Những Cuộc Phiêu Lưu Của Sherlock Holmes - Conan Doyle

Thảo luận trong 'Các Thể Loại Khác (Kinh Dị, Trinh Thám..)'

  • ^^! Nếu bạn không gửi link bài viết trên Facebook được, hãy sử dụng link trong khung này để chia sẻ bài viết :
    1. tukachan

      tukachan Member

      Bài viết:
      296
      Được thích:
      13
      Chương 10: Nhà quý tộc độc thân


      Câu chuyện xảy ra trước ngày cưới của tôi vài tuần, vào những ngày tôi còn ở chung với Holmes tại phố Barker. hôm, sau lần dạo buổi chiều trở về nhà, thấy lá thư bàn. Hôm ấy tôi ở lì trong phòng suốt ngày vì trời bổng đổ mưa đột ngột với những cơn gió lớn. Ngồi thu mình ghế bành, với những đống nhật báo vây quanh, tôi đọc miết tờ này sang tờ khác. Đọc mãi cũng chán, tôi bèn ném chúng sang bên và nằm ườn ra, quan sát cái phong bì nằm bàn, và tự hỏi biết người đàn ông quý tộc gửi thư cho Holmes là ai?
      - Đây là lá thư đúng điệu - Tôi nhận xét khi bước vào phòng - Những lá thư buổi sáng của thường là của người bán cá hay nhân viên thuế quan.
      - Vâng, thư từ giao dịch của tôi rất là đa dạng và lá thư nào có vẻ khiêm nhường hơn, thường là thú vị hơn. Lá thư này coi bộ là lá thư mời xã giao mà mình mong đợi, dự cũng khổ mà cũng khổ.
      xé thư và nhìn vào tờ giấy.
      - Ồ, coi vậy nó cũng hứa hẹn vụ hấp dẫn đấy.
      - phải thư mời xã giao chứ?
      - Thuần túy nghề nghiệp.
      - Của thân chủ quý tộc?
      - trong những nhà quý tộc được trọng vọng tại nước .
      - Tôi mừng cho đấy.
      - Watson ạ, cái địa vị của ông ta làm cho tôi quan tâm bằng cái việc của ông ta. Gần đây chịu khó đọc báo lắm, đúng ?
      - Hình như thế, tôi chẳng có việc gì để làm cả.
      - Tôi chỉ đọc những tin tức hình và mục rao vặt. Mục sau luôn luôn hữu ích. Nhưng nếu theo dõi sát những biến cố gần đây, hẳn là đọc các bài viết về ngài Simon và đám cưới của ông ta?
      - Vâng, với quan tâm sâu sắc!
      - Tốt! Lá thư này là của ngài Simon. Tôi đọc cho nghe và đổi lại, phải lật những tờ báo đó và cho tôi biết những gì có liên quan đến vụ này.
      “Ông Sherlock Holmes thân mến,
      Huân tước Backwater bảo tôi rằng, tôi có thể tin cậy vào xét đoán, kín đáo và tế nhị của ông. Bởi vậy, tôi quyết tâm thỉnh ý ông về biến cố đau lòng có dính líu đến hôn lễ của tôi. Ông Lestrade bắt tay vào vấn đề này, nhưng ông ta ông ta phản đối gì, nếu có cộng tác của ông. Tôi đến chỗ ông vào bốn giờ chiều, nếu ông có cái hẹn nào vào thời điểm ấy, mong ông hãy hoãn lại, vì đây là vấn đề vô cùng quan trọng.
      Kính chào ông!
      Robert St.Simon”
      Thư được viết từ lâu đài Grosvenor bằng bút lông ngỗng, và ngài quý tộc may bị giây tí mực ở phía ngoài ngón tay phải bé của ông ta - Holmes nhận xét, khi xếp thư lại.
      - Ông ta hẹn bốn giờ chiều, mà bây giờ ba giờ. Chỉ tiếng đồng hồ nữa, ông ta đến đây.
      - Vậy , tôi còn chút thời gian để nắm số kiện về vụ này. Nhờ giở những tờ báo ấy ra và sắp xếp những mẫu tin theo thứ tự thời gian, trong khi đó, tôi nhìn xem thân chủ của tôi là ai.
      nhấc ra quyển sách có bìa đỏ từ dãy sách tham khảo bên cạnh lò sưởi.
      - Đây rồi, - , ngồi xuống và đặt sách đầu gối - Robert Walsingham de Vere St. Simon, con trai thứ hai của Quận công Balmoral. Hừm! sinh năm 1846, bốn mươi bốn tuổi. giữ chức Thứ trưởng tại thuộc địa trong chính quyền cũ. Vị Quận công Balmoral từng là Bộ trưởng Bộ Ngoại giao... Hừ! Chả có gì bổ ích lắm ở đây. Watson, chắc là tôi phải quanh sang , để tìm thấy cái gì vững chải hơn, hãy cho tôi những tin tức mà chọn từ trong các tờ báo.
      - Đây là mẫu tin đầu tiên. Nó nằm trong mục “việc riêng” của tờ Bưu Điện Buổi Sáng, phát hành cách đây vài tuần.
      cuộc hôn nhân được sắp xếp, và - nếu lời đồn đại là đúng - được cử hành rất nhanh chóng giữa ngài Robert St. Simon, con trai thứ hai của Quận công Balmoral và Hatty Doran, con độc nhất của ông Aloysius Doran. Esq., thành phố San Francisco, tiểu bang California, nước Mỹ”.
      - Rất súc tích và thẳng vào vấn đề - Holmes nhận xét, duỗi đôi chân khẳng khiu về phía lò sưởi.
      - Có đoạn hơn về chuyện này tờ báo của tần lớp thượng lưu: “Chẳng bao lâu nữa kéo hồi còi báo động thị trường hôn nhân, bởi vì tự do hôn nhân, bởi vì tự do kinh doanh nay cho thấy “hàng nội hóa” của chúng ta thua kém nặng nề . Dần dần, quản lý của dòng họ quý tộc của nước chuyển vào tay “những em họ” chúng ta ở bên kia bờ Đại Tây Dương. Trong tuần qua, dấu cộng quan trọng vừa mới được thêm vào danh sách những “báu vật” vừa mới bị mang bởi “những kẻ xâm lăng xinh đẹp” này. Ngài Simon, người mà hơn 20 năm qua chứng tỏ là ở ngoài tầm cây cung của vị thần ái tình bé , bây giờ báo tin ông ta sắp kết hôn với Doran, con của nhà triệu phú bang California. Của hồi môn của ta lên tới hàng triệu dollars, và trong tương lai còn hứa hẹn nhiều hơn nữa. Bởi vì, trong những năm qua, Quận công Balmoral phải bán những bức tranh của ông, bởi vì ngài Simon có tài sản riêng nào, ngoại trừ ít bất động sản”.
      - Có gì khác nữa ? - Holmes hỏi.
      - Vâng, còn nhiều. Có đoạn ngắn tờ Bưu Điện Buổi Sáng rằng đây cuộc hôn nhân tuyệt vời lặng lẽ, được cử hành tại nhà thờ Saint-George, quảng trường Hanover, chỉ có vài bạn hữu thân tình được mời, và rồi họ trở về biệt thự Lancaster Gate. Hai ngày sau đó, có lời báo tin vắn tắt, rằng hôn lễ cử hành và rằng tuần trăng mật được trải qua tại nhà của huân tước Backwater, gần Petersfiled. Đây là những tin vắn tắt xuất trước khi dâu biến mất.
      - Trước cái gì? - Holmes hỏi, giật mình.
      - dâu mất tích.
      - ta biến mất từ bao giờ?
      - Tại buổi điểm tâm trong ngày cưới.
      - Quả , nó hấp dẫn hơn ta tưởng. Đúng y như kịch.
      - Vâng, nó vẻ hơi khác thường.
      - Hãy cho tôi biết những chi tiết.
      - Những chi tiết ấy rất thiếu sót.
      - Có lẽ thế. Nhưng chúng ta có thể làm cho chúng bớt thiếu sót hơn.
      - Có bài tờ báo buổi sáng, ra ngày hôm qua. Đề mục: “Biến cố độc đáo tại đám cưới thời thượng.”
      “Gia đình ngài Simon sửng sốt trươc những diễn biến liên quan đến đám cưới của ông ta. Hôn lễ được cử hành tại nhà thờ Saint George, quảng trường Hanover, rất lặng lẽ. có ai tham dự ngoài bố của dâu, bố mẹ chú rể, huân tước Backwater, huân tước Eustace, tiểu thư Clara St. Simon (em trai và em chú rể), phu nhân Alicia Whittington. Sau đó, những người dự lễ đến nhà ông Doran Aloysius Doran ở Lancaster Gate để dự bữa tiệc điểm tâm. Dường như có người đàn bà đến quấy rối. Bà ta cố ra sức xô đẩy vào nhà, phân bua rằng bà cần chuyện với chú rể. Giằng co hồi lâu,người quản gia và người hầu mới tống khứ được bà ta. May mắn thay, trước đó dâu vào nhà, và ngồi dùng điểm tâm với mọi người khác. Nhưng bỗng nhiên dâu rằng thấy khó ở và lùi về phòng mình. Lâu quá thấy ta ra, mọi người bắt đầu bàn tán. Cha vội vàng tìm và được người tớ cho biết vừa mới lên phòng, liền chộp áo choàng và mũ bon-nê, rồi vội vã xuống cầu thang. trong những người hầu rằng, ông ta thấy người phụ nữ từ trong nhà ra, ăn mặc y như thế. Nhưng ông ta lại dám chắc chắn đó là chủ, vì tin rằng dùng bữa với mọi người. Khi thấy đúng là con mình biến mất, ông Doran cùng chú rể báo với cảnh sát, các cuộc điều tra tiến hành ráo riết. Tuy vậy, cho đến gần hết đêm qua vẫn chưa tìm ra dấu vết của dâu. Có tin đồn về chuyện phá đám trong vụ này. Người ta , cảnh sát bắt giữ người đàn bà gây rối, vì họ tin rằng do ghen tuông hoặc do động cơ nào đó, bà ta có thế dính líu vào mất tích của dâu”.
      - Tất cả chỉ có thế?
      - Có thêm mẩu tin vắn tờ báo buổi sáng khác. Nó cũng có đôi điều đáng chú ý.
      - Đó là...?
      - Flora Millar, người đàn bà gây rối, bị bắt. Hình như xưa kia ta là vũ nữ quen với chú rể cách đây vài năm. có chi tiết đặc biệt nào khác.
      - Tôi bỏ qua trường hợp này. Nhưng có chuông cửa reo đấy. Watson, đừng bỏ đấy nhé.
      - Thưa, có ngài Simon đến - Chú tiểu đồng của chúng tôi báo tin và mở tung cửa lớn.
      người đàn ông bước vào, khuôn mặt khá điển trai của người có học. Mũi cao, nét mặt xanh xao, có chút hờn dỗi. Đôi mắt mở to, nhìn chớp. Phong thái ta nhanh nhẹn, thế nhưng dáng vẻ bên ngoài lại gây cho ta ấn tượng về tuổi già. Vì khi bước , ông hơi gù về phía trước và đầu gối hơi cong. Khi ông ta giở mũ, ta có thể thấy mớ tóc hoa râm ở phía mép ngoài, và hơi hói ở đỉnh đầu. Y phục được chăm sóc quá kỹ lưỡng đến mức đỏm dáng: cổ áo cao, áo choàng đen, áo gi-lê trắng, bao tay vàng, giày da hảo hạng và ghệt có màu nhạt.
      - Xin chào ngài - Holmes , đứng lên cúi chào - Mời ngài ngồi. Đây là bạn và là người cộng của tôi, bác sĩ Watson.
      - Ông Holmes ạ. Tôi bị đánh vào chỗ đau nhất. Tôi hiểu rằng ông xử lý nhiều vụ tế nhị thuộc loại này, chúng tôi cho rằng khó có vụ nào xảy ra trong giai cấp như giai cấp của tôi.
      - Mới đây vị vua có vấn đề thuộc loại đó.
      - Ồ, thế ư? Vua nào thế?
      - Vua xứ Scandinavia.
      - Ồ, ông ta mất vợ rồi chứ?
      - Xin ngài hiểu cho. Tôi giữ bí mật những việc của những thân chủ khác, cũng như tôi làm như thế, đối với việc của ngài.
      - Đúng lắm! Ông bỏ lỗi cho nhé.
      - có gì... Tôi tìm hiểu những gì có trong báo chí. Chưa biết thêm gì hơn. Tôi có thể xem như bài báo này viết đúng .
      Thân chủ của tôi liếc nhìn qua nó.
      - Vâng, đúng như bài báo viết.
      - Nhưng cần phải bổ sung nhiều, trước khi có thể xác lập giả thiết.
      - Xin ông cứ việc hỏi.
      - Ngài gặp Hatty Doran lần đầu tiên vào lúc nào ?
      - Tại San Francisco, cách đây năm.
      - Ngài du lịch sang nước Mỹ?
      - Vâng.
      - Lúc ấy, ngài có ý định kết hôn chưa?
      - Chưa.
      - Nhưng ông bà đối xử thân mật với nhau?
      - Tôi thích được gần nàng, và nàng có thể thấy như thế.
      - Cha ấy rất giàu?
      - Có thể ông ta là người giàu nhất.
      - Ông ta làm giàu bằng cách nào?
      - Khai thác mỏ vàng. vài năm trước đây, ông ta chưa có gì cả. Rồi ông ta tìm thấy mỏ vàng, đầu tư vào nó và càng ngày càng phất lên.
      - giờ, ngài có ấn tượng gì về tính cách của người phụ nữ trẻ đó?
      Nhà quý tộc đu đưa cặp kính và nhìn chằm chằm vào lò sưởi.
      - Trước khi cha nàng trở nên giàu có, nàng hai mươi tuổi. Trong thời gian đó, nàng chạy rông tự do trong các trại mỏ, lang thang qua rừng, qua núi; nàng được giáo dục bởi thiên nhiên nhiều hơn là bởi trường học. Nàng là con người mà tại , chúng tôi gọi là tomboy. Tâm hồn nàng như núi lửa. Nàng quyết định rất nhanh chóng và sợ hãi trong việc thực những quyết định của mình. Mặt khác, hẳn là tôi trao cho nàng cái tên mà tôi có vinh dự được mang - Ông ta hắng giọng cách đĩnh đạc - nếu tôi cho rắng, nàng là phụ nữ quý tộc, rằng nàng có khả năng tự quên mình cách dũng cảm, và rằng bất cứ cái gì đê mạt phù hợp với bản thân của nàng.
      - Ông có ảnh của ấy chứ?
      - Có.
      Ông ta mở cái hộp hình trái tim và cho chúng tôi xem khuôn mặt chụp thẳng của người phụ nữ rất xinh đẹp. Holmes nhìn chăm chú hồi lâu. Rồi đóng nắp hộp và trao lại cho nhà quý tộc.
      - Rồi ấy đến Luân Đôn, và hai người nối lại duyên tình với nhau?
      - Vâng, vừa rồi cha nàng đưa nàng đến nghỉ mùa đông tại Luân Đôn. Tôi gặp nàng đôi lần, đính hôn với nàng và làm lễ cưới. Theo tôi biết, ấy có món tiền hồi môn đáng kể.
      - món tiền khá. Nhưng nhiều hơn số tiền hồi môn bình thường trong gia đình tôi.
      - Lễ cưới xong, vậy món hồi môn đến tay ấy rồi chứ?
      - Tôi hỏi han gì đến chuyện ấy cả.
      - Đương nhiên như thế. Ông có gặp Doran vào hôm trước đám cưới ?
      - Có.
      - ấy có phấn khởi ?
      - Chưa bao giờ nàng vui hơn.
      - Đó là điều đáng chú ý! Thế còn vào buổi sáng trong ngày cưới.
      - Nàng cũng tươi như hoa.
      - Ngài thấy có gì thay đổi nơi ấy ?
      - Ồ, lúc đó tôi thấy nàng gắt gỏng. Song chuyện ấy quá , có lẽ nó ăn nhập gì tới vụ mất tích này.
      - Dù thế, ngài cũng nên cho chúng tôi biết.
      - Ồ, đấy là chuyện trẻ con thôi mà. Nàng đánh rơi bó hoa khi chúng tôi về phía phòng cưới. Lúc đó nàng qua cái ghế dài ở phía trước, và bó hoa rơi vào trong cái ghế dài ấy. Người đàn ông ngồi ghế trao nó lại cho nàng, và trông nó vẫn bình thường, bị hư hỏng gì cả. Thế nhưng, sau đó khi tôi chuyện ấy với nàng nàng lại xẵng giọng, có vẻ bực tức vô lý về cái chuyện nhặt đó.
      - ư? Ngài là lúc ấy có vài người lễ ở đó?
      -Vâng. thể mời họ ra, khi nhà thờ mở cửa.
      - Người đàn ông này phải là người bạn của vợ ngài chứ?
      - . Trông ta cũng bình thường. Tôi chả có để ý gì đến cái bề ngoài của ta cả. Nhưng thưa ông, chúng ta xa vấn đề rồi.
      - Vậy là từ nhà thờ trở về, phu nhân kém vui hơn. ấy làm gì khi bước vào nhà cha mình?
      - Tôi thấy nàng chuyện với tớ .
      - ta tên gì.
      - Alice. ta là người Mỹ và đến từ California cùng với nàng.
      - tớ thân tín?
      - Còn hơn thế nữa.
      - ấy chuyện với Alice bao lâu?
      - vài phút. Tôi để ý.
      - Ngài nghe họ gì ư?
      - Nàng cái gì đó về “tiếm đoạt” [1]. Nàng có thoái quen dùng tiếng lóng theo kiểu đó. Tôi hiểu mô tê gì cả.
      - Sau khi chuyện với tớ , phu nhân làm gì?
      - Nàng bước vào phòng điểm tâm.
      - Cùng với ngài.
      - . mình. Rồi, sau khi chúng tôi ngồi xuống trong vài phút, nàng vội vã đứng dậy, lí nhí điều gì đó, rồi ra khỏi phòng. Và trở lại nữa.
      - Nhưng tớ khai rằng vợ ngài vào phòng, khoác áo choàng rộng lên cái áo dâu, đội mũ rồi ra ngoài.
