1. QUY ĐỊNH BOX XUẤT BẢN :

       

    Đặt Title theo mẫu [Tên truyện] [dấu cách] - [dấu cách] [Tác giả] [Số chương]

    ----•Nội dung cần:

    - Hình minh họa (bìa truyện, hình ảnh,etc,...)

    - Tác giả

    - Dịch giả

    - Đơn vị phát hành

    - Số trang ( nên có)

    - Giá bìa (nên có)

    - Ngày xuất bản (nên có)

    --- Quy định

    1 . Thành viên post có thể tự type hoặc copy từ nơi khác (để nguồn)

    2 . Trình bày topic truyện khoa học, bôi đen số chương để dễ nhìn

    3. Cần có trách nhiệm post đến hết truyện. Nếu không thể tiếp tục post liên hệ

    Ad và Mod

  2. QUY ĐỊNH BOX EBOOK SƯU TẦM

    Khi các bạn post link eBook sưu tầm nhớ chú ý nguồn edit và Link dẫn về chính chủ

    eBook phải tải File trực tiếp lên forum (có thể thêm file mediafire, dropbox ngay văn án)

    Không được kèm link có tính phí và bài viết, hay quảng cáo phản cảm, nếu có sẽ ban nick

    Cách tải ebook có quảng cáo

Những Vụ Án Trên Thế Giới

Thảo luận trong 'Sách XB Hoàn'

  • ^^! Nếu bạn không gửi link bài viết trên Facebook được, hãy sử dụng link trong khung này để chia sẻ bài viết :
    1. runningman

      runningman Well-Known Member

      Bài viết:
      1,055
      Được thích:
      16

      giống những bé 10-11 tuổi bình thường thích chơi búp bê và đồ hàng, Mary Bell lại có sở thích khiến ai cũng gai mình: giết người.

      Thời thơ ấu bất hạnh của bé 11 tuổi

      Ngày 26 tháng 5 năm 1957 tại , bé Mary Bell ra đời. Đáng lẽ Mary lớn lên như bao bạn đồng trang lứa trong tình thương của cha mẹ, nhưng cuộc đời của bất hạnh ngay từ giây phút được sinh ra.

      Mary là con đầu lòng của người phụ nữ tên Betty McCrickett khi bà chỉ mới 17 tuổi. Người mẹ này vốn hành nghề mại dâm với sở thích quan hệ tình dục kiểu BDSM (chắc là bạo dâm, mình chắc nữa, mọi người tự lên mạng tìm hiểu nha!), bà thường xuyên đến thành phố Glasgow làm việc nên hầu như bao giờ ở nhà. chỉ vậy, danh tính của người cha cũng khó xác định. Nhiều người tin rằng kẻ tên Billy Bell - tên tội phạm từng bị bắt vì ăn cướp có sử dụng vũ khí chính là cha đẻ của Mary.

      Nhiều họ hàng thân cận khẳng định rằng Betty nhiều lần cố ý giết chết con mình và giả vờ như đó là tai nạn khi bé còn nằm nôi. Họ bắt đầu nghi ngờ khi Mary "vô tình" ngã từ cửa sổ, hay uống "nhầm" thuốc ngủ. ngày nọ, nhân chứng nhìn thấy bà ta đưa Mary thuốc và dối đó là kẹo. Kinh khủng hơn, bé kể rằng mình nhiều lần bị lạm dụng tình dục và bị chính mẹ ruột ép phải tham gia vào các hành vi tình dục với đàn ông từ khi lên 4.

      Kẻ sát nhân ai ngờ tới

      Có lẽ do ảnh hưởng từ người mẹ, Mary Bell lớn lên theo cách khác biệt và mang trong mình tâm lí giết chóc chỉ khi mới lên 11. Tội ác của Mary bắt đầu vào trước ngày sinh nhật của chính , 25 tháng 5 năm 1968, khi sát nhân nhí tìm được nạn nhân đầu tiên - Martin Brown.

      Theo lời kể của mẹ nạn nhân, cậu bé là đứa trẻ đáng , nghịch ngợm và hay cười, thế nhưng ác mộng lại ập đến với gia đình bà. Chiều ngày 25, Martin 4 tuổi chơi loanh quanh găp Mary ở gần đó, vì nhìn Mary có chút gì nguy hiểm nên ngay lập tức cậu bé theo hung thủ vào căn nhà hoang để chơi trò chơi. Luật của "trò chơi" là Martin nằm xuống đất, còn Mary giúp cổ họng của em dễ chịu hơn, đó cũng chính là lúc nữ sát nhân bóp cổ sinh linh vô tội. Nguyên nhân cái chết của Martin Brown được cảnh sát cho là do tai nạn.

      Mary đến thăm gia đình nạn nhân khi họ đau đớn vì mất mát, tuy nhiên thay vì an ủi, hung thủ lại thốt ra những câu đến rợn gáy.

      "Nó đến tìm Martin, tôi trả lời rằng hôm nay là ngày rất đau buồn với tôi. Nhưng con bé ấy lại thêm rằng, vậy tìm thằng bé ở trong quan tài" - Bà June kể lại.

      chỉ dừng ở đó, bé muốn mọi người biết đến cái chết kinh khủng của nạn nhân, vì vậy Mary kể chuyện giết người của mình cho các bạn ở trường hay thậm chí là thành viên trong gia đình, nhưng ai tin điều này. Bên cạnh đó, Mary còn vẽ lại cách chết của Martin và viết "Tao giết Martin, bọn mày bao giờ bắt được tao" cùng lời nhắn "Tao quay trở lại".

      tháng sau khi sát hại cậu bé 4 tuổi, Mary bắt đầu lên kế hoạch giết người lần nữa, nhưng lần này là cùng bạn Norma Joyce Bell, 13 tuổi. Nạn nhân kế tiếp là Brian Howe chỉ mới 3 tuổi chơi mình đường và cũng chết bởi "trò chơi" bóp cổ, tuy nhiên mức độ tàn nhẫn lên cao hơn so với lần trước.

      Cậu bé được tìm thấy ở khu đất hoang vùng Scotswood, bụng em khắc chữ cái "M". Đáng sợ hơn cả, nạn nhân bị Mary dùng kéo cắt ít tóc, cào chân cậu bé, và cắt cả bộ phận nhạy cảm của Howe.

      Tội ác bị phơi bày và hình phạt gây tranh cãi

      Những hành vi kỳ quặc của Mary bắt đầu khiến nhiều người tỏ ra nghi ngờ, đó là khi quan tài của Brian Howe được khiêng ra, viên cảnh sát nhìn thấy gương mặt của mỉm cười. Ngay sau đó, bạn Norma thú nhận trước cảnh sát, nhưng Mary hề dễ dàng nhận tội dù có bằng chứng ràng là những bức vẽ và chữ viết của chính .

      Theo lời của bà June Richardson, Mary hề sợ hãi hay tỏ ra hối lỗi khi hầu tòa.

      "Con bé ngồi đó và cười, múa may, rồi quay ra hỏi xin mọi người kẹo ngọt. Tôi thể tưởng tượng được kẻ phá hủy cuộc đời tôi lại có thể cười khoái trá đến vậy."

      Cuối cùng, Mary Bell bị tuyên án phạt giam, nhưng vì tuổi còn quá , quan tòa cầu cân nhắc hình phạt này khi bé lớn hơn. Câu hỏi lớn được đặt ra là tại sao người mẹ khiến bé trở thành con quái vật lại bị pháp luật trừng phạt.

      Vào ngày 17 tháng 12 năm 1968, tại Newcastle Assizes, Norma Bell được tha bổng nhưng Mary Bell bị kết tội ngộ sát, quan tòa đưa ra quyết định từ chẩn đoán của các bác sĩ tâm thần do tòa án chỉ định. Thẩm phán Justice Cusack cho rằng Mary là kẻ nguy hiểm và cần được cách ly khỏi những đứa trẻ khác.

