1. QUY ĐỊNH BOX XUẤT BẢN :

       

    Đặt Title theo mẫu [Tên truyện] [dấu cách] - [dấu cách] [Tác giả] [Số chương]

    ----•Nội dung cần:

    - Hình minh họa (bìa truyện, hình ảnh,etc,...)

    - Tác giả

    - Dịch giả

    - Đơn vị phát hành

    - Số trang ( nên có)

    - Giá bìa (nên có)

    - Ngày xuất bản (nên có)

    --- Quy định

    1 . Thành viên post có thể tự type hoặc copy từ nơi khác (để nguồn)

    2 . Trình bày topic truyện khoa học, bôi đen số chương để dễ nhìn

    3. Cần có trách nhiệm post đến hết truyện. Nếu không thể tiếp tục post liên hệ

    Ad và Mod

  2. QUY ĐỊNH BOX EBOOK SƯU TẦM

    Khi các bạn post link eBook sưu tầm nhớ chú ý nguồn edit và Link dẫn về chính chủ

    eBook phải tải File trực tiếp lên forum (có thể thêm file mediafire, dropbox ngay văn án)

    Không được kèm link có tính phí và bài viết, hay quảng cáo phản cảm, nếu có sẽ ban nick

    Cách tải ebook có quảng cáo

Những Vụ Án Trên Thế Giới

Thảo luận trong 'Sách XB Hoàn'

  • ^^! Nếu bạn không gửi link bài viết trên Facebook được, hãy sử dụng link trong khung này để chia sẻ bài viết :
    1. runningman

      runningman Well-Known Member

      Bài viết:
      1,055
      Được thích:
      16

      Những bằng chứng ràng

      Nhận thấy trùng hợp trong lời khai của hai nhân chứng là Brenda và Veronica, cảnh sát liền đưa bức ảnh của Charles Albright cho hai nhận dạng cùng với vài nghi phạm khác. bảo nhau, Brenda và Veronica đều ngay lâp tức chỉ vào Charles Albright.

      Cảnh sát lập tức bắt giữ và khám xét nhà Charles Albright. Họ tìm được nhiều tài liệu, báo chí về những kẻ giết người hàng loạt và đăc biệt hơn là rất nhiều bức ảnh búp bê có mắt.

      Ban đầu, Charles khai rằng mình cất giấu vũ khí trong nhà, nhưng cảnh sát lại tìm thấy khẩu súng Smith amp; Wesson 44. Khi so sánh, họ nhận thấy đây chính là vũ khí được sử dụng trong các vụ giết người. con dao với lưỡi rất sắc cũng được tìm thấy.

      Với những gì tìm thấy tại nhà nghi phạm, cảnh sát gần như chắc chắn đây là kẻ ho cần tìm. Tuy nhiên, Charles lại đưa ra được bằng chứng ngoại phạm của mình. Trong suốt quá trình điều tra, cảnh sát có được thông tin Charles rất ghét mại dâm và từng thừa nhận muốn họ biến mất hoàn toàn. Ngoài ra, nhiều mại dâm cho biết Charles từng có quan hệ với mình nhiều năm nay và hồ sơ liên quan đến các vụ trộm cắp, lừa đảo.

      Trước những cáo buộc, Charles kiên quyết nhận mình có liên quan đến ba vụ giết người đó hay bất cứ mại dâm nào. chỉ ra rằng những việc phạm tội trước đây là quá khứ, đó là hành vi lừa đảo, chiếm dụng tài sản, liên quan đến tấn công tình dục và giết người.

      Người đàn ông tốt bụng

      Khi cảnh sát tới nhà đọc lệnh bắt giữ Charles vì là nghi phạm của vụ án nổi tiếng này, người vợ là Dixie vô cùng kinh ngạc. cho biết đây là điều thể bởi chồng mình rất hiền lành và tất cả những buổi tối Charles đều ở nhà cùng với .

      chỉ Dixie, những người hàng xóm cũng khẳng định cảnh sát bắt nhầm người. Charles là người đàn ông tốt tính, hào phóng, thân thiện và luôn sẵn lòng giúp đỡ mọi người. chỉ có vậy, ở tuổi 57, Charles có vẻ giống với tên sát nhân hàng loạt trẻ tuổi man rợ và cuồng dâm. chỉ có vậy, theo hiểu biết của cảnh sát về hầu hết những tên giết người hàng loạt, hầu hết bọn chúng đều là những kẻ thất bại và độc, làm những công việc chân tay và có bất kì mối quan hệ nào dài hạn. Albright hoàn toàn như thế. Người đàn ông này làm công việc nghiên cứu và khá thông minh.

      Trước những thông tin này, ban đầu nhóm thám tử cũng có vẻ dè chừng. Việc sai sót trong điều tra phải là bao giờ xảy ra. Tuy nhiên, từ nhiều nguồn tin thu thập được, cảnh sát biết được Charles có người cha giàu có và để lại nhiều gia sản, song thực tế do thói quen tiêu pha hoang phí, vô độ, Charles lại phụ thuộc kinh tế vào vợ. Ngoài ra, ông ta còn dối nhiều lần trong quá trình thẩm vấn của cảnh sát.

      Khi cảnh sát đưa ra hồ sơ tội phạm trước đây của Charles, Dixie hoàn toàn biết về điều đó. Dixie cũng biết số tiền lớn mà Charles được thừa kế. Tương tự vậy, việc quan hệ với mại dâm nhiều năm của chồng mình cũng khiến Dixie vô cùng sốc.

      Mặc dù vậy, cảnh sát vẫn có chút lo lắng nếu chẳng may bắt giữ và truy tố nhầm người khi mà dư luận rất quan tâm đến vụ án. Đó là chưa kể, sai lầm như vậy có thể giúp kẻ giết người thực có cơ hội tiếp tục gây án.

