CHƯƠNG 21 Chiều đó ở Riyadh, các đại sứ và Mỹ gặp nhau, chính thức, cho mục đích rất bình thường là uống trà và ăn bánh theo truyền thống nước . Cũng có mặt tại cơ ngơi người là Chíp Barber, người mà chỉ nhân viên sứ quán biết, và Steve Laing, người với tất cả những ai tò mò rằng mình làm việc ở bộ phận Văn hoá Đại sứ quán. người khách thứ ba, trong trong những lần rời khỏi chỗ của mình sâu dưới lòng đất, là tướng Norman Schwarzkopf. Trong thời gian ngắn, năm người cùng ở góc phòng, uống trà. Cuộc sống trở nên dễ dàng hơn khi mọi người đều biết cái mọi người khác thực làm trong cuộc sông. Trong số những người khách đó, chủ đề chuyện duy nhất là cuộc chiến tranh diễn ra, nhưng năm người đó có những thông tin mà ai biết được hết cả. mẩu thông tin là tin tức về các chi tiết kế hoạch chiến tranh do Tariq Aziz đưa ra cho Saddam Hussein, kế hoạch được chuyển đến từ Matxcơva và những cuộc chuyện với Mikhail Gorbachev. là chủ đề đáng lo lắng đối với mỗi người trong số năm người khách. nhưng với mỗi người là nguyên nhân khác nhau. Tướng Schwarzkopf ngày hôm đó nhận được từ Washington ý kiến rằng ông có thể tấn công sớm hơn kế hoạch định. Kế hoạch hoà bình của Liên Xô kêu gọi ngừng bắn được tuyên bố, và Iraq phải rút quân khỏi Kuwait trong ngày tiếp sau đó. Washington biết các chi tiết này phải từ Baghdad mà từ Matxcơva. Lời trả lời sớm sủa của Nhà Trắng là kế hoạch có giá trị nhưng thất bại trong những vấn đề then chốt. Nó hề gợi lên ý rằng Iraq phải vĩnh viễn từ bỏ lăm le với Kuwait; nó hề gợi lên thiệt hại khó tưởng tượng nổi đối với Kuwait – 500 vụ cháy dầu mỏ, hàng triệu tấn dầu thô bị chảy ra làm ô nhiễm nguồn nước ở vùng Vịnh, 200 người Kuwait bị hành hình, Kuwait City bị tàn phá. - Colin Powell bảo tôi, vị tướng , Bộ Ngoại giao thúc đẩy mạnh mẽ hơn. Họ muốn có được đầu hàng vô điều kiện. - Thế họ có, chắc chắn đấy, đại sứ Mỹ . - Tôi với họ, vị tướng . Tôi rằng các ông cần người Arập để nhìn nhận vấn đề đó. - Quả thế, đại sứ đáp, thế tại sao lại có thể? Cả hai vị đại sứ đều là những nhà ngoại giao lão luyện từng làm việc nhiều năm tại Trung Đông. Cả hai đều nghiên cứu rất nhiều về Arập học. - Tốt, vị chỉ huy tối cao , cái kiểu tối hậu thư này chơi được người Arập đâu. Trước tiên họ chết cái . im lặng trong nhóm. Hai viên đại sứ tìm thấy mặt vị tướng nét mỉa mai. Hai sĩ quan tình báo vẫn gì, nhưng cả hai đều có chung suy nghĩ ở trong đầu: đó chính là điểm mấu chốt đó, tướng quân thân mến của tôi ạ! - từ trong nhà người Nga ra. Đó là lời khẳng định, phải câu hỏi. Người của Cục Phản gián mặc đồ dân nhưng chắc chắn đó là sĩ quan. - Vâng, bey. - Giấy tờ đâu. Martin lần tìm trong các túi của dish-dash của mình và trình căn cước và bức thư nhàu nát do Bí thư thứ nhất Kulikov đưa. Viên sĩ quan săm soi thẻ căn cước, liếc nhìn để so sánh với ảnh, và nhìn vào lá thư. Những người Iraq làm việc rất tốt. Khuôn mặt lạnh lùng của Mahmoud Al-Khouri nhìn xuyên qua cái túi nhựa. - Khám , viên sĩ quan . Người còn lại thò tay vào trong áo dưới cái dish-dash rồi lắc đầu có vũ khí. - Các loại túi Các túi có vài tờ tiền dinar, vài đồng xu, chiếc dao ăn, những mẩu phấn màu khác nhau, và cái túi bằng nhựa. Viên sĩ quan chú ý đầu tiên đến cái túi. - Gì đây? - Người vô đạo vứt nó . Tôi dùng để đựng thuốc lá. - có thuốc trong này. - có, bey, hết rồi. Tôi định mua ở chợ. - Và đừng có gọi tôi là bey. Chỉ người Thổ mới thế thôi. - Thế từ đâu đến vậy? Martin miêu tả ngôi làng ở phía bắc. "Rất nổi tiếng với dưa hấu", thêm vào. - Câm mõm về những thứ dưa chết tiệt của ! viên sĩ quan dọạ, có cảm giác rằng lính của mình cố nén cười. chiếc limousin vào đầu kia của phố và dừng lại, cách đó 200 yard. Viên sĩ quan cấp dưới ra hiệu cho thượng cấp và gật đầu. Thượng cấp quay lại, nhìn. và với Martin. "Đợi ở đây". bước trở lại chiếc xe lớn và dừng lại để với ai đó qua cửa sổ băng ghế sau. - bắt được ai đấy? Hassan Rahmani hỏi. - Tên làm vườn, thưa ngài. Làm việc ở đây. Trông coi hoa hồng và làm đất, chợ cho tay đầu bếp. - Khôn ngoan ? - , thưa ngài, đầu óc rất ù lì. lão nông dân từ mãi phía bắc, từ chỗ nào đó trồng dưa ấy. Rahmam suy nghĩ. Nếu giữ lại tên điên khùng này, những người Nga tự hỏi tại sao người của họ trở lại. hy vọng nếu tiến trình hoà bình của người Nga thất bại, có thể bước vào. Nếu để người này mua hàng và quay về, ta có thể báo động những người chủ Liên Xô của mình. Theo kinh nghiệm của Rahmani đây là thứ ngôn ngữ mọi người Iraq nghèo khổ đều và rất tốt. đưa ra cái ví và rút ra 100 dinar. - Đưa cho ta. với ta chợ và quay về. Rồi sau đó ta phải theo dõi ai đó với cái ô lớn, bằng bạc. Nếu ta im lặng về chúng ta và ngày mai đến báo cáo nhìn thấy gì, ta được thưởng. Nếu với người Nga, chúng ta đưa ta đến chỗ AMAM. - , thưa tướng quân. Viên sĩ quan cầm lấy tiền, bước lại, và với người làm vườn. Người đàn ông trở nên bối rối. - cái ô, sayidi? - Phải: cái bằng bạc rất lớn, hoặc cũng có thể màu đen, hướng lên trời. từng bao giờ thấy nó chưa? - Chưa, sayidi, người đàn ông buồn rầu . Mỗi khi trời mưa tất cả đều chạy vào nhà hết cả. - Allah chí Thánh ơi, viên sĩ quan lẩm bẩm, phải cho trời mưa đâu! Mà là để gửi tin. - Ô mà gửi được tin, người làm vườn chầm chậm . Tôi thử xem có , sayidi. - Thế , viên sĩ quan thất vọng . Và phải im lặng về những gì nhìn thấy nhé. Martin đạp xe xuôi phố, ngang qua chiếc limousin. Khi lại gần, Rahmani cúi đầu vào trong băng ghế sau. cần để cho ta nhìn thấy mặt Trùm Phản gián của nước Cộng hoà Iraq. Martin tìm thấy dấu phấn vào lúc bảy giờ và nhận được bức thông điệp vào lúc chín giờ. đọc nó trong ánh sáng từ cửa sổ của quán cà phê - có đèn điện, có nữa, mà là thứ đèn khí. Khi đọc bản giấy, huýt sáo nhè , gấp tờ giấy lại, và nhét nó vào trong đồ lót của mình. bị chặn lại lần nào đường về ngôi biệt thự. Máy phát cần phải bỏ , vì chỉ cần thêm lần phát sóng có thể gây ra thảm hoạ. quan sát bến xe bus, nhưng khắp nơi đều có các đội kiểm tra của quân đội và AMAM, tìm kiếm những người từ sa mạc vào. Thay vì đó, ra chợ rau quả ở Kasra và tìm thấy người lái xe tải về phía tây. Người đàn ông đến nơi cách Habbaniyah vài dặm, và 20 dinar thuyết phục được ta chở thêm hành khách. Nhiều xe tải thích vào ban đêm, tin rằng bọn Con của Chó ở đó trong những chiếc máy bay thể nhìn thấy họ trong bóng tối, mà biết dù ngày hay đêm, những xe tải chở hoa quả có gây ra tiếng động chẳng hề là ưu tiên cao của tướng Chuck Horner. Vì vậy họ lái xe xuyên màn đêm, nhờ vào những ánh đèn tờ mờ như ngọn nến, và vào bình minh Martin đứng đường cao tốc ngay ở phía tây hồ Habbaniyah, nơi người lái xe quay sang các trang trại giàu có của vùng thượng thung lũng Euphrates. Họ bị các đội kiểm tra dừng xe hai lần, nhưng chỉ lần Martin phải trình giấy và bức thư của người Nga, giải thích rằng từng làm vườn cho họ, nhưng họ sắp về nước và sa thải . ca thán về cách họ đối xử với cho đến khi những người lính hết kiên nhẫn bảo ngậm miệng lại và để . Đêm đó, Osman Badri ở xa Mike Martin, hướng về cùng hướng nhưng trước. Đích đến của là căn cứ máy bay nơi người , Abdelkarim là chỉ huy đội bay. Trong những năm 1980, công ty xây dựng Bỉ tên là Sixco thắng thầu để dựng lên tám căn cứ quân được bảo vệ nghiêm ngặt cho các máy bay chiến đấu tốt nhất của Iraq vốn rất được cưng chiều. Vấn đề với họ là hầu như mọi thứ đều được chôn ngầm dưới đất - doanh trại, hangar, kho nhiên liệu, nhà ăn, cửa hàng, phòng họp, khu cho phi công, và những máy phát điện diezel lớn để cung cấp năng lượng cho các căn cứ. Chỉ thứ được nhìn thấy từ cao là những đường băng, dài 3000 mét. Nhưng vì hề có nhà cửa hay hangar dính liền, nên liên quân nghĩ chúng chỉ là những sân bay bình thường, như Al-Kharz ở Arập Xêut từng như vậy trước khi người Mỹ đổ quân vào. Nhìn gần hơn vào mặt đất có thể thấy những cửa sắt dày tới mét dựng ở cuối con đường. căn cứ rộng 5 km vuông, chu vi bao quanh bởi hàng rào. Nhưng cũng giống như Tarmiya. các căn cứ quân Sixco trông như là bỏ , dùng đến. Để vận hành chúng, các phi công phải sống ngầm dưới đất, trong khoang máy bay của mình, và khởi động động cơ tại đó Chỉ khi họ sẵn sàng, với bức tường chắc chắn bảo vệ phần còn lại của căn cứ khỏi luồng phản lực và phóng ra chất khí lên để ra sa mạc bên ngoài, các cánh cửa của bệ phóng mới được mở ra. Các máy bay chiến đấu có thể chạy qua các bệ phóng, lao lên với tốc lực mạnh nhất, phụt khói xa sau, lao lên đường băng, và ở trung trong vài giây. Ngay cả khi các AWAC định vị được họ, họ cũng có vẻ như đến từ nơi khác và được cho là làm những nhiệm vụ tầm thấp đến từ nơi nào đó. Đại tá Abdelkarim Badri đóng ở trong các căn cứ Sixco đó, chỉ được biết đến với cái tên KM 160 vì nó nằm được từ Baghdad Ar-Rutba, cách Baghdad 160 km. Em trai trình giấy tờ ở trạm gác ở chỗ hàng rào vào lúc hoàng hôn. Nhờ vào cấp bậc của , cú điện thoại ngay lập tức được gọi vào từ tháp canh cho nơi ở riêng của người chỉ huy đội bay, và rất nhanh chóng chiếc xe jeep xuất , lăn bánh qua sa mạc trống , có vẻ như đến từ nơi nào đó. trung úy .lực trẻ tuổi dẫn vị khách vào trong căn cứ, chiếc xe jeep lăn bánh vào bệ phóng khác được giấu kín nhưng rất để vào khu nhà dưới lòng đất, nơi chiếc xe jeep đỗ lại. Viên trung uý dẫn đường qua các hành lang phức tạp qua các hầm nơi các kỹ thuật viên vận hành những chiếc MIG 29. gian thoáng mát và được lọc khí, và ở mọi nơi đều đầy tiếng động cơ phát điện. Ngay khi bước vào khu vực dành cho các sĩ quan cao cấp. viên trung úy gõ cánh cửa. Khi có lệnh vang ra từ bên trong, ta chỉ cho Osman Badri căn hộ của viên chỉ huy. Abdelkarim đứng lên, và hai em ôm choàng lấy nhau. Người 37 tuổi, cũng là đại tá và rất đẹp trai, với hàng ria mỏng. lấy vợ nhưng bao giờ thiếu đàn bà vây quanh. Vẻ ngoài của ta, cái vẻ hững hờ, bộ quân phục đẹp của ta và những huy hiệu của phi công đảm bảo cho ta điều đó. Vẻ ngoài của rất chân ; các vị tướng lực coi là phi công lái máy bay chiến đấu giỏi nhất nước, và người Nga, những người đào tạo làm quân bài chiến lược cho phi đội bay của Liên Xô, MIG 29 Fulcrum loại máy bay chiến đấu siêu , cũng đồng ý với điều đó. - Nào, em trai, ngọn gió nào đưa em đến đây vậy? Abdelkarim hỏi. Osman, khi ngồi xuống và uống cà phê từ cái tách nóng hôi hổi, có đủ thời gian để nghiên cứu vẻ mặt của trai. Có những nếp nhăn ở khoé miệng nơi trước đây chưa hề có, và có vẻ cảnh giác trong mắt. Abdelkarim phải kẻ điên khùng cũng hề hèn nhát. bay tám phi vụ chống Mỹ và . đều quay về được. nhìn thấy những đồng nghiệp giỏi nhất của mình bị hạ gục hoặc bị thổi tung bởi tên lửa Sparrow và Sidewinder, và từng dính bốn quả như thế. Những lệch lạc, nhận ra ngay sau lần đầu tiên thử đánh các máy bay ném bom Mỹ, là thể chấp nhận được Về phần mình, hề có thông tin hay hướng dẫn nơi có kẻ thù, có bao nhiêu, loại nào, trọng tải, hướng nào. Các ra đa Iraq đều bị bắn hạ, các trung tâm kiểm soát và chỉ huy đều bị nghiền vụn, và các phi công chỉ còn có thể dựa vào chính mình. Tệ hơn thế, người Mỹ với những chiếc AWACS của mình có thể biết được chỗ của các máy bay chiến đấu Iraq trước khi họ được quá 1000 fít, cho phi công của mình cần đâu và phải làm gì để đảm bảo có được vị trí tấn công tốt nhất. Với người lraq, Abdelkarim Badri biết, mỗi phi vụ chiến đấu chẳng khác gì đòi hỏi tự sát. Về tất cả những thứ đó, hề gì, cố tạo ra nụ cười và hỏi tin tức của em trai. Tin đó giết chết ngay lập tức nụ cười. Osman kể lại những kiện trong 60 tiếng đồng hồ qua: lính AMAM đến nhà bố mẹ họ vào sáng sớm, lục soát, và tìm kiếm trong vườn, đánh mẹ và Talat, và bắt bố họ. được người dược sĩ hàng xóm gọi về như thế nào, và bằng cách nào lái xe về nhà để thấy xác chết của bố chiếc bàn ăn. Miệng Abdelkarim mím chặt thành đường giận dữ khi Osman kể đến khi khám phá cái gói chứa xác, và cách bố họ được chôn cất sáng hôm đó. Người chồm về phía trước rất đột ngột khi Osman kể gặp ai và rời khỏi nghĩa trang, và về cuộc trò chuyện với người đàn ông. - Em với ông ta tất cả những thứ đó rồi à? hỏi khi em trai mình xong. - Vâng. - Đúng đấy? Có đúng đấy? Em đúng là xây dựng Pháo đài Qu'ala đấy à? - Vâng. - Và em với ông ta nó ở đâu, và ông ta có thể cho người Mỹ biết à? - Vâng. Em có làm sai ? Abdelkarim suy nghĩ lúc. - Có bao nhiêu người. ở toàn Iraq, biết về điều đó hả em? - Sáu người. - Kể tên xem nào. - Rais, Hussein Kamil, người cung cấp tài chính và nhân lực; Amer Saadi, người cung cấp công nghệ. Rồi đến tướng Ridha, người cung cấp pháo binh, và tướng Musuli ở bên Công binh - ông ta đề xuất em làm việc đó. Và em, người xây dựng nó. - Thế còn các phi công trực thăng chở khách đến sao? - Họ hẳn là có biết hướng để có thể bay được, nhưng phải cái gì ở trong đó. Và họ bị cấm trại ở căn cứ nào đó, em biết là ở đâu cả. - Thế khách sao - bao nhiêu người trong số họ có thể biết? - ai đâu. Họ bị bịt mắt trước khi máy bay cất cánh cho đến tận khi đến nơi. - Nếu người Mỹ phá huỷ Cú đấm của Thượng đê đó, em nghĩ AMAM nghi ngờ ai? Rais, các bộ trưởng, các vị tướng - hay là em? Osman gục đầu vào tay. - Em làm gì thế này? rên rỉ. - sợ là, em trai ạ, em tiêu diệt tất cả chúng ta. Cả hai em đều biết các quy tắc. Nếu phản bội, Rais đòi hy sinh duy nhất mà hành hình cả ba thế hệ: cha và chú, do đó thể còn có dòng giống lưu truyền lại, em với cùng lý do, và con trai và cháu trai, để còn ai có thể lớn lên để trả thù ông ta. Osman Badri bắt đầu trở nên yên lặng. Abdelkarim đứng lên, kẻo Osman lại gần và ôm em trai. - Em làm đúng, em ạ. Em làm đúng. Bây giờ chúng ta phải tính cách để thoát khỏi nơi đây. nhìn đồng hồ: tám giờ tối. - có đường dây điện thoại nào cho công cộng từ đây về Baghdad đâu, . Chỉ có các đường dây ngầm dưới đất đến những người ở Bộ Quốc phòng trốn trong các boong ke tại đó Nhưng thông tin này phải để cho họ. Em mất bao nhiêu thời gian để lái xe về nhà mẹ? - Khoảng bốn tiếng, Osman . - Em có tám tiếng để đến đó và quay lại đây. Hãy với mẹ gói ghém mọi thứ quý giá nhất vào xe ôtô của bố. Mẹ có thể lái xe - tốt lắm nhưng được. Mẹ có thể mang theo Talat và về làng của Talat. Mẹ nên tìm chỗ trú ở bộ lạc của Talat cho đến khi trong hai chúng ta liên lạc với mẹ. Hiểu chưa nào? - Rồi. Em trở về vào lúc sáng sớm. Tại sao? - Trước khi trời sáng. Ngày mai dẫn đầu đội máy bay MIG bay sang Iran. Những người khác trước. Đó là chiến thuật điên rồ của Rais để bảo vệ những máy bay chiến đấu tốt nhất của mình. Chẳng có nghĩa gì cả, dĩ nhiên là như thế, nhưng nó có thể cứu sống bọn . Em cùng với . - Em tưởng MIG 29 chỉ có chỗ ngồi thôi chứ? còn có cái dành cho tập luyện với hai chỗ. Loại UB. Em được ăn mặc như sĩ quan quân. Nếu may mắn, chúng ta có thể được bằng cách đó. Giờ . Mike Martin bộ về hướng tây trong đêm đó dọc theo đường Ar-Rutba khi chiếc xe chở Osman Badri vượt qua , hướng về phía Baghdad. ai nhận ra người kia. Đích đến của Martin là chỗ nối tới của dòng sông, còn cách đó 15 dặm đường. Tại đó, vì cầu bị hạ, xe tải có thể phải đứng chờ phà, và có cơ hội rất tốt để cho tiền tài xế khác để đưa xa hơn về phía tây. Gần sáng quả có tìm được chiếc ôtô, nhưng nó chỉ có thể mang đến nơi ngay Muhammadi. Đến đó lại phải chờ tiếp. Ba giờ sáng chiếc xe của đại tá Badri lại tăng tốc quay trở lại. thương nó chút nào, hề dừng lại Người lái ràng là rất vội. Ngay trước khi trời sáng chiếc xe tải thứ ba tới, dừng lại ở bên đường cao tốc lớn, và dừng lại cho lên. lại trả tiền cho người tài xế từ kho tiền dinar của mình, đủ để mọi người nghĩ đưa cho ở Mansour. Sáng sớm, nghĩ vậy, người nhà Kulikov có thể thông báo mất người làm vườn của mình. Việc tìm kiếm có thể làm lộ ra cuốn sổ ghi chép giữa tấm đệm - thứ hay ho gì với kẻ mù chữ - và tìm tiếp có thể thấy máy phát dưới mái nhà. Khoảng giữa ngày, việc truy lùng bắt đầu, khởi đầu ở Baghdad nhưng lan rộng ra toàn quốc. Khoảng đến đêm, cần phải ở đủ xa trong sa mạc, thẳng về hướng biên giới. Chiếc xe tải trong đó ngồi ở KM 160 khi chiếc máy bay MIG 20 bắt dầu cất cánh. Osman Badri kinh hoàng, như những người khác lần đầu bay. Trong các hầm ngầm của căn cứ, đứng bên cạnh trai mình với bốn phi công trẻ khác cùng bay trong phi vụ. Phần lớn những người cùng độ tuổi Abdelkarim đều chết; chỉ còn những người trẻ hơn, kém đến cả chục tuổi, rời trường học chưa được bao lâu. Họ lắng nghe với chú ý cao độ người chỉ huy đội bay của mình và gật đầu ra dấu tuân lệnh. Trong chiếc MIG, ngay cả khi buộc chặt dây, Osman vẫn nghĩ mình chưa từng nghe