      Sát nhân 11 tuổi với án tù vô thời hạn được chuyển đến Red Bank ở Newton-Le-Willows. Đây cũng là nơi mà 25 năm sau, Jon Venables - trong hai đứa trẻ sát hại dã man cậu bé James Bulger bị quản thúc.

      Cái kết có hậu của sát nhân nhí

      Ngày 17 tháng 12 năm 1986, Norma được ra tù nhưng được xóa bỏ danh tính cũ. Còn về phần Mary, sau khi được trả tự do vào năm 23 tuổi, được trao danh tính mới để bắt đầu lại cuộc đời. 4 năm sau đó, Mary hạ sinh ngày 25 tháng 5 năm 1984. Con hề biết gì quá khứ của mẹ mình. Chỉ khi báo chí khui ra danh tính của họ vào năm 1998, hai mẹ con phải trốn giới truyền thông mỗi khi rời khỏi nhà với khăn trùm kín mít.

      Vụ án lắng xuống sau hàng chục năm, nhưng mỗi khi nhắc đến cái tên Mary Bell, mọi người đều kinh hãi về những gì bé 11 tuổi làm và hành vi phạm tội ấy để lại nhiều đau thương cho những người ở lại.

    2. runningman

      runningman Well-Known Member

      Bài viết:
      1,055
      Được thích:
      16

      Carl Panzram là kẻ giết người hàng loạt hung ác vào bậc nhất ở Mỹ. Ở nơi nào Panzram đặt chân đến là nơi đó phạm pháp.

      Cay đắng vì những năm tháng ở tù, Panzram trở thành con người quái dị. ghét mọi thứ, thậm chí cả chính bản thân . Panzram lang thang khắp nơi từ Châu Âu sang Nam Mỹ. Ở nơi nào Panzram đặt chân đến là nơi đó phạm pháp.

      Panzram sinh ngày 28/6/1891, tại trang trại hoang vu ở phía bắc Minnesota, quận Hennepin, Mỹ. Cha mẹ Panzram là người gốc Đức, làm việc chăm chỉ, nghiêm khắc. Giống như hầu hết những người nhập cư khác của thời đại đó, cuộc sống của họ vô cùng nghèo đói. Panzram có năm em trai và em .

      Khi Panzram 7 tuổi, cha mẹ ly hôn. Cha bỏ và để lại toàn bộ trang trại. Kết quả là, cả gia đình Panzram phải đối mặt với tương lai ảm đạm. Họ làm việc trong trang trại từ sáng sớm đến lúc mặt trời lặn. Panzram liên tục bị chị em đánh đập nguyên nhân.

      Đến năm 11 tuổi, Panzram đột nhập vào nhà người hàng xóm và lấy trộm tất cả những thứ có thể, kể cả khẩu súng ngắn. Sau đó, cảnh sát phát ra vụ việc và bắt Panzram. bị gửi đến Trường Đào tạo Minnesota State dành cho vị thành niên năm 1903.

      Tọa lạc tại thị trấn Red Wing sông Mississippi, phía nam của St. Paul, Trường Đào tạo Minnesota State có khoảng 300 bé trai từ 10 đến 20 tuổi.

      Khi đến Minnesota State, nhân viên nam làm việc trong văn phòng tiếp nhận của nhà trường khám sức khỏe cho Panzram. sợ hãi khi bị lột trần truồng và trả lời các câu hỏi về hành vi tình dục của bản thân. “Ông ta kiểm tra dương v*t của tôi, hỏi tôi từng gian dâm, thủ dâm chưa”, Panzram kể lại.

      Carl Panzram bị đánh đập thường xuyên trong trường Minnesota State. Càng đánh đập, càng chịu đựng và tích tụ thù hận. bị đánh bằng ván gỗ, dây da, đòn roi và những mái chèo nặng. Trong suốt thời gian đó, Panzram lên kế hoạch trả thù.

      chuẩn bị thiết bị đơn giản đốt cháy trường Minnesota State khi rời khỏi tòa nhà vào đêm ngày 7/7/1905. Ngọn lửa nhanh chóng được thiêu trụi hội trường của ngôi trường trong khi Panzram nằm giường và tự hào về trả thù ngọt ngào của mình.

      Cuối năm 1905, mẹ của Panzram đến trường Minnesota State và mang về nhà. Panzram thay đổi. Hăn trở nên yên tĩnh và thu mình hơn.

      Năm 1922, Panzram hãm hiếp và giết hại cậu bé 12 tuổi. vui vẻ kể lại việc giết hại: “Tiếng kêu của cậu bé ngọt ngào... Tôi cảm thấy có lỗi chút nào”.

      sống theo lối sống du mục và liên tiếp phạm tội ở châu Âu, Scotland, Mỹ và Nam Mỹ. giết chết 6 người đàn ông trong ngày ở châu Phi, sau đó ném xác họ cho cá sấu ăn thịt. Phần lớn thời gian sống trong nhà tù, nơi diễn ra các phương thức tra tấn và đàn áp cổ xưa.

      Sau khi ra tù, Panzram tiếp tục sát hại, hãm hiếp và thiêu chết các nạn nhân khắp nước Mỹ. Để giải thích cho hành động đồi trụy của bản thân, bố mẹ mình “thiếu hiểu biết, và thông qua phương pháp dạy đúng cách cũng như môi trường sống phù hợp, tôi dần vào con đường sai trái”.

      Bị 4 người đàn ông cưỡng hiếp

      Ở tuổi 14, Carl Panzram làm việc trong nông trại của mẹ. phác thảo tương lai ảm đạm của những công việc lao nặng nhọc mà thu nhập cao, rồi thuyết phục mẹ chuyển đến ngôi trường khác.

      Tại trường mới, Panzram nhanh chóng tham gia vào vụ tranh chấp với giáo viên nhiều lần dùng roi đánh . Panzram tìm được khẩu súng lục và mang đến trường để có thể giết giáo ngay trước cửa lớp học.

      Tuy nhiên, mưu giết người thất bại khi vô tình làm rơi khẩu súng sàn lớp học. Panzram bị đuổi khỏi trường và trở về trang trại. Hai tuần sau đó, nhảy lên tàu chở hàng và rời khỏi trang trại Minnesota mãi mãi.

      Trong vài năm sau, Panzram lang thang khắp nơi, ngủ trong xe chở hàng, theo các đoàn tàu và chạy trốn khỏi cảnh sát đường sắt. xin đồ ăn và lấy trộm nó bất cứ khi nào có thể.

      Sau đó, Panzram theo 4 người lạ đến Montana. Họ mua cho quần áo đẹp và cung cấp chỗ ngủ ấm áp.

      “Nhưng trước tiên, họ muốn tôi làm chút việc cho họ”, Panzram viết trong nhật ký những năm sau đó.

      bị 4 người đàn ông đó hãm hiếp. “Tôi khóc, cầu xin họ tha cho... nhưng chúng vẫn tiếp tục...”, Panzram kể lại.

      trốn thoát nhưng lòng nhân từ còn sót lại của hoàn toàn biến mất. thời gian ngắn sau đó, Panzram bị nhốt ở Butte, Montana vì tội ăn trộm và bị kết án năm tại Trung tâm cải tạo bang Montana ở thành phố Miles.

      Cuộc sống trôi dạt

      Năm 1907, Panzram và tù nhân - Jimmie Benson, trốn thoát khỏi Trung tâm cải tạo bangMontana. Hai người ăn cắp vài khẩu súng ngắn trong thị trấn gần đó và về hướng thị trấn Terry.

      Benson và Panzram dọc theo con đường qua các thị trấn của Glendive, Crane và Sidney, cướp của dọc đường . Khi đến miền tây Minnesota, mỗi người có hai khẩu súng và hàng trăm đô la tiền đánh cắp.