      Lúc này, việc tìm ra có phải Charles cố lừa dối mọi người hay là điều cảnh sát đặc biệt quan tâm.

      Quá khứ bất hảo

      Charles Albright sinh ngày 10/8/1933 nhưng bị bỏ rơi ngay từ khi mới ra đời. Sống ở trại trẻ mồ côi được vài năm, Charles được hai vợ chồng Fred Albright và Belle Albright nhận về nuôi. Tuy nhiên, kinh tế gia đình Albright cũng mấy khá giả nên những món đồ chơi là điều xa xỉ với cậu bé Charles. Trong khi đó, Charles lại rất thích những con thú nhồi bông được trưng bày trong các cửa hàng nhưng chỉ dám đứng nhìn từ xa.

      Thương con, Belle thường lấy da của những con vật may thành thú nhồi bông. Vì là người khéo tay nên những món đồ làm ra đều khá đẹp ngoại trừ đôi mắt. Charles thường phải phải dùng khuy áo để thay thế bởi có tiền để mua những đôi mắt đồ chơi long lanh ngoài cửa hàng.

      Ở trường, tuy là học sinh xuất sắc nhưng Charles hay dính đến những vụ trộm cắp vặt. 13 tuổi, Charles bị cảnh sát bắt vì tội hành hung người khác. 16 tuổi, Charles phải ngồi tù 1 năm vì lấy cắp tiền từ máy tính tiền tự động, mua khẩu súng ngắn và khẩu súng trường.

      Sau khi ra tù, được bố mẹ động viên, Charles liền tu chí, chăm chỉ học lại và biết nhiều thứ tiếng. Ở trường phổ thông, Charles có bạn xinh xắn với đôi mắt rất đẹp nhưng chuyện tình học sinh này kéo dài được bao lâu và người bạn chủ động chia tay. Charles liền lấy những bức ảnh của và cắt lấy phần mắt rồi dán khắp trần nhà, thậm chí trong cả nhà tắm. Người ta cho rằng dường như Charles bị ám ảnh bởi đôi mắt đó.

      Những bằng chứng khó buộc tội

      Vào thời điểm sắp tốt nghiệp, Charles bị đuổi học vì tội trộm cắp nhưng mấy năm sau lại có tới hai tấm bằng cử nhân và thạc sĩ. Sau này, người ta mới biết làm giả chúng. Với hai tấm bằng giả, Charles xin làm giáo viên tại trường trung học và kết hôn nhưng cuộc hôn nhân ấy cũng sớm kết thúc. Năm 1974, Charles và vợ ly hôn. Sau thời điểm đó, Charles phạm tội thường xuyên hơn.

      Cuối năm 1981, Charles lạm dụng tình dục bé 9 tuổi, con người bạn. Charles bị bắt và bị truy tố. Sau lần đó, Charles qua lại với nhiều mại dâm hơn và số tiền cha mẹ để lại sau nhiều năm chắt bóp bị chi hết cho việc này.

      Năm 1986, Charles gặp Dixie và hai người kết hôn. Dixie gần như phải chi trả tất cả những hóa đơn cho sinh hoạt chung và chăm sóc Charles rất chu đáo, hề biết Charles có quá khứ bất hảo như vậy.

      Dù cảnh sát gần như chắc chắn Charles là hung thủ giết hại ba mại dâm nhưng họ lại tìm thấy bằng chứng thuyết phục có thể buộc tội Charles. Tất cả quần áo của Charles được ngâm trong dung dịch đặc biệt để phát dấu máu nhưng đều có kết quả. Bằng chứng khả thi nhất là khẩu súng được cho là hung khí giết người lại được Charles đưa ra hóa đơn chứng minh mua sau thời điểm xảy ra vụ án.

      Trong chiếc chăn xe Charles có số mẫu tóc lạ. Cảnh sát tiến hành đối chiếu và kết luận những mẫu tóc đó phù hợp với nạn nhân. Tuy nhiên, đây cũng được coi là bằng chứng thuyết phục để buộc tội Charles.

    2. runningman

      runningman Well-Known Member

      Bài viết:
      1,055
      Được thích:
      16

      Phút đối đầu kinh hoàng

      Rất nhiều bằng chứng giết người được đưa ra cùng với những nghi vấn về cuộc đời của Charles Albright nhưng ở thời điểm đó, chúng đều đủ thuyết phục để có thể buộc tội nghi can này.

      Mặc dù vậy, phía công tố vẫn nhất quyết truy tố bị cáo Charles Albright phải chịu trách nhiệm về cái chết của Mary Pratt, Shirley Williams và Susan Peterson với mức hình phạt đề nghị là tử hình. Để có thể thực thi công lý, cảnh sát hiểu rằng họ phải cố gắng hơn nữa trong việc tìm thêm nhân chứng, vật chứng chống lại Charles.

      Và rồi, họ nhận được lời khai từ mại dâm ở trong tù tên là Mary Beth. khai với cảnh sát rằng có quen biết Albright và vào đêm mà nạn nhân Mary Pratt bị giết, Mary Beth đứng bên ngoài nhà nghỉ bỗng nhiên người đàn ông túm lấy và dí dao vào cổ, buộc phải lên xe.

      chống trả quyết liệt, song Mary Beth thể thoát được. Kẻ tấn công đưa đến cánh đồng, ném lên cái chăn và liên tục đánh đấm . Sau đó, mở cái hộp và Beth nhìn thấy rất nhiều con dao X-Acto với lưỡi cạo rất sắc. Albright chọn chiếc và dùng nó để cắt áo nạn nhân. Quá hoảng sợ, Mary Beth ngất và chỉ kịp nghe thấy loáng thoáng có tiếng người. Khi tỉnh lại, kẻ tấn công đâu . ra, Mary Beth may mắn vì có người tình cờ ngang qua lúc đó.