      - Đúng như thế. Và sau đó, người ta thấy nàng vào công viên Hyde cùng với Flora Millar, người làm náo loạn buổi sáng hôm đó.
      - Tôi muốn biết thêm vài điều cụ thể về người đàn bà này, và mối quan hệ giữa ngài và ta.
      Nhà quý tộc nhún vai và nhướn mày lên :
      - Tôi có quan hệ thân mật thời gian với người vũ nữ này. Nhưng tính tình ta cực kỳ nóng nảy. ta viết cho tôi những là thư khủng khiếp, khi nghe tin tôi sắp lấy vợ. tình mà , sở dĩ hôn lễ phải được cử hành lặng lẽ như thế là vì tôi sợ vụ gây rối trong nhà thờ.
      - Phu nhân có nghe thấy việc này ?
      - .
      - Và sau đó, người ta thấy ấy với người đàn bà này?
      - Vâng. Đó là điều mà cảnh sát xem như là chi tiết quan trọng. Người ta nghĩ rằng Flora nhử vợ tôi ra, và giăng cho nàng cái bẫy.
      - Vâng, có thể như vậy.
      - Ông cũng nghe như thế ư?
      - Tôi chắc chắn là thế. Nhưng chính ngài nghĩ là có thể ư?
      - Tôi nghĩ là Flora làm đau con ruồi.
      - Nhưng ghen tuông làm biến đổi tính cách con người. Vậy, theo ngài, ngài nghĩ thế nào?
      - Theo tôi, nàng bị chấn động tâm lý, nên gây ra vài rối loạn thần kinh cho vợ tôi.
      - Tóm lại, ấy bất thần trở nên loạn trí?
      - Ồ, thực thế.
      - Thưa ngài, bây giờ tôi gần có tất cả những dữ kiện mà tôi cần. Xin hỏi thêm câu cuối cùng: Ngài có ngồi ở bàn điểm tâm, để có thể nhìn ra ngoài cửa sổ ?
      - Chúng tôi có thể nhìn thấy phía bên kia đường và công viên.
      - Đúng y như thế. Vậy , bây giờ ngài có thể ra về. Tôi liên hệ với ngài sau.
      - Mong ông giải quyết được vấn đề.
      - Tôi giải quyết xong.
      - Vậy vợ tôi ở đâu?
      - Tôi , là tôi giải quyết xong.
      - Vậy tôi ở đâu?
      - Tôi nhanh chóng cho ngài biết.
      Người đàn ông lắc đầu :
      - Có lẽ, việc ấy phải đòi hỏi những đầu óc khôn ngoan hơn ông và tôi - Ông ta , rồi cúi đầu chào kiểu cách, bước ra khỏi phòng.
      - Ông ấy có lòng tốt khi đặt cái đầu tôi ngang hàng với cái đầu của ông ta - Holmes cười - Ta phải uống ly whisky pha soda và hút điếu xì gà sau cuộc “thẩm vấn” như thế này. Tôi có câu kết luận về vụ này trước khi thân chủ của chúng ta bước vào phòng.
      - thế ư?
      - Tất cả mọi xét của tôi chẳng qua là để kiểm tra lại cho chắc chắn mà thôi.
      - Tôi cũng nghe tất cả những gì nghe. Nhưng tại sao tôi lại phát ra điều gì nhỉ?
      - nghe, nhưng ta biết nhiều trường hợp tương tự như thế xảy ra ở nơi này, nơi kia. Ồ, tay Lestrade đến kìa! thấy con lật đật hảo hạng có những điếu xì gà trong hộp.
      Người thám tử nhà nước đeo cà vạt trông như thủy thủ, cầm cái túi vải. Với lời chào ngắn ngủi, ông ta ngồi xuống và đốt điếu thuốc xì gà được trao cho ông. Holmes nhấp nháy mắt hỏi :
      - Có chuyện gì thế? Nom ông có vẻ bất mãn?
      - Tôi chưa hài lòng. Đó là cái vụ án liên hệ đến ngài Simon.
      - sư? Ông làm tôi kinh ngạc đấy.
      - Chưa bao giờ có vụ nào phức tạp như thế! Mọi đầu mối đều tuột khỏi tay tôi. Tôi làm việc về vụ án đó suốt cả ngày.
      -Và hình như nó làm cho ông đổ nhiều mồ hôi phải - Holmes , đặt tay lên vai ông.
      - Vâng, tôi lê lết cả ngày đại lộ Serpentine.
      - Để làm gì vậy?
      - Để tìm xác của phu nhân Simon.
      Sherlock Holmes tựa mình ra sau và cười ha hả :
      - Ông có lê lết tại cái bể nước quảng trường Trafalgar ?
      - Ông muốn gì?
      - Bởi vì, biết đâu ông lại chẳng tìm thấy xác phu nhân ở đó?
      Lestrade bắn tia nhìn giận dữ vào bạn tôi.
      - Ông làm như ông biết hết mọi chuyện về vụ này.
      - Vừa mới nghe các kiện, là tôi biết hết rồi.
      - Vậy là đại lộ Serpentine đóng vai trò nào trong vụ này ư?
      - .
      - Vậy tại sao tôi lại tìm thấy cái này ở đó?
      Ông ta mở cái túi vải và xổ tung ra sàn chiếc áo cưới bằng lụa, đôi giày xa tanh trắng, mộ vòng hoa dâu, tấm mạng che mặt. Tất cả đều đẫm nước. Ông đặt chiếc áo cưới lên đóng quần áo.
      - Đấy, có vấn đề khó khăn để ông giải quyết, thưa ông Sherlock Holmes!
      - Ồ, quả thế! - Holmes , thổi vào khí những vòng tròn khói thuốc - Ông đưa chúng tôi về từ đại lộ Serpentine đấy ư?
      - . Chúng tôi lềnh bềnh gần bờ được người giữ công viên phát . Và theo tôi, nếu y phục ở đó cái xác chắc cũng gần đâu đó thôi.
      - Bằng lập luận thông minh kiểu đó, xác mọi người có thể tìm thấy gần chiếc tủ áo của họ. Xin làm ơn cho tôi biết, qua những thứ này, ông gì vọng đạt tới cái gì?
      - Đạt tới chứng cứ nào đó dính líu đến Flora Millar trong vụ mất tích.
      - Ông thấy khó khăn đấy.
      - Holmes ạ, chỉ trong hai phút mà ông phạm tới hai sai lầm. Cài áo choàng này thực có dính líu đến Flora Millar - Lestrade , giọng cay đắng.
      - Dính líu như thế nào?
      - cái áo có cái túi. Trong cái túi có cái ví . Trong ví là mảnh giấy. Xem đây! - Ông ta đặt mạnh nó xuống bàn trước mặt Holmes, rồi đọc lớn - “Tôi gặp khi tất cả sẵn sàng. Hãy đến ngay F.H.M.” [2]. Giả thiết của tôi, là phu nhân Simon bị nhử bởi Flora Millar và ta phải chịu trách nhiệm về mất tích của dâu. Mảnh giấy này, có chữ ký của ta, chắc chắn nhét vào tay của dâu ở cửa lớn, và nó lôi cuốn dâu vào trong tầm hành động của họ.
      - Tốt lắm, ông bạn thân mến - Holmes cười - Quả là ông rất thông minh. Cho tôi xem tí nào?
      lơ đãng cầm mảnh giấy, nhưng bỗng nhiên chú ý , và khẽ kêu lên tiếng kêu thỏa mãn.
      - Đây quả điều quan trọng.
      - Hà! Ông cũng thấy thế ư?
      - Cực kỳ quan trọng. Chúc mừng ông.
      Lestrade nhỏm dậy, ra vẻ đắc chí và cúi đầu xuống để nhìn.
      - Ông xem nhầm mặt rồi! - Ông ta hét lên.
      - Trái lại, đây mới đúng mặt của nó.
      - Đúng mặt? Ông điên rồi ư? Những dòng chữ viết bằng bút chì bên đây này.
      - Và mặt này có vẻ như là cái hóa đơn khách sạn, khiến cho tôi quan tâm sâu sắc.
      - Tôi xem rồi. có gì trong đó cả: “Ngày 4 tháng 10, Phòng: 8 shilling; Điểm tâm: 2 shilling 6 pence; Cocktail: 1 shilling; Bữa trưa: 2 shilling 5 pence; Rượu sherry: 8 pence”. Tôi thấy có gì trong đó cả.
      - Rất có thể là . Mặc dầu vậy, nó cũng rất quan trọng. Còn về những dòng chữ, chúng rất quan trọng, hay ít ra là những chữ đầu viết tắt. Vậy, xin chúc mừng ông lần nữa.
      - Tôi phí mất quá nhiều thời giờ rồi - Lestrade , đứng lên - Tôi tin tưởng vào những giờ lao động khó nhọc, chứ phải ngồi bên cạnh lò sưởi để dệt nên những lý thuyết đẹp đẽ! Chào nhé, ông Holmes! Và chúng ta xem, ai là người đến tận đáy của vấn đề trước.
      Ông ta thu thập đống quần áo sàn, nhét chúng vào cái túi xách , rồi ra cửa.
      Ngay khi ông ta đóng cửa, Holmes đứng dậy và mặc áo khoác :
      - Có cái gì đó cần lưu ý trong những điều ta vừa . Bởi vậy, tôi phải ngay.
      Tới 5 giờ chiều, Sherlock Holmes vẫn chưa về. Lúc 6 giờ có người đàn ông và thanh niên mang cái hộp dẹt lớn đến. Họ mở hộp ra và dọn bữa ăn tối ngon lành -văng của chúng tôi. Có cặp chim gà, chim trĩ, bánh pa-tê gan, vài chai rượu lâu năm. Sau khi đặt những thứ xa xỉ này lên bàn, hai người khác này bước ra, giống như những vị thần trong truyện Nghìn lẻ đêm, lời giải thích, trừ điều là những thứ này được trả tiền xong và được đưa tới địa chỉ này.
      Gần 9 giờ tối, Sherlock Holmes nhanh nhẹn bước vào trong phòng. Nét mặt lộ vẻ nghiêm trang, nhưng có tia sáng lộ trong mắt .
      - Người ta dọn bữa ăn tối rồi đấy nhỉ? - , rồi xoa tay vào nhau.
      - Hình như có khách? Người ta dọn 5 phần ăn.
      - Vâng. Tôi đoán có khách ghé thăm. Tôi hiểu sao ngài Simon chưa đến. Hình như có bước chân ông ta cầu thang.
      Đúng là thân chủ của chúng ta vội vã bước vào, đung đưa cặp kính cách mạnh mẽ hơn bao giờ hết, và có nét lo lắng gương mặt.
      - Thư báo tin đến ngài rồi chứ? - Holmes hỏi.
      - Vâng, nội dung của nó làm tôi vô cùng sửng sốt. Ông có đủ chứng cớ để chứng minh cho những điều ông ?
      - Chứng cớ tốt nhất có thể có được.
      Nhà quý tộc buông mình xuống ghế và đưa tay xoa lên trán.
      - Công tước gì - Ông ta thào - Khi ngài thấy người trong dòng họ phải chịu nhục nhã như thế này.
      - Đấy chỉ là tai nạn thuần tuý, hề có sỉ nhục nào.
      - Ông nghĩ vậy, nhưng tôi lại quan niệm cách khác.
      - Ông nghĩ vậy, nhưng chúng tôi lại quan niệm cách khác.
      - Tôi thấy ai đáng trách cả. Người phụ nữ ấy khó lòng làm khác ơn, mặc dù nó là điều đáng tiếc. Trước tình huống như thế mà nàng lại có mẹ bên cạnh, có ai khuyên bảo.
      - Đó là cái tát, thưa ông, cái tát công khai - Ông ta , gõ ngón tay lên bàn.
      - Thưa ngài, phải thông cảm cho đáng thương này. ấy gặp phải tình huống quá bất ngờ.
      - Làm sao thông cảm được. Quả tôi rất giận. Tôi bị lợi dụng.
      - Hình như có chuông đấy. Vâng, có những bước chân ở đầu cầu thang. Tôi biết tôi thể thuyết phục được ông, nên tôi đưa tới đây người, hy vọng ông ta thành công.
      Holmes mở cửa và đưa vào người đàn ông và phụ nữ :
      - Thưa ngài Simon. Xin giới thiệu với ngài đây là ông bà Francis Hay Moulton.Còn người phụ nữ này, tôi nghĩ ngài gặp.
      Ngay khi thấy những người mới đến này, thân chủ chúng tôi nhảy chồm lên và đứng thẳng người, mắt nhìn xuống đất và tay thọc vào ngực chiếc áo khoác, bức tranh lên danh dự bị thương tổn. Người phụ nữ bước nhanh về phía trước, chìa tay ra cho ông ta, nhưng ông ta chịu ngước nhìn lên.
      - Chắc giận em lắm, phải Robert? Vâng, giận như vậy là đúng lắm?
      - Xin chớ phân trần với tôi - Ngài Simon cay đắng .
      - Vâng, em có lỗi. Lẽ ra, em phải cho trước khi em , nhưng từ lúc em thấy Frank xuất , em còn biết em làm gì, gì nữa.
      - Thưa bà Moulton, có lẽ tôi và Watson nên lánh, trong khi bà giải thích chuyện này? - Holmes .
      - Nếu được phép nêu ý kiến - Người đàn ông lạ mặt - Tôi xin phát biểu đôi điều! Chúng ta giữ chuyện bí mật này khá lâu rồi. Theo ý tôi, tôi muốn cả Châu Âu và nước Mỹ được nghe thực trạng của vấn đề.
      Đó là người đàn ông thó, rám nắng, rắn rỏi, râu cạo nhẵn nhụi, với gương mặt sắc sảo và phong thái tỉnh táo.
      - “Vậy , em kể câu chuyện của chúng ta ngay sau đây” - Người phụ nữ - “Năm 1884, Frank và tôi gặp nhau ở McQuire, gần dãy Rocky, là nơi cha tôi khai thác quặng mỏ. Chúng tôi bí mật đính hôn với nhau. Nhưng hôm, cha tôi đào được mỏ vàng và giàu lên, trong khi ấy ấy ngày càng thất bại. Bởi vậy, cha tôi muốn cuộc đính hôn dài lâu hơn nữa, ông bèn đưa tôi đến San Francisco. Nhưng chịu bỏ cuộc. ấy theo tôi đến đó, chúng tôi gặp nhau mà cha tôi hề hay biết gì. Frank rằng xa để xây dựng cơ nghiệp và chỉ trở về đón tôi khi nào giàu bằng cha tôi. Tôi hứa chờ đợi ấy đến trọn đời, và thề nguyền là lấy ai khác, khi ấy còn sống. ấy : “Tại sao chúng mình cưới nhau ngay ? Để được yên tâm về em. Và công khai nhận là chồng của em, cho đến khi trở về”. Chúng tôi bàn chuyện đó. ấy nhờ ông mục sư làm lễ cưới ngay tại đó, rồi ra tìm nghiệp, còn tôi trở lại với cha tôi.
      Sau đó, tôi được tin ở Montana, rồi có tin thăm dò quặng tại Arizona, rồi nghe tin đến New Mexico. Sau đó, báo có đăng bài dài, về trại mỏ bị dân da đỏ tấn công, và có tên trong danh sách những người bị giết. Tôi ngất , tưởng chết, rồi nằm liệt giường mấy tháng sau đó. Cha tôi nghĩ rằng tôi bị suy nhược thần kinh, đưa tôi đến bác sĩ này, bác sĩ nọ. Hơn năm trời có tin tức gì Frank, đến nổi là tôi tin chắc là chết rồi. thế rồi ngài Simon đến San Francisco, rồi chúng tôi sang London và cuộc hôn nhân được sắp xếp. Cha tôi rất hài lòng, nhưng tôi thể nào quên Frank.
      Tuy vậy, nếu tôi kết hôn với ngài Simon tôi hoàn thành bổn phận làm con. Tôi đến nhà thờ với dự định trở thành người vợ tốt, theo khả năng mà tôi có được. Nhưng ngay khi tôi bước đến gần bàn thờ, tôi nhìn lên thấy Frank đứng ở hàng ghế đầu tiên. Thoạt đầu, tôi nghĩ đó là bóng ma ấy về, nhưng khi nhìn lại lần nữa, ràng ấy còn sống. Tôi thấy trời đất quay cuồng, và những lời của vị giáo sĩ giống như tiếng ong bay vù vù bên tai tôi. Tôi liếc ra phía sau, nhìn lần nữa, thấy đưa ngón tay lên môi để bảo tôi im. Rồi tôi thấy ngoệch ngoạc mảnh giấy. Khi qua cái ghế dài mà đứng, tôi ném bó qua cho , và tuồn mảnh giấy vào đó rồi trả lại bó hoa cho tôi. Đó chỉ là dòng chữ cầu tôi theo khi nào ra dấu hiệu. Tôi quyết tâm làm theo bất cử chỉ thị nào của .
      Khi trở lại họ nhà , tôi kể chuyện đó cho tớ của tôi, ta từng biết Frank từ khi còn ở California và từng là bạn của ấy. Tôi nhờ ta chuẩn bị cho tôi vài thứ đồ đạc và áo khoác. Tôi biết, lẽ ra tôi phải cho Robert biết, nhưng là khó khăn khi có mặt mẹ ấy và tất cả những người quý tộc khác. Tôi quyết định là chạy trốn trước, giải thích sau. Tôi ngồi ở bàn chưa tới mười phút, thấy Frank xuất ở cửa sổ, phía bên kia đuờng. vẫy tay ra hiệu cho tôi, và bắt đầu bước vào công viên. Tôi lẻn về phòng, thay vội quần áo, rồi theo .
      người đàn bàn đến với tôi cái gì đó về Robert. Qua đôi điều nghe được, dường như Robert cũng có bí mật nho nào đó. Nhưng tôi tìm cách thoát khỏi ta, chẳng bao lâu tôi theo kịp Frank, cùng nhau lên xe ngựa đến chỗ trọ mà thuê sẵn và đó mới quả đúng là đám cưới của chúng tôi sau bao năm xa cách. ra Frank tuy bị da đỏ bắt làm tù binh, nhưng trốn thoát, và đến San Francisco. Tại đây, biết tôi theo cha đến nước , Frank cũng sang theo, sau cùng tìm gặp tôi đúng vào buổi sáng hôm đó”.