      Họ quyết định chia tay trong thành phố Fargo và theo con đường riêng. Panzram đổi tên thành Jefferson Baldwin, và cuối cùng trôi dạt về vùng đồng bằng rộng lớn của Bắc Dakota.

      Tòa án quân

      đêm trong quán rượu địa phương, Panzram uống rượu mình tại quầy bar và nghe bài diễn văn của nhà tuyển dụng quân đội địa phương. Sau đó, dối về tuổi của mình và gia nhập vào quân đội Mỹ.

      Vào ngày đầu tiên mặc quân phục, Panzram bị kỷ luật vì phục tùng mệnh lệnh. Trong những tháng tiếp theo, bị bắt giam nhiều lần vì những vi phạm khác nhau. Thường xuyên say rượu và mất kiểm soát, Panzram thể tuân theo kỷ luật quân .

      Tháng 4/1908, đột nhập vào tòa nhà của quân nhu và lấy trộm số quần áo trị giá 88,24 USD. Tuy nhiên, cảnh sát quân bắt Panzram khi cố gắng bán số quần áo đó. Trong phiên tòa xét xử, bị kết án tù 3 năm tại nhà tù liên bang và bị mất tấy cả các khoản tiền lương, phụ cấp.

      Tù nhân liên bang tại thời điểm đó thường được gửi đến Fort Leavenworth, Kansas. Panzram bị xích lên và đưa đến trạm xe lửa địa phương với số tù nhân bị quân khác.

      Họ bị xích vào bên trong chiếc xe được bảo vệ vũ trang, được ăn và uống nước trong suốt chuyến hơn 1.600 km. Trong nhà tù, Panzram bị đánh đập nhiều lần và sớm trở nên tuyệt vọng khi cố gắn trốn thoát.

      Tại Leavenworth, mọi hy vọng trở thành công dân trưởng thành của Panzram bị dập tắt hoàn toàn.

      Sau khi được thả từ nhà tù Fort Leavenworth năm 1910, Carl Panzram có nơi nào để . dành phần lớn thời gian của mình trong các trường giáo dưỡng và nhà tù.

      Vài năm sau, Panzram Kansas, Texas, qua vùng Tây Nam và vào California. Trong thời gian này, sử dụng tên “Jeff Baldwin” và bị bắt vài lần do trộm cắp, đốt phá và cướp tài sản.

      Sau đó, trốn thoát khỏi nhà tù ở Rusk, Texas, và The Dalles, Oregon. “Tôi đốt chuồng trại, hàng rào hoặc bất cứ điều gì tôi có thể. Khi có gì để đốt, tôi đốt cỏ thảo nguyên, rừng…”, Panzram kể lại.

      Mùa hè năm 1911, với tên gọi “Jefferson Davis”, bị bắt tại Fresno, California vì tội ăn cắp chiếc xe đạp. ngồi tù 6 tháng nhưng trốn thoát chỉ sau 30 ngày.

      nhảy lên tàu chở hàng, về hướng Tây Bắc và mang theo số khẩu súng đánh cắp. chôn những khẩu súng này bên ngoài thị trấn trước khi bị bắt. toa tàu, tiến hành hiếp dâm cậu bé hơn 10 tuổi. Sau đó, ném cậu bé xuống tàu và tiếp tục cuộc hành trình đến Oregon. Tại đây, trở thành người khai thác gỗ.

      Đến năm 1913, Panzram trở thành tên tội phạm “cứng”, uống rượu, hành hung và sống lang thang như con vật.

      Vẻ ngoài của thu hút nhiều phụ nữ, nhưng bao giờ Panzram quan tâm đến người khác giới. tiếp tục bị bắt tại số bang dưới tên “Jack Allen”.

      Đêm đầu tiên trong nhà tù ở Harrison, Idaho, đốt cháy tòa nhà và cùng số tù nhân trốn thoát. Sau khi trốn khỏi tù, Panzram nhanh chóng chạy lên phía Bắc, qua các Grove of Ancient Cedars, dãy núi Bitterroot và thành tây Montana.

      Ở bất cứ nơi nào, Panzram đều lấy trộm thức ăn, quần áo, tiền bạc và súng. Năm 1915, đột nhập vào ngôi nhà ở thị trấn Astoria, Oregon, lấy bộ quần áo và các vật phẩm khác trị giá quá 20 USD. Ngay sau đó, bị bắt khi cố gắng bán chiếc đồng hồ ăn cắp. bị kết án 7 năm tù tại nhà tù Oregon State Penitentiary ở Salem.

      Ngày 24/6/1915, đến nhà tù và trở thành tù nhân mang số 7390. Trong hồ sơ, ghi nơi sinh của mình như Alabama và nghề nghiệp là “kẻ trộm”. cùng trang, sử dụng hai tên khác nhau: Jefferson Davis và Jeff Rhodes.

      Các cai ngục tỏ ra khó chịu về thái độ bất hợp tác của Panzram. Nhà tù ở Salem nổi tiếng với việc trừng phạt tù nhân bằng các phương pháp lạm dụng và tra tấn. Các tù nhân thường xuyên bị xích vào tường và treo lên trần nhà. Họ bị đánh đập cách khủng khiếp bằng thiết bị có khả năng gây chấn thương kinh hoàng.

      Panzram lập kỷ lục sau khi bị treo “10 giờ/ngày trong hai ngày liên tiếp cùng với những hình thức tra tấn dã man”. tháng sau, tiếp tục bị ném vào “ngục tối” trong ba tuần chỉ với bánh mì và nước. “Họ lột trần truồng và xích tôi vào cánh cửa”, Panzram kể lại.

      Tuy nhiên, ngay sau đó, thực vụ hỏa hoạn, thiêu rụi ba tòa nhà và trốn thoát khỏi nhà tù. Trong 61 ngày tiếp theo, Panzram dò dẫm sống trong bóng tối và thực phẩm chính của là gián.

    3. runningman

      runningman Well-Known Member

      Bài viết:
      1,055
      Được thích:
      16

      Vào mùa hè năm 1920, Panzram dành rất nhiều thời gian ở thành phố New Haven, Connecticut. thích những nơi nhộn nhịp và đông người. Nhiều người có nghĩa là mục tiêu nhiều hơn, nhiều tiền hơn và nhiều nạn nhân hơn. Điều này cũng có nghĩa cảnh sát phải làm việc bận rộn hơn và có lẽ quá bận rộn để bận tâm đến .

      Panzram thường ra ngoài vào ban đêm, lang thang đường phố để tìm kiếm mục tiêu. ăn cắp mọi thứ có thể, hãm hiếp cậu bé hoặc tìm kiếm ngôi nhà để ăn trộm.

      Tháng 8/1920, tìm thấy ngôi nhà nằm Đại lộ Whitney. Panzram đập vỡ cửa sổ, đột nhập vào nhà, lục soát các phòng ngủ và tìm thấy số lượng lớn trang sức trái phiếu kèm khẩu súng lục. Sau khi ăn cắp tất cả mọi thứ có thể mang theo, Panzram trốn thoát qua cửa sổ và đạt hòa vào đường phố.

      bán hầu hết các đồ trang sức và trái phiếu ăn cắp. Trong nhật kí, Panzram viết rằng “từ vụ cướp này, tôi kiếm được khoảng 3.000 USD tiền mặt và giữ khẩu súng lục. Với số tiền đó tôi mua chiếc du thuyền mang tên Akista”. đăng ký thuyền dưới tên John O’Leary, bí danh sử dụng khi sống ở khu vực New York.

      chạy thuyền lên sông Đông, về phía đông thông qua thành phố Rye và lên bờ biển đá của Connecticut. đường , ông phá vỡ thành hàng chục tàu thuyền vào neo đậu, ăn cắp rượu, súng, vật tư, bất cứ thứ gì có thể lấy. Cuối cùng, Panzram thả neo thuyền Akista ở câu lạc bộ du thuyền New Haven, nơi định cư thời gian, uống rượu và suy nghĩ về những nạn nhân tiếp theo của mình.