      Dường như, khi bị vuột mất con mồi, Albright lập tức tìm con mồi khác và Mary Pratt trở thành nạn nhân của . Thời điểm đó Mary Beth dám trình báo cảnh sát vì lo sợ bị trục xuất.

      Từ lời khai này, các thám tử nhận ra có thể dựa vào đó để tìm ra những manh mối mới. Họ quyết định thẩm vấn các hành nghề mại dâm khác trong vùng.

      Chiếc áo dính máu

      Tina, mại dâm có đôi mắt khá đẹp cung cấp thêm cho cảnh sát những thông tin liên quan đến Charles. cho biết từng cặp kè với Albright, rất tử tế và lịch cho tới khi hai người chơi với nhau lần cuối. Lần đó, và Tina ngồi trong chiếc xe tải của Albright và đối xử với thô bạo hơn thường lệ. Kể từ đó Tina tránh mặt người đàn ông này.

      Tina biết nạn nhân Shirley vì hai người có thời gian từng ở cùng nhau. Có lần ngồi xe của Charles, Tina nhìn thấy chiếc chăn cũ màu xanh, số bao cao su và chiếc áo khoác nhàu nát màu vàng nhạt của Shirley. chiếc áo có dính máu. Điều đáng là Shirley mặc chiếc đó vào hôm biến mất.

      số mại dâm cũng xuất tại đồn cảnh sát sau đó để tố cáo những hành vi của Charles. Theo lời khai của họ, Charles qua lại với mại dâm từ rất lâu, kẻ bạo lực, sẵn sàng ra tay với bất cứ ai khiến hài lòng.

      Cũng đúng lúc này, Willie Upshaw, nhân viên bán hàng tại cửa hàng vũ khí địa phương cho biết thực chất Charles còn sở hữu khẩu súng cỡ 0.44 khác. Khẩu súng được mua với tên của cha Charles. Trong quá trình điều tra và khám xét nhà của nghi can, cảnh sát tìm thấy nó.

      Cuối cùng, phiên tòa xét xử Albright được ấn định vào ngày 2/12/1991. Charles bị cáo buộc liên quan trực tiếp đến ba vụ giết người. Nếu những bằng chứng cảnh sát có được có thể buộc tội Charles khó tránh khỏi án tử hình.

      Phiên tòa gây chú ý

      Phiên tòa xét xử Charles Albright diễn ra ngày 2/12/1991 thu hút quan tâm rất lớn của dư luận. Dixie, vợ của Charles vẫn mực cho rằng chồng mình thể là kẻ giết người man rợ. Glenda Dunham, người bán báo cũng khai rằng Charles hằng ngày đều đến mua báo rất đúng giờ vào sáng sớm, vì vậy, thể nào có đủ thời gian để đón, giết chết và móc mắt mại dâm vào tối hôm trước.

      Luật sư bào chữa của Charles, Brad Lollar lập luận rằng chính SpeeDee, kẻ vừa rời khỏi thành phố này mới chính là thủ phạm của các vụ giết người . hộp đựng đạn 44 ly được tìm thấy đằng sau nhà của SpeeDee, trùng hợp với loại đạn giết chết hai trong số các nạn nhân. Tuy nhiên, các nhân chứng là mại dâm lại khẳng định, họ hề biết SpeeDee và cũng nhìn thấy SpeeDee cùng mại dâm nào.

      Theo lời khai của những này, Charles là kẻ bạo lực, sẵn sàng ra tay với bất cứ ai khiến hài lòng. Rất nhiều người trong số họ đều lập tức từ chối khi biết vị khách chính là Charles.

      Tuy nhiên, yếu tố quan trọng nhất của vụ án nằm ở kết quả pháp y. Các chuyên gia pháp y đưa ra được những bằng chứng chống lại Charles. chiếc chăn màu xanh trong xe của Charles, cảnh sát tìm thấy 6 sợi tóc của William và 3 sợi lông bộ phận sinh dục là của Charles. Ngoài ra, chiếc áo màu vàng cũng được tìm thấy ở xe của nghi phạm này, tóc của Charles cũng ở gần vết thương mặt của Shirley Williams.

      Bản án gây phẫn nộ

      Tuy nhiên, sau rất nhiều những tranh cãi, văn phòng công tố viên quyết định chỉ truy tố Charles liên quan đến vụ giết hại Shirley Williams do vụ giết hại hai nạn nhân khác là Mary Pratt và Susan Peterson đủ bằng chứng thuyết phục.

      Sau nhiều ngày xét xử, ngày 18/12, tòa án đưa ra phán quyết cuối cùng của mình, Charles Albright bị kết tội gây ra cái chết của Shirley Williams và nhận bản án chung thân. Bản án này vấp phải ít phẫn nộ từ người dân và đặc biệt là gia đình nạn nhân. Những người có mặt tại phiên tòa liên tục hét lên và cầu bản án tử hình cho hung thủ.

      Dù vậy, luật sư của Charles vẫn muốn giúp thân chủ của mình kháng cáo đến cùng và giúp sớm được ra tù. Luật sư của Charles cho rằng việc kết tội như vậy là thiếu bằng chứng. Tòa án sai lầm khi thực buổi điều trần riêng trước phiên tòa. Năm 1994, tòa án Texas mở phiên phúc thẩm và tuyên y bản án cũ đối với Charles.

