất khó chìm vào giấc ngủ, cho dù có ngủ được cũng gặp ác mộng, khắc thể an bình. Ác mộng càng ngày càng ghê sợ, cho dù có uống bao nhiêu thang thuốc cũng được yên ổn. Sáu tuổi đúng là lúc trẻ con phát triển, cứ ngày ngày được an bình như thế, lâu dài về sau thân thể lập tức trở nên thiếu hụt, gầy trơ cả xương, tinh thần sa sút thấy , tiến dần đến bờ vực của cái chết… Hôm nay nghĩ lại, ta sớm quên mất gương mặt kháu khỉnh của Nhị ca rồi, chỉ nhớ dáng vẻ da bọc xương kia.”

      Tuệ An giật mình, thực nghĩ tới đời này lại có thể loại bệnh tật kinh khủng như vậy, tận mắt chứng kiến người thân mỗi ngày đều bị giày vò cạn kiệt sức lực, đến khi chết dần chết mòn, loại cảm giác này nàng cách nào tưởng tượng cho được.

      Tuệ An gì, Quan Nguyên Hạc cũng im lặng, qua hồi lâu, Tuệ An mới khẽ ngẩng đầu :

      “Ta cũng từng nghe qua Vô Tức chủ trì y thuật cao minh, có thể làm người ta khởi tử hồi sinh, ngay cả ông cũng có biện pháp nào sao?”

      “Chủ trì chẩn ra đó là loại nào bệnh, cho nên chỉ có thể kéo dài bệnh tình. Dựa vào thuật châm cứu tài tình của chủ trì, ban đầu Nhị ca còn ngủ được yên ổn phần nào, thế nhưng càng về sau thuật châm cứu càng trở nên vô dụng. Nhị ca qua đời, mẫu thân mất hai đứa con trai, vô cùng thương tâm, thân thể liền suy sụp, ở núi này nhờ Vô Tức chủ trì điều trị gần năm, bấy giờ ta mới ba tuổi đầu…”

      Sau khi Nhị ca Quan Nguyên Hạc ốm chết, đến năm mẫu thân Cố thị của chàng cũng qua đời, Tuệ An vẫn cho rằng khi đó Quan Nguyên Hạc tuổi còn , ấn tượng đối với bọn họ sâu, nay nghe giữa giọng của y còn mang theo nồng đậm hoài niệm cùng đau xót, trong lòng nàng cũng vô thức quặn đau theo, lẳng lặng ôm lại Quan Nguyên Hạc, nghe tiếng tim đập đầy hữu lực của y.

      Nàng chú ý tới, trong ký ức của Quan Nguyên Hạc, hề nhắc tới Quan Bạch Trạch. Con trai mắc phải chứng bệnh kỳ lạ, thuốc thang hay châm cứu đều thể chữa trị, thê tử khổ sở đau xót cỡ nào, chẳng lẽ người làm cha làm chồng như ông nên ở bên cạnh họ hay sao? Chẳng trách mối quan hệ giữa Quan Nguyên Hạc và phụ thân mình lại tệ hại đến vậy, đứa bé bốn tuổi đủ hiểu chuyện rồi, trẻ con tuổi đó cần thương, cần quan tâm rất nhiều, vậy mà trí nhớ của Quan Nguyên Hạc khi bốn tuổi lại khắc sâu thân ảnh mẫu thân cùng ca ca, điều này biểu lộ trong mắt y, hai người bọn họ giữ vị trí quan trọng nhường nào.

      Nghĩ tới bản thân mình trước kia mất mẹ, cơ khổ nơi nương tựa, bị phụ thân cùng kế mẫu mưu hại đủ đường, đối với đau lòng cùng thống khổ của Quan Nguyên Hạc, Tuệ An càng thêm cảm động. So với nàng, Quan Nguyên Hạc mất mẫu thân che chở còn sớm hơn nhiều, chàng lại có loại phụ thân vô tâm như Quan Bạch Trạch, thời điểm đó, chàng còn như vậy, chẳng biết chàng làm gì để tồn tại được đến bây giờ nữa!

      Tuệ An nghĩ tới đây, trái tim liền đau đến tột đỉnh, bất giác hỏi:

      “Mẫu thân là vì thương tâm quá độ nên mới qua đời sao? Khi đó chắc chàng đau khổ lắm!”