      Khi dọc theo sông Đông, nhận ra rằng nhiều người tìm kiếm công việc tàu vận tải địa phương. Panzram bắt đầu nghĩ ra kế hoạch cướp và giết người.

      “Tôi lên kế hoạch để thuê vài thủy thủ làm việc cho tôi, đưa những người này lên du thuyền Akista, chuốc họ say rượu và giết chết họ”, Panzram kể lại.

      giết nhiều nạn nhân sau đó chở xác của họ ra xa và đổ xuống biển. Các cơ quan chức năng tại thành phố bắt đầu nghi ngờ thuyền Akista và thuyền trưởng của nó. Panzram nhận ra rằng phải thay đổi địa điểm. thuyền xuống bờ biển New Jersey với hai hành khách cuối cùng và giết họ ở đảo Long Beach.

      Vào cuối tháng 8/1920, cơn gió lớn khiến thuyền Akista bị đập vỡ ra từng mảnh do va vào bờ đá. Panzram bơi vào bờ và trốn thoát.

      Năm 1921, Panzram ngồi tù 6 tháng trong nhà tù ở Bridgeport, Connecticut, do trộm cắp và sở hữu súng trái phép. Sau khi tại ngoại, bỏ trốn khỏi tiểu bang Connecticut và đến Angola, thuộc địa của Bồ Đào Nha bờ biển phía tây châu Phi.

      Tại đây, làm quản đốc giàn khoan dầu tại Công ty Dầu Sinclair. Vào thời điểm đó, các ngành công nghiệp dầu khí Mỹ tham gia vào cuộc thám hiểm thăm dò để tìm kiếm nguồn dầu mới ở châu Phi. Tại thị trấn ven biển của Luanda, Panzram hãm hiếp và giết chết bé trai 11 tuổi.

      Sau đó, Panzram trở lại Lobito Bay bờ biển Đại Tây Dương và sống vài tuần trong làng chài. Những người dân địa phương nghi ngờ về tội giết người nhưng họ có bằng chứng chứng minh. ngạc nhiên trước việc có thể giết người dễ dàng như vậy.

      Sau vài ngày trở lại tại Mỹ, Carl Panzram đến văn phòng Hải quan Mỹ tại thành phố New York để gia hạn giấy phép thuyền trưởng và lấy lại giấy tờ du thuyền Akista bị đắm bãi cát ngầm Jersey hai năm trước.

      lên kế hoạch để ăn cắp chiếc thuyền khác và tái trang bị dưới tên Akista. Ban đầu, tìm kiếm tại các bãi neo đậu thuyền địa phương trong khu vực New York và lang thang bên bờ biển Connecticut.

      Sau đó, trôi dạt đến các cảng biển của Providence, Rhode Island, nhưng vẫn thể tìm thấy chiếc thuyền cùng loại với Akista. Panzram tiếp tục về phía bắc dọc Boston và cuối cùng đến ở thị trấn Salem, Massachusetts, nổi tiếng với những phù thủy thế kỷ 17.

      Ở đó, vào chiều ngày hè nóng nực ngày 18/7/1922, gặp cậu bé 12 tuổi bộ mình ở phía tây của thị trấn.Tên của cậu bé là George Henry McMahon, sống tại số 65 đường Boston ở Salem cùng bà Margaret Lyons.

      Khoảng 2h15 chiều ngày 18/7/1922, bà Margaret nhờ George đến cửa hàng sữa A amp;. Sau khi rời khỏi nhà hàng, George lên đường Boston. 1 giờ sau, bà Margaret Crean, người hàng xóm của George, nhìn thấy cậu cùng người lạ.

      'Chiều ngày 18/7, tôi thấy cậu bé và người đàn ông bộ lên con đường. Người đàn ông mặc bộ đồ màu xanh và đội chiếc mũ', bà . Người đàn ông đó là Carl Panzram.

      'Tên của cậu bé tôi biết”, Panzram , 'cậu bé với tôi rằng cậu 11 tuổi, và mang theo giỏ hay túi gì đó. Tôi hỏi cậu bé có muốn kiếm được 50 xu và cậu có”.

      Panzram với George đến cửa hàng gần đó. vài phút sau, Panzram thuyết phục đứa trẻ để xe cùng lên xe hàng rồi đến nơi hoang vắng trong thị trấn.

      'Tôi túm lấy cánh tay và với cậu bé rằng tôi giết cậu', Panzram trong lời thú tội của mình. 'Tôi ở lại với cậu bé khoảng ba giờ. Trong thời gian đó, tôi hãm hiếp cậu bé sáu lần, và sau đó tôi cầm đá đập vào đầu cậu bé”.

      Sau khi giết chết George, Panzram vội vàng ra khỏi thị trấn, quay trở lại hướng về phía New York. Tuy nhiên, hai cư dân của Salem bắt gặp . Họ thấy người đàn ông có vẻ lo lắng, và chút điên cuồng, vội vã ra khỏi thị trấn.

      Ba ngày sau, cảnh sát Salem phát ra xác của George và tiến hành truy tìm hung thủ. Tuy nhiên, Panzram vẫn trốn thoát và trở lại khu vực Westchester County để tiếp tục tìm kiếm chiếc thuyền phù hợp.

      Đầu năm 1923, thuê căn hộ tại Yonkers, New York, sử dụng bí danh là John O'Leary. làm bảo vệ tại Công ty Abeeco Mill tại 220 Yonkers Avenue và gặp chàng trai tên George Walosin, 15 tuổi.

      Trong mùa hè năm 1923, Panzram đánh cắp chiếc thuyền cập cảng ở New Haven. Tại đây, hứa với George Walosin cho làm việc du thuyền.

      Hai người 50 dặm đến vịnh nhở ở Kingston. Panzram nhanh chóng sơn lại vỏ thuyền và thay đổi tên đuôi thuyền. Sau đó, mạo hiểm tìm người mua thuyền.

      Đêm ngày 27/6/1923, người đàn ông trẻ đồng ý lên xem thuyền. Người đàn ông này may mắn khi Panzram dùng khẩu súng bắn vào đầu ta rồi vứt xuống biển.

      George Walsoin chứng kiến toàn bộ việc. cố gắng trốn thoát và quay về Yonkers. Ngay sau đó, George Walsoin trình báo cảnh sát về vụ giết người của Panzram.

      Sáng ngày 29/6/1923, cảnh sát bắt ngờ bước lên du thuyền để bắt Panzram. khai toàn bộ quá trình cướp của cũng như cưỡng hiếp, giết người của mình.

      Đây là câu trích dẫn từ lời của Carl Panzam: "Tôi xin lỗi, trong đời tôi làm sai 2 việc, thứ nhất là tôi ngược đãi số động vật khi còn trẻ và điều thứ 2 là, rất tiếc là tôi thể giết hết tất cả những con súc vật trong cuộc sống này (ám chỉ những nạn nhân của mình)".

    4. runningman

      runningman Well-Known Member

      Bài viết:
      1,055
      Được thích:
      16

      Trong con mắt của người dân vùng Norwood, thành phố Chicago, John Wayne Gacy là người hàng xóm thân thiện. Gacy rất sẵn lòng giúp đỡ mọi người và đặc biệt là thích chơi với trẻ con. ta thường mặc những bộ quần áo của những chú hề để vui chơi với chúng.

      Tuy nhiên, về con người John Wayne Gacy chỉ được hé lộ khi cảnh sát tới khám xét nhà riêng của Gacy, phát thi thể của 28 đàn ông, hầu hết họ đều rất trẻ và ở độ tuổi vị thành niên. Đến lúc này, người dân Norwood mới hiểu rằng, hóa ra cái vẻ bề ngoài thân thiện và tính cách thích chơi đùa với trẻ con chỉ nhằm phục vụ mục đích cuối cùng của là dụ dỗ và bắt cóc chúng càng nhiều càng tốt.