thấy tiếng gầm nào giống như thế, trong gian đóng kín, hai động cơ phản lực RD 33 của Liên Xô chạy lên hết công suất. Ngồi rúm ró ở đằng sau trai mình, Osman nhìn thấy những cánh cửa kiên cố mở ra với những pít tông thuỷ lực và bầu trời xanh nhợt nhạt ở cuối hầm. Tiếng ồn tăng lên khi viên phi công chạy băng qua cổng và lao lên, và chiếc máy của người Liên Xô gầm rú lao lên bầu trời. Khi phanh dừng lại, Osman nghĩ mình bị con la đá hậu lao về phía sau. Chiến MIG nhảy lên trước, những bức tường bị băng qua, và lao khỏi bệ phóng để bay vào ánh sáng của buổi bình minh. Osman nhắm chặt mắt và cầu nguyện. Tiếng bánh máy bay quay dừng lại, thấy như mình bị co thắt lại, và mở mắt ra. Họ ở trong trung, chiếc máy bay ở KM 160 trong khi bốn chiếc khác rời khỏi đường hầm ở bên dưới. Khi các cánh cửa đóng lại, căn cứ ngừng tồn tại. Xung quanh , vì chiếc UB là máy bay tập luyện, là những thứ khoá, nút bấm, cần gạt, màn hình, nút bấm, và cần đẩy Giữa chân là cần số. trai để mọi thứ nguyên đấy, mà lại thích làm gì đó. Lên đến độ cao 1000 fít đội bay gồm 5 chiếc MIG tạo thành dường cong, bốn phi công trẻ phía dưới viên chỉ huy đội bay. trai đường thẳng về phía nam lệch sang đông, giữ mình bay ở thấp, hy vọng tránh được do thám và qua vùng ngoại ô phía nam của Baghdad, thoát khỏi dò tìm của người Mỹ trong những nhà máy và các hình ảnh ra đa khác. Đó là canh bạc nhiều rủi ro, cố tránh khỏi các ra đa của AWACS bay vùng Vịnh, nhưng còn lựa chọn nào khác. Những mệnh lệnh xuống rất chính thức, và giờ đây Abdelkarim Badri có lý do phụ khác để mong đến được Iran. Sáng hôm đó gặp may, loại may mắn mấy khi đến trong chiến tranh. Vào cuối chặng đường ở vùng Vịnh, AWACS phải quay về căn cứ của mình và được thay bằng cái khác. Việc này được gọi là ta xi. Trong khi thay thế như vậy, có khoảng thời gian khi rađa dò sóng ngừng làm việc. Chuyến bay thấp của những chiếc MIG qua nam Baghdad và Salman Pak rơi đúng vào lúc nghỉ may mắn đó. Viên phi công Iraq hy vọng bằng cách giữ độ cao 1000 fít. có thể bay ở bên dưới các máy bay chiến đấu của Mỹ, thường bay ở độ cao 20000 fít và cao hơn. muốn đến được bên ngoài thành phố Al Kut ở phía bắc, rồi thẳng cách an toàn tới biên giới Iran ở điểm gần nhất. Sáng hôm đó, vào giờ đó, đại úy Don Walker của Đội bay chiến thuật số 336 bay từ sân bay Al Kharz dẫn đầu đội bay gồm bốn chiếc Strike Eagle về phía bắc hướng Al Kut, nhiệm vụ của là ném bom câu cầu chính qua sông Tigris ngang qua đó những chiếc xe tăng của đội Vệ binh Cộng hòa bị chiếc J-STAR bay hướng nam Kuwait phát ra. Đội 336 chủ yếu tốn thời gian trong cuộc chiến tranh trong những nhiệm vụ buổi đêm, nhưng chiếc cầu phía bắc Al Kut có thể là "fix nhanh", có nghĩa là có thời gian để mất nếu những chiếc xe tăng Iraq sử dụng nó để về phía nam. Cho nên nhiệm vụ ném bom sáng hôm đó được mang mật danh "trực tiếp Jeremiah": tướng Chuck Horner muốn nó được thực , và ngay lập tức. Những chiếc Eagle lao với những quả bom 2000 pound có laser hướng lối cùng với các tên lửa đối . Vì việc đặt vị trí của các cột bom ở dưới cánh chiếc Eagle, trọng tải trở nên mất cân bằng, những quả bom ở bên nặng hơn là những hỏa tiễn Sparrow ở bên kia. Điều này được gọi là trọng tài chó chết. Có điều khiển tự động lo cho việc đó, nhưng đó vẫn là loại trọng tải mà hầu hết phi công đều muốn chọn khi phải đối mặt với kẻ thù. Cũng như những chiếc MIG, giờ bay ở độ cao 500 fit nhìn thẳng xuống phía dưới, tiến về phía tây, những chiếc Eagle về phía nam, cách đó 800 dặm. Chỉ dẫn thứ nhất mà Abdelkanm Badri có được về có mặt của họ là tiếng động ì ầm trong tai-mình. Em trai ở đằng sau hề biết chuyện gì xảy ra, nhưng các phi công chiến đấu biết. Chiếc MIG dành cho tập luyện dẫn đầu, bốn chiếc kèm ngay sau tạo thành hình chữ V Tất cả đều nghe thấy tiếng động đó. Tiếng ồn đến từ RWR của họ - máy nhận cảnh báo từ ra đa. Điều đó có nghĩa là có các ra đa khác ở đâu đó, quét lên nền trời. Bốn chiếc Eagle có rada của mình trong hệ thống kiểm tra, những tín hiệu radio ở phía trước họ đều nhìn thấy là có. Những máy nhận cảnh báo rađa của Liên Xô nhận ra các tín hiệu đó và lại cho các phi công của mình. Những chiếc MIG thể làm gì khác ngoài việc tiếp tục bay. Ở độ cao khoảng 500 fít họ ở dưới những chiếc Eagle khá nhiều và ngang qua tầm bắn của những chiếc đó. Cách 60 dặm, tiếng ồn trong tai các phi công Iraq to dần thành tiếng ồn rất lớn. Điều này có nghĩa các RWR với họ: ai đó ở đằng kia bỏ chế độ tìm kiếm và lao về phía các . Sau Don Walker, người wizzo Tim của nhìn thấy thay đổi màn hình ra đa. Từ máy quét ra đa tinh vi, những chiếc ra đa của Mỹ bật lên, thu hẹp dần dải quét và chỉ tập trung vào cái mình phát được. - Chúng ta có năm chiếc máy bay chưa thể xác định của bên nào, thấp dưới mười độ. người wizzo thầm, và bật IFF. Những người wizzo khác trong đội hình bay cũng làm như vậy. định vị Bạn hay Thù là kiểu chuyển tin được mọi máy bay chiến đấu sử dụng. Nó gửi sóng với các tần số nào đó, được thay đổi hàng ngày. Các máy bay chiến đấu cùng bên nhận được xung lực đó và trả lời: "Tôi là bạn". Máy bay đối phương thể làm như thế. Năm tiếng bịp màn hình ra da dò tìm hàng dặm phía trước và tiến lại gần khu vực có thể năm chiếc máy bay bạn quay trở lại từ phi vụ - hoặc đúng hơn, từ nơi xa những máy bay Liên quân khác bầu trời chứ phải của Iraq. Tim hỏi các máy bay lạ theo kiểu 1,2,3,4. có câu trả lời - Bọn địch đấy, ta báo cáo. Don Walker, chuyển kim báo tên lửa lên rađa, thầm: "Sẵn sàng" với ba phi công khác, căng thẳng nhìn ra trước và lao lên. Abdelkarim Badri ở thế bất lợi, và biết điều đó. biết điều đó kể từ thời điểm người Mỹ dang tiến dần về phía . biết mà cần chiếc IFF nào phải báo với rằng những máy bay lạ đó thể là người Iraq em. biết bị đối phương định vị, và biết các đồng nghiệp trẻ tuổi của mình có thể hề biết chuyện đó. Bất lợi của nằm ở chiếc MIG lái. Vì đó là loại bay huấn luyện, dạng duy nhất có hai chỗ ngồi, nó bao giờ được dành cho chiến đấu. Rađa của đại tá Badri chỉ có 60 độ ngoài đỉnh. thể nhìn thấy ai tiến lại gần mình. - có gì vậy? hất hàm về phía người cùng bay. Câu trả lời đầy hồi hộp và kinh hoàng. - Bốn máy bay địch, cao hơn ba độ, lao xuống rất nhanh. Thế là canh bạc thất bại. Người Mỹ bao giờ lao xuống từ bầu trời từ phía nam, chủ đích lao vào họ ngay trung. - Lao xuống, xuống nhanh lên, về sau, hướng về phía Iran, gào lên. Các phi công trẻ cần đợi chờ gì để ngừng lại. Từ các ống khói của những chiếc phản lực của mỗi chiếc MIG làn khói dày đặc bắn ra, đưa các phi công vượt tốc độ thanh và gần như lao với vận tốc gấp đôi. Mặc kim báo nhiên liệu tăng vọt lên. những chiếc máy bay chỗ có thể bay được xa đủ để tránh người Mỹ và vẫn có thể đến được Iran. Việc họ lao trước tránh cho họ bị các máy bay Mỹ đuổi kịp, cho dù họ ở gần kề. Abdelkarim Badri có lựa chọn đó. Khi làm các máy bay huấn luyện, các kỹ sư Liên Xô chỉ đưa vào ra đa đơn giản, mà còn gắn thêm vào trọng tải của người tập luyện và khoang ngồi của ta, họ do đó phải giảm bớt khả năng nhiên liệu bên trong. Viên đại tá phi công bay ở rất xa những chiếc máy bay tiếp nhiên liệu, nhưng như thế vẫn còn chưa đủ. có bốn lựa chọn. Nó khiến mất hơn hai giây để thực . có thể chuyển sang chế độ tăng tốc, thoát khỏi các máy bay Mỹ, và quay trở về căn cứ Iraq, nơi đó bị bắt và sớm hay muộn bị đưa đến chỗ AMAM để bị tra tấn và chết. có thể tăng tốc và tiếp tục bay đến Iran, tránh được người Mỹ nhưng hết nhiên liệu ngay sau khi vượt được biên giới Ngay cả khi và em trai nhảy ra được ngoài cách an toàn, họ vẫn có thể rơi vào các bộ lạc Ba Tư, những người chịu đựng khủng khiếp trong chiến tranh Iran-Iraq từ những chuyến hàng do máy bay Iraq thả xuống đầu họ. có thể tăng tốc tránh những chiếc Eagle, rồi bay về phía nam để sang A rập Xêut và trở thành tù binh. mong gì được đối xử tử tế. Có câu thơ vào trong óc từ lâu rồi, những câu thơ học được ở trường của ông Hartley ở thành phố Baghdad thời còn là cậu học trò. Của Tennyson? Wordsworth? . Macaulay, đúng rồi, Macaulay, điều gì đó về người dàn ông trong khoảnh khắc cuối đời mình, điều gì đó mà đọc to ở trong lớp học. Với mỗi người thế gian này Cái chết đến sớm muộn Và bằng cách nào ai đó có thể chết tốt đẹp hơn Là đối mặt với những điều xấu xa đáng sợ Với tro di hài của cha ông ta Và những đền thờ của thánh thần của ta ? Badri đẩy cần gạt qua cánh cổng để chuyển sang chế độ tăng tốc, lao chiếc MIG Fulcrum vào đường vòng lớn, và lao lên để đối đầu với người Mỹ. Ngay khi quay đầu, bốn chiếc Eagle lọt vào tầm rada của . Hai chiếc được định vị, tiến xuống sau chiếc máy bay hai chỗ ngồi bay, cả hai đều phóng rất nhanh, tốc độ thanh. Nhưng người chỉ huy đội bay Mỹ tiến thẳng xuống lao vào . Badri cảm thấy rung chuyển khi chiếc Fulcrum đạt tốc độ siêu thanh, khiến cột chỉ huy biến thành màn rung, và lao lên tìm chiếc Eagle lao xuống thẳng vào . - Chúa tôi, lao thẳng vào chúng ta! Tim từ băng ghế sau. Walker cần được nhắc. Màn hình ra đa của cho thay bốn nháy biến mất của đội bay Iraq chuyển hướng sang Iran và chỉ còn chiếc trong số đó lao thẳng về . Chiếc máy kêu lên như tiếng chuông báo thức ngoài tầm kiểm soát. Còn cách khoảng 30 dặm, họ lao thẳng vào nhau với vận tốc 2200 dặm giờ. vẫn chưa nhìn được chiến Fulcrum, nhưng còn lâu la nữa dâu. Trong chiếc MIG, đại tá Osman Badri hoàn toàn mất ý niệm. hiểu gì hết về điều dang diễn ra. Việc đột ngột tăng tốc đẩỵ bắn ra đằng sau lần nữa. và việc quay vòng ngược lại khiến chết giấc mất mấy giây.
- Điều gì xảy ra vậy? gào vào mặt nạ của mình, hề hay biết nút tắt tiếng được bật, nên trai thể nghe thấy gì. Ngón tay Don Walker chỉ vào nút điều khiển tên lửa. có hai lựa chọn: tên lửa tầm xa AIM-7, được rađa hướng dẫn từ chính chiếc Eagle, hoặc quả Sidewinder AIM - 9 tầm ngắn, là kiểu dò mục tiêu theo nhiệt lượng. Còn cách 15 dặm có thể nhìn thấy nó, cái chấm đen xíu lao thẳng vào . Hai cánh sải rộng cho thấv đó là chiếc MIG 29 Fulcrum - trong số những máy bay chiến đấu lao thẳng tốt nhất thế giởi ở bên tay phải. Walker biết dược đối mặt với chiếc dành cho huấn luyện được trang bị vũ khí. Điều biết là nó có thể chở theo tên lửa AA-10 của Liên Xô, với tầm bắn dài bằng những quả AIM-7 của . Do đó chọn tên lửa Sparrow. Còn cách 12 dặm bắn thẳng hai quả Sparrow ra trước. Những quả hỏa tiễn bay , hướng theo chỉ dẫn của rađa nhận được năng lượng từ chiếc MIG và ngoan ngoãn lao thăng về hướng dó. Abdelkarim Badri nhìn thấy chớp sáng khi hai quả Sparrow rời chiếc Eagle, chỉ còn để lại cho thêm vài giây sống trừ khi có thể khiến cho người Mỹ ngừng tay lại. lùi người sang bên trái và hạ bậc. Don Walker vẫn thường tự hỏi điều đó có thể giống gì. Và giờ đây hiểu. Từ dưới cánh của chiếc MIG bay ra chớp ánh sáng. Nó giống như bàn tay lạnh lùng gỡ ra, cái cảm giác lạnh lẽo, tê cứng của nỗi sợ hãi ghê gớm. người khác bắn hai quả tên lửa vào . nhìn chằm chằm vào cái chết chắc chắn ở ngay trưởc mặt. Hai giây sau khi bắn ra hai quả tên lửa Sparrow. Walker những muốn từng chọn những quả Sidewinder. Lý do đơn giản: chiếc Sidewinder là những quả tên lửa nổ và biến , nó có thể tìm ra mục tiêu mà biết chiếc Eagle ở đâu. Những quả Sparrow cần chiếc Eagle phải hướng dẫn chúng, nếu bỏ , những quả tên lửa, có người hướng dẫn, có thể "xịt", hoặc lang thang trời cho đến khi rơi xuống mặt đất cách vô hại. chỉ còn tích tắc nữa là ấn nút thôi nhìn thấy những quả tên lửa do chiếc MIG bay ra rơi thẳng xuống phía dưới. Kinh ngạc nhận ra chúng hoàn toàn phải là những quả hỏa tiễn; tên Iraq lừa bằng cách bắn các thùng xăng dưới cánh vào . Các thùng nhôm đựng xăng bắt ánh nắng mặt trời buổi sáng trong khi chúng rơi ra, lấp lánh như đuôi những quả hỏa tiễn được phóng ra. Đó là trò lừa đảo, và , Don Walker, suýt nữa mắc bẫy. Trong chiếc MIG Abdelkanm Badri nhận ra tên người Mỹ chịu lùi bước. thử thần kinh của đối thủ, nhưng thua. băng ghế sau Osman tìm thấy nút đàm thoại. có thể nhìn được bằng cách nhìn qua vai mình rằng họ lao xuống, xuống hàng dặm rồi. - Chúng ta đâu thế này? gào lên. Điều cuối cùng nghe thấy là giọng của Abdelkarim, khá bình thản: - Đến với yên bình, em trai của ạ. Đến gặp cha. Allah-o-Akhabar. Đúng lúc đó Walker nhìn thấy hai quả Sparrow phát nổ, những mẩu lớn lửa đỏ cách đó 3 dặm, rồi những mảnh vỡ của chiếc máy bay chiến đấu Liên Xô rơi xuống vùng đất phía dưới. cảm thấy mồ hôi lạnh toát đầm đìa đầy người. Người cùng bay với , Randy Roberts, người giữ vị trí bên và đằng sau , xuất ở bên cánh phải, bàn tay đeo găng trắng giơ lên với ngón tay cái dựng lên. trả lời bằng cách đó, và hai chiếc Eagle, rời bỏ rượt đuổi vô vọng những chiếc MIG còn lại, bay lên để tiếp tục đến cây cầu Al Kut. Với tốc độ của những chiếc máy bay chiến đấu, toàn bộ việc, kể từ khi ra đa được bật lên cho đến khi tiêu diệt xong chiếc Fulcrum, chỉ kéo dài đúng 30 giây đồng hồ. Kẻ chỉ điểm có mặt ở ngân hàng Winkler vào đúng 10 giờ sáng hôm đó, có người "kế toán" cùng. Người trẻ hơn cầm theo cái cặp tài liệu có chứa 100.000 đôla Mỹ tiền mặt. Tiền thực tế là khoản vay nóng do người sayan làm ngành ngân hàng dàn xếp, người được cho biết số tiền đó được gửi vào ngân hàng Winkler trong thời gian, rồi được lấy về và đem trả lại cho ta. Khi nhìn thấy tiền, Herr Gemuetlich thấy thoải mái. Ông có thể kém nhiệt tình hơn nhiều nếu nhận ra những đồng đôla đó chỉ chứa trong phân nửa bề dày của cái cặp tài liệu, và ông có thể còn phải kinh hoàng thấy cái nằm ở tận đáy chiếc cặp giả. Vì lý do kín đáo, người kế toán cầu để Hardenberg vào phòng trong khi người luật sư và ông chủ nhà băng thống nhất những mật mã cho tài khoản mới. Người kế toán chịu trách nhiệm về hoá đơn và tiền, và khoảnh 11 giờ vấn đề được giải quyết. Herr Gemuetlich triệu tập người lục để theo các vị khách đến hàng lang và ra đến cửa ngoài. đường xuống người kế toán thầm điều gì đó vào tai viên luật gia người Mỹ, và người luật gia dịch lại cho viên lục . Với nút bấm của người lục dừng chiếc thang máy cổ lỗ sĩ ở tầng đệm và ba người ra ngoài. Luật sư chỉ vào cánh cửa phòng vệ sinh nam cho đồng nghiệp của mình, và chàng kế toán vào. Luật sư và viên lục vẫn đứng ở bậc đệm bên ngoài phòng. Đúng lúc đó vang đến tai họ thanh hoảng hốt trong hành lang, ràng bởi vì tầng đệm chỉ cách hành lang có 20 fít và thấp hơn 15 bậc thang gác. Lẩm bẩm xin lỗi viên lục chạy thẳng ra hành lang cho đến khi ta có thể nhìn từ đầu đoạn cầu thang xuống toàn bộ các bậc thang bằng đá để xem việc gì xảy ra. Đó là cảnh tượng kinh hoàng. Bằng cách nào đó ba tên ma cà bông, say khướt, dã vào trong hành lang và đòi tiền người tiếp tân để uống rượu tiếp. ta sau đó chỉ có thể kể lại rằng bọn họ lừa mở cửa bằng cách mình là nhân viên bưu điện. là nhục nhã, viên lục tức tốc tìm cách đẩy những tên hooligan ra ngoài. ai nhận ra là trong ba kẻ đó, khi vào được, ném hộp thuốc lá vào khe cửa nên dù đóng được nhưng tiếng quát tháo vẫn lọt vào. Cũng ai để ý, trong khi xô đẩy nhau, người thứ tư bò vào trong hành lang. Khi đứng dậy, đứng cùng vị luật gia từ New York, người theo viên lục xuống từ thang gác xuống đến hành lang. Họ đứng bên viên lục đẩy ba tên say về nơi của chúng - hè phố. Khi ta quay nhìn quanh, người lục của ngân hàng nhìn thấy vị luật sư và người kế toán xuống khỏi tầng đệm cùng với nhau. Với những lời xin lỗi cuống cuồng, ta mời họ ra khỏi ngân hàng. Khi ra đến ngoài phố, viên kế toán thở ra tiếng. - Tôi hy vọng bao giờ phải làm thế này nữa, ta . - Đừng lo, luật gia . làm khá tốt đấy. Họ bằng tiếng Do Thái, bởi vì viên kế toán biết thứ tiếng nào khác nữa cả. thực tế ta là người làm cho ngân hàng ở Beershe'eva, và lý do duy nhất ta có mặt ở Vienna, trong công vụ đóng giả đầu tiên và duy nhất của mình, là do ta trông khá giống với người phá khoá, người giờ đây đứng bất động trong bóng tối của nhà vệ sinh tầng đệm. ta phải nín thở đứng đó 12 tiếng đồng hồ. Mike Martin đến Ar-Rutba vào giữa trưa. mất 20 tiếng đồng hồ để di qua khoảng cách mà nếu bằng ôtô chỉ mất hơn 6 tiếng. Tại vùng ngoại ô của thành phố tìm thấy người nông dân với đàn dê và khiến ta có vẻ gì đó kỳ bí nhưng khá hạnh phúc khi được đề nghị bán bốn con trong số chúng với toàn bộ số dinar còn lại trong tay, với giá gấp đôi mà người nông dân có thể bán được ở chợ. Những con dê cũng có vẻ sung sướng lại được ra sa mạc, ngay cả khi chúng giờ đây bị choàng dây buộc cổ. Chúng khó có thể đoán trước có