      Từ đó, câu chuyện về Charles Albright, kẻ giết người man rợ bị ám ảnh bởi những đôi mắt với vỏ bọc của kẻ có học cùng tấm bằng thạc sĩ ít lần xuất trong những cuốn sách về những vụ giết người hàng loạt. Và kể từ khi Charles Albright bị giam giữ, thành phố Dallas bao giờ còn xảy ra những vụ án kinh khủng tương tự như vậy.

    3. runningman

      runningman Well-Known Member

      Bài viết:
      1,055
      Được thích:
      16

      Người đàn ông cùng đứa con trai bí

      Sáng ngày 8/1/1975, người đàn ông cùng đứa con trai 13 tuổi của mình bắt xe buýt đến New York. Từ đó, họ đến Fort Lee, New Jersey, lang thang lúc rồi tới thị trấn Leonia gần đó.

      Leonia là thị trấn nên hầu như tất cả người dân đều quen biết nhau. Vì vậy, bất kỳ ai là người lạ tới đây, họ đều lập tức nhận ra. Salvatore Tufo, nhân viên đưa thư khi làm công việc của mình nhìn thấy người đàn ông dắt theo cậu bé vừa bộ dọc theo tuyến đường chính của thị trấn vào lúc 11h. Lucy Bevacqua, người dân địa phương khác, thấy hai người này vào lúc 12h05 từ cửa sổ nhà mình ở đại lộ Glenwood, trong khi chuyện điện thoại.

      Mười phút sau, Lucy rời khỏi nhà. Người đàn ông và cậu bé vẫn quanh khu vực đó. 15h20, Lucy trở về nhà. Ngay sau đó, ra ngoài kiểm tra hộp thư ngay trước cửa. Khi nhìn sang bên kia đường, bỗng giật mình khi người hàng xóm của mình, Edwina Romaine, hốt hoảng chạy ra khỏi nhà, miệng la hét ngừng.

      Khi Lucy đến gần, nghe thấy Edwina bập bẹ điều gì đó về vụ giết người và nhắc hai từ “súng”, “tầng hầm”. rồi, Romaine ngã gục xuống đường ngất , chân vẫn còn bị trói. Lucy vội chạy về nhà và gọi cảnh sát.

      Trung sĩ Robert MacDougall cùng đồng nghiệp có mặt khi Romaine vẫn nằm gục đường, chân bị trói. MacDougall liền tiến lại gần hơn. Romaine từ từ mở mắt và khóc nức nở. Theo Romaine, những kẻ đột nhập vào nhà có mang súng và dao. Romaine nghĩ chắc chắn có ai đó bị giết thậm chí có khi cả gia đình bị chết.

      trường lộn xộn

      MacDougall tháo sợi dây buộc ở chân Romaine, sau đó tìm cách tiếp cận vào ngôi nhà qua lối cửa sau. Cửa được mở sẵn, MacDougall dễ dàng vào được bên trong. dọc theo hành lang dẫn đến bếp, rồi đến phòng khách. Điện trong nhà bị tắt hết nhưng MacDougall vẫn nhận thấy lộn xộn của các đồ vật. sàn nhà, có vài sợi dây giống như loại dây hung thủ buộc chân Romaine.

      Ngay khi bước chân lên cầu thang, MacDougall nhìn thấy phía sau chiếc ghế dài trong phòng khách, người phụ nữ khác chân bị trói. hoảng loạn và thể thành tiếng. Khi MacDougall gặng hỏi, người này chỉ tay lên phía tầng . MacDougall hiểu được có điều gì đó rất khủng khiếp xảy ra phía . cởi trói cho người ấy và đưa ấy ra ngoài trước khi bước lên cầu thang.

      Bước vào phòng ngủ lớn, MacDougall phát có ba người, hai người phụ nữ và cậu bé trong phòng, cả ba mảnh vải che thân. người phụ nữ nằm sàn, hai tay bị trói, băng dính miệng. Người phụ nữ còn lại và cậu bé bị trói cùng nhau giường, miệng cũng dính băng dính. Cả ba người còn sống.

      MacDougall rời khỏi phòng, theo lời họ cùng đồng nghiệp men theo cầu thang tối tới căn phòng phía bên dưới. Khi đèn tầng hầm được bật lên, họ thấy người phụ nữ luống tuổi mặc váy trắng, tay chân bị trói nằm gục bên tường. Người này chết, quần áo nhiều vết máu, vết rạch dài cổ.

      Phía gần lò sưởi, người đàn ông bị trói nằm sấp và cũng vẫn còn sống. Khi được tháo băng dính miệng, người này cho biết mình là Frank Welby, khách của gia đình.

      Khi các nạn nhân được đưa ra khỏi ngôi nhà, cảnh sát bắt đầu thu thập lời khai. Họ cho biết hung thủ chính là gã đàn ông cùng cậu bé và họ hoàn toàn biết đó là ai. Tuy nhiên, cảnh sát thể hiểu đươc bằng cách nào mà bảy người trong gia đình lại có thể bị khống chế bởi gã đàn ông cùng đứa con trai .

      Gã bán hàng đáng ngờ

      Bốn giờ trước khi cuộc tấc công kinh hoàng xảy ra, Didi Romaine Wiseman 28 tuổi cùng Robert - cậu con trai 4 tuổi tới thăm cha mẹ mình là ông bà Edwinna và DeWitt Romaine. Didi là con cả trong ba người con của gia đình Romaine. Hai em của là cặp song sinh 21 tuổi - Randi và Retta, vẫn sống cùng cha mẹ.

