Những Cuộc Phiêu Lưu Của Sherlock Holmes - Conan Doyle

Thảo luận trong 'Các Thể Loại Khác (Kinh Dị, Trinh Thám..)'

  • ^^! Nếu bạn không gửi link bài viết trên Facebook được, hãy sử dụng link trong khung này để chia sẻ bài viết :
    1. tukachan

      tukachan Member

      Bài viết:
      296
      Được thích:
      13
      Chương 5: Năm hột cam


      Mỗi khi đọc lại những ghi chép về Shelock Holmes trong thời kỳ 1882-1890, tôi thấy những câu chuyện lý thú, nhiều đến nỗi biết nên chọn chuyện nào. Tuy nhiên số chuyện được đăng các báo, còn những chuyện khác chưa có điều kiện ra mắt bạn đọc để giới thiệu khả năng tiềm tàng của Sherlock cho các bạn thấy ta đạt đến đỉnh cao của nhà trinh thám như thế nào? Dẫu sao tôi cũng muốn giới thiệu với bạn đọc mến của tôi những câu chuyện có tình tiết thú vị, bất ngờ. Mặc dù có những mối liên quan chưa được sáng tỏ, năm 1887 mang đến chuỗi dài những câu chuyện ly kỳ nhiều ít khác nhau. Tôi cố gắng ghi chép tất cả. Trong số đó có chuyện “Paradol Chamber” chuyện “Hội những người chuộng cái nghèo” - Hội ấy có cả câu lạc bộ sang trọng của tầng trệt cửa hàng đồ gỗ to lớn.. Bản thanh toán có liên quan đến cái chết của chiếc tàu “Sophy Anderson”. Câu chuyện về những cuộc phiêu lưu kỳ lạ của Grice Patersons hòn đảo Uffa. Và cuối cùng là những ghi chép có liên quan đến chuyện đầu độc ở Camberwell. Trong chuyện này bằng cách nghiên cứu cơ cấu của chiếc đồng hồ tìm thấy trong xác nạn nhân, chứng minh được chiếc đồng hồ vừa lên giây trước khi chủ nhân chết hai giờ đồng hồ, như vậy người quá cố mới nằm ngủ trong khoảng thời gian đó. Từ những kết luận dựa cơ sở khoa học tài tình, Sherlock Holmes tìm ra thủ phạm cách dễ dàng.
      Tất cả những chuyện ấy, có lẽ tôi viết lại trong khoảng thời gian gần nhất. Nhưng câu chuyện mà tôi ghi chép ra đây chứa nhiều bất thường mà câu chuyện nào có thể sánh được.Hồi đó, vào cuối tháng 9, những cơn bão mùa thu hoành hành hung dữ, phô trương sức mạnh ghê gớm của thiên nhiên. Suốt ngày gió gào rít ầm ĩ, mưa trút xối xả va đập như gõ trống vào các cánh cửa sổ. Càng về tối cơn bão càng dữ dội hơn, gió thổi vào các ống khói như trẻ con cả thành phố nhất loạt khóc hu hu.
      Hôm ấy, Sherlock ngồi buồn rầu cạnh lò sưởi và sắp xếp lại cho ngăn nắp trật tự tài liệu của mình. Còn tôi ngồi đối diện với , say mê đọc những câu chuyện tuyệt vời của Clark Russell về biển.
      Tôi say mê đến mức tiếng rít của cơn bão rơi vào tiềm thức của tôi như lời của câu chuyện, còn tiếng mưa rơi như tiếng rì rào của sóng biển. Vợ tôi mấy hôm nay có công việc phải về bên nhà bà nhạc. Còn tôi tạm trú tại căn hộ cũ kỹ rêu phong trong hẻm Baker.
      - Hãy nghe kìa - tôi và nhìn Sherlock. - Hình như có tiếng chuông gọi cửa. Ai lại đến trong lúc cơn mưa bão thế này được nhỉ? Hay là bạn của cậu?
      - Ngoài cậu ra, tớ chẳng có ai là bạn cả, - Holmes trả lời - Còn khách khứa tớ động viên họ đến hỗ trợ tớ.
      - Vị khách nào nhỉ?
      - Nếu như vậy công việc vô cùng nghiêm trọng và cấp bách. Cái gì có thể buộc con người kia ra ngoài đường trong cơn mưa bão hoành hành gầm rít vào giờ này? Có khi lại là người đàn bà ngồi lê mách lẻo nào đó, bạn của bà chủ nhà đến chơi cũng nên?
      Holmes nhầm. Chúng tôi nghe thấy tiếng chân ngoài phòng và tiếng gõ cửa rụt rè.
      Holmes thò cái tay dài ngoằng của mình quay bóng đèn về phía chiếc ghế bành còn trống.
      - Mời vào! - .
      - người trai trẻ tuổi độ 20 - 22, ăn mặc khá chải chuốt có phần tao nhã và hơi kiểu cách. Nước ở chiếc dù chảy xuống thành dòng, chứng tỏ thời tiết kinh khủng. Người mới vào lo lắng nhìn xung quanh và dưới ánh sáng ngọn đèn, tôi thấy khuôn mặt của ta bệch bạc, còn đôi mắt đầy nỗi lo âu tuyệt vọng.
      - Tôi thành xin lỗi hai ngài. - ta và đưa cái kính gọng vàng cầm ở tay lên mắt. - Tôi hy vọng các ngài cho tôi là kẻ quấy rầy... Sở dĩ tôi phải mang vào căn phòng ấm cúng lạnh lẽo ướt át của cơn mưa bão là...
      - Hãy đưa áo khoác và dù của ngài cho tôi, - Holmes . - Tôi treo vào chiếc móc khô ngay. Tôi nhận thấy hình như ngài vừa từ hướng tây nam tới đây.
      - Vâng, tôi từ Horsham tới.
      - Bùn đế giầy của ngài đúng là đất bùn của vùng ấy.
      - Tôi đến gặp ngài xin ngài lời khuyên bảo.
      - Điều đó ngài nhận được dễ thôi.
      - Và nhờ giúp đỡ.
      - giúp đỡ phải bao giờ cũng dễ dàng có được.
      - Tôi được nghe về ngài rất nhiều, thưa ngài Holmes. Tôi nghe ngài thiếu tá Prendergast kể là ngài cứu ông ta thoát khỏi cảnh ồn ào hỗn độn ở câu lạc bộ Tankerville.
      - À tôi nhớ rồi, ông ấy bị bọn xấu lừa đảo, buộc tội chơi bài sòng phẳng.
      - Ông ta là ngài thông thạo trong mọi lĩnh vực.
      - Ông ta khen quá lời đấy.
      - Theo lời ông ấy là ngài chưa bao giờ thất bại.
      - Tôi bị thua bốn lần. Ba lần do cánh đàn ông, lần do cánh đàn bà cho đo ván.
      - Những con số ấy thấm vào đâu so với những chiến thắng?
      - Vâng, chúng tôi thường thành công.
      - Vậy ngài cũng thành công trong chuyện của tôi.
      - Mời ngài, kéo ghế ngồi sát lò sưởi và hãy kể tỉ mỉ từng chi tiết.
      - Chuyện của tôi rất khác thường.
      - Chuyện bình thường bao giờ đến với tôi. Tôi đại diện cho cơ quan phá án cao cấp nhất.
      - Nhưng dù sao, thưa ngài, tôi vẫn ngờ là trong quá trình hoạt động của mình, ngài chưa bao giờ nghe đến những chuyện kinh khủng như chuyện xảy ra với gia đình tôi.
      - Ngài kích thích trí tò mò nghề nghiệp của tôi quá - Holmes . - Trước hết ngài hãy bình tĩnh kể hết những tình tiết chính, còn sau đó tôi hỏi thêm những chi tiết cần thiết khác mà tôi cho là bổ ích.
      - Tên tôi là John Openshaw, - ta tự giới thiệu. - Nhưng theo tôi hiểu, công việc của tôi ít liên quan đến những việc ghê rợn kia. Đó là chuyện thừa kế, vì vậy để cho ngài nắm được kiện cách ràng, tôi buộc phải quay lại từ đầu toàn bộ lịch sử gia đình tôi.
      Ông nội tôi sinh được hai người con trai: người bác của tôi tên là Elias và bố tôi - Joseph. Cha tôi tậu được xí nghiệp ở Coventry. Sau đó cha tôi mở rộng qui mô sản xuất hơn nhờ sản xuất xe đạp. Cha tôi phát minh ra loại vành xe đạp rỉ “Openshaw”. Xí nghiệp làm ăn rất phát đạt cho nên sau khi bán cơ ngơi ấy cha tôi về sống rất đầy đủ và sung túc. Bác Elias tôi trong những năm trai trẻ sang tận châu Mỹ làm ăn, và trở thành chủ đồn điền ở bang Florida, ở đây công việc lành ăn của bác tôi rất trôi chảy. Trong thời gian chiến tranh bác tôi chiến đấu trong quân đội của tướng Jackson, sau đó dưới quyền chỉ huy của tướng Hood và được phong cấp đại tá.
      Đến khi tướng Lee hạ vũ khí đầu hàng, bác tôi trở về với đồn điền của mình. Ông sống ở đó ba bốn năm. Vào năm 1869 hoặc 1870 gì đấy, bác tôi quay về châu Âu và thuê nơi ở xa lắm ở Sussex, gần Horsham. Khi ở bên Mỹ, bác tôi dành dụm được số vốn liếng khá lớn, và cầm món tiền đó bác tôi rời khỏi nước Mỹ với nguyên nhân là: kinh tởm những người da đen và đồng tình với chính phủ trong việc giải phóng người da đen khỏi ách nô lệ. Bác tôi là người kỳ quặc, ông ấy rất ác độc và nóng tính. Tức giận cái gì đó là ông văng ra những câu chửi nghe kinh tởm.
      Ông ấy sống độc thân, tránh giao tiếp với mọi người. Tôi chắc chắn rằng trong những năm tháng sống ở Horsham, bác tôi chưa lần nào ra phố. Bác tôi có mảnh vườn và hai, ba mảnh đất trống xung quanh nhà, ông chỉ bách bộ dạo chơi trong khu vực đó mà thôi. Có những tuần ông bác tôi ngồi lì trong phòng, ông uống rượu và hút thuốc rất nhiều, xa lánh mọi người, thậm chí ngay đến em ruột của mình ông ấy cũng thèm biết đến. Ông ấy tỏ ra mến tôi, mặc dù mới gặp tôi lần đầu lúc tôi mười hai tuổi - năm đó là 1878. Trong thời gian đó bác tôi sống ở nước được tám hay chín năm rồi. Bác tôi thương lượng với cha tôi để cho tôi sang sống với ông, bác rất thương tôi. Trong những lúc say rượu bác thường chơi cờ nhảy với tôi. Ông hoàn toàn tin tưởng giao phó mọi việc trong nhà cho tôi. Đến năm tôi lên 16 tuổi tôi thực là ông chủ trong nhà. Tôi giữ các loại chìa khóa muốn vào chỗ nào cũng được, muốn làm gì làm, nhưng với điều kiện: được phá rối yên tĩnh độc của người bác. Ngoài ra tôi còn bị ràng buộc bởi trường hợp ngoại lệ: ở gác lửng có căn phòng luôn luôn đóng kín. Bác tôi cho phép bất cứ người nào vào, kể cả tôi. Với tính hiếu kỳ của trẻ con, có lần tôi nhìn trộm qua lỗ khóa nhưng thấy gì cả ngoài chiếc rương và túi linh tinh gì đó.
      hôm vào tháng ba năm 1883 - có bức thư dán phong bì nước ngoài nằm bàn. Bác tôi hầu như chẳng bao giờ có thư vì mọi chuyện mua bán ông ấy đều trả bằng tiền mặt, còn bạn bè có.
      “Từ Ấn Độ gửi tới, - cầm bức thư ông . - Dấu dòng ở Pondicherry! Chuyện gì có thể xảy ra đây?”.
      Bác tôi mau chóng xé phong bì, từ trong phong bì năm hạt cam khô rơi xuống kêu lanh canh trong đĩa sứ. Tôi định reo lên, nhưng nụ cười của tôi vụt tắt ngấm khi tôi ngước nhìn bác tôi. Môi dưới của ông trễ xuống, cặp mắt mở to thao láo, cả bộ mặt trở nên xám ngắt, ông ấy nhìn bất động chiếc phong bì cầm tay run run.
      “K. K. K! ông ấy thốt lên, và sau đó thêm. - Lạy chúa tôi! Lạy chúa tôi! Đây là bản thanh toán món nợ của tôi”.
      “Cái đó là gì thưa bác? - Tôi hỏi”.
      “Cái chết” ông xong và đứng lên ra khỏi ghế và từ từ vào phòng của mình, để mình tôi ở lại sửng sốt và hoảng sợ.
      Tôi cầm lấy phong bì và nhìn vào thấy bên trong có ba chữ “K” bằng mực đỏ. Trong phong bì còn gì nữa, ngoài năm hột cam khô. Cái gì làm cho bác tôi hoảng sợ?
      Tôi đứng dậy chạy lên tầng . Bác tôi xuống tay cầm chiếc chìa khóa cũ bị rỉ nhiều, có lẽ chiếc chìa khóa để mở căn phòng gác lửng. Còn tay kia ông giữ chiếc hộp bằng đồng thau.
      “Chúng muốn làm gì mặc chúng. Dù sao chăng nữa bác cũng thể trao cho chúng đâu! - Bác tôi với nguyền rủa, căm tức. - Cháu Mary đến nhóm lò sưởi ở phòng bác và mời ngài Fordham luật sư ở Horsham tới”.
      Tôi thi hành tất cả mệnh lệnh mà bác tôi sai bảo. Khi ngài luật sư đến, người ta gọi tôi lên phòng bác tôi. Ngọn lửa trong lò sưởi cháy sáng rực, tấm sàn của nó là đống tro dày, dường như tro của mớ giấy tờ vừa bị đốt. Chiếc hộp bằng đồng thau mở ra rỗng tuếch. Nhìn vào chiếc hộp, tôi thở dài ngao ngán, lo sợ vì nhìn thấy phía trong nắp có khắc ba chữ “K” giống y như phong bì.
      “Bác muốn cháu là người làm chứng cho việc lập biên bản này, John - Bác tôi , bác để lại chỗ này cho em của bác, tức là cha cháu, tất nhiên nó được truyền lại cho cháu, nếu cháu có thể sử dụng cách yên ổn điều đó rất tốt! Còn nếu cháu có khả năng làm điều đó, hãy nghe theo lời khuyên của bác là nên trao nó lại cho kẻ thù độc ác nhất của bác! Bác rất phiền muộn khi để lại cho cháu thừa kế như vậy, nhưng bác hiểu việc xảy ra thế nào? Hãy vui lên và ký vào tờ giấy này vào cái chỗ mà ngài Fordham chỉ cho cháu”.
      Tôi ký vào tờ giấy ấy, và ngài luật sư mang nó luôn.
      Trường hợp rất kỳ lạ khiến cho tôi băn khoăn và có ấn tượng sâu sắc. Tôi nghĩ đến nó mà chưa hề tìm ra được lời giải đáp: Tôi thể nào xua tan đám mây lo sợ bao phủ, mặc dù nỗi niềm lo âu giảm sút sau vài tuần êm ả trôi qua, dấu hiệu nào làm thay đổi cuộc sống hàng ngày của chúng tôi. Thú thực rằng tôi có nhận thấy những thay đối lớn lao trong chiều sâu con người bác tôi. Ông ấy uống rượu nhiều khinh khủng và xa lánh tất cả thế giới bên ngoài. Phần lớn thời gian ông ấy khóa kín cửa ngồi trong phòng. Nhưng thỉnh thoảng trong lúc say khướt ông ra khỏi phòng với khẩu súng lục trong tay, bác ra vườn và hét toáng rằng ông sợ ai hết và cũng cho bất kỳ người hay là ma quỷ đụng đến ông và chặt ông như chặt con cừu. Tuy thế nhưng khi cơn nóng giận say sưa nguôi, ông ấy vội vã chạy về phòng đóng chặt cửa lại, khóa ổ, cài then như kẻ bị nỗi sợ hãi bao trùm từ tứ phía thể giữ thân nổi. Trong lúc nóng giận, khuôn mặt của bác tôi, kể cả những ngày giá buốt, cũng vẫn mồ hôi mồ kê nhễ nhại, y như người ta vừa mới tắm hơi về.
      Để kết thúc câu chuyện bi thảm ấy, thưa ngài Holmes, và cũng khỏi lạm dụng lòng kiên nhẫn của ngài, tôi chỉ kể vắn tắt kết cục như sau: hôm trời vừa tối; sau khi uống rượu say mềm bác tôi thực cuộc dạo chơi. Sau đó chúng tôi thấy ông về nữa. Chúng tôi hoảng hốt vội vã chạy bổ tìm, và tang thương khi nhìn thấy ông nằm sấp mặt xuống trong chiếc ao đầy nước, chiếc ao phủ đầy rong rêu nằm phía sâu trong vườn. người ông thấy dấu vết đánh đập nào hết, còn chiếc ao rất cạn chỉ sâu quá 2 Foot.
      Chính vì thế tòa phúc thẩm chỉ chú ý đến tính khi bất thường của bác tôi để kết luận rằng đây là vụ tự vẫn. Nhưng tôi biết chắc chắn ý nghĩ cái chết làm bác tôi hoảng sợ, bởi thế làm sao bác tôi tự nguyện lìa bỏ cõi đời này cách dễ dàng và nhanh chóng như thế. Dù có muốn gì nữa thực tế vẫn phũ phàng bao trùm tất cả. Cha tôi là người thừa kế gia sản khoảng mười bốn nghìn bảng nằm tại ngân hàng...
      - Xin phép, - Holmes ngắt lời ta. - Câu chuyện của ngài ly kỳ và có những bí khó hình dung ngay được. Ngài hãy cho tôi biết bác ngài nhận được lá thư ngày nào và ông chết ngày nào?
      - Bức thư đến ngày 9 tháng 3 năm 1883, và bác tôi chết sau đó đúng 7 tuần, tức là đêm mồng rạng ngày mùng hai tháng 5 năm 1883.
      - Xin cám ơn ngài, xin ngài vẫn tiếp tục.
      - Khi cha tôi bắt đầu nắm quyền kế thừa cơ ngơi của bác tôi ở Horsham, theo đề nghị của tôi, cha tôi lục kỹ lưỡng căn buồng ở gác lửng mà trước kia luôn đóng kín. Chúng tôi tìm thấy chiếc hộp bằng đồng thau, nhưng bên trong dường như bị huỷ hết. Bên trong nắp đậy có dán mảnh giấy ghi ba chữ “K” và dòng chữ phía dưới “Thư từ, ghi chép biên lai, khế ước cho vay”. Tôi cho rằng những dòng chữ lên nội dung những giấy tờ được đựng bên trong chiếc hộp và bị ngài đại tá Openshaw đốt hết. Ngoài chiếc hộp ra trong buồng có gì đáng kể, nếu tính đống giấy vứt bừa bộn và những quyển sổ ghi chép linh tinh có liên quan đến cuộc sống của bác tôi bên Mỹ. Trong mớ lộn xộn ấy có thứ đề cập đến thời gian chiến tranh và cho thấy bác tôi là quân nhân thi hành nghĩa vụ của mình rất tốt. Những giấy tờ khác về thời kỳ thành lập các bang ở miền Nam, phần lớn đều liên quan đến vấn đề chính trị. ràng bác tôi đóng vai trò lớn trong phe chống đối, đối lập hẳn với các nhà lãnh đạo từ miền Bắc được cử vào.
      Vào đầu năm 1884, cha tôi chuyển hẳn tới sống ở Horsham. Mọi việc đều rất tốt đẹp. hôm vào ngày mồng bốn tháng giêng năm 1885, khi chúng tôi ăn sáng, bỗng cha tôi kinh ngạc kêu lên. tay cha tôi cầm chiếc phong bì, còn trong lòng bàn tay kia là năm hột cam khô. Cha tôi thường giễu cợt trước cái chết hoang đường của ngài Đại tá, còn bây giờ chính cha tôi cũng bàng hoàng hoảng hốt, khi nhận đúng giấy báo của tử thần như thế.
      “Thế này là thế nào? John” - Cha tôi hỏi khẽ.
      Tim của tôi chợt lạnh buốt.
      “Đó là ba chữ “K”, - Tôi trả lời.
      Cha tôi nhìn vào phía trong chiếc phong bì.
      “Đúng ở đây cũng có ba chữ ấy. Nhưng còn cái gì đây?”
      “Hãy đặt tất cả giấy má lên chỗ chiếc đồng hồ mặt trời” - Nhìn qua vai cha tôi, tôi đọc.
      “Đồng hồ mặt trời nào? Những giấy tờ gì kia chứ?” - cha tôi thảng thốt ngạc nhiên hỏi.
      “Đồng hồ mặt trời đặt ở trong vườn, còn giấy tờ chắc bị cháy rụi rồi”.
      “Quỷ tha ma bắt hết bọn nó ! - Cha tôi . - Chúng ta sống trong đất nước văn minh, thể chấp nhận những điều nhảm nhí được. Bức thư từ đâu tới?”.
      “Từ Dundee” - tôi trả lời, sau khi lướt nhìn con dấu bưu điện.
      trò đùa mù quáng của kẻ khùng nào đó - cha tôi . - Đồng hồ mặt trời và giấy má lằng nhằng có liên quan gì đến tôi kia chức? thèm chấp cái đồng hồ quái quỉ ấy làm gì!”.
      “Con muốn báo cho cảnh sát”, - Tôi lo âu.
      “Để cho người ta lấy cha mày làm trò cười. Cha nghĩ như thế!”.
      “Vậy để con tự làm lấy”.
      đời nào - cha muốn rung chuông ầm ĩ với thiên hạ rằng tôi là thằng điên”.
      Thuyết phục cha tôi quá là uổng công, vì ông ấy rất ương ngạnh. Còn tôi bị nỗi lo sợ dày vò.
      Ba ngày sau, cha tôi thăm người bạn cũ - ngài thiếu tá Freebody, chỉ huy đồn ở Portsdown. Tôi mừng là cha tôi khỏi, vì tôi ngỡ ra khỏi căn nhà này bớt nguy hiểm. Nhưng tôi lầm. Ngày hôm sau tôi nhận được bức điện của ngài thiếu tá gửi, cầu tôi đến gấp. Cha tôi bị rơi xuống mỏ đá phấn sâu hoắm, ở địa phương này khá nhiều hố như vậy. Tôi chạy vội tới chỗ cha tôi. Bị vỡ sọ, chết rồi, ông kịp trăng trối lời nào. Cha tôi từ Ferkhem về lúc nhá nhem tối, ở đây cha tôi thông thạo địa hình mà các mỏ đá phấn được rào dậu cẩn thận, cho nên tòa phúc thẩm chút do dự kết luận ngay “Chết trong trường hợp đáng tiếc”. Tôi nghiên cứu kĩ lưỡng những dữ kiện có liên quan đến cái chết của cha tôi, nhưng thể phát được gì để kết luận đó là vụ giết người tinh vi. có vết tích đánh đập, có dấu vết mặt đất. Tôi chỉ riêng với ngài : Tôi lo lắng vô cùng và cảm giác như cha tôi lọt vào chiếc bẫy giăng sẵn.
      Nghiễm nhiên tôi trở thành người thừa kế toàn bộ gia sản trong cảnh tang tóc đau thương như thế đấy. Ngài có thể hỏi lại tôi, tại sao từ chối thừa kế tài sản đẫm máu ấy? Tôi trả lời ngài rằng: Tôi khẳng định những điều bất hạnh xảy ra với gia đình tôi có liên quan tới những kiện bí mật xa xưa lắm trong cuộc đời của người bác quá cố và mối đe doạ tương tự đến bất kỳ từ đâu, lúc nào cũng sẵn sàng giáng xuống đầu tôi, dù tôi có ở ngôi nhà nào cũng vậy.
      Người cha xấu số của tôi qua đời vào tháng giêng năm 1885. Từ đó đến nay hai năm tám tháng trôi qua. Tất cả chuỗi thời gian đó tôi hoàn toàn sống yên ổn ở Horsham và hy vọng câu chuyện đáng nguyền rủa kia còn đè nâng lên gia đình tôi nữa. Tôi nghĩ sau những cái chết của thế hệ bác tôi, cha tôi nó cũng rời xa theo dĩ vãng luôn. Nhưng tôi hy vọng quá sớm. Sáng hôm qua tôi bị choáng váng, cũng vẫn bức thư của thần chết đến gõ cửa cuộc sống êm đềm của chúng tôi.
      Chàng trai lấy ra từ trong túi chiếc phong bì nhàu nát, lật lật lại, rồi trút năm hột cam khô đặt xuống tấm khăn trải bàn.
      - Chiếc phong bì này đây. - ta tiếp, - Dấu bưu điện đóng tại Luân Đôn - khu Đông, bên trong vẫn ba chữ “K” khó hiểu và dòng chữ “Hãy đặt tất cả giấy má vào chỗ đồng hồ mặt trời”.
      - Ngài làm những gì rồi? - Holmes hỏi.
      - Chưa làm gì cả?
      - Chưa làm gì à?
      - đúng ra, - ta gục mặt vào đôi bàn tay nhắn, - tôi bất lực như con chuột bị con rắn đuổi cùng đường chỉ biết nằm im chờ rắn tới gần. Hình như tôi bị rơi vào tay của thế lực siêu phàm thể nào thoát được và có cách gì cứu nổi.
      - Ngài gì lạ vậy?! - Sherlock vội thốt lên an ủi, - ngài cần phải hành động gấp, nếu ngài chết. Chỉ có ý chí và năng lực là có thể cứu sống ngài. Giờ đây phải lúc tuyệt vọng.
      - Tôi đến gặp cảnh sát.
      - Ở đó giải quyết ra sao rồi?
      Nghe tôi , họ chỉ cười. Tôi nghĩ ngài chỉ huy cảnh sát cho những lá thư kia là trò đùa của kẻ vô công rồi nghề nào đó! Còn những cái chết của người thân trong gia đình tôi, theo quan tòa chứng nhận chỉ là những trường hợp may mà thôi. Nó dính líu gì đến lời những đe doạ, cảnh cáo...
      Holmes vung nắm đấm trong trung.
      - Ngu xuẩn tưởng tượng nổi? - bất bình.
      - Dẫu thế người ta cũng cử người cảnh sát đến chỗ tôi, người ấy túc trực suốt ngày đêm trong phòng tôi.
      - Ông ta có cùng ngài đến đây ?
      - , người ta ra lệnh cho ông ta phải ngồi trong nhà.
      lần nữa, Holmes lại vung nắm đấm lên, vẻ tức giận.
      - Ngài đến đây để làm gì? - hỏi. - Quan trọng là tại sao ngài đến đây ngay lúc nhận thư?
      - Tôi biết, vừa mới hôm qua tôi mới chuyện nguy hiểm của tôi cho ngài thiếu tá Prendergast, và ông ấy khuyên tôi nên đến gặp ngài.
      - hai ngày rồi, đáng lẽ ngài phải hành động sớm hơn mới phải. Ngài còn những số liệu gì thêm ngoài những cái ngài mới kể ư? Có còn tình tiết nào gợi ý để giúp ích cho chúng tôi được ?
      - Còn chi tiết nữa - John Openshaw , ta lục tìm trong túi áo bành tô và lấy ra mẩu giấy màu xanh ngả màu, đặt lên bàn. - Tôi vừa nhớ ra. - ta tiếp. - Trong ngày bác tôi đốt tất cả giấy tờ mẩu giấy này còn sót lại chưa cháy kịp, nằm lẫn trong đám tro ấy. Tôi tìm thấy ở sàn phòng bác tôi. Tôi nghĩ chắc đây là mẩu giấy tình cờ bị sót lại trong cuộc thiêu huỷ kia. Ngoài mấy hột cam ra, trong tờ giấy này có gì giúp ích cho tôi. Tôi cho đó là trang của sổ nhật ký, nét chữ này là của bác tôi.
      Holmes xoay bóng điện, và cả hai chúng tôi cúi sát xuống tờ giấy. Đường biên có những vết xước nham nhở, chứng tỏ tờ giấy này được xé trong quyển vở nào đó. Phía cùng có dòng chữ: “Tháng ba năm 1869” phía dưới có những câu vừa đọc vừa đoán như sau :
      Mồng 4 Hudson có mặt: Tại cầu cảng như trước kia.
      Mồng 7 gửi những hột cam cho McCauley, Paramore và John Swain từ Xen - Augustine.
      Mồng 9 - McCauley cút khỏi mặt đất.
      Mồng 10 John Swain cút khỏi mặt đất.
      Ngày 12. Paramore được đến gõ cửa - Mọi việc đều êm đẹp.
      - Cảm ơn ngài. - Holmes và xếp tờ giấy trả lại cho người khách trẻ. - Ngay bây giờ ngài hãy nhanh chóng, khẩn trương bắt tay vào việc. Chúng ta cần tốn thêm chút thời gian nào để tranh luận điều chàng vừa kể. Ngài cần trở về nhà ngay lập tức và hành động gấp.
      - Tôi cần phải làm gì bây giờ?
      - Có mỗi việc thôi, nhưng cần phải giải quyết ngay. Ngài phải đặt ngay tờ giấy mà ngài vừa cho chúng tôi xem vào chiếc hộp đồng thau mà ngài lúc nãy. Ngài đặt vào đó bức thư báo tin là tất cả những giấy tờ còn lại bị ông bác của ngài đốt sạch sành sanh và chỉ còn lại duy nhất mẩu giấy này thôi. Ngài phải thông báo điều này để gây lòng tin sau khi viết xong bức thư ấy ngài hãy đặt ngay chiếc hộp bằng đồng thau kia lên chiếc đĩa của đồng hồ mặt trời như trong thư người ta cầu. Ngài hiểu chứ?
      - Tôi hoàn toàn hiểu ý ngài.
      - Ngài nên nhớ tại nên nghĩ đến chuyện báo thù, hoặc ý nghĩ nào tương tự như vậy. Tôi đề nghị chuyện ấy để pháp luật trừng trị, nhưng chúng ta cũng cần giăng mẻ lưới, tuy nhiên chúng nó giăng sẵn rồi. Vì vậy, trước hết cần phải thoát khỏi mối nguy hiểm đe doạ ngài. Còn sau đó chúng tôi làm sáng tỏ việc mờ ám và trừng trị những kẻ sát nhân.
      - Chân thành cảm ơn ngài, - Chàng trai và đứng lên lấy chiếc áo khoác mặc vào. - Ngài trả lại cho tôi cuộc sống và niềm hy vọng. Tôi hành động đúng như ngài dạy bảo.
      - được lãng phí dù chỉ phút nào hết. Điều quan trọng là hãy giữ lấy mình. ràng thể chối cãi là ngài đứng trước mối hiểm hoạ ngàn cân treo sợi tóc. Ngài quay về bằng cách nào?.
      - Tôi tàu hoả, từ ga Waterloo.
      - Chưa đến 21 giờ. Ngoài đường vẫn còn đông người. Tôi hy vọng ngài bình an. Nhưng dẫu sao ngài cũng nên đề phòng kẻ thù.
      - Tôi mang phòng theo khẩu súng lục.
      - Rất tốt, ngay ngày mai tôi bắt tay vào công việc của ngài.
      - Có nghĩa là tôi gặp ngài ở Horsham.
      - Ô! Đó là điều bí mật của công việc. - Ở tại Luân Đôn này, chính ở đây tôi tìm ra .
      - Vậy , tôi ghé lại chỗ ngài hoặc hai ngày nữa và thông báo cho ngài tất cả việc dính dáng tới chiếc hộp đồng thau và giấy má kia. Tôi làm đúng tất của những gì ngài dặn.
      ta bắt tay chúng tôi rồi từ biệt ra về.
      Gió vẫn gầm rít, mưa vẫn liên tiếp gõ vào cánh cửa sổ.
      Câu chuyện ly kỳ bi thảm kia làm cho chúng tôi phần nào quên nỗi phiền muộn về cơn bão dai dẳng, giờ đây xâm chiếm bao phủ trở lại.
      Sherlock ngồi im lặng, đầu hơi cúi xuống, mắt nhìn chăm chú vào ngọn lửa đỏ rực trong lò sưởi hừng hực cháy. hút hết tẩu thuốc, rồi ngồi ngả người ra sau ghế và nhìn những làn khói xanh nhàng uốn éo liên tiếp nối nhau bay trần nhà.
      Watson, tớ nghĩ là, - Cuối cùng phá tan im ắng. - Trong công việc “chữa bệnh” của tớ có lẽ bao giờ gặp phải những vụ nguy hiểm, ly kỳ hơn vụ này.
      - Nhưng trước hết cậu đặt cho mình quy định cụ thể về tính chất của nguy hiểm ra sao cái ? - Tôi hỏi.
      - Ở đây có chuyện hoài nghi về tính chất tương đối của nó. - ta trả lời.
      - Nhưng cụ thể ra sao? Ai là người có tên K. K. K.? Và ta cứ bám riết như con đỉa gia đình bất hạnh ấy nhằm mục đích gì?
      Sherlock nhắm mắt lại, dựa hẳn vào thành ghế và gập lai tay vào nhau.
      - nhà suy luận chính thống. - ta nhận xét. Khi nhìn thấy dữ kiện duy nhất trong cả tổng thể có thể rút ra từ đấy những toàn bộ chuỗi kiện tạo nên nó, mà còn thấy được những hậu quả xảy ra theo sau. Cũng Cuvier có thể mô tả đúng con vật mà chỉ dựa vào cơ sở chiếc xương của nó. quan sát viên nghiên cứu mắt xích trong toàn bộ chuỗi kiện, cần phải dựng lại được tất cả những mắt xích còn lại, kể cả những tiền tố và hậu tố. Nhưng thể đưa nền nghệ thuật suy luận lên đến đỉnh cao tột cùng, người suy diễn cần phải sử dụng tất cả những dữ kiện được đắp nên. Để làm được việc này, ta cần có những kiến thức chung nhất định nào đó. Nếu như trí nhớ của tớ phản tớ, trong ngày đầu chúng mình quen biết nhau, cậu xác định chính xác ranh giới kiến thức của tớ.
      - Đúng như vậy. - Tôi mỉm cười trả lời, - Đó là tài liệu bất thường - Tớ nhớ là: Triết học thiên văn học và bộ môn chính trị đứng vào vị trí số . Kiến thức trong lĩnh vực thực vật học luôn luôn dao động, trong ngành địa chất sâu hơn. Bởi công việc dính dáng tới những vết dơ bẩn của bất kỳ vùng nào đó trong giới hạn 50 dặm xung quanh thành Luân Đôn; còn trong lĩnh vực hóa học hài hước, kỳ quặc. Trong giải phẫu học đồng bộ tản mát, rời rạc. Trong lĩnh vực văn học giải trí, kiến thức đặc biệt khác thường. Trong đó, võ sĩ quyền dùng kiếm, còn luật sư tự đầu độc mình bằng thuốc phiện và thuốc lá. Đó là những nét cơ bản nhất trong cách nhận định, đánh giá của tớ.
      Holmes cười rất khoái trá, khi nghe tôi những tiếng sau cùng.
      Cũng như lúc xưa tớ con người cần phải điều khiển trí nhớ của mình như thế nào để cho mớ kiến thức được sắp xếp thứ tự ngăn nắp trong kho tàng trí tuệ, sao cho đến lúc cần dùng là có thể lấy ra dễ dàng phải tìm kiếm lục lọi.
      Chúng ta nội trong tối hôm nay cần phải huy động tất cả vốn liếng mà chúng ta có. Cậu lấy giúp mình cuốn bách khoa toàn thư nước Mỹ, tập có chữ “K”. Nó nằm giá sách, gần chỗ cậu ngôi đấy. Cám ơn! Giờ đây chúng ta đặt ra các giả thiết và từ đó rút ra những kết luận. Trước hết bắt đầu từ ngài đại tá Openshaw xem thử vì lý do gì mà ông ta rời bỏ nước Mỹ. Trong thời đại ngày xưa con người có khuynh hướng phá bỏ những thói quen của mình để tự nguyện tự giác thoái thác ra khỏi vùng khí hậu tuyệt vời như ở bang Florida, để rồi sống cuộc đời dật trong thị trấn quê mùa bên nước này. ham mê thích thú dật lên ý nghĩa rằng ông ta sợ điều gì đó hoặc người nào đó, hay đại loại như vậy. Chúng ta khẳng định giả thiết này dựa cơ sở những bức thư dọa dẫm đáng sợ mà ông ta cũng như người thừa kế nhận được. Cậu có nhận xét gì về những con dấu đóng phong bì đó ?
      - Lá thư thứ nhất từ Pondicherry, thư thứ hai từ Dundee, thư thứ ba từ Luân Đôn.
      - Từ phía đông Luân Đôn! Cậu rút ra kết luận gì?
      - Đó là những bến cảng của đại dương. Hình như người viết lá thư ấy là thủy thủ.
      - Tuyệt diệu! Chúng ta có chìa khóa rồi. Hoàn toàn có khả năng người viết thư sống con tàu. Còn bây giờ chúng ta xem xét vấn đề này từ khía cạnh khác. Trong trường hợp từ Pondicherry khoảng thời gian giữa lời dọa dẫm đến chuyện thực cách nhau bảy tuần lễ; trong trường hợp từ Dundee khoảng cách ấy chỉ có ba, bốn ngày. Cậu có nghĩ gì?
      - Khoảng cách trong trường hợp thứ nhất lớn hơn nên cần thời gian để thực lâu hơn.
      - Nhưng chính bức thư cũng phải quãng đường lớn như thế?
      - Tớ chịu. hiểu thể ra sao?
      - Có cơ sở để rút ra nhận xét là, con tàu mà kẻ sát nhân sống là chiếc thuyền buồm, hoặc nhóm sống là chiếc thuyền buồm. Cũng như những trường hợp tương tự, chúng nó bao giờ cũng gửi những lời cảnh cáo sau đó mới thi hành bản án. Cậu thấy trường hợp từ Dundee xảy ra nhanh chóng làm sao? Nếu chúng bằng tàu thủy từ Pondicherry, chúng tới cùng với lá thư. Nhưng ở đây lại bảy tuần. Bảy tuần này là hiệu số giữa tốc độ của tàu thủy bưu điện mang bức thư với tốc độ của thuyền buồm mà lũ sát nhân sống.
      - Có thể là như thế?!
      - Đó là điều chắc chắn. Dựa cơ sở đó cậu thấy ngay nguy hiểm chết người trong trường hợp cuối. Cậu biết vì sao tớ căn dặn chàng Openshaw phải thận trọng rồi chứ?! Đòn trừng phạt bao giờ cũng giáng vào thời hạn kết thúc cần thiết cho những kẻ gửi bức thư khi vượt qua khoảng cách chiếc thuyền buồm. Nhưng chính bức thư cuối này lại được gửi từ Luân Đôn, vì vậy chúng ta thể cho phép mình trì hoãn công việc.
      - Lạy chúa? - Tôi thốt lên. - Cuộc truy nã gắt gao kia có ý nghĩa gì?
      - như ban ngày, giấy tờ bị Openshaw cuỗm mang trong đó bí mật liên quan đến sống còn của bọn chiếc thuyền buồm. Tớ cho là thuyền này chỉ có thằng. người thể tham gia hai vụ giết người tài tình, để lại dấu vết gì. Trong chuyện này phải vài ba tên nhúng tay vào, hơn nữa chúng là như kẻ giết người sành sỏi và hề run tay. Những giấy tờ mà chúng muốn chiếm lại bằng được, dù nó nằm trong tay ai mặc kệ. Chính thế cậu thấy “K.K.K” đâu phải là tên của người, mà là dấu hiệu ám chỉ tổ chức xã hội bí mật nào đó.
      - Tổ chức gì?
      - Tớ chưa nghe thấy bao giờ?
      Holmes lật lật mấy trang sách nam đùi ta :
      - Ở đây họ có viết như thế này “Ku Klux Klan” là tên gọi xuất phát từ giống tiếng lên quy lát của khẩu súng. Tổ chức bí mật nguy hiểm đáng sợ này có những cựu chiến binh của quân đội miền Nam sau cuộc nội chiến thành lập, và sau thời gian ngắn nhanh chóng lập các chi nhánh ở các bang khác. Chủ yếu là bang Tennessee, bang Luidian, ở cả hai vùng Carolinas, bang Georgia, và bang Florida. Tổ chức này dùng bạo lực phục vụ cho mục đích chính trị, chủ yếu là khủng bố, ám sát những ứng cử viên đại biểu cho dân da đen, hoặc đuổi khỏi đất nước, giết những kẻ đối lập có quan điểm chống đối chúng. Bọn chúng thường cảnh cáo trước rồi mới thực . Lời cảnh cáo chỉ gửi cho những người mà bọn chúng định ám sát dưới hình thức thơ mộng, nhưng mọi người đều quen thuộc, ở số địa phận trong nước cành lá sồi, còn những nơi khác vài hạt dưa gang, hoặc hột cam. Sau khi nhận được những lời cảnh cáo đó, người ta hoặc thay đổi quan điểm của mình, hoặc khỏi Tổ quốc. Nếu chú ý đến lời cảnh cáo đó, người bị gửi thư tránh khỏi cái chết. Thường là cái chết kỳ quặc, lường trước được. Tổ chức này được lãnh đạo rất chặt chẽ, nó nghĩ ra những biện pháp hành động hữu hiệu đến nỗi chưa ai có thể khám phá ra được hoặc tránh khỏi cái chết thảm thiết. Chưa bao giờ những kẻ gây tội ác bị vạch mặt. Tổ chức được hình thành trong vài ba năm bất chấp mọi đàn áp của chính phủ Hợp Chủng quốc Hoa Kỳ và tầng lớp tiến bộ của nhân dân. Năm 1869 những hoạt động của tổ chức bí mật này bỗng dưng chấm dứt, tuy nhiên vẫn xảy ra vài vụ khủng bố.
      - Cậu có thấy ? - Holmes và lật lật quyển sách, - chấm dứt bất bình thường những hoạt động chống đối của tổ chức sát nhân này trùng lặp với cuộc ra của Openshaw, ông ta thu góp tất cả tài liệu giấy tờ của tổ chức mang theo mình hồi hương. Có khả năng là những nguyên nhân và kết quả nằm ở điểm này. phải ngẫu nhiên những người tàn ác dã man kia cứ theo đuổi mãi gia đình Openshaw. Cậu hiểu , bảng thống kê và những cuốn nhật ký có thể là bôi nhọ, xấu những nhà hoạt động nổi tiếng nhất của miền Nam nước Mỹ và chính những giấy tờ này làm cho nhiều kẻ mất ăn mất ngủ.
      - Có nghĩa là những giấy tờ mà chúng mình vừa được thấy...
      - Chính nó - Đó là thứ mà người ta mong đợi. Nếu tớ nhầm ở đó ghi : “ gửi những hạt giống cho A.B.V.” - Có nghĩa là họ gửi những lời cảnh cáo. Tiếp theo là mấy dòng chữ A và B cút xéo khỏi mặt đất - Có nghĩa bọn họ bỏ Tổ quốc ra . Còn V. được đến thăm. Tớ sợ ngài V kết thúc tốt đẹp. Chúng mình còn kịp làm sáng tỏ công chuyện mờ mịt này. Con đường để cứu thoát Openshaw trai trẻ kia - chính là phải hành động đúng như tớ khuyên bảo. Hôm nay chúng ta thể thêm được gì nữa và cũng thể làm thêm được gì... Cậu đưa mình mượn cây đàn, chúng ta đành chịu khó ngồi im lặng nửa tiếng đồng hồ để quên thời tiết tồi tệ và quên những hành động còn tồi tệ gấp bội của con người.
      Gần sáng cơn bão mới tan, mặt trời hé ửng lên xuyên qua những đám mây mù u tối rạng rỡ chiếu rọi thành Luân Đôn.
      Khi tôi xuống Holmes bắt đầu ăn sáng.
      - Xin lỗi, tớ buộc phải bắt đầu đợi cậu được - . - Tớ thấy trước rằng tớ phải làm việc cật lực trong ngày hôm nay vì câu chuyện của Openshaw.
      - Cậu chuẩn bị đến đâu rồi? - Tôi hỏi.
      - Điều này phụ thuộc vào đánh giá chính xác hay của tớ. Có lẽ tớ phải ghé tới Horsham.
      - Cậu định tới đó trước sao?
      - , tớ bắt đầu từ Xiti. Cậu gọi con hầu mang cà phê lên .
      Trong lúc đợi cà phê, tôi cầm tờ báo để bàn và đọc lướt qua các mục. Bất chợt cột báo làm tim tôi lạnh toát.
      - Holmes, - Tôi thốt lên, cậu bị chậm mất rồi
      - Có chuyện gì vậy? - ta và đặt cốc cà phê xuống.
      - Tớ dã dự đoán trước là xảy ra chuyện này.
      Chuyện xảy ra như thế nào? - Giọng rất bình tĩnh, chúng tôi cảm thấy xúc động mãnh liệt.
      Cái tên Openshaw đập vào mắt tôi và đề mục “Câu chuyện tang thương ở cầu Waterloo” được như thế này :
      “Tối qua vào khoảng 21 - 22 giờ, nhân viên cảnh sát có tên Cook trong lúc tuần tra canh gác cầu Waterloo, có nghe thấy tiếng kêu cứu và tiếng nước “bõm”. Nhưng do trời tối đen như mực, gió thét ào ào, cho nên mặc dù chạy đến cứu giúp, vẫn vớt được kẻ chìm dưới sông. Cảnh sát lập tức nổi còi báo động, và nhờ chiếc xuồng cấp cứu xác chết được tìm thấy. Đó là chàng trai trẻ, tên ta theo phong bì tìm thấy trong người là John Openshaw, sống gần Horsham. Người ta đoán ta vì quá vội để chuyến tàu cuối cùng xuất phát từ ga Waterloo, trong bóng đêm mịt mùng và bị trượt chân lọt xuống dưới cầu. thi hài nạn nhân thấy phát dấu vết đánh đập hành hung nào. thể nghi ngờ gì nữa, ta mất mạng trong trường hợp đáng tiếc. Điều đó bắt buộc chính quyền địa phương phải chú ý đến tình trạng chiếc cầu”.
      Chúng tôi lặng mấy phút. Tôi chưa hề nhìn thấy Sherlock mệt nhọc đến như thế.
      - Cái đó giáng đòn chí mạng vào tính tự ái của tớ, -
      Cuối cùng thốt lên đau đớn. - thể chối cãi và bào chữa được điều gì, tính tự ái là thứ tình cảm nhen ích kỷ, nó giải quyết được việc gì cả. Bây giờ câu chuyện này trở thành việc riêng của tớ, và nếu chúa có ban cho tớ sức khỏe tớ tóm gọn cả băng sát nhân ấy. ta hoảng sợ đến nhờ tớ giúp đỡ, thế mà tớ lại đẩy ta đến chỗ chết.
      đứng dậy khỏi chiếc ghế, bước bước lại trong căn phòng, khuôn mặt trắng bệch bừng bừng tức giận. hết bóp lại thả ra những ngón tay dài và nhắn của mình cách điên tiết.
      - Những con quỷ láu cá! - Cuối cùng thét lên, - Làm thế nào mà chúng lừa phỉnh được chàng để nhấn chìm xuống đáy sông? Bờ sông phải là con đường dẫn tới nhà ga. Còn cầu thậm chí trời có tối chăng nữa cũng còn rất nhiều người. Watson chúng ta thử xem ai là người chiến thắng trong hiệp này. Tớ đây.
      - Tới đồn cảnh sát à?
      - , tớ làm cảnh sát. Tớ giăng tấm lưới như tấm mạng nhện, và cứ để cho cảnh sát đến bắt những con ruồi trong đó, nhưng dễ làm ngay bây giờ.
      Cả ngày hôm đó, tôi mắc công việc chữa bệnh. Khi quay về hẻm Baker trời tối từ lâu.
      Sherlock Holmes vẫn chưa về. Khi về hơn 21 giờ đêm, người bơ phờ, nhợt nhạt. đến tủ đựng thức ăn, lấy mẩu bánh mỳ cho vào miệng nhai ngấu nghiến và nuốt ừng ực những ngụm nước lớn.
      - Cậu đói lắm phải ? - Tôi nhận xét.
      - Đói gần chết đây. Tớ làm quên cả ăn, kể từ buổi ăn lót dạ sáng đến giờ.
      - Thế cậu nhịn à?
      - có lấy hột. Tớ có thời gian rỗi để nghĩ đến chuyện ăn uống nữa.
      - Còn công việc của cậu ra sao?
      - Rất tốt đẹp.
      - Cậu tìm ra chìa khóa vén mở điều bí mật chưa?
      - Bọn nó nằm gọn trong lòng bàn tay tớ. Rồi chàng Openshaw trẻ tuổi kia còn bao lâu nữa được rửa hận. Watson, chúng mình dán nốt cái nhãn hiệu ma quỷ chính thống của chúng nó. Chẳng nhẽ, đó là điều hay?
      - Cậu về cái gì thế?
      Holmes lấy từ trong chạn ra quả cam. Rồi bóc nó ra từng múi, và cẩn thận nhặt mấy hạt để lên bàn. ta nhặt nắm hột cho vào chiếc phong bì. Phía trong phong bì viết
      “S.H gửi cho J.O”.
      Sau đó dán phong bì lại và ghi địa chỉ ở ngoài “Gởi ngài thuyền trưởng James Calhoun, thuyền buồm Ngôi sao đơn độc Savannah, Georgia”.
      - Bức thư đợi Calhoun khi ta cập bến - Holtnes vừa vừa cười. - Điều này, làm cho mất ăn mất ngủ. Tớ tin rằng, chịu chung cái số phận như số phận của ngài Openshaw.
      - Thuyền trưởng Calhoun là ai vậy?
      - là thủ lĩnh của cả bọn khốn kiếp ấy. Dần dần tớ lần ra những thằng khác nữa. là thằng đầu tiên.
      - Bằng cách nào mà cậu tìm ra chúng nó?
      Holmes lôi ra từ trong túi tờ giấy cỡ lớn ghi chép chi chít những năm tháng và tên người...
      - Cả ngày tớ chỉ chúi đầu sục vào các tập hồ sơ, giấy má cũ, theo dõi số phận của từng chiếc tàu cập bến Pondicherry trong thời gian từ tháng giêng và tháng hai năm 1883. Trong hai tháng ấy, có ghi lại ba mươi sáu chiếc tàu có trọng tải khá lớn. Trong số đó có chiếc “Ngôi sao đơn độc” làm cho tớ chú ý nhất, bởi địa điểm cập bến là Luân Đôn. Hơn nữa “Ngôi sao đơn độc” - biệt danh của bang bên Mỹ.
      - Hình như bang Texas phải ?
      - Điều này chưa chắc chắn. Nhưng tớ biết con tàu đó xuất phát từ bên Mỹ.
      - Có gì nữa ?
      - Tớ đọc lướt qua các mục ghi chép về ngài đến và ngày của tất cả tầu thuyền ở cảng Dundee. Và khi tớ thấy chiếc thuyền buồm “Ngôi sao đơn độc” cập bến Dundee trong tháng giếng năm 1885 mọi nghi ngờ của tớ chuyển sang khẳng định. Tớ lập tức lục tìm bảng chỉ dẫn có liên quan tới những chiếc tàu thuyền đậu ở cảng Luân Đôn trong thời gian nay.
      - Cậu có thấy được gì ?
      - “Ngôi sao đơn độc” vừa cập bến Luân Đôn trong tuần trước. Tớ vội chạy đến chỗ Albert Dock và được biết đúng hôm nay, lúc thủy triều lên sớm “Ngôi sao đơn độc” rời bến ra sông để quay về cảng Savannah. Tớ điền tới Gravesend và được báo cho biết “Ngôi sao đơn độc” vừa mới qua đấy lâu. Và do gió hướng đông nên tớ nghi ngờ gì hết. “Ngôi sao đơn độc” vượt qua Goodwins và giờ cách xa hòn đảo Wight.
      - Cậu định hành động ra sao?
      - Ồ! Kelgun nằm trong tay tớ! với hai tên thủy thủ - là những tên người Mỹ duy nhất tàu. Những người còn lại là người Phần Lan và người Đức. Thậm chí tớ còn được biết tối hôm qua cả ba đứa đều có mặt thuyền. Người khuân vác cho tớ biết chi tiết ấy. Ông ta làm nhiệm vụ bốc vác chiếc thuyền buồm “Ngôi sao đơn độc”. Khi thuyền “Ngôi sao đơn độc” cập bến Savannah, tàu thủy mang bức thư của tớ tới trước rồi. Còn bức điện tớ báo cho cảnh sát ở Savannah là phải bắt ngay ba tên người Mỹ vì tội giết người.
      Tuy nhiên, trong mọi dự tính cẩn thận nhất của con người, bao giờ cũng có chỗ sơ hở nào đó. Những kẻ giết hại cả gia đình Openshaw kia, chưa phán đoán được là nhận được những hột cam do người khác gửi cho chúng. Mà con người ấy, cũng kiên quyết, láu cá như bọn chúng nó. Con người đó, lần ra dấu vết chúng nó.
      Trong năm ấy những trận cuồng phong là dữ dội, kéo dài dai dẳng. Chúng tôi chờ đợi tin tức của chiếc thuyền buồm “Ngôi sao đơn độc” rất lâu, nhưng tất cả đều đúng như chúng tôi mong đợi.
      Cuối cùng chúng tôi mới được biết là ở nơi xa xôi nào đó bờ Đại Tây Dương, người ta nhìn thấy chiếc đuôi tàu bị vỡ, dập dềnh theo sóng biển. đó người ta nhìn thấy những chữ “N. S. Đ. Đ”. Đó là tất cả những gì chúng tôi được biết về số phận của “Ngôi sao đơn độc”.