      - Tôi đọc tin đó tờ báo - Người Mỹ giải thích - Nó cho tôi biết tên dâu, chú rể và nhà thờ, nhưng dâu sống ở đâu.
      Người phụ nữ kể tiếp.
      - Rồi chúng tôi bàn bạc xem là nên làm cái gì. ấy muốn công khai chuyện này ra, nhưng tôi ngại quá. Tôi tính chỉ nên gởi vài dòng cho cha tôi, cho ông biết là tôi vẫn còn sống. Thế thôi, Bởi vậy, ấy cầm lấy đồ cưới làm thành gói, ném vào nơi nào đó để phi tang. Hẳn là ngày mai chúng tôi lên đường sang Paris, nếu chiều nay, ông Holmes đến chỗ chúng tôi. Ông Holmes chỉ cho chúng tôi thấy rằng tôi sai và Frank đúng, và rằng chúng tôi giữ bí mật như vậy là phải. Và ông Holmes hứa cho chúng tôi cơ hội để chuyện với ngài Simon. Vì thế mà chúng tôi đến đây. Robert, bây giờ nghe tất cả rồi. Em rất tiếc là làm cho đau khổ, và em hy vọng rằng nghĩ quá xấu về em.
      Người phụ nữ ngừng . Cho tới lúc này, ngài Simon vẫn chưa giảm thái độ cứng cỏi, nhưng đôi mày nhíu lại và đôi môi mím chặt.
      - Xin lỗi quý vị, tôi quen bàn những chuyện riêng tư cách công khai như thế này.
      - Vậy là, tha lỗi cho em ư? bắt tay trước khi em sao?
      - Nếu muốn.
      Ông ta chìa tay ra, lạnh nhạt nắm lấy bàn tay của người phụ nữ.
      - Tôi hy vọng rằng thế nào ngài cũng lưu lạidùng bữa ăn thân mật với chúng tôi - Holmes .
      - Có lẽ ông hơi quá đấy. Tôi làm sao vui cho được. Bây cho phép tôi đươc chúc tất cả quý vị đêm ngon giấc. Xin chào!- Huân tước Simon liếc nhìn mọi người trước khi bước ra khỏi phòng.
      - Còn tôi tin rằng ông làm tên tuổi của tôi và của công ty ông trở nên nổi tiếng. - Holmes quay sang với người đàn ông - Những cuộc tiếp xúc với người Mỹ, thưa ông Moulton, làm tôi luôn tin tưởng, trong ngày xa, con của ông bà trở nên nổi tiếng ở nhiều quốc gia bởi phát triển của Tập đoàn “Jack với Sao và Vạch”. [3]
      - Vụ này quả là hấp dẫn - Holmes , khi các vị khách ra về - Bởi vì nó giúp ta thấy rất ràng, việc mà thoạt đầu dường như thể giải thích được, ra là vô cùng giản dị! có gì hợp tự nhiên hơn là những việc mà người phụ nữa kể.
      - Ngay từ đầu, đúng hướng chứ? - Tôi hỏi.
      - Từ đầu, tôi thấy có hai kiện rất ràng, người phụ nữ đó sẵn sàng dự phần nghi lễ tại nhà thờ. Hai là, chỉ sau đó mấy phút, ta ân hận về việc đó. Như vậy là có cái gì đó xảy ra trong buổi sáng, nó làm thay đổi ý định của ta. Đó là cái gì? Hẳn là ta chuyện với người lạ nào, vì có chú rể bên cạnh. Vậy , phải chăng ta nhìn thấy ai đó? Nếu có, hẳn phải là người đến từ nước Mỹ, bởi vì ta mới sống tại thời gian quá ngắn, nên thể có người nào có thể gây cho ta ảnh hưởng quá sâu sắc, đến nổi chỉ nhìn thấy ta cũng đủ làm cho ta thay đổi hẳn kế hoạch. Bằng phương pháp loại trừ, tôi đến kết luận rằng, có thể là ta nhìn thấy người Mỹ. Vậy , người Mỹ này là ai, và tại sao ta lại có ảnh hưởng quá lớn đến ta như vậy? Có thể đó là người tình? Có thể đó là người chồng? Tôi biết, thời niên thiếu ta sinh sống trong khung cảnh hoang dã, dưới những điều kiện đặc biệt. Tôi biết đó trước khi ngài Simon kể. Khi ông ta cho biết có người đàn ông trong ghế dài, về thay đổi trong thái độ của dâu, về việc đánh rơi bó hoa ( phương pháp trao đổi tin tức khá ràng) về cầu cứu đến tớ tin cẩn, về cái từ “tiếm đoạt” rất có ý nghĩa (theo cách của những người khai thác mỏ, “tiếm đoạt” nghĩa là chiếm hữu cái gì mà chủ quyền thuộc về người khác). Với những kiện kể , toàn bộ vấn đề quá ràng. ấy theo người tình, hoặc là người chồng cũ của ta.
      - Và làm cách nào để tìm thấy họ?
      - Kể ra cũng khó. Nhưng may nhờ cái hóa đơn khách sạn của ngài Lestrade, ông ta cầm nó trong tay, mà biết giá trị của nó. Những chữ viết tắt dĩ nhiên là vô cùng quan trọng, nhưng cái quan trọng hơn, là biết được họ ở tại khách sạn thuộc loại sang nhất tại London.
      - Làm thế nào biết được?
      - Cái giá tiền nơi hóa đơn, 8 shillings cho cái gường, và 8 pence cho ly rượu sherry [4], chừng ấy cũng đủ thấy đó là trong những khách sạn sang nhất. Tại London chả có mấy khách sạn như thế. Tại khách sạn thứ hai mà tôi đến thăm, qua sổ đăng ký, tôi biết rằng Francis H. Moulton, người Mỹ, chỉ mới rời khách sạn này ngày hôm trước, khi nhìn qua những món mà ta phải trả, tôi thấy khớp với những món trong hóa đơn của ngài Lestrade. ta cầu thư từ gởi về khách sạn, xin chuyển lại số 226 quảng trường Gordon. Tôi tìm đến địa chỉ ấy, và may mắn gặp đôi uyên ương. Tôi đánh bạo cho họ lời khuyên của người cha, vạch cho họ thấy rằng mọi tốt hơn nếu họ cho dư luận rộng rãi, nhất là ngài Simon, biết . Tôi mời họ đến đây để gặp ông ta, và như thấy đó, tôi buộc ông ta phải đến.
      - Nhưng kết quả tốt lắm. Ông ta cư xử mấy lịch - Tôi nhận xét.
      - Nhưng mà, Watson ạ - Holmes mỉm cười - Có lẽ cũng thể nào lịch được, nếu lâm vào cảnh ngộ của ông ta. Phải vất vả lắm mới làm được đám cưới, thế rồi, đùng cái, thấy mình mất tất cả chì lẫn chài. Chúng ta xét đoán ngài cách thông cảm hơn, và hãy cám ơn số mệnh bắt ta phải chịu cảnh ngộ oái oăm như vậy. Đẩy cái ghế của ta lại gần đây và trao cho tôi cái đàn vĩ cầm, vì vấn đề duy nhất mà chúng ta phải giải quyết bây giờ là làm thế nào sống qua những buổi chiều mùa thu ảm đạm này.
      [1] Nguyên văn: “jumping a claim”
      [2] Nguyên văn: “You will see me when all is ready. Come at once. F.H.M.”
      [3] Sao và Vạch: Quốc kỳ Mỹ
      [4] loại rượu cho nữ

    2. tukachan

      tukachan Member

      Bài viết:
      296
      Được thích:
      13
      Chương 11: Chiếc vương miện gắn ngọc berin


      - Holmes!
      Buổi sáng hôm đó, tôi đứng bên cạnh cửa sổ căn phòng của chúng tôi ở đường Baker.
      - Holmes! Tôi gọi lại lần nữa - người điên dạo ngoài đường. cảnh đáng buồn. Đáng lẽ người ta nên để ông ta như thế...
      Holmes uể oải rời khỏi ghế bành, tiến đến cửa sổ, nhìn xuống. Lúc bấy giờ là tháng hai, khí lạnh giá. Dưới ánh mặt trời yếu ớt của mùa đông, lớp tuyết rơi xuống đêm qua vẫn sáng lấp lánh, trắng xóa và trơn trợt. Con đường vắng ngắt, duy nhất chỉ có người đàn ông...
      Ông ta khoảng năm mươi tuổi, thân hình cao lớn, vạm vỡ, dáng dấp có vẻ uy nghiêm trong bộ y phục màu sẫm sang trọng với chiếc áo rơ đanh gót đen, chiếc nón mới toanh, đôi giầy sạch bóng và quần tây dài đúng mốt, nhưng trong lúc này cái phong cách uy nghiêm biến mất! Ông ta vừa chạy vừa nhảy như người điên, hai tay huơ lên xuống loạn xạ, cái đầu lắc qua lắc lại và gương mặt nhăn nhó cách thảm hại.
      - Chuyện gì xảy đến cho ông ta? Dường như ông ta tìm số nhà? - Tôi .
      - Ông ta đến đây! - Holmes đáp. Vừa xoa hai bàn tay vào nhau.
      - Đến đây à?
      - Phải ông ta đến gặp tôi để nhờ giải quyết vấn đề khó khăn. Nhìn những triệu chứng của ông ta là tôi biết ngay. Ấy, bạn thấy chưa, tôi có sai đâu?
      vậy, người đàn ông đó lao mình đến trước cửa nhà chúng tôi: ông ta giật dây chuông mạnh đến nỗi tiếng reo ầm ĩ khắp nhà.
      lát sau, ông ta lao vào phòng, miệng thở hồng hộc, hai tay vẫn còn quơ lia lịa, nhưng đôi mắt ông ta chứa nỗi tuyệt vọng ghê gớm. Thoạt đầu ông ta thể được tiếng nào cả, chỉ lắc lư thân hình và vò đầu vò tóc như người sắp lên cơn điên. Rồi thình lình ông ta lao đầu vào vách tường. Chúng tôi vội kéo tay ông ta ra giữa phòng. Holmes đỡ ông ta ngồi xuống chiếc ghế, rồi cùng ngồi xuống bên cạnh, nắm lấy bàn tay ông ta và dịu dàng :
      - Ông đến với tôi để kể tôi nghe câu chuyện của ông, phải ? Ông bị mệt vì phải chạy gắp đến đây. Ông hãy ngồi nghĩ cho đến lúc lấy lại bình tĩnh, sau đó tôi rất vui lòng nghe ông trình bày cái vấn đề nho làm cho ông điên đầu.
      Người đàn ông ngồi im trong hai phút. Chiếc cằm sệ xuống: ông ta cố gắng kiềm chế chống lại cơn xúc động rồi ông ta lấy khăn tay thấm mồ hôi trán, lau khô môi, và quay về phía chúng tôi :
      - Chắc các ông nghĩ là tôi điên, phải ?
      - Tôi chỉ thấy ông tay họa lớn - Holmes đáp.
      - Và chỉ có Chúa mới biết nó lớn đến mức nào! tai họa đủ để làm cho tôi phải mất hết lý trí: nó đổ ụp xuống đầu tôi với đột ngột khủng khiếp!... Hơn nữa, phải chỉ có mình tôi dính líu vào vụ này. Nhân vật cao quý nhất trong xứ này có thể bị đau khổ, trừ khi tìm được cách giải quyết êm thấm.
      - Xin ông hãy bình tĩnh lại, rồi cho tôi biết ông là ai, và chuyện gì xảy ra - Holmes
      - Tôi là Alexandre Holder, thuộc công ty ngân hàng Holder & Stevenson, ở đường Threadneedle.
      Đó là tên của người hùn vốn trọng tuổi nhất trong ban điều hành của công ty ngân hàng đứng thứ nhì ở thủ đô. Chúng tôi tò mò chờ ông ta kể lại câu chuyện.
      - “Ngay khi viên thanh tra cảnh sát bảo tôi: Chỉ có Sherlock Holmes mới giúp được ông tôi liền đến đường Baker bằng xe điện ngầm và từ đó tôi chạy bộ đến đây, bởi vì với lớp tuyết dày như thế này, xe ngựa rất chậm... Hẳn các ông cũng biết rằng trong những cách thức bỏ tiền ra có lợi nhất là cho vay. Trong những năm vừa qua, chúng tôi cho các gia đình quý tộc vay những số tiền rất lớn, thế chấp bằng những bức tranh, sách quý hoặc vàng bạc. Sáng hôm qua tại ngân hàng, người thư ký đem đến cho tôi tấm danh thiếp. Đọc cái tên ghi đó, tôi giật nẩy mình, bởi vì... đó là trong những gia đình thế gia vọng tộc lớn nhất. Đó là vinh dự lớn cho tôi, và khi ông khách được vào, tôi tìm cách khen câu. Nhưng ông ta cắt ngang lời tôi :
      - Ông Holder, tôi biết rằng ngân hàng của ông thường cho vay tiền.
      - Ngân hàng chúng tôi vẫn thường cho vay, khi người vay có cái gì để bảo đảm.
      - Tôi cần ngay tức khắc 50 ngàn đồng bảng. Dĩ nhiên, tôi vẫn có thể mượn của các bạn tôi số tiền mười lần lớn hơn số tiền mọn này, nhưng tôi thích xem việc này là việc riêng mà tôi phải tự giải quyết lấy. Với địa vị của tôi, mang ơn người khác là điều nên tránh.
      - Tôi có thể hỏi ngài muốn giữ số tiền đó trong bao lâu ?
      - Thứ hai tới, người ta trả cho tôi số tiền lớn, và chắc chắn tôi hoàn lại ông cả vốn lẫn lãi. Nhưng điều quan trọng nhất đối với tôi là phải có ngay 50 ngàn đống bảng.
      - Tôi lấy tiền túi của tôi ra cho ngài vay mà đòi hỏi bảo đảm gì cả. Nhưng vị trí của tôi cho phép tôi có được cái vinh dự đó. Mặt khác, vì lẽ tôi hoạt động cho công ty, nên tôi có bổn phận cầu ngài có những bảo đảm cần thiết.
      - Tôi thích như thế hơn - Ông ta đáp rồi đưa ra chiếc hộp da màu đen, hình vuông - Ông có nghe đến chiếc vương miện nạm ngọc berin ?
      - Đó là trong những vật châu bảo quý giá nhất của đất nước.
      - Đúng vậy!
      Ông lấy chiếc hộp ra: chiếc vương miện đẹp lộng lẫy được đặt nằm lớp nhung màu hồng.
      - Nó có tất cả 39 viên ngọc berin lớn, và cái khung bằng vàng của nó là vô giá. Trị giá của chiếc vương miện này tính ra ít nhất cũng là 100 ngàn đồng bảng. Tôi sẵn sàng giao nó cho ông giữ làm vật bảo đảm.
      Tôi cầm lấy chiếc hộp quý báu, nhìn chiếc vương miện rồi nhìn người thân chủ.
      - Phải chăng ông nghi ngờ giá trị của nó? - Ông ta hỏi.
      - , hoàn toàn .
      - Đúng hơn, tôi tự hỏi... Vì sao tôi dám giao cho ông giữ vật quý giá như thế, phải ? Ông đừng lo ngại gì cả! Ông tưởng rằng tôi hành động như thế sao, nếu tôi tuyệt đối chắc chắn có thể thu hồi nó lại trong bốn ngày nữa? Đây chỉ là vấn đề thủ tục thôi. Theo ông, vật bảo đảm này có đủ ? - Nhà quý tộc hỏi.
      - Quá đủ!
      - Ông Holder, xin ông hãy hiểu rằng tôi tin cậy kín đáo của ông và nhất là cảnh giác của ông: chắc ông cũng hiểu rằng vụ tai tiếng lớn xảy ra nếu có chuyện gì xảy đến cho chuyện này. vết xước cũng nghiêm trọng gần bằng với mất mát của nó: ông hãy nghĩ rằng khắp thế giới có những viên ngọc berin nào có thể sánh được với những viên ngọc này! Tuy nhiên, tôi vẫn giao chiếc vương miện cho ông giữ. Sáng thứ hai, tôi đích thân đến lấy nó lại.
      Tôi gọi người thủ quỹ và ra lệnh cho ta giao ngay 50 ngàn đồng bảng. Tuy nhiên, khi còn lại mình với chiếc hộp, tôi khỏi lo sợ khi nghĩ đến cái trách nhiệm lớn lao đè nặng vai. Và tôi bắt đầu cảm thấy hối tiếc khi nhận lãnh bảo vật quốc gia này. Nhưng muộn rồi, thể làm gì khác hơn, tôi bèn cất nó trong tủ sắt riêng và tiếp tục làm việc. Chiều đến, trước khi về nhà, tôi tự bảo nên dại dột để lại trong văn phòng vật quý báu như thế. Hàng năm tủ sắt của ngân hàng từng bị phá rồi! Và nếu chiếc tủ sắt của tôi bị phá...., nếu chiếc vương miện biến mất?.... ! thể để chuyện đó xảy ra! Tôi quyết định mang nó về nhà. Và sau đó cất kỹ bảo vật trong chiếc bàn giấy của phòng rửa mặt ở tầng hai.
      Bây giờ, thưa ông Holmes, tôi cần phải cho ông biết qua về những người ở trong nhà tôi. Tôi có hai người tớ trai, đều ngủ ở bên ngoài nhà, ba người tớ giúp việc cho tôi từ nhiều năm nay, và họ là những người rất ngay . người tớ khác, tên là Lucy, mới vào được vài tháng, nhưng ấy có bản tính tốt. Đó là khá xinh đẹp, lôi cuốn nhiều chàng trai si tình thỉnh thoãng đến lảng vảng chung quanh ngôi nhà của tôi. Đó là những gia nhân. Còn gia đình tôi có bao nhiêu người. Tôi góa vợ, và chỉ có đứa con trai duy nhất, tên là Arthur. Thằng bé này là cả thất vọng của tôi. Thưa ông Holmes, khi vợ tôi qua đời, tôi dồn tất cả tình thương cho nó. Tôi bao giờ từ chối nó cái gì cả.