      Cha vừa phục hồi sau cuộc phẫu thuật tim, vẫn phải nằm trong bệnh viện và được Randi chăm sóc. Didi dành cả buổi để chăm sóc bà ngoại 90 tuổi ốm yếu của mình trong khi mẹ, Retta và bạn trai là Frank Welby ra ngoài.

      Gần trưa, Wendy - con bảy tuổi của Didi từ trường trở về ăn trưa và 12h45, Didi lái xe đưa bé quay lại trường. Lúc này, nhìn thấy người đàn ông lạ mặt da ngăm đen, tóc xoăn dắt cậu bé gầy gò với mái tóc dài, chân đất gần khu vực nhà mình. Họ cũng chú ý đến .

      Trở về ngay sau đó, Didi tiếp tục dọn dẹp nhà cửa. Khi lau cửa sổ, Didi nhìn thấy người đàn ông và cậu bé lúc trước đến gần ngôi nhà của mình và gõ cửa.

      Chạy ra mở cửa, Didi bất ngờ ngửi thấy thứ mùi vô cùng khó chịu phát ra từ cơ thể người này nhưng thể nhận ra đó là mùi gì. Người đàn ông tự giới thiệu mình là John Hancock, nhân viên bán hàng rồi hỏi có ai khác ở trong nhà hay . Cảm giác chút thiện cảm, Didi liền bảo họ . Vừa dứt lời, bị người đàn ông khống chế bằng 1 khẩu súng ngắn, đẩy Didi vào trong. Cậu bé cùng chỉ đứng quan sát.

      Cuộc vật lộn kinh hoàng

      Đúng lúc này, cậu bé Robert bước ra và khi thấy mẹ mình vật lộn với người lạ, cậu bắt đầu hét lên. Gã đàn ông liền chĩa khẩu súng vào Robert. “Đây là vụ cướp”, gã vừa vừa túm tóc Didi. “Hãy làm như tôi nếu muốn sống”.

      Sau đó tên cướp đặt khẩu súng vào túi, rút ra con dao dài và hỏi xem có ai khác trong nhà hay . Sau khi Didi về bà ngoại tàn tật của mình, liền đẩy lên cầu thang kiểm tra và tỏ vẻ hài lòng.

      Hai mẹ con Didi và Bobby bị nhốt vào phòng ngủ, bị ép cởi bỏ quần áo và trói cùng nhau giường. Cả hai đều run rẩy và bị dính băng dính miệng để thể kêu khóc. Sau đó, tên cướp tháo đồ trang sức người và trói hai tay lại.

      Ngay sau đó, chuông cửa reo. Đó là Randi vừa từ bệnh viện về nhà. Didi hi vọng hai kẻ đột nhập sợ hãi và rời khỏi đây. Tuy nhiên, những gì diễn ra sau đó ngược lại hoàn toàn.

      Em Didi trở về từ bệnh viện, ngạc nhiên khi thấy người đàn ông lạ ra mở cửa cho mình. tỏ ra khá bình tĩnh và tự nhiên. Khi chưa kịp hiểu chuyện gì xảy ra, Randi bất ngờ bị túm lấy, khống chế bằng dao. ép lên tầng, nhốt chung cùng với Didi và Bobby. Randi cũng bị ép cởi bỏ quần áo và bị dính băng dính miệng. Khi đòi tiền, liền đưa ra tờ 5 USD.

      lâu sau, khi cậu bé cùng lục soát toàn bộ căn phòng để lấy những món đồ có giá trị tiếng chuông cửa lại kêu lên. Bà Romaine trở về nhà cùng lúc với Retta và Frank. Nhìn thấy người lạ trong nhà mình với khẩu súng, bà Romaine sợ hãi tới mức ngất ngay tại chỗ. Chân bà cũng bị trói lại ngay sau đó.

      Retta bị khống chế, nằm úp xuống sàn nhà, cậu bé cùng trói chân trong khi khống chế Frank. Frank dẫn xuống căn phòng phía dưới, nơi bà ngoại Didi nằm. Frank nằm sấp bên cạnh lò sưởi, bị trói chân, miệng bịt bằng dính. Chiếc đồng hồ đeo bị lột bỏ.

      Bà ngoại Didi kêu lên nhưng nghe tiếng, bà dường như cố gắng để làm điều gì đó. Kẻ lạ mặt thấy vậy liền thẳng tay sát hại bà mà cần suy nghĩ quá lâu.

      Đúng lúc này, bà Romaine tỉnh dậy và hoảng loạn khi nghĩ rằng các thành viên trong gia đình bị giết. Cố gắng nởi lỏng chiếc dây buộc ở chân, bà lao ra cửa, miệng ngừng la hét cho đến khi người hàng xóm nghe tiếng.

      Thấy vậy, tên cướp vội kéo theo cậu con trai rời khỏi căn nhà qua lối cửa sau cùng với tiền và những đồ có giá trị vừa lấy được.

    4. runningman

      runningman Well-Known Member

      Bài viết:
      1,055
      Được thích:
      16

      Cảnh sát vào cuộc

      Tại trường vụ án trong ngôi nhà của gia đình Romaine, thám tử Robert Roseman gần như kiểm tra mọi ngóc ngách, cố gắng bỏ sót bất kỳ bằng chứng nào liên quan tới hung thủ dù là nhất. Hung thủ lấy rất nhiều thứ giá trị và để lại vết chân dính đầy máu sàn, nhiều đoạn dây dùng để trói tay chân các nạn nhân và cuộn băng dính có dính vài sợi tóc.

      Dọc theo con đường từ nhà Romaine đến điểm đón xe, cảnh sát tìm thấy con dao dính máu, khẩu súng cỡ nòng 0.32 bị vứt lại trong bụi cây ven đường. Những người trong gia đình Romaine nhận ra đó là khẩu súng kẻ lạ mặt dùng để khống chế họ.