    2. tukachan

      tukachan Member

      Bài viết:
      296
      Được thích:
      13
      Chương 6: Người đàn ông môi trề


      đêm tháng 6 năm 1889, có chuông cửa reo. Tôi nhổm dậy ghế, còn vợ tôi đặt đồ may vá xuống, khẽ nhăn mặt, bực mình.
      - bệnh nhân! phải thôi - Nàng .
      Tôi rên rỉ, vì vừa mới trở về sau ngày mỏi mệt. Có tiếng cửa mở, vài tiếng vội vã và sau đó là những bước chân hối hả. Cửa lớn mở tung ra và người phụ nữ mặc đồ sẫm màu, che mặt bằng tấm mạng, bước vào phòng.
      - Xin thứ lỗi cho tôi vì gọi cửa vào giờ này - Bà ta bắt đầu . Rồi, kìm được nữa, bà chạy về phía trước, quàng tay lên cổ vợ tôi và khóc nức nở vai nàng - Tôi có chuyện chẳng lành, rất cần trợ giúp, dù bé!
      - Ồ, chị! - Vợ tôi , kéo tấm mạng của người khách lên - À! Chị Kate đây mà?
      - Tôi biết phải làm gì, nên tôi đến chỗ các em.
      - Chị đến đây là tốt lắm. Bây giờ, chị uống nước rồi kể cho em nghe. Ồ, em có nên mời ấy nghỉ nhỉ?
      - Ồ, đâu! Chị cần lời khuyên và trợ giúp của bác sĩ nữa. Đấy là chuyện về Isa. hai ngày nay, ấy về nhà. Chị rất lo!
      Đây phải là lần đầu tiên chị Kate với chúng tôi về chồng chị. Gần đây, thường lui tới động phù dung ở phía nam thành phố. Từ trước tới giờ, cơn say thuốc chỉ kéo dài khoảng ngày, và trở về nhà vào buổi chiều, chân tay co giật, áo quần lếch thếch. Nhưng giờ, 48 tiếng đồng hồ rồi và có lẽ nằm đó, giữa bọn người cặn bã của bến tàu.
      “Có thể tìm thấy ấy ở đó”, chị ấy chắc thế, “tại quán Bar of Gold, trong hẻm Thượng Swandam”. Nhưng chị phải làm gì? Làm thế nào mà người phụ nữ trẻ và rụt rè như chị, lại có thể đến nơi như thế, để đem chồng mình ra khỏi những tên vô lại. Chỉ có lối thoát. Tôi phải hộ tống chị đến chỗ ấy? Và rồi xét cho kỹ chị có nên đến đấy ? Tôi là cố vấn y học cho Isa Whitney và với tư cách đó, tôi có ảnh hưởng đối với ta. Tôi dễ dàng xoay xở nếu tôi mình. Tôi hứa với chị, tôi đưa ta về nhà trong vòng hai tiếng đồng hồ, nếu quả ta ở đó. Thế là khoảng mười phút sau, tôi ngồi xe ngựa chạy bon bon.
      Hẻm Swandam là ngõ hẻm mạt hạng nằm khuất phía sau những cầu tàu cao chạy thẳng từ phía bắc của con sông đến phía đông cầu London. Trong khoảng giữa từ cái cửa hàng bán quần áo tới quán rượu, tôi tìm thấy cái động phù dung đó. Cho xe đợi ở bên ngoài, tôi xuống những bậc thềm trũng sâu ở giữa bởi những bước chân lên xuống liên tục của con nghiện. Qua ánh sáng chập chờn của cây đèn dầu treo phía cửa lớn, tôi tìm thấy cái chốt và mò mẫm vào căn phòng dài, thấp, nồng nặc mùi khói thuốc.
      Xuyên qua bóng tối mờ mờ có thể thấy những thân người nằm trong những tư thế lạ lùng, đôi vai cúi xuống, đầu gối cong lại, đầu ngả ra sau, cằm ngửa lên trời, đây đó con mắt lạc tròng, lờ đờ quay ra nhìn người mới đến. Từ phía trong những bóng đen tỏa ra những vòng ánh sáng lập loè, khi tỏ khi mờ. Hầu hết nằm yên lặng, nhưng vài người lảm nhảm mình, những người khác chuyện với nhau bằng giọng thấp, đơn điệu, kỳ dị. Cuộc đàm thoại của họ tuôn ra trong lát, rồi bỗng nhiên chìm vào im lặng, mỗi người lẩm bẩm những ý nghĩ của chính mình, chẳng lưu tâm đến những lời của người bên cạnh. Phía bên kia là lò than hồng, bên cạnh nó, cái ghế đẩu gỗ ba chân có người đàn ông ngồi. Đó là ông già cao, gầy gò, quai hàm tựa hai nắm tay, cùi chỏ đặt đầu gối, trố mắt nhìn vào lò sưởi.
      Khi tôi bước vào, người hầu Mã Lai vội vã vẫy tôi đến cái giường ngủ để trống.
      - Tôi muốn chuyện với ông Isa Whitney.
      chuyển động và tiếng kêu từ bên phải của tôi, nhìn qua bóng tối nhờ nhờ, tôi thấy Isa trố mắt nhìn ra phía tôi.
      - Trời ơi! Watson đấy à? - ta , run rẩy cách tội nghiệp - Watson, mấy giờ rồi nhỉ?
      - Gần 11 giờ đêm.
      - Ngày nào thế?
      - Thứ sáu, 19-6.
      - Trời đất! Tôi vẫn nghĩ là thứ tư đấy. Đúng là thứ tư. Sao lại dối tôi làm gì?
      ta úp mặt xuống hai cánh tay và bắt đầu khóc nức nở.
      - Hôm nay là thứ sáu. Vợ đợi hai ngày rồi. Lẽ ra, phải biết xấu hổ chứ?
      - Tôi nhớ là thứ mấy. Nhưng tôi về với . Ôi, Kate bé bỏng của tôi. Đưa tay cho tôi. Có xe chứ?
      - Xe đợi.
      - Vậy chúng ta về.
      Tôi bước xuống lối hẹp giữa hai hàng người nằm. Khi tôi ngang qua gã đàn ông cao ngồi cạnh lò than, tôi cảm thấy có cái giật mạnh vào áo sơ mi của tôi, rồi nghe tiếng thào: “Hãy ngang qua tôi, rồi quay lại nhìn tôi”. Tôi liếc nhìn xuống. Những lời đó, chỉ có thể cất lên từ ông già ở bên cạnh tôi, nhưng bây giờ ông ta vẫn ngồi trầm tư như trước. Tôi bước tới hai bước rồi nhìn lại. Phải cố gắng lắm tôi mới ngăn được tiếng kêu kinh ngạc. Ông ta quay lưng để cho ai có thể nhìn thấy mình, ngoài tôi ra. Dáng người ông ta mập ra, những nếp nhăn biến , đôi mắt lờ đờ sáng hẳn lên, và kia, ngồi bên cạnh lò sưởi và nhe răng cười: chính là Holmes. khẽ ra hiệu cho tôi đến gần , và ngay lập tức, xoay nửa người về phía đám người nọ, trở lại thành ông già run cầm cập, miệng há hốc.
      - Holmes! vào đây để làm gì? - Tôi thầm.
      - chút. Tai tôi thính lắm. hãy tống nơi khác, tôi muốn chuyện với ...
      - Xe đợi ở ngoài.
      - Vậy, cho bằng xe đó , rồi viết mấy chữ cho bà xã , rằng giúp tôi. cứ đợi bên ngoài. Năm phút nữa, tôi ra.
      Trong vài phút, tôi viết xong lá thư cho nhà tôi, trả tiền xe cho Isa, dẫn ta ra xe; chỉ lát sau, dáng người già nua, ốm yếu ra từ động phù dung. Ông ta kéo lê chân, gù lưng và bàn chân cà nhắc. Rồi, bỗng người ấy nhanh nhẹn liếc nhìn ra phía sau, vươn người ra và bật lên chuỗi cười hể hả.
      - Này Watson, tôi ngạc nhiên khi thấy ở đó.
      - Tôi đến để tìm người bạn.
      - Còn tôi, để kiếm kẻ thù.
      - kẻ thù?
      - Vâng, trong những con mồi. Tôi hy vọng tìm thấy đầu mối trong những lời lảm nhảm rời rạc của những dân nghiện này. Cái động đó chính là cái bẫy giết người ghê gớm nhất trong suốt dọc bờ sông, và tôi e rằng ông Neville St. Clair vào đó mà bao giờ trở ra nữa. Những cái bẫy của chúng ta đặt ở đây.
      đặt hai ngón tay trỏ vào giữa hai hàm răng và huýt sáo lanh lảnh. Tín hiệu ấy được đáp lại bằng tiếng huýt sáo tương tự đằng xa, tiếp theo ngay sau đó là tiếng bánh xe lọc cọc và tiếng vó ngựa.
      - Bây giờ, với tôi chứ?
      - Nếu tôi giúp ích được.
      - Ồ, người bạn tin cẩn luôn luôn có ích, và người chép sử biên niên còn hữu ích hơn. Phòng của tôi tại biệt thự Tuyết Tùng [1], có hai giường.
      - Biệt thự Tuyết Tùng?
      - Vâng. Đó là nhà ông St. Clair. Tôi ở đò để điều tra vụ này.
      - Nó ở đâu?
      - Gần thôn Lee, thuộc hạt Kent.
      - Lát nữa đây biết mọi chuyện. Nhảy lên ! Được rồi bác xà ích. Đây là tiền công của bác. Hãy đợi tôi ngày mai, vào khoảng 11 giờ. Chào nhé!
      quất roi và xe chúng tôi lao , băng qua những đường phố tối tăm, vắng vẻ và vô tận, những đường phố này rộng dần ra cho đến khi xe băng qua cái cầu lớn có tay vịn, dưới đó là con sông đen thẫm chảy lờ đờ. Phía bên kia là những đống gạch, vôi vữa, yên lặng của chúng chỉ bị phá vỡ bởi tiếng bước chân nặng nề, đều đặn của người cảnh sát, hay những bài hát và tiếng quát tháo của bọn người nhậu nhẹt say sưa về muộn. đám mây nặng nề trôi lơ lửng qua bầu trời va , hai ngôi sao nhấp nháy mờ mờ đây đó xuyên qua những khe hở của đám mây. Holmes yên lặng cầm cương, đầu cúi xuống ngực, với dáng vẻ của người đắm chìm trong suy tư. Tôi ngồi bên , tò mò muốn biết cuộc truy tìm này là cái gì, nhưng lại dám làm gián đoạn dòng suy tưởng của . Chúng tôi được năm, bảy dặm và bắt đầu đến mép vành đai của biệt thự ngoại ô, bỗng nhiên lắc mình nhún vai và châm tẩu với cái vẻ của người thỏa mãn.
      - Watson, tôi biết đêm nay mình phải cái gì với người đàn bà này.
      - quên là tôi chưa biết gì về chuyện đó.
      - Được, tôi kể rành rọt cho nghe, và may ra, có thể giúp tôi.
      - kể .
      - Cách đây vài năm, vào tháng 5-1884, gã đàn ông tên là Neville St.Clair đến Lee. Ông ta có vẻ khá giả. Ông ta mua cái biệt thự lớn, và sống cách đúng điệu. Dần dà, ông làm bạn với xóm giềng. Năm 1887, ông ta cưới con của người nấu rượu địa phương, bà ta sinh được hai con. Ông ta có nghề nghiệp, nhưng có cổ phần tại vài công ty, và thường lên phố vào buổi sáng, trở về nhà vào lúc 5 giờ 14 chiều. Bấy giờ ông ta 37 tuổi. Đó là người điều độ, người chồng tốt, người cha thương con và là con người được mọi người xung quanh mến. Tôi có thể thêm rằng mặc dù số tiền nợ của ông ta nay là 88 bảng 10 shilling. Nhưng ông ta có 220 bảng trong ngân hàng Capital and Counties Bank. Vì vậy, vấn đề tiền bạc làm ông ta lo nghĩ nhiều. Thứ hai tuần trước, ông lên phố sớm hơn thường lệ. Trước khi , ông bảo rằng ông có hai việc quan trọng phải làm, và hứa đem về cho con trai cái hộp có những hòn gạch để chơi. Thế rồi, do tình cờ run rủi, vào đúng ngày thứ hai đó, sau khi ông ta lát, bà vợ nhận được bức điện tín, báo tin rằng bà có gói quà nằm tại văn phòng của Công ty đóng tàu Aberdeen. Ăn cơm trưa xong bà lên phố, mua sắm vài đồ vặt đường tới Công ty; sau đó, bà nhận gói hàng và đúng 4 giờ 35, bà bộ xuyên qua hẻm Swandam, đường trở lại nhà ga. có theo dõi được ?
      - Rất ràng.
      - Ngày thứ hai ấy cực kỳ nóng bức. Bà St. Clair bộ chậm rãi, liếc nhìn quanh để tìm chiếc xe ngựa. Trong khi bà bộ theo đường này xuống hẻm Swandam, bỗng nhiên bà nghe tiếng kêu, bà lạnh cả người khi thấy chồng bà nhìn xuống bà và hình như ông vẫy gọi bà từ cửa sổ tầng lầu thứ hai. Cánh cửa sổ mở và bà thấy chồng mình hốt hoảng, ông ta vẫy gọi bà cách điên dại rồi biến mất khỏi cửa sổ cách bất ngờ, đến nỗi bà cảm thấy dường như ông ta bị kéo lùi lại bằng sức mạnh cưỡng được. điểm kỳ lạ đập vào mắt bà: chồng bà vẫn mặc áo khoác đen, như lúc ra , nhưng bà thấy cổ áo sơ mi hay cà vạt đâu cả.
      Bà chạy vội xuống bậc thang rồi chạy băng qua phòng phía trước, cố leo lên cầu thang đến tầng . Thế nhưng, tại chân cầu thang, bà gặp tên chủ nhà vô lại [2], cùng với gã tây chân Đan Mạch đẩy bà ta ra ngoài đường phố. Lòng tràn ngập những mối ngờ vực và sợ hãi, bà lao xuống con hẻm và khi chạy tới đường Fresno, bà gặp cảnh sát và người thanh tra. Những người này hộ tống bà trở lại, và vào cái phòng hồi nãy có ông St. Clair. Họ thấy ông ta đâu cả, trừ gã tàn tật có gương mặt gớm ghiếc. Gã này và tên vô lại đều thề độc rằng suốt cả buổi chiều có ai ở trong phòng phía trước. Bọn này phản đối cách quá quyết liệt, đến nỗi vị thanh tra trở nên ngờ vực, nhưng bỗng nhiên bà St. Clair kêu lên tiếng sửng sốt, nhảy chồm tới cái hộp gỗ nằm bàn và mở tung cái nắp ra. Từ trong đó đổ ra những hòn gạch cho trẻ con chơi. Đó là món đồ chơi mà ông St. Clair hứa đem về nhà.
      phát này cùng với bối rối ra gương mặt gã tàn tật, khiến cho ông thanh tra thấy vấn đề rất nghiêm trọng. Lập tức, họ mở cuộc khám xét. Căn phòng phía trước được trang bị như phòng khách, nó dẫn vào phòng ngủ , nhìn ra bến tàu. Giữa bến tàu và cửa sổ phòng ngủ là con lạch cạn, khi thủy triều rút, người ta nhìn thấy đáy, nhưng khi thủy triều lên, mực nước cao tới 4,5 feet. Cửa sổ phòng ngủ rộng và được mở từ phía bên dưới. bậu cửa sổ có nhiều vết máu, vài giọt rơi sàn gỗ của giường ngủ. Phía sau cái màn cửa của căn phòng phía trước, người ta thấy toàn bộ áo quần của ông St. Clair, trừ cái áo khoác: giày, ủng, bít tất, mũ và đồng hồ đeo tay. mọi thứ đồ vật; có dấu hiệu nào của hành hung. ràng là ông ta ra ngoài cửa sổ, vì người ta thấy có lối ra nào khác, những vết máu cho thấy ông ta bị lâm nguy hơn là trốn thoát?
      Tên chủ nhà vô lại là người có tiền án, nhưng theo lời kể của bà St. Clair, chỉ có thể là kẻ tòng phạm, vì sau khi bà trông thấy chồng tại cửa sổ được vài phút xuất ở chân cầu thang. phản đối, bảo rằng biết gì về những việc làm của Hugh Boone, người khách cư trú tại đó. cũng rằng thể nào giải thích được diện của những áo quần của người đàn ông mất tích.
      Gã tàn tật Hugh Boone sống tầng hai của động phù dung. Những ai lên thành phố nhiều lần đều quen với cái gương mặt gớm ghiếc của . ăn mày chuyên nghiệp, nhưng giả bộ bán diêm. chiếm góc đường Threadneedle làm chỗ ngồi hàng ngày, chân bắt chéo, hộp diêm đầu gối. Trông rất tội nghiệp, vì thế mà những đồng xu rơi như mưa xuống cái mũ da bên cạnh . Tôi quan sát gã này hơn lần trước khi nghi đến chuyện làm quen với tư cách bạn đồng nghiệp. Đây là người mà bây giờ chúng ta biết là kẻ cư trú thường xuyên tại động phù dung, và cũng là người cuối cùng nhìn thấy St. Clair.
      - Nhưng gã tàn tật đơn thương độc mã làm gì được người đàn ông còn trẻ tuổi?
      - ta chỉ cà nhắc thôi, trông khỏe mạnh và ăn uống đầy đủ. Kinh nghiệm y học cho biết rằng nhược điểm nơi chân thường được bù lại bằng sức mạnh phi thường ở những nơi khác.
      - cứ kể tiếp.
      - Bà St. Clair ngất khi thấy máu cửa sổ và được cảnh sát đưa về nhà. Thanh tra Barton xem xét trường rất kỹ nhưng thấy tia sáng nào. Cảnh sát bắt giữ Boone ngay, để cho vài phút liên hệ với tên chủ nhà, nhưng sai lầm này được sửa chữa, bị bắt và lục soát, nhưng tìm thấy cái gì có thể buộc tội . Đúng là có vài vết máu tay áo sơ mi phía bên phải của , nhưng chỉ vào ngón tay đeo nhẫn, có vết đứt. còn thêm, trước đó lâu đứng tại cửa sổ, những vết máu ở đó, cũng là máu của . Về điều bà St. Clair xác nhận rằng bà thấy chồng mình tại cửa sổ, rằng có lẽ bà ta nhìn nhầm đó thôi. được đưa tới đồn cảnh sát, trong khi đó viên thanh tra ở lại trường chờ nước rút xuống.
      Khi nước rút xuống, họ thấy ông St. Clair, mà thấy cái áo khoác của ông ta. Và đố biết, họ thấy gì trong những túi áo?
      - Tôi thể tưởng tượng được.
      - Mọi túi áo đều đầy tiền kim loại: có tất cả 421 penny và 270 đồng nửa penny. Thảo nào mà nó bị nước cuốn . Giữa cái bến tàu và cái động, nước xoáy dữ dội. Có lẽ cái áo nặng trĩu nằm lại trong khi cái cơ thể trần truồng bị nước cuốn vào con sông...
      - Nhưng, tất cả những y phục khác đều được tìm thấy ở trong phòng. Chả lẽ ông ta chỉ mặc mỗi cái áo khoác?
      - bạn ạ. Có thể là các kiện chỉ mới được nhìn thấy cách khá hời hợt. Giả thử rằng gã Boone này ném St. Clair qua cửa sổ và có ai trông thấy. Rồi, làm gì? Phải thủ tiêu cái y phục! chộp lấy cái áo khoác, nhưng chỉ sắp ném nó ra, bỗng thấy rằng cái áo chìm xuống. Thời gian rất gấp rút, vì nghe tiếng xô xát ở dưới cầu thang khi người vợ cố sức chống cự để leo lên.
      lao tới cái góc bí mật nào đó, nơi tích lũy thành quả “lao động” của , nhét những đồng xu vào đầy các túi áo để chắc chắn là nó chìm xuống.
      ném nó ra, và định ném luôn những thứ khác nửa, nhưng kịp. chỉ còn đủ thời gian để đóng cửa sổ khi cảnh sát xuất .
      - Lý luận nghe được lắm.
      - Vâng, chúng ta xem đó như là giả thiết tạm thời, vì chưa có giả thiết nào tốt hơn. Cảnh sát thấy chưa có tiền án nào cả. Cuộc sống của có vẻ như là cuộc sống lặng lẽ và vô tội. nay vấn đề ngừng ở đó, và những câu hỏi cần phải được trả lời: St. Clair làm gì trong động phù dung? Tại đó, chuyện gì xảy đến cho ông ta? Và Boone có dính líu gì tới vụ mất tích của ông ta chăng?
      Bây giờ chúng ta ở vùng ngoại ô của Lee. Vậy là chúng ta ngang qua ba hạt của nước trong chuyến ngắn này. thấy làn ánh sáng giữa hai cái cây chứ? Đó là biệt thự Tuyết Tùng, bên cạnh cái đèn là người đàn bà.
      - Tại sao điều tra vụ này từ phố Baker?
      - Bởi vì có nhiều cuộc thăm dò phải thực ở đây. Bà St. Clair có lòng tốt dành riêng cho tôi phòng hai giường. Tôi muốn gặp bà khi chưa có tin gì về người chồng. Đến rồi!
      Xe chúng tôi đậu lại đằng trước biệt thự lớn. Cậu bé giữ ngựa chạy tới đầu con ngựa. Tôi nhảy xuống theo Holmes lên lối rải đá , ngoằn ngoèo dẫn đến nhà. Khi chúng tôi đến gần, cửa mở tung ra, người đàn bà tóc hung đứng bên cạnh cửa. Bà đứng đó, dáng người nổi bật lên trong làn ánh sáng chói loà, tay vịn cửa, tay kia đưa lên lưng chừng, ra vẻ trông ngóng, thân người bà hơi cúi xuống, đầu và mặt nhô ra, đôi môi hé mở, đôi mắt thiết tha như dò hỏi.
      - Thế nào? - Bà kêu lên.
      Bà cất lên tiếng rên rỉ khi bà thấy bạn tôi lắc đầu và nhún vai.
      - có tin vui?
      - .
      - có tin buồn?
      - .
      - Xin mời vào. Sau ngày dài, chắc các ông mệt?
      - Đây là bạn tôi, bác sĩ Watson. ấy giúp tôi rất nhiều trong dăm bảy trường hợp, và hôm nay, tôi may mắn kéo cùng .
      - Tôi sung sướng được gặp ông - Bà , nồng nhiệt nắm lấy tay tôi - Tôi chắc là ông thông cảm cho những sơ suất trong lúc bối rối.
      - Thưa bà. Xin bà khỏi cần khách sáo. Nếu tôi có thể giúp được gì cho bà, tôi rất vui sướng.
      - Bây giờ, ông Holmes ạ - Người đàn bà , khi chúng tôi bước vào phòng ăn sáng - Tôi rất muốn hỏi ông hai câu hỏi thẳng thắn và mong nhận được câu trả lời thẳng thắn.
      - Chắc chắn là được, thưa bà.
      - Tận thâm tâm ông, ông có nghĩ rằng ấy còn sống ?
      Sherlock Holmes dường như bối rối vì câu hỏi này.
      - Xin hãy thành ! - Bà lặp lại, đứng tấm thảm và nhìn chăm chú khi dựa lùi trong ghế.
      - Thành , thưa bà, tôi biết.
      - Ông nghĩ rằng ấy chết?
      - Vâng.
      - Bị ám sát?
      - Tôi thế. Có lẽ...
      - Thế ấy chết vào ngày nào?
      - Vào thứ hai.
      - Vậy tại sao hôm nay tôi lại nhận được lá thư của ấy?
      Sherlock Holmes nhảy ra khỏi ghế, dường như bị sửng sốt.
      - Làm sao?
      - Vâng, mới hôm nay - Bà mỉm cười, đưa mảnh giấy lên cao.
      - Tôi xem được chứ?
      - Chắc chắn rồi.
      hăm hở giật nó ra khỏi tay bà, đưa cây đèn lại gần và chăm chú quan sát. Tôi cũng rời ghế và chăm chú nhìn nó qua vai . Bì thư làm bằng giấy rất xấu, dấu bưu điện nơi gửi là Gravesend, ghi ngày gửi là chính ngày hôm đó.
      - Chữ viết xấu. Chắc chắn phải là chữ viết của chồng bà.
      - , những thứ bên trong đúng là của ấy.
      - Tôi nhận thấy rằng người đề bì thư hẳn phải hỏi địa chỉ.
      - Sao ông lại thế?
      - Cái tên người nhận thư viết bằng mực đen tuyền, tự nó khô . Còn địa chỉ có màu xam xám, chứng tỏ rằng giấy thấm được dùng đến. Nếu tất cả được viết lượt, rồi áp giấy thấm, có chữ nào đậm, chữ nào lợt. Người này viết xong cái tên, ngưng lại thời gian rồi mới viết địa chỉ, điều ấy có nghĩa là người đề bao thư biết địa chỉ của bà. Bây giờ, ta hãy xem lá thư. Hừ! Có vật gì ở đây?
      - À! Cái nhẫn của ấy.
      - Bà tin rằng chính bàn tay ông ấy viết?
      - Khi ấy viết vội, nét chữ giống nét chữ bình thường, tuy vậy tôi biết nó.
      - “Em chớ có lo sợ gì cả. Mọi việc tốt đẹp. Có sai lầm cần phải đính chính. Hãy kiên nhẫn đợi chờ . Neville”. Thư được người có ngón tay cái bẩn viết tờ giấy trắng. Phong bì được dán hồ bởi người từng nhai thuốc lá và bà có chắc là bàn tay của chồng bà ?
      - nghi ngờ gì cả chính ông ấy viết những dòng chữ đó.
      - Và chúng được gửi hôm nay tại Gravesend. Thưa bà, những đám mây tan dần, nhưng tôi dám là tai hoạ qua.
      - Nhưng chắc chắn là ấy còn sống.
      - Trừ phi đây là giả mạo khéo léo để đánh lạc hướng chúng ta. Cái nhẫn chứng tỏ được điều gì. Người ta có thể đánh cắp của ông ấy.
      - . Chính là nét chữ của ấy mà?
      - Rất có thể. Tuy thế, có thể là nó được viết vào ngày thứ hai nhưng hôm nay mới gửi .
      - Có thể như thế.
      - Như vậy, trong khoảng thời gian ở giữa hai việc đó có nhiều chuyện xảy ra.
      - Ồ, ông Holmes ạ, giữa chúng tôi có mối đồng cảm sâu sắc, cho nên nếu có gì lành xảy đến cho ấy, hẳn là tôi biết. Vào cái ngày sau cùng, khi ấy bị đứt tay trong phòng ngủ, thế mà ở trong phòng ăn, tôi chạy vụt lên cầu thang tức khắc, biết chắc chắn rằng có cái gì đó xảy ra. Tôi cảm nhận được ngay dù chỉ là chuyện vặt vãnh như thế, lẽ nào tôi lại hay biết gì về cái chết của chồng tôi.
      - Vâng, trực giác của người phụ nữ đôi khi có giá trị hơn suy luận, phân tích. Và trong vụ lá thư này, chắc chắn bà có vài bằng chứng ủng hộ cho quan điểm của bà. Nhưng nếu chồng bà còn sống và có thể viết thư, tại sao ông ấy lại phải ở xa bà?
      - Tôi thể hiểu được.
      - Ngày thứ hai, ông ấy gì trước khi chứ?
      - .
      - Bà có ngạc nhiên khi thấy ông ấy tại hẻm Swandam.
      - Rất kinh ngạc.
      - Cánh cửa sổ mở?
      - Vâng.
      - Vậy , có thể là ông ấy gọi bà?
      - Có lẽ
      - Theo tôi hiểu, ông ấy chỉ kêu ú ớ, đúng ?
      - Vâng.
      - tiếng gọi cầu cứu, bà có nghĩ thế ?
      - Vâng, ấy vẫy tay.
      - Nhưng cũng có thể đó là tiếng kêu kinh ngạc. Nỗi kinh ngạc, khi bất ngờ thấy bà, cũng có thể khiến ông ấy đưa hai tay lên?
      - Có thể.
      - Và bà nghĩ rằng ông ấy bị ai đó kéo lui ra đằng sau?
      - ấy biến quá đột ngột.
      - Bà thấy ai khác trong phòng chứ?
      - Nhưng gã đàn ông nọ thú nhận rằng ta có mặt ở đó còn tên vô lại ở chân cầu thang.
      - Đúng thế. Chồng bà ăn mặc bình thường?
      - Nhưng có cổ áo sơ mi hay cravat. Tôi thấy cái cổ trần trụi của ấy.
      - Có bao giờ ông ấy về hẻm Swandam ?
      - .
      - Cám ơn bà. Đó là những điều cơ bản mà tôi muốn được biết chính xác. Bây giờ hãy ăn chút rồi nghỉ, ngày mai chúng ta bận suốt ngày.
      phòng rộng, tiện nghi, có hai giường được dành riêng cho chúng tôi, và tôi nhanh chóng chui vào trong chăn. Giờ đây, Holmes chuẩn bị cho đêm ngủ. cởi áo khoác và áo gi-lê, mặc vào áo ngủ màu thiên thanh, rồi xung quanh phòng, thu nhặt những chiếc gối và đệm từ ghế xô pha và ghế bành. Với những vật này, chồng chất chúng lại rồi ngồi lên, hai chân bắt chéo. Trong ánh sáng lờ mờ của ngọn đèn, tôi thấy ngồi đó, mắt lơ đãng nhìn lên góc trần nhà. ngồi yên lặng, nhúc nhích, ánh sáng chiếu lên dáng người , nom như con quạ già. cứ ngồi như thế đến khi tôi ngủ thiếp , và vẫn còn ngồi như thế khi tiếng kêu bất thần đảnh thức tôi dậy, mặt trời chiếu vào trong căn phòng.
      - Watson, thức rồi chứ?
      - Vâng.
      - Thích dạo buổi sáng chứ?
      - Thích.
      - Chưa ai dậy, nhưng tôi biết chỗ cậu bé giữ ngựa.
      Khi mặc quần áo, tôi liếc nhìn đồng hồ đeo tay. Chỉ mới 4 giờ 25. Thảo nào chưa có ai dậy cả. Tôi chuẩn bị chưa xong Holmes trở lại, báo tin là cậu bé chuẩn bị ngựa.
      - Tôi muốn kiểm tra lại cái lý thuyết của tôi - giày ủng vào chân - Watson ạ, tôi là trong những thằng ngốc nghếch nhất châu Âu. Nhưng bây giờ tôi có chìa khóa để mở vụ này.
      - Nó ở đâu? - Tôi mỉm cười hỏi.
      - Ở trong phòng tắm. Tôi vừa mới có mặt ở đấy, và lấy nó ra, đặt nó vào trong cái túi này, nhanh lên bạn ơi
      Chúng tôi rón rén xuống cầu thang và ra ngoài. đường có xe độc mã với cậu bé giữ ngựa đợi. Cả hai chúng tôi phóng lên, và xe lao xuống đường London. vài xe bò vùng quê rục rịch, mang rau cỏ đến thành phố, nhưng những ngôi nhà hai bên đường vẫn im lặng và vô hồn.
      - Xét về số điểm đây là vụ độc đáo - Holmes , thúc ngựa chạy nước kiệu - Thú với tôi mù như cú ngày, nhưng thà học khôn ngoan chậm chút còn hơn là bao giờ.
      Sherlock Holmes quen thuộc với lực lượng cảnh sát, vì thế mà hai cảnh sát tại cửa nhà tù giơ tay chào . người giữ đầu con ngựa, trong khi người kia dẫn chúng tôi vào.
      - Ai trực thế? - Holmes hỏi.
      - Thưa ông, thanh tra Bradstreet.
      - À, chào ông Bradstreet, ông mạnh khỏe chứ?
      viên chức khổ người cao, to béo, xuống lối lát đá, đầu đội mũ lưỡi trai chóp nhọn và áo gi-lê có khuy khuyết rùa.
      - Tôi muốn giúp việc ông - Holmes .
      - Được thôi. Xin vào phòng tôi.
      Đó là phòng kiểu văn phòng, với quyển sổ cái to tướng ở bàn, và điện thoại nhô ra từ bức tường. Viên thanh tra ngồi vào bàn giấy.
      - Tôi có thể giúp gì cho ông, ông Holmes?
      - Tôi đến là vì cái gã ăn mày tên Boone này.
      - Vâng. bị trả về khám, đợi thẩm vấn tiếp.
      - Tôi nghe như thế. có ở đây chứ.
      - Trong nhà giam.
      - có quậy .
      - Ồ, chả gây phiền hà gì cả. Chỉ mỗi cái tội là quá dơ dáy.
      - Dơ dáy?
      - Vâng. Mặt mày đen như lọ nồi. Vâng, khi nào vụ án của được giải quyết xong, phải tắm đều đặn trong tù. Nếu trông thấy , chắc ông cũng nghĩ như tôi.
      - Tôi muốn gặp .
      - Dễ thôi. lối này. Ông có thể gửi lại cái túi xách.
      - ! Tôi xin mang nó theo.
      - Được thôi.
      Ông ta dẫn chúng tôi xuống hành lang, mở cánh cửa cài then, xuống cầu thang quanh co, và đưa chúng tôi đến hành lang quét vôi trắng với hàng cửa lớn ở mỗi phía.
      - ở phòng thứ ba, phía bên phải. Đây rồi - Vị thanh tra . Ông ta đẩy lùi tấm ván ở phần của cửa lớn và liếc nhìn vào. - ngủ.
      Cả hai chúng tôi đặt mắt vào tấm lưới sắt. Người tù ngủ say, mặt quay về phía chúng tôi, thở chậm và nặng nề. Đó là gã đàn ông tầm thước, ăn mặc xơ xác, bẩn thỉu, phù hợp với nghề của , những lớp cáu ghét che phủ khuôn mặt cũng thể che giấu được cái vẻ xấu xí khủng khiếp của . vệt rộng từ cái sẹo cũ băng qua mặt từ mắt tới cằm vết sẹo làm cho môi trề ra làm lộ ba cái răng. mớ tóc đỏ quạch chảy xuống ngang qua mắt và trán.
      - đẹp trai đấy chứ. - Vị thanh tra nhận xét.
      - Đương nhiên là cần tắm - Holmes - Tôi cũng nghĩ là cần tắm nên mạn phép mang theo những thứ này.
      - Hê, hê! Ông hóm hỉnh quá đấy? - Vị thanh tra cười khúc khích.
      - Lát nữa đây, chúng ta biến thành vật đáng nể trọng hơn.
      - Vâng, ông cứ tự nhiên.
      Ông ta đút chìa khóa vào ổ khóa và tất cả chúng tôi nhàng bước vào xà lim. Kẻ ngủ xoay nghiêng mình, rồi lại ngủ ngon lành. Holmes cúi xuống cái bình nước, thấm nước vào cái bọt biển, rồi chùi lại lằn ngang qua và dọc xuống mặt người tù.
      - Xin giới thiệu với ông - to - Đây là ông Neville St. Clair.
      Khuôn mặt của người đàn ông tróc ra dưới cái bọt biển. Cái màu nâu thô kệch bay . Bay cả cái sẹo khủng khiếp chạy ngang qua mặt, và cái môi trề. cái giật mạnh nữa làm bay mớ tóc đỏ và ngồi dậy giường là người đàn ông tóc đen và da mịn, dụi mắt và ngỡ ngàng nhìn xung quanh. Rồi bỗng nhiên, kêu thét lên tiếng và buông mình xuống, úp mặt vào gối.
      - Đúng là người đàn ông bị mất tích. Tôi biết mặt ông ta qua tấm ảnh - Viên thanh tra .
      Người tù quay đầu với cái vẻ bất cần của kẻ liều mình cho số mệnh :
      - Cứ cho là thế. Và hãy cho biết, tôi phạm tội gì?
      - Cái tội thủ tiêu ông St. Clair. Ồ, thể buộc cho cái tội đó, chỉ có thể buộc về cái tội “tự ám sát” cái tên cúng cơm của mình thôi - Vị thanh tra nhe răng cười - Vâng. Tôi công tác trong ngành cảnh sát 27 năm, nhưng vụ này đúng là số .
      - Nếu tôi tên là St. Clair, ràng tôi phạm tội ác nào cả. Và như thế, tôi bị bắt giữ trái phép.
      - phải tội ác, nhưng phạm phải lầm lẫn - Holmes - Lẽ ra nên tin tưởng vợ hơn.
      - Vấn đề phải là vợ tôi, mà chính là các con tôi - Người tù rên rỉ - Xin Chúa cứu giúp tôi. Tôi thể để cho xấu hổ về cha chúng. Lạy Chúa! xấu hổ quá sức. Tôi có thể làm gì bây giờ?
      Sherlock Holmes ngồi xuống bên cạnh và dịu dàng vỗ lên vai ông ta.
      - Nếu ông thuyết phục được cơ quan cảnh sát tin rằng có ai kiện tụng gì ông, có lý do gì những chi tiết này được đăng báo. Vụ này được đem ra xử nữa.
      - Xin Chúa ban phúc lành cho ông. Tôi thà là chịu tù tội, thậm chí bị xử tử, còn hơn là để cái bí mật này phơi ra, làm nhơ nhuốc các con tôi. Các ông là những người đầu tiên nghe câu chuyện này của tôi.
      “Cha tôi là thầy giáo tại Chesterfield. Thời trẻ tuổi, tôi hay đây đó, làm diễn viên và sau cùng trở thành phóng viên của tờ báo tại London. hôm, ông chủ bút muốn có loạt bài viết về chuyện ăn xin tại thành phố và tôi tình nguyện cung cấp những bài ấy.
      Chính là nhờ đóng vai gã ăn xin, tôi viết được các bài báo theo cầu của ông chủ bút. Khi còn là diễn viên, tôi học các bí quyết hóa trang. Thế là tôi vẽ mặt, và để cho gương mặt trông càng tội nghiệp càng tốt, tôi tạo ra cái sẹo và cái môi trề bằng miếng băng dán có màu da thịt. Rồi với cái đầu tóc đỏ và bộ quần áo phù hợp, tôi đến nhà ga tại khu vực đông đúc nhất của thành phố, bề ngoài là người bán diêm, nhưng thực nhất là kẻ ăn xin. Tôi thử hành nghề trong 7 tiếng đồng hồ, và khi tôi trở về nhà vào buổi chiều, tôi thấy mình kiếm được 4 bảng 26 shilling.
      Tôi tiếp tục viết báo và quan tâm gì tới chuyện đó nữa, cho tới thời gian sau, tôi vay 25 bảng và tới ngày phải trả nợ. Tôi biết xoay đâu ra tiền. Thế rồi ý tưởng chợt đến với tôi. Tôi xin chủ nợ hoãn lại cho nửa tháng, xin ông chủ tờ báo cho tôi nghỉ mười ngày và cải trang lên thành phố ăn xin. Trong mười ngày, tôi trả xong món nợ.
      Vâng, các ông thấy đó, là khó mà trở lại làm công việc nặng nhọc để có lương 2 bảng tuần. Đó là cuộc chiến đấu trường kỳ giữa danh dự và tiền bạc, nhưng sau cùng, tiền thắng. Tôi bỏ nghề phóng viên, ngày này sang ngày khác, tôi ngồi lại góc phố để cho cái thân thể tàn tạ giả tạo này làm mủi lòng người và nhét đầy xu. Chỉ có người biết bí mật của tôi. là chủ động phù dung, nơi mà tôi thường cư trú. Gã này được tôi trả tiền phòng rất hậu, thế bí mật của tôi được giữ kín.
      Rất nhanh chóng, tôi kiếm được nhiều tiền. Tôi nghĩ rằng bất cứ người ăn xin nào cũng kiếm được 700 bảng năm như tôi, mà thường là ít hơn bởi tôi có được những ưu thế đặc biệt. Mỗi ngày, những đồng xu càng rơi vào tôi nhiều hơn, nhanh chóng xóa nhòa ký ức về cái ngày tồi tệ, khi mà tôi quyết định bỏ công việc 2 bảng tuần.
      Càng nhiều tiền, tôi càng có nhiều tham vọng. Tôi mua cái nhà tại vùng quê và cưới vợ. ai nghi ngờ về cái nghề thực của tôi. Vợ tôi chỉ biết rằng tôi có công ăn việc làm tại thành phố, nhưng là nghề gì. Thứ hai tuần trước, sau khi hành nghề xong và thay đổi y phục, tôi nhìn ra cửa sổ, thấy vợ tôi đứng ngoài đường phố, mắt dán chặt lên người tôi. Tôi kêu lên tiếng kinh ngạc, đưa tay lên che mặt rồi chạy đến tên chủ động, nài nỉ đừng cho ai lên phòng tôi. Tôi nghe giọng của vợ tôi dưới cầu thang. Tôi nhanh chóng cởi bỏ quần áo, mặc vội bộ đồ ăn xin, và hóa trang như cũ. Vợ tôi nhận ra tôi. Nhưng rồi, tôi bỗng thấy rằng người ta có thể lục soát phòng tôi và những áo quần để lại làm lộ diện tôi. Tôi mở tung cửa sổ, vì quá sức, tôi làm chảy máu vết đứt mà tôi mới bị lúc sáng trong phòng ngủ. Tôi chộp lấy cái áo khoác, để những đồng xu ăn xin vào đó. Tôi ném nó qua cửa sổ. Chưa kịp ném nốt những
      áo quần khác tôi nghe có tiếng của cảnh sát dưới gác, trong vài phút sau đó, tôi thấy mình bị bắt giữ tội ám sát ông St. Clair thay vì bị nhận diện.
      Biết rằng nhà tôi vô cùng lo lắng, tôi cởi cái nhẫn và lén trao nó cho tên chủ nhà vào lúc có ai canh chừng cùng với vài dòng nguệch ngoạc, báo cho nhà tôi biết là có gì phải lo sợ cả.
      - Lá thư mới đến tay bà ấy hôm qua - Holmes .
      - Trời ơi! Suốt cả tuần nay, nhà tôi lo lắng biết bao.
      - Cảnh sát theo dõi gã chủ động này. Và tôi hoàn toàn hiểu rằng ta khó lòng gửi thư mà bị phát giác. Có lẽ giao nó cho khách hàng nào đó và chàng này quên khuấy , để chậm vài hôm - Viên Thanh tra Bradstreet .
      - Đúng thế. Nhưng có bao giờ, ông bị phạt về tội ăn xin chưa? - Holmes hỏi.
      - Nhiều lần. Nhưng bị phạt có nghĩa lý gì đối với tôi!
      - Nhưng bây giờ phải chấm dứt thôi. Nếu muốn cảnh sát ém nhẹm vụ này, phải thủ tiêu cái gã Hugh Boone đó nhé. - Bradstreet .
      - Tôi xin thề bằng những lời thề trang trọng nhất.
      - Trong trường hợp đó, tôi nghĩ có lẽ cần phải thêm bước nào nữa trong việc điều tra. Nhưng nếu người ta lại phát ra ông hành nghề lần nữa, lúc ấy mọi bị phanh phui - Holmes .
      [1] Nguyên văn: The Cedars
      [2] Nguyên văn: the lascar

    3. tukachan

      tukachan Member

      Bài viết:
      296
      Được thích:
      13
      Chương 7: Viên ngọc bích màu xanh da trời