      Dĩ nhiên, tôi có ý định chuẩn bị cho nó kế nghiệp tôi ở ngân hàng, nhưng nó có khiếu và cũng ưa thích kinh doanh. Tính tình của nó được thuần. Đến tuổi thành niên, nó gia nhập câu lạc bộ quý tộc, và trở thành bạn thân của những nhà quý tộc giàu có, sang trọng, giết giờ bằng những trò ăn chơi xa xỉ. Cùng với họ, nó vung tiền vào những canh bạc và những cuộc đua ngựa. Nó thường xuyên xin thêm tiền tôi, ngoài số tiền trợ cấp hàng tháng, để thanh toán những món nợ.. Hơn lần nó cố gắng đoạn tuyệt với cái câu lạc bộ nguy hiểm, nhưng lần nào cũng vậy, George Burnwell lại lôi cuốn nó trở về cái nhóm đó.
      , tôi ngạc nhiên khi thấy George Burnwell có ảnh hưởng rất lớn đối với Arthur. Ông ta lớn tuổi hơn Arthur: con ngưới của giới thượng lưu, hào hoa phong nhã và là đẹp trai. Tuy nhiên, đôi lúc nhớ lại vài lời khinh bạc và vô sỉ của George Burnwell, nhớ lại vài ánh mắt tinh ma quỷ quái của ông ta, tôi bỗng cảm thấy nghi ngại: con người này khó có thể tin cậy được.
      Thưa ông Holmes, buổi tối hôm đó, trong phòng khách, tôi kể lại cho Arthur và Mary nghe câu chuyện về cái vương niệm, nhưng tiết lộ tên của người chủ món hàng. Sau khi pha café xong, Lucy rời khỏi phòng, tôi nhớ chắc như thế, nhưng tôi nhớ là cửa phòng có được đóng lại hay . Mary và Arthur tỏ ra vô cùng thích thú và cầu được xem vương niệm. Tôi từ chối.
      - Ba cất nó ở đâu? - Arthur hỏi.
      - Trong bàn giấy riêng của ba.
      - Con hy vọng ngôi nhà này bị trộm đến viếng trong đêm nay.
      - Bàn giấy được khóa kỹ.
      - Ăn thua gì! - Arthur . - Bất cứ chiếc chìa khóa cũ nào cũng có thể mở nó ra được. Khi còn bé, chính con mở nó ra với chìa khóa của chiếc tủ bỏ trong căn phòng chứa đồ đạc.
      Arthur có tật hay đến bất cứ điều gì, và tôi thường chú ý đến những điều nó . Tuy nhiên, buổi tối hôm đó, nó theo tôi vào tận trong phòng tôi với vẻ mặt rất nghiêm trọng :
      - Thưa ba, ba có thể cho con hai trăm đồng bảng được ? - Arthur , đôi mắt nhìn xuống.
      - . Ba quá rộng rãi đối với con về vấn đền tiền bạc rồi! - Tôi xẵng giọng đáp.
      - Ba rất tử tế với con, nhưng con rất cần hai trăm đồng bảng đó, nếu , con bao giờ có thể chường mặt đến câu lạc bộ nữa!
      - Đó là điều rất tốt.
      - Vâng, nhưng chắc ba muốn con trai của ba trở thành kẻ bị mất danh dự chứ! Con phải tìm cho ra tiền, nếu ba cho con số tiền đó, con tìm cách khác.
      - Con xu nào hết. Đừng nài nỉ nữa vô ích! - Tôi giận dữ, trả lời.
      Nó nghiêng mình, và lặng lẽ rời khỏi phòng.
      Khi nó rồi, tôi mở chiếc bàn giấy ra để chắc chắn là cái kho tàng vẫn còn nằm trong đó, rồi tôi khóa lại. Xong, vòng khắp chung quanh nhà để xem có điều gì bất thường . Công việc này thường do Mary đảm nhiệm, nhưng buổi tối hôm đó, tôi đích thân làm lấy. Khi xuống cầu thang, tôi thấy Mary đứng ở cửa sổ trước; lúc tôi đến gần, nó đóng cửa sổ lại và gài cẩn thận. Nó có vẻ hơi bối rối hỏi tôi :
      - Thưa ba, tối nay ba có cho phép Lucy ra ngoài ?
      - !
      - ta vừa mới trở lại bằng cửa sau. Con dám chắc là ta gặp chàng nào đó tại cửa bên cạnh nhà. hành động đứng đắn tí nào? Con thấy có lẽ chúng ta phải chấm dứt cái trò đú đởn này.
      - Sáng mai con hãy với ta. Con chắc chắn là tất cả cửa giả đều được đóng kỹ ?
      - Dạ chắc.
      - Vậy, chúc con ngủ ngon!
      - Thưa ông Holmes, tôi cố gắng cho ông biết hết tất cả, bỏ quên chi tiết nhặt nào có liên hệ đến vụ này. Nhưng nếu ông thấy có điểm nào được , xin ông cứ hỏi lại, đừng ngại gì cả”.
      - Bản tường thuật của ông khác ràng đãy.
      - “Tôi ngủ say lắm. Đêm hôm đó do có nỗi lo âu tiềm tàng trong tâm trí nên tôi càng khó ngủ hơn. Khoảng hai giờ sáng, tiếng động trong nhà làm tôi giật mình: tiếng động đó im bặt khi tôi hoàn toàn tỉnh ngủ, nhưng tôi có cảm giác như thể cánh cửa sổ ở đâu đó được đóng lại êm. Tôi cố lắng tai nghe. Thình lình, tôi ngồi nhổm dậy: tiếng chân rất trong căn phòng kế bên. Tôi liền nhảy xuống giường và chạy đến mở cửa phòng rửa mặt ra.
      - Arthur! - Tôi kêu lên - Ố! Thằng vô lại! Thằng ăn cắp! Sao mày dám đụng đến chiếc vương niệm đó?
      Bên cạnh chiếc đèn chong được tôi vặn lại hồi đầu hôm, thằng khốn nạn chỉ mặc áo sơ mi với quần dài, hai tay cầm chiếc vương niệm. Dường như nó cố gắng hết sức để vặn hay bẻ cong chiếc vương niệm lại. Nghe tiếng kêu của tôi, nó buông chiếc vương niệm rơi xuống sàn nhà, gương mặt tái mét. Tôi nhặt chiếc vương niệm lên nhanh và xem xét nó. góc bằng vàng, với ba viên ngọc berin gắn vào đó, bị sứt mất.
      - Thằng bất hiếu! - Tôi giận dữ hét lên. - Mày phá hỏng nó rồi! Thế là tao bị ô nhục suốt đời. Mày ăn cắp ba viên ngọc rồi phải ?
      - Ăn cắp? - Nó lặp lại.
      - Phải, mày ăn cắp mất ba viên ngọc berin! - Tôi hét lớn, nắm vai nó, lắc mạnh.
      - Nhưng có thiếu viên ngọc nào đâu!
      - Thiếu ba viên! Mày vừa là thằng láo, vừa là thằng ăn cắp.
      - Ba gọi con bằng những danh từ mà con thể chấp nhận được, con thể chịu đựng những lời nhục mạ của ba được nữa. Con thêm tiếng nào về vụ này. Con rời khỏi nhà của ba và tự lo lấy thân con.
      - Mày rời khỏi nhà tao giữa hai người cảnh sát! - Tôi hét lớn giận dữ - Vụ này được đưa ra công lý, tao thề như thế.
      - Con gì cả! - Nó đáp với vẻ quyết liệt mà tôi chưa bao giờ trông thấy nơi nó. - Ba muốn gọi cảnh sát đến hãy để cảnh sát làm việc.
      Trong lúc đó, mọi người trong nhà thức dậy. Mary là người đầu tiên chạy vào, trông thấy chiếc vương niệm và nhìn khuôn mặt của Arthur, nó đoán biết câu chuyện, kêu lên tiếng và ngã qụy xuống sàn nhà, bất tỉnh. Tôi cho chị bồi phòng gọi cảnh sát đến. Lát sau, thanh tra và cảnh sát viên đến. Arthur, nãy giờ vẫn khoanh tay đứng im, vẻ mặt bực tức, lên tiếng hỏi tôi có ý định tố cáo nó về tội trộm cắp hay . Tôi trả lời với nó rằng vụ này còn là chuyện riêng tư nữa, và tôi muốn pháp luật được thi hành triệt để.
      - Ít nhất, xin ba đừng cho bắt con ngay bây giờ! Vì quyền lợi của ba cũng như của con, xin ba hãy để cho con ra ngoài trong năm phút.
      - Phải chăng mày muốn bỏ trốn hay mày muốn cất giấu mấy viên ngọc?
      Ý thức được tất cả tình trạng khủng khiếp của tôi, tôi năn nỉ nó nên nhớ rằng vụ này có thể gây ra tai tiếng ghê gớm, ảnh hưởng tai hại đến uy tính của quốc gia. Tất cả những nguy cơ đó hãy còn có thể tránh được, chỉ cần nó cho tôi biết ba viên ngọc bây giờ ở đâu.
      - Con đủ khôn lớn để nhận thức được tất cả tầm quan trọng của vụ này và nhìn thẳng vào nó. Con bị bắt quả tang: lời thú nhận nào có thể làm giảm tội lỗi của con được. Nhưng con có thể được khoan hồng bằng cách cho ba biết những viên ngọc đó ở đâu. Ba tha thứ hết.
      - Ba hãy để dành tha thứ cho những kẻ nào cần đến nó! - Arthur quay lưng lại với tôi và cười gằn.
      Thấy còn cách nào thuyết phục được nữa, tôi đành giao nó cho viên thanh tra cảnh sát. Liền đó, nó bị lục soát, cảnh sát cũng lục soát phòng riêng của nó và tất cả những góc, khe kẽ ở trong nhà. Nhưng vẫn tìm thấy gì. Và nó vẫn tiếng nào. Sáng nay, nó bị tống giam, còn tôi, sau khi làm xong tất cả những thủ tục cần thiết, tôi liền chạy đến đây. tại, cảnh sát thú nhận bất lực. Thưa ông Holmes, nếu thấy cần phải tiêu xài những gì, xin ông hãy cứ tự nhiên: tôi treo phần thưởng 1000 đồng bảng.. Chúa ơi! Chỉ trong đêm, tôi mất hết danh dự và đùa con trai duy nhất! Ôi, làm sao bây giờ?”
      Ông ta đưa hai bàn tay lên ôm lấy mặt, lắc qua, lắc lại, miệng lầm bầm những lời vô nghĩa như kẻ tâm thần.
      Sherlock Holmes ngồi im lặng trong vài phút, đôi mày nhíu lại, mắt nhìn đăm đăm vào ngọn lửa trong lò sưởị
      - Ông có thường tiếp khách ? - Holmes hỏi.
      - Tôi tiếp ai cả, ngoài người hùn vốn và gia đình của ông ta, hoặc thỉnh thoảng người bạn của Arthur. Thời gian gần đây George Burnwell có đến nhà tôi nhiều lần. Ngoaì ra, có ai khác.
      - Ông có thường hay đến chỗ này chỗ kia chơi ?
      - Arthur có. Mary và tôi ở nhà. Cả Mary và tôi đều thích chơi.
      - Đó là điều lạ lùng đối với thiếu nữ!
      - Nó có bản tính trầm lặng. Vả lại nó cũng còn bé gì nữa: hai mươi bốn tuổi rồị
      - Theo lời ông kể lại, vụ này cũng gây cho ấy cơn xúc động ghê gớm, phải ?
      - Phải.
      - Cả ấy lẫn ông đều còn chút nghi ngờ gì nữa về có tội của con trai ông?
      - Còn nghi ngờ gì nữa khi chính mắt tôi trông thấy chiếc vương niệm nằm trong hai bàn tay của nó?
      - Đó chưa phải là bằng chứng để buộc tội. Có phải phần còn lại của chiếc vương niệm bị hư hại ?
      - Phải, bị cong vẹo.
      - Vậy ông nghĩ rằng con trai của ông tìm cách uốn nắn nó lại hay sao?
      - Ông cố gắng làm những gì có thể làm được cho nó và cho tôi! Nhưng đó là công việc quá khó khăn. Tại sao nó lại có mặt ở đó, để làm gì? Với chiếc vương niệm trong tay? Và nếu nó vô tội, tại sao nó , mà cứ im lặng?
      - Đúng! Và nếu cậu ấy có tội, tại sao cậu bịa ra điều láo thay vì im lặng? Trong vụ này còn có nhiều chi tiết kỳ lạ.. Về tiếng động đánh thức ông dậy, ý kiến của cảnh sát như thế nào?
      - Cảnh sát tiếng động đó có thể do Arthur gây ra khi nó đóng cửa phòng của nó lại.
      - Rất khó tin! người nào sắp sửa làm hành động bất lương lại đóng sầm cửa phòng của mình lại để đánh thức người khác dậy! Còn về ba viên ngọc?
      - Họ tiếp tục lục lọi trong nhà với hy vọng tìm lại được chúng.
      - Họ có nghĩ đến việc tìm kiếm ở bên ngoài ngôi nhà ?
      - Có. Tất cả khu vườn được xem xét rất tỉ mỉ, sót chỗ nào.
      - Thưa ông, vụ này phức tạp hơn là ông cảnh sát nghĩ lúc ban đầu. Xin ông hãy xét kỹ lại giả thiết của ông: Ông cho rằng con trai ông rời khỏi phòng của cậu ấy, để vào phòng rửa mặt của ông. hành động rất liều lĩnh, mở bàn giấy của ông ra, lấy chiếc vương niệm, dùng hết sức lực bẻ gãy góc của nó, rồi trở ra khỏi phòng, đến chỗ nào đó để cất giấu ba viên ngọc.. và cất giấu cách tài tình đến độ ai có thể tìm ra được.. rồi cậu ấy lại mang 36 viên ngọc còn lại trở vào văn phòng.. nơi mà cậu ấy rất dễ dàng bị phát giác. Nào, tôi xin hỏi ông. giả thiết như thế có đứng vững ?
      - Nhưng, như vậy theo ông, còn giả thiết nào khác nữa? - Ông chủ ngân hàng kêu lên với cử chỉ tuyệt vọng. - Mà nếu những động cơ của nó là ngay , tại sao nó cho tôi biết?
      - Công việc đầu tiên của chúng ta là làm sáng tỏ điểm này. Vậy, nếu ông bằng lòng, chúng ta cùng đến Streatham, ở đó chúng ta xem xét kỹ số chi tiết.
      * * * * *
      Holmes cầu tôi cùng với và ông Holder. Tôi nhận lời ngay. Thú , cũng như tôi ông Holder, tôi thấy người thanh niên đó phạm tội ràng. Nhưng tin tưởng tài nhận xét và suy luận ít khi sai lần của Holmes, tôi vẫn còn vài hy vọng: ngay từ đầu, Holmes bác bỏ về giả thiết quá đơn giản về phạm tội của Arthur.
      Fairbank là ngôi nhà bằng đá trắng, hình dáng vuông vức, nằm hơi cách xa đường chút. con đường vòng khá rộng để hai chiếc xe có thể chạy song song với nhau và lối chạy dài đến hai chiếc cổng sắt chắn ngang lối vào. Ở bên phải có rặng cây đưa đến lối nằm giữa hai hàng rào cây xanh: lối này đưa đến cửa nhà bếp và là lối dành cho gia nhân. Ở bên trái có lối khác hướng về chuồng ngựa, nó chạy quanh co bên ngoài khu vực ngôi nhà, và thỉnh thoảng những người lân cận cũng theo lối này.
      Holmes dừng lại trước cửa lớn, chậm chạp khắp xung quanh nhà: qua hết mặt trước của ngôi nhà, xuống lối dành cho gia nhân và vòng quanh khu vườn rồi trở lên bằng lối đưa đến chuồng ngựa. Thấy có gì vội vã cả, ông Holder và tôi bèn vào phòng ăn, ngồi chờ bên lò sưởi. Chúng tôi ngồi im lặng được lúc thiếu nữ xuất . Nàng hơi cao hơn truing bình chút, thân hình mảnh dẻ, tóc vàng và mắt đen huyền nổi bật làn da trắng muốt. Gương mặt nàng xanh xao, đôi môi nhợt nhạt và ánh mắt biểu lộ van xin câm lặng, nhưng vô cùng tha thiết. Khi nàng tiến vào phòng với dáng nhanh nhẹn và đều đặn, tôi nhận thấy nỗi đau buồn của nàng còn có phần sâu xa hơn về đau buồn của ông chủ ngân hàng. quan tâm đến diện của tôi, nàng tiến thẳng về phiá người chủ lâu đài và đặt hai bàn tay lên gương mặt ông.
      - Ba bảo người ta thả Arthur ra chưa?
      - , con ạ.. Ung nhọt cần phải được cắt bỏ.
      - Nhưng con tin chắc rằng ấy vô tội! Ba biết , trực giác của phụ nữ ít khi sai lầm. Ba hối hận khi tỏ ra quá khắc nghiệt.
      - Nếu nó vô tội, tại sao nó lại làm thinh?
      - Ai có thể biết được? Có lẽ ấy giận ba nghi ngờ ấy.
      - Làm sao ba nghi ngờ nó được. Chính mắt ba trong thấy nó cầm chiếc vương miện mà.
      - Ồ, ấy chỉ xem thôi... ba hãy tin con, ấy có tội! Ba hãy bỏ qua cái vụ này . điều ghê gớm khi nghĩ rằng Arthur bị ở tù!
      - Ba bỏ qua vụ này trước khi tìm được mấy viên ngọc. Thay vì bỏ qua, ba mời từ Luân Đôn về vị thám tử đại tài làm sáng tỏ tất cả, ba tin chắc như thế.
      - Có phải là ông đây ? - Nàng hỏi, vừa nhìn vào mặt tôi.
      - , bạn của ông ấy. Trong lúc này, thám tử vòng theo lối tới chuồng ngựa.
      - Lối tới chuồng ngựa?.. - Nàng nhướn đôi mày đen lên. - Ông ấy có thể tìm được hy vọng gì ở đó vậy, và chắc là ông ấy đây rồi. Thưa ông, tôi hy vọng rằng ông chứng tỏ được vô tội của Arthur. Tôi tin chắc là ấy bị hàm oan.
      - Tôi hoàn toàn đồng ý với , và cũng như , tôi hy vọng chứng tỏ được vô tội của ấy. - Holmes đáp, vừa quay trở lại tấm chùi chân để chùi sạch lớp tuyết bám vào đôi giày. - Chắc là tôi được hân hạnh chuyện với Mary phải . có thể cho phép tôi hỏi vài câu ?