      Thời điểm hung thủ vừa bỏ , tại nơi cách xa ngôi nhà của gia đình Romaine, người phụ nữ khi dạo nhìn thấy người đàn ông và cậu bé chạy xuống dưới ngọn đồi, dáng vẻ vội vã. Người đàn ông cởi chiếc áo của mình vứt xuống đất, chiếc áo có dính máu. Sau khi biết thông tin về vụ đột nhập, liên hệ báo với cảnh sát vì cho rằng hai người này chính là hung thủ.

      Rất nhiều bằng chứng liên quan được tìm thấy tại trường, nhưng cảnh sát vẫn chưa thể tìm ra hung thủ. Lật giở hồ sơ của những vụ án tương tự thời gian gần đây, cảnh sát nhận thấy hai người này rất có thể cũng là hung thủ của các vụ trộm cắp trước đó, miêu tả của những người trong gia đình Romaine về hung thủ giống với miêu tả hai kẻ từng phạm tội ở New Jersey, Maryland và vài thị trấn ở Pennsylvania.

      Chiếc áo có mùi đặc biệt

      Con dao và khẩu súng tìm được đủ thông tin để có thể tìm ra chủ nhân của nó. Lúc này, chỉ còn lại chiếc áo sơ mi mà hung thủ vứt lại. Kiểm tra chiếc áo, cảnh sát tìm thấy nhãn sản xuất ở Philadelphia, trong túi có tờ giấy ghi địa chỉ tiệm giặt là.

      Sau khi xác minh tờ giấy ghi địa chỉ tiệm giặt, cảnh sát biết được chủ nhân chiếc áo là Kalinger. Nhưng cái tên này có trong hồ sơ quản lý của cảnh sát Philadelohia và New York.

      Thám tử Roseman quyết định điều tra theo thông tin có được từ nhãn mác của chiếc áo. Roseman mang chiếc áo tới Philadelphia, sau thời gian tìm hiểu, phát công ty sản xuất loại áo này chỉ phân phối cho cửa hàng Berg Brothers.

      Roseman hi vọng nhân viên bán hàng tại cửa hàng Berg Brothers có thể giúp cung cấp thông tin về người đàn ông da ngăm đen, có mùi khó chịu như mô tả của nạn nhân trong danh sách khách hàng. Tuy nhiên, Roseman thất bại..

      Xác định chiếc áo được mua ở đấy, Roseman nghĩ chủ nhân của nó sống tại đây hoặc vùng lân cận. dành nhiều thời gian để tìm cái tên Kalinger trong cuốn danh bạ điện thoại, Roseman gọi điện cho cảnh sát trong khu vực để xác định lại thông tin về Kalinger trong hồ sơ quản lý của họ. phát ra điều thú vị rằng, trong hồ sơ có nghi phạm tên là Kallinger, phải Kalinger.

      Với cái tên mới này, Roseman đến cửa hàng giặt và đưa ra bức ảnh của nghi phạm. Chủ cửa hàng xác nhận đây chính là vị khách của mình. Ông cũng nhận ra mùi khó chịu từ chiếc áo được mang tới. Đó là mùi hóa chất được sử dụng trong việc đóng giày. Ông cho biết người đàn ông mang chiếc áo đến sống ở Kensington, phía đông bắc Philadelphia. Kallinger có cửa hàng đóng giày dép tại đây.

      Nghi phạm sa lưới

      Sau khi lấy thông tin từ phía người chủ tiệm giặt là, cảnh sát ngay lập tức đến nhà Kallinger. Hàng xóm xung quanh xác nhận Kallinger có rất nhiều những đặc điểm ngoại hình như miêu tả của các nạn nhân. Cậu bé cùng trong các vụ án là trong hai cậu con trai còn ít tuổi. Lúc này, cảnh sát gần như chắc chắn Kallinger là hung thủ mà họ truy lùng.

      Kallinger có hai vợ và bảy người con. tại, nghi phạm này sống với người vợ thứ hai cùng năm cậu con trai . Cảnh sát địa phương cho biết Kallinger từng bị buộc tội liên lạm dụng trẻ em và có lần phải ra tòa. Tuy nhiên, được chuẩn đoán rối loạn thần kinh, mất trí nhớ tạm thời, dấu của bệnh tâm thần phân liệt nên thoát án và được cảnh sát địa phương giám sát.

      Đúng lúc này, theo thông tin từ cảnh sát Philadelphia, hai cha con nhà Killinger rất có thể cũng là hung thủ đột nhập vào gia đình ở Susquehanna vào ngày 12/3/2974, khống chế, làm bị thương bốn người phụ nữ có mặt tại nhà, lấy 20.000 USD tiền mặt và đồ trang sức...

      Cuối cùng, cảnh sát có đủ bằng chứng để khởi tố vụ án. Joseph Kallinger và cậu con trai 12 tuổi bị bắt ngay tại nhà.

      Khi cảnh sát đến, Killinger tỏ ra rất bình tĩnh, gọi điện cho luật sư của mình. với cảnh sát cung cấp bất kỳ thông tin gì cho đến khi luật sư của đến. Điều duy nhất đó là vô tội.

      Elizabeth, vợ Kallinger tin vào những thông tin cảnh sát cung cấp. Bà cho rằng quá nhiều bi kịch xảy đến với gia đình bà: con trai vừa mất năm trước, em cũng mất lâu sau đó vì bệnh tật, mẹ đẻ phải phẫu thuật, và bây giờ là chồng và con đối diện với pháp luật. chỉ có vợ của Kallinger, những người hàng xóm xung quanh cũng chung nhận xét này. Tất cả đều khẳng định có lẽ nhầm lẫn gì đó bởi Kallinger thể là kẻ giết người.