      Vào ngày thứ ba của lễ phục sinh, tôi ghé tới Sherlock Holmes để chúc mừng nhân ngày lễ. nằm dài văng, người khoác chiếc áo màu đỏ, bên phải là vài ba chiếc tẩu nhận đầy thuốc lá; còn bên trái là chồng báo buổi sáng nhàu nát, hình như mới đọc lướt qua. Cạnh văng là cái ghế, chỗ dựa lưng có treo chiếc mũ nỉ sờn rách, thủng vài nơi trông thảm hại. Holmes có lẽ nghiên cứu rất tường tận chiếc mũ, bởi mặt ghế có cái nhíp và chiếc kính lúp.
      - Cậu bận. - Tôi . - Tớ có quấy rầy cậu ?
      - hề gì. - trả lời. - Tớ rất sung sướng khi bên tớ có người bạn mà tớ có thể tâm bàn bạc những kết quả nghiên cứu của mình. Vật mà cậu nhìn thấy rất tầm thường, có vẻ như đáng kể...
      chỉ tay về phía chiếc mũ cũ kỹ và tiếp :
      - Nhưng có những kiện gây tò mò thích thú liên quan tới vật này, nó rất cần lời chỉ bảo cần thiết.
      Tôi ngồi ngả xuống chiếc ghế bành và sưởi ấm đôi tay bên lò sưởi, ngọn lửa reo tí tách. Trời lạnh kinh khủng, các tấm kính cửa đều đóng lớp băng dầy trông như những nét hoa văn.
      - Mặc dù chiếc mũ đẹp, nhưng nó có thể liên quan đến câu chuyện máu lửa nào chăng?! - Tôi nhận xét. - ràng nó đóng vai trò chiếc chìa khóa để mở ra những điều bí khủng khiếp nhất, và nhờ nó cậu vạch ra tên tội phạm để kết tội, trừng phạt.
      Sherlock chỉ cười.
      - , phải đâu. - - có chuyện phạm pháp nào hết, mà chỉ là chuyện buồn cười nhoi. Nơi mà bốn triệu con người chen lấn chui rúc trong gian chật hẹp vài dặm vuông chuyện này có thể xảy ra bất cứ lúc nào. Trong bể đời đồ sộ khổng lồ này bao giờ cũng có những yếu tố mơ hồ, thể hòa cùng vào những vụ án. Chúng ta cần đề cập tới những trường hợp tương tự.
      - Lại có chuyện rồi! - Tôi thốt lên. - Trong những mẩu chuyện do tớ chép lại, có ba chân dính tới vấn đề phạm pháp.
      - Hoàn toàn đúng. Tớ cũng nghi ngờ việc mọn này có gì là tội lỗi. Cậu có biết ngài Peterson, người tùy phái viên ?
      - Có biết.
      - Chiến lợi phẩm này là của ông ta.
      - Chiếc mũ này của ông ta?
      - , ông ấy tìm thấy nó. Chủ nhân chiếc mũ biết là ai. Cậu thử nhìn xem nó phải thuần túy là đồ vật cũ kỹ, mà như phái viên của nhiệm vụ quan trọng... Trước hết tớ kể cho cậu nghe chiếc mũ này lọt vào đây như thế nào?!
      Nó xuất ngay ngày đầu lễ phục sinh cùng với con ngỗng béo quay. Con ngỗng chắc là được nấu trong bếp của ngài Peterson. Câu chuyện xảy ra như sau: Vào ngày lễ phục sinh, khoảng 4 giờ sáng. Peterson - con người cao thượng và trong sạch - từ Kôrtrôd về nhà theo phố Tottenham. Dưới ánh sáng của ngọn đèn dầu, ông ta nhìn thấy trước mặt bóng người cao to loạng choạng mang mình chú ngỗng lông trắng như tuyết. Đến góc phố Goodge có mấy gã bợm trộm nhảy vồ vào người kia. thằng hất rơi chiếc mũ của ta; người lạ trong lúc chống trả vung tay lên và vô tình làm vỡ chiếc tủ kính bầy hàng ở phía sau lưng ta. Tấm kính vỡ tan thành nhiều mảnh vụn. Peterson vội vàng lao tới hòng bảo vệ người lạ mặt. Nhưng kẻ bất hạnh trong lúc hoảng sợ vì làm vỡ tấm gương, vừa nhìn thấy có người chạy tới vội vàng hốt hoảng vứt luôn chú ngỗng và ba chân bốn cẳng chuồn thẳng vào con đường ngoằn ngoèo trong góc hẻm nằm sau phố Tottenham Court Road. Peterson mặc đồ cảnh sát, điều đó làm kẻ bỏ chạy càng hoảng sợ. Khi Peterson xuất , tụi lưu manh cũng toán loạn tẩu tán. Cuối cùng chỉ còn lại ngài đặc phái viên ở giữa bãi chiến trường và nghiêm nhiên trở thành người chủ của chiếc mũ nhàu nát này với chú ngỗng mừng ngày lễ phục sinh tuyệt vời.
      - Tất nhiên con ngỗng, ngài Peterson kịp trả lại cho người lạ mặt kia chứ?
      - Chính nó mới làm cho chúng ta khổ sở. Người lạ mặt là ai? ta sống ở đâu? Ở chân trái con ngỗng có đeo chiếc thẻ mang tên “Ngài Henry Baker”. Tớ cũng tìm thấy trong tấm vải lót của chiếc mũ có hai chữ cái “H.B”. Nhưng trong thành phố có vài nghìn người có họ Baker; trong đó cũng có độ vài trăm người là Henn Baker. dễ dàng trả lại con ngỗng và chiếc mũ bị đánh mất cho ai trong số những người ấy.
      - Ngài Peterson làm gì?
      - Ông ta chỉ mang chiếc mũ cùng con ngỗng tới chỗ tớ, vì ông cho rằng tớ có khả năng giải đáp mọi câu hỏi hóc búa nhất.
      Con ngỗng chúng tớ vẫn giữ đến tận ngày hôm nay. Khi mọi việc ràng, mặc dù băng giá như thế này, chú ta vẫn còn dùng tốt chán, nên trì hoãn. Peterson xách con ngỗng đãi bạn rồi, tớ chỉ còn lại độc chiếc mũ này thôi.
      - Người ấy thông báo lên báo chí à?
      - .
      - Làm sao biết được ta là ai?
      - Bằng con đường suy luận.
      - Suy luận chỉ chiếc mũ thôi ư?
      - Tất nhiên.
      - Cậu có đùa đấy?! Cậu rút ra được gì từ cái của nợ với lớp nỉ sờn rách này?
      - Kính lúp của tớ đây, cậu cầm lấy và tự áp dụng phương pháp của tớ xem. Cậu biết phương pháp rồi, cậu hãy những gì về chủ nhân chiếc mũ.
      Tôi cầm chiếc mũ sờn rách lên, buồn bã xoay xoay nó tay. Đó là chiếc mũ hình tròn, màu đen giản dị, sờn quá nhiều, lớp lót bên trong bằng dạ sơn màu đỏ, nhưng bây giờ bạc màu hết. Nhãn hiệu của nơi sản xuất thể nào phát được. Nhờ Holmes nên tôi cũng tìm thấy phần bên có mấy chữ cái “H.B”. Tôi còn nhìn thấy mấy lỗ dùng để buộc dây, nhưng sợi dây mất. Nhìn chung, chiếc mũ có gì đặc biệt ngoài những vết sờn rách, bẩn thỉu được phủ lên bởi lớp mực.
      - có gì để cả. - Tôi và chưa trả Sherlock chiếc mũ?
      - phải, cậu nhìn thấy tất cả, nhưng cậu chịu đầu tư suy nghĩ trước những cái cậu nhìn thấy. Cậu quá rút rè trong kết luận lôgic của mình.
      - Cậu hãy cho tớ nghe, cậu rút ra được kết luận gì từ việc xem xét chiếc mũ?
      Holmes cầm chiếc mũ trong tay và, chăm chú ngắm nghía bằng ánh nhìn thông suốt mà chỉ có.
      - Tất nhiên, phải mọi đều ràng cả đâu, - nhận xét. - Có vài chi tiết cho phép ta đặt giả thiết gần đúng, cũng có những cài mà ta hoàn toàn khẳng định cách chắc chắn. Chủ nhân chiếc mũ này là người thông minh; khoảng ba năm về trước ta làm ăn khá giả; nhưng nay lại sa sút. Trước kia ta là người thận trọng, luôn hôn quan tâm chăm chút đếh hình thức bên ngoài và biết lo lắng cho ngày mai; còn giờ đây có phần cẩu thả lười biếng; tài sản ta hao tốn khá nhiều. Chúng ta có cơ sở để rằng ta chạy theo thói xấu nguy hại, chẳng hạn như rượu chè be bét.
      Chính vì thế vợ bỏ ta...
      - Holmes quý của tôi!
      - Nhưng dẫu sao trong chừng mực nào đó, ta vẫn giữ được mặt mạnh của mình.
      Holmes vẫn tiếp tục chí ý tới lời cảm thán của tôi :
      - ta sống lì ở, nhà ít ra ngoài và hoàn toàn luyện tập thể thao. Người này độ tuổi khoảng trung niên, tóc điểm bạc, ta chải tóc bằng loại dầu thơm, ta mới cắt tót cách đây lâu. Tớ khẳng định chắc chắn ở nhà ta thắp sáng bằng khí đốt.
      - Cậu chỉ đùa thôi.
      - Tuyệt nhiên đùa chút nào. Chả lẽ đến bay giờ, khi tớ kể hết cho cậu mà cậu vẫn hiểu là tại sao tớ đoán được như thế?!
      - Cậu cứ cho tớ là kẻ ngu dốt , nhưng phải thừa nhận là tớ thể nào hiểu được cách lập luận của cậu. Chẳng hạn như dựa cơ sở nào cậu cho là ta thông minh?
      Thay cho câu trả lời, Holmes kéo xụp chiếc mũ xuống tận trán, chiếc mũ che hết phần trán và sệ đến sống mũi.
      - Cậu thấy chưa, nó rộng gớm! - , - Bộ não to như thế này thể là bã đậu được.
      - Thế từ đâu cậu cho ta là nghèo khó?
      - Chiếc mũ này chủ nhân dùng độ khoảng ba năm. Vành rộng có viền bọc xung quanh - thời ấy rất mốt. Mũ thuộc loại hảo hạng, cậu thử nhìn kỹ mấy miếng dạ lót trong này xem.
      Nếu ba năm trước đây người này ám bỏ tiền ra mua chiếc mũ quý giá như thế này và cho đến tận bây giờ chưa hề mua lại chiếc khác, ràng công việc làm ăn của ta trở tồi tệ hơn.
      - Thôi tạm chấp nhận. Trong chuyện này cậu đúng. Nhưng vì sao cậu biết trước đây ta là người cẩn thận, và trong thời gian gần đây ta sống buông thả?
      - Tính cẩn tháp - Nó đấy. - và chỉ lên mấy cai lỗ để xỏ dây vào mũ. - Người ta bán mũ bao giờ bán cả dây; muốn mua dây phải mua riêng. Khi chủ nhân mua dây buộc vào mũ, ta có ý thức giữ chiếc mũ cho gió khỏi bay. Sợi dây đứt, ta mua cái mới buộc vào, có nghĩa là trước kia ta luôn luôn chú ý đến hình thức bên ngoài, còn giờ thây kệ, phớt lờ tất. Tuy nhiên về khía cạnh khác, ta vẫn muốn che đậy những vết bẩn thỉu bằng cách lấy mực phết vào; có nghĩa ta chưa phơi hoàn toàn mất hết lòng từ trọng bản thân.
      - Tất cả cứ giống như là ?
      - ta trạc tuổi trung niên. Tóc điểm bạc và ta mới cắt tóc, bôi tóc bằng đầu thơm. Dưới kính lúp, tớ nhìn thấy những sợi tóc còn dính vào lớp đệm, do người thợ cắt bằng kéo. Tất cả những vụn tóc ấy đều bốc mùi dầu thơm. Cậu có thấy , vết bẩn phải là bụi ngoài đường phố, bởi vì bụi ngoài đường phố có màu xám tro, mà là bụi trong nhà - có màu nâu lông tơ, tức là chiếc mũ phần nhiều được treo ở nhà. Phía bên trong mũ bị ẩm ướt là do chủ nhân vừa mới chạy mạch toát mồ hôi.
      - Làm sao, cậu biết ta bị vợ ruồng bỏ?
      - Chiếc mũ vài tuần nay chưa được lau chùi giặt giũ. Tớ biết nếu chiếc mũ của cậu dù chỉ tuần chưa được lau chùi vợ cậu bao giờ cho phép cậu ra đường với chiếc mũ như thế. Nếu hình hài như vậy cậu gặp phải điều bất hạnh là mất quan tâm săn sóc của vợ.
      - Nhưng lỡ ta là kẻ độc thân sao?
      - đâu, ta mang ngỗng về chỉ nhằm mục đích duy nhất là làm vui lòng người vợ. Cậu hãy nhớ tấm giấy buộc ở cẳng con ngỗng.
      - Cậu có đáp án cho tất cả câu hỏi. Nhưng tại sao nhà ta thắp khí đốt?
      - Nếu mũ của ta chỉ có hoặc hai vết sáp tớ sẵn sàng bỏ qua và cho đó là tình cờ. Nhưng ở đây tớ nhìn thấy ít hơn năm vết, chẳng nghi ngờ gì nữa là chàng thường xuyên phải dùng nến. Chẳng là ban đêm khi leo lên cầu thang, ta tay cầm chiếc mũ, tay cầm cây nến cháy vì chắc chắn dòng khí đốt bao giờ có những vết sáp nến. Thế nào, cậu đồng ý với tớ ?
      - Đúng, tất cả đơn giản và tuyệt vời. - Tôi vừa cười, vừa . - Nhưng trong câu chuyện này, tớ chưa phát được điểm nào là phạm tháp. ai bị tổn thất, thiệt hại, có ai ngoài chàng bị mất ngỗng. Cậu tự làm điên đầu cách vô tích .
      Sherlock mở miệng định trả lời, nhưng trong lúc ấy cánh cửa bật ra và ngài tùy viên Peterson hộc tốc lao vào phòng, người vẫn còn thể những nét xúc động dữ dội. Đôi gò má ta đỏ bừng.
      - Con ngỗng, cái con ngỗng. Thưa ngài Holmes! - ta cố bình tĩnh và hét lên.
      - Hãy bình tĩnh? Điều gì xảy ra? Con ngỗng ăn uống no nê và bay qua cánh cửa sổ bếp phải ?
      Holmes quay lại văng để ngắm nhìn khuôn mặt kích động của Peterson hơn.
      - Các vị hãy nhìn xem cái gì đây. Cái gì nằm trong diều con ngỗng đây?
      ta chìa tay ra. Chúng tôi nhìn thấy viên đá màu xanh da trời lấp lánh, rực rỡ trong lòng bàn tay. Viên đá hơn hạt đậu chút, trong như pha lê, rực chiếu như tia hồ quang của ánh lửa điện.
      Holmes huýt sáo và tụt khỏi ghế văng.
      - tình mà thưa ngài Pteterxôn, - . - Ngài tìm được báu vật quý giá vô cùng! Tôi nghĩ chắc ngài biết đó là vật gì rồi chứ?!
      - Viên kim cương thưa ngài! Viên đá quý! Nó tiện đứt tấm thủy tinh như cắt miếng bơ.
      - chỉ đơn thuần là viên đá quý, mà chính là viên đá quý nhất.
      - Chẳng lẽ đấy là viên ngọc bích màu xanh của bá tước phu nhân Morcar? - Tôi thốt lên.
      - Đúng như vậy. Tôi được biết nó thuộc loại nào, bởi trong thời gian gần đây tôi có đọc vài dòng trong tờ “thời báo”. Viên đá này là độc nhất trong loại của nó, mà chúng ta chỉ có thể đoán mò giá trị thực tại. Phần thưởng 1000 bảng cho ai tìm ra nó. Hình như số tiền này bằng phần trăm giá trị viên đá.
      - nghìn bảng, lạy chúa!
      Ngài tùy viên ngồi phịch xuống ghế trố mắt kinh ngạc, hết nhìn tôi lại nhìn Sherlock Holmes.
      - Phần thưởng chỉ thuần túy phần thưởng, tôi có cơ sở để cho rằng, - Holmes - Theo lời đồn đại, bá tước phu nhân sẵn sàng đổi nửa gia tài của mình để lấy lại viên đá ấy.
      - Nếu tớ nhầm, hình như nó bị mất ở khách sạn “Cosmopolitan”, - Tôi góp thêm.
      - Đúng vào ngày 22 tháng 12, cách đây vừa đúng năm ngày. chàng thợ hàn thiếc tên là John Horner bị buộc tội trong vụ ăn cắp viên đá này. Những bằng chứng chống đối ta nghiêm trọng đến nỗi việc phải đưa ra tòa. Về chuyện này hình như tớ có giữ bản tin đăng báo.
      Sherlock Holmes đào bới lục tìm ở đống báo lúc lâu cuối cùng rút ra tờ giấy, gấp lại làm đôi và đọc :
      - Vụ ăn trộm độ, trang sức quý ở khách sạn “Cosmopolitan” John Horner, 26 tuổi, thợ hàn thiếc bị kết tội ăn cắp của bá tước phu nhân Morcar viên đá quý để trong chiếc hộp vào ngày 22 tháng 12. Viên đá ấy nổi tiếng với tên “Karbuhkul màu xanh da trời”. Ngài James Ryder, nhân viên lâu năm của khách sạn , ta nhìn thấy Horner ở trong buồng vệ sinh của bá tước phu nhân đề hàn lại thanh sắt bị long ra ở tấm lưới của lò sưởi, trong ngày viên đá bị mất. Ryder ở trong phòng cùng với Horner được lát, sau đó ra vì có người gọi. Khi quay lại ta thấy Horner đâu, còn chiếc bàn giấy bị cạy bung ra, chiếc ví bằng da dê của bá tước phu nhân đựng viên đá quý mở trống rỗng bàn vệ sinh. Ryder liền báo động, ngay tối hôm đó Horner bị bắt, nhưng người ta vẫn tìm thấy viên đá, trong người ta cũng có và trong nhà cũng chẳng thấy. Catherine Cusack, hầu của bá tước phu nhân cũng khẳng định: khi nghe tiếng kêu thất thanh của Ryder, vội lao vào phòng và phát hòn đá quý cánh mà bay. Viên thanh tra sở cảnh sát Bradstreet từ bộ phận “B” đọc lệnh bắt Horner. Người bị bắt cự quyết liệt và cố chứng minh hùng hồn cho vô tội của mình. Nhưng vì trước kia Horner có tiền án về tội ăn trộm, cho nên tòa án xét xử và chuyển ta cho chung thẩm. Horner rất lo sợ và ngất xỉu khi nghe tuyên bố như vậy.
      - Đấy là tất cả tư liệu của bên cảnh sát. - Homles đăm chiêu và đặt tờ báo xuống. - Nhiệm vụ của chúng ta là phải tìm cho được câu trả lời vì sao viên đá quý lại từ chiếc ví da chui vào diều con ngỗng?! Watson cậu thấy chưa, những phán đoán khiêm tốn của chúng ta bỗng nhiên có chuyện để , nó có ích hơn là ta tưởng. Viên đá quý nằm trong con ngỗng, còn con ngỗng lại là của ngài Henry Baker, chủ nhân của chiếc mũ tồi tàn này. Người có ngoại hình mà tớ mới phác hoạ cho cậu cậu lại cho là vô tích đấy. Bây giờ chúng ta phải nghiên cứu cách tìm kiếm con người bí này nghiêm chỉnh mới được, và xác định cho ông ta đóng vai gì trong câu chuyện mờ ám này. Để tìm ông ta, chúng mình thử dùng phương pháp đơn giản nhất: Đăng thông báo lên các báo buổi chiều. Nếu hữu hiệu, tớ dùng phương pháp đặc biệt hơn.
      - Chúng ta viết gì trong thông báo?
      - Cậu lấy cho mình cây bút và tờ giấy. Tớ ghi như thế này “Chúng tôi vô tình nhặt được con ngỗng và chiếc mũ dạ màu đen ở góc phố Goodge - Ngài Henry Baker đến nhận những thứ đánh rơi trong ngày hôm nay tại hẻm Baker - 221 - B, vào lúc 18 giờ 30 phút”.
      - Rất hoàn hảo, nhưng liệu ông ta có phát được lời thông báo này ?
      - Tất nhiên là phát được. nay ông ta đọc tất cả các báo, vì ông ta là người nghèo khó và con ngỗng mừng ngày lễ phục sinh đối với ông ta là tài sản đáng giá. Ông ấy hoảng sợ đến nỗi khi nghe tiếng thủy tinh bị vỡ và nhìn thấy ngài Peterson chạy đến, cắm đầu cắm cổ chạy thẳng, nghĩ ngợi gì. Nhưng khi ở nhà, ông ta hối tiếc vì sai lầm do quá hoảng sợ mà mất chú ngỗng. Trong thông báo chúng ta có tên ông ta, và bất cứ ai quen biết cũng cho ông ta cái tin đó... Peterson ngài hãy cấp tốc đến văn phòng thông báo và xin đăng các dòng này tất cả các báo buổi chiều.
      - Đăng ở những báo nào thưa ngài?
      - Báo nào cũng được, ví dụ như báo “Globe”, “Star”, “Pall Mall”, “St. James’s”, “Evening News Standard”, “Echo” và ở các báo khác nữa, những báo nào mà ngài nghĩ ra.
      - Đồng ý, thưa ngài! Còn viên đá làm sao bây giờ?
      - Ngài cứ để đó cho tôi! Tôi giữ ở đây. đường quay về, ngài nhớ mua con ngỗng khác thế vào con mà ngài đánh chén ngon lành.
      Viên tùy phái khỏi, còn Holmes cầm viên đá quý ngắm nghía trước, ánh sáng.
      - Viên ngọc vinh quang? - , - Cậu hãy nhìn xem, nó lấp lánh và rực rỡ làm sao. Cũng như tất cả những viên đá quý khác, nó kéo những tên tội phạm về phía mình như nam châm hút sắt. Nó chính là cái bẫy của quỷ sa tăng. Trong những viên đá quý lâu đời, mỗi cara của nó đều mang theo cuộc tàn sát đẫm máu. Viên đá này có chưa đầy 20 năm, nó được tìm thấy bờ sông Amoy ở miền nam Trung Quốc. Nó đặc biệt quý ở chỗ có tính chất của hồng ngọc, duy chỉ khác ở điểm là nó phải màu hồng đỏ mà là màu xanh da trời. Mặc dù sinh sau đẻ muộn, nhưng nó cũng từng kéo theo những tấm thảm kịch rùng rợn. Vì viên đá trong suốt 40 cara này mà có nhiều vụ tranh cướp ác chiến xảy ra, hai vụ giết người, vụ tự vẫn và người bị tưới axít sunfuarich. Ai dám đồ trang sức lộng lẫy này lại dẫn lối cho con người vào nhà đá và đến giá treo cổ kia chứ? Tớ cho của nợ này vào chiếc tủ chống cháy và tớ viết thư cho bá tước phu nhân biết hòn ngọc của bà ta nằm ở đây.
      - Cậu có cho Horner vô tội ?
      - Tớ chưa khẳng định được điều gì cả.
      - Còn Henry Baker sao?
      - Chắc Henry Baker dính dáng gì. Tớ nghĩ ông ta biết con ngỗng lại trị giá đến thế (?). Cậu được trả lời chắc nhất nếu như ngài Henry Baker phớt lờ những dòng thông báo của chúng ta.
      - Đến tận bây giờ mà cậu vẫn khoanh tay ư?
      - Chưa giải quyết được gì đâu.
      - Vậy , tớ thăm bệnh nhân và đúng giờ hẹn tớ đến. Tớ muốn biết câu chuyện giật gân này dẫn đến đâu!
      - Rất hân hạnh được gặp lại cậu. Tớ ăn bữa tối vào 19 giờ. con gà gô đợi cậu đấy. Sau những kiện vừa rồi biết có ai với phu nhân Hudson kiểm tra kỹ lưỡng diều con ngỗng hay chưa?
      Tôi hơi trễ hẹn chút, quá 18 giờ 30 phút mới tới hẻm Baker.
      Khi bước gần tới cửa, tôi thấy người đàn ông cao to đầu đội chiếc mũ Scoland và khoác lễ phục cài khuy kín đến tận cằm. Vừa lúc ấy cửa xịch mở, hai chúng tôi cùng vào phòng Sherlock.
      - Nếu tôi nhầm, ngài đây là Henry Baker? - Holmes đứng lên và niềm nở đón người khách - Xin mời ngài ngồi gần lò sưởi hơn. Trời quá giá lạnh tôi cảm thấy chiếc mũ này hợp với mùa hè hơn mùa đông... Watson! Cậu đúng lúc... Chiếc mũ này là của ngài có phải ?
      - Thưa ngài, đúng... nghi ngờ gì nữa nó chính là của tôi.
      Baker là người hơi gù lưng, có cái đầu to quá cỡ, khuôn mặt thông thinh sáng sủa, chòm râu mầu hạt dẻ để như chóp nhọn. mũi và má có những vết đo đỏ bàn tay run nhè chứng tỏ lời phán đoán của Holmes về khuynh hướng chạy theo rượu chè be bét của người khách là đúng. Chiếc áo khoác bạc màu, nhưng hàng khuy được gài rất cẩn thận. Thò ra ngoài tay áo là hai bàn tay khẳng khiu, hề thấy dấu hiệu nào của sung túc. Ông ta giọng khô khan, ngắt quãng và cố gắng lựa lời, tất cả toát lên ấn tượng mạnh mẽ của con người trí thức bị cuộc sống làm hư hỏng hoàn toàn.
      - Chúng tôi ngẫu nhiên phải lưu giữ chiếc mũ và con ngỗng của ngài trong vài ngày, - Holmes , - Chúng tôi hy vọng tìm được địa chỉ của ngài báo. Nhưng hiểu sao ngài lại thờ ơ.
      Người khách hơi cúi đầu vẻ ngán ngẩm.
      - Tôi nay có nhiều tiền như trước kia, - Ông ta . - Tôi nghĩ là có lẽ bọn lưu manh chén mất rồi và muốn mất thêm tiền vì chuyện phiêu lưu nữa.
      - Hoàn toàn tự nhiên, nhưng chúng tôi bắt buộc phải xơi con ngỗng của ngài.
      - Các ngài chén nó rồi sao?
      Người khách hồi hộp xúc động mạnh và ngồi yên ghế.
      - Vâng, nếu kịp thịt đến hỏng mất thôi, - Holmes trả lời. - con ngỗng trong lồng khác còn tươi rói và nặng kém con ngỗng của ngài chúng tôi định thay cho ngài?!
      - Ô! Quá tốt, tất nhiên được thưa ngài. - Baker trả lời và thở phào nhõm.
      - Con ngỗng của ngài nay chúng tôi chỉ còn bộ lòng, diều, nếu ngài muốn...
      Baker cười sung sướng:
      - Chẳng lẽ để kỷ niệm cuộc phiêu lưu. - Ông ta , - Tôi biết bộ hài cốt của “người bạn quá cố giúp ích được gì nữa? Hầm chăng? thưa ngài, nếu ngài cho phép tôi chỉ chú ý đến chú ngỗng tuyệt vời nằm trong lồng mà thôi.
      Sherlock lướt nhìn nhanh sang tôi và nhún vai.
      - Chiếc mũ và con ngỗng đây, ngài cứ tự nhiên, - , - À quên, ngài có thế cho tôi biết ngài mua con ngỗng chỗ nào vậy? Tôi rất muốn biết điều đó vì con ngỗng của ngài là béo và xơi rất tuyệt.
      - Sẵn lòng, thưa ngài! - Baker và đứng lên xách con ngỗng mới kẹp vào nách. - Cái Hội lớn của chúng tôi chuyên uống rượu ở quán “Alpha” bên cạnh viện bảo tàng ấy.
      Trong năm nay ông Windigate, chủ quán rượu, người quả là chu đáo và lo xa đứng ra thành lập “Câu lạc bộ ngỗng” - hàng tuần chúng tôi đóng góp người vài ba xu, đến lễ phục sinh mỗi người được nhận con ngỗng. Tôi vô cùng cảm ơn ngài, vì bất tiện cho người lịch thiệp trong độ tuổi của tôi lại phải đội chiếc mũ Scoland?!