thể chúng chỉ có ở đó để giải thích tại sao. Mike Martin lại lang thang quanh sa mạc ở phía nam con đường dưới ánh mặt trời giữa trưa. Vấn đề của là có la bàn - nó nằm lại với các loại đồ đạc của , ở bên dưới những tấm tôn trần nhà ở Mansour. Sử dụng ánh mặt trời và chiếc đồng hồ rẻ tiền của mình, tìm kiếm cố hết sức có thể được để được từ tháp phát thanh của thành phố để đến wadi nơi xe mô tô của được chôn giấu. Lại mất 5 dặm lang thang nữa, bị chậm lại bởi lũ dê, nhưng chúng cũng đáng giá bởi hai lần nhìn thấy bọn lính nhìn chằm chằm vào từ con đường cho đến khi khuất. Nhưng chúng làm gì cả. tìm thấy wadi bên phải vào lúc mặt trời xuống, nhận ra những dấu hiệu để lại các tảng đá gần đó, và đứng đó cho đến khi ánh sáng lóe lên trước khi bắt đầu tắt lịm. Những con dê sung sướng dạo nhởn nhơ. Nó vẫn còn ở đó, được gói vào trong cái túi nylông, chiếc Yamaha vượt địa hình 125 phân khối, toàn thân màu đen, với những cái giỏ để đựng thêm các bình xăng dự trữ. Cái la bàn được chôn ở đó, cộng thêm khẩu súng ngắn và đồ ăn. gài khẩu súng tự động vào bên mình. Kể từ lúc đó, còn vấn đề gì để sợ hãi nữa; người nông dân Iraq nào có thể chạy loại máy móc này. Nếu bị bắt chợt, có thể bắn súng và trốn thoát. lái xe suốt đêm, cố tận dụng tối đa thời gian những chiếc Land-Rover thể được. Với bụi cát có thể tăng tốc băng qua những chỗ bằng phẳng và lái chiếc xe về những chỏm đá của các wadi, sử dụng động cơ và chân để đẩy. Nửa đêm đổ thêm xăng và dừng lại uống nước ăn vài viên đạm để trong cái túi. Rồi lái tiếp về phía nam để đến biên giới Arập Xêut. hề biết khi nào vượt qua biên giới. Đó là cả vùng đất hoang vu dấu hiệu gì đặc biệt toàn đá và cát, hang hốc và đá vụn, và với chuyến hình zigzag thực , có cách nào biết được được bao nhiêu dặm đường. cho rằng mình sang được Arập Xêut khi đến Tapline Road, con đường cao tốc duy nhất ở vùng đó. Địa hình trở nên dễ hơn, và được tới 20 dặm giờ khi nhìn thấy chiếc xe. mệt mỏi, có thể phản ứng nhanh hơn, nhưng cảm thấy tê dại và suy nghĩ cũng chậm chạp . Bánh trước chiếc xe lao vào dây thép, và ngã ra, rơi xuống cho đến khi chạm lưng xuống. Khi mở mắt nhìn lên nhìn thấy khuôn mặt đứng phía và họng súng thép. - Bouge pas, mec. (Đừng có động đậy, bạn) phải tiếng Arập. cố vận động trí óc mệt mỏi của mình. Cái gì đó như là lâu lắm rồi. Haileybury, thầy giáo kém may mắn nào đó của trường học cố dạy những thứ phức tạp rối rắm của tiếng Pháp. - Ne tirez pas, (Đừng bắn) chầm chậm. Je suis Anglais. (Tôi là người ) Chỉ có ba trung sĩ trong đội quân lê dương Pháp, và trong số đó tên là Mccullin. - ở đâu ấy à? ta bằng tiếng . Rồi, tốt hơn là đừng có đâm vào xe chỉ huy chứ. Và tôi phải sửa pit tông thôi, nếu có ý kiến gì. Đội tuần tra Lê dương ở phía tây của vị trí được chỉ định của họ trong hàng lối Liên quân, kiểm tra Tapline Road để ngăn chặn những kẻ xâm nhập từ Iraq có thể có. Với trung sĩ Mccullin làm thông ngôn, Martin giải thích cho viên trung uý người Pháp rằng trở về từ công vụ bên trong Iraq. Điều này có vẻ dễ chấp nhận đối với đội quân Lê dương: làm việc sau các trận tuyến là trong số các chuyên môn của họ. Tin tốt lành là họ có điện đàm. Người phá khoá kiên nhẫn đợi trong bóng tối của phòng để chổi qua hết ngày thứ ba và cho đến đêm. ta nghe thấy nhiều nhân viên vệ sinh nam vào phòng vệ sinh, làm việc thúc bách, và rời . Qua tường có thể nghe thấy đôi khi thang máy kêu lạo xạo lên xuống. ngồi lên cái cặp của mình, lưng dựa vào tường, và đôi khi liếc nhìn chiếc đồng hồ dạ quang của mình để xem giờ giấc trôi qua. Khi quá năm giờ hơn gần sáu giờ nghe tiếng các nhân viên ra hành lang để về nhà. biết là vào sáu giờ người gác đêm đến, viên lục tiếp ta, sau đó kiểm tra mọi nhân viên qua bàn của mình theo danh sách trong ngày. Khi người lục về sau sáu giờ, người gác đêm đóng cửa trước lại và bật hệ thống còi báo động. Rồi ta ngồi xem chiếc vô tuyến xách tay luôn mang theo hàng tối và xem các chương trình trò chơi cho đến khi phải kiểm tra vòng . Theo đội yarid, ngay cả các nhân viên vệ sinh cũng bị giám sát. Họ chỉ làm việc các nơi chung - sảnh, cầu thang, và phòng vệ sinh - trong các đêm thứ hai, thứ tư, và thứ sáu, nhưng vào đêm thứ ba người phá khoá có thể ở đó mà vấn đề gì Các ngày thứ bảy họ trở lại để lau dọn các phòng làm việc dưới giám sát của người lục , người lúc nào cũng kè kè bên cạnh họ. Thói quen của người gác đêm có vẻ như bao giờ cũng vẫn thế. ta kiểm tra toà nhà ba lần, kiểm tra mọi cánh cửa, vào mười giờ tối, hai giờ sáng và năm giờ sáng. Khoảng thời gian giữa thời điểm ta đến và lần kiểm tra đầu tiên, ta xem vô tuyến và ăn món súp mang theo. Trong khoảng thời gian trong dài nhất, giữa mười giờ và hai giờ, ta bật chiếc đồng hồ báo thức để báo cho ta dậy vào lúc hai giờ sáng. Người phá khoá đợi để thực vụ ăn cắp của mình trong khoảng thời gian này. ta từng tận mắt nhìn thấy phòng làm việc của Gemuetlich và cánh cửa quan trọng dẫn vào đó. Cánh cửa đó bằng gỗ dày nhưng may là hề gắn thiết bị báo động. Cửa sổ có báo động, và ta nhận ra những sợi dây giữa cái hộp và cái thảm. Đúng mười giờ ta nghe thấy tiếng thang máy lên , nghĩa là người gác đêm bắt đấu vòng kiểm tra đầu tiên của mình các cánh cửa phòng làm việc, bắt đầu từ tầng cùng và xuống từng tầng . Nửa tiếng đồng hồ sau, người đàn ông đứng tuổi đó kết thúc, thò đầu vào phòng vệ sinh nam, bật đèn lên để kiểm tra cái cửa sổ có chấn song và hệ thống báo động, đóng cửa lại, và quay trở về bàn của mình với trò giải trí ưa thích. Tại đó ta chọn xem chương trình trò chơi muộn. Vào lúc 10 giờ 45 người phá khoá, trong bóng tối mịt mùng, rời khỏi phòng vệ sinh và lên thang gác cho đến tầng bốn. Cửa phòng làm việc của Herr Gemuetlich làm ta mất đến mười lăm phút mới mở được. Cuối cùng khoá cũng quay, và ta bước vào trong phòng. Mặc dù ta đeo dải băng đầu có gắn chiếc đèn pin xíu, vẫn phải lấy cái khác, có vòng sáng toả rộng hơn để quan sát toàn bộ căn phòng. Trong ánh sáng của cái đèn, ta có thể tránh được hai sợi dây và lại gần cái bàn từ phía có bảo vệ. Rồi ta tắt nó và chỉ còn dựa vào ánh sáng của cái đèn như cây bút. Khoá của ba ngăn kéo cùng thành vấn đề - chỉ là những ngăn bằng đồng già cả hàng trăm năm nay. Khi ba ngăn tủ đó được mở, ta thò tay vào và bắt đầu tìm kiếm cái chốt, cái nút hay lẫy. có gì hết cả. Phải đến tiếng sau, ở đằng sau cái ngăn thứ ba ở dưới phía bên phải, ta mới tìm thấy. Khi ta nhấn vào đó, tiếng cách của ổ khoá vang lên, và dải phía dưới của cái chân bàn mở ra chừng cm. Cái khay bên trong khá là hẹp, chỉ hơn inch, nhưng cũng đủ cho hai tờ giấy mỏng. Đó là bản sao của bức thư giao quyền chỉ dành cho các tài khoản dưới phụ trách của Gemutlich. Người đột nhập lấy máy ảnh ra và bấm máy, thiết bị gồm bốn thanh nhôm giữ cho máy ảnh đứng giữ đúng khoảng cách với tờ giấy bên dưới để có được độ nét tốt nhất. Tờ giấy cùng là miêu tả phương pháp vận hành của tài khoản do kẻ chỉ điểm mở trước đó vào buổi sáng, nhân danh người khách hàng bí mật ở Mỹ. Người mà ta muốn tìm ở hàng thứ bảy. Số tài khoản được biết – Mossad chuyển tiền cho tài khoản của Jericho hai năm trước khi người Mỹ tiếp quản ông ta. Để chắc chắn, ta chụp ảnh toàn bộ từ mọi hướng. Sau khi quay cái cachette trở lại vị trí ban đầu của nó, ta đặt nó lại và khóa lại toàn bộ các ngăn kéo và ra, đóng lại cửa căn phòng làm việc sau lưng mình. Vào lúc 1 giờ 10 phút ta quay trở lại phòng vệ sinh nam. Khi ngân hàng mở cửa vào sáng hôm sau, người đột nhập để cho thang máy chạy lên chạy xuống tiếng đồng hồ, biết rằng viên lục bao giờ cần cùng với nhân viên vào các văn phòng của họ. Người khách hàng đầu tiên xuất vào lúc 10 giờ 10 phút. Khi thang máy lên ngang qua ta, người đột nhập rút ra khỏi phòng vệ sinh, rón rén đến cuối hành lang, và nhìn xuống cầu thang. Chiếc bàn người lục có ai; ta ở tầng theo người khách hàng. Người đột nhập nhấn cái chuông hai lần. Trong ba giây cửa trước có tiếng chuông. Người tiếp tân bật máy và hỏi: - Ja? - Lieferung, giọng từ tốn trả lời. ta nhấn nút mở cửa, và người đưa hàng to lớn dễ mến vào trong hành lang, ta mang đến bức tranh sơn dầu gói trong tờ giấy màu nâu và : - Đây này, thưa , sạch để treo lại rồi đấy. Phía sau ta cửa đóng lại. Trong khi nó đóng lại như thế, bàn tay chặn nó lại và luồn vào đó đoạn giấy. Cửa lại mở ra và đóng được nữa. Người đưa hàng dựng bức tranh sơn dầu cạnh bàn người tiếp viên. Bức tranh lớn, rộng năm fit và cao bốn fít. Nó ngăn ta thể nhìn được về hướng hành lang. - Nhưng tôi chẳng biết gì về việc này cả - ta phản đối. Cái đầu của người giao hàng thò vào qua mép của bức tranh. - chỉ cần ký giấy biên nhận thôi mà, thưa , ta , và đẩy vào trước mặt ta cái bảng với mẫu ký nhận. Trong khi ta xem nó, người đột nhập xuống các bậc thang bằng đá và ra đến cửa. - Nhưng mà nó là Phòng tranh Harzmann cơ mà, ta nhận xét. - Đúng rồi. Ballgasse, số 14. - Nhưng chúng tôi chỉ là số 8 thôi. Đây là ngân hàng Winkler. Phòng tranh phải nữa cơ. Người giao hàng bối rối xin lỗi và . Viên lục quay trở lại những bậc thang đá. ta giải thích việc vừa xảy ra. ta cau có, quay chiếc ghế của mình về phía hành lang từ chiếc bàn tiếp tân, và lại chúi mũi vào với giấy tờ. Khi chiếc trực thăng Blackhawk chở Mike Martin về căn cứ quân ở Riyadh vào giữa ngày hôm đó, có sẵn tại đó hội đồng chuẩn bị sẵn để đón . Steve Laing có mặt ở đó, cùng với Chíp Barber. Người mà nghĩ mình gặp là chỉ huy của mình, đại tá Bruce Craig. Trong khi Martin còn ở Baghdad, việc diễu hành của những người SAS ở các sa mạc phía tây Iraq tăng lên với đầy đủ cả hai đội bay bên ngoài Hereford. cái còn ở lại ở Hereford để làm đội dự bị, đội kia là các đơn vị hơn trong các phi vụ huấn luyện khắp thế giới. - tóm được rồi chứ, Mike? Laing hỏi. - Phải, thông điệp cuối cùng của Jericho. thể gửi được bằng điện đàm. giải thích ngắn ngọn tại sao và chìa ra tờ giấy mỏng ghi báo cáo của Jencho. - Này bạn, chúng tôi rất lo lắng khi thể có tin tức gì của trong suốt 48 tiếng đồng hồ vừa rồi đấy, Barber . thực được chiến tích lớn, thiếu tá. - Chỉ là việc thôi mà, thưa các ngài, đại tá Craig . Nếu kết thúc với ta, có thể để ta quay về chỗ chúng tôi được ? Laing nghiên cứu tờ giấy, dịch tiếng Arập theo cách tốt nhất có thể được. Ông nhìn lên. - Tại sao lại phải hỏi, tôi cũng nghĩ thế. Với những lời cảm ơn chân thành nhất của chúng tôi. - Đợi phút nào, Barber . Thế làm gì với ta bây giờ hả, thưa đại tá? - Ô, cái thùng ở sân bay, thức ăn gì đó... - Thế hãy tìm ý tưởng tốt hơn , Barber . Thiếu tá này, thế miếng bít tết và khoai tây chiên vùng Kansas thế nào, giờ trong phòng tắm hơi, và cái giường êm? - Với những cái kỳ lưng phải , Martin cười. - Đúng. Đại tá, người của có đoàn tùy tùng ở Hyatt dọc theo phố trong suốt 24 tiếng đồng hồ, những người ở nước chúng tôi. Đồng ý nào? - Tốt thôi. Thế ngày mai gặp lại vào giờ này nhé, Mike, Craig . Trong chuyến ngắn về khách sạn dối diện đại bản doanh CENTAF, Martin đưa cho Laing và Barber bản dịch thông điệp của Jericho. Laing ghi chép chăm chú. - Điều này có nghĩa là, Barber . Các chàng trai phi công bay tới đó và thổi bay nó . Điều này đòi hỏi Chip Barber kiểm tra lại người nông dân Iraq bẩn thỉu để mặc cho ta bộ quần áo đẹp nhất ở Hyatt, và khi ta mặc xong đồ, Barber rời để đến đường tới Hố Đen. Martin có giờ của mình để tắm rửa, xông hơi sạch và sử dụng bọt để cạo râu và gội đầu, và khi ra, bít tết và khoai tây chiên ở cái khay trong phòng khách. dùng dở bữa ăn của mình bị giấc ngủ xâm chiếm. chỉ kịp lăn vào cái giường êm ái ở phòng bên cạnh và lăn ra ngủ. Trong khi ngủ, số việc xảy ra. Những thứ quần áo, giày dép, tất vớ mới toe được chuyển đến phòng cho . Tại Vienna, Gidi Barzilai gửi các chi tiết cụ thể về tài khoản có đánh số của Jericho cho Tel Aviv, nơi bản sao tương tự được chuẩn bị sẳn với từ ngữ rất chuẩn. Karim gặp Edith Hardenberg khi rời khỏi nhà băng về nhà, mời uống cà phê, và giải thích phải trở về Jordan thăm mẹ bị ốm. chấp nhận lý do đó, nắm tay , và bảo phải sớm quay trở lại với ngay khi nào có thể. Các mệnh lệnh được Hố Đen truyền cho căn cứ quân ở Taif nơi máy bay do thám TR- 1 chuẩn bị sẵn để cất cánh cho phi vụ ở tận cực bắc Iraq, để chụp thêm các bức ảnh của khu sản xuất vũ khí quan trọng ở As-Sharqat. Phi vụ được gắn thêm nhiệm vụ mới với bản đồ mới. đặc biệt dành cho việc thăm và chụp ảnh vùng đất với dải đồi nằm ở phía bắc Jebal và Hamreen. Khi người chỉ huy đội bay phản đối thay đổi đột ngột đó, ta được cho biết các lệnh đó được xếp vào loại "bí mật Jeremiah". phản đối liền chấm dứt. Chiếc TR- 1 cất cánh ngay sau hai giờ, và đến bốn giờ, những bức ảnh xuất các màn hình trong phòng họp dưới hành lang của Hố Đen. Hôm đó trời nhiều mây và có mưa ở Jebal, nhưng với ra da hình ảnh mới theo nhiệt, thiết bị ASARSI sợ mây, mưa, sương mù, tuyết và bóng tối, chiếc máy bay do thám vẫn có được các bức ảnh của mình. Chúng được nghiên cứu khi được đại tá Beatty của USAF và chỉ huy bay Peck của RAF mang tới, đó là hai chuyên gia phân tích hình ảnh do thám giỏi nhất của Hố Đen. Cuộc họp lập kế hoạch bắt đầu vào 6 giờ. Chỉ có 8 người có mặt. Ngồi ghế chủ toạ là đại diện của tướng Horner, cũng có ý nghĩa quyết định tương tự nhưng vui vẻ hơn là tướng Buster Glosson. Hai sĩ quan tình báo, Steve Laing và Chip Barber, có mặt ở đó bởi vì họ là những người biết được mục tiêu và biết từ đâu có lời tiết lộ đó Hai nhà phân tích, Beatty và Peck, được triệu tập để giải thích các chú giải của họ về các bức ảnh vùng đó Và còn có thêm ba sĩ quan, hai người Mỹ và người , những người có thể ghi chép những việc xảy ra và đảm bảo điều đó Đại tá Beatty khai mạc vấn đề với cái trở thành công thức của các cuộc họp. - Chúng ta có vấn đề, ông ta . - xem nào, vị tướng . - Thưa tướng quân, thông tin cung cấp cho chúng ta điểm tham chiếu quan trọng. Nhưng đó chưa phải là tham chiếu của SATNAV, quay quanh vùng đất để khoanh lại vài yard vuông. Chúng ta tới km vuông. Để có thể chính xác hơn, chúng tôi mở rộng địa điểm thành dặm vuông. - Thế sao? - Và có rồi đây. Đại tá Beatty chỉ lên tường. Gần như toàn bộ khoảng gian mà bức ảnh khổ lớn chụp được, với độ phân giải cao và được máy tính xử lý , rộng mỗi chiều sáu fít. Tất cả mọi người nhìn chăm chú vào đó. - Tôi chẳng nhìn thấy gì hết cả, vị tướng . Toàn là núi. - Vâng, thưa tướng quân, đó chính là vấn đề. Nó nằm ở đây đâu. chú ý tăng đến cực điểm. Tất cả đều suy nghĩ rất lung. - Thế cái gì, vị tướng chậm rãi , có gì ở đó nào? - khẩu súng, Laing . - khẩu súng? - Gọi là súng Babylon. - Tôi nghĩ người của các có tất cả các thứ đó ở giai đoạn xây dựng. - Đúng là thế . Có vẻ như ai đó vào. - Chúng ta chưa từng làm trước đây. Trước ai cũng nghĩ là quả tên lửa, hoặc căn cứ máy bay chiến đấu. khẩu súng nào có thể bắn được trọng tải lớn đến thế đâu. - Cái này có thể, thưa tướng quân. Tôi kiểm tra với London. nòng súng dài hơn 180 mét, đường kính đến mét. Trọng tải hơn nửa tấn. Tầm bắn 1000 km, theo cái được sử dụng. Và tầm bắn từ đây đến Tam giác? - 470 dặm, tức là 750 km. Thưa tướng quân, liệu các phi công của ngài có ném được quả đạn như thế ? - . - Các tên lửa Patriot sao? - Có thể, nếu nó được đặt đúng chỗ và đúng thời điểm và rơi đúng lúc. Có khả năng là đâu. - Vấn đề là, đại tá Beatty xen vào, súng hay tên lửa, cũng có ở đây đâu. - Được chôn ngầm dưới đất giống như nhà máy ở Ai Qubai à? Barber gợi ý. - Nó được nguỵ trang với bãi rác ôtô ở , chỉ huy đội bay Peck lên tiếng. Ở đây chẳng có gì hết cả. đường sá, lối mòn, dường dây điện, có bảo vệ, sân bay trực thăng, dây thép gai, trại lính - chỉ là vùng đồi và núi thấp hoang vu với rất nhiều thung lũng. - Cứ cho là, Laing trả đũa, chúng sử dụng cùng trò ở Tarmiya - đẩy chu vi bảo. vệ ra xa, tít ở ngoài vùng đó? - Chúng tôi thử như thế rồi, Beatty . Chúng tôi nhìn ra mọi hướng xa đến 50 dặm. có gì - có bảo vệ. - Thế chỉ là chiến dịch thất vọng thôi à? Barber đề xuất. - có cách nào đâu. Người Iraq luôn luôn bảo vệ những gì thuộc về mình, ngay cả người của họ cũng thế. Xem này... Đại tá Beatty tiến lên trước đến bức ảnh và chỉ vào nhóm lều. - ngôi làng nông dân, ngay cạnh. Khói lò, chuồng dê, những con dê ăn cỏ ở thung lũng đây này. Còn có hai làng khác ở bên ngoài nữa. - Cũng có thể họ đào cả quả núi, Laing . Các ông từng như thế ở núi Cheyenne rồi cơ mà. - Đó là cả loạt những hầm hào, đường ngầm, loạt những phòng đằng sau các cánh cửa được gia cố, Beatty . ông về nòng súng dài 180 mét. Hãy thử đặt nó vào trong quả núi, ông sẻ thấy nó lồi lên khủng khiếp thế nào. Hãy nhìn vào đây, thưa các ngài, tôi có thể nhìn thấy bãi biển, cửa hàng, mọi khu dân cư ở dưới ngầm, nhưng cái nòng súng như thế phải ở đâu đó chứ. Làm gì có. Tất cả lại nhìn vào bức ảnh. Trong khuông giấy có ba ngọn đồi và phần ngọn thứ tư. Cái lớn nhất thể nhìn thấy bởi những cánh cửa chắc chắn hoặc ngang qua đường. - Nếu ở đâu đó trong này, Peck lên tiếng, tại sao lại ném bom san phẳng cả dặm vuông đó ? Điều này có thể làm rụng xuống mọi quả núi phía thứ vũ khí. - Ý kiến hay đấy, Beatty . Thưa tướng quân, chúng ta có thể sử dụng các Buff. Hãy cho nó đánh cả dặm vuông này. - Tôi có thể có đề xuất ? Barber hỏi. - Xin mời, tướng Horner . Nếu tôi là Saddam Hussein, và tôi có thứ vũ khí giá trị như thế, tôi phải có người chỉ huy mà tôi có thể tin cậy Và tôi ra lệnh cho ông ta rằng nếu Pháo đài chịu bất kỳ kích nào, ông ta phải bắn luôn. tóm lại, nếu những quả bom đầu tiên rơi vu vơ - và dặm vuông quả là diện tích lớn đấy - phần còn lại có thể trở thành bình địa trong vòng giây thôi. Tướng Glosson chồm lên trước. - Chính xác ông muốn gì, ông Barber? - Thưa tướng quân, nếu Cú đấm của Thượng đê' quả có ở trong những quả đồi này, nó được giấu bằng chiến lược với kỹ năng cực kỳ cao. Cách duy nhất là 100 phần trăm chắc chắn nó bị phá huỷ bởi chiến dịch tương tự. Chỉ máy bay thôi, bay đến bất thần, mang đến cuộc tấn công, và bắn tung mục tiêu bằng cái nút nhấn bom đầu tiên và duy nhất. - Tôi biết bao lần điều đó, đại tá Beatty trở nên tức giận, nhưng chúng ta biết cái nút đó ở đâu cả - cách chính xác. - Tôi nghĩ đồng nghiệp của tôi về việc xác định mục tiêu, Laing . - Nhưng điều đó có nghĩa là phải có máy bay khác, Peck phản đối. Giống như những chiếc Buccanneer làm với những chiếc Tornado. Ngay cả người xác định mục tiêu trước hết cũng phải biết mục tiêu ở đâu chứ. - nó làm việc với tên lửa Scud, Laing . - Chắc chắn rồi, người của SAS xác định các máy bắn tên lửa, và chúng tôi thổi bay chúng . Nhưng chỉ có thể làm được mặt đất mà thôi, hàng nghìn dặm từ những quả tên lửa với ống nhòm, Peck . - Chính xác là như vậy. Im lặng mất nhiều giây. - Các , tướng Glosson , đến chuyện đưa người vào vùng núi để cho chúng tôi mục tiêu rộng mười yard vuông. Cuộc tranh luận kéo dài hơn hai tiếng đồng hồ. Nhưng vẫn phải quay lại với lời biện luận của Laing. - Thứ nhất là tìm ra nó, rồi đánh dấu nó, rồi phá huỷ nó - và tất cả những cái đó phải sao cho người Iraq phát được cho đến khi quá muộn. Quãng nửa đêm hạ sĩ của lực Hoàng gia đến khách sạn Hyatt. ta thấy có trả lời ở cửa phòng họp, nên người quản lý đêm để ta vào. ta vào phòng ngủ và lay vai người đàn ông ngủ trong bộ đồ ngủ ở đầu giường. - Thưa ngài, dậy . Ngài được điều động, thưa thiếu tá.
CHƯƠNG 22 Nó ở đó, Mike Martin hai giờ sau đó. - Đâu cơ? đại tá Beatty hỏi với tò mò lộ . - Ở đâu đó Trong phòng họp ở dưới hành lang từ Hố Đen, Martin đứng dựa vào bàn nghiên cứu bức ảnh về phần đất rộng hơn ở Jeban và dãy Hamreen. Nó chỉ ra diện tích năm dặm vuông. chỉ vào với đầu ngón tay. - Những ngôi làng đó, ba ngôi làng - ở đây, ở đây, và ở đây. - Có chuyện gì với chúng nào? - Chúng là giả mạo đấy: Được làm tuyệt, chúng là những bản sao hoàn hảo của các ngôi làng của nông dân miền núi, nhưng chúng đầy lính gác đấy. Đại tá Beatty nhìn chằm chằm vào ba ngôi làng. cái ở thung lũng cách khoảng giữa ba hòn núi chỉ nửa dặm nằm chính trung tâm khu vực. Hai làng khác ở ngoài rìa xa hơn. ngôi làng nào đủ lớn để có được nhà thờ; thực tế, chúng quá , chỉ hơn thôn mà thôi. Mỗi cái có kho thóc chính và ở trung tâm để tích trữ cho mùa đông và thức ăn, và những kho hơn cho cừu và dê. Khoảng chừng hơn chục túp lều đơn giản tạo nên phần còn lại, những ngôi nhà xây bằng gạch và bùn với thạch hoặc mái tôn theo dạng có thể được nhìn thấy khắp nơi ở vùng núi Trung Đông. Vào mùa hè có thể có những đồng ruộng hoặc những ruộng gần đó, nhưng mùa đông . Cuộc sống vùng núi Iraq rất khắc nghiệt vào mùa đông, với những cơn mưa lạnh giá và mây mù. Khái niệm cho rằng lúc nào ở Trung Đông cũng nóng ấm là sai lầm chung xưa nay. - Tốt thôi, thiếu tá, biết nhiều về Iraq. Tôi . - Thế tại sao chúng là giả mạo? - Hệ thống trợ giúp cho cuộc sống, Martin . Những ngôi làng quá , quá nhiều nông dân, quá nhiều dê và cừu. đủ thức ăn. Họ chết đói. - Mẹ nó chứ, Beatty nổi điên lên. Đơn giản quá. - Cũng có thể, nhưng nó cho thấy Jericho dối, hoặc nhầm lẫn lần nữa. Nếu chúng làm vậy, tức là chúng giấu cái gì đó. Đại tá Craig, sĩ quan chỉ huy của đội SAS số 22, đến chỗ họ từ căn cứ của mình. thầm chuyện với Steve Laing. Bây giờ mới tham gia vào câu chuyện. - nhận ra gì thế, Mike? - Ở đây đấy, Bruce ạ. Ai đó có khả năng nhìn thấy - từ cách 1000 yard bằng ống nhòm. - Brass muốn đưa đội vào đó để đánh dấu. thua rồi. - Trời ơi, thưa ngài. Những ngọn đồi đó đầy các đội canh phòng. Ông có thể thấy có đường sá gì cả. - Thế sao? Có thể tránh các đội canh phòng chứ. - Và thế nếu rơi vào đội sao? có ai được tiếng Arập như tôi, và ông cũng biết điều đó. Ngoài ra, đó là HALO. Máy bay trực thăng cũng làm được gì đâu. - làm mọi thứ cần, cho đến giờ tôi có thể thế. - ngớ ngẩn. Tôi chưa từng thấy hành động nào như thế cả. Tôi chán ngán cái việc này rồi. Để tôi làm. Những người khác ở sa mạc hàng tuần, trong khi tôi phải chăm sóc khu vườn. Đại tá Craig nhướng lông mày. hỏi Laing chính xác Martin làm gì - cũng muốn đến dù là gì nữa - nhưng ngạc nhiên khi trong những sĩ quan của mình lại phải làm người làm vườn. - Thế quay về căn cứ . Chúng ta có thể lên kế hoạch tốt hơn ở đó. Nếu tôi có ý tưởng nào, có thể thực . Trước khi trời sáng, tướng Schwarzkopf đồng ý có lựa chọn nào khác và cho chuẩn y của mình. Tại cái góc bí mật của căn cứ quân Riyadh này là chỗ riêng dành cho người của SAS, Martin vạch phác thảo các ý tưởng của mình cho đại tá Craig và được chấp thuận để thực . điều phối của việc lập kế hoạch có thể ở lại với đại tá Craig cho những người mặt đất và với tướng Glosson cho vụ tấn công bằng máy bay cuối cùng. Buster Glosson uống cà phê buổi sáng với bạn mình và thượng cấp Chuck Horner. - có ý tưởng nào khác cho đơn vị chúng ta dùng cho vụ này à? ông ta hỏi. Tướng Horner nghĩ đến sĩ quan nào đó hai tuần trước khuyên ông làm cái gì đó là dữ dội. - Có chứ, ông . Hãy dành cho đội 336. Mike Martin thuyết phục được đại tá Craig khi chỉ ra - cách lôgic - rằng với phần lớn các lính SAS ở vùng Vịnh được sử dụng ở Iraq, là sĩ quan cao cấp có khả năng làm được, mà là chỉ huy đội B, đội từng làm những chiến dịch trong sa mạc dưới chỉ huy của người dưới quyền , và chỉ mình được tiếng Arập trôi chảy. Nhưng lý luận vững chắc của là từng được huấn luyện và có kinh nghiệm nhảy dù tự do. Chỉ cách để vào được vùng núi Iraq cách bí mật là đến vùng HALO - mở dù thấp - có nghĩa là ra ngoài máy bay ở độ cao 25.000 fít và rơi tự do và chỉ mở dù khi còn cách mặt đất 3.500 fít. Đó phải công việc cho những tay mơ. Việc lập kế hoạch toàn bộ phi vụ phải mất đến tuần lễ, nhưng còn thời gian nữa. Giải pháp duy nhất là với nhiều kiểu nhảy dù, bộ qua vùng đất, và lựa chọn vị trí lý tưởng để lên kế hoạch. Với cái đó, Martin cần người có thể tin cậy cả cuộc đời mình, đó chính xác là cái làm dù thế nào nữa. Quay trở lại cái góc dành cho SAS ở căn cứ quân Riyadh, câu hỏi dầu tiên đại tá Craig dành cho là: - Tôi có thể lấy ai? Danh sách rất ngắn; chỉ là những người từng chiến dịch trong sa mạc. Khi người thượng sĩ có tên trong danh sách, cái tên nảy ra trong . - Peter Stephenson - chắc chắn. - may mắn đấy, Craig . ta vừa quay trở lại qua biên giới tuần trước. nghỉ ngơi. ta được đấy Martin biết thượng sĩ Stephenson khi viên trung sĩ còn là viên đội và là đại uý lần đầu tiên trong sư đoàn với tư cách chỉ huy nhóm. Cũng giống như bản thân , Stephenson có thể nhảy dù tự do và là thành viên lính dù của đội ta. - ta tốt đấy, Craig nới. chỉ cái tên khác. người quen núi nhé. Tôi cho là cần hai người. Tên được chỉ định là hạ sĩ Ben Eastman. - Tôi biết ta. đúng đấy - tôi lấy ta. Ai nữa nào? Lựa chọn cuối cùng là hạ sĩ Kevin North, từ dội khác. Martin chưa từng bao giờ đánh trận với ta, nhưng North là chuyên gia về núi và được người chỉ huy của khuyến khích nên sử dụng. Có năm địa bàn lập kế hoạch mà phải tuần tự hoàn thành. Martin chia ra các nhiệm vụ trong đó chịu trách nhiệm chung. Đầu tiên là lựa chọn máy bay để nhảy dù. do dự, Martin chọn chiếc Hercules C-130, máy nhảy thông thường SAS sử dụng, và ở đó có chín chiếc phục vụ ở vùng Vịnh. Chúng đều đóng ở gần sân bay quốc tế Vua Khaled. Thậm chí tin tốt hơn đến vào bữa sáng: ba trong số chúng đến từ đội số 47, đóng ở Lyneham ở Wiltshire, đội có nhiều năm kinh nghiệm với các vụ nhảy dù của lính SAS. Giữa những phi công của ba chiếc Hercules là trung úy tên là Glyn Morris. Qua cuộc chiến tranh vùng Vịnh, những chiếc máy bay vận chuyển Hercules là phần trong chiến dịch chuyển hàng hoá đến được Riyadh ở các căn cứ bên ngoài của quân Hoàng gia ở Tabuq, Muharraq, Dhahran, và thậm chí Seeb ở Oman. Morris từng là người chuyên chở hoặc giám sát hàng hoá, nhưng nhiệm vụ chính thức của ở miền này là PJI, hướng dẫn nhảy dù, và Martin từng trước đây nhảy dù dưới chỉ dẫn của ta. Ngược hẳn với khái niệm mà Paras và SAS tìm kiếm ở nhảy dù của mình, mọi nhảy dù quân trong các lực lượng quân quốc đều diễn ra dưới chỉ đạo của RAF, và mối quan hệ được dựa niềm tin lẫn nhau khi mà mỗi bên đều biết được chính xác làm gì. Người chỉ huy bay Ian Macfadyen, chỉ huy RAF Ở vùng Vịnh, ra lệnh cho những chiếc Hercules được chỉ định cho nhiệm vụ của SAS vào lúc nó quay trở về sau chuyến chở hàng từ Tabuq, và bắt đầu chuyển nó cho nhiệm vụ HALO được lên kế hoạch cho cùng đêm hôm đó. Quan trọng nhất trong số các nhiệm vụ phối hợp là tạo ra chỗ có ôxi sàn của chiếc máy bay chở hàng. Chủ yếu bay ở tầm thấp, chiếc cho đến lúc đó bao giờ cần ô xi ở đằng sau để giữ cho những người ở trong sống được ở độ cao. Trung uý phi công Morris cần chỉ dẫn thêm về công việc làm, và dẫn đến PJI thứ hai từ chiếc Hercules khác, trung sĩ phi công Sammy Dawlish. Họ làm việc cả ngày chiếc Hercules và xong việc chuẩn bị vào lúc mặt trời xuống. Ưu tiên thứ hai là chính những chiếc dù. Vào thời điểm đó, SAS chưa từng nhảy dù xuống Iraq - họ đến các sa mạc Iraq bằng xe cơ giới - nhưng trong những tuần trước khi chiến tranh thực nổ ra, các phi vụ tập luyện được tiến hành đều đặn. Tại căn cứ quân có bộ phận trang thiết bị được niêm phong và bảo vệ nghiêm mật, nơi SAS để dù của mình. Martin cầu và được phép lấy tám dù chính và tám cái dự trữ, mặc dù và người của mình có thể chỉ cần mỗi người bốn chiếc. Trung sĩ Stephenson cũng được giao nhiệm vụ kiểm tra và đóng gói những cái dù đó trong ngày. Những chiếc dù dài hơn loại tròn dính với các đơn vị bay, nhưng với mẫu thiết kế mới hơn được gọi là "vuông". Chúng vuông vắn mà ra có hình thuôn với hai khay. Trong khi bay, khí được trượt giữa hai khay đó, tạo ra "cái cánh" tương tự với phần giao với khí, cho phép người nhảy dù tự do "bay" chuyến đó xuống như người nhện, với cơ động và khả năng tác hoạt tốt hơn. Chúng là dạng vẫn thường được nhìn thấy trong những màn biểu diễn nhảy dù tự do. Hai viên đội có nhiệm vụ xem xét và quản lý mọi thứ đồ đạc cần thiết còn lại. Chúng gồm bốn bộ quần áo, bốn túi ngủ lớn của , các chai nước, mũ bảo hiểm, dây đeo, vũ khí, HVC viên đạm - có thể ăn ở mọi nơi - thuốc nổ, đồ dùng sơ cứu... danh sách rất dài. Mỗi người có thể mang theo được 80 pound trong những chiếc túi Bergen đó và có thể cần đến mỗi ounce trong số đó. Những người sửa chữa và thợ máy làm việc với chiếc Hercules trong hangar, chuẩn bị kỹ máy móc và quan tâm đến từng bộ phận . Chỉ huy đội bay chỉ định đội nhân viên giỏi nhất của mình mà trong số đó hoa tiêu theo đại tá Craig về Hố Đen để lựa chọn vùng nhảy dù thích hợp, tức là DZ cực kỳ quan trọng. Martin được sáu kỹ thuật viên giúp đỡ, bốn người Mỹ và hai người , để sử dụng máy tìm ra mục tiêu, định vị nó trong vài yard vuông, và chuyển thông tin trở về Riyadh. Khi kết thúc, các dụng cụ nhiều thứ của được gói ghém cẩn thận để chống đổ vỡ bất ngờ và được mang đến hangar, nơi hàng núi đồ cho bốn người dồn đến. Để tuyệt đối an toàn, mỗi thứ dụng cụ khoa học đều có hai thứ, lại thêm vào trọng lượng người có thể mang. Martin gặp những người lên kế hoạch ở Hố Đen. Họ cúi lom khom cái bàn rộng trải đầy những bức ảnh mới do chiếc TR- 1 khác vừa chụp sáng hôm đó. Thời tiết trong sáng, và các bức ảnh cho thấy từng xó xỉnh và hẻm núi của Jebal và Hamreen. - Chúng tôi cho là, đại tá Craig , cái thứ súng quỷ quái này có thể nằm ở đông nam. Điểm quan sát tốt nhất chính là ở chỗ đó. Ông chỉ ra loạt những hẻm núi trong phần núi về phía nam của vùng được cho là Pháo Đài, ngọn đồi ở trung tâm nhóm trong km vuông được đại tá Osman Badri xấu số chỉ . Còn với DZ, có thung lũng ở đây, chừng 40 km về phía nam... có thể nhìn thấy nước óng ánh trong dòng suối chảy xuôi xuống thung lũng. Martin nhìn. Đó là thấp xuống chút ở những ngọn đồi, dài 500 yard và rộng khoảng 100, với những sườn dày cộp đầy những tảng đá, và cái rill làm chảy róc rách dòng nước mùa đông của mình dọc theo đáy của dip. - Đây là chỗ tốt nhất à? Martin hỏi. Đại tá Craig nhún vai. "Thẳng thắn mà , đó là cách của các thôi. Cái thứ hai cách mục tiêu tới 70 km cơ. chọn điểm nào gần hơn, để các có thể nhìn thấy ngay vùng đất đó." bản đồ, trong ánh sáng ban ngày, có thể chắc chắn: trong bóng tối dày đặc, sâu xuyên qua khí lạnh ở tốc độ 120 dặm/giờ, có thể dễ dàng để mất. Có thể có ánh sáng để hướng lối chúng, có đèn pha mặt đất. Từ bóng tối đến bóng tối. - Tôi chọn nơi này, . Người hoa tiêu của RAF đứng thẳng dậy. - Tốt, tôi thực . Người hoa tiêu có buổi chiều bận rộn. Việc của ta là tìm ra đường mà cần tới đèn đóm và qua bầu trời trăng sao, hề biết đến chỗ nhảy dù mà phải nhìn từ điểm trung từ đó, trong tâm trí căng thẳng, bốn thân hình ra máy bay của để tìm cái thung lũng bé xíu đó. Ngay cả những thân hình rơi xuống đó cũng chịu sức gió; công việc của qua đó được đánh giá. phải đến mãi buổi đêm tất cả những người này mới gặp nhau lần nữa tại hangar, giờ đây bị cấm đối với tất cả những người khác trong căn cứ. Chiếc Hercules sẵn sàng, được tiếp nhiên liệu đầy đủ. Dưới cánh của nó là những thứ đồ đạc mà bốn người có thể cần đến. Tờ mờ sáng, người hướng dẫn của RAF gói cẩn thận mỗi cái dù nặng 48 pound như thể chính ta dùng chúng. Stephenson cảm thấy hài lòng. Trong góc là cái bàn rộng. Martin, người có được những bức ảnh được phóng to từ Hố Đen, dẫn Stephenson, Eastman, và North đến bàn để chỉ con đường họ đến DZ cho những hẻm núi nơi họ dự định sâu vào và nghiên cứu Pháo Đài để biết nó dài bao nhiêu. Dường như đó là 2 đêm bộ nặng nề, vào ngày hôm sau. nghi ngờ gì nữa khi bước trong ánh sáng, và con đường thẳng. Cuối cùng mỗi người gói lại túi Bergen của mình từ dưới đáy, dụng cụ cuối cùng là cái dây lưng, vòng dây nặng với số có thể được tháo ra sau khi chạm đất và đeo vòng quanh cố tay. Những chiếc hambuger và soda Mỹ được mang đến từ căng tin khi mặt trời xuống, và bốn người nghỉ ngơi cho đến giờ cất cánh. được lên kế hoạch là 9h45, hướng đến cuộc nhảy dù vào 11h30. Martin vẫn luôn nghĩ chờ đợi là điều tồi tệ nhất; sau hoạt động tích cực trong ngày hôm đó, dường như đó là nỗi thất vọng lớn. có gì để tập trung vào mà chỉ là căng thẳng, cái suy nghĩ nóng nảy rằng dù cho kiểm tra như thế và kiểm tra lại như thế, cái gì đó thiết yếu vẫn bị bỏ quên. Đó là thời điểm khi số người ăn, hoặc đọc, hoặc viết thư về nhà, hoặc ngủ lơ mơ, hoặc chỉ đơn giản đến phòng vệ sinh để tắm rửa. Chín giờ máy kéo đưa chiếc Herculee ra khỏi chỗ để, và đội nhân viên gồm phi công chính, phi công phụ, và kỹ sư bay bắt đầu các cuộc kiểm tra máy móc của mình. 20 phút sau đó, chiếc xe bus cửa sổ đen ngòm vào trong hangar để đưa bốn người và đồ đạc của họ ra máy bay, đợi với cửa sau mở rộng và sẵn sàng. Hai PJI sẵn sàng cho họ, với người giám sát và người chỉnh dù. Chỉ có bảy người bước và vào khoang lớn của Hercules. Các cánh cửa đóng lại. Người chỉnh dù quay trở lại xe bus; ta có thể bay cùng với họ. Cùng những người PJI và người giám sát, bốn người lính vào chỗ ngồi của mình ở những chỗ dọc theo tường và đợi. Vào lúc 9h44 tối, chiếc Hercules lăn bánh khỏi Riyadh và quay cái