      - Xin ông cứ hỏi! Tôi rất muốn điều bí mật khủng khiếp này được sáng tỏ..
      - Về phần , nghe thấy gì cả trong đêm vừa qua?
      - , cho đến khi bác tôi bắt đầu kêu to lên. Lúc đó tôi mới chạy xuống.
      - Khi đóng những cửa lớn và cửa sổ, có đóng kỹ tất cả những cửa sổ ?
      - Có.
      - Sáng nay, tất cả những cửa sổ đó vẫn còn được đóng kín chứ?
      - Vâng.
      - trong những chị bồi phòng có tình nhân, phải ? Và tối hôm qua, có báo cho ông chủ biết rằng chị ấy ra ngoài để gặp ta?
      - Phải. Lúc chị ấy pha café trong phòng khách. Có lẽ chị ấy nghe bác tôi nóí về chiếc vương niệm.
      - Tôi hiểu. suy ra rằng chị ấy có thể ra ngoài để báo cho tình nhân biết, và cả hai người đó sắp đặt kế hoạch để lấy trộm chiếc vương miện.
      - Nhưng chúng ta còn đặt ra những giả thiết phiêu lưu đó để làm gì? - Ông chủ ngân hàng nóng nảy kêu lên. - Bởi vì tôi rằng chính mắt tôi trông thấy Arthur cầm chiếc vương niệm trong tay mà!
      - Xin ông hãy kiên nhẫn chút. Chúng ta còn phải trở lại với giả thiết này, với chị bồi phòng ấy. Mary, trông thấy chị ấy trở vào bằng cửa nhà bếp, phải ?
      - có biết ta ?
      - Có chứ! ta tên là Francis.
      - ta đứng ở bên trái của nhà bếp, nghĩa là hơi xa chút trong lối ? - Holmes hỏi.
      - Phải.
      - Và ta có cái chân gỗ?
      thoáng lo sợ lên trong đôi mắt của người thiếu nữ.
      - Phải chăng ông là vị thánh? - Nàng mỉm cười kêu lên. - Làm sao ông biết được điều đó?
      Nhưng Holmes đáp lại nụ cười của nàng. tiếp.
      - Tôi cần xem xét lầu. Và có thể là tôi quan sát lại khắp chung quanh nhà lần nữa.. nhưng trước khi lên gác, có lẽ tôi nên xem xét kỹ những cửa sổ của tầng dưới..
      nhanh chóng từ cửa sổ này đến cửa sổ khác và dừng lại lúc trước cửa sổ lớn ngó ra lối đưa đến chuồng ngựa. mở nó và dùng chiếc kính lúp xem xét tỉ mỉ bờ cửa sổ.
      - Tốt! Bây giờ chúng ta có thể lên gác. - Sau cùng .
      Phòng rửa mặt của ông chủ ngân hàng là căn phòng đày đủ tiện nghi. Nó có tấm thảm màu xám, chiếc bàn giấy lớn và tấm gương soi hình chữ nhật. Holmes tiến đến chiếc bàn giấy và nhìn chăm chú vào ổ khóa.
      - Ông thường mở nó bằng chìa nào?
      - Chiếc chìa mà con trai tôi chỉ: chìa khóa của chiếc tủ để trong phòng để đồ dạc dùng đến nữa.
      - Nó có ở đây ?
      - Nó ở bàn.
      Holmes lấy chiếc chìa khóa và mở bàn giấy ra :
      - Chìa khóa này gây tiếng động nào cả. Do đó, kẻ gian mở bàn giấy ra mà vẫn làm cho ông thức giấc. Chắc cái hộp này đựng chiếc vương niệm? Ông cho phép tôi xem nó chút.
      mở chiếc hộp, lấy vương niệm ra đặt lên bàn. đầu của vương niệm bị cong và bị gãy: góc chứa ba viên ngọc bị bẻ mất.
      - Ông Holder, đây là cái góc đối xứng với cái góc bị mất. Tôi có thể cầu ông thử bẻ gãy nó được ?
      Ông chủ ngân hàng kinh hãi, lùi lại.
      - ! Tôi thể làm được chuyện đó!
      - Văy tôi thử..
      Holmes lấy hết sức mạnh bẻ cái, nhưng kết quả.
      - Tôi chắc nó chỉ hơi cong chút xíu thôi. - bình tĩnh nhận xét. - Nhưng dù cho những ngón tay của tôi khỏe đến mấy, tôi cũng thể bẻ gãy nó được. Nhưng, ông hãy thí dụ là tôi bẻ gãy nó : nó phát ra tiếng kêu khá lớn, gần như tiếng nổ của phát súng lục vậy. Và nếu tiếng động như vậy mà chỉ phát ra cách giường ông vài mét, có thể nào ông lại nghe thấy gì cả?
      - Tôi như người ở trong đêm tối.
      - Có lẽ tất cả sáng tỏ nếu chúng ta tiếp tục. Mary, nghĩ sao?
      - Tôi cũng biết nghĩ sao nữa.
      - Con trai của ông mang giày dép gì cả, khi ông trông thấy cậu ấy?
      - mình chỉ có chiếc áo sơ-mi và chiếc quần tây dàị
      - Cám ơn ông. Chúng ta được may mắn lạ thường, vậy nên nếu chúng ta làm sáng tỏ được vấn đề, đó là lỗi của chúng ta.
      Holmes ra ngoài mình, làm việc trong tiếng đồng hồ, rồi trở vào nhà với hai bàn chân dính đày tuyết và gương mặt lạnh lùng khó hiểu.
      - Thưa ông, bây giờ, điều hay nhất mà tôi có thể làm giúp ông, là trở về nhà tôi.
      - Nhưng còn mấy viên ngọc?
      - Tôi chưa thể được.
      Ông chủ ngân hàng vặn vẹo hai bàn tay vào nhau :
      - Vậy là tôi bao giờ trông thấy lại chúng! - Ông ta kêu lên.. - Còn con trai tôi?
      - Tôi vẫn thay đổi ý kiến về cậu ấy.
      - Vậy, tôi van ông, xin ông giải thích, nó như thế nào?
      - Nếu sáng mai, ông có thể đến nhà tôi, trong khoảng từ 9 đến 10 giờ, tôi giải thích cho ông thấy tất cả. Có phải ông giao cho tôi toàn quyền chi tiêu, miễn sao thu hồi lại được ba viên ngọc?
      - Tôi sẵn sàng chi cả gia tàị
      - Tốt lắm. Bây giờ tôi lo việc đó. Xin chào ông.
      Trong chuyến trở về, tôi tìm cách dò hỏi nhưng Holmes trả lời rất hờ hững. Chúng tôi về đến nhà trước ba giờ chiều. Holmes chạy thẳng vào phòng, vài phút sau trở ra, cải trang thành bồi: cổ áo và đôi giày mòn gót.
      - Như thế này là được rồi. - , vừa ngắm nghía mình trong gương. - Trong vụ này, có thể là giả thiết của tôi đúng, nhưng cũng có thể là tôi sai lầm. Dầu sao, rồi ra tôi cũng biết sực .
      cắt lát thịt bò nướng, kẹp nó vào giữa hai miếng bánh mì và ra .
      Khi trở về, tôi vừa uống xong tách chè. Trông có vẻ vui tươi thấy : cầm chiếc giày cũ ở đầu sợi dây giày, đong đưa nó qua lại rồi ném nó vào góc phòng, tôi rót cho chén chè.
      - Ở đâu vậy?
      - Ồ, ở tận kia của vùng West End. Và tôi biết giờ nào tôi về. Văy cần chờ tôi!
      - Có triển vọng ?
      - tệ lắm! Tôi đến Streatham, nhưng vào nhà. Vụ này có vấn đề rất lý thú. Thôi, tôi chỉ còn vừa đủ giờ để thay đồ.
      Qua những lời có vẻ hơi mơ hồ của , tôi hiểu đạt được những kết quả rất khả quan. Chờ đến khuya vẫn chưa thấy về, tôi bèn ngủ.
      Tôi biết Holmes về lúc mấy giờ, nhưng sáng hôm nay, khi xuống phòng khách để ăn điểm tâm, tôi thấy ngồi đó tự bao giờ, tươi tỉnh và khỏe khoắn, tay này cầm tờ báo, tay kia tách café.
      - Xin lỗi đợi để cùng ăn, nhưng chúng ta có hẹn với thân chủ, và bây giờ hơn chín giờ rồi.
      - vậy, dường như tôi vừa mới nghe có tiếng chuông reo.
      Quả đúng là nhà tài chính của tôi. Nhưng chỉ mới có đêm mà ông tiều tụy hẳn! Ông tiến vào phòng với vẻ mệt mỏi và đờ đẫn. Tôi đẩy chiếc ghế bành đến cho ông và ông liền ngồi phịch xuống.
      - biết tôi làm gì nên tội! Cách đây hai hôm, tôi còn là người thịnh vượng và sung sướng. Nhưng hôm nay tôi là người khốn khổ nhất đời. Họa vô đơn chí, con bé ra rồi.
      - Mary bỏ rồi à?
      - Phải, sáng nay. Phòng nó trống trơn, bàn có lá thư. Ngày hôm qua, trong cơn đau buồn, tôi có trách nó rằng tất cả câu chuyện thê thảm này xảy đến nếu trước kia nó bằng lòng kết hôn với Arthur. Trong thư, nó nhắc đến lời trách móc đó.
      “Thưa bác rất thân của con.
      Con thấy rằng con là nguyên nhân gây ra tai họa cho bác, rằng nếu con hành động khác hơn tai họa đó xảy đến. Với ý nghĩ này ám ảnh trong đầu, con bao giờ có thể sung sướng được ở trong nhà bác nữa; vậy tốt hơn con nên vĩnh viễn từ biệt bác. Xin bác đừng lo lắng gì cả cho tương lai của con; con thiếu thốn gì đâu. Nhất là xin bác đừng tìm kiếm con, mà mất giờ vô ích. Dù còn sống hay chết, mãi mãi con vẫn là cháu Mary thương của bác”.
      - Ông Holmes, Mary có tự tử ?
      - ! ấy chọn giải pháp tốt nhất. Ông Holder, tai họa của ông sắp chấm dứt rồi.
      - Ông có nghĩ rằng 1000 đồng bảng cho mỗi viên ngọc là số tiền quá lón ?
      - Tôi sẵn sàng trả 10.000 đồng!
      - cần thiết như thế. Chỉ cần ba ngàn đồng. Cộng thêm số tiền thưởng nữa, phải ? Đây, bút đây. Ông chỉ cần viết ngân phiếu bốn ngàn đồng bảng; mọi việc êm đẹp cả.
      Ông chủ ngân hàng mừng quýnh, tay run run viết tờ ngân phiếu. Holmes đến bàn giấy của , lấy ra miếng tam giác bằng vàng có gắn ba viên ngọc berin và ném nó lên bàn.
      - Nó đây rồi! Ông tìm ra nó! - Người chủ ngân hàng lắp bắp. - Tôi thoát nạn rồi! Thoát nạn rồi!
      Ông siết chặt những viên ngọc sát ngực.
      - Ông còn mắc nợ điều khác nữa, ông Holder. - Holmes với vẻ nghiêm khắc.
      - Tôi còn mắc nợ? - Ông ta hỏi lại, vừa cầm cây bút lên. - Hãy cho tôi biết bao nhiêu, tôi vui lòng trả.
      - , ông mắc nợ tôi gì cả. Nhưng ông phải thiết tha xin lỗi con trai ông. Đó là tâm hồn cao quý. Trong vụ này, cậu ấy hành động cách dũng cảm và cao thượng.
      - Arthur ăn cắp sao?!
      - Tôi với ông ngày hôm qua, và tôi lại với ông hôm nay: !
      - Chắc chắn chứ? Vậy chúng ta hãy chạy đến nhà giam báo cho nó hay.
      - Cậu ấy biết rồi! Sau khi tìm ra được , tôi có đến nhà giam chuyện với cậu ấy. Vì cậu ấy chịu mở miệng, nên tôi cho cậu ấy biết hết mọi điều. Cậu ấy nhìn nhận tôi suy diễn đúng . Và cậu ấy giải thích thêm vài chi tiết hãy còn hơi lờ mờ. Cái tin về Mary khiến cậu ấy hết mọi việc cho ông biết.
      - Tôi van ông, xin ông hãy hết cho tôi nghe.
      - Vâng. Nhưng tôi buộc phải bắt đầu bằng việc đau lòng nhất cho ông: Thủ phạm là Mary và George Burnwell. Bây giờ họ trốn rồi.
      - Con bé à? thể có chuyện đó!
      - Khốn thay, đây phải là chuyện có thể hay có thể, mà đây là chuyện có ! Cả ông lẫn con trai ông đều hiểu bản chất của George Burnwell. Đó là trong những người nguy hiểm nhất ở nước : con bạc bị sạt nghiệp, tên lưu manh bất trị, kẻ có lương tâm. cháu của ông hoàn toàn biết gì cả về . Khi ta bắt đầu tán tỉnh ấy (cũng như tán tỉnh hàng trăm phụ nữ trước ấy), Mary hãnh diện, nghĩ rằng là người đầu tiên và cũng là người duy nhất làm cho trái tim ta rung động. Chỉ có quỷ mới biết được những gì tên lưu manh đó to với Mary; có điều chắc chắn là trong vòng tay của , nàng trở thành món đồ chơi: gần như đêm nào hai người cũng lén lút gặp nhau.
      - Tôi tin, thể tin được! - Ông chủ ngân hàng hét to lên, gương mặt màu xám như trọ
      - “Tốt. Vậy tôi kể cho ông nghe những gì xảy ra ở nhà ông đêm hôm đó. Khi ông vào phòng ông Mary lẻn ra khỏi phòng ấy và đến đứng bên chiếc cửa sổ hướng ra lối dẫn tới chuồng ngựa và chuyện với tình nhân đứng ở bên ngoài. Dãu chân của gã bất lương in tuyết trong suốt thời gian ta đứng gần bên cửa sổ. Mary với về chiếc vương miện. Lòng tham của kẻ bẩn thỉu liền nổi dậy và y thuyết phục nàng đánh cắp bảo vật. Vừa nghe xong những lời dụ dỗ đó, Mary bỗng trông thấy ông xuống cầu thang, vội vã đống cửa sổ lại và kể cho ông nghe về chuyện chị bồi phòng.
      Về phần con trai ông, sau khi xin tiền ông được, cậu trở về phòng mình nằm trằn trọc mãi, tâm trí lo âu vì những món nợ... Lúc nửa đêm, cậu nghe có tiếng bước chân qua cửa phòng mình. Cậu liền ngồi dậy, nhìn ra ngoài hành lang và kinh ngạc thấy Mary vào trong phòng rửa mặt của ông. Sinh nghi, cậu liền mặc vội vào người chiếc sơ mi và chiếc quần dài rồi đứng núp trong bóng tối. lát sau, Mary xuất dưới ánh sáng của chiếc đèn đặt ở dãy hành lang, và cậu ấy thấy nàng cầm chiếc vương miện xuống cầu thang. Kinh hãi, cậu liền chạy đến mình sau tấm màn, gần cửa phòng ông. Tại đó, cậu thấy mở cửa sổ lớn, trao vương niệm cho kẻ nào ở bên ngoài, rồi nhanh chóng đóng cửa sổ lại rồi trở về phòng mình.
      Cho tới khi nào Mary vẫn còn đứng đó, Arthur thể làm gì được mà gây tai tiếng cho người mà cậu thương .
      Nhưng khi nàng rồi, cậu liền chạy xuống cầu thang với đôi chân trần. Cău mở chiếc cửa sổ lớn, nhảy ra ngoài tuyết và lao mình lối dẫn đến chuồng ngựa. Phía trước cậu ra lờ mờ bóng người đàn ông chạy: George Burnwell cố gắng chạy trốn, nhưng Arthur tiến sát đến ta. Hai người đánh nhau: con ông nắm giữ được đầu của vương niệm và gã Sở Khanh nắm giữ đầu kia. Con trai ông nện cho tên lưu manh vết khá nặng ở phía mắt. Rồi thình lình tiếng rắc khô khan vang lên. Con trai ông nhận thấy mình giật lại đượ chiếc vương niệm, liền chạy trở về nhà, đóng cửa lại, leo lên phòng rữa mặt của ông. Chính lúc ấy cậu nhận thấy chiếc vương niệm bị bẽ cong và cố gắng uốn cho nó thẳng lại ông xuất ”.
      - Có thể nào như thế chăng? - Ông chủ ngân hàng thầm.
      - Và lúc đó, ông làm cho cậu giận dữ với những lời mắng nhiếc thậm tệ... Nhưng cậu chọn giải pháp cao thượng nhất: im lặng để giữ bí mật cho nàng.
      - Thế là bây giờ tôi mới hiểu tại sao con kêu lên tiếng và bất tỉnh khi nó trông thấy chiếc vương niệm! - Ông Holder đau đớn . - Chúa ơi, tôi là u mê. Và con tôi xin tôi để nó ra ngoài trong 5 phút! Thằng bé muốn trở lại chỗ nó đánh nhau với tên ác ôn để tìm miếng vương niệm bị gãy... Ôi, tôi rất có lỗi với con tôi.
      - “Khi đến nhà ông, tôi liền vòng khắp chung quanh, hy vọng tìm được những dấu chân trong tuyết. Tôi biết rằng đêm hôm trước đó tuyết rơi, và khí lạnh giá giữ được nguyên vẹn những dấu vết. Tôi men theo lối dành cho gia nhân, nhưng ở đây có quá nhiều dấu chân dẫm lên nhau và tôi thể phân biệt được gì nữa. Tuy nhiên, tôi cũng nhận ra rằng cách cửa nhà bếp xa, người đàn bà đúng lại và chuyện với người đàn ông: dấu tròn ở bên chứng tỏ người đàn ông này có cái chân gỗ.. Sau đó, tôi khắp khu vườn, nhưng tôi chỉ tìm thấy ở đó những dấu chân loạn xạ khắp nơi: tôi cho đó là những dấu chân của các cảnh sát. Trái lại, khi theo lối dẫn đến chuồng ngựa, tôi khám phá được cả câu chuyện rất dài và phức tạp: chính những dấu chân còn in mồm tuyết kể cho tôi biết.