      Ông ta cúi rạp xuống chào chúng tôi cách trịnh trọng rồi khỏi.
      - Với ngài Henry Baker mọi chuyện kết thúc, - Holmes , sau khi đóng cửa lại. - mồn là ông ta hề biết viên đá quý... Cậu đói chưa Watson?
      - Chưa đói lắm.
      - Tớ đề nghị chuyển bữa ăn của chúng ta vào buổi tối luôn thể. Chúng ta cần nhanh chóng lần theo dấu vết nóng hổi ngay bây giờ.
      - Đồng ý.
      Tối - trời rất lạnh, chúng tôi phải khoác bành tô và chùm khăn kín cổ. Những ngôi sao lạnh lẽo lấp lánh nền trời sâu thẳm và hơi thở của người qua lại như khói của nòng súng lục khi đồng loạt nhả đạn. Bước chân chúng tồi nện đường phố nghe khá . Chúng tôi dọc theo đại lộ Wimpole; đại lộ Harley; băng qua phố Wigmore và đến đại lộ Oxford - Khoảng 5 phút sau chúng tôi có mặt tại Bloomsbury, ngay kề quán rượu “Alphal”; chiếc quán khiêm nhường nằm ở góc phố dẫn tới Holborn. Holmes bước vào quán gọi hai vại bia. Người chủ quán mặt đỏ gay, mặc tạp dề trắng chạy ra.
      - Quán của ngài bia rất tuyệt, nhưng nó vẫn dở hơn những con ngỗng của ngài. - Holmes tỉnh bơ.
      - Quán tôi làm gì có ngỗng.
      Người chủ quán tròn mắt ngạc nhiên.
      - Ồ! Cách đây nửa tiếng đồng hồ tôi có đàm luận với ngài Henry Baker, thành viên của “Câu lạc bộ ngỗng” chỗ ngài.
      - A? Tôi hiểu rồi. Nhưng đấy phải ngỗng của tôi.
      - Thế ngỗng của ai, thưa ngài?
      - Tôi mua hai tá ngỗng của nhà buôn gần chợ Covent.
      - Ở đấy tôi biết vài người trong bọn họ, ngài mua của người nào vậy?
      - Ngài Breckinridge.
      - Ồ! Tôi quen ngài Breckinridge. - Holmes , sau khi chúng tôi bước ra ngoài trời giá rét và Holmes cài vội khuy áo bành tô lại. - Watson, được quên đầu của chuỗi xích là con ngỗng, còn đầu kia là người bị giam giữ. ta chắc bị án hơn 7 năm tù khổ sai, nếu chúng ta chứng minh được ta vô tội. Rất có khả năng cuộc truy tìm của chúng ta tìm ra được thủ phạm. Dẫu sao trong tay chúng ta cũng có sợi chỉ mà sợi chỉ này tuột khỏi tay sở cảnh sát và rơi vào chúng ta cách tình cờ nhưng đầy thi vị, hứng thú. Dựa vào đây, chúng ta lần ra đầu mối. Vòng hướng khác, bước đều, bước.
      Chúng tôi băng qua phố Holborn, dọc theo đại lộ Endell rồi vội vã vượt qua vài khu nhà tồi tàn đến chợ Covent. Chúng tôi nhìn thấy cửa hiệu lớn nhất có biển đề “Breckinridge”.
      Chủ tiệm là người có bộ mặt như ngựa: Bộ râu quai nón được chăm sóc công phu, giúp thằng bé đóng cánh cửa sổ.
      - Chào quý vị! Trời năm nay lạnh giá làm sao? - Holmes . Tay lái buôn khẽ gật đầu chào lại và ném cái nhìn dò xét rất sắc lên bạn tôi.
      - Ngỗng ông bán hết rồi à? - Holmes tiếp và giơ tay chỉ vào quầy hàng được lát bằng gạch hoa trống .
      - Sáng mai ngài muốn 500 con ngỗng có ngay.
      - Ngày mai tôi biết dùng nó vào việc gì nữa?!
      - Thế ngài đến chỗ tiệm kia kìa, nơi sang sáng đó, có khi họ còn con nào chăng?
      - Nhưng người ta cử tôi đến chỗ ngài.
      - Ai vậy?
      - Ông chủ tiệm “Alpha”.
      - À, đúng tôi bán cho ông ấy hai tá.
      - Những con ngỗng ra ngỗng! Ngài mua nó ở đâu vậy?
      Tôi sửng sốt kinh ngạc khi thấy lão nhà buôn khùng lên giận giữ khi nghe câu hỏi ấy.
      - A! Ngài muốn gì? - Ông ta ngẩng phắt đầu lên, hai tay chống nạnh thách thức, - Ngài định giở trò gì đây? Xin cứ thẳng.
      - Tôi thẳng tuột ra rồi. Tôi muốn biết ai bán cho ngài những con ngỗng mà ngài bán cho quán “Alpha”?
      - Ồ! Thế tôi đâu.
      - Ngài thích đừng , có gì quan trọng đâu! hiểu tại sao ngài lại nổi nóng vô cớ như thế?
      - Tôi nổi nóng ư? Ở vào địa vị của tôi ngài có nổi nóng ? Tôi trả món tiền lớn mua món hàng béo bở và như thế là xong xuôi tốt đẹp chứ có gì mà cứ hỏi “Những con ngỗng đâu rồi?”. “Ngài mua ở đâu?”. “Ngài bán cho ai?” “Ngài thu được bao nhiêu tiền lời?” rắc rối chỉ vì mấy con ngỗng mà xị ngậu cả lên.
      - Tôi có mối quan hệ với những người hay tò mò tọc mạch như thế. - Holmes giữ được, vội , - Ngài muốn đừng . Nhưng tôi đánh cược mất 5 bảng, con ngỗng mà tôi ăn, được nuôi ở nông thôn.
      - Ngài bị thua cuộc rồi! Con ngỗng ấy ở thành phố. - Người lái buôn .
      - thể như vậy được?!
      - Tôi đảm bảo với ngài là những con ngỗng ấy ở thành phố!
      - đời nào tôi tin được!
      - Ngài đừng nghĩ là ngài sành hơn tôi trong chuyện này. Tất cả những con ngỗng tôi bán cho quán “Alpha” đều được nuôi ở thành phố chứ phải nông thôn, ngài nghe chưa?
      - Ngài đánh lừa tôi được đâu!
      - Ngài muốn cuộc chứ?
      - Ngài chỉ mất tiền vô ích. Tôi tin vào sành sỏi của mình. Nhưng nếu ngài muốn tôi sẵn sàng cuộc với ngài để dạy cho ngài bài học về cái tính ngang bướng của mình.
      Người lái buôn nhếch mép cười mỉa.
      - Bill, con mang lại đây cho cha quyển sổ, - Ông ta .
      Cậu bé mang lại hai quyển sổ, quyển mỏng dính, còn quyển to đùng dính đầy dầu mỡ. Ông ta đặt cuốn sổ xuống dưới ngọn đèn.
      - Đây là ngài Cocksure - Người buôn , - Tôi cứ nghĩ hôm nay ông ta bán hết ngỗng rồi, nhưng trời xui đất khiến thế nào lại mang đến cho tôi con ngỗng nữa. Ngài có thấy cuốn sổ kia ?
      - sao?
      - Danh sách những người tôi thường mua hàng được ghi chép trong đó. Ở trang này là danh sách những người cung cấp hàng ở nông thôn, còn những con số nằm sau họ tên của mỗi người là chỉ số trang của quyển sổ lớn, trong đó ghi những tính toán nợ nần. Còn trang này ngài thấy chưa, nó được viết bằng mực đỏ. Đấy là danh sách những người bán hàng cho tôi ở thành phố. Xin ngài hãy căng mắt mà đọc họ tên người thứ ba, hãy đọc to thành tiếng xem nào?!
      - “Bà Oakshott; phố Brixton - 117, trang 249”, - Holmes đọc.
      - Hoàn toàn đúng, bây giờ ngài hãy lật trang 249 ở quyển sổ lớn.
      Holmes lật đến trang 249.
      - “Bà Oakshott, phố Brixton - 117, người cung cấp chim muông và các loại trứng”.
      - Ngài đọc xem cái gì ghi ở dòng cuối kia!
      - “Ngày 22 tháng 12, bán 24 con ngỗng, giá mỗi con là 7 đồng Siling 6 xu”.
      - Đúng, hãy nhớ lấy, còn phía dưới?!
      - “ bán cho ngài Windigate, chủ quán “Alpha” mỗi con 12 siling”.
      - Sao, ngài sao?
      Sherlock Holmes làm ra vẻ buồn rầu, rút tiền trong túi ra vứt nó lên bàn và ra thêm lời. Sau khi được vài mét, dừng lại dưới ngọn đèn rồi cười thỏa thích, cười rung thành tiếng.
      - Nếu may cậu gặp con người có bộ râu như thế với chiếc khăn lau màu đỏ bỏ trong túi áo cậu có thể xoay được ở ta bất cứ điều gì cậu muốn miễn là cậu đề nghị đánh cuộc, - - Tớ khẳng định là: dù phải bỏ ra 100 bảng cũng bao giờ đạt được những số liệu tương tự như thế này đâu. Những điều mà tớ thu nhận được chỉ bằng cách cùng ta tới hiệu cầm đồ Watson! Như vậy chúng ta gỡ đến nút cuối cùng của cuộn chỉ rối rồi. Chúng ta cần giải quyết nốt nhiệm vụ duy nhất cuối cùng: đến ngay nhà bà Oakshott hay để đến sáng mai?
      Qua những lời của tên lỗ mãng ấy tớ thấy là ngoài chúng ta còn có kẻ quan tâm đến những chú ngỗng đấy.
      Những tiếng ồn ào rất to bỗng vọng tới từ tiệm mà chúng tôi mới ra, cho Holmes hết câu.
      Khi quay lại, dưới ánh sáng vàng vọt của cầy đèn chao qua chao lại, chúng tôi nhìn thấy người có bộ mặt đỏ chót nhắn. Breckinridge chống nạnh đứng bên cửa tiệm, tay dứ dứ nắm đấm về phía người kia.
      - Với tôi với ngài, và với những con ngỗng thế là đủ rồi! - Breckinridge thét lên. - Quỷ tha ma bắt các người ! Nếu ngài còn đến đây với những câu chất vấn ngu ngốc - tôi thả chó ra cắn ngài đấy. Ngài cứ dẫn bà Oakshott tới đây, tôi trả lời cho bà ta, chẳng có việc gì dính tới ngài. Tôi mua ngỗng của ngài chắc?!
      - ! ! Nhưng dẫu sao con trong đó là của tôi. - Người lạ than thở.
      - Ngài cứ đến gặp bà Oakshott mà hỏi!
      - Chị ấy khuyên tôi đến gặp ngài.
      - Với tôi thế là đủ rồi! Quá thể lắm rồi! Mời ngài xéo ngay! Cút khỏi đây ngay!
      Ông chủ tiệm lao nhanh khói cửa, và con người khốn khổ kia biến vào bóng đêm bao trùm.
      - Chúng ta khỏi phải đến phố Brixton làm gì nữa, - Holmes thầm, - mà thử tới với người lạ kia có ích đấy.
      Len qua đám người tò mò bắt đầu giải tán, bạn của tôi chạy rất nhanh và đuổi kịp con người bé kia.
      Holmes nắm vai ta. Kẻ lạ mặt giật mình quay lại và dưới ánh sáng của ngọn đèn, mặt ta trắng nhợt nhạt.
      - Ngài là ai? Ngài cần gì? - ta hỏi với giọng run run.
      - Hãy tha lỗi cho tôi, - Holmes nhàng. - Tôi tình cờ nghe được câu mà ngài hỏi tên nhà buôn. Tôi nghĩ là tôi có thể giúp ích cho ngài được chăng?
      - Ngài ư? Nhưng ngài là ai? Từ đâu ngài biết được tôi cần gì?
      - Tôi tên là Sherlock Holmes. Nghề nghiệp của tôi là biết những gì người khác biết được.
      - Nhưng chuyện mà tôi muốn biết, ngài thể nào biết được đâu?!
      - Xin ngài bỏ qua cho đường đột, nhưng tôi biết tất cả. Ngài mưu toan tìm theo dấu vết những con ngỗng mà bà Oakshott ở phố Brixton bán cho nhà buôn có tên Breckinridge, nhà buôn này lại bán chúng cho ngài Windigate - chủ tiệm rượu “Alpha”. Đến lượt mình ngài Windigate lại phân phát cho các thành viên trong “Câu lạc bộ ngỗng” của mình. Ngài Henry Baker là trong những thành viên ấy.
      - Ồ! Ngài chính là người mà tôi mong gặp! - Người lạ thốt lên mà chìa đôi bàn tay run rẩy ra. - Tôi thể diễn tả hết với ngài tất cả chuyện ấy đối với tôi nó rất quan trọng như thế nào?
      Sherlock Holmes gọi chiếc xe ngựa chạy ngang qua.
      - Tốt hơn hết chúng ta ngồi chuyện trong căn phòng ấm cúng tiện lợi hơn đứng ở đây sân chợ gió thổi lạnh giá. - Sherlock đề nghị, - Nhưng trước khi chúng ta khởi hành, ngài làm ơn cho biết quý danh?
      Người lạ chần chừ trong giây lát.
      - Tên tôi là John Robinson, - , lảng cái nhìn nơi khác.
      - , tôi muốn biết tên của ngài kia? - Holmes dịu giọng. - Làm việc với tên của mình bao giờ cũng thích thú hơn.
      Gò má nhợt nhạt của bỗng đỏ lựng lên.
      - Tên của tôi... là... James Ryder. - khó nhọc.
      - Đúng, ngài làm việc ở khách sạn “Cosmopolitan”. Mời ngài ngồi vào xe, tôi kể tất cả cho ngài nghe những gì ngài muốn biết.
      Con người bé đứng im bất động. cứ lúc liếc nhìn tôi, lúc liếc nhìn Sherlock. Niềm hy vọng mới vụt sáng trong đôi mắt bỗng đổi sang những ánh lo âu sợ hãi. suy tính biết những gì đợi , bất hạnh hay là hạnh phúc lớn lao? Cuối cùng rồi cũng phó mặc cho số phận ngồi vào xe với chúng tôi. Sau 30 phút chúng tôi ngồi trong phòng khách ở hẻm Baker.
      Trong lúc đường, chúng tôi ai với ai lời.
      Chính thế mà người bạn đường thở dồn dập và khó nhọc, hai tay nắm chặt đến nỗi cần chúng tôi cũng thấy hồi hộp và hoang mang đến cùng cực.
      - Thế là chúng ta có mặt ở nhà rồi. - Holmes vui vẻ .
      - có gì hơn cái lò cháy rực thế kia trong thời tiết khốn nạn này!
      - Hình như ngài lạnh quá phải, thưa ngài Ryder. Mời ngài ngồi vào chiếc ghế này, tôi thay đôi dép mang trong nhà là chúng ta bắt tay ngay vào công chuyện của ngài. Như vậy là ngài muốn biết điều gì xảy ra với những chú ngỗng?
      - Vâng, thưa ngài.
      - Đúng hơn, chỉ mới con ngỗng thôi, mà ngài chỉ quan tâm đến ngỗng trắng, có những đốm đen ở đuôi?
      Ryder rùng mình vì lo lắng.
      - Ô! Thưa ngài! - ta kêu lên. - Ngài có thể cho tôi biết con ngỗng ấy giờ ở đâu?
      - Nó ở đây.
      - ở đây?
      - Đúng, con ngỗng bình thường, phải vô cớ mà ngài quan tâm đến nó. Sau khi chết con ngỗng để lại cho chúng tôi quả trứng, hạt nhân có màu xanh da trời lấp lánh tuyệt vời. Viên đá vẫn ở đây.
      Người khách đứng lên chệnh choạng, bàn tay phải dựa vào cửa lò. Holmes lặng lẽ mở tủ chống cháy lấy ra viên Karbunkeil xanh lam, nó lấp lánh những tia óng ánh rực rỡ và lạnh lẽo như vì sao. Ryder đứng đực ra, khuôn mặt méo xệch và trong đôi mắt vô vọng của ánh lên lưỡng lự có nên đòi hỏi viên đá cho mình chăng? Hay từ chối mọi quyền hạn chiếm đoạt.
      - Trò chơi thất bại rồi, Ryder ạ. - Sherlock Holmes bình tĩnh . - Ngài hãy đứng cho vững kẻo bị ngã vào lửa bây giờ. Watson! Cậu giúp ta ngồi xuống. còn yếu lắm đủ sức để lừa gạt nữa đâu. Cậu lấy cho ly rượu . Như thế, bây giờ trông ta mới ra hồn người chút. Đúng là loài sâu bọ thảm hại!
      Ryder loạng choạng và chút nữa lăn quay ra sàn, nhưng nhờ có ly rượu ta gượng lại mặt hơi ửng hồng lên chút. ngồi xuống ghế như tảng thịt đổ, sợ sệt nhìn lên người tố giác mình.
      - Tôi biết hầu như tất cả, trong tay tôi có đầy đủ dẫn chứng. Cho nên ngài phải có trách nhiệm bổ sung thêm vài chỗ. Tuy nhiên ngài phải cung cấp ngay bây giờ, sao cho trong việc này tất cả đều sáng tỏ. Do đâu ngài biết viên đá quý Karbunkul của bá tước phu nhân Morcar?
      - Tiểu thư Catherine Cusack , - trả lời bằng giọng run rẩy sợ sệt.
      - Tôi biết, con hầu của bá tước. món bở như thế làm cho ngài mù quáng; điều này cũng xảy ra với những con người trung thực đứng đắn chỉ vài lần. Ngài bắt đầu tìm kế thực . Tôi cảm thấy ngài có thể trở thành thằng bợm xoàng đâu! Ngài biết thợ hàn thiếc Horner lần bị kết án ăn cắp nên mọi nghi ngờ rơi vào ta trước nhất. Ngài làm gì? Có phải ngài bẻ gãy thanh ở lò sưởi trong phòng bà bá tước chăng? Ngài và con hầu cố dạo diễn để họ mời đúng chàng thợ thiếc Horner đến sửa chữa gấp. Khi Horner khỏi, ngài cuỗm ngay viên đá trong chiếc ví, xong xuôi ngài la ó lên ầm ĩ và con người đáng thương kia lập tức bị bắt. Còn sau đó...
      Ryder bất thình lình bò xuống tấm thảm rồi lấy hài tay ôm chật đầu gối của bạn tôi.
      - Hãy vì Chúa, ngài thương hại lấy tôi! - gào lên thảm thiết - Ngài hãy nghĩ đến cha tôi, mẹ tôi. Điều khủng khiếp này giết chết họ mất. Tôi chưa bao giờ ăn cắp! Chưa bao giờ! Tôi hứa với ngài điều đó bao giờ lặp lại nữa! Mong ngài tha tôi đừng đưa chuyện này ra toà! Vì chúa xin ngài đừng chuyện tôi trước tòa.
      - Im ! - Holmes lạnh lùng - Bây giờ ông quỳ lạy van xin khúm núm mới dễ làm sao! Còn ông nghĩ gì khi ông đẩy con người khốn khổ đáng thương kia ngồi vào ghế bị cáo khi ta hoàn toàn vô tội?
      - Tôi chạy trốn, thưa ngài Holmes! Tôi từ bỏ nước , khi đó lời buộc tội đối với ta hết...
      - Khoan , chúng tôi đề cập tới điều thỉnh cầu. Còn bây giờ ông hãy kể cho chúng tao nghe câu chuyện kỳ thú kia. Bằng cách nào viên đá lại lọt vào con ngỗng và con ngỗng bị đẩy ra chợ bán? Hãy , bởi vì là con đường duy nhất cứu thoát mày.
      Ryder lấy lưỡi liếm liếm đôi môi nứt nẻ.
      - Tôi kể cho ngài tất cả , - thề thốt. - Khi cảnh sát bắt Horner, tôi quyết định thượng sách là phải tẩu tán viên đá , trong lúc cảnh sát chưa có ý nghĩ lục soát người tôi và căn phòng của tôi. Trong khách sạn có chỗ thích hợp đề giấu viên đá. Tôi rời khách sạn như giải quyết công việc thường ngày, rồi đến ngay nhà chị tôi. Chị tôi lấy chồng là ông Oakshott sống ở phố Brixton, làm nghề chăn nuôi gia cầm. Mỗi khi bắt gặp bất cứ người nào, tôi đều có cảm giác họ là cảnh sát hoặc là thám tử. Mặc dù trời rất lạnh, nhưng mồ hôi tôi vẫn tuôn ra như mưa đá. Chị tôi hỏi là có chuyện gì mà sao trông nhợt nhạt thế. Tôi trả lời rằng tôi lo sợ hồi hộp vì vụ mất cắp đồ trang sức quý ở khách sạn tôi làm. Sau đó, tôi ra phía sau hè, lấy thuốc ra hút và bắt đầu nghĩ cách đối phó.
      - Tôi có bạn thân - Tên là Maudsley. ta chạy trốn đường tới nhà tù Pentonville. lần chúng tôi gặp nhau, chuyện về những người trộm cắp thực những vụ trộm như thế nào? Tôi nghĩ là ta phản đối, vì ta trốn chạy pháp luật. Tôi quyết định thẳng tới chỗ ta ở Kilburn và kể lại tất cả bí mật của mình. Chắc ta cho tôi cách biến viên đá thành những đồng tiền. Nhưng làm thế nào để đến được chỗ ta. Tôi hồi hộp nghĩ lại phút giây lo âu nghi hoặc đau đớn giày vò mà tôi trải qua đường từ khách sạn đến nhà chị tôi. Mỗi phút người ta đều có thể chộp tôi, lục soát và tìm thấy viên đá nằm trong túi áo của tôi. Tôi đứng dựa vào tường, nhìn ngắm những con ngỗng chạy lung tung, rúc rích dưới chân tôi. Bỗng nhiên tôi nảy ra ý nghĩ đánh lừa viên thám tử sừng sỏ nhất thế giới như thế này...
      Vài tuần trước đây chị tôi có , tới ngày lễ phục sinh tới được chị cho con ngỗng được lựa chọn kỹ càng nhất để thay món quà. Tôi biết chị tôi bao giờ cũng giữ lời hứa. Tôi quyết định lấy ngay con ngỗng từ bây giờ và nhét viên đá vào mỏ nó để mang luôn đến Kiiburn. Ở trong sân có cái chuồng, tôi đuổi con ngỗng to lông trắng có chấm đen ở đuôi vào đấy. Tôi tóm lấy con ngỗng bạnh cái mỏ ra và ấn viên đá vào họng càng sâu càng tốt, con ngỗng nuốt ừng ực, tôi lấy tay sờ soạng đẩy dấn viên đá xuống diều. Con ngỗng chống cự, lấy đôi cánh đập ầm ầm. Chị tôi nghe thế chạy ra. Khi tôi chạy lại chỗ chị đề trả lời con ngỗng trời đánh kia tuột khỏi tay tôi và nhào vô trong bầy.
      “Cậu làm cái gì con ngỗng thế Jem”? Chị tôi hỏi. “Em định bắt con ngỗng. - Tôi . - Chị hứa là tặng em con nhân ngày lễ phục sinh và em xem thử con nào mập nhất”.
      “Ồ! - Chị tôi thốt lên. - Chị lựa cho cậu con con rồi. chị gọi nó là “con ngỗng của cậu Jem”. Nó đấy, to và trắng toát kia kìa, tất cả có 26 con ngỗng trong đó có con cho cậu, con để lại nhà, còn lại nguyên hai tá đem bán”.
      “Cám ơn chị Maggie. - Tôi . - Nếu như chị cho là quan trọng, chị hãy cho em con ngỗng mà em vừa cầm trong tay lúc nãy”.
      “Con ngỗng của cậu nặng hơn con kia ít ra cũng ba pound đấy, chị nuôi nó cách đặc biệt để dành riêng cho cậu thôi”.
      “Điều đó quan trọng. Em thích chính con ấy và muốn bắt ngay bây giờ”.
      “Đó là việc của cậu. - Chị tôi và hơi tự ái. - Cậu muốn bắt con nào?”.
      “Con trắng có chấm đen ở đuôi, nó ở giữa bầy kia kìa”.
      “Cậu hãy đuổi nó ra và bắt lấy!”.
      Tôi làm như thế, thưa ngài Holmes; và tôi mang con ngỗng tới Kilburn. Tôi kể tất cả cho bạn thân. ta là người mà tôi dễ dàng dốc hết bầu tâm . cười vang sau đó chúng tôi lấy dao rạch con ngỗng ra. Tim tôi như ngừng đập.
      Khi thấy có viên đá ở đó, tôi giật mình, thế là có nhầm lẫn ghê người. Tôi để con ngỗng lại rồi vội vàng ba chân bốn cẳng phóng đến nhà chị tôi. Tôi chạy ra sau hè, đàn ngỗng biến mất.
      “Chị Maggie ơi? Đàn ngỗng đâu rồi?”. - Tôi quát lớn.
      “Đem đến nhà lái buôn hết rồi”.
      “Lái buôn nào?”.
      “Ông Breckinridge ở chợ Covent ấy”.
      “Trong bầy ngỗng của chị có mấy con lông trắng có chòm đen ở đuôi, giống như con mà em vừa cắt tiết xong đấy? - Tôi hỏi hồi hộp”.
      “Đúng đấy, Jem! Có hai con trắng chấm đen ở đuôi, chị cũng hay bị lộn lắm”.
      Thế là tôi hiểu ra tất cả. Tôi tất tưởi chạy đến ngay nhà ông Breckinridge. Nhưng ông ta bán tất cả số ngỗng đó rồi, và ông ấy nhất quyết chịu hé răng là ông ta bán cho ai.
      Chính ngài chứng kiến những lời lẽ thô tục của ông ta. Chị tôi nghĩ tôi bị thần kinh và, chính tôi cũng có cảm giác là mình điên thực . Thế là... thế là... tôi... tên kẻ trộm nhơ nhuốc mặc dù tôi có ý định làm giầu, ôi, vì viên đá mà tôi làm hại cả cuộc đời thanh thản của mình. Lạy chúa! Hãy cứu giúp tôi! Lạy chúa! Hãy cứu con với!
      bỗng khóc òa lên, hai tay ôm tấy mặt cách thiểu não, toàn bộ cơ thể như còn sinh khí. Im lặng kéo dài, thỉnh thoảng chỉ nghe thấy những tiếng thở dài của Ryder và tiếng gõ khe khẽ đều đặn của Holmes xuống cạnh bàn. Bỗng Sherlock Holmes đứng dậy và mở toang cánh cửa ra.
      - Hãy cút khỏi nơi đây! - .
      - Như thế là thế nào? Thưa ngài! - lắp bắp . - Ồ bầu trời làm cho ngài vinh quang và cao thượng.
      - Đừng nữa, hãy cút khỏi nơi đây ngay!
      cần nhắc lại, những bước chân hăm hở vang dội dưới cầu thang, tiếng cánh cửa đóng ở phía dưới và từ ngoài phố vọng lên những bước chân chạy vội vàng.
      - Rốt cuộc, Watson, - Holmes và đưa tay lên lấy tẩu thuốc. - Tớ làm việc tuyệt nhiên phải để sửa chữa những sai lầm bị hớ của bên cảnh sát. Nếu chàng Horner bị đe doạ bởi mối nguy hiểm lại là chuyện khác. Nhưng Breckinridge thể chống lại ấy, việc được giải quyết ổn thoả cho cả hai. Có thể tớ là kẻ che giấu những tên bịp bợm, nhưng đúng hơn là tớ cứu con người trước cái chết và sụp đổ hoàn toàn. Với chàng Breckinridge, trường hợp tương tự như thế này bao giờ lặp lại nữa. ta hoảng sợ quá mức chịu đựng. Cuộc đời oái oăm cứ bắt chúng ta phải va chạm với những trò đánh đố kỳ quặc! Giải đáp những câu chuyện hóc búa kia, đó chính là phần thưởng và là niềm vinh quang cho chúng ta. Cậu làm ơn gọi chuông hộ tớ với. Chúng ta lại tiếp tục câu chuyện mới - nhân vật là chú gà gô đợi chúng ta.