      Lời của nàng còn chưa hết, cánh tay Quan Nguyên Hạc bỗng nhiên căng thẳng, Tuệ An chỉ cảm thấy thân thể sau lưng mình thoáng cái cứng rắn như sắt, trong lòng nhảy dựng. Phát giác được tâm tình Quan Nguyên Hạc kịch liệt biến hóa, nàng dám nữa, cũng cử động, chỉ càng tựa thân thể mình vào ngực y, hy vọng có thể mang tới cho y an ủi cùng sức mạnh.

      Cứ như vậy, biết qua bao lâu, lâu đến nỗi Tuệ An chỉ cảm thấy cánh tay bị Quan Nguyên Hạc làm cho tê cứng, y mới chậm rãi buông lỏng nàng ra, vẫn dùng giọng điệu trầm thấp nhàng :

      “Mẫu thân… Bà là bị phụ thân bức tử! Bị ông ta đích thân hại chết!”

      Mấy lời sau cuối của Quan Nguyên Hạc thốt ra vô cùng nhàng, từng chữ cái phảng phất như rặn ra từ kẽ răng. Lời kia rơi vào trong tai Tuệ An chẳng khác nào tiếng sấm giữa mùa đông lạnh giá, làm cho thân thể nàng tự chủ cứng đờ cả lên, chỉ có thể theo bản năng vòng tay ôm chặt hông Quan Nguyên Hạc, nhàng vuốt ve lồng ngực phập phồng kịch liệt vì kích động của y. Nàng vỗ về hồi lâu, Quan Nguyên Hạc mới dần dần bình tĩnh trở lại, y thở phào nhõm, lúc này mới :

      “Mẫu thân bệnh lâu khỏi, lại bởi vì hàng năm ở trong chùa, cho nên phụ thân liền để Tiếu di nương lúc bấy giờ đến chùa hầu hạ mẫu thân, nhưng Tiếu di nương đến, lại chính là kẻ khiến mẫu thân thể ra khỏi Tê Hà tự này…”

      Tuệ An chỉ cảm thấy trong lời của Quan Nguyên Hạc mang theo ý lạnh lẽo như băng, liền nắm chặt tay thành quả đấm, mãi sau mới run giọng hỏi:

      “Vì sao? Nàng… Tiếu di nương độc hại mẫu thân sao?”

      Quan Nguyên Hạc nghe vậy nhưng lại mỉa mai cười tiếng, :

      “Đêm đó khí trời rét buốt, hạ xuống trận tuyết rất lớn, nửa đêm ta ngủ được mơ mơ màng màng lại vì lạnh quá mà tỉnh lại, lò than trong phòng chẳng biết từ lúc nào tắt ngúm, ta gọi vài tiếng, cũng có nha hoàn đáp lời. Lúc ấy thực rất lạnh, ta liền khoác tạm áo choàng muốn đến chỗ mẫu thân, chỉ nghĩ mẫu thân bên kia tất nhiên ấm áp, thế nhưng… Ta đẩy ra cửa phòng của mẫu thân, mới phát gian ngoài cũng có người trực, trong nội thất lại truyền ra những thanh kỳ quái. Ta vào, nhìn thấy mẫu thân lõa thể bị tên tăng nhân mặc quần áo áp dưới thân, trong miệng bị chặn vải. Nghe được tiếng động, bà hoảng sợ nhìn về phía ta, lúc ấy ta vô cùng sợ hãi, theo bản năng chạy ra ngoài, lớn tiếng gọi người…”

      Quan Nguyên Hạc tiếp nữa, giống như là đột nhiên bị lưỡi dao sắc bén cắt ngang, nhất thời trong rừng trúc chỉ còn lại tiếng lá trúc ma sát vang lên sột soạt. Tuệ An lại cảm thấy ngoài thanh sột soạt bé này, nàng còn có thể nghe được tiếng lòng đầy bi thương của Quan Nguyên Hạc, cùng với trái tim mình vì ngừng co rút mà khó khăn đập loạn. Trước mắt nàng, khỏi thoáng lên tình cảnh đêm đó, ở nơi chùa miếu thiêng liêng này, trong bóng đêm, vang lên tiếng gào thê lương của bé trai, kinh động mọi người xung quanh, cũng vô thức trở thành bùa đòi mạng bám lấy người mẫu thân tội nghiệp.