mũi màu xám của mình về hướng bắc. Trong khi chiếc máy bay RAF lao lên bầu trời đêm ngày 21 tháng Hai đó: chiếc trực thăng Mỹ được cầu nằm ở chỗ trước khi đến gần với bộ phận Mỹ của căn cứ quân . Nó được gửi tới Al Kharz để đón hai người. Steve Turner, người chỉ huy đội 336 chiến thuật bay, được triệu tập lên Riyadh theo lệnh của tướng Buster Blosson. Với ông ta, như được ra lệnh, ta mang người mà đánh giá là phi công giỏi nhất của mình cho những chuyến bay đánh mặt đất tầm thấp. phải người CO của Rocketeer cũng phải đại uý Don Walker hiểu được tại sao mình lại được chỉ định. Tại căn phòng dưới đại bản doanh của CENTAF giờ sau đó, họ được cho biết tại sao, và điều đó là cần thiết. Họ cũng được cho biết ai khác, với người sĩ quan sử dụng hệ thống vũ khí của Walker, người bay cùng băng ghế sau, dược phép biết đầy đủ các chi tiết. Rồi họ được máy bay trực thăng chở về lại căn cứ. Sau khi cất cánh bốn người lính có thể tháo dây an toàn và di chuyển quanh chỗ của đội bay nhờ vào những ánh đèn màu đỏ mờ tối phía trước. Martin lên trước, đến cái thang để đến bàn bay, và ngồi lúc với đội bay. Họ bay ở độ cao 10.000 fít về phía biên giới với Iraq, rồi bắt đầu lên tiếp. Tại độ cao 25.000 fít chiếc Hercules giữ thăng bằng thẳng vào lraq, dường như hoàn toàn độc trong bầutrời vì sao. thực tế nó phải ở mình. Vịnh chiếc AWACS có lệnh giữ yên chỉ nhìn quanh bầu trời gần đó và dưới họ. Nếu màn hình rađa bất kỳ của Iraq, vì lý do nào đó bị lực Liên quân thổi bay, đột nhiên "phát sáng", nó bị tấn công ngay lập tức. Để thực điều đó, hai chuyến bay của chiếc Wild Weasels với các tên lửa chống ra đa HARM ở dưới. Trong trường hợp phi công máy bay chiến đấu nào đó của Iraq đột nhiên bay lên trời trong đêm đó, chiếc máy bay của RAF Jaguars ở phía và lao vào nó ở bên trái, chiếc F-15C Eagle ở bên phải. Chiếc Hercules bay trong tầm bảo vệ của công nghệ cực kỳ đại phi công nào bầu trời đêm đó có thể biết tại sao. Họ chỉ biết tuân lệnh. thực tế, nếu có ai đó ở Iraq nhìn thấy nhấp nháy nào đó rađa đêm đó, cũng nghĩ đó chỉ là chiếc máy bay chở hàng bay về phía bắc, Thổ Nhĩ Kỳ. Người chở hàng làm tất cả để những người khách của mình được thoải mái với trà, cà phê, đồ uống , và bánh. 40 phút trước khi đến điểm nhảy dù, viên hoa tiêu bật ngọn đèn báo trước chỉ ra 40 p trừ, và các chuẩn bị cuối cùng được thực . Bốn người lính đeo dù chính và phụ vào, cái thứ nhất qua vai, cái thứ hai thấp hơn ở sau lưng. Rồi đến những chiếc Bergen, treo ngược ở sau lưng giữa hai cái dù. Vũ khí - khẩu Heckler giảm thanh và Koch MP5 SD súng bán tự động - được đeo ở hông trái, và bình dưỡng khí cá nhân treo ở thắt lưng. Cuối cùng họ đeo mũ bảo hiểm và mặt nạ phòng độc trước khi nối dù phụ vào trung tâm, cấu trúc khung với kích cỡ cái bàn ăn đầy những chai ô xi. Khi mọi người có thể thở được thoải mái, viên phi công được báo và bắt đầu thổi khí ra ngoài và áp suất bên trong khoang lái trong màn đêm gần như cân bằng giữa hai bên. Mất khoảng 20 phút. Rồi họ lại ngồi xuống, chờ đợi. 15 phút trước khi đến điểm nhảy dù, thông điệp nữa lại đến từ bàn bay đến tai người lái. ta với các PJI ra hiệu cho những người lính chuyển từ máy ô xi chính sang những cái chai riêng của mình. Mỗi người có dự trữ 30 phút, và họ có thể cần 3 đến 4 phút để có thể nhảy ra. Vào thời điểm đó chỉ có hoa tiêu bàn bay biết được chính xác ở đâu; dội SAS tin cậy hoàn toàn vào ta ở vị trí chính xác. Khi đó người lái liên lạc với những người lính bằng dòng ngừng những kí hiệu bằng tay, kết thúc khi ta chỉ cả hai tay vào những ngọn đèn màn hình. Đến tai ta là cả dòng thác những chỉ dẫn từ người hoa tiêu. Bốn người đứng lên và bắt dầu di chuyển, chậm chạp, giống như các phi hành gia nặng nề bởi đồ đạc lỉnh kỉnh, ra đến cửa. Các PJI, cũng đeo chaỉ ô xi di động, cùng với họ. Những người của SAS đứng thành hàng dọc trước cánh cửa hông vẫn còn đóng, mỗi người kiểm tra lại trang thiết bị của mình ở trước mặt. Vào P-minus -4 cửa hông mở ra, và họ nhìn chằm chằm ra ngoài với khí ở độ cao 25.000 fít. ký hiệu ra bằng tay khác - hai ngón tay do PJI đưa lên - với họ rằng họ ở P- minus-2. Mọi người lùi ra đến bệ cửa và nhìn vào các ngọn đèn (chưa được bật) ở hai bên. Rồi đèn bật đỏ, lừ lên. Đèn chuyển sang xanh... Cả 4 người quay gót, đứng đối diện vào trong, và nhảy ngược ra, tay chìa ra, mặt cúi gằm. Bậc nhảy lướt qua mặt nạ của họ, và chiếc Hercules bay . Trung sĩ Stephenson dẫn đường. Lấy lại thăng bằng ở vị trí của mình, họ nhảy vào trong bầu trời đêm từ năm dặm tiếng động. Tại độ cao 3.500 fít những áp suất tự động mở túi dù, và nó bay ra ngoài. Ở vị trí thứ hai, Mike Martin nhìn thấy cái bóng 15 fít dưới ngừng chuyển động. Cùng giây phút đó cảm thấy rung lên của cú mở dù của mình, rồi chiếc dù "vuông" sững lên và chuyển từ tốc độ 120 dặm/giờ sang còn 14, với những loại máy hãm để bị sốc mạnh. Còn 1.000 fít mỗi người đóng lại khoá giữ Bergen ở lưng họ và trượt xuống chân, nó nơi dính vào chân họ. Những chiếc Bergen ở đó suốt đường bay xuống, để có thể mở rộng đúng lúc. Dù của viên trung sĩ vượt qua Martin ở bên tay phải, nên phải theo. Bầu trời trong sáng, những vì sao nhìn , những mảng núi đen thẫm lên ở mọi hướng. Rồi Martin nhìn thấy cái viên trung sĩ nhìn thấy: lấp lánh của dòng nước trong dòng suối chảy xuôi thung lũng. Peter Stephenson bay xuống bên phải ớ trung tâm vùng đất, vài yard cách bờ suối, cỏ mềm và ấm. Martin vứt chiếc Bergen của mình theo hướng đó, dừng lại trong trung, cảm thấy chiếc Bergen chạm đất ngay bên dưới mình, và đứng được thẳng hai chân. Hạ sĩ Eastman ở phía sau và bên , quay ra, trượt xuống, và trượt đến cách 50 yard. Martin cởi dây dù của mình và nhìn thấy Kevin North cũng đáp xuống đất. thực tế, chàng người miền núi là người thứ tư và cũng là cuối cùng chạm mặt đất, xa hơn khoảng 100 yard nhưng rơi xuống lưng chừng đồi chứ phải lên cỏ. cố gắng lại gần đồng đội của mình, giữ thăng bằng, khi chiếc Bergen ở dưới chạm đất. Khi nó rơi xuống đến đất, chiếc Bergen rơi ra xa kéo tuột người bay ở mà cổ tay buộc vào nó. Nó lăn dọc theo sườn đồi năm yard, rồi mắc vào giữa hai tảng đá. Việc đột ngột đó kéo North lao thẳng xuống và rơi nghiêng nên chạm đất bằng chân mà bằng vai. sườn đồi có nhiều đá lắm nhưng trong số chúng làm xước hông bên phải của tám chỗ. Viên hạ sĩ cảm thấy ràng xương của mình kêu lạo xạo, đau mất đến vài giây. Rồi rơi vào dòng nước. lăn ra và nắm chặt lấy dây, thầm luôn miệng: , , cầu Chúa, . Dù nhận ra bởi vì diễn ra bên trong chân, bắt đầu thấy mình bị chảy máu. trong số xương trong hệ thống chằng chịt gãy lòi ra ngoài động mạch, chảy máu đầm đìa. Ba người khác tìm thấy sau đó phút. Tất cả cởi được dù và Bergen. Khi họ nhận ra có ở đó, họ tìm. Stephenson lấy chiếc đèn pin xíu của mình ra và chĩa vào cái chân. - Ôi mẹ kiếp. thầm. họ có các dụng cụ sơ cứu, kể cả băng bó, nhưng thể làm việc với chỗ bị thương này. Viên hạ sĩ cần có liệu pháp chống đau, huyết thanh, được phẫu thuật - và nhanh. Stephenson chạy lại chỗ chiếc Bergen của North, lôi ra dụng cụ sơ cứu, và bắt đầu chuẩn bị liều moocphin. cần thiết nữa. Với máu chảy ra, chỗ đau tồi tệ nhiều. North mở mắt, nhìn vào khuôn mặt Mike Martin ở phía , thầm: "Tôi xin lỗi, thưa chỉ huy" và lại nhắm mắt. Hai phút sau tắt thở. Vào lúc khác và ở chỗ khác, :Martin có thể biểu lộ số cảm xúc cảm thấy khi mất người như North, dưới quyền chỉ huy của . Nhưng lúc này có thời gian, và cũng phải chỗ. Hai người NCO còn lại nhận ra điều đó và làm điều họ phải làm trong im lặng sầu thảm. thương tiếc dành cho sau này. Martin từng hy vọng thu dọn dù và qua được thung lũng trước khi tìm thấy cái động đá để chôn đồ đạc còn thừa lại Giờ thể được nữa. Còn phải giải quyết vấn đề cái xác của North. - Pete, bắt đầu tập hợp tất cả những gì chúng ta phải chôn Tìm cái hố ở đâu đó, hoặc là đào . Còn Ben, hãy nhặt đá Martin cúi xuống cái xác, lấy các nhãn hiệu và khẩu súng, rồi đến giúp Eastman. Cùng nhau, với dao găm và tay, ba người đào cái hố dài và để cái xác vào đó. Ở còn phải chôn thêm bốn cái dù chính vẫn còn mở, bốn túi đồ ăn, bốn chai dưỡng khí, rồi các thứ đồ khác nữa. Rồi họ bắt đầu chèn đá lên , phải khít vào nhau mà xếp theo kiểu tình cờ, như thể chúng mới rơi từ núi xuống. Nước được mang đến từ mách nước để tưới lên đá và cỏ. Lối đá rơi được vạch ra bằng chân, và các mảnh rêu từ bờ nước được gắn lại. Thung lũng được làm sao cho vẫn giống hệt như nó từng như thế giờ trước khi nửa đêm. Họ hy vọng có thể bộ năm tiếng trước khi trời sáng, nhưng công việc chôn cất tốn mất ba tiếng. số đồ trong túi Bergen của North vẫn được để lại ở trong và được chôn cùng ta: quần áo, đồ ăn, nước uống. Các thứ đồ khác họ phải chia ra để mang, làm cho đồ của mỗi người lại nặng thêm. giờ trước khi trời sáng, họ rời thung lũng và vào SOP - quá trình chiến dịch tĩnh. Trung sĩ Stephenson lĩnh trách nhiệm dẫn đường, trước hai người còn lại, đến được vùng đất trước và làm các biện pháp để bị tấn công bất chợt từ bên sườn. Con đường mỗi lúc dốc hơn, và phải dằn bước chân. Mặc dù là người bé và có phần hơi mảnh, lại hơn Martin đến năm tuổi, nhưng vẫn có thể bộ rất nhanh và còn gánh theo 80 pound trong khi . Mây bay tới từ các đỉnh núi đúng vào lúc Martin cần chúng, để làm chậm bình minh và cho thêm tiếng đồng hồ nữa. Trong 90 phút bộ nặng nhọc họ được tám dặm, qua nhiều đèo và hai ngọn đồi giữa chúng và cái thung lũng. Cuối cùng ánh sáng nhợt nhạt cũng ra buộc họ phải tìm chỗ để trú chân. Martin chọn hẻm khuất trong các tảng đá dưới đoạn nối, có cỏ rậm che phủ và ngay ở wadi khô ráo. Trong bóng tối còn lại họ ăn vài viên đạm, uống nước, đắp chăn lên người và nằm dài ra ngủ. Có ba phiên thức canh và phiên thứ nhất thuộc về Martin. đánh thức Stephenson vào lúc 11 giờ sáng và ngủ trong khi viên trung sĩ thức gác. Bốn giờ chiều đến lượt Ben Eastman khều Martin dậy. Khi thiếu tá mở mắt, nhìn thấy Eastman đưa tay lên môi. Martin lắng nghe. Từ wadi 10 fít phía dưới vọng lên những tiếng họng bằng tiếng Arập. Trung sĩ Stephenson cũng tỉnh dậy và nhướng lông mày.Phải làm gì bây giờ? Martin lắng nghe thêm lúc. Có bốn người ở đó, gác, chán ngán công việc cứ suốt ngày phải lên núi, và mệt mỏi. Sau 10 phút hiểu bọn họ cắm trại ngủ ở đây cả đêm. Vậy là mất thời gian. cần vào lúc sáu giờ, khi bóng tối phủ xuống các ngọn đồi, và cần từng giờ để có thể vượt qua những dặm dường để đến được các hẻm đá đó đồi qua thung lũng từ Pháo Đài. có thể cần nhiều thời gian hơn để tìm ra các hẻm núi đó. Cuộc trò chuyện từ wadi phía dưới cho thấy toán lính Iraq tìm củi để đốt lửa trại. Rất có thể chúng chú ý đến những bụi cây sau đó người của SAS nằm. Ngay cả khi chúng làm vậy, cũng phải mất hàng giờ chúng mới ngủ say để đội của Martin có thể rón rén qua. còn lựa chọn nào khác. Theo tín hiệu từ Martin, hai người còn lại nằm dán người xuống, mở dao ra, và ba người trườn thẳng xuống wadi bên dưới. Khi xong việc, Martin nhìn vào những quyển sổ của toán lính Iraq xấu số. Tất cả trong số đó, nhận ra, có Al- Ubaidi. Tất cả đều thuộc bộ lạc Ubaidi, những người miền núi. Tất cả đều có dấu của Đội Vệ binh Cộng hoà. ràng Đội Vệ binh được tuyển từ những người lính miền núi để tạo thành các đội tuần tra công việc là bảo vệ Pháo Đài an toàn khỏi những kẻ đột nhập. Cũng phải mất giờ đồng hồ để nhét bốn cái xác vào khe núi, cắt lều nguỵ trang của họ, và phủ lên đó các cây bụi, cỏ dại. Nhưng khi họ làm xong, họ thấy vẫn rất dễ để nhận ra. may mắn, đội tuần tra Iraq được trang bị máy bộ đàm, nên thể kiểm tra từ căn cứ cho đến khi họ quay trở về - bất kỳ lúc nào. Bây giờ, họ bao giờ có thể trở về được nữa, nhưng với may mắn có thể là hai ngày trước khi họ bị quên . Khi bóng tối buông xuống, những người SAS lại , định vị bằng cách dựa vào bóng các đỉnh núi trong ảnh, theo địa bàn về phía ngọn núi họ tìm kiếm. Tấm bản đồ Martin mang theo có độ phân giải rất cao, do máy tính vẽ dựa các tấm ảnh chụp từ do TR-l cung cấp và chỉ ra con đường giữa DZ và vị trí cần đến. Thỉnh thoảng dừng lại để xem máy định vị SATNAV đeo tay và nghiên cứu bản đồ bằng đèn pin, Martin có thể kiểm tra hướng và tiến triển của mình. Quãng nửa đêm, cả hai đều vẫn tốt. cho rằng còn phải thêm mười dặm nữa.
Tại Brecons ở W!ales, Martin và người của mình có thể bốn dặm giờ kiểu địa hình này, cuộc bộ nặng nhọc mặt đất phẳng mang theo chó chứ phải 80 pound hành lý thế này. bộ theo tốc độ này là bình thường. Nhưng những ngọn đồi thù địch này, với khả năng có các đội tuần tra bao quanh họ, thể nhanh như thế được. Họ va phải quân Iraq lần, và hai lần là quá nhiều. lợi thế của họ so với quân Iraq là những chiếc máy NVG, những chiếc máy dò đường khi đêm khiến họ nhìn hơn ở phía trước. Với mẫu mới mở góc rộng họ có thể nhìn thấy toàn bộ cảnh vật phía trước trong thứ ánh sáng màu xanh nhạt; nó chạy dựa nguyên tắc thu thập mọi tia ánh sáng tự nhiên trong khí và tập trung nó lại. Hai giờ trước khi trời sáng, họ nhìn thấy hình dáng của Pháo Đài ở trước mặt và bắt đấu trườn sang bên trái. Ngọn núi họ chọn nằm rìa của km vuông do Jericho cung cấp, và từ các khe núi gần đỉnh họ có thể nhìn qua xuống mặt phía nam của Pháo Đài - nếu quả đó là Pháo Đài - gần như ràng hoàn toàn. Họ trườn cách khó nhọc trong tiếng đồng hồ, hơi thở của họ trở nên gấp gáp. Trung sĩ Stephenson đầu tắt đường bằng lối của dê dẫn lên phía và vòng quanh đỉnh núi. Ngay khi sắp tới đỉnh núi, họ nhìn thấy cái khe mà TR- 1 nhìn thấy từ chiếc camera chĩa xuống và vòng quanh của nó. Tốt hơn là Martin có thể hy vọng - mỏm đá tự nhiên dài tám fít, sâu bốn fít, và cao hai fit. Bên ngoài mỏm là gờ đá cách hai fit, đó Martin có thể nằm lên với nửa người dưới và bên trong các tảng đá. Mọi người lấy ra chăn của mình bắt đầu làm cho mình cái tổ thể nhìn thấy được từ bên ngoài. Đồ ăn và đồ uống được chứa trong các túi gài vào dây lưng, trang thiết bị kỹ thuật của Martin sẵn sàng, vũ khí được kiểm tra và để ngay gần. Ngay trước khi mặt trời lên, Martin sử dụng trong số các thiết bị của mình. Đó là cái máy phát, hơn rất nhiều so với cái máy dùng ở Baghdad, chỉ bằng kích thước hai bao thuốc lá. Nó có gắn cục pin Cadmium-niken với đủ năng lượng cho phép nhiều thời gian để hơn cần nhiều. Tần số được cố định, và ở đầu bên kia có đồng hồ nghe chạy 24 giờ ngày. Để thu hút chú ý ấn vào nút chuyển tin theo chuỗi những tiếng bip và dừng, rồi đợi người bên kia trả lời chuỗi tín hiệu hỏi đó. Bộ phận thứ ba của bộ máy đó là cái đĩa gian, cái có thể gập vào được giống như cái ở Baghdad nhưng hơn. Dù bây giờ ở xa hơn về phía bắc hơn hồi ở thủ đô Iraq, nhưng đồng thời cũng ở cao hơn. Martin dựng cái đĩa lên, hướng về phía nam, nối pin vào máy và máy vào cái đĩa, rồi ấn nút chuyển tin. l-2-3-4-5; dừng 1 2-3; dừng; 1; dừng, 1. Năm giây sau, chiếc đài trong tay rung lên nhè , bốn tiếng bip, bốn tiếng bip, rồi hai. bấm nút chuyển, giữ ngón tay, và vào ống : - Nineveh đến đây, Tyre đến đây. Tôi lại. Nineveh đến đây, Tyre đến đây. thả nút bấm và đợi. Chiếc máy vang ra những tiếng l-2-3; dừng; l; dừng; 4. nhận và nhận ra. Martin đậy cái máy vào vỏ chống nước của nó, đeo đôi kính của mình, và co người lại. Sau trung sĩ Stephenson và , hạ sĩ Eastman bọc kín người vào khe núi dưới tảng đá, nhưng khá là thoải mái. Hai người chìa chăn ra trước mặt , tạo thành chỗ để đưa ống nhòm vào, bằng cách đó có thể nhìn rất . Khi mặt trời lên những đỉnh núi Hamreen ; vào buổi sáng ngày 22 tháng Hai, thiếu tá Martin bắt đầu 1 nghiên cứu kiệt tác của người bạn cùng trường Osman Badri , công trình Qu'ala mà loại máy nào có thể phát . : Tại Riyadh, Steve Laing và Simon Paxman nhìn chằm chằm vào tờ giấy mà người kỹ sư đưa cho họ chạy ra từ trong máy radio. - Mẹ kiếp, Laing run lên vì xúc động - ta ở trong vùng núi đó rồi. 20 phút sau, tin đến được Al Kharz từ văn phòng của tướng Glosson. Đại uý Don Walker trở về căn cứ của mình vào lúc sáng sớm ngày 22, ngủ lại giấc mất hồi đêm, và làm việc ngay sau khi mặt trời lên, khi các phi công bay các phi vụ trong đêm vẫn còn đều đều thở trong giấc ngủ chập chờn. Khoảng trưa, có bản kế hoạch để trình lên các sĩ quan thượng cấp của mình. Nó được gửi ngay lập tức tới Riyadh và đựợc thông qua. Trong buổi chiều các loại máy bay, phi hành gia, và các dịch vụ phụ trợ được ấn định. Bản kế hoạch gồm cuộc tấn công gồm bốn máy bay vào căn cứ quân Iraq về phía bắc Baghdad tên là Đông Tikrit, xa nơi sinh của Saddam Hussein là bao. Có thể là cuộc tấn công ban đêm với những quả bom 2000 pound có laser hướng lối. Don Walker có thể chỉ huy chiến dịch, với người bay cùng quen thuộc và đội gồm hai máy bay Eagle khác. kỳ diệu phi vụ có mặt ở Lệnh chiến dịch bay từ Riyadh, mặc dù nó mới chỉ mới được báo 12 giờ và chưa đến ba ngày trước đó. Ba người nữa cần cho đội bay được mang đến ngay lập tức cho mỗi lần làm nhiệm vụ và được chỉ định cho chiến dịch Đông Tikrit, được sẵn sàng vào đêm ngày 22 (có thể) hoặc bất kỳ đêm nào khác họ được lệnh. Cho đến lúc đó, họ vẫn thường trực đợi lệnh. Bốn chiếc Eagle được chuẩn bị vào lúc hoàng hôn ngày 22 buông xuống, và vào 10 giờ đêm phi vụ được huỷ. có phi vụ nào thay thế. Tám người bay được lệnh về nghỉ, trong khi người còn lại của đội bay đến đánh xe tăng của Đội vệ binh Cộng hoà ở miền bắc Kuwait. Khi họ quay về vào lúc bình minh ngày 23, bốn người bay chưa phải làm gì đến lượt mình. Với nhân viên lên kế hoạch phi vụ, lộ trình được lập cho Đông Tikrit có thể cần đến bốn chiếc Eagle bay đến hành lang giữa biên giới Baghdad và Iran về phía đông, với đường vòng qua 45 độ qua hồ As Sa'diyah và rồi bay thẳng về tây bắc đến Tikrit. Khi uống xong cà phê buổi sáng ở sảnh, Don Walker được triệu tập ra ngoài bởi người chỉ huy đội của mình. Mục tiêu của có rồi đấy, ta . Nghĩ lát Đêm nay mệt đấy. Khi mặt trời lên, Mike Martin bắt đầu nghiên cứu vùng núi qua cái thung lũng dốc. nhìn rất qua ống nhòm những bụi cây cá nhân; lùi lại, có thể nhìn thấy vùng với kích thước bao nhiêu cũng được tuỳ muốn. Trong giờ đầu tiên trông nó chẳng khác gì quả núi thực thụ. Cỏ mọc khắp nơi. Đầy những bụi cây bụi cỏ, ở phần còn lại. Đây đó đường mòn đá trần, đôi khi chỗ ngoặt, khá dốc. Cũng giống như mọi ngọn đồi trong tầm nhìn của , nó có hình dáng đều đặn. Có vẻ như chẳng có gì đặc biệt hết cả.