    4. tukachan

      tukachan Member

      Bài viết:
      296
      Được thích:
      13
      Chương 8: Dải băng lốm đốm


      sáng sớm tháng tư năm 1883, vừa thức giấc, tôi thấy Sherlock Holmes, ăn mặc tề chỉnh đứng bên đầu giường mình. Lệ thường, hay dậy muộn; mà theo đồng hồ lúc này chỉ mới 7 giờ 15. Tôi ngước nhìn , hơi ngạc nhiên. Ánh mắt tôi cũng thoáng vẻ bực dọc, vì chính tôi cũng quen dậy muộn.
      - Tôi lấy làm tiếc là đánh thức dậy. - Holmes
      - Có chuyện gì thế? Hỏa hoạn à?
      - , có thân chủ chờ. tiểu thư trẻ thảng thốt lo âu và khẩn khoản xin gặp tôi. ấy ngồi đợi dưới phòng khách. Khi những tiểu thư trẻ dám băng qua thành phố vào lúc mới rạng sáng như thế này và dám đánh thức những người chưa quen biết dậy, chắc hẳn họ phải gặp chuyện gì đó rất đáng lo. Vụ này có lẽ rất thú vị, đáng cho ghi chép, nên tôi tin chắc, muốn theo dõi ngay từ đầu. Tôi nghĩ nên đánh thức , để khỏi bỏ lỡ dịp may.
      - Ồ, bạn vàng, tôi đời nào chịu để lỡ dịp may, vì bất cứ lý do gì.
      Tôi hối hả mặc quần áo, và chỉ vài phút sau theo chân bạn tôi xuống phòng khách. tiểu thư mặc bộ quần áo đen, gương mặt khuất sau tấm mạng thó, ngồi bên cửa sổ, vội đứng ngay dậy khi chúng tôi bước vào.
      - Chào tiểu thư, - Holmes niềm nở - tôi là Sherlock Holmes. Còn đây là bạn tôi, bác sĩ Watson. Tiểu thư có thể trò chuyện với ấy cởi mở, như với chính tôi. À, rất mừng là bà Hudson tinh ý nhóm giúp lò sưởi. Tiểu thư nên ngồi gần thêm chút nữa cạnh lò sưởi và tôi xin phép được mời tiểu thư tách cà phê nóng, vì tôi thấy tiểu thư rét run lên.
      -Tôi run phải vì trời lạnh. - khẽ đáp.
      - Vậy vì lý do gì?
      - Vì sợ, thưa ông. Vì kinh hoàng.
      Vừa , vừa nâng tấm mạng che mặt lên, và chúng tôi thấy thảng thốt trong nỗi kinh hoàng. Sắc mặt tái mét ánh mắt lộ vẻ khiếp sợ, như ánh mắt con thú săn bị bủa vây. Trông bề ngoài, chỉ trạc ba mươi, nhưng mái tóc điểm bạc đôi chỗ, còn cử chỉ lộ vẻ uể oải mỏi mệt. Chỉ bằng khóe mắt từng trải của , Sherlock Holmes biết về đủ mọi điều.
      - đừng sợ, - - chúng tôi giúp sớm giải thoát được mọi ưu phiền. Tôi chẳng chút hồ nghi. Tôi biết vừa tới đây bằng chuyến tàu sớm nay.
      - Thế ra ông biết tôi trước lúc tôi đến đây hay sao?
      - , nhưng tôi nhìn thấy chiếc găng tay bên trái của phần còn lại của tấm vé khứ hồi. phải dậy rất sớm, rồi còn phải ngồi co ro rất lâu chiếc xe độc mã suốt cả chặng đường dài lầy lội trước lúc ra tới ga.
      bối rối, nhìn bạn tôi chằm chằm.
      - Chẳng có gì huyền bí đâu, thưa tiểu thư, - mỉm cười - ống tay áo vét mặc lấm tấm bùn, ít nhất là ba chỗ. Những vết bẩn ấy còn mới. loại phương tiện giao thông nào, ngoại trừ xe độc mã, lại có thể làm bắn nhiều bùn đất đến thế lên người hành khách; nhất là khi họ ngồi bên trái xà ích.
      - Ông hoàn toàn đúng, dù ông dùng cách nào để phán đoán như vậy. - . - Tôi rời khỏi nhà lúc gần 6 giờ, đến Leatherhead lúc 6 giờ 20 và đáp ngay chuyến tàu đầu tiên đến ga Waterloo.. Thưa ông, tôi còn chịu đựng được nữa. Tôi hóa điên mất nếu tình cảnh này cứ kéo dài. Tôi chỉ có người để nhờ vả, nhưng con người khốn khổ đó e chẳng gíup ích được bao nhiêu. Vì vậy, tôi đành tới cầu cứu ông, thưa ông Sherlock Holmes. Ông có đủ sức giúp , ít ra là cũng làm sáng tỏ ít nhiều những bí đáng sợ bủa vây tôi bốn bề?
      - Xin cứ kể hết với chúng tôi tất cả những gì có thể giúp chúng tôi hình dung được tình cảnh khiến sợ hãi.
      - Điều khủng khiếp nhất trong tình cảnh của tôi nay là những lo sợ của tôi, những lo sợ đều hết sức mơ hồ. - thân chủ đáp. - Những ngờ vực của tôi đều bắt nguồn từ những chuyện rất nhặt, đến nỗi người khác có thể cho là vớ vẩn. Nhưng tôi nghe đồn chỉ có ông, thưa ông Sherlock Holmes, mới thấu hiểu hết tâm địa hiểm ác của người đời. ông mới có thể khuyên tôi nên xoay xở thế nào trong những hiểm họa bủa vây quanh tôi.
      - Tôi lắng nghe đây, thưa .
      - Tôi tên là Helen Stoner. Tôi ở với ông bố dượng. Ông ấy là người cuối cùng còn sống của dòng họ Saxon lâu đời nhất quốc, dòng họ Roylott xứ Stoke Moran, tại cực tây này, giáp ranh với Surrey.
      Sherlock Holmes gật đầu
      - Tôi được nghe khá nhiều đến cái tên đó - .
      - Có thời, họ từng là dòng họ giàu có nhát quốc. Lãnh địa họ, ở mạn bắc, vắt qua cả biên giới, ăn sâu vào tận Berkshire, và ở mạn Tây - tận Hampshire. Nhưng vào cuối thế kỷ trước, cả bốn thế hệ liền mặc sức phung phí và chẳng buồn làm gì. Trong thập niên 1820, những gì còn sót lại bị gã máu mê cờ bạc nướng hết vào các trò đen đỏ, ngoài trừ vài mẫu đất và tòa nhà cũ, xây từ hai trăm năm trước. Viên điền chủ cuối cùng của dòng họ đành phải lui về cư ngụ tại ngôi nhà nọ, sống cuộc đời thảm hại của người quí tộc nghèo. Nhưng cậu con trai độc nhất của ông ta, người là bố dượng tôi, hiểu rằng phải tìm cách thích nghi với tình cảnh mới. Ông ấy cố kiếm được mảnh bằng bác sĩ, rồi lên đường sang Calcutta. Tại đây, ông ta nhờ có tay nghề và đức kiên nhẫn, nên chẳng bao lâu sau được đông đảo khách hàng tín nhiệm. Nhưng rồi nhà ông ta bị mất cắp, khiến ông ta tức điên người, đánh gia nhân người bản xứ đến chết, và chật vật lắm ông ta mới thoát khỏi bản án xứ giảo. Sau vụ đó, ông ta phải chịu cảnh tù tội rất lâu, nên khi được thả ông trở về quốc trong tâm trạng thất vọng và bi quan.
      Hồi còn làm bác sĩ ở Ấn Độ, Roylott kết hôn với mẹ tôi, bà Stoner, quả phụ trẻ, vốn là vợ của Thiếu tướng Stoner, chỉ huy pháp binh tại Bengal. Tôi và Julia, chị tôi, là hai chị em sinh đôi. Hồi mẹ tôi bước nữa, hai chúng tôi mới 20 tuổi. Mẹ tôi có khoản tiền khá lớn, mỗi năm được hưởng dưới ngàn bảng lợi tức. Bà giao hết khoản tiền đó cho bác sĩ Roylott cai quản, vì hai chị em tôi còn phải sống cùng ông bố dượng, và dặn ông ta phải chia đôi cho hai chúng tôi khi nào chúng tôi lấy chồng. Mẹ tôi qua đời chỉ ít lâu sau ngày chúng tôi trở về : bà chết cách đây 8 năm trong vụ tai nạn hỏa xa gần Crewe. Ngay sau ngày đó, bác sĩ Roylott lập tức bỏ ý định ở lại Luân Đôn hành nghề, và đưa hai chị em tôi về Stoke Moran, sống tại ngôi nhà được thừa kế. Khoản tiền mẹ tôi để lại thừa đủ chu cấp cho mọi sở thích của chúng tôi, và tưởng chừng chẳng có gì ngăn trở chúng tôi sống hạnh phúc.
      Nhưng đúng vào thời kỳ đó, tính khí bố dượng tôi bỗng thay đổi hẳn. Thay vì kết thân và tới viếng thăm những người hàng xóm, mới đầu rất hồ hởi khi được gặp lại người thuộc dòng dõi Roylott trở về sống tại quê cũ, ông ta cứ ru rú suốt ngày ở nhà. Ông ta chẳng mấy khi bước ra ngoài, và hễ ra đến ngoài lần nào cũng gây gổ dữ dội với bất cứ ai chạm trán với ông đường . Cái tính hay có những cơn giận hung hãn thành tật cố hữu của cánh đàn ông dòng họ Roylott. Và đến đời bố dượng tôi, các tật đó lại càng tăng thêm, có lẽ vì ông ta sống quá lâu ở miền nhiệt đới. loạt những vụ ẩu đả tồi tệ xảy ra, trong đó có hai vụ phải kết thúc ở đồn cảnh sát. Rốt cục, ông ta trở thành nỗi kinh hoàng của cả làng, và dân ở đấy ai cũng vội vã tránh mặt ông ta, vì ông ta có thế lực phi thường và hoàn tòan thể tự kiềm chế, khi nổi cơn thịnh nộ.
      Bạn bè độc nhất của ông ta là những người Gipsy sống lang thang nay đây mai đó; ông cho họ dựng lều trại mảnh đất , diện tích chỉ vài hecta của dòng họ để lại. Ông ấy thích lang thang đây đó cùng họ; có lần vắng nhà hàng tuần. Ông ta cũng thích những giống vật Ấn Độ, được ngừơi quen gửi tận bên đó về. ông nuôi con báo bờm, giống Cheetah, và con khỉ đầu chó, nòi Baboon, suốt ngày đêm thả rông, mặc cho chúng muốn đâu . Dân làng hầu như ai cũng sợ chúng chẳng kém gì chủ chúng.
      Qua lời tôi kể, chắc ông dễ dàng hình dung được là cảnh sống của chị Julia đáng thương và tôi chẳng lấy gì làm sung sưóng cho lắm. người giúp việc nào chịu nổi cảnh sống ở nhà chúng tôi, nên từ lâu lắm rồi, hai chị em tôi phải tự tay làm lấy mọi việc trong nhà. Chị tôi chết hồi chỉ mới ba mươi tuổi, và tóc chị ấy cũng điểm bạc như tóc tôi.
      - Thế chị ấy mất rồi sao?
      - Chị ấy qua đời cách nay vừa tròn hai năm. Chính tôi cũng định kể với ông về cái chết của chị ấy. Các ông thấy đấy, cảnh sống mà tôi vừa kể khiến chúng tôi còn thích giao du với bất cứ ai cùng trang lứa và địa vị. Chị em tôi có bà dì ruột, sống độc thân, tên là Honoria Westphail, bà ở mạn Harrow, nhưng họa hoằn lắm chúng tôi mới được phép đến thăm bà vài ngày. Cách đây hai năm, chị Julia có đến đó đón lễ Noel và gặp Thiếu tá Hải quân, rồi đính hôn cùng ta. Dượng tôi được biết chuyện đó sau ngày chị Julia trở về và tỏ ý phản đối cuộc hôn nhân ấy nhưng rồi hai tuần trước ngày họ định tổ chức hôn lễ, chị Julia gặp việc khủng khiép cướp mất của tôi người bạn tâm tình độc nhất đời.
      Sherlock Holmes nãy giờ ngả người vào lưng ghế, mắt lim dim, đầu tựa chiếc gối đặt tay vịn của chiếc văng. Nghe đến đó, bỗng hé mắt nhìn thẳng vào mắt .
      - Xin kể lại chuyện ấy cặn kẽ - .
      - Việc này đối với tôi rất dễ, vì mọi điều xảy ra vào khoảng thời gian kinh hoàng đó đều khắc sâu vào ký ức của tôi. Tòa nhà chính mà dượng tôi được thừa kế, như tôi vừa kể, rất cũ kỹ, chỉ còn dãy bên là còn ở được. Sàn của mấy phòng ngủ ở đây toàn là sàn đất nện; mấy phòng khách chiếm phần trung tâm tòa nhà. Trong ba phòng ngủ kia, phòng đầu là bác sĩ Roylott, phòng thứ hai là của chị tôi, còn phòng cuối dành cho tôi. Chẳng phòng nào ăn thông với phòng nào; nhưng cả ba đều có cửa mở ra dãy hành lang chung. Tôi kể như vậy, có được ạ?
      - Rất .
      - Cửa sổ ba phòng đều hướng ra phía bãi cỏ. Vào cái đêm kinh hoàng đó, bác sĩ Roylott về phòng rất sớm, nhưng chúng tôi biết ông ấy chưa ngủ, vì chị tôi phải khó chịu vì cái mùi xì gà ấn Độ rất nặng mà ông ta quen dùng. Vì vậy, chị ấy rời phòng sang bên tôi, ngồi lúc, chuyện gẫu về cái đám cưới sắp tới. Mười giờ chị ấy đứng dậy, rời phòng tôi, nhưng ra đến cửa bỗng dừng lại, ngoái nhìn sau lưng, rồi lên tiếng hỏi tô :
      - Helen,khuya khuya, em có bao giờ nghe tiếng ai đó huýt sáo ?
      - Chưa bao giờ - Tôi đáp.
      - Biết đâu em có thể huýt sáo lúc mơ ngủ?
      - thể có chuyện đó được. Nhưng tại sao chị hỏi thế?
      - Vì mấy đêm gần đây, vào khoảng ba giờ sáng, đêm nào chị cũng nghe có tiếng huýt sáo rất khẽ và . Chị vốn tỉnh ngủ, nên tiếng động đó khiến chị thức giấc. Chị thể nó từ phía nào đưa lại. Có thể là từ phòng bên, mà cũng có thể từ ngoài bãi cỏ vọng vào. Hôm qua, chị định hỏi em có nghe thấy .
      - , em nghe. Chắc là đám Gipsy đấy.
      - Có lẽ đúng vậy . Nhưng nếu quả là từ ngoài bãi cỏ vọng vào sao em nghe thấy? Lạ !
      - Ồ, em ngủ say hơn chị nhiều. Thôi, toàn chuyện vớ vẩn đâu - Chị ấy mỉm cười, khép cửa phòng tôi, và lát sau tôi nghe thấy tiếng chìa lách cách trong ổ khóa phòng chị.
      - ra là vậy! - Sherlock Holmes . - Chị bao giờ cũng khóa cửa trước lúc ngủ?
      - Vâng.
      - Sao vậy?
      - Hình như tôi kể với ông là dượng tôi có nuôi thả rông con báo bờm và con khỉ đầu chó. Hai chị em tôi chỉ cảm thấy an toàn khi khóa trái cửa sau lưng.
      - Tôi hiểu. Xin kể tiếp.
      - Đêm đó, tôi thể nào chợp mắt được. Tôi linh cảm mơ hồ điều bất hạnh sắp xuống giáng xuống đầu mình. Hai chúng tôi, hẳn ông còn nhớ, là hai chị em sinh đôi, và chắc ông cũng biết, em hay chị em song sinh vốn gắn bó với nhau mật thiết như thế nào. Đêm đó quả là đêm ghê rợ. Gió rít từng hồi, còn mưa xối xả trút nước vào cửa sổ. Bất thình lình, trong tiếng gió gào thét bỗng dậy lên tiếng rú man dại của người phụ nữ hốt hoảng. Tôi nhận ra ngay: đó là tiếng chị tôi. Tôi nhảy vội xuống đất, lao ra hành lang. Lúc mở cửa, tôi chợt nghe tiếng huýt sáo kẽ, đúng như chị tôi kể, rồi chỉ lát sau, tiếng rơi đánh sầm của vật nặng bằng kim loại. Khi tôi chạy sang, tôi thấy cửa phòng chị tôi khoá, cánh cửa từ từ xoay bản lề. Tôi kinh hãi, trố mắt nhìn, biết cái gì sắp xảy ra đây. Dưới ánh đèn treo ngoài hành lang, tôi thấy chị Julia ra sau cánh cửa, mặt trắng bệch vì khiếp sợ. Chị chới với vươn hai tay ra phía trước, cầu cứu tôi, toàn thân lảo đảo như thể say. Tôi chạy vội tới, ôm choàng lấy chị, nhưng đúng vào lúc đó, chân chị bỗng bủn rủn và chị ngã khuỵu xuống đất. Chị quằn quại vì nỗi đau đớn thể chịu đựng nổi. Mới đầu, tôi tưởng chị nhận ra mình; nhưng lúc tôi cúi xuống, chị bỗng hét lên bằng giọng mà tôi nhớ suốt đời: “Trời ơi, Helen! Cái dải băng ấy! Dải băng lốm đốm!”. Chị ấy còn cố điều gì đó nữa, tay chỉ chỉ về phía phòng ông bố dượng, nhưng cơn co giật nữa lại ập tới, cho chị thốt nên lời. Tôi vừa đứng bật dậy, vừa lớn tiếng gọi ông bố dượng, và thấy ông ta chạy vội ra khỏi phòng. người còn mặc chiếc áo ngủ lụng thụng. Khi ông ta chạy tới chị tôi bất tỉnh. Ông ta đổ rượu brandy vào miệng chị tôi, cho người gọi ông thầy thuốc trong làng nhưng mọi cố gắng cứu chữa chị tôi đều vô hiệu. Chị lả dần, rồi tắt thở, còn tỉnh lại được nữa. Người chị quí của tôi chết cách khủng khiếp như vậy đó.
      - Xin hỏi câu. - Sherlock Holmes - có tin chắc là nghe tiếng huýt sáo và tiếng rơi của vật nặng bằng kim loại? có dám thề là mình nghe lầm ?
      - Tôi cảm thấy mình lầm chút nào. Nhưng dẫu sao tôi cũng dám đoán chắc lắm, vì lúc đó gió gào thét bên ngoài và căn nhà cũ cũng phát ra đủ mọi thứ thânh giữa lúc mưa to gió lớn.
      - Chị lúc đó ăn mặc tề chỉnh?
      - ! Chỉ mỗi chiếc áo ngủ người. Bên tay phải cầm que diêm đánh lửa, còn bên tay trái - bao diêm.
      - Điều đó chứng tỏ ấy quẹt diêm lên để xem thử có chuyện gì khiến ấy sợ hãi. Chi tiết đó rất quan trọng. Vậy ông dự thẩm kết luận thế nào khi đến điều tra?
      - Ông ấy xem xét hết sức cẩn thận nội vụ, vì bác sĩ Roylott từ lâu là đối tượng khả nghi. Nhưng ông ấy tài nào tìm thấy chứng cứ gì xác đáng về nguyên nhân cái chết. Cửa phòng được khóa chặt từ bên trong. Bên ngoài cửa sổ còn có thêm lần cửa gỗ được gá những thanh sắt to bản để phòng ngừa kẻ gian. Hơn nữa, đêm nào cũng cài then cẩn thận. Tôi cũng đưa ông ấy xem tường vách : tất cả đều vẫn còn vững chãi lắm. Sàn nhà cũng được khám xét kỹ, nhưng vẫn chẳng có dấu hiệu khả nghi nào. ống khói lò sưởi tuy rộng, nhưng thể chui qua. Như vậy, chắc chắn là khi xảy ra cái tai họa bi kịch ấy, chị tôi chỉ có mình trong phòng.
      - Thế khả năng bị đầu độc?
      - Các bác sĩ cũng khám nghiệm tử thi, nhưng chẳng thu được kết quả nào.
      - Vậy, theo , lý do gì khiến người chị bất hạnh của chết thảm khốc như thế?
      - Tôi tin rằng chị ấy chỉ vì quá kinh hoàng và chấn động thần kinh, tuy thể hình dung nổi điều gì khiến chị ấy sợ hãi đến mức đó.
      - Hôm đó, đám Gipsy có mặt trong địa phận trang trại ?
      - Có, họ hầu như lúc nào cũng ở gần trang trại.
      - Này, vậy nghĩ gì về dải băng, dải băng lốm đốm, mà chị có nhắc tới?
      - Có lúc tôi nghĩ đó chỉ là những lời vô nghĩa trong cơn mê sảng của chị tôi; nhưng có lúc tôi cho rằng có lẽ chị tôi muốn tới loại băng đảng gì đấy, chắc là tới đám người Gipsy, cũng có thể là thứ khăn trùm sặc sỡ mà dân Gipsy hay dùng khiến chị ấy thốt ra hai chữ “lốm đốm” kỳ dị đó.
      Holmes lắc đầu như có ý chút nào thấy thỏa mãn.
      - Còn có cái gì khác nữa kia! - - Xin kể tiếp .
      - Hai năm trôi qua kể từ ngày đó, và cuộc sống của tôi càng trở nên lẻ loi, độc hơn bao giờ hết. Nhưng tháng trước, bạn thân mà tôi quen biết từ nhiều năm, ngỏ lời cầu hôn tôi. ấy tên là armitage, Perryarmitage, thứ nam của ông armitage ở vùng Crame Water, gần Reading. Bố dượng tôi phản đối, và chúng tôi định sang xuân tổ chức hôn lễ. Cách đây hai ngày, bác sĩ Roylott gọi thợ tới, cho sửa chữa phần trái nhà ở mạn tây. Họ đập phá vách tường căn phòng ngủ của tôi, nên tôi phải dời sang ở tạm tại căn phòng nơi chị tôi qua đời, ngủ chính chiếc giường chị ấy từng ngủ. Đêm qua, tôi nằm mà chẳng tài nào chợp mắt được, vì nghĩ tới cái chết bi thảm của chị mình. Thế rồi, các ông có hình dung được nỗi kinh hoàng của tôi. Tôi bỗng nghe thấy trongcảnh vắng lặng của đêm khuya cái tiếng huýt sáo khẽ mà chính chị tôi từng nghe thấy trước lúc chết. Tôi choàng ngay dậy, châm đèn lên, nhưng chẳng thấy gì trong phòng cả. Tôi quá hoảng sợ, nên thể lên giường ngủ tiếp, đành mặc sẵn quần áo, ngồi chờ. Thấy trời vừa sáng, tôi vội lên đường đến gặp ông ngay, để cầu cứu ông.
      - xử rất khôn ngoan, bạn tôi . Nhưng kể hết chưa?
      - Thưa ông, hết rồi.
      - Chưa đâu, Roylott ạ. bao che cho ông bố dượng của đấy.
      - Sao kia? Ông muốn ám chỉ điều gì?
      Thay vì câu trả lời, Holmes kéo cao ống tay áo của thân chủ lên. Năm vết đỏ bầm, dấu của năm ngón tay, nổi cổ tay trắng muốt của .
      - bị ông ta đối xử tàn tệ quá! - Holmes .
      đỏ bừng mặt, kéo vội ống tay áo xuống để che cái cổ tay bị bầm.
      - Ông ấy là hạng người cục súc, - - sức lực như hộ pháp, và chắc lường hết được sức mạnh của mình.
      Cả ba chúng tôi ngồi im lặng hồi lâu. Holmes tì cằm lên hai tay, nhìn chằm chằm ngọn lửa cháy trong lò.
      Mãi sau, mới lên tiếng :
      - Vụ này . Có tới hàng trăm tình tiết tôi muốn biết trước lúc quyết định phương hướng hành động. Chúng ta đừng để mất thời giờ. có thể giúp chúng tôi về Stoke Moran ngay hôm nay, để chúng tôi xem kỹ lại mấy căn phòng đó, mà dượng hề hay biết, được ?
      - Được ạ. Vì ông ấy có là hôm nay phải lên Luân Đôn thu xếp số công việc gì đó hết sức hệ trọng. Chắc ông ta vắng nhà suốt ngày, nên ai cản trở các ông đâu.
      - Tuyệt. Thế cả hai chúng tôi cùng đến. Còn , có phải thu xếp việc riêng gì nữa ?
      - Tôi có vài việc định làm gấp nhân lên đây, nhưng tôi quay về ngay bằng chuyến tàu 12 giờ, nên tôi vẫn có mặt ở nhà để tiếp đón hai ông.
      - Vậy nên đợi sẵn chúng tôi sau mười hai giờ trưa. Tôi cũng có vài việc vặt cần thu xếp. có vui lòng ở lại dùng điểm tâm với chúng tôi ?
      - Ồ , tôi phải gấp. Hy vọng gặp lại các ông vào chiều nay
      buông chiếc mạng đen xuống, rồi rời căn phòng.
      - nghĩ sao về vụ này, Watson? - Sherlock Holmes vừa hỏi vừa ngả người vào lưng ghế.
      - Tôi cảm thấy đây là vụ án đầy bí hiểm, có thể chứa đựng tội ác thâm độc.
      - Bí hiểm , mà cũng thâm độc .
      - cho biết sàn nhà, tường, vách còn rất chắc; ai có thể đột nhập qua cửa ra vào, cửa sổ, và ống khói, ràng là người chị chỉ có mình trong phòng, lúc cái chết bí hiểm kia ập đến.
      - Vậy tiếng huýt sáo lúc nửa đêm, và những lời kỳ lạ ấy thốt ra trước lúc chết phải lý giải thế nào
      - Tôi chưa thể nghĩ ra.
      - nên ngẫm nghĩ kỹ về tiếng huýt sáo giữa đêm khuya và dải băng của đám Gipsy mà lão bác sĩ chứa chấp trong địa phận của lão. Ta cũng có lý do để tin rằng lão ta rất quan tâm tới việc ngăn cản con của người vợ cũ lấy chồng. Hơn nữa, ở đây còn có lời chị nhắc tới dải băng và sau cùng, là tình tiết Helen Stoner nghe thấy tiếng rơi của vật nặng bằng kim loại. thanh đó rất có thể là do thanh sắt gá vào cánh cửa chắn bên ngoài cửa sổ phát ra, khi nó bật mạnh vào vị trí cũ. Tất cả những tình tiết đó, theo tôi, có thể giúp ta lý giải vụ án.
      - Nhưng nếu vậy đám Gipsy có liên quan gì?
      - Tôi chưa thể hình dung.
      - Tôi thấy có quá nhiều điều chống lại cái giả thuyết vừa đưa ra.
      - Tôi cũng nghĩ vậy. Chính vì lý do đó nên hôm nay chúng ta phải tới tận nơi, tới Stoke Moran. Tôi muốn biết những bằng chứng phản bác có vững hay , hay ít ra cũng hiểu được thể hơn. Ồ, lại sắp có chuyện quỷ quái gì nữa đây?
      Cửa phòng bật mở, và người đàn ông cao lớn vạm vỡ xuất . Ông ta cao đến nỗi mũ gần chạm vào thanh ngang cùng của khung cửa, và to ngang tới mức choán gần hết cả bề rộng cửa ra vào. Mặt ông ta to bè, nhăn nheo, sạm nắng và hằn sâu những dấu tích của đủ mọi thứ dục vọng quỉ quái. Ông ta đảo mắt lia lịa nhìn hai chúng tôi, và cặp mắt trũng sâu cùng cái mũi khoằm của ông ta khiến ông ta trông như con ác điểu già hung dữ.
      - Trong hai , ai là Holmes, hả? - Lão hỏi
      - Tôi đây, thưa ngài - Bạn tôi bình thản đáp.
      - Ta là bác sĩ Grimesby Roylott ở Stoke Moran.
      - Rất hân hạnh - Holmes - Mời bác sĩ ngồi.
      - Ta chẳng thèm ngồi với làm gì. Con vợ ta vừa ở đây ra. Ta lần được dấu vết nó. Nó hót gì với các , hả?
      - Trời lạnh thế này quả là trái mùa - Holmes .
      - Nó hót với những gì?- Lão rít lên, giọng tức giận.
      - Nhưng tôi nghe hoa vẫn được mùa - Bạn tôi tiếp.
      - À, định đánh trống lảng chứ gì? - Ông khách vừa vừa bước lên trước bước. - ta chẳng lạ. Ta nghe danh lâu rồi. là Holmes, gã rất hay can thiệp vào công việc người khác.
      Holmes tủm tỉm cười đắc ý.
      - Trò chuyện với ông thú vị - . - Bao giờ ra khỏi đây, ông làm ơn khép cửa hộ, vì phòng này hay có giò lùa.
      - Ta chỉ ra khỏi đây chừng nào ta hết những điều cần với . Đừng có liều can thiệp vào công việc của ta. Ta biết con Stoner mò tới đây - ta lần theo dấu vết của nó! Ta là người nguy hiểm! Nhìn đây.
      Lão bước nhanh về phía lò sưởi, cầm thanh sắt cời than, bẻ cong nó lại bằng đôi tay hộ pháp sạm nắng.
      - Liệu hồn, chớ có để bị sa vào tay ta.
      Lão gầm lên, vứt thanh cời than vào lò, rồi bỏ .
      - Quả là con người dễ mến - Holmes vừa vừa cười lớn. - Giá lão còn ở lại, tôi có thể cho lão thấy tay tôi cũng chẳng yếu hơn tay lão lắm đâu.
      chưa dứt lời, ta cầm thanh sắt cời than lên, rồi lên gân uốn thẳng nó lại như cũ.
      - Watson, bây giờ tôi bảo dọn điểm tâm; sau đó, tôi lúc, hy vọng thu thập được ít tin tức khả dĩ giúp chúng mình trong vụ này.