      Có hai loại dấu chân song song với nhau: dấu chân của người mang giày và dấu chân của người chân . Những dấu chân trần này chỉ có thể là của con trai ông. Lần theo những dấu chân đó về phía ngôi nhà, tôi đến chiếc cửa sổ lớn: ở đó tôi thấy dấu chân của người mang giày in rất sâu xuống lớp tuyết, chứng tỏ người đó đứng đây lúc khá lâu, có lẽ là để chờ đợi. Rồi, vẫn lần theo những dấu chân, tôi quay trở lại đầu kia của lối . Cách chừng 100 mét, tôi nhận ra đuợc chỗ hai người dừng lại đối diện với nhau: lớp tuyết bị chà đạp nát bấy, ở đây chứng tỏ cuộc vật lộn dữ dội xảy ra. Sau cùng, tôi thấy có vài giọt máu: vậy là tôi lầm. Người mang giày tháo chạy xuống phía dưới lối : môt vết máu ở đây chứng tỏ là bị thương. chạy ra đến con đường lớn, nhưng đến đây mất dấu của , bởi vì lề đường và lòng đường được quét sạch.
      Tuy nhiên, khi trở lại căn nhà, tôi dùng kính lúp xem xét kỹ bờ và khung của chiếc cửa sổ lớn. Tôi liền nhận ra ngay có người nhảy qua đó để trở vào nhà. Tôi thấy dấu của bàn chân còn ướt bờ cửa sổ. Lúc bấy giờ, với những chi tiết được thu nhận và phân tích như thế, tôi có thể dựng lên giả thuyết:
      người đàn ông đứng chờ ở bên ngoài chiếc cửa sổ lớn, kẻ nào đó ở trong nhà đem chiếc vương niệm xuống trao cho , con trai ông phát được việc này. Cậu đuổi theo tên trộm, đánh nhau với nó, mỗi người cố gắng giằng chiếc vương niệm về phía của mình, và sức lực của hai người cộng lại làm cho chiếc vương niệm bị gãy mất góc. Con trai ông lấy lại được chiếc vương niệm nhưng bỏ lại viên ngọc trong tay gã ăn trộm. Cho tới đó, mọi đều ràng, hợp lý. Vấn đề đặt ra bây giờ là tìm xem tên trộm đó là ai và kẻ nào ở trong nhà đem chiếc vương miện xuống cho .
      Trong vụ này, chắc chắn ông phải là người đem chiếc vương niệm xuống cho tên trộm. Vậy chỉ còn cháu của ông và những chị bồi phòng. Nhưng nếu thủ phạm là chị bồi phòng có lý do gì Arthur lại im lặng. Vậy chỉ còn có Mary, và tôi biết rằng Arthur rất thương ta, điều này đủ để giải thích tại sao cậu chịu câm như hến.. Tôi nhớ lại rằng ông bắt gặp Mari đứng ở bên chiếc cửa sổ đó, và ta ngất xỉu khi trông thấy chiếc vương niệm mà tưởng rằng ở trong tay kẻ đồng lõa của : thế là giả thuyết của tôi trở thành .
      Nhưng ai có thể là kẻ đồng lõa của ta? Dĩ nhiên đó phải là gã tình nhân. Bởi vì ai đủ sức làm cho ấy quên được ông! Tôi biết rằng ông rất ít khi ra ngoài chơi, và con số những người bạn thân của gia đình ông cũng rất ít. Nhưng trong số đó có George Burnwell, người đàn ông bị tai tiếng rất nhiều đối với giới phụ nữ. Có lẽ chính ta là người đồng lõa của Mary và chính giữ những viên ngọc bị mất. Dầu Arthur có biết là tên trộm, ta vẫn có thể được an toàn, bởi Arthur dám tiết lộ ra điều gây tai tiếng cho gia đình cậu.
      Lúc bấy giờ tôi cải trang thành người bồi, đến nhà gã quý tộc và tìm cách bắt chuyện với hầu của . này cho tôi biết là đêm vừa qua ông chủ của ta vô ý tự gây ra vết thương ở mặt. Và sau cùng, với 6 xu, tôi mua được đôi giày cũ của chủ ta. Tôi liền chạy thẳng mạch đến Streatham để so xem những dấu chân ở đó có đúng với kích thước và hình dạng của bàn chân ta : nó giống hệt”.
      - Tối hôm qua - Holder - Tôi có trông thấy lối đưa đến chuồng ngựa gã bụi đời ăn mặt rách rưới.
      - Chính tôi đó. Sau khi biết chắc tên trộm đó chính là George Burnwell, tôi trở về nhà thay quần áo. Đến đây vai trò của tôi trở thành khó khăn. Bởi vì tôi hiểu rằng nên làm rùm beng vụ này, cốt để tránh cho ông khỏi bị tai tiếng; tôi cũng biết rằng George Bvurnwell là tên táng tận lương tâm, chắc chắn khai thác cái thế tiến thoái lưỡng nan của ông. Lúc đầu chối leo lẻo. Nhưng khi tôi kể từng chi tiết việc xảy ra đêm hôm đó, liền trở mặt xấc xược và chụp lấy cái chùy treo vách tường. Tôi lập tức dí súng vào thái dương . Tôi đề nghị với cho tôi chuộc lại ba viên ngọc với giá 3000 đồng bảng. chặc lưỡi: là xui! Tôi chỉ bán có 600 đồng mà thôi!. Tôi bèn bắt buộc phải cho tôi địa chỉ người mua, đổi lại tôi hứa lôi ra tòa. Tôi chạy thẳng mạch đến nhà người mua, và sau hồi trả giá, tôi chuộc lại được ba viên ngọc với giá 1000 đồng bảng mỗi viên. Xong, tôi liền gặp con trai ông để cho cậu ấy biết rằng tất cả được giải quyết tốt đẹp. Lúc bấy giờ hai giờ sáng, tôi chỉ còn nghĩ đến có việc: ngủ. Sau ngày làm việc cực nhọc như thế, đây là nghỉ ngơi rất.. xứng đáng đãy chứ!
      - Và đó là ngày cứu nước thoát khỏi vụ tai tiếng xấu xa! - Ông chủ ngân hàng kết luận, vừa đứng lên. - Thưa ông, tôi thể tìm ra được những lời nào để bày tỏ hết lòng biết ơn của tôi đối với ông, nhưng xin ông tin chắc rằng mãi mãi, tôi bao giờ quên ơn ông. Bây giờ tôi chạy đến gặp con trai tôi để xin nó tha thứ cho tôi. Về phần con bé Mary đáng thương đó, hành động dại dột của nó làm cho tôi tan nát cả cõi lòng. Với khả năng xét đoán tài tình của ông, ông có thể cho tôi biết bây giờ nó ở đâu ?
      - ấy ở nơi mà George Burnwell ở; chẳng bao lâu, ta nhận trừng phạt còn lớn hơn cả tội lỗi của ta nữa!

    3. tukachan

      tukachan Member

      Bài viết:
      296
      Được thích:
      13
      Chương 12: Vùng đất “Những cây dẻ đỏ”


      Bên ngoài, làn sương mù dày đặc lơ lửng giữa những dãy nhà xám xịt. Cửa sổ nhà đối diện ra những vết đen lờ mờ, ra hình thù gì rệt. Ngọn đèn khí đốt chiếu sáng mấy chiếc đĩa sứ và bộ đồ ăn vẫn còn bàn. Sherlock Holmes vẫn giữ im lặng, ngừng lật những trang bố cáo trong các tờ báo. Cuối cùng lục lọi nữa mà ngắm nghía ngọn lửa nhảy múa trong lò sưởi, rồi :
      - đáng bị gán cho là người chuyên viết truyện “giật gân”, bởi vì phần lớn những vụ án mà đề cập tới phải là những vụ hình . Các câu chuyện về ông vua xứ Bohemia, chuyện tình của tiểu thư Mary Sutherland, chuyện người đàn ông môi trề và lễ thành hôn của nhà quý tộc độc thân... nhất thiết thuộc phạm vi pháp luật. Nhưng nếu tránh các chuyện giật gân, rơi vào chỗ tầm thường.
      - Trong các truyện do tôi viết, các đoạn kết có thể là tầm thường, nhưng phương pháp viết vừa mới lạ vừa thú vị.
      - Chà chà! bạn thân mến, phải chăng bây giờ độc giả lại chịu khó để ý tới những tia sáng tinh tế của phép phân tích và phép diễn dịch? Nhưng nếu rơi vào chỗ tầm thường, tôi cũng thể trách được, và nay, đâu còn những vụ quan trọng nữa. Giờ đây cái nghề hèn mọn của tôi biến thành công việc tìm kiếm những đồ vật thất lạc hoặc làm cố vấn cho các công chức về hưu. Như ngày hôm nay đây, cái thư này cho ông biết tôi “hết thời” rồi. hãy đọc !
      “Thưa ông Holmes thân mến,
      Tôi rất cần ý kiên của ông để quyết định xem nên nhận hay từ chối chỗ dạy trẻ. Nếu có gì phiền ông, tôi đến gặp ông vào lúc 10 giờ 30 ngày mai. Chúc ông mạnh khỏe.
      Violette Hunter”.
      - quen biết này chớ? - Tôi hỏi.
      - Tôi đấy à? Đâu có.
      - mười giờ rưỡi rồi.
      - Vâng. ta gọi cửa.
      - Việc này có thể đáng chú ý hơn tưởng. có nhớ vụ “con ngỗng” . Lúc đầu nó như chuyện khôi hài, sau đó phát triển thành cuộc điều tra công phu. Lần này cũng dễ như vậy lắm.
      - Hãy hy vọng thế! Nhưng ngờ vực của chúng ta sáng tỏ ngay thôi, vì ta tới.
      Cửa mở và thiếu nữ bước vào. ta ăn mặc giản dị nhưng duyên dáng. Gương mặt lanh lợi lấm tấm những nốt tàn nhang. Tóc vàng óng. Cử chỉ của cho thấy là người tháo vát. Khi bạn tôi đứng lên chào, ngay :
      - Xin tha lỗi làm phiền ông. Nhưng tôi vừa gặp chuyện lạ lùng, mà tôi có bà con hay bạn bè để hỏi ý kiến. Thế là tôi nghĩ tới ông. C lẽ ông vui lòng chỉ bảo tôi cách hành động?
      - Thưa , mời ngồi . Tôi rất sung sướng được phục vụ .
      Tôi nhận thấy là Holmes có ấn tượng tốt về ngôn ngữ và cử chỉ của người khách hàng. Đầu tiên ta quan sát theo thói quen cố hữu, rồi mới ngồi xuống, nghe trình bày.
      “Tôi làm nghề dạy trẻ suốt 5 năm trong gia đình đại tá Spence Munro. Cách đây hai tháng, đại tá được bổ nhiệm đến Halifax, Nova Scotia. Ông đem theo các con đến Mỹ, nên tôi thất nghiệp. Tôi đăng báo tìm việc, gửi thư đến các nơi đăng tin tìm người. Tất cả đều có kết quả. Sau cùng, tiền dành dụm cạn, tôi còn biết phải làm
      gì nữa. Ở khu West End có cơ sở Westaway chuyên tìm việc cho người dạy trẻ. Mỗi tuần lần, tôi tới đó xem có chỗ nào . Stoper là người quản lý cơ sở này, làm việc trong văn phòng , những người lạ tìm việc ngồi trong phòng đợi, lần lượt được đưa vào. Stoper nghiên cứu các hồ sơ rồi tìm chỗ phù hợp cho mỗi người.
      Tuần vừa rồi, tôi được đưa vào văn phòng đó như thường lệ. Nhưng lần này ở trong phòng, ngoài Stoper ra, còn có người đàn ông rất béo, khuôn mặt tươi cười với cái cằm rất to; ông ta mang kính, nhìn đăm đăm những người bước vào phòng. Khi trông thấy tôi, ông ta đứng phắt lên và quay sang Stoper :
      - thích hợp! Tôi mơ ước gì hơn nữa! Tuyệt vời! Tuyệt vời! - Ông ta xoa tay mừng rỡ. - tìm việc làm, phải ?
      - Thưa ông, vâng.
      - là người dạy trẻ?
      - Thưa ông, vâng.
      - Lương bao nhiêu?
      - Đại tá Spence Munro trả tôi bốn bảng tháng.
      - Ồ! Cái tên lợi dụng! Cái tên bóc lột! - Ông ta xoa xoa tay, rồi vung vẩy tay, giận sôi sùng sục - Tại sao có những kẻ lại có thể trả số lương tệ mạt như vậy cho người xuất sắc và hoàn bị như ?
      - Về hoàn bị, có lẽ được như ông mong mỏi. chút tiếng Pháp, chút tiếng Đức, nhạc và trẻ...
      - Suýt suýt! Chuyện đó chỉ là phụ. Điểm chính yếu là thế này: có cái vẻ của tiểu thư đài các. Nếu được thế, xứng đáng làm người giáo dục cho đứa trẻ có thể đóng vai trò đáng kể trong lịch sử nước này. Nếu ngược lại, tại sao lại có những người nhẫn tâm trả cho cái đồng lương chết đói đó? Thưa , tôi trả cho lương khởi điểm ở nhà tôi là 100 bảng năm.
      xong, con người hào phóng ấy mở ví và rút ra tờ giấy bạc :
      - Tôi cũng có thói quen ứng trước nửa tiền lương để các tiểu thư có thể trang trải phí tổn di chuyển và mua sắm áo quần - Ông ta vừa vừa mỉm cười rất khả ái, đến nỗi đôi mắt ông ta thu lại thành hai điểm sáng giữa khối mỡ trắng bệch.
      Tôi hầu như chưa hề gặp người nhiệt thành và lịch thiệp hơn ông ta. Tôi thiếu nợ: số tiền ứng trước đúng lúc! Nhưng dù sao giao dịch như vậy cũng có vẻ bất thường, nên tôi muốn biết thêm cho , trước khi nhận lời.
      - Tôi có thể biết ông ở đâu ?
      - Tại hạt Hampshire. mảnh đất đẹp mê hồn. “Những cây dẻ đỏ” [1] cách Winchester 5 dặm. Thưa , đó là xứ sở xinh đẹp, và nhà tôi là ngôi nhà đáng nhất trong số những ngôi nhà xưa trong quận.
      - Công việc của tôi như thế nào?
      - Tôi chỉ có thằng bé vừa lên 6. À, nếu thấy được cái cách nó dùng đôi dép hạ những con gián? Trước khi nó nhíu mày, có ba con bị hạ.
      Ông ta dựa ngửa vào ghế và lại cười, nụ cười làm cho đôi mắt như mất hút trong khối thịt phì nộn. Tôi hơi ngạc nhiên về trò chơi mà cậu bé ưa thích, nhưng tiếng cười của ông bố khiến tôi nghĩ rằng có lẽ ông ta chỉ đùa thôi.
      - Tôi chỉ phải chăm nom cho mình cậu bé thôi chứ? - Tôi hỏi lại.
      - Ồ ! phải chỉ có thế, thưa thân mến! còn phải tuân lệnh vợ tôi, tất nhiên đó luôn luôn là những mệnh lệnh mà thiếu nữ có phẩm hạnh có thể tuân theo, và tôi chắc là người thông minh như đoán được. Đâu có gì khó, phải ?
      - Tôi rất sung sướng được phục vụ ông bà.
      - Tuyệt. Nhưng, nhân tiện, xin về trang phục. Vợ chồng tôi là những người kỳ cục, nhưng tốt bụng. Nếu chúng tôi cầu mặc cái áo nào đó vào ngày nào đó phản đối chứ.
      - Thưa ông, . - Tôi trả lời, hơi ngơ ngác.
      - Hoặc cầu ngồi chỗ này thay vì chỗ kia, hoặc ngồi chỗ kia hay vì chỗ này, coi là bị xúc phạm chớ?
      - Ồ đâu?
      - Và cầu cắt tóc ngắn?
      - Thưa ông, tôi có mái tóc màu hạt dẻ. Mọi người đều khen là rất đẹp. Tôi sợ rằng điều này thể được, thưa ông.
      - Còn tôi, tôi sợ rằng đây là điều chính yếu. Đó là sở thích nho của vợ tôi. Vậy, cắt tóc chứ?
      - Thưa ông, tôi cắt tóc!
      - A, tốt! Thôi chúng ta bàn nữa... đáng tiếc. Thưa Stoper, trong trường hợp này, tôi tiếp tục tìm kiếm ứng cử viên khác.
      Trong suốt thời gian chúng tôi thảo luận, quản lý chúi mũi vào đống hồ sơ và hề mở miệng. Nhưng tới lúc đó, ta nhìn tôi với vẻ thù ghét, khiến tôi hiểu ngay rằng việc tôi từ chối làm cho ta mất số tiền hoa hồng béo bở. ta hỏi tôi :
      - có muốn chúng tôi giữ tên trong sổ đăng ký ?
      - Vâng, thưa Stoper.
      - từ chối những đề nghị tuyệt vời! chớ mong chúng tôi mất giờ tìm cho việc khác. Chào , Hunter! - Stoper ấn chuông và người ta đưa tôi ra.
      Tôi trở về. Khi tôi kiểm lại số thực phẩm trong nhà, khi tôi thấy hai hay ba tờ hóa đơn bàn, tôi bắt đầu tự hỏi phải chăng tôi làm điều ngu xuẩn. Ít có dạy trẻ nào được trả 100 bảng năm... vả chăng, bộ tóc dài của tôi có giúp ích gì cho tôi đâu. Nhiều phụ nữ cắt tóc ngắn, thế mà họ chẳng xấu chút nào.
      Ngày hôm sau, tôi tự coi mình là con ngốc.
      Hôm sau nữa, tôi chắc chắn là tôi làm điều dại dột. Vào lúc tôi dẹp bỏ lòng tự ái, định trở lại cơ sở tìm việc hỏi xem chỗ đó còn trống , tôi nhận được bức thư. Tôi xin đọc ông nghe :
      “Những cây dẻ đỏ, Winchester,
      Thưa Hunter thân mến.