Đôi khi nhìn sát mắt vào để cho mắt nghỉ, dựa đầu vào tay lúc, và lại bắt đầu tiếp tục. Khoảng giữa buổi sáng, phần bắt đầu nổi lên. Tại số phần của ngọn núi có vẻ mọc lên với tốc độ khác hẳn với những phần khác. Có những nơi cây cỏ dường như quá ư đều đặn, như được trồng thành hàng lối. Nhưng hề có cửa, trừ phi ở bên kia, đường sá, lối với vết lốp xe ôtô, có ống dẫn khí cho bên trong, hề có dấu hiệu gì động đậy hết. Chỉ có mặt trời lên mới cung cấp được đầu mối đầu tiên. Ngay sau 11 giờ, nghĩ mình bắt gặp được cái gì đó ánh lên trong đám cỏ. lùi cặp kính lại sau đến con đường đó và chỉnh . Mặt trời ở sau đám mây. Khi ra: cái đó lại lấp lánh. Rồi nhìn ra: mảnh dây thép nằm cỏ. nháy mắt và thử lại lần nữa. Vẫn thế, nó có kích thước cái dây dài chừng foot nằm trong cỏ. Đó là phần của cái dây dài, cái dây có bọc nhựa màu xanh ở bên ngoài, hoặc là phần lộ ra có kim loại ở bên trong. Cái dây là trong nhiều cái liếc thấy, tất cả đều được chôn trong cỏ, đôi khi nổi lên khi gió thổi các thân cỏ từ bên này sang bên kia. Chéo góc từ góc nhìn đối diện, đoạn dây kim loại dài nằm dưới cỏ. Lúc giữa trưa, có thể nhìn thấy hơn. phần sườn núi khi sợi dây màu xanh lộ ra mặt đất; cỏ và các bụi cây được mọc lên những khoảng cách như viên kim cương giữa nhau, mọc qua các lỗ, phủ lên cái dây nằm bên dưới. Rồi nhìn thấy ở dưới. phần của sườn núi toàn đá, khá , mỗi cái cách cái ở dưới chừng ba inch. Giữa các mảnh nằm ngang được tạo ra là những dòng suối phủ đầy cây bụi. Nơi chúng nổi lên, chúng trở thành những đường nằm ngang. Thoạt tiên nó trông giống như thế, bởi vì chúng có độ nặng khác, nhưng khi nghiên cứu độc nhất các thân cây, ràng là chúng quả thực nằm trong các sợi dây. Thiên nhiên bao giờ cho cái gì mọc thẳng. lại thử các phần khác của ngọn núi, nhưng còn thấy thế nữa, rồi bắt đầu lại xa hơn về bên trái. Mãi đến đầu giờ chiều mới thấy được. Các nhà phân tích của Riyadh đúng - với điểm. Bất kỳ ai có ý định đánh giá toàn bộ trung tâm ngọn đồi, họ thất bại. Bất kỳ ai thực nó phải xem xét đến ba ngọn đồi, cắt ra các mặt bên trong, và dựng lên những khoảng cách giữa các đỉnh để tạo ra miệng núi lửa khổng lồ. Khi nối lại các khoảng cách, người xây dựng theo vùng phụ cận của các ngọn đồi , qua các tảng đá nằm lùi lại và lên , tạo ra những vùng , gồm hàng chục nghìn tấn đất đá từ bên đổ xuống. Lớp sơn phủ hẳn là phải nằm sau: các mảnh kim loại màu xanh được chôn dưới mặt đất. Cỏ được gieo khắp nơi mặt đất, có rễ và lan xa, với các bụi cây và bụi cỏ nằm sâu hơn bị bỏ quên trong các vùng . Cỏ từ mùa hè trước mọc lên, tạo ra mạng lưới rễ cây riêng của mình, và các bụi cỏ lan ra mọc lên các sợi dây và cỏ mọc xuống những ngọn đồi nguyên thuỷ. cái miệng núi lửa, nóc của pháo đài ràng là có hình vòm, thế nên phải gồm đến hàng nghìn túi cỏ. Thậm chí còn có các cái nhân tạo, được vẽ theo màu sắc của những tảng đá , với những đỉnh nơi mưa có thể rơi xuống. Martin bắt đầu tập trung vào vùng gần điểm nơi đáy của miệng núi lửa có thể là khoảng gian kín có mái vòm.Khoảng 50 fit dưới đỉnh vòm tìm thấy cái phải tìm. cho ống nhòm của mình trượt trượt lại đến 50 lần và hề nhìn thấy. Đó là chóp đá, màu ghi nhạt, nhưng có hai đường màu đen chạy qua từ bên này sang bên kia. Càng xem xét các đường kỹ hơn, càng phải tự hỏi tại sao ai đó lại có thể lên cao đến thế để vẽ hai cái đường thẳng qua tảng đá mòn. làn gió từ phía đông bắc thổi đến, thổi đến gần mặt . Cũng ngọn gió đó làm trong những đường thẳng chuyển động. Khi gió dừng, các đường thẳng cũng thôi chuyển động nữa. Rồi Martin nhận ra chúng được vẽ thành những đường thẳng mà thực chất là những đường dây bằng thép, chạy qua tảng đá và vào trong cỏ. Các tảng đá hơn nằm quanh chu vi của cái lớn, giống như các trạm gác vòng quanh. Tại sao nó lại tròn thế, tại sao lại có dây thép? Cứ cho là có ai đó, ở phía dưới ném lên những sợi dây đó - vậy tại sao tảng đá lại có thể chuyễn động? Đến ba giờ rưỡi nhận ra đó phải là tảng đá. Đó là tấm vải nhựa màu ghi, được những tảng đá chặn xuống: được gắn kết vào bên sườn khi các sợi dây kim loại bị ném xuống phía dưới vào trong cái hang ngầm bên dưới. Dưới tấm vải dần nhận ra hình dáng, đều đặn, chu vi 5 fít. nhìn chằm chằm vào tấm vải, bên dưới đó, mà thể thấy, ba fít cuối của khẩu súng Babylon, từ đó nòng súng dài 200 yard nằm bên trong miệng núi lửa chìa lên trời cao. Nó chỉ xuống đông nam về phía Dhahran, cách 750 km. - Têlêmét, thầm với các đồng đội ở phía dưới. đưa cái ống nhòm lại và cầm lấy cái ống khác. Nó giống như kính thiên văn. Khi đặt nó vào trong mắt, như người ta dạy tại Riyadh, nhìn thấy ngọn núi và tấm bạt giấu khẩu súng, nhưng hề ràng. thấu kính là các dấu hiệu hình chữ V, các điểm đều được hướng vào bên trong. Chầm chậm quay cái núm đỉnh cho đến khi 4 điểm chụm lại thành . Cái hình chữ thập nằm lại tấm bạt. Bỏ cái hình cầu ra khỏi mắt, nhìn vào các số dải băng quay. 1080 yard. - Compa, . đưa cái têlêmét ra sau và cầm lấy cái la bàn điện tử. Đó phải là thiết bị phụ thuộc vào cái đĩa xoay trong cái bát cồn, cũng phải là cái chỉ cân đối khớp cadăng. để nó lên mắt, nhìn vào tấm bạt qua thung lũng, và ấn nút. Cái la bàn làm việc còn lại, cho toạ độ từ điểm đứng đến tấm bạt là 348 độ, 10 phút, và 18 giây. Máy định vị SARNAV cho nhìn thấy điều cuối cùng cần - địa điểm chính xác của lúc này bề mặt trái đất, với diện tích gần nhất 15 yard vuông. là công việc tỉ mỉ để cố dựng lên cái đĩa vệ tinh trong gian hẹp - mất đến 10 phút. Khi gọi Riyadh, câu trả lời đến ngay lập tức. Chầm chậm Martin đọc cho những người nghe ở thủ đô nước Arập Xêut ba loại số liệu: vị trí chính xác của , hướng của la bàn từ chỗ đến mục tiêu, và tầm bắn. Riyadh có thể tính toán phần còn lại và cung cấp cho phi công các dữ liệu. Martin quay trở lại mỏm đá, được Stephenson thay thế, người có thể canh chừng các toán kiểm tra của quân Iraq, và cố ngủ. Vào lúc tám giờ rưỡi, trong bóng đêm hoàn toàn, Martin kiểm tra bằng máy phát tia hồng ngoại. Vẻ ngoài nó giống ngọn đèn lớn với nút bấm hoạt động theo nguyên tắc pitxtông, nhưng có lỗ ở đằng sau để nhìn. lắp pin, hướng về phía Pháo Đài, và nhìn. Toàn bộ ngọn núi ràng như thể được tắm trong ánh trăng xanh ngắt. nâng lên đến tấm bạt được nguỵ trang cái nòng của khẩu Babylon và siết chặt nút bấm. làn ánh sáng đơn độc, thể nhìn thấy lướt qua thung lũng, và nhìn thấy đốm đỏ rất xuất ở sườn núi. Chuyển sang nhìn ban đêm, chĩa đốm đỏ lên tấm bạt và giữ ở đó chừng nửa phút. Hài lòng, tắt nó và chui lại vào trong chăn. Bốn chiếc Eagle cất cánh từ Al Kharz vào lúc 10 giờ 45 phút tối và nhanh chóng đạt độ cao 20000 fít. Với ba trong số bốn đội bay, họ chỉ biết đó vẫn chỉ là phi vụ đánh căn cứ quân Iraq thông thường. Mỗi chiếc Eagle đều mang theo những quả bom 2000 pound có laser hướng lối, thêm vào những quả hoả tiễn đối để tự vệ. Tiếp nhiên liệu từ chiếc KC-10 ngay ở nam biên giới lraq là bình thường chẳng có gì to tát. Khi họ lên cao, họ bay theo đội hình mở rộng, và chuyến bay, với mật danh Bluejay, chủ yếu về hướng nam, qua thành phố As-Samawah của Iraq vào lúc 11h14. Họ bay mà hề trò chuyện với nhau và cũng bật đèn, mỗi wizzo đều có thể nhìn thấy rất ràng ba cái còn lại ra đa của mình. Đêm trong, và chiếc AWACS vùng Vịnh cung cấp cho họ như chỉ dẫn "ảnh ", có nghĩa là có máy bay chiến đấu nào của Iraq bay trời. 11h39, người wizzo của Don Walker thầm: - Điểm rẽ trong năm phút nữa. Tất cả đều nghe thấy và hiểu họ có thể quay trở lại hồ As Sa'diyah trong năm phút nữa. Ngay khi họ vừa thực đường lượn 45 độ ra cảng để hướng về đông Tikrit, ba đội còn lại nghe thấy Don Walker rất : - Bluejay Dẫn đầu đội bay... trục trặc động cơ. Tôi đến RTB. Bluejay, nghe chưa. Blueiay là Bull Baker đêm đó, dẫn đầu trong số hai máy bay thành phần. Từ đó trở , mọi việc bắt đầu diễn ra theo chiều hướng xấu, theo cung cách lệch lạc. Người bay cùng Walker, Randy "R-2" Roberts ở ngay cạnh máy bay dẫn đầu nhưng có thể thấy có vấn đề rắc rối nào bề ngoài từ động cơ của Walker, như thể chỉ huy Bluejay hết nhiên liệu và độ cao. Nếu ta RTB - quay về căn cứ - cũng là bình thường khi người bay cùng về theo ta, trừ khi vấn đề chỉ nhặt thôi. Trục trặc động cơ lãnh thổ kẻ thù thể là nhặt được. - Roger này, Baker nhận ra. Rồi họ nghe thấy Walker :- Bluejay 2, quay lại cùng với Bluejay 3. Tôi nhắc lại, quay lại , lệnh đấy. Tiếp tục đến đông Tikrit . Người cùng bay, giật mình, làm theo lệnh và lao lên để gặp lại đội Bluejay. Chỉ huy của họ vẫn tiếp tục hạ thấp độ cao xuống hồ; họ có thể thấy trong rađa của mình. Cùng lúc đó họ nhận ra làm điều thể nghĩ được Vì lý do nào đó - có thể là rối trí vì bị hỏng động cơ – hề bằng điện đàm Have-quick có mã hoá, mà " thẳng". Đáng ngạc hiên hơn, còn hẳn đích đến của họ. Bên ngoài Vịnh, trung sĩ USAF trẻ tuổi bắt được tín hiệu màn hình chiếc AWACS triệu tập người chỉ huy phi vụ. - Chúng ta có vấn đề rồi, thưa ngài. Chỉ huy Bluejay gặp rắc rối về động cơ. ta muốn RTB. - Rồi, ghi, người chỉ huy phi vụ . Trong hầu hết các máy bay phi công là chỉ huy và chịu hoàn toàn trách nhiệm. Trong chiếc AWACS phi công có trách nhiệm đảm bảo an toàn cho máy bay, nhưng người chỉ huy phi vụ vẫn nghe thấy giọng . - Nhưng thưa ngài, viên trung sĩ phản đối, chỉ huy Bluejay thẳng dùng mật mã. cả mục tiêu rồi. Tôi cho họ RTB hết nhé. - , phi vụ vẫn tiếp tục, người kiểm soát . Làm . Viên trung sĩ quay trở lại với màn hình của mình, chẳng hiểu mô tê gì nữa cả. là điên rồ: nếu người Iraq mà nghe thấy đoạn chuyện đó, các đơn vị phòng ở đông Tikrit được báo động khẩn cấp ngay lập tức. Rồi ta lại nghe thấy tiếng Walker. - Chỉ huy Bluejay, Mayday, Mayday. Cả hai động cơ đều hỏng rồi. Xuống đây. vẫn thẳng dùng mật mã. Người Iraq, nếu họ nghe thấy, có thể hiểu ngay vấn đề. thực tế, viên trung sĩ đúng - các thông điệp được nghe thấy. Tại Đông Tikrit các tay súng giương các tấm bạt lên khỏi trận địa chữ A, và các hoả tiễn dò mục tiêu đợi sẵn tiếng động cơ đến gần. Các đơn vị khác cũng được báo động để đến khu vực hồ ngay lập tức để bắt hai giặc lái sắp rơi xuống. - Thưa ngài, chỉ huy Blueiay rơi rồi. Chúng ta phải RTB tất cả họ thôi. - Ghi rồi, phản đối, chỉ huy phi vụ . ta liếc nhìn vào đồng hồ. ta có lệnh. biết tại sao, nhưng phải tuân theo. Đội Bluejay còn cách mục tiêu khoảng chín phút, tiến đến trận địa được chuẩn bị sẵn. Ba phi công lái những chiếc Eagle của mình trong im lặng nghẹt thở. Trong chiếc AWACS viên trung sĩ vẫn có thể nhìn thấy nhấp nháy của chỉ huy Bluejay, lao xuống mặt hồ. ràng chiếc Eagle bị bỏ rơi và có thể nổ tung bất cứ lúc nào. Bốn phút sau, chỉ huy phi vụ có vẻ như đổi ý. - Đội Bluejay, AWACS gọi Bluejay, RTB. Tôi nhắc lại, Ba chiếc Eagle, chán nản vì các kiện đêm đó, dừng lại nữa và quay đầu trở về căn cứ. Các tay súng Iraq ở Đông Tikrit chờ đợi trong vô vọng suất giờ đồng hồ. Tại vùng rìa phía nam của Jebal al Hamreen trạm nghe khác của Iraq cũng nghe thấy đoạn trao đổi đó. Viên đại tá chỉ huy tại đó chậm trễ báo về cho Đông Tikrit hoặc bất kỳ căn cứ quân nào khác để tiếp cận máy bay địch. Công việc duy nhất của ông ta là đảm bảo gì vào được Jebal. vì đội Bluejay quay qua hồ, ông ta bèn báo động; đoạn đường từ hồ đến căn cứ quân có thể khiến chiếc Eagle dọc theo rìa phía nam của dãy núi. Khi trong chúng nổ, ông ta vui mừng; khi ba chiếc còn lại bay về phía nam, ông ta thở phào và tắt báo động . Don Walker lao xoáy xuống mặt hồ cho đến khi chỉ còn cách 100 fít và gọi Mayday. Khi lao xuống nước của As Sa'diyah, nhìn vào các dữ liệu mới và quay sang phía bắc về Jebal. Cùng lúc đến LANTIRN, với giúp đỡ của cái này có thể nhìn xuyên qua và nhìn thấy cảnh vật trước mặt mình ràng bởi làn hơi bay lên phía dưới cánh máy bay. Các cột thông tin của màn hình trước mặt giờ đây cho biết về hành trình và tốc độ, độ cao, và thời gian đến lúc Phóng. nhẽ ra có thể chuyển sang chế độ lái tự động, cho phép máy tính điều khiển chiếc Eagle, qua các vách đá và sườn đồi, trong khi phi công chẳng phải làm gì. Nhưng thích tự mình điều khiển hơn. Với giúp đỡ của những bức ảnh mới do Hố Đen cung cấp thực cú bay vòng vượt dãy núi mà chưa từng bao giờ thực bầu trời. vẫn ở thấp, lướt đáy thung lũng, vượt từ hố này sang hố khác, chặng đường hình zig zag cho phép được về phía dãy núi có Pháo Đài. Khi Walker gọi Mayday, điện đàm của Mike Martin loé lên thành những tiếp bíp. Martin chồm người ra trước nhìn xuống phía thung lũng: chỉ hướng về mục tiêu ở tấm bạt cách đó 1000 dặm, ấn nút đỏ chỉ thẳng vào trung tâm mục tiêu, và giữ nguyên nó ở đó. Những tiếng bíp trong điện đàm có nghĩa là "Bảy phút để ném bom", và kể từ đó Martin hề di chuyển đốm đỏ lấy inch. - Đến giờ rồi đấy, Eastman thầm. Tôi cóng hết cả lên rồi đây. - lâu đâu. Stephenson , nhét nốt những thứ còn lại vào túi Bergen của mình. Rồi được làm gì muốn, Benny ạ. Chỉ còn điện đàm chưa được gói vào, sẵn sàng cho lần chuyển tin tới. Ngồi ở băng sau của chiếc Eagle, Tim, wizzo có thể xem được cùng những thông tin như phi công của . Còn bốn phút nữa để bắn, ba phút rưỡi, ba... những số HUD đếm ngược khi chiết Eagle lao qua các ngọn núi để đến mục tiêu của mình. Nó lao nhanh đến chỗ Martin và người của định vị, và mất vài giây để đến được nơi xuyên qua đó họ làm việc với các gói. - 90 giây nữa... Người của SAS nghe thấy thanh động cơ đến từ phía nam khi chiếc Eagle ló dạng. Chiếc máy bay chiến đấu - thả bom đến chỗ cuối cùng cách đó ba dặm về phía nam của mục tiêu, ngay khi đếm ngược đạt đến số . Trong bóng tối hai quả bom hình torpedo rời khỏi bệ phóng phía dưới cánh và lao xuống trong vòng vài giây, lao theo quán tính với tốc độ khủng khiếp. Trong ba ngôi làng nguỵ tạo các Vệ binh Cộng hoà choàng tỉnh khi nghe tiếng động cơ máy bay lao đến biết từ đâu ngay đầu mình, vội vã nhảy vào công , và chạy lấy vũ khí. Chỉ trong vòng vài giây mái nhà các chuồng gia súc được thổi bay để lộ hàng đống hoả tiễn ở bên dưới. Hai quả bom rời khỏi máy bay theo trọng lực bắt đầu rơi xuống. Trước mũi họ, những người chứng kiến run rẩy với đường hướng lối theo những tia nhìn thấy đến từ đốm đỏ mục tiêu của chúng, rơi xuống mà, khi vào được, họ thể được nữa. Mike Martin chùng xuống, chờ đợi, ù tai vì tiếng động cơ nổ nghe tiếng cả quả núi rung lên, và theo đúng chấm đỏ rơi thẳng vào khẩu Babylon. hề nhìn thấy những quả bom. giây cố nhìn vào ngọn núi màu xanh nhạt của máy khuếch đại hình ảnh; tiếp đó, phải rời mắt và che nó bởi vì đêm biến thành ngày rực màu đỏ máu. Hai quả bom lần lượt rơi xuống, ba giây trước khi viên đại tá của đội Vệ binh ở mãi dưới