      Những bằng chứng thể chối cãi

      Cảnh sát lục soát nhà Kallinger và nhà mẹ đẻ của ngay bên cạnh. Họ thu được nhiều đồ có giá trị, trong đó có cả những đồ trang sức được thông báo mất cắp trong số vụ trộm cắp gần đây. Ngoài ra, dấu vân tay của cả hai cha con trùng với những dấu vân tay được tìm thấy tại trường số vụ án. điều trùng hợp, những vụ án có liên quan đến cha con nhà Kallinger đều xảy ra vào những hôm cậu bé nghỉ học. Khi các nhân viên điều tra hỏi cậu bé làm gì vào những ngày nghỉ học. Cậu bé trả lời được. Đây chính là bằng chứng buộc tội cha con Kallinger.

      Quá trình điều tra kéo dài nhiều tháng, đủ cho các nhân viên điều tra nhận ra rằng Kallinger là kẻ hoang tưởng. luôn rằng Chúa tạo ra , giao cho sứ mệnh đặc biệt, xuất để giúp mọi người khai sáng bộ não của họ.

      Kallinger được giám định tâm thần trước khi bị đem ra xét xử. Tiến sĩ tâm thần John Hume kết luận Kallinger mắc chứng rối loạn nhân cách chứ phải là rối loạn tâm thần. Kallinger hoàn toàn có thể nhận biết đúng sai nên phải chịu trách nhiệm trước những việc làm của mình.

      Ngày 8/9/1975, Kallinger bị đưa ra xét xử. bị buộc tội liên quan đến nhiều vụ trộm cắp, hiếp dâm, giết người. Có bốn nạn nhân xuất tại phiên tòa xác nhận Kallinger là kẻ tấn công họ.

      Theo các chuyên gia tâm lý, quá khứ đen tối mà người đàn ông này từng trải qua có thể góp phần hình thành nên nhân cách bất thường của Kallinger.

    5. runningman

      runningman Well-Known Member

      Bài viết:
      1,055
      Được thích:
      16

      Tuổi thơ khắc nghiệt

      Joseph Kallinger sinh ngày 11/12/1936 tại thành phố Philadelphia nhưng vào thời điểm vừa tròn 1 tuổi, bước ngoặt lớn nhất cuộc đời cậu bé Kallinger xảy ra, sau khi cha cậu bỏ rơi hai mẹ con. Người mẹ có khả năng nuôi con buộc phải gửi Kallinger vào trại trẻ mồ côi.

      Ngày 15/10/1939, hai vợ chồng người Áo nhập cư là Stephen và Anna Kallinger nhận nuôi Joseph Kallinger. Tuy nhiên, những tháng ngày sau đó của Kallinger cũng chẳng khá hơn. Tuổi thơ của cậu trôi qua trong đòn roi và bị lạm dụng nghiêm trọng. Các hình phạt mà Kallinger thường xuyên phải chịu đựng là quỳ những hòn đá lởm chởm, bị nhốt trong tủ quần áo, buộc phải ăn phân, bị đánh bằng búa hay thắt lưng và bị bỏ đói…

      Tuy nhiên, bi kịch vẫn chưa dừng lại ở đó. Khi Kallinger chín tuổi, cậu còn bị tấn công tình dục bởi người hàng xóm. Điều này khiến tâm lý của đứa trẻ bị tổn thương nặng nề.

      Sống trong môi trường như vậy nên ngay từ khi còn , Kallinger thể nổi loạn, luôn chống đối lại giáo viên và cha mẹ nuôi của mình. Những hình phạt cũng vì thế mà trở nên khắc nghiệt hơn. Như nhiều đứa trẻ khác, Kallinger cũng có mơ ước là được trở thành nhà viết kịch. Tuy nhiên, ước mơ này sớm phải từ bỏ khi Kallinger bỏ học.

      Kallinger kết hôn với người vợ đầu cũng là bạn học cũ khi chỉ mới 17 tuổi và có hai đứa con. Mối quan hệ đầy sóng gió với những trận bạo lực gia đình dẫn tới việc người vợ phải bỏ vào tháng 9/1956. năm sau, Joseph nhập viện vì những tổn thương não, các xét nghiệm chỉ cho thấy người đàn ông này mắc "rối loạn tâm lý."

      Kallinger tái hôn năm 1958, sau khi được xuất viện và có năm đứa con với người vợ thứ hai. Tuy vậy, lần này cũng chẳng khá hơn. Kallinger thường xuyên ngược đãi vợ con và thường áp dụng những hình phạt tương tự như cách mà Kallinger phải chịu từ cha mẹ nuôi.

      Hai cha con tội phạm

      Vào ngày 23/1/1972, Joseph Kallinger trừng phạt con lớn của mình do tự ý trốn chơi bằng chiếc bàn ủi nóng khiến bé bị bỏng nặng. Bị bắt tuần sau đó, Kallinger phải trải qua 60 ngày kiểm tra tâm lý. Khi ở trong tù, bài kiểm tra IQ của Kallinger chỉ đạt 82 điểm. Người đàn ông này được chẩn đoán mắc bệnh tâm thần phân liệt hoang tưởng.

      Cuối cùng các bác sĩ kết luận Kallinger đủ năng lực nhận thức để xét xử. Bản án dành cho người cha này là bốn năm quản chế và buộc phải điều trị tâm thần.

      Trong suốt thập kỷ tiếp theo, Kallinger dành gần như hầu hết thời gian ra vào các viện tâm thần, khi cố gắng tự tử, lúc định đốt nhà mình tới ba lần.

