Những bí ẩn của sa mạc - Frederik Forsythe [Bí ẩn]

Thảo luận trong 'Các Thể Loại Khác (Kinh Dị, Trinh Thám..)'

  • ^^! Nếu bạn không gửi link bài viết trên Facebook được, hãy sử dụng link trong khung này để chia sẻ bài viết :
    1. Nữ Lâm

      Nữ Lâm Well-Known Member

      Bài viết:
      23,871
      Được thích:
      22,185
      Xuyên qua vùng gió có thể nhìn thấy chỏm băng của núi Cedar ở xa đó. Sau khi rẽ mười dặm, rời đường Mines và rẽ vào đường bẩn, cho đến bên cái đồi dốc. Ở dưới trong thung lũng mãi tít dưới, sông Mocho ánh lên trong mặt trời và rơi xuống giữa những tảng đá của mình. Bãi ỏ ở cả hai bên bờ hoà lẫn nhiều thứ ở phía , đôi cái chống lại màu xanh, và con đường chạy dọc theo lề của dãy núi Cedar vào trong vùng hoang dã.

      qua ngôi nhà trang trại màu xanh đơn độc, nhưng Lomax bảo đến cuối đường. Sau 3 dặm nữa tìm thấy túp lều, trơ trọi với ống khói đá và làn khói toả lên trời xanh.

      dừng xe trong sân và ra. Từ góc, con bò Jersey đơn độc dò xét với đôi mắt ẩm ướt. Những thanh có tiết tấu đến từ đầu kia của túp lều, thế là bèn quanh để gặp được bố Lomax trong góc tối nơi ở dưới thung lũng và dòng sông xa xôi.

      Ông hẳn phải 75 tuổi, nhưng dù mối lo ngại của Sandy, ông trông phong độ với chòm râu rậm như thứ trò tiêu khiển. Cao khoảng 6 fít hơn, trong bộ đồ jean nhàu nát và chiếc áo phẳng, nhà khoa học già nua có vẻ chưa già lắm.

      Mái tóc bạc sương phủ lên vai, và chòm râu màu ngà voi phủ xuống. Những mảng lông còn trắng hơn ra sau làn áo, và ông trông như hề cảm thấy lạnh, trong khi Terry Martin thấy may vì ông mời cốc rượu.

      - Thấy khi nào? Nghe là sắp đến. Lomax , và chặt khúc củi cuối cùng chỉ với nhát chặt. Rồi ông đặt rìu xuống và đến người khách. Họ bắt tay nhau, Lomax chỉ khúc gỗ gần đó và tự mình cùng ngồi lên cái.

      - Tiến sĩ Martin phải nhỉ?

      - Vâng.

      - Từ ?

      - Vâng.

      Lomax với lên túi , lôi ra nắm thuốc lá và tờ giấy và bắt đầu cuộn điếu thuốc lá.

      - đúng đắn về mặt chính trị, nghĩ thế à?

      Lomax hỏi.

      - , tôi nghĩ thế.

      Lomax nhăn nhó với vẻ đồng ý bề ngoài.

      - tiến sĩ chuẩn mực về chính trị. Luôn muốn ngăn tôi hút thuốc.

      Martin để ý ông ta dùng quá khứ.

      - Tôi cho là bỏ ông ta?

      - đâu, ông ấy chứ. Chết tuần trước. 56 tuổi. Stress.

      Thế điều gì đưa ông lên đây vậy?

      Martin chìa chiếc cặp tài liệu ra.

      - Tôi phải xin thứ lỗi vì chẳng ra sao. Có thể chỉ lãng phí thời gian của ông và của tôi mà thôi. Tôi chỉ tự hỏi liệu ông có thể nhìn cái .

      Lomax cầm bức ảnh nhất và nhìn chằm chằm vào đó

      - đến từ chứ?

      - Vâng.

      - xa để đến đưa cho tôi cái này.

      - Ông có nhận ra ?

      - Phải thế thôi. làm việc ở đó suốt 5 năm trong đời tôi mà.

      Miệng Martin trở nên tròn xoe.

      - Ông thực ở đó à?

      - Sông ở đó 5 năm đấy.

      - Ở Tarmiya?

      - Cái nơi quái gì thế. Đây là Oak Ridge.

      Martin nuốt khan nhiều lần.