      Ghê rợn hơn, nạn nhân của kẻ giết người máu lạnh lại chỉ là những bé trai. bắt cóc, hãm hiếp và cuối cùng là giết chết rồi quăng xác bên dưới nhà và ga-ra. Ngoài 28 thi thể được tìm thấy ở nhà riêng, Gacy còn khai vứt 5 xác nữa xuống sông Chicago.

      Phiên tòa xét xử John Wayne Gacy bắt đầu vào ngày 6/2/1980 trước căm phẫn của người thân các nạn nhân và toàn thể nhân dân Mỹ chung. Họ đua nhau tới tòa án để theo dõi phiên xét xử tên giết người bệnh hoạn nhất trong lịch sử nước Mỹ. Ngày 10/5/1994, Gacy nhận án tử hình bằng thuốc độc. Thực đơn bữa ăn cuối cùng của John Way Gacy có tôm, gà rán, khoai tây chiên và dâu tây. Tuy nhiên, thể nào nuốt nổi khi nghĩ tới liều thuốc độc chờ đợi ở phía trước.

      Ngày 22/5/1978, Jefferey Ringall dạo bước khu phố New Town (Chicago) sau chuyến nghỉ mùa đông dài ngày tại Florida, bất ngờ, chiếc Oldsmobile đen bóng chặn ngang trước mặt . Tên lái xe người rắn chắc ló đầu ra khỏi cửa khen nước da bánh mật đẹp. Gã tiếp tục trò chuyện và mời lên xe để hàn huyên khi cho xe chạy vòng quanh khu phố. muốn thoát khỏi cái lạnh lẽo của kỳ nghỉ, Ringall chần chừ chui tọt lên xe, bắt đầu hút thuốc với ông bạn quen tình cờ và rất "thân thiện".

      Gần nửa quãng đường, tên lạ mặt bất thình lình chụp mảnh giẻ có tẩm thuốc mê lên mặt Ringall. gục xuống bất tỉnh. Trong lúc chập chờn nửa tỉnh nửa mê, thấy mình được đưa đến ngôi nhà, còn gã bạn tình cờ kia "trần như nhộng" đứng trước . Đêm đó, bị con quái vật bệnh hoạn kia hãm hiếp, hành hạ và sau đó bị đánh thuốc mê bất tỉnh. Sáng sớm hôm sau, Ringall tỉnh dậy thấy mình nằm dưới chân tượng đài trong khu Công viên Lin-coln ở Chicago.

      Ngạc nhiên thấy mình còn sống sót sau vụ bạo hành, cố sức tìm đến nhà của người bạn . Ngay sau đó, được đưa vào bệnh viện để điều trị mất 6 ngày. Theo bản kết luận của bác sĩ, bị rách nhiều chỗ ở da và bị bỏng, thần kinh bị hoảng loạn nghiêm trọng. Sau đó, báo cáo cho cảnh sát toàn bộ việc .

      Ringall quả thực thoát chết, và chỉ là trường hợp hiếm hoi trong số các nạn nhân bỏ mạng dưới bàn tay của "con quái vật" John Wayne Gacy.

      John Wayne Gacy là người thứ hai trong số ba chị em sinh ra trong gia đình thuộc tầng lớp trung lưu, luôn bận rộn với những công việc sau giờ học như bán báo, giữ đồ tại cửa hàng tạp phẩm và coi nhà kho. Năm lên 7 tuổi, bị va đầu vào cái đu quay và tai nạn này tạo ra cục máu đông trong não. Sau nhiều năm bị mất trí nhớ, vết thương này mãi mới được phát khi lên 16 tuổi, và bác sĩ giúp chữa trị phần. Năm 19 tuổi, luôn luôn đối đầu với cha mình, trong khi mối quan hệ với mẹ và chị vẫn bền chặt.

      Tháng 9/1964, Gacy gặp và cưới người làm việc cùng với mình tên là Mariyan Myers, cha mẹ ta làm chủ loạt nhà hàng gà rán Ken-tucky ở Waterloo-Iowa. Bố vợ dành cho vị trí trong cửa hàng của mình. Ngay sau đó, Gacy và vợ chuyển đến Iowa. Cuộc sống trở nên đầy hứa hẹn khi vợ sinh cho hai đứa con: trai, . Thế nhưng, những lời đồn đại lan khắp thành phố Jaycee về cuộc sống tình dục quái đản của .

      Những cậu bé vị thành niên luôn là đối tượng của . Mọi người được nghe rất nhiều câu chuyện về Gacy rằng gã là kẻ đồng tính luyến ái, và thường qua đêm với những cậu bé làm việc tại cửa hàng thức ăn nhanh của . Cuối năm 1968, bị bồi thẩm đoàn của hạt Black Hawk kết tội là có quan hệ tình dục sai trái với cậu bé Mark Miller. Bốn tháng sau, Gacy bị kết tội là thuê người đánh Miller. Trước khi ra vành móng ngựa, tòa cầu kiểm tra thần kinh đối với Gacy. Kết quả cho thấy thần kinh có vấn đề. bị lãnh án 10 năm tù cùng với bản cam kết người bị kết án lâu nhất với tội danh này.

      Ngay sau khi vào tù, vợ đâm đơn ly dị với lý do phản bội lời thề hôn nhân. Trong tù người mẫu mực. ra khỏi trại giam ngày 18/6/1970 và quay về quê ở Chicago.

      Sau khi ra tù, Gacy về làm bếp trưởng tại nhà hàng của mẹ ở Chicago. làm việc say mê và nhiệt tình. Bốn tháng sau, quyết định ở riêng, mẹ tưởng chí thú cải tà quy chính nên giúp mua ngôi nhà tại 8213 Summerdale.

      Ngày 1/6/1972, cưới Caroll Hoff, người phụ nữ mới ly dị và có hai đứa con . Tại nơi ở mới, Gacy nhanh chóng làm quen với gia đình hàng xóm là Edward và Lillie Graxas. Họ thường tụ tập để đánh bài và uống rượu. Graxas thường được mời tham gia các bữa tiệc ngoài trời với các món nướng. Tuy nhiên, cứ mỗi lần sang nhà của Gacy, họ đều thấy có mùi khó chịu. Graxas khẳng định đó là mùi chuột chết và cầu Gacy xử lý. Còn Gacy cho rằng đó là mùi ẩm mốc từ khoảng trống dưới sàn nhà bốc lên.

      Năm 1974, quyết định vào nghề kinh doanh, ban đầu bằng nghề sơn, trang trí và bảo dưỡng sản phẩm, gọi tắt là Công ty thầu PDM. thuê các cậu bé tới để làm việc vì cho rằng như thế là tiết kiệm được các chi phí. Vợ cũng dần phát ra ham muốn bệnh hoạn của . Ngày 2/3/1976, bà ta ra tòa xin ly dị.

      Nạn nhân đầu tiên là Johny Butkovich, 17 tuổi, người từng làm tại công ty thầu của Gacy. lần, Gacy từ chối trả tiền công hai tuần làm việc cho Johny. Bực tức, Johny cùng hai người bạn tới nhà của Gacy để đòi. Sau hồi cãi vã, biết thể nào làm gì được Gacy, cả bọn kéo nhau về. Johny để những người bạn của mình ở nhà họ và lái xe , rồi từ đó ai nhìn thấy cậu ta nữa.

      Nạn nhân thứ hai là Michael Bonnin cũng 17 tuổi. rất thích thú với công việc làm đồ mộc tại Công ty thầu PMD của Gacy. Tháng 6/1976, Bonnin hoàn thành công việc sửa chữa chiếc máy hát tự động bằng gỗ, và chuyến tàu Bonnin về thăm người trai, con của dượng, Bonnin bao giờ quay trở lại nữa.