      Ngày 26/6/1974, Kallinger tâm với Michael, đứa con trai 13 tuổi của mình về thôi thúc giết người từ bên trong. Trước ngạc nhiên của chính cha mình, Michael đáp lại cách nhiệt tình: “Hãy làm , bố!”. Và rồi 11 ngày sau, Kallinger với hỗ trợ đắc lực của con trai, sát hại Jose Collazo, thanh niên người Puerto Rico, ở Philadelphia.

      Bắt đầu từ đây, Kallinger và con trai 13 tuổi Michael ngày càng dấn sâu vào những phi vụ phạm tội kéo dài ở thành phố Philadelphia (bang Pennsylvania), Baltimore (bang Maryland) và bang New Jersey. Trong sáu tuần tiếp theo, cả hai tấn công vào bốn gia đình và sát hại ba người chỉ với chiêu thức giả làm nhân viên bán hàng để tiếp cận “con mồi”. Việc dễ dàng qua mặt cảnh sát khiến Kallingerm tiếp tục thực các tội ác khác cho tới khi bị bắt giữ sau vụ tấn công vào gia đình Romaine.

      Với tiền sử tâm thần, Joseph Kallinger tin rằng lần này, tiếp tục thoát tội.

      Phiên tòa đầy phẫn nộ

      Tại phiên tòa xét xử Kallinger, rất nhiều bằng chứng được đưa ra khẳng định Kallinger là hung thủ gây nên những vụ trộm cắp, giết người. Tuy nhiên, với những bằng chứng tâm thần trước đó, phía luật sư biện hộ cho rằng thân chủ của mình là người bình thường về tâm lý và theo luật thể buộc tội người mà kiểm soát được hành vi như Kallinger.

      Đề nghị này khiến nhiều người có mặt tại phiên tòa cảm thấy phẫn nộ. Lúc này, các công tố viên lại đưa ra những bằng chứng minh Kallinger chỉ là người hoàn toàn bình thường, nhận thức được mọi chuyện mà còn là tên tội phạm ranh ma, biết tận dụng thời cơ và có tính toán để có thể qua mặt cảnh sát.

      Kallinger là người đàn ông trụ cột của gia đình, lo tất cả các khoản chi tiêu cho gia đình, quản lý khá tốt cửa hàng đóng giày của mình. Hàng xóm cũng cho biết nhiều năm tiếp xúc với Kallinger nhưng họ cũng nhận thấy điều gì bất thường ở người đàn ông này. Theo các chuyên gia, vấn đề tâm lý ảnh hưởng gì đến việc gây án của Kallinger.

      Bồi thẩm đoàn mất hơn giờ đồng hồ để cân nhắc mọi chứng cứ và đưa ra phán quyết. Cuối cùng, tất cả đều thống nhất rằng vấn đề tâm lý ảnh hưởng đến việc gây án của Kallinger. Phía luật sư của Kallinger có 7 ngày để kháng cáo.

      Kẻ “tâm thần” khôn ngoan

      Trong phiên tòa tiếp đó, phía luật sư của Kallinger thay đổi chiến thuật khi thừa nhận những bằng chứng buộc tội Kallinger. Tuy nhiên, theo luật sư, cần xem xét hoàn cảnh gia đình của Kallinger trước khi định tội . Cái chết của cậu con trai năm trước, mẹ qua đời hai tuần sau khi bị bắt, con xác định mắc bệnh hiểm nghèo…tất cả những điều này khiến Kallinger bị ảnh hưởng rất nhiều về tâm lý.

      Mặc dù vậy, bồi thẩm đoàn cho hay những điều này thể biện minh cho những hành vi độc ác lặp lặp lại của Kallinger. Ngoài ra, còn lôi kéo cậu con trai mới 13 tuổi của mình vào tội ác. Kallinger bị coi là kẻ bạo lực và nguy hiểm, bản án dành cho có thể từ 30 đến 80 năm tù giam.

      Trong thời gian chờ bị dẫn độ, Kallinger có những hành động kì quặc hơn nữa như muốn chứng minh thực có vấn đề về tâm thần. Tuy nhiên, những việc làm của Kallinger được giám sát hằng ngày bởi các bác sĩ tâm thần, họ kết luận Kallinger cố làm vậy.

      Ngoài ra, tính toán khôn ngoan của Kallinger còn thể ở việc gửi thư cho Giáo sư Flora Chreiber, lúc ấy là giảng viên tiếng , đồng thời là người phát ngôn của sở tư pháp Manhattan.

      Mặc dù có kỹ năng trong việc phân tích những vấn đề liên quan đến chứng rối loạn tâm thần nhưng bà Flora cuốn sách nhắc nhiều đến vấn đề này và mục đích của Kallinger là “nhờ” bà Flora tuyên truyền thông tin bệnh tình của cho truyền thông.

      Trong phiên tòa xét xử cuối cùng vào ngày 13/10/1976, Kallinger vẫn mực nhận tội nhưng sau hơn hai giờ bàn bạc căng thẳng, đoàn bồi thẩm tuyên Kallinger có tội. Ngày hôm sau, tòa tuyên án chung thân đối với Kallinger.

      Trong quá trình bị giam giữ, Kallinger làm công việc sửa chữa những đôi giày của nhân viên nhà tù. Người đàn ông này cũng từng nhiều lần cố gắng phóng hỏa đốt phòng giam nhưng thành. Năm 1986, Kallinger qua đời do bệnh tật, kết thúc cuộc đời của tên tội phạm gây nhiều tranh cãi.

    6. ^^! Nếu bạn không gửi link bài viết trên Facebook được, hãy sử dụng link trong khung này để chia sẻ bài viết :