      - Tiến sĩ Lomax, bức ảnh này do Hải quân Mỹ chụp được cách đây sáu ngày khi bay qua nhà máy bị đánh bom ở Iraq đấy

      Lomax liếc nhìn, đôi mắt xanh sáng dưới đôi kính trắng, rồi lại nhìn bức ảnh.

      - Mẹ nó chứ, cuối cùng ông . Tôi báo trước lũ con hoang rồi mà. Ba năm trước. viết bài cảnh báo đó là kiểu công nghệ của Thế giới Thứ ba thích sử dụng.

      - Thế là thế nào?

      - À, tôi đoán là họ nguỵ trang.

      - Ai cơ?

      - cũng biết rồi đấy, những cái đầu đất.

      - Những cái đĩa này - Frisbee trong nhà máy - ông có biết chúng ở đâu ?

      - Dĩ nhiên, Calutron. Đó là phiên bản của Oak Ridge cũ kỹ.

      - Calu... - cái gì cơ?

      Lomax lại trợn mắt nhìn.

      - phải tiến sĩ khoa học à? phải nhà vật lý à?

      - . Chuyên ngành của tôi là Arập.

      Lomax lại nhăn mặt, như thể phải nhà vật lý quả là gánh nặng cho con người để sống hết cuộc đời

      - Calutron. Cyclotron của California. Calutron, ngắn gọn.

      - Thế chúng dùng làm gì?

      - EMIS. Phản ứng phân hạch. Trong ngôn ngữ của , chúng tinh hoá uranium-238 để lọc những quả bom uranium- 235. nó ở Iraq à?

      - Phải. Nó bị vô tình đánh bom trúng tuần trước.

      Bức ảnh này được chụp ngày sau đó. ai tỏ ra hiểu nó có ý nghĩa gì hết.

      Lomax chằm chằm nhìn qua thung lũng, ngậm đầu bít chì, và thả làn khói ra xa.

      - Mẹ nó chứ, ông lại . Thưa ngài, tôi sống ở này vì tôi muốn thế. Xa mọi thứ khói và lại - đủ năm rồi đấy. TV, nhưng tôi có nghe đài. Có phải về người tên là Saddam Hussein ?

      - Đúng đấy. Có thể về calutron cho tôi ?

      Ông già nhả khỏi cái tẩu và lại nhìn chằm chằm, chỉ qua thung lũng mà còn qua nhiều năm tháng.

      - Năm 1943. Lâu rồi phải ? Gần 50 năm rồi. Trước khi sinh ra, trước phần lớn những người hôm nay. nhúm người chúng tôi thử sức để làm điều thể. Chúng tôi còn trẻ, hăng hái, và tài ba, và hề biết đó là thể. Thế là chúng tôi bắt đầu làm. Có Fermi từ Italia, và Pontecorvo; Fuchs từ Đức, Nils Bom từ Đan Mạch, Nunn May từ , và nhiều người khác. Và chúng tôi những người Mỹ: Urey và Oppie và Ernest. Tôi còn rất trẻ. Vừa mới 27 thôi. Phần lớn thời gian, chúng tôi cảm thấy theo cách của chúng tôi, làm những việc chưa từng bao giờ được thử, thử nghiệm những cái mà họ thể làm được. Chúng tôi có ngân sách mà hôm nay chẳng đủ để mua gì hết, và thế là chúng tôi làm ngày làm đêm và thử những lối tắt. Buộc phải - hạn cuối cùng rất gần cũng như tiền bạc. Và bằng cách nào đó chúng tôi làm được điều đó, trong ba năm. Chúng tôi mở được những mật mã và làm được bom. Little Boy và Fat Man. Rồi lực ném bom họ ở Hiroshima và Nagasaki, và thế giới chúng tôi lẽ ra nên làm điều đó. Điều khó xử là, nếu chúng tôi làm, ai đó cũng làm. Nước Đức của quân Nazi, hoặc nước Nga của Stalin...

      - Thế còn calutron... Martin thử gợi ý.

      - Phải. nghe về Dự án Manhattan chứ?

      - Dĩ nhiên rồi.

      - Tốt, chúng tôi có những thiên tài ở Manhattan, đặc biệt là hai người. Robert J.Oppenheimer và Ernest O. Lawrence. nghe về họ chưa?

      - Rồi.

      - Có nghĩ họ là đồng nghiệp đối tác ?

      - Tôi cho là vậy.