      Nạn nhân trẻ tuổi nhất có lẽ là Robert Riest mới 15 tuổi. Số là mẹ cậu đợi mãi thấy cậu làm về, liền đến chỗ con làm việc để tìm kiếm, nhưng vẫn thấy, liền báo cảnh sát. Chỉ ba giờ sau khi Robert mất tích, văn phòng cảnh sát Des Plaines bắt tay vào cuộc. Trung úy Joseph Kozenczak dẫn đầu cuộc điều tra. Điều tra về lai lịch của Gacy, cảnh sát vô cùng kinh ngạc khi biết người đàn ông này từng có tiền án về tội hiếp dâm trẻ em.

      Cuộc đột kích vào nhà Gacy

      Nghi ngờ Gacy chính là hung thủ bắt cóc Robert Piest, Trung uý Kantz thụ lý vụ án chịu trách nhiệm thu thập bất kỳ chứng cứ nào tìm được ở trong nhà. Ngày 13/12/1978, cảnh sát ập vào nhà John Wayne Gacy đại lộ Summerdale để thực lệnh khám nhà nhưng Gacy có ở nhà lúc đó.

      Tuy nhiên, họ thu được những tang vật đáng ngờ, bao gồm: 1 chiếc hộp kim hoàn, bên trong có 2 bằng lái xe và vài chiếc nhẫn; 1 hộp đựng cần sa và các tờ giấy được cuộn lại; 7 bộ phim người lớn do Thụy Điển sản xuất; vài vỉ thuốc trị bệnh đau thắt ngực và an thần; 1 con dao bấm tự động; 1 vỉ thuốc có dính vết bẩn; các bức ảnh chụp những hiệu thuốc lớn; 1 cuốn sổ địa chỉ; các cuốn sách giới tính dành cho thiếu niên, sách về quyền của người đồng tính, về các tư thế quan hệ giữa đàn ông và các cậu bé…; 1 cặp còng số 8, kèm theo các chìa khóa; 1 tấm ván bằng gỗ dài khoảng gần 1m, có 2 lỗ; 1 khẩu súng lục lên nòng; những đồ chơi người lớn bằng cao su; nhiều kim tiêm; nhiều bộ quần áo kích cỡ rất so với Gacy; 1 đơn thuốc từ hiệu thuốc Nisson; những cuộn dây ni lông.

      3 chiếc xe ô tô của Gacy cũng bị tịch thu, trong đó có chiếc xe tải hiệu Chevrolet 1978 với nhãn Công ty PDM, chiếc Delta 88 và chiếc xe tải cũng mang nhãn Công ty PDM. Đặc biệt, chiếc xe tải có vài mẫu tóc và sau này được xác định là của Robert Piest.

      Điều tra kỹ hơn, cảnh sát vào khu tầng hầm của nhà Gacy. Điều đầu tiên khiến các nhân viên điều tra vô cùng sốc là mùi hôi nồng nặc như mùi của cống rãnh. Tuy nhiên, trong lần tìm kiếm đầu tiên tại căn hầm này, cảnh sát tìm được manh mối gì và cuối cùng phải quay ra để tiếp tục điều tra những chứng cớ họ vừa thu được.

      Gacy ngay sau đó bị triệu tập tới cục cảnh sát để lý giải về những “tang vật” mà các nhân viên điều tra mới thu thập được trong nhà . Khi biết tin, vô cùng giận dữ và gọi cho luật sư riêng của mình. tự tin từ chối ký tất cả những giấy tờ cần thiết. Và mặc dù cảnh sát có trong tay những chứng cớ khá nhạy cảm về đời sống tình dục của Gacy nhưng chẳng có gì có thể kết tội được . Thế là cảnh sát phải thả tự do cho . Điều duy nhất họ có thể làm là giám sát Gacy 24/24 giờ.

      Xâu chuỗi bằng chứng

      Sau phen bẽ bàng, cảnh sát quyết theo dõi sát sao nhất cử nhất động của Gacy. số bạn bè của Gacy cũng được gọi tới sở cảnh sát để thẩm vấn. Tuy nhiên, cảnh sát moi thêm được thông tin gì bất lợi cho Gacy, bởi những người bạn của đều thể tin người tốt, nhiệt tình với cộng đồng như bạn mình lại có những hành động hiếp và giết bé trai dã man như vậy. Rốt cuộc, vụ mất tích bí của Robert Piest vào ngõ cụt.

      Nản lòng vì thiếu chứng cứ liên quan tới vụ Piest, các nhân viên cảnh sát quyết định bắt Gacy về tội tàng trữ và sử dụng cần sa cùng số thuốc kích thích khác. ngày trước khi bị bắt, Gacy vẫn thỏa mãn với thành công của mình và giễu cợt kể đùa với bạn bè của mình rằng giết nhiều người, con số lên tới 30 kẻ xấu xa vì chúng dám tống tiền y.

      Đây cũng là thời gian xảy ra vụ việc Gacy cưỡng hiếp thanh niên tên là Ringall. Trong buổi tối bộ về sau khi rời quán bar, Ringall bị người lạ mặt mời hút xì gà và dụ lên xe, cuối cùng bị khống chế và tiêm mũi thuốc mê.

      Thức dậy với đầy đủ quần áo người và nằm dưới chân tượng ngoài công viên, Ringall chỉ bị rách da, bỏng và tổn thương gan vĩnh viễn do thuốc mê Chloroform gây nên mà còn bị tổn thương nghiêm trọng về mặt tinh thần. nhanh chóng báo tin cho cảnh sát và cái tên Gacy được đặt lên hàng đầu trong danh sách tình nghi.

      Sau thời gian khá dài điều tra căng thẳng và cẩn trọng, cùng với những kết quả tại phòng thí nghiệm về những tang chứng tìm được trong nhà Gacy, cảnh sát tìm ra được manh mối quan trọng, đủ để làm bằng chứng chống lại .

      trong những chiếc nhẫn tìm được trong nhà Gacy được cảnh sát phát ra là của 1 nạn nhân bị mất tích cách đây 1 năm tên là John Szyc. Họ cũng phát ra rằng 3 người từng là nhân viên của Công ty PDM do Gacy làm chủ bị mất tích cách bí .

      Hơn nữa, tấm biên lai cho cuộn phim tìm thấy ở nhà Gacy được cho là thuộc về đồng nghiệp của Robert Piest, người đưa cho Robert vào trước ngày cậu bé bị mất tích. Với thông tin mới này, các nhân viên điều tra bắt đầu nhận ra đây là vụ việc vô cùng man rợ, liên quan tới cái chết và mất tích của rất nhiều nạn nhân trước đó.

      Với những phát của cảnh sát, cuối cùng Gacy cũng phải thú nhận rằng giết số người nhưng với lý do tự vệ. cho biết chôn xác nạn nhân ở dưới gara. Tuy vậy, cảnh sát ngay lập tức cho đào lên. Trước tiên, họ muốn tìm kiếm căn hầm dưới nhà Gacy. lâu sau đó họ phát ra mô đất nhô lên khá tình nghi. Chỉ sau vài phút đào xới, các nhân viên điều tra tìm ra nhiều phần thi thể, ghê tởm đến lạnh người.

      Nghĩa địa dưới tầng hầm

      Thứ Sáu ngày 22/12/1978, Gacy cuối cùng phải thú tội với cảnh sát rằng sát hại ít nhất 30 người và chôn phần lớn số nạn nhân trong căn hầm dưới nhà. Lần đầu tiên gây tội ác là vào tháng 1/1972, rồi 2 năm sau đó mới tiếp tục phạm tội, lúc này kết hôn được 1,5 năm.

      Gacy còn thú nhận việc dụ các nạn nhân và khóa tay bằng còng số 8 rồi sau đó ung dung cưỡng hiếp họ. Để tránh bị phát hay nạn nhân la hét, tên sát nhân nhét bít tất hay đồ lót và miệng họ và sát hại họ bằng siết chặt dây thừng hoặc vừa cưỡng hiếp, vừa bóp cổ họ tới chết.

      Thậm chí còn thú nhận đôi khi còn táo tợn để xác nạn nhân lại hàng giờ giường hoặc gác mái trước khi đưa họ xuống hầm và chôn giấu.

      Vào ngày đầu tiên cảnh sát bắt đầu công việc khai quật các thi thể nạn nhân của vụ án, họ tìm được 2 xác chết. trong hai được xác định là John Butkovich, bị Gacy chôn dưới gara, còn cái xác còn lại tìm thấy dưới hầm.

      Nhiều ngày trôi qua, con số xác chết được tìm thấy ngày càng nhiều. Ghê rợn hơn, số nạn nhân được tìm thấy trong tình trạng đồ lót lọt sâu xuống cổ họng. Nhiều nạn nhân khác được chôn cùng chỗ khiến cảnh sát đặt ra giả định rằng có lẽ họ bị giết hoặc chôn cùng lúc.

      Ngày 28/12, cảnh sát di dời toàn bộ 27 thi thể nạn nhân tìm được ra khỏi nhà Gacy. chỉ có thể, vài tuần sau họ còn phát xác chết khác ở trong căn hầm. Đó là tử thi trong tình trạng lõa thể được xác định là Frank Wayne “Dale” Landingin ở bờ sông Des Plaines. Cái chết của Frank được liên kết với Gacy nhờ trước đó các nhân viên điều tra tìm thấy bằng lái của Landingin trong vụ khám nhà.

      Ngày 28/12, cảnh sát tìm thấy thi thể của James “mojo” Mazzara trong tình trạng đồ lót bị trôi xuống họng bên bờ sông Des Plaines. Các nhân viên điều tra cho biết nguyên nhân gây tử vong phải vì bị đánh đập mà do chiếc quần lót trong miệng quá chặt, trôi dần xuống khiến nạn nhân ngạt thở. Mazzara là nạn nhân thứ 29 của Gacy được tìm thấy.

      Ngày 28/12/1978, cảnh sát chuyển toàn bộ 27 xác chết ra khỏi nhà của Gacy cùng với số xác, theo lời thú nhận của Gacy, là vứt xuống sông. Tổng cộng, Gacy sát hại 32 người.

      Ngày 6/2/1980, vụ án giết người John Wayne Gacy được tiến hành tại Tòa án hình Cook, Chicago Illi-nois. Sau loạt các chứng cứ và hàng trăm nhân chứng, được nghe công tố viên Bob Egan về cuộc đời và tội ác giết người kinh khủng của Gacy, bồi thẩm đoàn phải mất 5 tuần mới đến kết luận cuối cùng. Gacy bị kết tội và chịu trách nhiệm trước cái chết của 32 nạn nhân và được coi là tên giết người bệnh hoạn nhất trong lịch sử nước Mỹ. Gacy nhận bản án tử hình.

    5. runningman

      runningman Well-Known Member

      Bài viết:
      1,055
      Được thích:
      16

      Nạn nhân đầu tiên

      Ngày 21/05/1960, Jeffrey Dahmer chào đời trong thương của ông Lionel Dahmer và bà Joyce Dahmer - cặp vợ chồng hiền lành ở Milwaukee. Cuộc sống trong những năm đầu đời của Jeffrey Dahmer trôi rất êm ả và hạnh phúc, cho đến khi người em trai kém 6 tuổi của cậu ra đời. xuất của đứa em trai, cộng với số tiểu phẫu mà Dahmer phải trải qua khiến cậu trở nên tự ti và hẹp hòi.

      Cũng trong khoảng thời gian đó, cha cậu - nhà hóa học quyết định dẫn gia đình chuyển từ bang Iowa tới bang Ohio để phục vụ công việc. Môi trường sống lạ lẫm khiến Dahmer càng thu mình lại. Trong suốt những năm tháng thiếu niên của mình, Dahmer có nổi người bạn. Điều đó khiến tâm lý của cậu dần hình thành những biến đổi kỳ lạ.

      Năm 14 tuổi, Dahmer bắt đầu phát triển những huyễn tưởng về việc giết người và quan hệ tình dục với xác chết. Song có lẽ cuộc hôn nhân tan vỡ của cha mẹ , cộng với những căng thẳng tâm lý vốn có chính là những chất xúc tác khiến biến những huyễn tưởng ấy thành hành động. Quá trình thực hóa của Dahmer bắt đầu ngay sau khi tốt nghiệp trung học vào tháng 6/1978. Steven Hicks chính là người tình đồng tính và cũng là nạn nhân đầu tiên của .

      Thời điểm đó, Dahmer sống với cha và mẹ kế tại khu thượng lưu ở Bath, bang Ohio. đưa Hicks về nhà, uống bia và quan hệ tình dục. Đến khi Hicks đòi về, Dahmer cảm thấy tức giận. Mất tự chủ trong cơn say, Dahmer vơ lấy thanh tạ và phang vào đầu Hicks. Để phi tang, Dahmer chặt thi thể nạn nhân thành nhiều phần, nhét vào túi ni-lông và đem chôn ở khu rừng phía sau nhà.

      Trong khoảng thời gian sau đó, Jeffrey Dahmer vùi mình vào bia rượu và bỏ bê việc học hành tại đại học bang Ohio. Tháng 1/1979, cha của Dahmer ép nhập ngũ và chuyển đến Đức. Chỉ 2 năm sau, quân đội Đức trục xuất ra khỏi quân đội vì thói nghiện rượu. Trở về nhà, Dahmer khai quật hài cốt phân hủy của Hicks lên, dùng búa nghiền nát nó và đem rải khắp nơi trong rừng.

      Phanh thây và quan hệ với xác chết

      Tháng 10/1981, Dahmer bị bắt vì tội vì tội gây rối trật tự công cộng. Điều này khiến cha rất tức giận và gửi đến sống với ông bà ngoại ở Wisconsin. Mọi chuyện đều ổn thỏa trong 4 năm sau cho đến khi bị bắt lại vào tháng 9/1986 vì tội thủ dâm trước mặt 2 cậu bé và phải chịu 1 năm tù treo.

      Tháng 9/1987, Dahmer ra tay với nạn nhân thứ 2 của mình - Steven Toumi, người mà quen trong quán bar đồng tính. Hai người vào khách sạn và uống say khướt. Sáng hôm sau, chỉ có mình Dahmer tỉnh dậy. nhớ giết Toumi như thế nào, chỉ biết rằng khi thức dậy thấy Toumi tắt thở, máu trào ở miệng.

      Dahmer mua chiếc vali lớn và nhét xác của Toumi vào trong. Sau đó, chở cái vali đến tầng hầm nhà ông bà ngoại, nơi quan hệ tình dục và thủ dâm với thi thể Toumi, trước khi chặt đứt tay chân cái xác và phi tang phần còn lại.

      Theo thời gian, phương pháp dụ dỗ nạn nhân và giết người của Dahmer ngày càng hoàn thiện. Trước tiên, lựa chọn con mồi tại những quán bar dành cho dân đồng tính hoặc nhà tắm công cộng. Sau đó, kiếm cớ làm quen với họ bằng cách mời bia, rượu, hay thuê họ làm người mẫu chụp ảnh. Nạn nhân bị đánh thuốc mê, rồi bị xiết cổ đến chết. Thi thể của họ tiếp tục bị cưỡng bức, bị cắt xẻ và phi tang ở bãi rác. Đôi lúc Dahmer cũng giữ đầu nạn nhân lại như chiến lợi phẩm.