      Tiếu di nương kia, tâm địa độc ác! Mà Quan Nguyên Hạc mới bốn tuổi sau khi trải qua đêm đó thử hỏi làm sao có thể vui vẻ lớn lên như những đứa trẻ bình thường được đây. Theo năm tháng trôi qua, y càng ngày càng hiểu chuyện, lại nhớ tới đêm đó, y đau lòng, thống hận, chán ghét chính mình đến nỗi nào, khổ sở áy náy biết bao nhiêu…

      Tuệ An nghĩ tới những cảm giác đó, trong lòng trống rỗng, có chút luống cuống, căn bản biết giờ phút này mình nên phản ứng thế nào, nên ra sao, hoặc là làm những hành động gì để an ủi y, cho y dù chỉ chút ấm áp cùng lực lượng. Nàng vẫn chưa thể tìm về thanh của mình, nghe Quan Nguyên Hạc thở phào hơi, tiếp tục :

      “Hôm đó trời còn chưa sáng phụ thân tới, ông và mẫu thân tranh cãi ầm ĩ trận, tiếng ồn ào lớn đến nỗi nha hoàn bà tử trong chùa đều nghe được, ông hoài nghi mẫu thân chậm chạp về phủ là do ở trong chùa cấu kết cùng tăng nhân, có nửa câu an ủi, lại chỉ vung tay vứt cho mẫu thân tờ hưu thư liền nghênh ngang rời . Đêm hôm đó, sau khi mẫu thân dỗ ta ngủ, trở về phòng liền lặng yên tiếng động tự vẫn… Sau khi mẫu thân chết, phụ thân mới điều tra kỹ chuyện này, trừng phạt Tiếu di nương. Thế nhưng lại có thể thế nào, chung quy mẫu thân cũng ôm hận mà , mãi mãi về được nữa…”

      Mẫu thân của Quan Nguyên Hạc – Cố Thư Vân, là đích nữ Cố thị, xảy ra chuyện này chính là bị bỏ cũng thể nguyên nhân, trở lại nhà mẹ đẻ, bà còn có thể sống cuộc sống áo cơm lo, cũng nhất định phải chết. Thế nhưng khi đó, bà lựa chọn tự vẫn, điều này phần nguyên nhân là thể thừa nhận nhục nhã, lại bởi vì bị phu quân hoài nghi mà thương tâm, quan trọng hơn còn là vì Quan Nguyên Hạc mà cân nhắc.

      Từ việc Cố Thư Vân mang theo con mình lên núi cầu y, liền có thể nhìn ra bà là nữ tử bền bỉ kiên trì, vạn dễ dàng tìm chết, chính là xảy ra loại chuyện đó, chí ít bà cũng phải tìm ra hung thủ hãm hại mình, rửa sạch thanh danh, sau mới hài lòng tự vẫn. Thế nhưng bà lại quả quyết lựa chọn cái chết như vậy, chỉ vì bà biết , cho dù có tra hung phạm, Quan phủ cũng thể chấp nhận bà. Mẹ đẻ của Quan Nguyên Hạc có thể bệnh qua đời, nhưng nhất quyết thể bị bỏ, có mẫu thân bị bỏ, đời này Quan Nguyên Hạc cũng bị người khác khinh thường theo, thiếu xuất thân hoàn mỹ, y bị hủy diệt tất cả tương lai.

      Bà chết, để bảo toàn vị trí trưởng tử tại Quan phủ của Quan Nguyên Hạc, bà chết, là dùng tư thế quyết tuyệt làm Quan Bạch Trạch áy náy cả đời, từ đó sinh lòng che chở cho Quan Nguyên Hạc. Cũng bởi vì bà biết Quan phủ rất nhanh có chủ mẫu mới, Quan Bạch Trạch còn cơ hội có con trai khác, mà Quan Nguyên Hạc như vậy, dù bên cạnh có Định Quốc phu nhân săn sóc, nhưng rốt cuộc trong Quan phủ, người cuối cùng có thể đưa ra quyết định vẫn là Quan Bạch Trạch. Bà dùng tính mạng của mình đổi lấy tương lai hai mươi năm tươi sáng sau này, cũng là bảo đảm cuối cùng bà có thể lưu lại cho Quan Nguyên Hạc.

      Đây là tấm lòng của người mẫu thân… Chẳng trách Cố Thư Vân mất sớm, mỗi lần Quan Nguyên Hạc nhắc tới mẫu thân lại luôn bao hàm vô số tình cảm cùng hồi ức, chẳng trách y lại hận Quan Bạch Trạch đến thế, chưa bao giờ tôn kính vị phụ thân kia chút nào, chẳng trách y đối với Thôi thị thậm chí là cả Quan phủ đều lãnh đạm vô tình. Cũng chẳng trách y lại gần nữ sắc, tính tình khắc nghiệt, ra sau lưng y còn cất giấu chuyện xưa đau khổ như vậy.