      - Thế sai rồi. Họ là đối thủ của nhau. Xem nào, tất cả chúng tôi đều biết chìa khoá là uranium, nguyên tố hiếm nhất thế giới. Và chúng tôi biết vào năm 1941 rằng chỉ uranium , tức 235, có thể tạo ra phản ứng dây chuyền mà chúng tôi cần. Thủ thuật là phải tách được 7% của 235 giấu ở cách nào đó trong quặng uranium 238. Khi nước Mỹ bước vào cuộc chiến, chúng tôi sửng sốt lớn. Sau nhiều năm lơ !à, người ta cần những cái đó. Lại vẫn chuyện như thế. Chúng tôi phải tìm cách tách những thứ đó ra. Oppenheimer đến chỗ triển khai khí - giảm uranium thành chất lỏng rồi thành khí, flor uranium, độc và có tính ăn mòn, rất khó để làm việc. Trung tâm đến sau đó, do người Mỹ bị người Nga bắt phát minh và được đưa vào việc ở Sukhumi. Trước lò trung tâm, trưng bày khí rất lâu và khó. Lawrence lại con đường khác - tách theo cách điện từ bằng cách gia tốc phân tử. Biết có nghĩa là gì ?

      - Tôi sợ là .

      - Cơ bản mà , phải tăng tốc nguyên tử đến mức kinh khủng, rồi sử dụng những nam châm khổng lồ để hút chúng vào trong cái khoanh. Hai xe ô tô bị hút ngay vào đó xe nặng và xe . Thế cái nào kết thúc ở đầu bên kia nào?

      - Cái nặng hơn, Martin .

      - Đúng rồi. Đó là nguyên lý. Các calutron phụ thuộc vào các nam châm khổng lồ cao khoảng 20 fít. Những cái đó – ông gõ tay xuống các Frisbee bức ảnh - là nam châm đấy. Cách bài trí là lặp lại cái thứ của tôi ở Oak Ridge, Tennessee.

      - Nếu chúng hoạt động được, tại sao họ là ngắt đứt chúng? Martin hỏi.

      - Tốc độ, Lomax . Oppenheimer thắng. Cách của ông nhanh hơn. Các calutron cực kỳ chậm và cực kỳ đắt. Sau năm 1945, và thậm chí còn hơn khi người Áo đó bị người Nga sa thải và đến để trình diện với chúng tôi phát minh lò trung tâm của mình, công nghệ calutron bị bỏ rơi. bị xếp hạng kém. có thể biết tất cả các chi tiết này, và các bản vẽ, từ Thư viện Quốc hội. Có khả năng đó là cách mà người Iraq làm.

      Hai người ngồi yên lặng trong nhiều phút.

      . Điều ông , Martin gợi ý, có nghĩa là Iraq quyết định sử dụng công nghệ của Ford Mẫu T, và bởi vì mọi người đều đặt giả thuyết họ tìm những người sử dụng công nghệ đó, nên họ bị để ý.

      - đúng rồi đấy, con trai ạ. Mọi người quên - Ford Mẫu T có thể cổ, nhưng vẫn xài được. Nếu có nó, nó có thể chuyển được từ A sang B. Và hiếm khi hỏng.

      - Tiến sĩ Lomax, các nhà khoa học của chính phủ tôi và ông tư vấn biết rằng lraq có được tầng máy ly tâm chạy khí làm việc được, và có trong năm vừa qua. cái khác là về việc đến được trọng tâm, nhưng có khả năng chưa vận hành được. cơ sở này, họ tính toán rằng Iraq thể có khả năng tạo ra đủ được uramum - nghĩa là, 35 kg - đủ để tạo quả bom hạt nhân.

      - Khá đúng đấy, Lomax gật đầu. Cần 5 năm với cái tầng đó, có khi còn hơn nữa. Tối thiểu là ba năm với hai cái.

      - Nhưng giả sử họ sử dụng kèm vào đó các calutron. Nếu ông là giám đốc chương trình bom của Iraq, ông làm thế nào?

      - phải cách đó, nhà vật lý già , và bắt đầu đốt điếu thuốc mới. Họ có với là, ở London ấy, rằng bắt đầu nhầm lẫn, cái được gọi là tinh khiết trăm phần trăm, và phải lọc nó 93% để có được chất lượng đủ làm bom nhỉ?

      Martin nghĩ về tiến sĩ Hipwell, với cách hút tẩu của ông ta, trong căn phòng dưới Whitehall đúng điều đó.

      - Có, họ có .

      - Nhưng họ chịu phiền rằng quá trình làm tinh khiết từ 0 đến 20 mất phần lớn thời gian? Họ rằng sau đó nó tinh khiết hơn, và quá trình diễn ra nhanh hơn à?