      * * * * *
      Khoảng giờ trưa, Sherlock Holmes trở về. cầm tay tờ giấy màu xanh, chi chít những ghi chép và những hình vẽ, những con số.
      - Tôi được tận mắt thấy bản di chúc của người vợ quá cố - - Tổng số lợi tức khoảng bảy trăm năm mươi bảng. Mỗi có quyền đòi hai trăm năm mươi bảng lợi tức khi nào họ lấy chồng. Như vậy, nếu cả hai đều lấy chồng, lão bác sĩ chỉ còn được hưởng số tiền chẳng đáng là bao; thậm chí chỉ về nhà chồng lão cũng bị thua thiệt đáng kể. Công việc của tôi sáng nay vậy là chẳng vô ích, vì nó cho thấy lão ta có đủ lý do rất hệ trọng để tìm mọi cách ngăn cản việc kết hôn của hai . Và bây giờ, nếu sẵn sàng rồi chúng ta gọi chiếc xe để ra ga Waterloo. Tôi rất biết ơn, nếu vui lòng nhét vào túi khẩu súng ngắn của . Súng với bàn chải đánh răng nữa, tôi nghĩ chúng ta chỉ cần hai thứ đó.
      Đến Waterloo, chúng tôi đáp ngay tàu lên Leatherhead, rồi thuê cỗ xe ngựa tại quán trọ gần ga. Chúng tôi lên xe ngựa, băng qua khoảng bốn năm dặm những con đường làng ngoạn mục của vùng Surry. Hôm đó thời tiết tuyệt đẹp, ánh nắng chan hòa, bầu trời hơi vẩn mây, khí sực nức mùi đất ẩm. Tôi cảm thấy có tương phản kỳ lạ giữa những dấu hiệu ngọt ngào hứa hẹn mùa xuân đẹp với công việc khủng khiếp mà chúng tôi theo đuổi. Bạn tôi ngồi đằng trước, đắm mình trong những trầm tư, hai ta khoanh trước ngực, mũ kéo sụp xuống tận mắt, cằm tì sát ngực. Nhưng bỗng vỗ vai tôi, chỉ tay về phía những cánh đồng.
      - Nhìn kìa! - .
      khu vườn sum sê cây cối trải dài sườn đồi thoai thoải. Giữa đám cây lá nhô lên cái mái cao của tòa nhà cũ tàn tạ.
      - Stoke Moran phải? - hỏi.
      - Vâng, thưa ngài, đó là dinh cơ của bác sĩ Grimesby Roylott - Người xà ích đáp - Ngài đỡ mất thời giờ hơn, nếu theo lối đường tắt băng qua đồng. Chỗ có tiểu thư kia kìa.
      - Theo tôi đó chắc là Stoner - Holmes phỏng đoán vậy.
      Chúng tôi xuống xe, trả tiền, và chiếc xe ngựa lại lóc cóc quay về Leatherhead.
      - Chào Stoner - Holmes .
      Thân chủ chúng tôi chạy vội lại đón chúng tôi, vẻ mặt mừng rỡ.
      - Tôi rất mong hai ông - reo lên, ân cần xiết tay chúng tôi. - Bác sĩ Roylott lên Luân Đôn và khó có thể quay về trước tối nay.
      - Chúng tôi có hân hạnh được gặp bác sĩ rồi. - Holmes , và vắn tắt thuật lại những gì diễn ra. Stoner tái mặt khi biết chuyện đó.
      - Trời ơi! - kêu lên. - Vậy là lão theo sát gót tôi.
      - Chắc thế.
      - Lão quỷ quyệt tới mức tôi thể biết lúc nào mình được an toàn. Lão có khi nào lão quay về ?
      - Chắc lão phải cẩn trọng, vì có thể lão hiểu rằng mình gặp đường người còn tinh khôn hơn chính lão. Đêm nay, phải khóa chặt cửa để tránh lão. Nếu lão định làm gì, chúng tôi gửi đến Harrow, ở với bà dì . Còn bây giờ, chúng ta phải tận dụng tối đa thời cơ, vì vậy, xin đưa ngay chúng tôi đến mấy căn phòng mà chúng tôi phải xem kỹ.
      Tòa nhà được xây bằng đá xám; phần giữa cao, còn hai chái xây cong. Mấy khung cửa sổ ở bên chái vỡ, nên phải bít lại bằng những thành gỗ. Ngói mát sút lở nhiều chỗ. cảnh tường đổ nát phơi bày trước mắt chúng tôi. Phần giữa nhà khá hơn ít nhiều; nhưng đại hơn cả vẫn là khối bên phải. Những tấm rèm mấy khung cửa sổ và làn khói bay lên từ mấy cái lò sưởi cho thấy cả gia đình sống tại phần này. Holmes lại bãi cỏ, chăm chú ngắm nhìn phía ngoài mấy khung cửa sổ.
      - Tôi đoán cửa sổ này là cửa phòng ngủ trước đây sử dụng; cái chính giữa là phòng của chị , còn cái kế cận với tòa nhà chính là phòng của bác sĩ Roylott, đúng , thưa ?
      - Vâng, đúng rồi. Nhưng tôi phải ngủ tại căn giữa.
      - Chỉ tạm thời trong lúc sửa chữa thôi, nếu tôi lầm. à luôn tiện cũng xin hỏi : hình như chẳng việc gì phải sửa chữa gấp như vậy phải. Vì tôi thấy bức tường ở đầu nhà còn chắc lắm mà.
      - Đúng vậy. Tôi tin chắc đó chỉ là cái cớ để bắt tôi phải chuyển phòng thôi.
      - À! Có thể đúng thế . Nay, mặt trong cái chái hẹp này có dãy hành lang mà cả ba phòng ngủ đều ăn thông ra, phải ? Bên phía đó chắc cũng phải có cửa sổ chứ?
      - Vâng, nhưng lắm. đến nỗi ai có thể chui qua được.
      - Vậy là từ mặt đó, ai có thể lọt vào phòng hai chị em , nếu đêm nào các cũng khóa chặt cửa. Bây giờ, làm ơn vào phòng và đóng chặt mấy cánh cửa chắn lại nhé.
      Stoner làm theo lời Holmes, và cố tìm mọi cách thử mở cánh cửa chắn, nhưng vô hiệu.
      - Hừm! - - Giả thuyết đầu của tôi như vậy là bị loại bỏ. ai có thể chiu qua ngả này, nếu cửa chắn bị cài chặt. Được rồi, bây giờ ta thử vào phía trong, xem có phát được gì mới .
      cánh cửa bên hông dẫn vào hành lang mà cửa của ba phòng ngủ đều ăn thông ra. chúng tôi vào căn phòng thứ nhì, là phòng ngủ của Stoner và cũng là nơi chị gặp tai họa. Đó là căn phòng , đủ tiện nghi, trần thấp và có lò sưởi lớn. cái tủ gỗ nâu đựng quần áo, có ngăn kéo, kê ở góc phòng; còn góc kia là cái gường trắng hẹp và cái bàn con đặt bên trái cửa sổ. Hết thảy những thứ vừa kể cùng hai chiếc ghế dựa là toàn bộ đồ đạc trong phòng, nếu kể tới tấm thảm trải giữa sàn. Holmes đặt vào góc phòng chiếc ghế, ngồi xuống im lặng nhìn quanh toàn bộ căn phòng, bỏ sót chi tiết nào.
      - Sợi dây kéo chuông này ăn thông vào đâu? - Mãi sau, mới lên tiếng, tay chỉ vào sợi dây giật chuông cỡ lớn buông thõng xuống sát đầu giường.
      - Nối với phòng người quản gia.
      - Trông có vẻ mới hơn mọi thứ vật dụng trong phòng.
      - Vâng. Vì mới được lắp cách đây vài năm.
      - Chắc chị đòi mắc?
      - tôi chẳng bao giờ thấy chị tôi giật chuông cả. Chúng tôi toàn tự tay làm lấy mọi việc, vì nhà nuôi người hầu.
      - Xin lỗi mấy phút nhé, tôi muốn xem kỹ thêm sàn căn phòng chút.
      bò tới bò lui, xem xét cẩn thận từng đường rãnh những tấm ván lát sàn. Cuối cùng, đến cạnh giường ngủ, nhìn chằm hằm lúc, rồi lại đưa mắt nhìn bức tường từ xuống dưới rồi từ dưới lên . Đoạn, cầm lấy dây chuông giật mạnh cái.
      - Sao nghe chuông reo gì cả? Thậm chí nó cũng chẳng được nối vào sợi dây thép kéo chuông. Lạ ! nhìn kìa, sợi dây thậm chí chỉ buộc vào cái móc sắt nằm ngay phía cửa thông gió.
      - vô lý quá! Vậy mà lâu nay tôi chẳng để ý.
      - Rất kỳ lạ! - Holmes vừa lẩm bẩm, vừa giật sợi dây. - Căn phòng này có vài điểm rất kỳ quặc. Chẳng hạn, gã thợ xây hẳn phải điên rồi lắm mới trổ cửa thông hơi sang phòng bên cạnh; lẽ ra có thể trổ ra ngoài; cũng chỉ mất chừng ấy công thôi.
      - Cái này cũng mới làm gần đây - tiểu thư
      - Chắc làm cùng lúc với sợi dây kéo chuông - Holmes nhận xét.
      - Vâng dạo đó có số thay đổi trong nhà.
      - Stoner, vui lòng cho chúng tôi sang phòng ông bác sĩ xem qua chút.
      Phòng bác sĩ Roylott rộng hơn phòng hai con riêng của bà vợ trước, nhưng đồ đạc bài trí rất đơn sơ. Chỉ có cái giường, giá sách bằng gỗ, cái ghế bành kê cạnh giường, giá sách bằng gỗ, cái ghế bành kê cạnh giường, cái ghế xếp đặt sát tường, cái bàn tròn và tủ sắt lớn. Holmes thong thả quanh phòng, xem hết sức kỹ lưỡng từng món đồ đá.
      - Tủ này đựng gì? - Holmes vừa hỏi gõ vào chiếc tủ sắt.
      - Giấy tờ làm ăn của bố dượng tôi.
      - Ồ, thế ra có dịp nhìn vào bên trong?
      - Chỉ lần duy nhất, cách đây vài năm. Tôi nhớ là trong tủ đầy ắp giấy tờ.
      - Ông ta có nuôi gì trong đó ? Như mèo chẳng hạn.
      - , ông hỏi gì lạ thế!
      - Thề nhìn đây! - cầm lên cái đĩa lót tách , đựng sữa, đặt nóc tủ.
      - , chúng tôi nuôi mèo. Nhưng có con báo bờm và con khỉ đầu chó.
      - À, vâng. Dĩ nhiên! Báo bờm chẳng qua chỉ là con mèo lớn xác thôi. Nhưng tôi nghĩ rằng đĩa sữa này e khó lòng chu cấp đủ cho con vật đó. Còn điểm nữa tôi muốn làm sáng tỏ
      lấy kính lúp ra soi lên mặt chiếc ghế gỗ, xem xét mặt ghế hết sức kỹ lưỡng.
      - Cảm ơn . Thế là rồi. - vừa vừa đứng dậy, cất chiếc kính lúp vào túi. - Chà! Món này lý thú đây!
      Vật khiến chú ý là chiếc roi , treo góc giường. Tuy nhiên, chiếc roi ấy bị uốn cong ở đầu mút, rồi thắt lại thành vòng tròn.
      - Watson, nghĩ gì về món này?
      - Đó chí là cái roi cũng bình thường thôi. Có điều tôi hiểu tại sao lại thắt vòng ở đầu mút.
      - Chẳng bình thường lắm đâu, thấy sao? Tôi nghĩ tôi xem xét xong rồi đấy, Stoner ạ. Điều hết sức hệ trọng là từ bây giờ, nhất nhất phải làm đúng những điều tôi khuyên. Vụ này nghiêm trọng lắm, ta được chần chừ phút nào nữa. Tính mạng của tùy thuộc đấy.
      - Tôi xin phó thác hết cho ông.
      - Trước hết, đêm nay cả hai chúng tôi phải ở lại trong phòng .Cả tôi lẫn Stoner đều kinh ngạc trố mắt nhìn .
      - Vâng, phải như thế mới được. Để tôi cắt nghĩa. Chắc ở đằng kia là cái quán trọ của vùng này?
      - Vâng, đó là quán trọ Crown Inn.
      - Rất tốt. Từ đó nhìn sang có thể thấy được cửa sổ căn phòng ?
      - Thấy được chứ.
      - Khi nào bố dượng về, được ra khỏi phòng, lấy cớ là bị nhức đầu. Bao giờ nghe thấy lão sửa soạn ngủ, hãy mở ngay cửa sổ, đặt lên bậu ngọn đèn để báo hiệu cho chúng tôi. Xong xuôi, mang hết những gì mình cần sang bên phòng cũ của . Tôi tin chắc rằng, tuy sửa chữa, vẫn có thể nghỉ tạm đêm bên đó.
      - Vâng, chuyện đó chẳng có gì khó.
      - Phần còn lại cứ để mặc chúng tôi lo liệu.
      - Nhưng các ông làm gì
      - Chúng tôi ngồi bên căn phòng mới của để tìm cho ra nguyên nhân của những tiếng động quấy rầy .
      - Ông Holmes, tôi tin rằng ông đến được kết luận - Stoner vừa vừa đặt tay lên ống tay áo của bạn tôi.
      - Có lẽ đúng.
      - Vậy xin ông cho tôi biết tại sao chị tôi chết.
      - Trước lúc cho biết, tôi muốn có những bằng chứng hiển nhiên hơn.
      - Ít nhất ông cũng có thể cho tôi biết là tôi đoán định như vậy có đúng : chị tôi chết vì nỗi hoảng sợ quá đột ngột?
      - Ồ , tôi cho là vậy. Tôi nghĩ là có nguyên nhân cụ thể hơn nhiều. Còn bây giờ, chúng ta phải tạm biệt nhau, vì nếu bác sĩ Roylott quay về mà bắt gặp chúng tôi ở đây, chuyển này coi như uổng công. Tạm biệt , hãy can đảm lên nhé! Nếu làm đúng những gì tôi dặn, có thể tin rằng chúng tôi sớm loại bỏ những hiểm họa rình rạp .
      * * * * *
      Sherlok Holmes và tôi thuê phòng ngủ và phòng khách tại quán trọ Crown Inn. Cả hai đều nằm ở tầng cùng, nên chúng tôi có thể nhìn dãy nhà được sử dụng trong trang trại Stoke Moran. Vào lúc nhá nhem tối, chúng tôi thấy chiếc xe ngựa chở bác sĩ Grimesby Roylott chạy ngang qua cửa sổ phòng trọ. Vóc người lão trông càng cao lớn bên cạnh cậu xà ích bé . Đến cổng, cậu đánh xe loay hoay lúc mới mở được hai cánh cổng sắt nạng, và chúng tôi nghe được cái giọng khàn của bác sĩ Roylott gầm lên, trong khi lão giận dữ khua hai nắm đấm trước mũi cậu xà ích. Cỗ xe chạy qua cổng và chỉ lát sau, chúng tôi thấy giữa lùm cây lóe lên ánh đèn mới thắp trong phòng khách tại nhà lão.
      - Watson ạ, quả tình tôi chưa dám chắc đêm nay có nên đưa cùng hay - Holmes khi chúng tôi ngồi bên nhau trong bóng tối - Tình hình chắc nguy hiểm lắm!
      - Tôi có thể giúp ích cho chút nào ?
      - Có cùng là rất quí.
      - Vậy tôi nhất định cùng .
      - Cám ơn, tốt quá.
      - đến nguy hiểm. Chắc chắn là phát được nhiều điều trong những căn phòng đó hơn tôi.
      - , tôi nghĩ rằng tôi chỉ rút ra được nhiều kết luận hơn thôi. Tôi cho rằng cũng trông thấy những gì tôi trông thấy.
      - Tôi chẳng phát được gì đáng chú ý, ngoại trừ sợi dây giật chuông. Tôi hình dung nổi sợi dây đó được dùng làm gì.
      - cũng nhìn thấy cả cái lỗ thông gió chứ?
      - Có. Nhưng tôi nghĩ rằng chẳng có gì kỳ lạ là có lối hở giữa hai phòng. Nó tới mức con chuột nhắt cũng khó chui quá.
      - Tôi biết trước thế nào chúng ta cũng phát được cái lỗ thông gió đó ngay từ khi chưa đến Stoke Moran.
      - Thế hơi quá đây, Holmes thân mến ạ.
      - Ồ, đúng thế. nhớ là Stoner cho biết chị ấy có lần ngửi thấy mùi khói xì gà của lão bác sĩ Roylott hay sao? Điều đó cho thấy ngay rằng giữa hai căn phòng tất phải có lối thông sang nhau. Có điều cái lối thông đó phải rất , nếu viên dự thẩm nhận thấy. Tôi rút ra kết luận: đó chỉ là cái lỗ thông gió.
      - Nhưng cãi lỗ đó phỏng có hại gì?
      - Ồ, ít ra cũng có trùng khớp đáng lưu ý giữa các việc: người ta trổ cái lỗ cửa thông gió ngay phía đầu giường, người ta treo sợi dây giật chuông lên, thế là ngủ cái giường kia chết. thấy trùng khớp đó là kỳ lạ?
      - Tôi vẫn chưa thấy những cái đó có gì dính dáng với nhau.
      - Thế thấy có gì kỳ lạ nơi chiếc giường ngủ kia sao?
      - .
      - Chân giường được gắn chặt vào sàn nhà. bao giờ thấy kiểu kê giường như thế chưa?
      - Có lẽ chưa bao giờ.
      - thể di chuyển được cái giường. Nó luôn được đặt cố định bên dưới lỗ thông gió và sợi dây thừng. Chúng ta có thể gọi đó chỉ là sợi thừng, vì người ta treo nó lên phải để giật chuông.
      - Holmes - Tôi reo lên - Bây giờ như tôi hiểu được lờ mờ những gì muốn . Vậy là chúng ta có mặt vừa kịp thời để chặn đứng tội ác khủng khiếp.
      - Phải, cũng khá khủng khiếp. Nhưng chúng ta còn phải nếm đủ mùi khủng khiếp chừng nào đêm nay còn chưa trôi qua. Cho nên, ta hãy bình tâm thưởng thức những tẩu thuốc này và nghĩ tới cái gì đó vui hơn trong vài tiếng đồng hồ,
      Khoảng chín giờ tối, ánh đèn giữa các lùm cây vụt tắt, cả trang trại bỗng chìm vào bóng tối. Hai tiếng đồng hồ nữa chậm chạp trôi qua, rồi thình lình ánh đèn đơn độc lóe sáng phía trước.
      - Đó là ám hiệu của chúng ta - Holmes , rồi đứng bật dậy - ánh đèn phát ra từ cánh cửa sổ ở giữa.
      Lát sau, chúng tôi xuống đường. Trời tối, gió lạnh quạt vào mặt. Ánh đèn vàng ệch đằng trước soi đường cho chúng tôi trong đêm tối. Chúng tôi lách qua giữa những gốc cây, đến chỗ bãi cỏ, rồi băng qua nó. Khi chúng tôi sắp trèo qua cửa sổ, từ trong những bụi rậm gần đó bỗng lao tới quái vật tựa như đứa bé dị dạng. Nó gieo mình xuống đất, trụ lại bốn cẳng chân co quắp, rồi lao qua bãi cỏ, mất hút vàp bóng đêm.
      - Trời ơi! - Tôi rỉ tai Holmes - có trông thấy gì ?
      Trong khoảng phút đồng hồ Holmes cũng hoảng sợ như tôi. Rồi cười khẽ và thầm vào tai tôi :
      - cơ ngơi khả ái. Con khỉ đầu chó đó.
      Tôi quên khuấy mất lũ “gia súc” kỳ quặc của lão bác sĩ hiểm độc. Thú thực, tôi cảm thấy cả người, khi noi gương Holmes, cởi giày và trèo qua cửa sổ vào phòng. Bạn tôi khẽ đóng cánh cửa chắn lại, đặt ngọn đèn lên bàn, rồi đảo mắt nhìn quanh phòng. Mọi thứ vẫn y nguyên như hồi chiều. Rồi rón rén tiến lại gần tôi, rỉ tai tôi, giọng khẽ đến mức khó lòng nghe được từng lời :
      - Chỉ tiếng động nhất cũng có thể khiến những dự tính của chúng ta tiêu ma.
      Tôi gật đầu để cho Holmes biết là tôi nghe thấy.
      - Chúng ta phải tắt đèn ngay. Lão có thể phát được ánh sáng qua lỗ cửa thông gió kia.
      Tôi lại gật.
      - Nhớ đừng ngủ gật nhé. Mạng sống của tùy thuộc vào đó. Chuẩn bị khẩu súng để khi cần, ta có thể ra tay. Tôi ngồi ở mép giường; còn , hãy ngồi tạm xuống chiếc ghế kia.
      Tôi lấy khẩu súng ngắn ra, đặt lên góc bàn.
      Holmes có mang theo cây gậy dài, mảnh. đặt nó lên mặt giường, sát bên tầm tay. Cạnh đó, đặt bao diêm và cây nến; xong xuôi, tắt đèn, và chúng tôi ngồi im trong bóng tối.
      Chắc chẳng bao giờ tôi quên được cái đêm mất ngủ khủng khiếp đó! Tôi thể nghe được thanh nào, thậm chí cả tiếng thở. Tôi biết bạn tôi ngồi cách mình mấy bước, mắt mở trừng trừng và cũng trong trại thái thần kinh cẳng thẳng như tôi. Cánh cửa chắn ngăn hết mọi thứ ánh sáng, chúng tôi ngồi trong bóng tôi dày đặc. Bên ngoài chốc chốc lại vọng vào tiếng chim ăn đêm; và có lần vang lên tiếng hú dài tựa tiếng mèo kêu: hẳn là con báo bờm được thả. Từ xa vẳng lại tiếng chuông nhà thờ điểm giờ: cứ mười lăm phút lại buông tiếng trầm trầm. Ôi, những khoảng thời gian mười lăm phút đó sao mà dài thế! Đồng hồ điểm mười hai giờ, giờ, hai giờ, rồi ba giờ..., và chúng tôi vẫn im lặng ngồi đợi xem điều gì xảy ra.
      Bỗng ánh lửa lóe lên từ bên kia lỗ cửa thông gió, rồi vụt biến mất ngay. Sau đó mùi dầu cháy và mùi sắt nung khé tlẹt bay sang. Ai đó ở phòng bên châm đèn. Tôi nghe tiếng di động rất khẽ, rồi tất cả lại chìm vào im lặng, tuy mùi khét mỗi lúc nồng nặc. Suốt nửa giờ tôi căng tai nghe ngóng. Rồi thình lình tôi nghe tiếng động khác, rất khẽ, tựa như tiếng luồng hơi nước thoát ra từ ấm đun nước. Đúng vào lúc tôi nghe thấy thanh đó, Holmes đứng bật dậy, đánh diêm và giận dữ vụt cây gậy tới tấp vào sợi dây giật chuông.
      - có thấy nó , Watson? - rít lên - có thấy nó ?
      Nhưng tôi chẳng thấy gì cả. Vào lúc Holmes đánh diêm, tôi nghe thấy có tiếng huýt sáo khẽ, nhưng . Tuy vậy, ánh lửa ở đầu que diêm đột ngột lóe sáng đập vào cặp mắt mệt mỏi của tôi, khiến tôi thể đích xác bạn tôi đập tới tấp vào cái gì. Tuy vậy, tôi có thể thấy mặt tái nhợt như xác chết và đầy kinh hãi. ngừng tay, ngước nhìn chằm chằm vào lỗ cửa thông gió, rồi giữa cảnh im ắng của đêm khuya bỗng vang lên tiếng rú kinh hoàng mà tôi chưa từng nghe thấy bao giờ. Tiếng rú mỗi lúc to hơn, tiếng rú khàn khàn, chứa đầy đau đớn, sợ hãi và phẫn nộ. Tôi đứng nhìn trừng trừng vào Holmes, còn nhìn tôi, cho tới lúc những tiếng vọng cuối cùng của tiếng rú kia chìm vào cảnh im ắng của đêm khuya như ban nãy.
      - Thế nghĩa là thế nào? - Tôi thở dốc.
      - Thế nghĩa là mọi chuyện kết thúc, - Holmes đáp - và xét cho cùng, kết thúc như thế là hay hơn cả. cầm súng lên, chúng ta vào phòng bác sĩ Roylott.
      Vẻ mặt trang nghiêm, châm đèn lên và bước ra hành lang. Tôi ngang sáng phòng bên. gõ cửa hai lần, nhưng bên trong có tiếng đáp. vặn quả đấm, rồi vào phòng. Tôi vào theo, súng lăm lăm trong tay.
      cảnh tường kỳ lạ đập vào mắt chúng tôi. bàn đặt ngọn đèn, hắt ánh sáng chói gắt lên chiếc tủ sát với cánh cửa hé mở. Ngồi chiếc ghế gỗ kê cạnh đó là bác sĩ Grimesby Roylott mình choàng chiếc áo chùng màu xám; và vắt ngang đùi lão là chiếc roi mà chúng tôi để ý tới hồi chiều. Cằm lão ta hếch lên, còn đôi mắt nhìn trừng trừng vào góc trần nhà: cái nhìn bất động trông rất khủng khiếp. Quanh đầu lão quấn dải băng màu vàng kỳ dị, điểm những đốm màu nâu sẫm. Khi chúng tôi bước vào, lão vẫn ngồi im lặng và bất động.
      - Dải băng! Dải băng lốm đốm! - Holmes khẽ thốt lên.
      Tôi bước tới bước. Ngay trong khoảnh khắc đó, dải băng bắt đầu chuyển động. Từ đám tóc của bác sĩ Roylott ngóc lên cái đầu có cạnh và cái cổ ngẳng của con rắn gớm ghiếc.
      - Đó là giống rắn độc đầm lầy! - Holmes kêu lên - Độc hơn bất cứ giống nào ở Ấn Độ. Lão ta chết mười giây sau khi bị rắn cắn. hãy nhốt ngay con rắc độc kia vào tủ sắt , rồi đưa Stoner đến nơi an toàn; xong báo cảnh sát địa phương.
      vừa , vừa rút vội cây roi đùi viên bác sĩ. tròng đầu roi vào cổ rắn, thắt lại, rồi nhốt rắn vào tủ, đóng lại.
      Đó là kiện đích thực về cái chết của bác sĩ Grimesby Roylott ở Stoke Moran. đường về vào sáng hôm sau, Holmes thêm cho tôi những việc còn lại mà tôi chưa biết về vụ này.
      - Ban đầu, tôi kết luận hoàn toàn sai - . - Điều đó cho thấy, Watson thân mến, nguy hiểm biết chừng nào khi lý giải mà chưa có đủ thông tin. còn nghi ngờ gì nữa, chính việc tội nghiệp nọ dùng dải băng đễ diễn tả những gì trông thấy nhờ ánh sáng của que diêm và cả có mặt của đám Gipsy trong trang trại - hai thứ đó gợi ra trong đầu tôi ý nghĩ hoàn toàn sai lầm. Nhưng tôi gạt bỏ ngay giả thuyết đó khi hiểu rằng thể có hiểm họa nào đe dọa ấy từ phía cửa sổ và cửa ra vào. ý nghĩ của tôi nhanh chóng đổ dồn vào cái lỗ thông gió và sợi dây giật chuông thõng xuống đầu giường, như tôi có lưu ý với .Tôi còn phát thêm được rằng sợi dây nọ chỉ là đồ giả và chiếc giường ngủ bị gắn chặt vào gỗ lát sàn. những chi tiết đó khiến tôi nghĩ ngay; sợi dây kia chỉ là thức cầu nối, giúp cho vật từ lỗ thông gío xuống giường ngủ. Tôi đoán đó phải là con rắn, vì biết lão bác sĩ có nhận số giống vật từ ấn Độ gửi sang.Tôi cảm thấy hình như mình lần ra đầu mối. Rồi tôi nghĩ tới tiếng huýt sáo. Dĩ nhiên lão phải gọi con rắn kia về trước khi trời sáng, để khỏi bị nạn nhân phát . Lão luyện cho nó chắc là bằng đĩa sữa mà chúng ta thấy, khi nghe tiếng huýt sáo mà lão gọi. Lão chỉ cho nó leo qua lỗ thông gió vào thời điểm thích hợp, và biết rằng nó theo sợi dây mà bò xuống đầu giường. Con rắn có thể cắn người ngủ giường, mà cũng có thể . Đêm đêm, có thể thoát chết trong vòng tuần nhưng sớm muộn gì rồi cũng bị nó cắn.
      Tôi đến những kết luận đó trước khi đặt chân vào phòng lão. Khi quan sát mặt ghế, tôi thấy lão hay đứng lên đó. Lão nhất thiết phải làm vậy, vì thể nào với tay tới lỗ cửa thông gió sát trần nhà. Cái tủ sắt, đĩa sữa và ngọn roi đủ để xua tan những ngờ vực còn lảng vảng trong trí tôi. Tiếng động mạnh do vật bằng kim loại phát ra, mà Stoner nghe được, ràng do ông bố dượng gây ra: lão cần đóng mạnh cánh cửa sắt để nhốt con vật nuôi đáng sợ đó. Sau khi đến những kết luận đó, tôi liền tiến hành việc chứng minh, nhưng thấy đó. Khi nghe được những tiếng động rất khẽ mà tôi nghĩ chính cũng nghe , tôi lập tức thắp đèn lên và tấn công con vật“.
      - Kết quả là đuổi nó bò trở lại lỗ thông gió.
      - Và cũng chính bằng cách đó, tôi xua nó về lại với ông chủ ngồi ở phòng bên. Bị đánh tới tấp, con rắn trúng gậy mấy lần, nó nổi giận và tấn vào kẻ đầu tiên mà nó chạm trán đường về. Và chính vì vậy, còn ngờ vực gì nữa, tôi gián tiếp chịu trách nhiệm về cái chết của bác sĩ Grimesby Roylott. Nhưng chắc là việc đó chẳng đè nặng lên lương tâm tôi lắm đâu.