      Stoper có nhã ý cho tôi địa chỉ của , nên tôi viết thu này cho , hỏi xem có xét lại quyết định trước đây . Nhà tôi rất muốn đến đây, vì qua mô tả của tôi, bà ấy rất thích . Chúng tôi sẵn sàng trả cho 30 bảng mỗi quý. Vậy là 120 bảng năm, ấy là để đền bù những bất tiện nho do tính kỳ quặc của chúng tôi gây ra cho . Dù sao, đó cũng phải là những đòi hỏi quá đáng! Nhà tôi rất thích màu xanh và bà ấy muốn mặc áo màu này mỗi sáng. Tuy nhiên, cần bỏ tiền mua sắm, vì chúng tôi có sẵn cái như thế trước đây của con tôi. Alice nay ở Philadelphia.
      Mặt khác, về chỗ ngồi hay nơi đứng, chúng tôi chỉ cho , gặp bất tiện gì đầu. Về bộ tóc, tôi rất tiếc nhưng tôi cương quyết giữ nguyên quyết định. Tôi hy vọng rằng số thù lao tăng lên đền bù được mất mát đó! Về phần đứa bé, công việc của rất nhàng. cố gắng đến với chúng tôi nhé, tôi đem xe đón ở Winchester. Xin cho tôi biết giờ xe lửa khởi hành.
      Chúc mạnh khỏe.
      Jephro Rucastle”
      Đó là nội dung bức thư. Và tôi quyết định nhận lời. Tuy vậy, trước khi lao vào khoảng , tôi muốn ông cho lời khuyên.
      - Nhưng, thưa , nếu quyết định rồi đâu còn vấn đề gì nữa!
      - Có phải là ông khuyên tôi nên từ chối?
      - Đó phải là chỗ tôi mơ ước cho em của tôi, nếu tôi có đứa em .
      - Điều đó có nghĩa gì, thưa ông Holmes?
      - Chẳng có dữ kiện nào cả, nên tôi thể gì hơn. Nhưng có lẽ cũng có ý kiến riêng chứ?
      - Tôi thấy ông Rucastle có vẻ là người tốt và lịch thiệp, nhưng có lẽ vợ chồng họ có những sở thích ngông cuồng nên ông ta nhượng bộ cho gia đình được êm ấm và để tránh những bất trắc có thể buộc phải đưa bà Rucastle vào viện an dưỡng. Giả thiết của tôi có vô lý ?
      - Chẳng những vô lý; mà còn là giả thiết có nhiều khả năng nhất. xem xét về mọi mặt trẻ hẳn lấy gì làm dễ chịu trong gia đình này.
      - Nhưng còn tiền lương, ông Holmes ơi!
      - Vâng, đúng vậy. Tiền thù lao cao, rất cao! Chính điều đó làm cho tôi khó chịu! Tại sao họ lại trả cho 120 bảng. Trong khi họ có thể mướn bất kỳ ai với giá 40 bảng?
      - Bởi vậy tôi rất có lý, khi đến đây hỏi ý kiến của ông. Tôi yên tâm biết bao khi ông biết ủng hộ tôi.
      - Tôi ủng hộ ! Tôi hết sức chú ý tới câu chuyện này. Hãy lòng cho tôi biết có cảm thấy bất an, hay nguy hiểm gì ?
      - Nguy hiểm? Ông dự đoán có nguy hiểm?
      Holmes lắc đầu, nghiêm nghị :
      - Nguy hiểm còn nữa, nếu ta nhận diện được nó. vắn tắt, bất kỳ lúc nào, dù ngày hay đêm, hễ gửi điện tín là tôi tức tốc tới đó ngay.
      - Như vậy, tôi an tâm.
      đứng dậy, mặt rạng rỡ :
      - Tôi ra với tinh thần thư thái. Tôi viết thư ngay cho ông Rucastle; chiều nay tôi cắt tóc; ngày mai tôi có mặt ở Winchester.
      lời cám ơn, chúc sức khoẻ, rồi ra về. Lắng nghe tiếng chân nhanh nhẹn, vững chắc của xuống cầu thang, tôi :
      - Ít ra ta cũng có vẻ biết cách xoay xở.
      - Chỉ trong thời gian ngắn thôi, ta cầu cứu với chúng ta.
      Mười lăm ngày trôi qua. Trong thời gian này, tâm trí tôi cứ hướng về “Những cây dẻ đỏ”. Tôi tự nhủ dấn thân vào cuộc phiêu lưu kỳ lạ biết bao. Số tiền lương cao bất thường, những điều kiện kỳ quặc, công việc nhàng (theo lời người cha hứa), tất cả những cái đò cho thấy điều gì đó bình thường. Điều gì đó là do tính tình kỳ quặc hay có mưu? Ông kia là kẻ thương người hay là tên vô lại? Về phần Holmes, tôi nhận thấy đôi khi trầm ngâm hàng mấy giờ liền. Và mỗi khi tôi nhắc tới , khoát tay ngắt lời: “Tôi chờ tin tức. Những dữ kiện! thể làm bánh nếu có bột?”. rít lên nho rằng nếu là em chịu để nhận chỗ làrn như vậy.
      Chúng tôi nhận được điện tín vào buổi tối, bấy giờ khuya. Holmes mở phong bì, liếc qua bức điện tín rồi ném cho tôi :
      - hãy kiểm tra lại giờ tàu chạy.
      Bức điện tín rất ngắn :
      “Vui lòng có mặt ở khách sạn “Thiên nga đen” ở Winehester lúc 12 giờ trưa. Tôi kiệt sức. Hunter”.
      Khi tôi đọc xong, Holmes hỏi :
      - với tôi chứ?
      - Tôi mong mỏi gì hơn.
      - Vậy cho tôi biết giờ tàu khởi hành.
      - Có chuyến lúc 9 giờ rưỡi tới Winchester lúc 11 giờ rưỡi.
      - Tốt lắm.
      Vào lúc 11 giờ ngày hôm sau, chúng tôi gần tới thủ đô của nước . Holmes nấp sau đống nhật báo suốt cuộc hành trình, nhưng sau khi qua khỏi địa phận Hampshire, chui ra ngắm cảnh. Bầu trời xanh nhạt, những đám mây trong, trôi êm ả từ tây sang đông, mặt trời chói lọi, có thể ngửi thấy mùi nhựa sống trong khí. Vạn vật mời gọi con người hoạt động. những cánh đồng trải dài đến các ngọn đồi quanh Aldershot, những mái ngói đỏ tươi hoặc trắng xám của các trang trại in hình lên màu xanh lá mới.
      - Tươi mát và xinh đẹp tuyệt vời, có phải ? - Tôi bất giác thốt lên, với phấn khởi của người thường giam mình trong thành phố. Holmes khẽ gật đầu.
      - có biết , Watson. Đầu óc tôi bị ám ảnh đến nỗi cứ nhìn mọi vật dưới khía cạnh nghề nghiệp. Tôi cũng nhìn thấy những ngôi nhà đó như , nhưng chỉ có ý nghĩ độc nhất ở trong đầu tôi. Chúng ở lẻ loi quá, hẻo lánh quá, nên tội ác xảy ra ở đây dễ dàng thoát khỏi trừng phạt của pháp luật.
      - Trời đất ơi! - Tôi lớn, giận hờn - Tại sao lại ghép chung tội ác với những tổ ấm thân thiết kia?
      - Những ngôi nhà như vậy luôn luôn làm tôi kinh sợ. Dựa theo kinh nghiệm, tôi có cảm giác những con hẻm tồi tàn nhất ở Luân Đôn còn ít chứa chấp tội lỗi hơn cánh đồng xinh tươi này!
      - làm tôi kinh hãi đấy, Holmes.
      - Lý do hiển nhiên. ở thành thị, áp lực của dư luận có thể làm được điều mà pháp luật phải bó tay. có nơi nào ở Luân Đôn mà tiếng kêu than của đứa trẻ bị hành hạ, tiếng đấm đá của chàng say sưa lại làm nổi dậy lòng bất bình của hàng xóm. Và bộ máy pháp luật ở gần người dân đến nỗi lời tố giác yếu ớt cũng buộc nó phải vận động: từ chỗ phạm tội tới vành móng ngựa chỉ có bước ngắn; còn những ngôi nhà lẻ loi này, hãy nhìn kỹ ? Mỗi nhà rào kín trong khu đất của mình, trong đó phần đông là những người nghèo khó, thông hiểu pháp luật. Những hành vi thô bạo có thể diễn ra tự do mà ai hay biết. Nếu cầu cứu chúng ta sống ở Winchester tôi lo ngại gì hết. Năm dặm ngăn cách ta với thành phố làm tôi yên. Chỉ còn may điều là bản thân Hunter chưa bị đe doạ...
      - Chắc chắn Hunter bị đe doạ! Nếu tới gặp chúng ta ở Winehester được, có nghĩa là còn được tự do lại.
      - Đúng vậy.
      - Vậy có vấn đề gì? có thể giải thích cho tôi ?
      - Tôi có cả thảy bảy giải pháp riêng biệt, mỗi giải đáp phù hợp với những kiện như chúng ta biết, chỉ còn phải tìm xem giải đáp nào là đúng. A! Đây là tháp chuông nhà thờ lớn, chúng ta sắp gặp em rồi.
      Khách sạn “Thiên nga đen” là quán trọ nổi tiếng, gần nhà ga. Chúng tôi gặp ngay giáo, và bữa điểm tâm sẵn sàng. reo lên :
      - Tôi sung sướng biết bao, khi thấy các ông tới. Các ông tốt! tình, tôi biết phải làm sao nữa, nên mới cầu cứu.
      - ngay chuyện gì xảy ra!
      - Vâng. Tôi phải gấp vì tôi phải trở về trước ba giờ
      - hãy kể theo thứ tự - Holmes , vừa ngồi duỗi đôi chân quá khổ về phía lò sưởi, chuẩn bị tư thế thoải mái để nghe chuyện.
      - Trước hết, tôi phải là tôi hề bị hai ông bà ấy ngược đãi. Nhưng tôi hiểu nổi họ, và tôi lo ngại.
      - hiểu cái gì?
      - Nguyên nhân hành động của họ...
      “Khi tôi tới đây ông Rucastle có mặt với chiếc xe, và đưa tôi về. “Những cây dẻ đỏ” quả là địa điểm tuyệt vời, nhưng ngôi nhà đẹp, nó là khối vuông đồ sộ loang lổ. Chung quanh là ruộng, những rừng cây mọc ở cả ba phía. Phía còn lại là cánh đồng dốc thoai thoải chạy xuống quan lộ Southampton, con đường này vòng lại cách cổng trước độ 100 yard. Miếng đất đó thuộc sở hữu của ông Rucastle, còn rừng cây là của huân tước Southerton. Mấy đám cây dẻ đỏ mọc trước cổng, nên trang trại được gọi là “Những cây dẻ đỏ”.
      Ông chủ giới thiệu tôi với bà chủ và cậu con vào buổi chiều. Và tôi lầm, thưa ông Holmes: bà Rucastle phải là người điên. Bà ít , mặt trắng bệch, trẻ hơn ông chồng nhiều. Nghe họ chuyện, tôi biết họ lấy nhau bảy năm, rằng lúc đó ông ta góa vợ và đứa con duy nhất của người vợ trước là sống ở Philadelphia. Ông Rucastle cho tôi biết sở dĩ ấy bỏ hòa thuận với kế mẫu. Vì ấy chỉ vào khoảng 20 tuổi nên tôi hiểu là ta cảm thấy thoải mái với người dì ghẻ của mình. Bà Rucastle có cảm tình mà cũng ác cảm với tôi. ràng bà ta rất chồng và đứa bé. Ông chủ rất lịch với vợ, dường như họ rất hòa hợp và hạnh phúc. Tuy thế, bà ấy giấu kín nỗi u sầu bí mật. Bà thường ngồi trầm tư, ánh mắt buồn rầu. Nhiều lần tôi thấy bà khóc mình. Tôi tưởng bà khổ tâm vì tính nết của đứa con hư đốn. giờ của nó dành cho những ham mê man dại xen với những cơn hờn dỗi. Thú tiêu khiển ưa chuộng nhất của nó là hành hạ những con vật yếu đuối: nó bắt chuột nhắt, những con chim và côn trùng. Nhưng tôi muốn dài dòng về chú bé này vì thực nó ít liên quan đến câu chuyện của tôi”.
      - Tôi muốn biết hết mọi chi tiết, cả những chi tiết mà thấy là vô vị.
      - “Điều bực bội duy nhất ở trong nhà này, là thái độ của hai gia nhân: họ là cặp vợ chồng. chồng Toller là người thô lỗ, có mái tóc hoa râm, lúc nào cũng sặc sụa mùi rượu. Bà vợ là người cao lớn, mạnh mẽ và là người đàn bà khó ưa.
      Trong hai ngày đầu, cuộc sống dễ chịu. Sáng sớm ngày thứ ba, bà chủ xuống nhà ngay sau khi ăn điểm tâm. Bà thầm vài tiếng bên tai ông chồng.
      - Ừ, ừ! - Ông chồng vừa trả lời vợ vừa quay sang tôi - Thưa Hunter, chúng tôi rất biết ơn cắt tóc ngắn. Bây giờ chúng ta thử xem cái áo màu xanh kim quýt có vừa với . Cái áo giường của .
      Cái áo có người mặc qua. Tuy vậy, nó rất vừa vặn với khổ người tôi. Hai ông bà Rucastle đều rất hài lòng. Họ chờ tôi trong phòng khách có ba cửa sổ lớn. chiếc ghế được đặt sẵn gần bên cửa sổ giữa, lưng ghế quay ra phía ngoài ánh sáng. Họ cầu tôi ngồi lên đó. Bấy giờ ông Rucastle vừa ngang dọc phòng khách vừa kể lể những chuyện khôi hài mà tôi chưa bao giờ được nghe. Tôi cười nôn ruột. Bà chủ chỉ mỉm cười vài lần. Bà ngồi khoanh tay trước ngực, mắt buồn bã, lo âu. Khoảng giờ sau, ông thấy tới giờ làm việc, rằng tôi có thể thay áo và dạy học.
      Hai ngày sau, cảnh đó lại diễn ra tương tự. lần nữa, tôi lại thay áo, lần nữa người ta lại cầu tôi ngồi gần cửa sổ. Và lần nữa tôi lại cười chảy nước mắt vì những câu chuyện của ông chủ. Rồi ông đưa cho tôi quyển tiểu thuyết, khẽ xoay chiếc ghế tôi ngồi cho tôi khỏi chói mắt và cầu tôi đọc to lên. Tôi bắt đầu đọc chừng 14 phút, ông bảo tôi dừng lại, và ra lệnh cho tôi thay áo.
      Tôi để ý là họ hết sức quan tâm về việc phải ngồi quay lưng về phía cửa sổ. Tôi bỗng nảy ra ý nghĩ. Sẵn cái gương cầm tay của tôi bị vỡ, tôi lấy mảnh giấu trong khăn tay. Ngay giữa tràng cười, tôi đưa khăn lên ngang mắt và khéo léo nhìn xem có cái gì ở phía sau lưng mình. Tôi thất vọng: chẳng có gì cả.
      Lần thứ hai, tôi thấy người đàn ông đường nhìn trộm tôi.
      - người bạn của , phải ? - Ông chủ hỏi.
      - đâu! Tôi quen ai ở đây.
      - Chúa ơi! Trơ tráo ! Tôi xin quay lại và ra hiệu cho ta !
      - Làm như nhìn thấy ta có hay hơn ? - Tôi đưa ra ý kiến.
      - , nên! ta la cà mãi ở đây. Tôi xin , hãy quay lại và ra hiệu cho ta ! Làm như thế này này!
      Tôi làm theo lời ông ta trong khi bà chủ kéo rèm.
      Chuyện đó cách đây tuần. Từ ngày đó chưa bao giờ tôi lại phải ngồi bên cửa sổ, chưa bao giờ tôi phải mặc chiếc áo xanh và chưa bao giờ tôi thấy lại người đàn ông”.
      - Cứ tiếp tục giáo. - Holmes - Câu chuyện hứa hẹn nhiều điều hấp dẫn.
      “Ngay hôm tôi tới, ông Rucastle có dẫn tôi đến gian nhà phụ, bên cạnh nhà bếp. Khi tới gần, tôi nghe có tiếng xích sắt khua và tiếng con vật to trở mình.
      - hãy nhìn vào xem! Nó có đẹp ? - Ông Rucastle chỉ vào khe hở giữa hai tấm ván. Tôi nhìn vào, thấy cặp mắt sáng và hình thù mơ hồ trong bóng tối.
      - Đừng sợ! - Ông chủ vừa vừa cười khi tôi lùi lại bước - Đó là Carlo, con chó chăn bò. Nó chỉ tuân lệnh lão Toller. Chúng tôi chỉ cho nó ăn mỗi ngày bữa, nên nó rất hung dữ. Ban đêm, Toller mới thả nó ra. Vô phúc cho tên lang thang nào bén mảng vào nhà tôi. Ban đêm, chớ có ra khỏi nhà, có thể nguy hiểm đấy.
      Hai đêm sau, vào lúc 2 giờ sáng, tôi tình cờ nhìn qua cửa sổ, trăng sáng vằng vặc, lối trước nhà lung linh ánh bạc. Vẻ đẹp bình yên của cảnh vật xâm chiếm tâm hồn tôi, nhưng tôi vẫn nhận biết có cái gì đó cựa quậy trong đám cây dẻ. Khi cái hình thù đó ra khỏi bóng cây, tôi thấy đó là con chó khổng lồ, to bằng con bê, răng nanh dài, mõm đen, gầy trơ xương. Nó bằng ngang lối và mất hút vào bóng tối. Tôi lạnh toát cả người.
      Bây giờ tôi xin kể ông nghe chuyện kỳ dị. Như ông biết, tôi cắt tóc ở London và mang những lọn tóc đó theo, kết lại thành cuộn. buổi tối, lúc thằng bé ngủ, tôi xem xét đồ đạc trong phòng và sắp xếp lại quần áo. Có cái tủ cũ, hai ngăn trống và khoá, ngăn dưới cùng khóa kín. Tôi xếp quần áo vài hai ngăn trống mà vẫn còn thừa nên tôi hơi bực bội, vì sử dụng ngăn thứ ba được. Tôi tự nhủ có lẽ người ta khóa tủ do lơ đãng, nên tôi lấy chùm chìa riêng mở thử.