      - .

      - Nhưng mà như thế đấy. Nếu họ có cả calutron và các lò trung tâm, tôi thể sử dụng cùng lúc được đâu. Tôi sử dụng chúng nối tiếp nhau. Tôi chạy uranium ở bước đầu với calutron để có được nó từ số đến 20, có thể 25 phần trăm; rồi sử dụng nó như là nhiên liệu cho các tầng mới.

      - Tại sao?

      - Có thể giảm nhiều thời gian cho các tầng của bằng loạt 10 cái.

      Martin nghĩ ngợi về điều đó trong khi bố Lomax thở phì phì.

      - Thế ông tính khi nào Iraq có thể có được 35 kg uranium tinh chất?

      - Phụ thuộc khi nào họ bắt đầu với các calutron.

      Martin suy nghĩ. Sau khi các máy bay lsrael phá huỷ lò phản ứng của Iraq ở Osirak, Baghdad vận hành hai chính sách lúc: phân tán và nhân đôi, chia sẻ các phòng thí nghiệm toàn quốc để thể cùng bị đánh bom lúc được, và sử dụng kỹ thuật nguỵ trang tất cả bằng cách mua sắm và học hỏi kinh nghiệm. Osirak bị ném bom vào năm 1981.

      - Thế cho rằng họ mua các phần thị trường chúng trong năm 1982 và lắp ráp chúng vào năm 1983.

      Lomax cầm lấy cây gậy từ dưới đất gần chân ông và bắt đầu hua hua vào bụi đất.

      - Những chàng trai đó có vấn đề gì với cung ứng ? Những nguyên liệu cơ bản ấy? ông hỏi.

      - , đầy đủ hết cả.

      - Cứ cho là như thế, Lomax nhăn nhó. Mua thứ đồ đó ở siêu thị ngày nay.

      Sau lúc ông đập cây gậy lên bức ảnh.

      - Tấm ảnh này chụp được khoảng 20 calutron. Đó là tất cả họ có à?

      - Có thể còn có hơn nữa. Chúng tôi biết được. cứ giả sử đó là tất cả hoạt động.

      - Tử năm 1983 phải ?

      - Giả dụ là thế.

      Lomax vẫn vẽ vẽ vào khí.

      - Ngài Hussein có thiếu điện bao giờ ?

      Martin nghĩ về trạm diện 150 MW cát từ Tarmiya, và lời gợi ý từ Hố Đen rằng dây cáp được chạy ngầm dưới đất đến Tarmiya.

      - , thiếu điện.

      - chúng ta từng thiếu, Lomax . Các calutron cần lượng khổng lồ năng lượng điện để hoạt động. Ở Oak Ridge chúng tôi xây dựng trạm nhiệt điện chạy than lớn nhất thời đó. Thậm chí chúng tôi còn phải khấu vào lưới điện dân dụng. Mỗi lần chúng tôi cho chúng chạy, tạo ra khủng hoảng khắp Tennessee - những thứ kinh khủng - chúng tôi dùng rất nhiều.

      Ông dò dẫm với cây gậy, tính toán, rồi xoá và lại tính trong cùng chỗ đó.

      - Họ có thiếu dây đồng ?

      - , họ cũng có thể mua nó thị trường tự do.

      - Các nam châm khổng lồ đó phải được quấn bằng hàng nghìn dặm sợi dây đồng, Lomax . Quay trở lại cuộc chiến nhé, chúng tôi hề có. Cần cho công nghiệp quốc phòng, từng ounce . Có biết Lawrence làm thế nào ?

      - .

      - vay tất cả các thanh đồng ở Fort Knox và đun lên để tạo ra sợi. Làm chỉ vừa đủ thôi. Chiến tranh kết thúc, chúng tôi phải mang tất cả về Fort Knox. Ông chun mũi. Ông quả là có tính cách mạnh.

      Cuối cùng ông kết thúc và đứng thẳng lên.

      - Nếu họ tập hợp được 20 calutron vào năm 1983 và chạy chúng cho đến năm 89... rồi có uranium được làm tinh 30% và cung cấp cho các lò trung tâm trong năm, họ có đủ 35 kg của mình chìa khóa cho quả bom 93% của mình... tháng Mười .

      - Tháng Mười tới, Martin .

      Lomax nhổm dậy, lại, rồi ngồi xuống, và chỉ cho người khách chân mình.