    5. tukachan

      tukachan Member

      Bài viết:
      296
      Được thích:
      13
      Chương 9: Ngón tay cái của viên kỹ sư


      Từ ngày quen nhau, trong số những vụ án mà bạn tôi, Sherlock Holmes xử lý, chỉ có 2 vụ mà tôi là người dẫn tới , đó là vụ Ngón tay cái của ông Hatherley và Cơn điên của Đại tá Warburton. Trong số đó, vụ thứ hai có thế là cơ hội tốt hơn cho nhà quan sát phát huy sắc sảo và sáng tạo, nhưng vụ thứ nhất lại kỳ lạ ngay từ khi bắt đầu, và diễn biến của nó hấp dẫn đến nổi đáng được ghi lại hơn cả, mặc dù vụ án này cho bạn tôi nhiều cơ hội vận dụng khả năng suy luận tài ba mà nhờ đó gặt hái được nhiều thành công rực rỡ. Tôi tin chắc rằng câu chuyện này được hơn lần kể lại trân các báo, nhưng cũng giống như tất cả các bài tường thuật khác, chỉ với “khung chữ” in vỏn vẹn trong nửa cột báo ấn tượng về nó kém xa nếu bạn tận mắt chứng kiến quá trình dần dần được hé mở, và điều bí dần dần biến mất khi mà mỗi khám phá mới điều là bước tiến tới hoàn hảo. Toàn bộ câu chuyện lúc đó để lại trong tôi ấn tượng sâu sắc đến nổi hai năm sau cũng hề phai nhạt.
      Câu chuyện mà tôi sắp kể đây diễn ra vào mùa hè năm 1889, lâu sao đám cưới của tôi. Tôi vừa mới trở lại làm việc ở phòng khám và cuối cùng cũng phải bỏ lại Holmes trong căn nhà ở phố Baker, mặc dù vẫn thường xuyên tới thăm và thỉnh thoảng còn thuyết phục từ bỏ những thói quen lúi xùi để đến thăm chúng tôi. Tôi cũng rất bận rộn, và vì chỗ tôi ở xa ga Paddington lắm nên tôi cũng có vài bệnh nhân là nhân viên làm việc ở đó. Có người được tôi chữa khỏi căn bệnh nan y hành hạ, bao giờ chán việc quảng cáo về năng lực của tôi và luôn luôn giới thiệu tôi cho bất kỳ người bệnh nào mà ta quen biết.
      Vào buồi sáng, khoảng 7 giờ, tôi bị đánh thức dậy bởi tiếng đập cửa của bà giúp việc. Bà báo cho tôi có hai người đàn ông đến từ Paddington và tôi ở phòng khám. Tôi vội vã thay quần áo vì kinh nghiệm cho thấy, những trường hợp tai nạn đường sắt hiếm khi là những ca bình thường. Tôi chạy vội xuống nhà, cũng là lúc người cộng tác cũ của tôi, bảo vệ, bước ra khỏi phòng và đóng chặt cánh cửa lại.
      - Tôi đưa ta đến đây rồi - ta thầm, chỉ tay ra phía sau - ta ổn rồi.
      - Có chuyện gì vậy? - Tôi hỏi thế vì thái độ của ta cứ như là vừa mới nhốt sinh vật lạ vào phòng tôi vậy.
      - Đó là bệnh nhân mới - ta vẫn thào - Tôi nghĩ rằng tôi phải đích thân đưa ta đến đây nếu ta ngã giữa đường mất. ta tới được đây rồi, hoàn toàn bình an vô . Tôi phải bây giờ, thưa bác sĩ, tôi cũng như ông, đều có việc của mình.
      ta bỏ , vội vã, kịp để cho tôi lời cảm ơn. Tôi bước vào phòng khám và thấy quý ông ngồi bên cạnh bàn làm việc. ta mặc bộ comlê bằng vải tuýt-xô, và chiếc mũ vải mềm ta vừa đặt lên chồng sách của tôi. bàn tay được quấn bằng khăn mùi xoa có lầm tấm những vệt máu loang. ta còn trẻ, quá 25 tuổi, tôi đoán vậy. ta có khuôn mặt mạnh mẽ, đầu nam tính nhưng sắc mặt tái nhợt , điều đó tạo cho tôi ấn tượng về người vừa bị kích động mạnh mà phải dùng toàn bộ sức mạnh ý chí để tự chủ được chính mình.
      - Tôi xin lỗi vì gõ cửa phòng khám của ông quá sớm, thưa bác sĩ - ta - nhưng tôi vừa bị tai nạn nghiêm trọng đêm qua. Tôi đến đây bằng chuyến tàu sáng, tôi tìm bác sĩ ngay tại ga Paddington. bạn rất tốt bụng đưa tôi đến tận đây. Tôi đưa cho bà giúp việc tấm danh thiếp của mình, và bà ấy để nó bàn.
      Tôi cầm danh thiếp lên, đọc qua “Ông Victor Hatherley, kỹ sư thủy lực học, 16A phố Victoria, (tầng 3)”. Đó là tên, nghề nghiệp và địa chỉ của vị khách mới tới.
      - Tôi xin lỗi vì để chờ - tôi và ngồi xuống ghế của mình - Tôi hiểu là vừa trải qua chuyến qua đêm nhàm chán.
      - Ồ , đêm qua của tôi thể gọi là nhàm chán được. - ta phá lên cười sặc sụa, tỏ ra rất vui vẻ, lại còn ngả người ra ghế cười đến nỗi tất cả nhưng dụng cụ y tế của tôi đều rung theo người ta vì trận cười đó.
      - Đủ rồi! - Tôi hét lên - Bình tĩnh lại nào!
      Tôi rót cho ta ít nước lọc. Nhưng cũng vô ích. ta dường như bị kiệt sức vì trận cười bộc phát đó. Bây giờ phút kích động qua, ta trở lại với chính mình, chán nản và nhợt nhạt.
      - Tôi hành động như thằng ngốc vậy - ta trong tiếng thở hổn hển.
      - sao. uống . - Tôi rót thêm ít rượu mạnh vào nước, hai má ta hồng hào trở lại.
      - Thế này tốt hơn rồi - ta - Còn bây giờ, thưa bác sĩ, xin ông vui lòng khám giúp tôi ngón tay cái, hay chính xác hơn là cái chỗ mà ngón cái của tôi từng ở đó.
      ta tháo bỏ chiếc khăn và giơ tay ra. Thậm chí thần kinh thép như tôi còn thấy khiếp sợ khi nhìn vào nó. Chỉ còn bốn ngón tay với mẫu xương nhầy nhụa máu đỏ ở nơi mà trước đây từng là ngón cái. Chắc hẳn là nó bị gãy hay bị chặt ra khỏi bàn tay.
      - Lạy chúa! - Tôi kêu lên - vết thương nghiêm trọng! Chắc là mất nhiều máu lắm!.
      - Vâng thưa bác sĩ. Tôi ngất xủi khi mọi chuyện xảy ra, và nghĩ mình bị mất cảm giác trong thời gian dài. Khi tỉnh lại, tôi thấy máu vẫn chảy nên quyết định buộc khăn vào cổ tay và thắt chặt nút lại.
      - Tuyệt! Lẽ ra phải là bác sĩ mới đúng.
      - Cái đó thuộc về lĩnh vực thủy lực học, ông biết đấy, đó là nghề nghiệp của tôi.
      Tôi kiểm tra vết thương :
      - Vết thương này bị gây ra bởi vật nặng và sắc.
      - vật giống như con dao phay - ta .
      - tay nạn tôi đoán thế.
      - Hoàn toàn .
      - Cái gì?! vụ tấn công với ý định giết người à?
      - Đúng, hoàn toàn có chủ ý.
      - làm tôi sợ quá đấy!
      Tôi lau chùi vết thương, rửa sạch nó và cuối cùng băng lại bằng băng khử trùng. ta nằm xuống mà hề nhăn mặt, mặc dù ta cố mím môi vì đau suốt từ đầu đến giờ.
      - ta cảm thấy thế nào rồi? - Tôi hỏi khi băng bó xong.
      - Vô cùng tai hại! Rượu và bông băng của ông làm cho tôi cảm thấy như người khác. Tôi rất yếu, nhưng tôi vượt qua quá nhiều chuyện.
      - Có lẽ nên chuyện này. ràng là nó quá sức chịu đựng đối với thần kinh của .
      - Ồ ! Tôi còn phải trình báo với cảnh sát, nhưng ra nếu có bằng chứng thuyết phục là vết thương này chính tôi cũng ngạc nhiên nếu họ tin vào trình báo của tôi. Vì quả , nó rất bất thường, mà lại có nhiều bằng chứng đủ để kể lại cách mạch lạc, thậm chí nếu họ có tin tôi những cứ tôi đưa ra cũng quá mờ nhạt, đến nổi tôi biết công lý có được thực ?
      - Ha! - Tôi khẽ kêu lên - Nếu nó là vấn đề mà muốn được giải quyết tôi chân thành khuyên đến tìm bạn tôi, Sherlock Holmes, trước khi tìm đến cảnh sát.
      - Ồ, tôi nghe tiếng ông ấy - Người khách của tôi trả lời - và tôi rất mừng nếu ông ấy chịu giúp tôi, mặc dù rất tự nhiên là tôi vẫn phải nhờ đến cảnh sát. Ông có thể giới thiệu tôi với ông ấy ?
      - Tôi làm hơn thế nữa. Tôi đưa đến tận nơi.
      - Tôi rất biết ơn ông.
      - Chúng tôi gọi cỗ xe ngựa và cùng . Có lẽ chúng ta đến kịp bữa sáng. có đồng ý ?
      - Vâng, tôi thể thấy thoải mái khi chưa kể được câu chuyện của tôi.
      - Thế chúng ta thôi.
      Tôi chạy vội lên gác, giải thích ngắn gọn việc cho vợ tôi biết và 5 phút sau, tôi ở trong xe ngựa, chạy thẳng tới phố Baker cùng với người khách mới quen.
      Sherlock Holmes, đúng như tôi nghĩ, mặc bộ áo khoác ở nhà, miệng ngậm tẩu thuốc, ngồi uể oải trong phòng khách đọc mục Trò chuyện của tờ The Times. Chiếc gạt tàn còn đầy thuốc của những lần hút trước, thói quen trước bữa sáng của . Tất cả diễn ra chỉ ở góc kệ lò sưởi. đón chúng tôi bằng thái độ ân cần, trầm tĩnh vốn có và gọi cho chúng tôi món thịt muối và trứng, rồi cùng dùng bữa. Ăn xong, mời vị khách ra ghế bành, đặt cái gối dưới đầu ta và để cốc rượu mạnh có pha lẫn nước trong tầm tay ta.
      - Có thể dễ dàng nhận ra rằng chuyện của phải là chuyện bình thường, Hatherley - . - Hãy cầu nguyện, cứ nghỉ tự nhiên như ở nhà mình. Hãy kể cho chúng tôi nghe những gì có thể, nếu mệt thôi và cố giữ gìn sức khoẻ.
      - Cám ơn ông. - Bệnh nhân của tôi - nhưng tôi cảm thấy khá hơn từ lúc bác sĩ băng bó cho tôi, tôi nghĩ rằng bữa sáng của bác sĩ Watson hoàn thành nốt việc chữa trị. Tôi cố làm mất thời giờ quý báu của ông, vì vậy tôi bắt đầu ngay câu chuyện kỳ lạ của mình.
      Holmes ngồi trong chiếc ghế bành to với bộ mặt tỏ ra chán chường và hờ hững, cố che giấu bản chất hứng thú và tò mò bên trong. Còn tôi ngồi đối diện với và chúng tôi im lặng lắng nghe câu chuyện kỳ lạ mà vị khách kể lại từng chi tiết.
      - “Các ông phải biết rằng - ta - tôi là đứa trẻ mồ côi, sống độc thân trong khu nhà trọ ở London. Chuyên môn của tôi là kỹ sư thủy lực học, và tôi tích luỹ được vốn kinh nghiệm đáng kể trong công việc suốt thời gian 7 năm thử việc cho Công ty Venner và Matheson, doanh nghiệp nổi tiếng ở Greenwich. Hai năm trước đây, sau khi thu xếp thời gian và cũng được hưởng món tiền thừa kế ít ỏi từ người cha tội nghiệp, tôi quyết định bắt đầu nghiệp riêng của mình và lập văn phòng làm việc phố Victoria.
      Tôi cho rằng bất kỳ ai khi mới bắt đầu tự lập trong nghiệp cũng đều dễ cảm thấy nản lòng. Đối với tôi đều đó càng đúng. Trong suốt 2 năm, tôi chỉ có nổi 3 lần kiểm tra máy và công việc , và đó là tất cả những gì nghề nghiệp đem lại cho tôi. Tổng thu nhập của tôi chỉ có 27 bảng 10 xu. Hàng ngày, từ 9 giờ sáng đến 4 giờ chiều, tôi chỉ biết ngồi đợi trong căn phòng cho đến khi nhụt chí, và bắt đầu tin rằng tôi bao giờ có khách hàng nữa.
      Tuy nhiên, đến hôm qua, khi tôi định rời văn phòng thư ký của tôi bước vào báo có quý ông đợi tôi. ta còn còn đưa cho tôi danh thiếp của vị khách với cái tên “Đại tá Lysander Stark”. Theo sát gót là ông đại tá, người đàn ông cao lớn nhưng gầy đét. Tôi hình dung được có ai gầy đến thế. Cả khuôn mặt ông ta chỉ nhìn thấy mũi và cằm, còn da ở hai bên má bị kéo căng ra bởi xương gò má nhô lên quá cao. Nhưng khuôn mặt hốc hác đó dường như là bẩm sinh và hề có bệnh, vì mắt ông ta rất sáng, bước nhanh nhẹn và tác phong rất dứt khoát. Ông ta ăn mặc đơn giản nhưng gọn gàng, còn về tuổi tác của ông ta, tôi đóan là gần 40 hơn là 30.
      - “Ông Hatherley phải ?” - Ông ta phát giống người Đức - “Tôi được biết, thưa ông Hatherley, ông là người chỉ thành thạo về chuyên môn mà còn rất thận trọng và có khả năng giữ bí mật”.
      Tôi nghiêng mình, cảm thấy hãnh diện như bất kỳ chàng trai trẻ nào khác khi được khen như vậy.
      - “Tôi có thể biết ai cho tôi những đức tính tốt đến như vậy , thưa ngài?”.
      - “Ồ, có lẽ tôi nên được tiết lộ điều đó vào lúc này. Tôi còn được biết ông là trẻ mồ côi và sống độc thân ở London.”
      - “Đúng vậy!” - Tôi trả lời - “Nhưng xin ngài thứ lỗi nếu tôi rằng tất cả những điều này liên quan gì đến khả năng chuyên môn của tôi. Tôi hiểu rằng ông tới đây vì muốn chuyện công việc?”
      - “ có gì phải nghi ngờ về điều đó. Nhưng rồi ông thấy những gì tôi đều có mục đích cả. Tôi có công việc cho ông, nhưng ông phải tuyệt đối giữ bí mật - tuyệt đối bí mật, ông hiểu chứ. Và dĩ nhiên chúng tôi trông chờ điều đó ở người sống mình hơn là người sống trong đùm bọc của gia đình”.
      - “Nếu tôi hứa giữ bí mật”, - Tôi - “ ngài có thể hoàn toàn tin tưởng vào điều đó”.
      Khi tôi điều này, ông ta nhìn tôi với ánh mắt ngờ vực và thắc mắc nhất mà tôi từng thấy.
      - “Thế ông có hứa ?” - Cuối cùng ông ta .
      - “Vâng, tôi hứa”.
      - “Đảm bảo tuyệt đối im lặng trước, trong và sau khi công việc kết thúc chứ? tiết lộ nào về công việc, cả trong lời và chữ viết chứ?”.
      - “Tôi hứa rồi?”.
      - “Rất tốt” - Ông ta đột ngột đứng bật dậy, băng qua căn phòng như tia chớp mà đẩy mạnh cửa. Hành lang bên ngoài hoàn toàn vắng lặng.
      - “Thế này ổn rồi”, - Ông ta khi quay trở lại - “Tôi biết có những người thư ký thỉnh thoảng rất tò mò về công việc của người chủ. Giờ chúng ta có thể chuyện an tâm rồi”. Ông ta kéo ghế lại sát bên tôi và bắt đầu nhìn tôi vẫn với ánh mắt nhìn hoài nghi đầy bí .
      cảm giác ghê sợ hay cái gì tương tự như nỗi sợ hãi bắt đầu dâng lên trong tôi vì cái trò kỳ quái của người đàn ông chỉ có da bọc xương này. Thậm chí cả nỗi lo mất khách hàng cũng thể khiến tôi khỏi sốt ruột.
      - “Tôi mong ngài bắt đầu công việc cho” - Tôi - “Thời gian của tôi là vàng bạc”.
      Chúa tha tội cho tôi vì câu sau cùng đó, nhưng từ ngữ cứ trôi tuột khỏi môi tôi vậy.
      - “50 đồng vàng cho đêm làm việc có vừa ý ông ?” - Ông ta hỏi.
      - “Thế tuyệt”.
      - “Tôi đêm làm việc, nhưng có lẽ môt giờ đúng hơn. Đơn giản, tôi chỉ muốn biết ý kiến của ông về cổ máy nén thủy lực bị trật bánh ray. Chỉ cần ông chỉ cho chúng tôi được chỗ sai sót, chúng tôi tự sửa lại nó. Ông nghĩ thế nào về công việc như vậy?”.
      - “Công việc có vẻ nhàng và trả lại công lại hậu hĩnh”.
      - “Cũng có giá cả thôi. Chúng tôi muốn ông ngay đêm nay bằng chuyến tàu cuối cùng”.
      - “Đến đâu?”
      - “Đến Eyford, ở Berkshire. Đó là thị trấn gần biên giới giáp ranh với Oxfordshire, và cách Reading 7 dặm. Có chuyển tàu từ ga Paddington, nó đưa ông tới đó lúc 11 giờ 15”.
      - “Rất tốt”.
      - “Tôi xe ngựa đến đón ông”.
      - “Phải xe ngựa kia à?”
      - “Vâng, chỗ của chung tôi cách xa thị trấn. Nó cách ga Eyford khoảng 7 dặm”.
      - “Thế khó có thể tới nơi trước nửa đêm. Tôi cho rằng kịp bắt tàu trở về. Tôi bắt buộc phải ở lại đêm”.
      - “Vâng, chúng tôi có thể dễ dàng thu xếp chỗ ngả lưng cho ông”.
      - “Thế lạ lùng . Tôi thể tới đó vào giờ khác thuận tiện hơn sao?”
      - “Chúng tôi xem xét kỹ rồi, tốt nhất là ông nên muộn. Những gì chúng tôi trả cho ông, người trẻ tuổi và có tiếng tăm, là để bồi thường cho những cái bất tiện như thế. Với số tiền ấy chúng tôi có thể hỏi ý kiến của những chuyên gia hàng đầu trong ngành của ông. Dĩ nhiên, nếu ông muốn rút lui vẫn còn đủ thời gian đấy”.
      Tôi nghĩ tới 50 đồng vàng và tới chuyện số tiền ấy có ích với tôi đến thế nào.
      - “ sao” - Tôi - “Tôi rất vui lòng thụ theo cầu của ngài. Tuy vậy, tôi chỉ muốn hiểu thêm chút nữa về công việc mà ngài muốn tôi làm”.
      - “Cũng thế thôi. Cũng là hợp tự nhiên khi ông thấy tò mò về bí mật mà chúng tôi cầu ông giữ kín. Tôi cũng mong ông làm việc gì mà biết tường tận về nó. Liệu chúng ta có thể yên tâm rằng bị nghe lén chứ?”
      - “Hoàn toàn yên tâm”.
      - “Chuyện là thế này. Có lẽ ông cũng biết đất sét là tài nguyên có giá trị, và chỉ có thể được tìm thấy ở hoăc hai nơi đất nước ?”
      - “Tôi cũng nghe vậy”.
      - “ lâu trước đây, tôi mua ngôi nhà vườn , rất , cách Reading khoảng 10 dặm. Tôi may mắn khi khám phá được mỏ đất sét ở trong những thửa vườn của tôi. Tuy nhiên, khi kiểm tra nó, tôi phát ra mỏ của tôi chỉ là mỏ , và nó là đường thông giữa hai mỏ lớn hơn rất nhiều ở bên trái và bên phải, nhưng cả hai đều thuộc đất của người hàng xóm. Những con người chân chất này hoàn toàn biết rằng đất của học có chứa thứ quý tương tự như mỏ vàng. Như lẽ tự nhiên, tôi rất muốn mua lại mảnh đất của họ kịp phát ra giá trị thực của nó, nhưng may, tôi đủ khả năng tài chính để làm việc này. Dù vậy, tôi vẫn tiết lộ bí mật này cho vài người bạn và họ gợi ý rằng chúng tôi nên giấu kín và bí mật khai thác khu mỏ của chúng tôi, và bằng cách đó chúng tôi có thể kiếm đủ tiền để mua lại mảnh đất của những người hàng xóm. Chúng tôi thực kế hoạch này được thời gian và để trợ giúp việc khai thác, chúng tôi chế tạo máy nén thủy lực. Cái máy này, như tôi giải thích, bị hỏng, chúng tôi cần lời khuyên cùa ông về việc sửa chữa nó. Chúng tôi bảo vệ bí mật này rất nghiêm ngặt, nhưng khi ai biết có kỹ sư thủy lực đến ngôi nhà của chúng tôi, họ nghi ngờ, và sau đó, nếu bị phơi bày cơ hội mua lại những cánh đồng đó để tiếp tục kế hoạch của chúng tôi. Đó là nguyên nhân vì sao tôi muốn ông hứa cho ai biết việc ông tới Eyford đêm nay. Tôi hy vọng mọi chuyện ràng với ông rồi chứ?”.
      - “Tôi làm theo lời ngài” - Tôi - “Điều duy nhất tôi thể hiểu nổi là cái máy nén thủy lực có tác dụng gì trong việc khai thác đất sét, bởi vì đất sét có thể dễ dàng lấy ra khỏi mỏ như lấy những viên sỏi vậy”.
      - “À, chúng tôi có cách của chúng tôi. Chúng tôi đóng đất sét thành gạch để có thể vận chuyển mà bị phát ra nó. Tôi làm ông tin tôi rồi. ông Hatherley ạ, và tôi cũng cho ông thấy tôi tin ông như thế nào?” - Ông ta đứng vậy và - “Tôi đợi ông ở Eyford lúc 11 giờ 15”.
      - “Chắc chắn tôi tới”.
      hề lời, ông ta nhìn thẳng vào tôi rất lâu bằng ánh mắt dò hỏi, sau đó siết chặt tay tôi trong cái bắt tay lạnh giá và nhớp nhát rồi vội vã ra về.
      Thế đấy, khi tôi bình tâm nghĩ lại tất cả chuyện này, tôi rất sửng sốt, chắc hai ông cũng hiểu được lý do, về công việc bất chợt được giao cho tôi. mặt, tất nhiên là tôi rất mừng vì khoản tiền công ít nhất cũng gấp 10 lần những gì mà tôi có thể đặt giá cho dịch vụ của mình, và có thể là đơn đặt hàng này kéo theo những mối hàng khác. Mặc khác, khuôn mặt và thái độ của người khách hàng gây ấn tượng tốt trong tôi, và tôi có thể nghĩ rằng lý do ông ta đưa ra về mỏ đất sét đủ để giải thích cho việc tôi cần phải đến vào lúc nửa đêm, và cho nỗi lo lắng tột độ của ông ta về việc tôi có thể kể cho người khác biết chuyện vặt vãnh này. Dẫu sao, tôi cũng rủ bỏ được mọi nổi lo sợ, ăn vội bữa ăn đêm, tới ga Padddington và lên đường, hoàn toàn tuân theo cầu của vị khách.
      Tới Reading tôi những phải đổi xe ngựa mà còn phải đổi ga. Dù vậy, tôi vẫn kịp bắt chuyến tàu cuối cùng tới Eyford và có mặt ở nhà ga tối tăm đó sau 11 giờ đêm. Tôi là hành khách duy nhất ra đường lúc đó, khắp sân ga có ai trừ người khu khuân vác gà gật. Tuy nhiên, khi qua cửa xếp, tôi trông thấy vị khách ban sáng đứng chờ trong góc tối ở bên kia đường. lời, ông ta nắm tay tôi, kéo vội đến chiếc xe ngựa mở cửa sẵn. Ông ta đóng hai bên cửa rồi vỗ vào thành xe, thế là cỗ xe chạy hết tốc lực.
      - “ ngựa kéo thôi à?” - Holmes ngắt lời
      - “Vâng chỉ ngựa kéo”.
      - “ có thấy màu lông của nó ?”
      - “Có, tôi nhìn thấy nhờ chút ánh sáng đèn khi tôi bước lên xe. Nó màu hạt dẻ”.
      - “Trông nó mệt mỏi hay sung sức?”.
      - “Ồ rất sung sức và bóng mượt”.
      - “Cần cảm ơn . Tôi xin lỗi vì ngắt lời . Hãy tiếp tục câu chuyện thú vị của ”.
      Chúng tôi cứ mãi, ít nhất là tiếng. Đại tá Lysander Stark chỉ phải có 7 dặm, nhưng tôi nghĩ với tốc độ và thời gian chúng tôi quãng đường cũng phải dài gần 12 dặm. Ông ta ngồi bên cạnh tôi, từ đầu đến cuối lời nào, và tôi nhận thấy rằng hơn lần tôi thấy ông ta nhìn tôi rất căng thẳng. Con đường đoạn này có vẻ tốt lắm vì chúng tôi bị lắc lư và xóc dữ dội. Tôi cố nhìn ra ngoài cửa sổ để mong thấy cái gì đó ở nơi chúng tôi qua, nhưng cửa được làm bằng kính mờ và tôi thể thấy gì ngoài mấy vệt sáng mờ vụt qua. Thi thỉnh thoảng tôi đánh liều phá tan im lặng của chuyến , nhưng ông đại tá chỉ trả lời nhát gừng và cuộc chuyện nhanh chóng lắng xuống. Cuối cùng, đoạn đường xóc cũng hết vì xe chạy rất êm đường trải sỏi. Cỗ xe dừng lại. Đại tá Lysander Star bật dậy, tôi theo ông xuống xe, lập tức cả hai lọt vào cánh cổng có mái che rộng phía trước. Chúng tôi bước xuống xe ngựa ngay vào tiền sảnh, vì thế tôi kịp nhìn vào bao quát mặt tiền của ngôi nhà. Ngay khi vừa bước qua bậc cửa, cánh cửa sập mạnh lại sau lưng chúng tôi và tôi nghe loáng thoáng tiếng lạo xạo của bánh xe ngựa lăn đường.
      Trong nhà tối như mực, viên đại tá luống cuống tìm diêm và thào điều gì đó. Đột nhiên cánh cửa cuối hành lang bật mở, vết sáng dài màu vàng lan dần đến chỗ chúng tôi. Nó lớn dần, và phụ nữ xuất với cây đèn tay, giơ cao quá đầu và nhìn chúng tôi dò xét. Tôi có thể thấy ta rất đẹp, và nhờ ánh sáng của cây đèn chiếu vào bộ váy sẫm màu của ta mà tôi biết được nó được may bởi loại vải đắt tiền. ta gì đó bằng tiếng nước ngoài, nghe như câu hỏi, và khi người đồng hành của tôi trả lời bằng giọng khàn khàn nhát gừng, ta giật mình, suýt đánh rơi cây đèn. Đại tá Stark tiến tới chỗ ta, thầm điều gì đó đẩy ta vào phòng mà ấy vừa bước ra. Còn ông ta lại phía chúng tôi với cây đèn tay.
      - “Xin ông vui lòng đợi ở đây ít phút” - Ông ta rồi đến mở cánh cửa khác. Đó là căn phòng yên ắng, và bài trí đơn giản với cái bàn tròn đặt ở giữa, bàn có vài cuốn sách tiếng Đức. Đại tá Stark đặt cái đèn lên cái kệ cạnh cửa ra vào.
      - “Tôi để ông chờ lâu đâu” - Ông ta và biến mất vào bóng tối.