      Những chuyện này nàng chỉ nghe kể qua mà rợn cả tóc gáy, y còn đích thân trải qua, Tuệ An khó có thể tưởng tượng được Quan Nguyên Hạc phải thừa nhận bao nhiêu thống khổ. Khi đó chỉ mới nghe A Trúc mẫu thân cùng cậu bị tính kế, nàng liền đau đớn muốn nổi điên, thế nhưng mang câu chuyện ghê tởm trong Hầu phủ so với những gì Quan Nguyên Hạc trải qua lại căn bản tính cái gì. Hủy trinh tiết của người, thủ đoạn này quá mức độc, nhưng trong giới phụ nhân lại lần nào cũng mang tới tác dụng khổng lồ, nguyên nhân , chỉ vì hai chữ ‘trinh tiết’ bao hàm hầu như tất cả của nữ tử, hủy diệt nó liền tương đương hủy diệt hết thảy.

      Mẫu thân Thẩm Thanh của nàng so với Cố Thư Vân còn may mắn hơn nhiều, mẫu thân là người thừa kế phủ Phượng Dương hầu, dù bị người tính kế, Tôn Hi Tường lại giận đến đâu cũng dám làm gì bà, nhưng dù là như thế cũng khiến mẫu thân vì vậy mà cuối cùng bị độc hại, Cố Thư Vân lại khác, ngay lúc ấy bà bị dồn đến đường cùng. Tiếu di nương kia rốt cuộc phải hận Cố Thư Vân nhường nào, mới có thể bày ra ván cờ ác độc như vậy. Dường như để đáp lại suy nghĩ của Tuệ An, Quan Nguyên Hạc mở miệng lần nữa, :

      “Mẫu thân mặc dù năm năm sinh được ba con trai, nhưng cũng chỉ là cảnh tượng mặt ngoài, bởi vì sinh con liền thể hầu hạ, cho nên ba lần sinh con, bà vì phụ thân nâng lên ba phòng tiểu thiếp, Lan di nương cùng Dung di nương đều là lúc mẫu thân có thai được nâng lên, mà Tiếu di nương là mẫu thân biết phụ thân bao dưỡng bên ngoài phủ mới đón vào. Bà tướng mạo đẹp, từng cực kỳ được sủng ái, vào phủ lâu cũng có thai, chỉ có điều bà cũng sẩy thai, là nam thai thành hình. Tiếu di nương cho rằng lần sẩy thai đó là do mẫu thân ta làm hại, cho nên trong lòng luôn có hận ý. Về sau bởi vì lúc bà sinh Đại tiểu thư Quan Lễ Phương bị hư thân thể thể mang thai, cho nên liền càng thêm ghi hận mẫu thân, bấy giờ mới thúc đẩy bà ra độc kế hãm hại mẫu thân, những điều này đều là lời sau cuối bà chính miệng thừa nhận với phụ thân.”

      Tuệ An nghe vậy giật mình, ngước mắt :

      “Đại tiểu thư Quan Lễ Phương phải là do Dung di nương sở sinh sao?”

      Quan Nguyên Hạc gật đầu, :

      “Tiếu di nương cùng mẫu thân đều thể ra khỏi Tê Hà tự. Lúc ấy người hầu kẻ hạ núi chưa từng có người còn sống rời , từ đó về sau trong phủ nghiêm cấm nhắc tới Tiếu di nương, bọn hạ nhân cũng chỉ biết mẫu thân là bệnh qua đời, cho nên đều suy đoán Tiếu di nương độc hại mẫu thân. Tiếu di nương trở thành cấm kỵ trong phủ, Quan Lễ Phương suy cho cùng vẫn là cốt nhục của phụ thân, phụ thân làm chủ đặt nàng dưới danh nghĩa Dung di nương có con. Nay cách nhiều năm, người hầu trong phủ đổi biết bao nhiêu lần, hơn nữa sau khi Quan Lễ Phương xuất giá chưa từng trở lại, cho nên rất ít người biết nàng phải do Dung di nương sinh ra.”

      Tuệ An nghe vậy chỉ khẽ ừ tiếng, nên lời, lúc trước trong lòng nàng hận, cũng may còn có Tôn Hi Tường với mẹ con Đỗ Mỹ Kha để mà báo thù rửa hận, còn Quan Nguyên Hạc, trong lòng y có hận, nhưng cho tới bây giờ ngay cả bóng dáng kẻ thù cũng có, loại cảm giác này hệt như dao cùn cắt thịt, có lúc nào là giày vò y cả.

    3. ^^! Nếu bạn không gửi link bài viết trên Facebook được, hãy sử dụng link trong khung này để chia sẻ bài viết :