      Cái chết tức tưởi của cậu bé người Lào

      đêm tháng 5/1991, Dahmer gặp Konerak Sinthasomphone - cậu bé người Lào 14 tuổi. Sau khi chuốc mê dược Konerak, đưa cậu đến căn hộ bốc mùi và cưỡng bức cậu.

      Khoảng 2h sáng, Konerak tỉnh lại và phát người đàn ông tóc vàng nằm đè lên người mình. Bằng tất cả sức mạnh, Konerak đứng dậy và mò được ra cửa. Cậu bé hoảng loạn đến mức nhận ra mình trần truồng. Đây là cơ hội duy nhất để có thể sống sót.

      Sandra Smith – nhân chứng gần đó nhìn thấy cậu chạy rất nhanh trong tình trạng khỏa thân nên gọi 911. Smith biết cậu bé là ai, song chắc chắn cậu bé bị thương và hoảng loạn. Các nhân viên y tế tới trước tiên và sau đó ít phút là cảnh sát. Họ cố tìm hiểu điều gì xảy ra với cậu bé gốc Á này gã đàn ông cao lớn, tóc vàng tiến đến chỗ cậu bé.

      Gã tóc vàng khai rằng, Konerak là người tình của say rượu. Trong cơn hoảng loạn và bị ảnh hưởng bởi thuốc mê, Konerak thể thuyết phục được cảnh sát tin mình bị hại. Gã tóc vàng thậm chí còn đưa cảnh sát thẻ căn cước của . Nhìn thấy Konerak hoảng loạn chống cự gã tóc vàng trước khi cảnh sát tới, Sandra Smith ra sức can thiệp. Tuy nhiên, cảnh sát vẫn bỏ ngoài tai và lắng nghe gã đàn ông da trắng.

      Để xác minh lời khai, hai viên cảnh sát cùng cậu bé và gã tóc vàng quay trở lại căn hộ. Nó bốc mùi dù khá ngăn nắp. Quần áo Konerak được gấp và đặt ghế sofa. Ngoài ra, còn có 2 tấm ảnh cậu bé mặc quần bơi màu đen. Konerak ngồi lặng ghế và thể chuyện rành mạnh. Thậm chí, dường như cậu còn hiểu giải trình của gã đàn ông tóc vàng với cảnh sát. xin lỗi cảnh sát vì để người tình gây náo loạn và hứa để chuyện như thế tái diễn.

      Cảnh sát tin vào gã tóc vàng. có lí do nào để nghi ngờ cả. trình bày ràng, rành mạch và vô cùng điềm tĩnh, trong khi cậu bé gốc Á ràng say và mất bĩnh tĩnh. Bản thân họ cũng chẳng muốn xen vào chuyện nội bộ của những người đồng tính luyến ái. Vì thế, họ rời căn hộ và để mặc Konerak ngồi im ghế.

      Tuy nhiên, cảnh sát bỏ qua kiểm tra phòng ngủ trong căn hộ đó. giường, thi thể Tony Hughes – nạn nhân trước đó của Dahmer bắt đầu phân hủy. Họ ngờ là ngay khi họ vừa , Dahmer xiết cổ cậu bé gốc Á và quan hệ tình dục với xác chết. Họ bỏ qua cơ hội kiểm tra hồ sơ về cái tên Jeffrey Dahmer tấm căn cước. Nếu làm điều đó, có thể Konerak phải chết.

      Thế nhưng, câu chuyện dã man này dừng lại ở đó. Mẹ của Sandra Smith - bà Glenda Cleveland, 36 tuổi, sống ngay cạnh khu căn hộ Oxford mà Jeffrey Dahmer sinh sống. Bà gọi cho cảnh sát để tìm hiểu điều gì xảy ra với cậu bé người gốc Á. Viên cảnh sát khẳng định đó là người trưởng thành và mọi chuyện vẫn ổn. Tuy nhiên, vài ngày sau đó, Cleveland gọi lại để thông báo rằng, bà đọc được thông tin cậu bé người Lào có tên Konerak Sinthasomphone mất tích, trông rất giống với cậu bé chạy trốn từ nhà Dahmer....

      Sống ở nhà ông bà ngoại được 1 năm, Dahmer buộc phải chuyển do ông bà của chịu được cảnh đàn đúm, rượu chè thâu đêm suốt sáng của cháu trai và những gã đàn ông khác. Được tự do tự tại, Dahmer bắt đầu giết người phanh.

      Căn phòng rùng rợn

      Đêm 22/7/1991, hai cảnh sát vùng Milwaukee lái xe tuần tra quanh Trường Đại học Marquette nhìn thấy người đàn ông bị còng tay chạy hớt ha hớt hải. Tưởng rằng người này là tên tội phạm bỏ trốn, hai cảnh sát tra hỏi ta được biết ta tên là Tracy Edwards. Edwards khai rằng mình vừa bị người đàn ông tóc vàng hành hung và dẫn cảnh sát đến căn hộ ở khu chung cư Oxford, phố 924 North 25 th – nơi kẻ đó sống.

      Họ gõ cửa căn hộ số 213, người đàn ông tóc vàng khoảng 30 tuổi ló đầu ra. Sau hồi tra hỏi và thấy nhiều điểm đáng ngờ, cảnh sát quyết định xông vào phòng ngủ của gã tóc vàng.

      Bước vào phòng, hai viên cảnh sát khỏi ngỡ ngàng trước những bức ảnh treo đầy xung quanh: Chặt tay chân, đầu người trong tủ lạnh, phanh thây, mổ bụng... chần chừ, hai cảnh sát còng tay gã tóc vàng và định đưa về đồn cảnh sát.

      Lúc trong hai viên cảnh sát tiến về phía chiếc tủ lạnh, gã tóc vàng vội vùng vẫy và lao vào viên cảnh sát khống chế mình. Tuy nhiên, kịp ngăn viên cảnh sát nọ mở chiếc tủ lạnh ra. Đột nhiên, đóng sầm cánh cửa lại và la lớn: “Có cái đầu ở trong tủ lạnh”. Đội tiếp viện và pháp y nhanh chóng được gọi đến để khám xét ngôi nhà. Họ khỏi rùng mình trước mùi hôi thối bao phủ quanh căn nhà và máu me trong tủ lạnh - cái đầu phân hủy.

      dừng lại ở đó, khi mở ngăn đá phía ra, họ còn phát thêm 3 cái đầu nữa được gói gọn gàng bên trong các túi nylon. Trong chiếc nồi áp suất góc nhà là vài bàn tay và dương v*t bị phân hủy. Cái giá phía chiếc nồi còn có 2 chiếc đầu lâu nữa. Ngoài ra, cảnh sát còn tìm thấy nhiều chai thuỷ tinh đựng cồn êtylic, thuốc gây mê và chất formaldehyt (dùng để bảo quản bộ phận sinh dục nam).

      Những bức ảnh Dahmer chụp thi thể các nạn nhân cũng được tìm ra, trong đó có bức ảnh chụp đầu của người đàn ông trong bồn rửa bát; cái khác lại chụp nạn nhân bị mổ phanh dọc từ cổ xuống đến háng, vết cắt rất ngọt và lộ cả xương chậu. vài bức ảnh nữa chụp những nạn nhân trước khi bị giết trong tư thế nô lệ tình dục.

      Sau khi vụ việc của Dahmer được công bố, cả thế giới rơi vào cơn chấn động. Ai cũng cố hiểu xem chuyện gì xảy ra trong căn hộ số 213. ít giả thuyết được các nhà điều tra đặt ra. Tuy nhiên, ngoài Dahmer chỉ có mình thám tử Patrick Kennedy biết, bởi ông là người duy nhất Dahmer kể cho nghe về 13 năm cuộc đời đen tối của mình.

    6. ^^! Nếu bạn không gửi link bài viết trên Facebook được, hãy sử dụng link trong khung này để chia sẻ bài viết :