      Tôi liếc qua mấy cuốn sách bàn, mặc dù biết tiếng Đức, tôi vẫn có thể đoán được hai cuốn trong số đó là luận án khoa học và những cuốn khác là tập thơ. Rồi tôi lại phía cửa sổ với hy vọng có thể ngắm nhìn, dù chỉ phút, miền quê này, nhưng bộ cửa chớp bằng gỗ sồi với những chắn song chắc chắn được lắp vào đó. Ngôi nhà hoàn toàn tĩnh lặng. Chỉ có tiếng tích tắc của chiếc đồng hồ cũ treo đâu đ1o ngoài hành lang, ngoài ra mọi vật đều im lặng đến chết người. cảm giác lo lắng mơ hồ bắt đầu dâng lên trong tôi. Những người Đức này là ai, và làm gì ở ngôi nhà kỳ lạ và cách biệt này? Còn đây là đâu? Tôi ở cách Eyford khoảng 10 dặm, đó là những gì tôi biết, nhưng về phía bắc, nam, đông hay tây tôi thể xác định được. Vì Reading và có thể là những thị trấn lớn khác đều nằm trong bán kính đó nên ngôi nhà thể xác định chắc chắn. Nhưng chăc chắn là chúng tôi vùng nông thôn vì gian ở đây yên ắng tuyệt đối. Tôi lại trong phòng, lẩm nhẩm giai điệu để lấy tinh thần, tự nhủ rằng tôi kiếm được 50 đồng vàng nếu hoàn thành vụ này.
      Bất chợt, cánh cửa phòng bật mở mà hề có chút tiếng động nào báo hiệu trước, ngay cả giữa gian hoàn toàn tĩnh mịch. Môt phụ nữ đứng đó, đằng sau là bóng tối bao trùm, ánh sáng vàng từ cây đèn của tôi hắt lên khuôn mặt đẹp như đầy vẻ lo lắng của ta. Chỉ nhìn qua nhưng tôi nhận thấy sợ hãi và ánh nhìn lạnh lùng xoáy vào tôi. ta giơ ngón tay ra hiệu cho tôi im lặng và thầm với tôi vài từ tiếng rời rạc, mắt liếc chừng về khoảng tối phía sau.
      - “Tôi ” - Dường như ta vất vả lắm mới được cách bình tĩnh - “Tôi . Tôi ở lại đây đâu. Ông chẳng làm được gì đâu”.
      - “Nhưng thưa , tôi còn chưa làm đựoc cái việc mà vì nó mà tôi mới tới đây. Tôi thể bỏ khi chưa nhìn thấy cái máy”.
      - “Nó đáng để ông phải đợi đâu” - ta tiếp tục - “Ông có thể ra qua lối cửa ra vào, ai cản trở ông đâu”.
      Sau đó, chỉ thấy tôi chỉ mỉm cười và lắc đầu, ta bất ngờ bước đến chắp hai tay vào
      - “Vì Chúa!” - ta thào - “Ông hãy khỏi đây ngay trước khi quá muộn!”.
      Nhưng tôi bẩm sinh là người bướng bỉnh, và tôi lại càng sẵn sàng bắt tay vào công việc hơn khi có trở ngại nào đó. Tôi nghĩ về 50 đồng vàng tiền công, về chuyến buồn tẻ và về đêm mấy làm vui vẻ phía trước. Chẳng nhẽ tôi phải làm tất cả những thứ đó chẳng vì cái gì sao? Tại sao phải trốn khi chưa bắt đầu công việcvà khi có khoản tiền công mà lẽ ra phải được trả? Người phụ nữ này, theo tôi nghĩ, có lẽ là quá lo lắng. Do vậy, mặc dù thái độ của ta làm cho tôi hơi dao động, nhưng kiên nhẫn của tôi vẫn khiến tôi lắc đầu và nhất quyết ở lại. ta dường như định tiếp tục van xin tôi cánh của bật mở phía đầu chúng tôi, tiếp theo là tiếng bước chân cầu thang. ta lắng nghe lúc, phác cử chỉ tuyệt vọng rồi vội vã bỏ , cũng tiếng động như lúc đến.
      Những người mới tới là Đại tá Lysnader Stark và người đàn ông thấp đậm với bộ râu sóc mọc ra từ những vết ngấn hai cằm, người đó được giới thiệu là ông Ferguson.
      - “Đây là thư ký và quản lý của tôi” - Viên đại tá - “Mà, tôi nhớ là mình đóng cửa, tôi sợ ông bị lạnh”.
      - “Trái lại” - Tôi - “Chính tôi mớ cửa vì tôi thấy trong phòng hơi ngột ngạt”.
      Ông ta hứng tia nhìn hoài nghi về phía tôi
      - “Có lẽ chúng ta nên tiến hành công việc bây giời thôi” - Ông ta - “Ông Ferguson đây và tôi đưa ông lên xem xét cái máy”.
      - “Tôi có cần phải đội mũ vào ?”
      - “Ồ cần, nó ở ngay trong nhà tôi thôi”.
      - “Cái gì, các ông đào đất sét trong nhà sao?”
      - “, . Đây chỉ là chỗ chúng tôi nén đất. Nhưng đừng để tâm đến chuyện đó. Những gì chúng tôi muốn ông làm là kiểm tra cái máy và cho chúng tôi biết nó bị hỏng ở đâu”.
      Chúng tôi cùng lên gác, viên đại trước soi đèn, viên quản lý to béo theo sau và cuối cùng là tôi. Ngôi nhà có kiến trúc kiểu cổ với hành lang, cầu thang xoắn hẹp và những cửa ra vào thấp mà những bệ cửa mòn do bao nhiêu thế hệ bước qua. có thảm và cũng có dấu hiệu của thứ đồ đạc nào này, tường tróc vữa và loang lổ những chỗ ẩm ướt màu xanh. Tôi cố gắng tỏ ra để tâm nhưng vẫn quên được lời cảnh báo của người phụ nữ, mặc dù tôi có vẻ coi thường và bỏ qua chúng, cũng như luôn để mắt tới hai người đồng hành của tôi. Ông Ferguson có vẻ là người hay rầu rĩ và trầm lặng, nhưng ít ra tôi cũng đoán được rằng ông ta là người cộng của viên đại tá.
      Đại tá Lysander Stark dừng lại trước cánh cửa thấp, được mở khóa. Bên trong là căn phòng hình vuông tới mức ba chúng tôi thế vào cùng lúc được. Ferguson đứng ngoài, còn viên đại tá dẫn tôi vào.
      Bây giờ chúng ta ở trong cái máy nén đó, và may cho chúng ta nếu có ai đó khởi động máy. Trần cửa căn phòng này thực chất là phần cuối của cái pít-tông, nó bị ấn xuống bằng sức ép nặng hàng tấn của trần nhà bằng kim loại. Các cột nước xung quanh nhận sức ép đó truyền và nhân nó lên theo cách quá quen thuộc với ông rồi. Chiếc máy từng hoạt động tốt, nhưng có số hoạt động hiệu quả làm mất ít sức mạnh của nó. Có lẽ ông vui lòng kiểm tra giúp chúng tôi và chỉ cho chúng tôi biết cách sửa chữa.
      Tôi lấy cây đèn từ tay ông ta và kiểm tra lại toàn bộ cỗ máy. Đó là cỗ máy khổng lồ có thể thực lực ép lớn khủng khiếp.Ngay lập tức tôi thoáng nghe có tiếng rò rỉ rất khẽ của nước chảy qua xi-lanh. Kiểm tra qua lần, tôi phát ra những cao su quấn quanh cần điều khiển bị co lại còn khớp với phích cắm nữa. Tôi chỉ cho khách hàng của tôi thấy đây ràng là nguyên nhân làm giảm hiệu quả của máy. Ông ta chăm chú theo dõi nhận xét của tôi và hỏi cách sửa chữa nó. Sau khi giải thích cho họ , tôi trở lại căn phòng chính của cỗ máy và chăm chú ngắm nhìn nó để thỏa mãn trí tò mò. ràng câu chuyện về đất sét chỉ là chuyện bịa đặt vì lố bịch nếu cỗ máy mạnh mẽ như thế lại được chế tạo cho mục đích tương xứng như vậy. Các bức tường được làm bằng gỗ, nhưng sàn lại làm bằng những mảnh sắt lớn, và khi xét kỹ, tôi thấy có lớp vỏ bằng kim loại phủ hết bề mặt của nó. Tôi cúi rạp người xuống để xem chính xác nó là gì nghe thấy những lời thào bằng tiếng Đức và nhìn thấy khuôn mặt xanh xao của viên đại tá nhìn tôi.
      - “Ông làm gì đó?” - Ông ta hỏi tôi.
      Tôi rất bực mình vì bị lừa bởi câu chuyện bịp bợm mà ông ta kể cho tôi.
      - “Tôi chiêm ngưỡng đất sét của ông” - Tôi - “Tôi nghĩ rằng tôi có thể có những lời khuyên tốt hơn cho ông và cỗ máy của ông nếu tôi biết được mục đích thực của nó”.
      Đúng lúc ấy, tôi chợt thấy hối hận về hấp tấp của mình khi ra những lời đó. Mặt ông ta đanh lại, từ đôi mắt xám lóe lên hăm dọa.
      - “Tốt thôi!” - Ông ta - “Ông biết tất cả về cỗ máy”.
      Ông ta lùi bước, sập cửa lại và xoay chìa khoá. Tôi lao đến, kéo mạnh nấm đấm cửa nhưng nó quá chắc chắn. Tôi ra sức đá và đập cửa, nhưng đều vô dụng.
      - “Này!”- Tôi gào lên - “Này! Ngài đại tá! Thả tôi ra!”.
      Và lúc đó, giữa gian yên ắng bất chợt tôi nghe thấy thanh làm tim tôi thắt lại. Đó là tiếng lạch cạch của cần đòn bẩy và tiếng róc rách của nước chảy qua xi-lanh. Ông ta khởi động cỗ máy. Cây đèn vẫn đặt sàn nhà, đúng chỗ tôi để khi kiểm tra ống máng. Nhờ ánh sáng của nó mà tôi có thể thấy mảng trần nhà đen ngòm dần hạ xuống đầu tôi, chậm rãi, giật cục nhưng hơn ai hết, tôi hiểu là với sức ép đó nó có thể nghiền tôi nát bét chỉ trong vòng phút. Tôi lồng lộn, la hét và đập cửa và cào cấu vào ổ khóa. Tôi van xin viên đại tá thả tôi ra, nhưng tiếng máy ầm ì tàn nhẫn nhấn chìm những tiếng la hét của tôi. Trần nhà chỉ còn cách đầu tôi khoảng hai sải, và chỉ cần với tay lên là tôi có thể chạm vào bề mặt cứng và ráp của nó. Đúng lúc đó, trong đầu tôi lại lóe lên ý nghĩa rằng đau đớn trong cái chết của tôi phụ thuộc rất nhiều vào vị trí tôi chết. Nếu tôi nằm sấp toàn bột trọng lượng đè lên xương sống của tôi, và tôi sợ phát khiếp khi nghĩ đến cái xương sống bị nghiền nát. Cách khác dễ dàng hơn có lẽ là lấy hết can đảm nằm ngửa, nhìn lên cái bóng đèn chết chóc ập xuống người tôi. Lúc đó tôi còn có thể đứng thẳng được. Bất chợt, tôi trông thấy tia hy vọng sống sót, lối thoát.
      Như tôi kể, mặc dù sàn và trần nhà làm bằng sắt, nhưng các bức tường lại bằng gỗ. Khi tôi tuyệt vọng tìm quanh, tôi thấy khe sáng màu vàng bé xíu giữ hai thành gỗ lớ dần, lớn dần khi tầm ván nhỉ bị dẩy ra phía sau. Ngay lập tức tôi nhào tới và lách người qua tấm ván. Mảnh ván đóng lại sau lưng tôi, những tiếng loảng xoảng của cây đèn, và ngay sau đó là tiếng va chạm của hai tấm kim loại cho tôi biết tôi thoát chết trong gang tấc, và kẻ hở giúp tôi thoát ra hẹp đến mức nào.
      Tôi sực tỉnh bởi bàn tay nắm cổ tay tôi giật mạnh và tôi thấy mình nằm nền đá của hành lang , trong khi người phụ nữ cúi xuống bên tôi, lay mạnh người tôi bằng tay trái, còn tay phải cầm cây nến. Đó chính là người phụ nữ tốt bụng cảnh báo tôi lúc trước mà tôi cố tình lờ .
      - “Chạy , chạy !” - ta kêu ra hơi - “Họ đến đây bây giờ. Họ biết ông ở trong đó. Đừng có lãng phí thời gian nữa, chạy !”.
      Lần này, tôi còn coi thường lời khuyên của ta nữa. Tôi chạy tập tễnh theo ta dọc hành lang xuống cầu thang xoắn, dẫn tới lối rộng và đúng lúc chúng tôi đến nới tì có tiếng chân chạy rầm tập và tiếng la hét của hai người, vọng ra từ tầng chúng tôi đứng và từ tầng dưới. Người dẫn đường giúp tôi dừng lại và có vẻ như biết làm sao. Sau đó ta đẩy cánh cửa dẫn vào buồng ngủ, ngoài cửa sổ trăng sáng vằng vặc.
      - “Đó là cơ hội duy nhất của ông” - ta - “Nó hơi cao nhưng ông cũng có thể nhảy xuống được”
      Vừa , ta vừa nhìn vào cuối lối . Ở đó tôi thấy đại tá Lysander Stark chạy lại với chiếc đèn lồng và vũ khí trong giống như con dao phay. Tôi lao qua buồng ngủ, đẩy mạnh cửa sổ và phía dưới cao dưới 30 sải. Tôi leo lên bệ cửa nhưng còn chần chừ chưa nhảy ngay, cho đến khi tôi chạm tới ranh giới gữa sống và kẻ đuổi theo tôi. Nếu ta gặp nguy hiểm dù bất cứ giá nào tôi cũng quay lại cứu ta. Ý nghĩ đó chỉ kịp thoáng qua trong đầu tôi khi viên đại tá đuổi tới cửa ra vào, lao qua ta, hất cánh tay cố níu ông ta lại của ta.
      - “Fritz! Fritz!” - ta hét lên bằng tiếng - “Hãy nhớ lời hứa của lần trước. bao giờ lặp lại nữa. Ông ta giữ im lặng! Ôi ông ta im lặng mà!”
      - “Em điên rồi Elise!” - Ông ta quát, vùng ra khỏi - “Em làm hỏng việc mất thôi. Ông ta biết quá nhiều. Hãy để , rồi đấy!”.
      Ông ta đẩy sang bên và chạy cửa sổ, chém tôi bằng thứ vũ khí nặng nề. Tôi buộc phải trèo xuống và bám tay vào bậu cửa, treo mình lơ lửng. Khi ông ta chém, tôi cảm thấy đau buốt, nới lỏng dần tay ra và rơi xuống khu vườn bên dưới.
      Tôi chỉ hơi xây xát chứ bị đau bởi cú ngã, vì vậy tôi tự gượng dậy và khó nhọc chạy trốn, len lỏi giữa các bụi cây vì tôi hiểu rằng mối nguy hiểm vẫn còn ở rất gần. Tuy nhiên, cảm giác choáng váng và rã rời bao trùm lấy tôi. Tôi liếc xuống bàn tay đau nhói và đến lúc đó mới biết ngón tay cái của mình bị chặt đứt. Từ chỗ vết thương, máu tuôn ra xối xả. Tôi gắng gượng buộc khăn quanh chỗ vết thương, nhưng lúc đó tai tôi bị ù và liền sau đó, tôi lăn ra bất tỉnh giữa hai bụi hoa hồng.
      Tôi biết mình ngất bao lâu, nhưng chắc hẳn là thời gian dài vì khi tôi tỉnh dậy, mặt trăng lặn, trời sáng . Quần áo tôi ướt sũng sương đêm, còn tay áo ướt sũng máu từ vết thương chỗ ngón tay cái. Cảm giác đau buốt làm tôi nhớ lại cuộc phiêu lưu từ hồi đêm, và tôi lại vùng dậy vì cảm thấy nguy hiểm chưa thực lùi xa. Nhưng trước sửng sốt của tôi, chẳng có ngôi nhà lẫn vườn nào đấy cả. Tôi nằm bên lề đường cao tốc, và phía dưới kia là dãy nhà dài. khi tôi đến nơi tôi mới nhận ra đó chính là nhà ga mà tôi đến đêm hôm trước. Nếu phải vì vết thương tay chỉ riêng những chuyện xảy ra suốt những giờ phút kinh hoàng vừa qua có lẽ chỉ có thể là cơn ác mộng.
      Hơi ngạc nhiên, tôi vào nhà ga và hỏi về chuyến tàu sáng. Gần tiếng nữa chuyến tới Reading. Tôi nhận ra người khuân vác đêm qua vẫn làm việc như khi tôi tới. Tôi hỏi ta có biết gì về đại tá Lysander Stark ? Cái tên hoàn toàn xa lạ với ta. Tôi hỏi ta có trông thấy cỗ xe ngựa đợi tôi đêm qua ? ta cũng trả lời là thấy. Tôi còn hỏi có đồn cảnh sát nào gần đây và được biết có đồn cảnh sát cách đó 3 dặm.
      Tôi thể xa thế được. Tôi rất mệt và yếu. Tôi quyết định đến lúc về thị trấn kể lại câu chuyện này cho cảnh sát. Tôi đến nơi hơn 6 giờ rưỡi, và việc đầu tiên phải làm là tìm bác sĩ băng bó lại vết thương, và ông bác sĩ tốt bụng này đưa tôi đến tận đây. Đó là tất cả mọi chuyện, tôi làm theo những gì ông khuyên tôi”.
      Cả hai chúng tôi đều phải ngồi im sau khi nghe câu chuyện kỳ lạ này. Lát sau, Sherlock Holmes lôi từ giá sách cồng kềnh của xuống cuốn sách mà trong đó mà trong đó có những mẫu tin cắt ra từ báo chí.
      - Trong này có thông báo mà tôi nghĩ làm hứng thú - Holmes - năm trước đó được in các báo. nghe nhé :
      - “Ông Eremiah Hayling, 26 tuổi, kỹ sư thủy lực học mất tích ngày mùng 9 tháng này. Ông rời nhà lúc 10 giờ đêm và từ đó có tin tức gì. Khi , ông ta mặc... v.v...”
      Ha, nó trùng với lần gần đây nhất viên đại tá muốn kiểm tra lại cỗ máy của ông ta. Tôi bắt đầu có hứng thú rồi đấy.
      - Lạy chúa tôi! - Bệnh nhân của tôi kêu lên - Điều đó cũng giải thích điều mà .
      - nghi ngờ điều gì nữa. ràng là viên đại tá là kẻ lạnh lùng và tàn bạo, muốn có gì cản trở kế hoạch của , giống như bọ cướp biển để ai sống sót con tàu chúng cướp được. Bây giờ mỗi giây phút đều rất quý báu, vì vậy nếu ông đồng ý chúng ta cùng tới Scotland Yard và khởi hành tới Eyford.
      Khoảng 3 giờ sau chúng tôi đoàn tàu chạy từ Reading tới làng Berkshine bé. Tất cả chúng tôi gồm có Sherlock Holmes, người kỷ sư thủy lực, thanh tra Bradstreet của Scoland Yard, cảnh sát mặc thường phục. Bradstreet vừa trải ra trước mặt mọi người tấm bản đồ khu vực và bận rộn với việc vẽ vòng tròn bằng com-pa, tâm là Eyford.
      - Nhìn này - Ông ta - Đây là vòng tròn bán kính 10 dặm quanh ngôi làng. Địa điểm chúng ta cần phải tìm là chỗ nào đó gần đường kẻ. là 10 dặm phải ?.
      - Vâng, khoảng 1 giờ xe ngựa.
      - Và cho rằng rắng họ đưa vượt qua quãng đường đó quay trở về khi bất tỉnh sao?
      - Chắc chắn họ làm vậy. Tôi nhớ mang máng là được xốc lên và thả xuống ở đâu đó.
      - Điều tôi hiểu nổi - Tôi - là tại sao họ lại thả cho khi họ thấy bất tỉnh trong vườn. Có lẽ chúng nể lời van xin của người phụ nữ đó.
      - Tôi nghĩ thế. Tôi chưa bao giờ thấy ai có bộ mặt chút mủi lòng như vậy.
      - Rồi chúng tôi sớm tìm ra lý do thôi. - Bradstreet - Đây, tôi vẽ xong vòng tròn, giá mình biết được câu chuyện chúng ta điều tra xảy ra ở điểm nào đó.
      - Tôi nghĩ tôi có thể chỉ đích danh chỗ đó. - Holmes trầm ngâm .
      - ? - Viên thanh tra reo lên - Ông suy luận được rồi kia à? Đến đây xem chúng ta có cùng ý tưởng nhé. Tôi nghĩ là ở phía nam, vì khu này rất hoang vắng.
      - Còn tôi cho nó ở phía đông. - người bệnh nhân .
      - Tôi là cho là ở phía tây. - Viên cảnh sát mặc thường phục nhận định - Ở đó có vài ngôi nhà tĩnh mịch.
      - Còn tôi nghĩa là phía Bắc - Tôi - bởi vì đó có đồi núi, mà bạn của chúng ta thấy cỗ xe ngựa lên dốc lần nào.
      - Thế đấy! - Viên thanh tra cười và - Có quá nhiều ý kiến khác nhau. Mọi người bỏ phiếu cho ai đây?.
      - Các ngài đều nhầm cả.
      - Nhưng nhầm tất cả được.
      - Thế mà có thể đấy. Đây là ý kiến của tôi - Holmes đặt ngón tay vào chính giữa vòng tròn - Đây chính là nơi chúng ta tìm họ.
      - Thế còn chuyến dài 12 dặm sao? - Hatherley sửng sốt.
      - 6 dặm và 6 dặm về. có gì đơn giản hơn thế. Chính rằng con ngựa khỏe khắn và bóng mượt khi tới nơi mà. Làm sao nó khỏe thế được khi chạy hết quãng đường khó khăn dài 12 dặm?
      - Đây đúng là trò đánh lạc hướng - Beadstreet trông có vẻ trầm ngâm - còn nghi ngờ gì về hành vi phạm pháp của băng nhóm này.
      - Hoàn toàn - Holmes - Chúng là bọn đúc tiền giả với quy mô lớn, và dùng cỗ máy với mục đích trộn chất liệu thay thế cho bạc.
      - Chúng tôi được biết có băng nhóm làm chuyện này - Viên thanh tra - Chúng biến đồng tiền nửa curon thành đồng 1000. Chúng tôi lần theo dấu vết của chúng đến tận Reading nhưng rồi mất hẳn vì chúng xóa dấu vết bằng cách làm chúng tôi nghĩ rằng bọn chúng giải nghệ. Nhưng giờ nhờ dịp may này, tôi cho rằng chúng tôi tóm được chúng.
      Nhưng viên thanh tra nhầm vì băng tội phạm đó cuối cùng thoát khỏi trừng phạt của công lý. Khi chúng tôi tới được ga Eyford,chúng tôi thấy cột khói khổng lồ bốc lên từ sau những lùm cây ngay cạnh đó, bay lơ lửng mặt đất giống như chiếc lông vũ của con đà điểu lồ.
      - ngôi nhà bị cháy à? - Bradstreet hỏi khi đoàn toàn hú còi tiếp tục chuyển bánh.
      - Đúng vậy thưa ngài. - Người quản lý ga đáp
      - Ngọn lửa bùng lên từ bao giờ?
      - Hình như từ đêm qua thưa ngài, nhưng nó càng lúc càng như cháy to, toàn bộ căn nhà chìm trong biển lửa.
      - Đó là nhà ai vậy?
      - Của bác sĩ Becher.
      - Có phải - Người kỹ sư ngắt lời - đó là người Đức gầy gò với cái mũi dài và nhọn ?
      Người quản lý ga cười xòa khi trả lời :
      - phải, thưa ông. Bác sĩ Becher là người , và ở cái xứ đạo này có ai có cái áo gi-lê đẹp hơn của ông ta. Nhưng có người đàn ông sống cùng với ông ta, theo tôi hiểu đó là bệnh nhân người nước ngoài, có lẽ đến cả con bò Bershine cũng làm gì nổi ông ta.
      Người quản lý chưa kịp hết câu tất cả chúng tôi đồng loạt kịp chạy về hướng đám cháy. Con đường dẫn lên đỉnh ngọn đồi thấp và trước mắt chúng tôi là tòa nhà rộng lớn quét vôi trắng, lửa vẫn phụt ra từ tất cả các khe hở và cửa sổ, trong lúc đó, 3 xe cứu hỏa ở trong vườn vẫn cố gắng để dập tắt ngọn lửa.
      - Đúng là nó rồi! - Hatherley kêu lên sửng sốt - Có cả con đường trải sỏi, và cả những bụi hồng mà tôi nằm lên... Cửa sổ thứ hai là chỗ mà tôi nhảy xuống.
      - Vậy là chí ít cũng trả thù được chúng - Holmes - nghi ngờ gì nữa, cây đèn dầu để lại trong máy nén bắt lửa vào những bức tường gỗ, còn chúng quá chú tâm vào việc kiếm nên phát ra đám cháy kịp thời. Bây giờ hãy cố mở to mắt mà tìm những “người bạn” của đêm qua trong đám đông kia, mặc dù tôi sợ họ cao chạy bay xa từ lâu rồi.
      Và nỗi lo ngại của Holmes trở thành thực vì từ đó đến nay hề có tin tức nào về người phụ nữ xinh đẹp, gã người Đức dữ tợn hay người đàn ông người trầm tĩnh. Sáng sớm hôm đó, người nông dân bắt gặp cỗ xe ngựa, trong đó có chở vài người và những chiếc hòm rất cồng kềnh lao nhanh về hướng Reading, nhưng đến đó mọi dấu vết của những kẻ trốn chạy đều biến mất, và bộ óc thông minh kiệt xuất của Holmes cũng chịu tìm ra manh mối nào mà chúng náu. Những người lính cứu hỏa rùng mình hoảng sợ với cách bày trí lạ lùng trong căn nhà, và còn khiếp sợ hơn nữa khi tìm thấy ngón tay mới bị cắt lăn lóc bậu cửa sổ tầng hai. Khi mặt trời lặn, những nỗ lực của họ cuối cùng cũng có kết quả, ngọn lửa bị thuần phục nhưng rồi cả mái nhà cũng sụp xuống, và cả ngôi nhà chỉ còn lại đống đổ nát. Trừ mấy cái xi-lanh khổng lồ và đường ống sắt còn sót lại chút dấu vết nào của cỗ máy gây ra kinh hoàng cho viên kỹ sư. Những đống niken và thiếc lớn được tìm thấy trong nhà kho, nhưng tuyệt nhiên đồng xu nào, điều này giải thích cho diện của những chiếc hòm cồng kềnh được đề cập bên .
      Bằng cách nào mà người kỹ sư thủy lực của chúng ta được đưa từ khu vườn tới nơi ta tỉnh lại có lẽ mãi mãi là điều bí nếu như nhờ lớp đất mùn xốp cho chúng tôi biết toàn bộ câu chuyện. ràng ra được đưa bởi hai người, người có bàn chân rất và người kia có bàn chân rất to bình thường. Tóm lại, rất có thể gã đàn ông kia người trầm tĩnh, người có vẻ đỡ tàn bạo và băng giá hơn người cộng tác của , giúp người phụ nữ đưa người kỹ sư bất tỉnh, thoát nạn.
      - Chà, - Người kỹ sư vẻ tiếc rẻ khi chúng tôi lên tàu trở về Luân Đôn - đó quả là công việc kinh khủng! Tôi mất ngón tay cái và mất cả 50 đồng vàng tiền công, vậy mà tôi được những gì chứ?
      - vố nhớ đời. - Holmes và cười phá lên - Về khía cạnh nào đó nó rất có giá trị, biết đấy, chỉ cần kể lại câu chuyện và thế là trở nên nổi tiếng bởi lần thoát chết ngoạn mục đó.

    6. ^^! Nếu bạn không gửi link bài viết trên Facebook được, hãy sử dụng link trong khung này để chia sẻ bài viết :