      Cái chìa đầu tiên mở được ngay: trong ngăn kéo đó chỉ chứa vật duy nhất: bộ tóc. Tôi cầm lên, quan sát. Cũng màu hơi đặc biệt, cũng mai mại. Nhưng đột nhiên tôi biết ngay đó phải là tóc của tôi, vì làm sao nó lại ở đây được? Tay run run, tôi mở rương và thấy bộ tóc của mình vẫn còn nguyên ở đáy rương. Tôi đặt hai bộ tóc bên nhau và thấy chúng giống hệt. Tôi suy nghĩ mãi mà vẫn hiểu gì cả. Tôi đặt “bộ tóc lạ” vào chỗ cũ và hé môi với ai về chuyện này. , tôi có lỗi khi mở cái ngăn kéo có khoá.
      Thưa ông Holmes, ông có thể nhận thấy rằng tôi có óc quan sát tự nhiên. Vì vậy nên chẳng bao lâu tôi thuộc lòng sơ đồ ngôi nhà. Có căn phòng dường như có người ở, ở đó có cánh cửa đối diện với cửa phòng của vợ chồng Toller, nhưng luôn luôn khoá. bữa, khi lên thang gác, tôi chạm mặt ông Rucastle từ phòng đó ra, tay nắm chìa khóa và nét mặt hầm hầm; ông khóa cửa, và qua mặt tôi, lời, dường như nhìn thấy tôi vậy.
      Việc đó làm tôi đâm ra tò mò, vì vậy khi dẫn thằng bé chơi, tôi về phía có thể nhìn thấy các cửa sổ của dãy phòng đó. Có bốn cửa sổ: ba cái đầy bụi bặm, còn cái thứ tư có cửa chớp kín. ràng là góc nhà này bị bỏ hoang. Khi tôi lang thang ở đó ông Rucastle về phía tôi: vẻ tươi cười vui vẻ trở lại.
      - Xin bỏ lỗi cho tôi khi ngang qua lúc nãy mà chào . Lúc đó tôi bận quá.
      - Thưa ông, có gì ạ? Nhân đây tôi có nhận xét ông có nhiều phòng bỏ trống quá, phòng trong số đó có cả cửa chớp che kín nữa.
      - Nhiếp ảnh là trong số những say mê của tôi. Phòng tối đặt ở đó. Nhưng, thưa thân mến, là inột người có mắt quan sát. Ai có thể tin được? Ai có thể tin được chứ?
      Ông ta bằng giọng đùa cợt, nhưng đôi mắt ông ta nhìn tôi chằm chằm có vẻ đùa cợt tí nào: ông ta nghi ngờ
      Từ lúc tôi hiểu rằng cái gì đó ở trong các gian phòng kia tôi chỉ còn mơ tới chúng. Tôi có linh cảm rằng nếu tôi đột nhập vào nơi đó, tôi làm được điều rất tốt, rất thiện.
      Cơ hội đến vào ngày hôm qua. Tôi phải cho ông biết là chỉ mình ông Rucastle có việc gì phải làm trong mấy gian phòng vắng đó, mà cả vợ chồng ông Toller cũng có đến đó. Tôi thấy Toller mang vào đó túi vải đen lớn. Gần đây, ông ta uống rượu nhiều và chiều qua ông ta say mèm. Khi lên thang gác, tôi thấy chìa khóa cắm ở cánh cửa đó. Chắc chắn ông ta bỏ quên Tôi có cơ hội tuyệt vời: ông và bà Rucastle ở dưới nhà với cậu con. Tôi nhàng vặn khoá, mở cánh cửa và lướt thẳng tới đầu kia.
      Trước mặt tôi là hành lang trần trụi, sàn lót thảm mà tường cũng dán giấy. Cuối hành lang là góc ngoặt. Sau góc ngoặt có ba cánh cửa liên tiếp. Cửa thứ nhất và cửa thứ ba mở ngỏ, phòng trống, dơ bẩn và u ám. Phòng giữa có khoá: cái nhíp xe chặn ngang cửa, đầu móc vào cái vòng gắn trong tường, đầu kia được buộc dây. Bản thân cánh cửa có khóa, nhưng có chìa khóa trong ổ khoá. Cánh cửa được chặn kỹ đó ứng đúng với cửa sổ có cửa chớp bị bịt kín phía ngoài. Qua khe hở dưới cửa, tôi thấy là phòng có ánh sáng. Hiển nhiên là có khung cửa kính ở cao để cho ánh sáng lọt vào phòng. Trong lúc tôi loay hoay trước cánh cửa hắc ám đó, tự hỏi bên trong căn phòng chứa đựng bí mật gì, thình lình tôi nghe có tiếng bước chân trong phòng và qua khe hở dưới cửa, tôi có thể phân biệt được cái bóng tới lui. Lúc đó tôi sợ quá, tôi quay lưng bỏ chạy. Tôi chạy như có bàn tay khủng khiếp cố tóm lấy tôi. Tôi vượt qua hết hành lang, đâm bổ ra cửa và... ngã vào tay ông Rucastle.
      - Nào, nào! Thế ra là ? - Ông vừa vừa cười - Khi tôi thấy cửa mở, tôi ngờ là .
      - Tôi sợ quá, tôi sợ quá! - Tôi hổn hển .
      - Ồ, thân mến! Tiểu thư thân mến! Nào, việc gì mà sợ hãi quá vậy?- Giọng ông ta quá mơn trớn, quá ngọt ngào khiến tôi cảnh giác.
      - Tôi dại dột vào cái chái vắng vẻ này. Trong đó tối và yên lặng quá, nên tôi đâm sợ. ôi, trong đó yên lặng đến rợn người?
      - Chỉ có vậy thôi ư? - Ông ta dò xét.
      - Còn thế nào nữa? Ông cho là thế nào?
      - Tại sao nghĩ rằng cửa này được khóa kín?
      - Tôi biết gì chuyện cửa nẻo cả.
      - Tôi khóa cửa chỉ là để những kẻ vô can khỏi chúi mũi vào đấy. hiểu ? - Ông ta vẫn tiếp tục mỉm cười cách khả ái.
      - Nếu tôi biết thế, ...
      - Tốt lắm. Bây giờ biết rồi. Nếu còn đặt chân tới sau cánh cửa này nữa, ... - Lúc đó nụ cười của ông ta biến thành cái nhếch mép giận dữ, và ông ta nhìn tôi từ đầu đến chân với bộ mặt của con quỷ - ... tôi cho con chó ăn thịt đấy!
      Tôi kinh hoàng đến nỗi nhớ tôi làm gì nữa. Tôi nghĩ là tôi chạy nhào về phòng. Tôi còn nhớ gì hết. Nằm giường mà tôi run rẩy cả người. Tất cả mọi người đều làm tôi sợ hãi: ngôi nhà, ông chồng, bà vợ, hai người gia nhân và cả cậu con nữa. Hiển nhiên là tôi có thể bỏ trốn, nhưng tò mò cũng mạnh mẽ như sợ hãi vậy. Vì thế sau khi gửi cho ông điện tín, lòng tôi rất nhõm. Khi về tới nhà, mối lo khủng khiếp nảy sinh, nếu họ thả con chó rồi sao? Nhưng tôi nhớ là Toller say bí tỉ, và ta là người duy nhất trong nhà có thể sai khiến con vật và có phận thả nó ra. Thế là tôi chuồn êm vào nhà và đêm qua hầu như tôi ngủ vì quá vui mừng với ý nghĩ là ông sắp tới đây. Sáng nay họ để tôi Winchester mà làm khó dễ gì; tôi chỉ phải trở về trước ba giờ, vì ông bà Rucastle vắng nhà cả buổi tôi và tôi phải trông nom cậu con”.
      Holmes và tôi bị câu chuyện lạ lùng thu hết tâm trí. Khi Hunter kết thúc câu chuyện, bạn tôi đứng dậy, thọc tay vào túi áo, tới lui khắp phòng, nét mặt rất trầm trọng.
      - Gã Toller vẫn còn say chứ?
      - Vâng. Tôi nghe vợ ông ta phàn nàn với bà Rucastle là chẳng hỏi han gì ông ta được cả.
      - Tối nay ông bà ra khỏi nhà?
      - Vâng.
      - Nhà có hầm và có khóa?
      - Vâng, có hầm rượu.
      - hành động như can đảm và nhạy cảm. có nghĩ là có thể làm thêm việc nữa ?
      - Tôi cố. Tôi phải làm gì?
      - Tôi và bạn tôi đây tới điền trang “Những cây dẻ đỏ” lúc bảy giờ tối. Lúc đó vợ chồng ông Rucastle ra khỏi nhà và lão Toller vô dụng, tôi hy vọng thế. Chỉ còn bà Toller có khả năng báo động. Nếu dụ được bà ta xuống hầm rượu và nhốt bà ta dưới đó, công việc của chúng ta dễ dàng rất nhiều!
      - Tôi làm được.
      - Hoan hô! Trong trường hợp này, chúng ta giải quyết vấn đề tận gốc. Chắc chắn chí có lời giải thích cho trường hợp của : được đưa tới “Những cây dẻ đỏ” để thay thế cho người. giống người đó và người đó bị giam cầm. Người bị giam trong phòng kia chắc chắn là tiểu thư Alice. Tóc ấy cắt ngắn, và bộ tóc trong ngăn kéo thứ ba là tóc của Alice. Người đàn ông đường có thể là người bạn, có thể là hôn phu của Alice. mặc chiếc áo xanh của Alice, tóc cũng giống như Aliee và có cử chỉ xua đuổi ta, nên chàng kia tin rằng Alice còn ta nữa. Đêm đêm, con chó chăn bò được thả ra là để ngăn mọi cuộc tiếp xúc với . Mọi chi tiết hoàn toàn sáng tỏ. Điểm quan trọng trong câu chuyện này là thái độ của cậu con trai.
      - Chuyện đó có gì đáng chú ý? - Tôi hỏi.
      - Watson, nếu người ta có thể nghiên cứu cha mẹ để đoán ra các khuynh hướng của đứa bé, người ta cũng có thể nghiên cứu đứa bé mà “hiểu được” cha mẹ nó. Những khuynh hướng độc ác của thằng bé này, có thể được kế thừa từ người cha “thơn thớt cười” của nó, hoặc từ mẹ nó. Chính vì thế mà ta có thể tiên liệu rằng đáng thương bị giam cầm có thể phải chịu nhiều khổ sở.
      - Tôi chắn chắn rằng ông đúng, ông Holmes - giáo kêu lên - Bây giờ tôi mới nhớ lại nhiều kiện chứng tỏ ông lần tới được điểm mấu chốt. Mau lên, đừng mất giờ nữa. Chúng ta phải cứu đó!
      * * * * *
      Bảy giờ chúng tôi có mặt ở đám cây dẻ đỏ. giáo tươi cười tiếp đón chúng tôi.
      - thu xếp được chưa? - Holmes hỏi. tiếng động trầm trầm, mơ hồ phát ra từ dưới lòng đất.
      - Các ông vừa nghe bà Toller cử động dưới hầm rượu đó. Còn chồng bà ta ngáy ầm ĩ trong nhà bếp. Chìa khóa đây.
      - Tuyệt vời! - Holmes phấn khởi - dẫn đường.
      Chúng tôi lên cầu thang, mở cánh cửa cấm, theo hành lang và tới trước căn phòng mà giáo mô tả. Holmes cắt dây và gạt thanh sắt chặn sang bên. Lấy chìa khóa thử mở cửa, nhưng mở được.
      Bên trong tiếng động. im lặng đó làm mặt Holmes tối sầm lại. :
      - Chúng ta tới quá trễ! đừng vào, Watson, kê vai phụ đẩy cánh cửa với tôi.
      Cánh cửa bị mọt ăn nên chúng tôi phá ra dễ dàng. Chúng tôi cùng lao vào phòng. Phòng trống trơn. Khung cửa kính cao mở rộng: người nữ tù rồi.
      - Đáng giận ! Tên tinh ma ấy đoán được ý định của Hunter nên dời tù nhân chỗ khác - Holmes .
      - Nhưng bằng cách nào?
      - Qua khung cửa kính. Ta qua đó xem.
      Holmes đu mình lên mái nhà, nhanh như con sóc.
      - Đây rồi - la lên - Có cái thang dài đưa xuống hầm rượu. Tôi hiểu ra rồi.
      - thể thế được? - giáo - Lúc ông bà ấy ra có cái thang ở đó.
      - Vậy ông ta trở lại và ông ta dựng cái thang. Tôi rằng ông ta là người nguy hiểm mà! Watson, lên đạn khẩu súng , ông ta tới kìa.
      Holmes vừa dứt lời người đàn ông xuất ở cửa: người to mập, có vẻ rất khỏe mạnh, tay cầm cây gậy bự. Khi trông thấy ông ta, Hunter rú lên, nhưng Holmes nhảy tới, đối mặt với ông ta.
      - Này, tên cướp. Con của đâu?
      Con người to bự kia nhìn quanh mình, rồi nhìn lên khung cửa kính. ông ta thét :
      - Chính ta mới có quyền hỏi các người. Quân trộm cướp! Quân gián điệp và trộm cướp! Ta bắt được chúng bay rồi. Chúng bay ở trong tay ra! Được lắm, ta lo cho chúng bay.
      Ông ta tháo lui và chạy xuống thang.
      - Ông ta đem chó đến! - giáo rên rỉ.
      - Tôi có súng. - Tôi , để trấn an .
      - Đóng cửa lại! - Holmes la lên.
      Chúng tôi chạy xuống thang. Vừa tới cửa nghe có tiếng chó sủa, rồi có tiếng gào khủng khiếp và tiếng vật lộn ầm ầm. người đứng tuổi, gương mặt đỏ gay và tay chân run rẩy lảo đảo tiến ra từ cửa hàng.
      - Trời ơi! Ai thả con chó ra rồi? - Ông ta kêu thét lên - hai ngày nay nó chưa ăn. Mau lên, mau lên kẻo trễ mất.
      Holmes và tôi lao ra ngoài và chạy vòng ngôi nhà. Toller chạy theo sau. Cái mõm đen ngòm của con vật cắn vào cổ họng của ông Rucastle. Tôi nhảy tới bắn vỡ sọ con vật. Chúng tôi phải khó nhọc lắm mới gỡ người chủ nhà ra khỏi hàm răng của con chó và mang ông ta vào nhà, đặt lên trường kỷ. Toller giờ tỉnh rượu. Tôi bảo Toller thả vợ ta ra, và săn sóc cho ông Rucastle. Bỗng nhiên cánh cửa bật mở: người đàn bà dữ tợn vào.
      - Bà Toller! - giáo la lên.
      - Phải. Ông Rucastle thả tôi ra khi ông ấy vừa quay về nhà. là đáng tiếc, thưa Hunter, mất giờ vô ích!
      - Tôi thấy dường như bà Toller biết câu chuyện hơn bất cứ ai ở đây - Holmes .
      - Phải, tôi biết và tôi sẵn sàng ra tất cả.
      - Vậy, mời bà ngồi đây và . Còn vài điểm tôi chưa chắc lắm.
      - “Có lẽ tôi kể cho các ông nghe sớm hơn nếu tôi bị kẹt ở hầm rượu. Khi vụ này ra trước pháp luật xin các ông nhớ cho rằng tôi là người duy nhất đứng về phía các ông và tôi cũng là bạn của Alice.
      Chưa bao giờ Alice được sung sướng ở trong căn nhà này. Nhất là từ khi cha tái giá. Người ta khinh rẻ , có quyền có ý kiến. Nhưng mọi chuyện hỏng cả khi gặp gỡ ông Fowler ở nhà bạn bè. Theo chỗ tôi biết, Alice có phần tài sản thừa kế do mẹ để lại, nhưng giao quyền lợi của mình cho người cha. Người cha biết rằng ông ta gặp khó khăn gì với con . Nhưng nếu lấy chồng và nếu người chồng đòi hỏi những quyền lợi hợp pháp của mình, ông bố sạt nghiệp. Vì vậy ông ấy ép văn tự nhượng mọi quyền lợi cho cha, dù có lấy chồng hay . Khi ấy từ chối, ông quát mắng trận đến nỗi uất ức và ngã bệnh suýt chết. Rồi bình phục, từ đó như cái bóng, và người ta cắt tóc . Nhưng tất cả những chuyện đó làm thay đổi tình cảm của chàng trai”.
      - Cảm ơn bà có lòng tốt cho biết nội vụ cách rành mạch - Holmes - Tôi có thể suy ra phần sau của câu chuyện: Sau đó người cha quyết định giam vào chỗ kín đáo, phải ?
      - Thưa ông, đúng vậy.
      - Và ông ta đưa Hunter từ London về đây để tìm cách tống khứ chàng cứng cổ Fowler phải ?
      - Thưa ông, đúng vậy.
      - Nhưng cái gã si tình tài giỏi ấy bao vây nhà này, ta có gặp bà, thuyết phục bà, dùng lời lẽ cảm động hoặc đe doạ, cuối cùng làm cho bà thấy được là quyền lợi của ta cũng có nghĩa là quyền lợi của bà.
      - Ông Fowler là người rất lễ độ, rộng lượng - Bà Toller thản nhiên xác nhận.
      - Và ta sắp đặt để cho bà thực : làm sao cho ông Toller luôn luôn say mèm, làm sao cho có được cái thang vào lúc ông bà chủ vắng nhà, có phải ?
      - Chính xác như vậy.
      - Xin cảm ơn bà. Bà làm sáng tỏ mọi chuyện. Kìa bà Rucastle về, cùng với ông y sĩ. Hãy để cho họ săn sóc ông Rucastle, còn chúng ta đưa Hunter trở lại London.
      Vậy là câu chuyện bí về “Những cây dẻ đỏ” kết thúc. Ông Rucastle vẫn còn sống, nhưng ông ta chỉ còn là cái bóng vật vờ, phải nương tựa vào bà vợ. Họ vẫn giữ những gia nhân cũ tại nhà. Ông Fowler và Alice lấy nhau và sang lập nghiệp ở đảo Mauritius. Hunter điều khiển trường tư thục ở Walsall và tôi tin rằng thành công.
      [1] Nguyên văn: The Copper Beeches

    4. ^^! Nếu bạn không gửi link bài viết trên Facebook được, hãy sử dụng link trong khung này để chia sẻ bài viết :