ngọn núi rỗng đến được chỗ bấm nút Phóng. Ông ta bao giờ có thể làm được việc đó. Nhìn xuyên qua thung lũng mà mang kính, Martin nhìn thấy toàn bộ Pháo Đài gục xuống trong lửa. Bằng dụng cụ của mình, thu lấy hình ảnh nòng súng dài khủng khiếp, rung lên như con quái vật, quay tròn và tung lên, vỡ ra, và rơi lả tả xuống thành những mảnh vỡ của cái vòm cho đến miệng núi lửa bên dưới. - Bắn chuẩn ghê người, trung sĩ Stephenson thầm ở dưới tay . Đó phải là lời tán dương sai. Ngọn lửa màu da cam bắt đầu tàn xuống trong miệng núi lửa vào lúc cú nổ đầu tiên xong và ánh sáng mờ mờ quay trở lại với ngọn núi. Martin bắt đầu gõ những tín hiệu khẩn cấp cho Riyadh. Don Walker cho chiếc Eagle của mình vụt lên sau khi thả xong bom, lao theo góc 135 độ chếch, nhằm xuống dưới và theo đường rút thẳng về phía nam. Nhưng vì ở vùng đất bằng phẳng và dãy núi dựng lên xung quanh , phải lấy độ cao nhiều hơn bình thường và có nguy cơ chạm phải các đỉnh. Chính ngôi làng ở xa Pháo Đài nhất bắn được phát đạn chính xác nhất. Chỉ trong khoảnh khắc ở họ, cái đầu cánh, quay sang phía nam, khi hai quả hoả tiễn được bắn ra. Những quả tên lửa này phải là SAM của Nga mà là những quả tốt' nhất mà Iraq có được - quả Roland của Đức-Pháp sản xuất. Quả đầu tiên chậm chạp, chạy theo chiếc Eagle khi nó lao ra khỏi tầm nhìn của dãy núi. Quả Roland thất bại trong việc rạch ra. Quả thứ hai luồn theo những tảng đá của đỉnh núi và đuổi kịp chiếc máy bay chiến đấu ở thung lũng kế tiếp. Walker cảm thấy cú sốc mạnh khi quả hoả tiễn chạm vào thân máy bay của , phá hủy gần như toàn bộ động cơ bên sườn. Chiếc Eagle lao vụt qua bầu trời, các hệ thống tinh vi của nó trong đó, nhiên liệu cháy thành cái đuôi sao chổi ở phía sau. Walker thử lại các điều khiển, món pút đinh sũng nước. Thế là xong, máy bay của chết ở dưới , mọi thứ đèn báo động lửa đều bật hết lên, và 30 tấn kim loại cháy rừng rực sắp rơi xuống đất từ trời. - Nhảy, nhảy... Chiếc dù tự động buông ra trong khoảnh khắc trước khi những chỗ ngồi nhảy dù đến, bắn tung vào màn đêm, lấy lại cân bằng. Các cảm ứng của họ ngay lập tức cho biết họ quá chậm và bị thổi tung khỏi những sợi dây da có chứa phi công vào trong chỗ ngồi của mình, ràng là thất bại trong việc nhảy dù. Walker trước đây chưa từng thế này bao giờ. Cảm giác sốc bao trùm lấy trong lúc, làm mất khả năng quyết định. may mắn những người sản xuất máy bay nghĩ đến điều này. Khi cái ghế kim loại nặng nề rơi xuống, dù liền tự bung ra và tung ra. Mê man, Walker thấy mình ở trong màn đêm, chao đảo thung lũng mà thể nhìn thấy. rơi lâu - bay ở quá thấp. Trong vài giây mặt đất ra và chạm xuống, và nảy lên, lăn tròn, lăn, tay cào vào dù. Rồi cái dù bay mất, vào trong thung lũng. và nằm thẳng cẳng mặt đất. bò dậy. - Tim, gọi, Tim, cậu có sao ? bắt đầu chạy thung lũng, tìm cái dù khác, chắc chắn cả hai đều rơi vào cùng địa điểm. Điều này đúng. Cả hai người rơi vào hai thung lung nằm ở phía nam mục tiêu của họ. bầu trời về phía bắc có thể nhìn thấy màu đỏ nhờ nhờ ra. Sau ba phút rơi vào cái gì đó và khuỵu gối xuống. nghĩ đó là tảng đá, nhưng trong ánh sáng mờ tỏ nhìn thấy đó là trong những cái ghế phóng ra. Có thể là ta đó chăng, phải Tim ? chạy đến để nhìn. Walker tìm thấy người wizzo của mình. Chàng trai trẻ được phóng ra cách hoàn hảo, nhưng quả hoả tiễn nổ làm gẫy chỗ nối làm bắn tung . hạ xuống đất sườn núi dính chặt vào ghế, dù ta trùm lên mặt đất ở bên cạnh. Chấn động của vụ rơi cuối cùng làm thoát được cái ghế, nhưng ai có thể sống sót sau cú sốc mạnh đến thế. Tim Nathanson năm ngửa thung lũng, phần cơ thể bị gẫy nát, khuôn mặt vẫn nằm trong cái mũ bảo hiểm của mình. Walker gỡ mặt nạ ra, quay cái mác, và chạy về phía núi, bắt đầu chạy, nước mắt chảy tràn mặt. chạy cho đến lúc thể chạy được nữa, tìm thấy hẻm núi và lăn vào đó để nghỉ. Hai phút sau các vụ nổ ở Pháo Đài, Martin có liên lạc được với Riyadh. gửi loạt bíp của mình và rồi bức thông điệp nó có nghĩa: - Barrabas đây, tôi lại, Barrabas đây. Ba người SAS đứng gần sát máy điện đàm, gói nó lại, đeo những túi Bergen lên vai, và bắt đầu ra khỏi dãy núi - nhanh. Có thế có các đội tuần tra ở chỗ trước đây hề có, và cũng phải tìm họ - chưa phải lúc người Iraq có thể nghĩ tại sao cuộc ném bom vừa rồi lại chính xác được đến vậy - mà là tìm phi công Mỹ rơi xuống đất. Trung sĩ Stephenson nhìn theo mảnh máy bay bốc cháy khi nó bay qua đầu họ, và hướng rơi của nó. Cho rằng có thể có lúc sau khi rơi, các phi công, liệu họ còn sống sót. vẫn phải ở đâu đó trước mặt họ. Những người lính SAS di chuyền nhanh, ngay trước những người thuộc bộ lạc Ubaidi của đội Vệ binh, những người toả ra từ những ngôi làng để lao lên dãy núi. 20 phút sau, Mike Martin và hai người lính SAS còn lại tìm thấy xác chết của người sĩ quan quản lý hệ thống vũ khí. Họ thể làm gì được nữa, nên bỏ . 10 phút sau nữa, họ nghe thấy phía sau những loạt đạn súng cá nhân. Nó tiếp tục thêm lúc. Al-Ubaidi cũng tìm thấy cái xác và trong cơn điên giận họ xả súng vào nó. Hành động cũng được dành cho hướng của họ. Những người SAS lại càng vội vã hơn. Don Walker gần như cảm thấy lưỡi dao của trung sĩ Stephenson gí vào cổ họng mình. Nó rất như dải lụa. Nhưng nhìn lên và thấy khuôn mặt người đàn ông đứng phía mình. Trời tối và lạnh; có khẩu súng ở bên tay phải chĩa thẳng vào ngực Walker; và người đàn ông mặt quân phục đại uý trong đội Vệ binh Cộng hoà, phiên hiệu Núi. Rồi người đàn ông : - Chọn đúng lúc để xuống uống trà rồi. Liệu chúng ta còn có thể thoát khỏi đây ? Đêm đó tướng Norman Schwarzkopf ngồi mình trong dãy nhà của mình ở tầng bốn toà nhà Bộ Quốc phòng Arập Xêut. Đó phải là nơi ông thường xuyên trôi qua thời gian của mình trong bảy tháng qua; phần lớn thời gian đó ông thăm các đơn vị chiến đấu khi có thể, hoặc xuống căn cứ ngầm với nhân viên và những người lập kế hoạch của mình. Nhưng cái văn phòng rộng rãi và tiện nghi là nơi ông đến khi muốn được ở mình. Đêm đó ông ngồi ở bàn của mình, bên cạnh là cái điện thoại màu đỏ nối ông trực tiếp đến Washington cách tuyệt đối an toàn, và chờ đợi. 10 phút trước khi trời sáng ngày 24 tháng Hai, chiếc điện thoại khác réo chuông. - Tướng Schwarzkopf phải ? sắc . - Phải, tôi đây. - Tôi có tin cho ngài đây. - . - Đó là: Barrabas đây, thưa ngài. Barrabas đây. - Cám ơn, vị tổng tư lệnh , và đặt máy xuống. Vào lúc bốn giờ sáng hôm đó, cuộc tấn công bộ mở màn.
CHƯƠNG 23 Ba người SAS nặng nhọc bước suốt phần còn lại của đêm. Họ tiến lên phía trước và ngược lên khiến Don Walker, người phải đeo hành lý và nghĩ mình ở tình trạng sức khoẻ tốt, trở nên kiệt sức và thở hổn hển. Đôi lúc tưởng như sắp khuỵu xuống, biết rằng mình thể xa hơn, rằng thậm chí chết còn dễ chịu hơn là cứ đau từng bắp thịt cách dữ dội thế này. Khi điều đó xảy ra, có thể cảm thấy hai bàn tay thép, đặt dưới cánh tay, và nghe thấy giọng vùng Cockney của trung sĩ Stephenson bên tai: - tiếp nào, bạn. Chỉ còn chút nữa thôi. Có thấy cái chóp núi kia ? Chúng ta có thể nghỉ ngơi ở sườn bên kia đấy. Nhưng họ bao giờ làm được điều đó. Thay vì về hướng nam đến vùng đồi thấp Jebal và Hamreen, nơi dường như họ có thể gặp phải lính của đội Vệ binh Cộng hoà với xe cơ giới, Mike Martin thẳng về phía đông đến dãy đồi cao chạy ra biên giới Iraq. Đó là chiến thuật buộc các đội tuần tra của những người miền núi Al-Ubaidi phải theo họ. Ngay trước khi trời sáng, nhìn lại đằng sau và xuống phía dưới. Martin nhìn thấy nhóm sáu tên, ở gần hơn bọn còn lại. vẫn leo lên và tiến lại gần. Khi đội Vệ binh Cộng hoà đến được mỏm đá tiếp đó, họ thấy xác người gục mặt đất, đầu quay về hướng khác. Nhảy vào sau các tảng đá, những người của bộ lạc tản ra, tấn công vào người nước ngoài từ đằng sau. Cái xác nảy lên. Sáu người trong đội tuần tra Vệ binh hất cái che ra và chạy lên phía trước. quá muộn, họ thấy cái xác là cái túi Bergen, có nguỵ trang, ở là cái mũ bảo hiểm của Walker. Ba khẩu Heckler và Koch MP5 giảm thanh quất sụm họ khi họ vòng quanh "cái xác". Phía thành phố Khanaqin, cuối cùng Martin cũng cho nghỉ lúc và chuyển tin về Riyadh. Stephenson và Eastman xem đồng hồ, nhìn về phía tây, từ đó mọi nhóm quân địch đều phải đến. Martin cho Riaydh đơn giản là họ có ba người của SAS rời và họ có phi công Mỹ mình cùng với họ. Trong trường hợp thông tin này bị nghe được, nó có thể làm lộ vị trí của họ. Nên họ phải rảo bước nhanh hơn nữa. Ờ cao dãy núi, gần biên giới, họ tìm thấy chỗ trú trong túp lều đá, được các mục đồng trong vùng sử dụng vào mùa hè khi lùa lũ cừu lên vùng cỏ cao hơn. Tại đó, cảnh giới chế độ luân phiên, họ chờ đợi trong suốt bốn ngày của cuộc tấn công bộ, khi ở xa vùng phía nam các xe tăng của Liên quân và lực lượng tấn công thẳng vào Quân đội Iraq trong cuộc chiến chớp nhoáng dài có 90 tiếng đồng hồ và lan sang đến Kuwait. Cũng vào ngày hôm đó, ngày đầu tiên của cuộc tấn công bộ, người lính đơn độc vào Iraq từ phía tây. ta là người Israel của đội du kích Sayeret Matkal, được lựa chọn do tiếng Arập hoàn hảo. chiếc máy bay Israel, được bảo vệ bởi các xe tăng tầm xa và là máy bay chuyên chở của quân đội Jordan, bay ra từ Negev và dọc suốt vùng sa mạc Jordan để người đó lại trong Iraq, về phía nam của điểm vượt Ruweishid. Để lại ta ở đó, nó quay trở lại và bay về qua Jordan và về Israel, hề bị hay biết. Cũng giống Martin, người lính này mang theo đồ đạc , lái mô tô với lốp xe chuyên dụng sa mạc. Mặc dù được cải trang để trông già , nhàu nhĩ, bẩn thỉu, thô kệch, và quê mùa, động cơ của nó ràng là cực tốt, và nó có rất nhiều xăng dự trữ trong hai bình treo ở bánh sau. Người lính theo con đường chính về phía đông và khi hoàng hôn đến được Baghdad. Quan tâm của thượng cấp ta cho an toàn của ta là quá thừa. Với máy telegraphe xịn, những người Baghdad biết quân đội của mình bị quét sạch trong các sa mạc về phía nam Iraq và Kuwait. Khoảng đến tối ngày thứ nhất, AMAM dựng chiến luỹ và cố thủ ở đó. Giờ đây khi các cuộc oanh tạc chấm dứt - máy bay chiến đấu nào của Liên quân được sử dụng nữa - người dân Baghdad có thể lại tự do, công khai về việc người Mỹ và người sắp tới để thổi bay Saddam Hussein. Đó là niềm phấn khích kéo dài có đến tuần, cho đến khi chùng xuống khi Liên quân thấy tới, và lộng hành của AMAM vân tiếp tục. Trạm xe bus trung tâm đầy lính, phần lớn đều mặc đồ đơn giản, bỏ quân phục mặc khi ở sa mạc. Đó là những người từ sa mạc thoát khỏi các đội hành quyết đợi đằng sau đường chiến tuyến. Họ rao bán những khẩu Kalashnikov với giá Vé xe bus về làng. Hồi đầu tuần, giá những khẩu súng trường đó 35 dinar chiếc; bốn ngày sau. giá chỉ còn 17 dinar. Người Israel đặt các thông điệp giống hệt nhau ở cả ba chỗ, đánh dấu phấn ở ba nơi, xe mô tô về hướng tây, nhập vào đoàn người tị nạn cũng cùng hướng đó. ta mất thêm ngày nữa mới ra được đến biên giới. Tại đó ta cắt thẳng về phía nam của con đường chính để vào sa mạc trống trải, sang Jordan, đào chiếc đèn hiệu được giấu kín của mình và sử dụng nó. Những tiếng bíp bíp vang lên ngay lập tức bởi chiếc máy bay Israel bay vòng vòng Negev, và chiếc trực thăng quay trở lại điểm hẹn để mang người đột nhập . ta ngủ trong suốt 50 tiếng đồng hồ đó và ăn rất ít, nhưng hoàn thành được nhiệm vụ và trở về nhà cách an toàn. Vào ngày thứ ba của cuộc tấn công bộ, Edith Hardenberg quay trở về bàn làm việc của mình ở ngân hàng Winkler vừa ngạc nhiên vừa tức giận. Buổi sáng hôm trước, ngay trước khi sắp rời chỗ làm, nhận được cú điện thoại. Người ở đầu dây bên kia, giọng Đức hoàn hảo với sắc Salzburg, tự giới thiệu mình là hàng xóm của mẹ . Ông ta với rằng bà Hardenberg bị ngã cầu thang rất nặng sau khi bị trượt chân và ở tình trạng xấu. Ngay lập tức cố gọi điện cho mẹ mình nhưng lúc nào máy cũng bận. Cuối cùng sốt ruột chịu nổi, gọi cho trạm điện thoại Salzburg, nơi này cho biết điện thoại chắc là bị hỏng. Gọi điện cho ngân hàng bảo là thể đến được, lái xe thẳng về Salzburg trong trời tuyết giá lạnh, đến được nơi khi sắp buổi trưa. Mẹ , hoàn toàn mạnh khoẻ, ngạc nhiên khi nhìn thấy . hề có chuyện bị ngã, cũng bị thương. Tệ hơn nữa, thằng khốn nào đó cắt dây điện thoại của bà ở bên ngoài ngôi nhà. Khi Edith quay trở về Vienna, quá muộn để đến chỗ làm. Khi xuất ở bàn làm việc của mình sáng hôm sau, thấy Wolfgang Gemuetlich ở tâm trạng còn ảo não hơn cả ông ta trách cứ rất nặng nề vì vắng mặt ngày hôm trước và tức giận khi nghe lời giải thích của . Lý do khiến ông ta ở tình trạng đó vừa mới xảy đến. Giữa buổi sáng ngày hôm trước, thanh niên xuất ở ngân hàng và nằng nặc đòi gặp ông. Vị khách cho biết tên mình là Aziz và là con trai người chủ của tài khoản lớn có đánh số. Cha ta, người Arập giải thích, thể đến được nhưng muốn con trai mình thay mặt mình giải quyết công việc. Khi đó, Aziz chìa giấy tờ chứng nhận cách đầy đủ và hoàn hảo rằng ta là sứ giả của cha mình, với toàn quyền xử lý tài khoản được đánh số đó. Ngài Gemuetlich kiểm tra các chứng từ giao quyền sử dụng đến từng kẽ nhất, nhưng hề có khe hở nào. Ông chẳng còn lựa chọn nào khác ngoài chấp nhận làm theo. Chàng trai nhấn mạnh rằng ý muốn của cha ta là đóng toàn bộ tài khoản để chuyển đến chỗ khác. có hiểu được hả Hardenberg, chỉ hai ngày sau khi có tài sản hơn ba triệu đôla, phải chi ra tổng cộng hơn mười triệu đôla. Edith Hardenberg lắng nghe câu chuyện của Gemuetlich cách bình thản, rồi hỏi về người khách. Phải, được cho biết, tên ta là Karim. Giờ đây khi nghe đến cái tên, đốm hồng gợn lên ngón tay bé ở bàn tay, và, thực tế vết sẹo dài ngực. Liệu ông ta gặm nhấm xong mất mát của mình chưa, viên chủ nhà băng có thể tự hỏi câu hỏi chính xác như thế bởi người thư ký về người chưa từng bao giờ gặp. Dĩ nhiên ông cũng biết, Gemutlich thú nhận, rằng người nắm tài khoản hẳn là người Arập, nhưng ông ta có ý tưởng gì người đàn ông là từ Iraq đến và có đứa con. Sau khi làm việc, Edith Hardenberg về nhà và bắt đầu lau rửa căn hộ của mình. chăm chú làm công việc đó trong suốt nhiều giờ liền. lấy hai cái hộp to bằng các tông để làm thùng rác mang hàng trăm yard và chôn xuống đất. cái chứa các thứ đồ mỹ phẩm, nước hoa, sữa tắm, và; cái hộp kia là đủ loại đồ lót của phụ nữ. Rồi lại quay về phòng tiếp tục dọn dẹp. Những người hàng xóm sau đó lại là bật nhạc đến tối và cho đến mãi đêm - phải những bản Mozart và Strauss quen thuộc mà là nhạc Verdi, đặc biệt là số khúc từ bản Nabucco. người hàng xóm tò mò hơn cả nhận ra đoạn đó là "Đồng ca Slave" mà bật bật lại. Sáng sớm nhạc ngừng lại, và ra xe ôtô với hai thứ đồ lấy từ trong bếp nhà mình. nhân viên kế toán nghỉ hưu, dắt chó dạo trong công viên Prater vào lúc bảy giờ sáng tìm thấy . Ông để chiếc Hauptallee lại để cho con chó của mình làm việc của nó trong công viên đoạn xa đường hơn cả. mặc bộ đồ màu ghi bó sát người, tóc xoá ra sau đầu, đôi tất dày ở chân, và đôi giày cứng đơ. Sợi dây ròng qua cành sồi phản bội , và hai bậc thang nhà bếp cũng vậy. khá bình thản khi chết, hai tay để dọc người và những ngón chân duỗi xuống dưới. Vẫn luôn luôn là Edith Hardenberg rất mực chỉn chu. 28 tháng Hai là ngày cuối cùng của cuộc tấn công bộ. Trong các sa mạc Iraq phía tây Kuwait, quân đội Iraq thất bại hoàn toàn và rệu rã. Về phía nam thành phố, các sư đoàn của đội Vệ binh Cộng hoà trước đóng ở Kuwait ngày 2 tháng Tám còn tồn tại nữa. Vào ngày đó các lực lượng vũ trang chiếm được thành phố, bắn vào mọi thứ có thể cháy và tìm cách phá huỷ mọi thứ, để lại cho phía bắc hàng dài xe tải, xe tăng, van, ôtô. Đoàn xe bị nhìn thấy hoàn toàn khi đường cao tốc phía bắc cắt qua Multa Ridge. Những chiếc Eagle và Jaguar, Tomcat và Hornet, Tornado và Thunderbolt, Phantom và Apache bổ nhào xuống đoàn xe. Khi đoạn đầu của đoàn xe bị phá huỷ và làm con đường tắc nghẽn, phần còn lại thể chạy về trước cũng như lùi lại, và vì chỗ giao ở Ridge thể rời con đường. Nhiều người trong đoàn xe chết và những người còn lại đầu hàng. Khi chiều xuống, các lực lượng đầu tiên của Arập tiến vào Kuwait để giải phóng đất nước này. Tối đó, Mike Martin lại liên lạc với Riyadh và nghe tin tức cho biết về vị trí tại của mình và về bình địa bằng phẳng gần đó. Những người lính SAS và Walker hết lương thực, phải đun tuyết để lấy cái uống, và chịu lạnh khủng khiếp, dám đốt lửa vì sợ làm lộ vị trí của mình. Chiến tranh kết thúc, nhưng các đội tuần tra miền núi biết gì về việc đó, hoặc là quan tâm. Ngay sau khi mặt trời lên, hai chiếc máy bay trực thăng tầm xa Blackhawk của Sư đoàn quân số 101 của Mỹ tới đón họ. Họ đến từ căn cứ của 101, sâu 50 dặm trong lãnh thổ Iraq, chuyến tấn công lớn nhất bằng máy bay trực thăng trong lịch sử. Khoảng cách từ biên giới A rập Xêut đến là rất xa thậm chí từ căn cứ sông Euphrates, đó là khoảng cách xa để đến được dãy núi gần Khanaqin. Đó là lý do tại sao có hai cái trong số chúng, cái thứ hai còn có nhiều nhiên liệu hơn dành cho chuyến bay về. Để đảm bảo an toàn, tám chiếc Eagle bay ngay phía để bảo vệ trong khi lấy người ở quãng trống. Don Walker nhảy vọt lên. - Hey, người của tôi đấy?, hét lên, Khi hai chiếc Blackhawk bay về, những chiếc Eagle còn yểm hộ cho đến khi qua được biên giới. Họ tạm biệt nhau bãi cát rộng, xung quanh là tàn tích của đội quân bại trận gần biên giới Xêut-Iraq. Những cánh quạt sắc lẻm của chiếc Blackhawk làm tung bụi mù mịt trước khi chở Don Walker về Dhahran và chuyến bay trở về Al Kharz. chiếc Puma của đứng ở đằng xa, để chở người SAS về căn cứ quân bí mật của họ. Tối đó, trong ngôi nhà miền quê tiện nghi ở vùng hạ Sussex, tiến sĩ Terry Martin được cho biết trai mình ở đâu kể từ tháng Mười và rằng giờ đây thoát được khỏi Iraq và an toàn ở Arập Xêut. Martin gần như phát ốm vì lo lắng, và người của SIS đưa quay trở về London, nơi lại tiếp tục cuộc sống của mình với tư cách giảng viên của trường Khoa học phương Đông và châu Phi. Hai ngày sau, ngày 3 tháng Ba, các chỉ huy các quân đội trong Liên quân gặp nhau trong ngôi lều tại căn cứ quân Iraq trống gọi là Safwan với hai vị tướng từ Baghdad để thương nghị về đầu hàng. Những người phát ngôn duy nhất, bên phía Liên quân là tướng Norman Schwarzkopf và Hoàng thân Khaled bin Sultan. Bên cạnh vị tướng Mỹ là chỉ huy quân , tướng Peter de la Billière. Cả hai vị sĩ quan phương Tây ngày hôm đó đều tin rằng chỉ hai vị tướng Iraq đến Safwan. Quả thực, họ ở Mạng lưới an ninh của Mỹ được thắt lại cực kỳ chặt chẽ, để loại bỏ khả năng bất kỳ vụ ám sát nào có thể xảy ra trong túp lều nơi các vị tướng các bên đối nghịch gặp gỡ. Toàn bộ sư đoàn quân Mỹ bao vây kín khu sân bay, hướng mặt ra ngoài. giống như các vị chỉ huy Liên quân đến từ phía nam bằng máy bay trực thăng, bên Iraq được lệnh xe đến chỗ nối ở đường phía bắc sân bay. Tại đó họ để xe ôtô của mình lại để chuyển sang số những xe cá nhân chống đạn được gọi là humvee và do lái xe Mỹ lái nốt hai dặm cuối cùng đến sân bay vào đám những túp lều nơi mọi người chờ. 10 phút sau khi chào hỏi các vị tướng vào túp lều thương nghị với phiên dịch của mình, chiếc limousin Mercedes từ đường Basra xuống đến chỗ nối. Trạm kiểm soát tại đó do đại uý của Sư Bảy Mỹ chỉ huy, mọi sĩ quan cao cấp hơn đều vào trong sân bay. Chiếc limousin được dự tính trước được chặn lại ngay lập tức. ghế sau của xe là vị tướng Iraq thứ ba, chỉ là trung tướng, mang chiếc cặp tài liệu màu đen. Cả ông ta lẫn tài xế của ông ta đều được tiếng , và viên đại uý tiếng Arập. ta bèn gọi điện đàm vào trong sân bay để chờ lệnh khi chiếc xe jeep do đại tá Mỹ lái và mang cái khác để cho người đưa tin. Người lái xe mặc quân phục của Các lực lượng đặc biệt Mũ nồi xanh; người khách có dấu hiệu của G2, tức tình báo quân . Cả hai người trình ID của mình cho đại uý, người kiểm tra thẻ, nhận ra họ, và đứng nghiêm chào. - Tốt rồi, đại uý. Chúng tôi dự tính trước có thằng cha này, vị đại tá Mũ nồi xanh . Có vẻ như bị chậm vì nổ lốp xe phải. - Chính thế đấy, viên sĩ quan G2 , chỉ vào chiếc cặp tài liệu của vị trung tướng Iraq ngồi hề hiểu gì ở bên xe. Nó chứa tên của tất cả các POW của chúng ta, kể cả các phi công mất tích của chúng ta. Norman Bão tố muốn cái đó, và được rồi đây. còn thừa chiếc humvee nào. Viên đại tá Mũ nồi xanh mời người Iraq lên xe jeep. Viên đại uý bối rối. chẳng biết gì hết về vị tướng Iraq thứ ba này. Điều cuối cùng cần là gọi thêm về tướng Schwarzkopf về danh sách những phi công Mỹ mất tích. Viên đại uý nhún vai và chỉ cho người lái xe Iraq đỗ xe vào chung với họ. đường vào sân bay chiếc xe jeep qua giữa hai hàng xe quân của Mỹ xếp hàng dài suốt dặm. Rồi đến đoạn đường trống, trước khi đội máy bay trực thăng Apache vòng quanh khu vực diễn ra cuộc họp. Thoát khỏi những chiếc xe tăng, viên đại tá G2 quay lại người Iraq và với tiếng Arập rất tốt: - Dưới chỗ ngồi của ông ấy, ông ta . Đừng ra khỏi chiếc xe jeep, mà cho họ lên - nhanh lên. Người Iraq mặc bộ quân phục màu xanh của nước ông ta. Bộ quần áo được nhét dưới chỗ ngồi của ông ta là đồng phục của đại tá của Lực lượng đặc biệt Arập Xêut. ông nhanh chóng thay giày, áo và mũ. Ngay trước khi những chiếc Apache lăn bánh đường băng, chiếc xe jeep lao vào sa mạc, tách khỏi sân bay, và về phía nam. Tại nơi rất xa Safwan, chiếc xe lên lại con đường chính dẫn tới Kuwait, cách đó 20 dặm. Những chiếc xe tăng Mỹ ở khắp nơi, hướng ra bên ngoài. Công việc của chúng là ngăn chặn mọi đột nhập. Những người chỉ huy của họ, đứng ở , nhìn xuống trong số những chiếc xe jeep của mình chở hai đại tá và sĩ quan Xêut ra khỏi vùng chu vi và về vùng đất được bảo vệ điều này chẳng hề khiến họ bận tâm. Chiếc xe jeep mất gần giờ đồng hồ mới tới được sân bay Kuwait, rồi bãi bị tàn phá, do người Iraq và vẫn còn làn khói từ lửa dầu mỏ lan ra khắp vương quốc Chuyến xa đến vậy là vì để tránh cuộc tàn sát đường Multa Ridge, nó bị chia ra qua sa mạc phía tây của thành phố. Năm dặm cách sân bay, viên đại tá G2 lấy chiếc điện thoại di động từ ngăn kéo và ấn vào đó loạt những tiếp bíp. Từ sân bay chiếc máy bay tiến lại gần họ. Tháp điều khiển của sân bay được người Mỹ giám sát Chiếc máy bay tới gần là chiếc HS-125 của . chỉ có thế, đó là chuyên cơ dành cho chỉ huy quân , tướng de la Billière. Điều đó hẳn là: nó có đủ quyền để . Người kiểm soát lưu cho nó . Chiếc HS- 125 đứng ở điểm hơi tách ra, nơi nó gặp chiếc xe jeep của Mỹ. Cửa mở ra, thang được thả xuống, và ba người đàn ông bước vào máy bay. - Granby 1, chuẩn bị cất cánh, người giám sát lưu nghe thấy vậy. ta điều khiển chiếc Hercules của Canada tới với thuốc men cho bệnh viện máy bay. ta muốn : Mẹ kiếp sao mà nhanh thế - các định làm cái quỷ quái gì thế? - Xin lỗi, tháp Kuwait, giọng vang lên rất chính xác, của lực Hoàng gia. Người kiểm soát từng nghe RAF trước đây, và nó cũng vang lên y hệt như thế. - Tháp Kuwait, chúng tôi cho lên máy bay đại tá của Lực lượng đặc biệt Xêut, người của Hoàng thân Khaled. Tướng Schwarzkopf ra lệnh đưa ông ta ngay lập tức, nên ngài Peter cho mượn máy bay riêng của ông ấy. Chuẩn bị cho cất cánh nhanh , bạn. Trong hai hơi thở viên phi công người nêu tên vị tướng, vị hoàng thân và vị hiệp sĩ được tước phong. Còn người kiểm soát lưu chỉ là trung sĩ chỉ biết làm tốt công việc của mình. ta có công việc tốt trong lực Hoa Kỳ. Từ chối cho viên đại tá Xêut của Hoàng thân bị ốm chữa bệnh theo lời cầu của vị tướng ở trong máy bay của chỉ huy quân có thể làm nghiệp tiêu tùng. - Granby 1, cất cánh , ta . Chiếc HS-125 cất cánh bay khỏi Kuwait, nhưng thay vì hướng tới Riyadh, nơi có những bệnh viện tốt nhất ở Trung Đông, nó lại về hướng tây dọc theo biên giới phía bắc của vương quốc. Chiếc AWACS lúc nào cũng cảnh giác nhìn thấy nó và lên tiếng gọi, đòi biết đích đến của nó. Vào lúc đó giọng pukka vang lên trả lời giải thích họ bay tới căn cứ của ở Akritiri tại đảo Cyprus để mang đến đó mộtngười bạn thân và sĩ quan thân thiết của tướng de la Billière bị thương nặng bởi mìn. Người chỉ huy phi vụ của AWACS chẳng biết gì về chuyện đó, nhưng chẳng thể nào cứ căn vặn mãi được. Chẳng nhẽ phải bắn hạ chiếc máy bay này sao? 15 phút sau, chiếc HS-125 rời khỏi phận Xêut và qua biên giới sang đến Jordan. Người Iraq ngồi ở hàng ghế sau của máy bay hề hay biết gì về điều đó mà chỉ bị ấn tượng bởi tính hiệu quả của người và người Mỹ. Ông ta nghi ngờ khi nhận được thông điệp gần nhất từ những người phương Tây trả lương cho mình, nhưng sau khi suy nghĩ ông ta cho rằng khôn ngoan hơn cả là rời còn hơn là chờ đợi thêm nữa và phải tự làm việc đó mà có giúp đỡ nào. Kế hoạch được lên cho ông ta trong thông điệp đó được thực như trong giấc mơ. trong hai phi công trong bộ quân phục nhiệt đới của RAF trở lại bàn thứ hai của máy bay và thầm bằng tiếng với viên đại tá G2 của Mỹ, người nhăn mặt. - Chào mừng ông đến với tự do, thưa tướng quân, ta bằng tiếng Arập với người khách của mình. Chúng ta ở ngoài phận của Arập Xêut. Ông được lên chiếc máy bay để đến Mỹ sớm sủa thôi. Nhân đây tôi có cái này cho ông. ta rút mẩu giấy từ túi áo ngực ra và chìa nó cho người lraq, người đọc nó cách thoải mái. Đó là con số cộng đơn giản: tổng cộng số tiền ông ta có trong tài khoản tại Vienna, giờ đây lên hơn 10 triệu đôla. Nhân viên Mũ nồi xanh nhìn vào ống nhòm và tạo ra hàng loạt ly và loạt chai rượu Scotch . ta rót cái chai vào ly và chuyển xung quanh. - Nào, bạn của tôi, uống vì an lành và thịnh vượng ta uống; người Mỹ kia cũng uống. Người Iraq mỉm cười và uống. - Nghỉ ngơi chút , viên đại tá G2 bằng tiếng Arập. Chúng ta đến đó trong chưa đầy giờ nữa. Tiếp sau đó, họ để ông ta lại mình. ông ta ngửa người ra sau lên tấm nệm của chỗ ngồi của mình và để đầu óc thả trôi về 20 tuần vừa qua làm nên cả gia sản cho ông ta phải rất liều lĩnh, nhưng họ thanh toán sòng phẳng. Ông ta nhớ lại cái ngày ông ngồi trong phòng họp của Cung điện Tổng thống đó và nghe Rais tuyên bố rằng cuối cùng Iraq có được, trong thời gian lâu nữa, quả bom hạt nhân của riêng mình. Cái đó như thể là cú sốc mạnh, và làm mất mọi liên lạc sau đó của ông ta với người Mỹ. Rồi họ đột nhiên trở lại, trông nghiêm trọng hơn bao giờ, hỏi nơi có thứ vũ khí đó. Ông ta có ý tưởng tồi, nhưng với năm triệu đôla, ràng đến lúc làm mọi việc có thể. Rồi mọi việc cũng dễ dàng hơn là ông ta từng nghe nhiều. Kỹ sư chế tạo hạt nhân, tiến sĩ Salah Siddiqi, từng được đưa đến các phố Baghdad và bị tố cáo, giữa biển của chính những người của ông ta, là phản bội để lộ chỗ giấu quả bom. Khăng khăng cãi về trong sạch của mình, ông cho biết địa điểm Al Qubai và nguỵ trang với nghĩa trang xe hơi. Làm cách nào nhà khoa học đó lại có thể biết mình bị thẩm vấn ba ngày trước khi ném bom, chứ phải hai ngày sau đó? Cú sốc tiếp theo của Jericho là biết được có hai viên phi công người bị rơi. Điều này chưa được dự kiến trước. ông ta cần hết mức để biết được liệu, trong khi bị hỏi, có hở ra chút đầu mối nào về chuyện thông tin tới tay Liên quân như thế nào . Nỗi mừng rỡ của ông ta, khi ràng họ chẳng biết gì về, chuyện đó và họ chỉ biết chỗ đó là kho thuốc nổ cho pháo binh, sống được lâu, khi Rais quả quyết phải có tên phản bội. Từ đó tiến sĩ Siddiqi, bị treo lên bên dưới Nhà tập, phải phun ra, điều mà ông với cú tiêm quá liều vào tim, làm biến . Những kỷ lục thời gian về cuộc hỏi cung đó, từ ba ngày trước khi ném bom đến hai ngày sau đó, hoàn toàn thay đổi Nhưng cú sốc lớn hơn cả là biết rằng Liên quân trượt, rằng quả bom được chuyển đến địa điểm được giấu kín nào đó tên là Qu'ala. Pháo đài nào? Ở đâu? vận may đến khi kỹ sư nguyên tử trước khi chết hé lộ rằng người thực công trình nguỵ trang là đại tá nào đó tên là Osman Badri của Công binh, nhưng khi kiểm tra hồ sơ ông thấy viên sĩ quan trẻ là người ủng hộ Tổng thống cuồng nhiệt. Làm thế nào để làm thay đổi cách nhìn đó bây giờ? Câu trả lời nằm ở vụ bắt giữ và những trách nhiệm gây nên cái chết khủng khiếp của người cha thân của ta. Sau đó, Badri thất vọng rơi vào tay Jericho, trong cuộc gặp ở băng ghế sau ôtô sau đám tang. Người đàn ông tên là Jericho, có biệt danh là Mu'azib Đồ tể, cảm thấy an tâm với cuộc sống. thoả mãn lan truyền trong người ông ta, hiệu ứng có lẽ của mấy ngày vừa qua cộng dồn lại. Ông ta thử động cựa nhưng thấy mình thể nhúc nhích. Hai sĩ quan người Mỹ nhìn xuống ông, bằng thứ ngôn ngữ ông ta thể hiểu nhưng biết là phải tiếng . ông cố trả lời nhưng miệng ông thể thốt ra lời nào. Chiếc HS-125 quay về hướng tây nam, băng qua bờ biển Jordan và hạ xuống độ cao 10.000 fít. Vịnh dòng thác khí tràn ngập ca bin, thậm chí dù chiếc máy bay giảm tốc độ gần như là đứng im. Hai viên sĩ quan dựng ông ta dậy, thể chống cự, thẳng đuỗn và làm nổi gì, cố điều gì đó mà có khả năng. mặt nước xanh ngắt phía nam Aqaba, tướng Omar Khatib rơi từ máy bay và lao thẳng xuống dòng nước, nơi thấy có động tĩnh gì nữa cả. Lũ cá mập làm nốt phần còn lại. Chiếc HS-125 quay về hướng bắc, bay qua Eilat sau khi quay trở lại phận Israel, cuối cùng đậu xuống Sde Dov, sân bay quân nằm ở bắc Tel Aviv. Tại đó hai phi công cởi bỏ bộ quân phục lính và viên đại tá là bộ quân phục Mỹ. Cả bốn quay về với cấp bậc Israel thực của mình. Chiếc máy bay sử dụng được chuyển về lực Hoàng gia của mình, được sơn lại như trước, và trở lại tàu sân bay sayan ở đảo Cyprus nơi lấy nó . Tiền từ Vienna đầu tiên được chuyển đến ngân hàng Kanoo ở Bahrain, rồi đến ngân hàng khác ở Mỹ. phần được chuyển lại ngân hàng Hapoalim ở Tel Aviv và quay về cho chính phủ Israel; chính đó là số tiền Israel trả cho Jericho cho đến khi chuyển sang cho CIA. Cán cân thanh toán, 8 triệu đôla, được chuyển sang cho Mossad dưới cái tên "Quỹ Vui vẻ". Năm ngày sau khi chiến tranh kết thúc, hai chiếc máy bay trực thăng tầm xa khác của Mỹ trở lại các thung lũng vùng núi Hamreen. Họ chẳng hề xin phép gì. Xác của viên sĩ quan điều khiển hệ thống vũ khí của chiếc Eagle, thiếu uý Tim Nathanson, bao giờ được tìm thấy. Đội Vệ binh bắn tung nó lên với những khẩu súng tự động của mình, và lũ chó rừng, cáo, quạ, và diều hâu làm nốt phần còn lại. Cho đến bây giờ xương cốt hẳn vẫn nằm đâu đó trong những thung lũng lạnh lẽo đó, tới 100 dặm đến nơi cha ông ta trước đây từng tới và bị dòng Babylon cuốn . Cha ta nhận được tin ở Washington, đọc kinh kaddish cho , và than thở mình trong ngôi nhà ở Georgetown. Còn xác của hạ sĩ Kevin North được đào lên. Khi những chiếc Blackhawk dừng lại, những bàn tay chìa ra nâng hài cốt người hạ sĩ lên, được cho vào túi đựng xác và trước tiên được mang về Riyadh rồi sau đó về nhà ở chiếc Hercules chở hàng. Khoảng giữa tháng Tư buổi lễ ngắn gọn được tổ chức tại đại bản doanh của SAS ngoại ô Hereford. có nghĩa trang nào dành riêng cho người của SAS; nghĩa trang nào nhận xác của họ. Nhiều người trong số họ nằm lại tại các chiến địa ngoại quốc mà tên tuổi phần lớn ai biết. số nằm lại dưới cát sa mạc Libya, nơi họ cảm thấy trận chiến Rommel năm 1941 và 1942. Những người khác ở các đảo Hy Lạp, dãy núi Abruzzi, Jura, và Vosges. Họ nằm rải rác ở Malaysia và Borneo, ở Yemen, Muscat và Oman, trong những khu rừng nhiệt đới và dòng nước lạnh giá và dưới nước lạnh của Bắc Băng Dương ngoài Falkland. Khi xác họ được đào lên, họ được mang trở về nước , nhưng thường xuyên họ được chuyển về cho gia đình để mai táng. Ngay cả khi đó, có tấm bia mộ nào nêu tên SAS, mà là phiên đội của đơn vị độc đáo từ đó người lính đến SAS - Bộ binh, Lính dù, Vệ binh, hay bất cứ gì khác. Chỉ có công trình. Giữa Stirling Lines ở Hereford có tháp cao bằng đá, được xây bằng gỗ và sơn màu sôcôla nâu. đỉnh chiếc đồng hồ chỉ thời gian, nên nó được gọi cách đơn giản là Tháp Đồng hồ. Quanh căn cứ của họ là những tảng đồng cứng, đó có ghi tên và địa điểm nơi họ chết. Tháng Tư đó, có năm cái tên mới được viết lên. bị lính Iraq bắn khi bị bắt, hai bị giết khi đấu súng khi cố vượt qua biên giới Xêut. Người thứ tư chết vì bệnh thương hàn sau hai ngày trong quần áo mỏng và thời tiết lạnh giá. Người thứ năm là hạ sĩ Kevin North. Nhiều chỉ huy trước đây của các phiên đội đến vào cái ngày mưa gió đó. John Simpson đến, và Viscount Johnny Slim và ngài Peter. Giám đốc Lực lượng đặc biệt, J.P. Lovat cũng ở đó và đại tá Bruce Craig, khi đó là CO. Và thiếu tá Mike Martin cùng số ít người khác. Bởi vì giờ đây họ ở nhà, những người còn phục vụ có thể hiếm khi được nhìn thấy đội mũ bêrê với biểu tượng chiếc dao găm và khẩu hiệu "Chiến thắng dành cho người dũng cảm". Đó phải buổi lễ kéo dài. Các sĩ quan và những người khác nhìn công trình bên ngoài, những cái tên mới được khắc lên bằng chữ đậm và màu trắng lên đồng. Họ chào và đì, quay về với những toà nhà lộn xộn. Ngay sau đó, Mike Martin đến chiếc ôtô đỗ ở trong công viên của mình, lái qua cánh cổng có lính gác, và quay trở về ngôi nhà ven biển có trong ngôi làng dãy đồi Herefordshire. Trong khi lái xe nghĩ về mọi chuyện xảy ra đường phố và sa mạc Kuwait; và bầu trời phía ; và trong những thung lũng và chợ Baghdad; và dãy đồi Hamreen. Vì là người kín đáo, chí ít cũng hài lòng về điểm: Đó là ai có thể biết được hết cả. HẾT.