      - , con trai ạ, tháng Mười vừa rồi.

      Martin lái xe xuống khỏi núi và liếc nhìn đồng hồ. Giữa trưa. Tám giờ chiều ở London. Paxman có thể rời nhiệm sở và về nhà. Martin có số điện thoại ở nhà của ta. có thể chờ mười hai tiếng đồng hồ ở San Francisco để gọi điện thoại, hoặc có thể bay về. quyết định bay. Martin xuống sân bay Heathrow vào 11 giờ trưa ngày 28 tháng Giêng và gặp được Paxman vào lúc 12 giờ 30. Khoảng 2 giờ chiều,

      Steve Laing khẩn cấp với Harry Sinclair ở Đại sứ quán trong Quảng trường Grosvenor và giờ sau đó trưởng trạm CIA ở London chuyện ở đường dây trực tiếp và cực kỳ an toàn đến phó giám đốc Bill Stewart.

      phải chờ đến sáng ngày 30 tháng Giêng Bill Stewart mới có khả năng có được báo cáo đầy đủ lên DCI, William Webster.

      - Tôi kiểm tra, ông với vị cựu thẩm phán của Kansas. Tôi có người đến tận túp lều ở gần núi Cedar, và ông già, Lomax, xác nhận tất cả. Chúng tôi kiểm tra hồ sơ của ông ta - tất cả đều được lưu. Các hồ sơ từ Oak Ridge khẳng định những cái đĩa đó là calutron.

      - Thế quái nào mà điều đó lại có thể xảy ra được? DCI hỏi. Thế nào mà chúng ta lại hề để ý gì hết thế?

      - Chà, ý tưởng có thể đến từ Jaafar Al-Jaafar, ông chủ Iraq của chương trình đó. Ngoài việc đến từ Harwell ở , ông ta cũng từng được đào tạo ở CERN, bên ngoài Geneve. Đó là máy gia tốc phân tử khổng lồ.

      - Thế sao?

      - Các calutron là các máy gia tốc phân tử. Bằng cách nào nữa, toàn bộ công nghệ calutron bị xếp xó từ năm 1949 rồi. Có thể cầu nó từ đó.

      - Thế còn các calutron - chúng được mua thế nào?

      - Từng mẩu , chủ yếu là từ Áo và Pháp. Các cuộc mua bán làm ai chú ý vì bản chất lỗi thời của công nghệ này. Nhà máy được người Nam Tư xây dựng theo hợp đồng. Họ họ muốn có bản vẽ để xây dựng, thế là người Iraq chỉ đơn giản là đưa ra các bản vẽ của Oak Ridge - cho nên tại sao Tarmiya chính là bản sao.

      - Những cái đó diễn ra khi nào vậy? DCI hỏi.

      - Năm 1980.

      - Thế tại sao tay điệp viên đó, tên là gì nhỉ...

      - Jericho, Stewart .

      - Điều ta lại phải là dối à?

      - Jericho từng có lần báo cáo ta nghe được Saddam Hussein vào lúc cuộc họp kết thúc. Tôi e là chúng ta có thể thể tiếp tục kết luận rằng thời gian đó ta .

      - Và chúng ta đá Jericho rồi phải ?

      - ta đòi triệu đôla cho thông tin của mình. Chúng ta chưa từng bao giờ trả đến mức đó, và vào lúc đó...

      - Chúa tôi, Bill, giá rẻ quá mà!

      DCI đứng lên và ra khung cửa sổ bức tranh. Các mành được hạ xuống, phải còn như họ vào tháng Tám và trong thung lũng sông Potomac ra biển.

      - Bill, tôi muốn gặp Chip Barber ở Riyadh. Xem liệu có cách nào nối lại quan hệ với cái tên Jericho đó .

      - Khó đấy, thưa ngài. điệp viên người ở tại Baghdad. ta hoá trang thành người Arập. Nhưng chúng tôi gợi ý bên Nhà thế kỷ gọi ta về.

      - Cầu Chúa họ chưa làm điều đó, Bill. Chúng ta lại cần Jericho rồi. Đừng bao giờ để ý đến tiền nong tôi lo. Ngay khi con cá chìm này tìm lại được, chúng ta phải tìm thấy và ném bom trước khi quá muộn.

      - Vâng, thưa ngài. à, ai gặp để cho các vị tướng?

      Giám đốc gật đầu, Tôi gặp Colin Powell và Brent Scowcroft trong hai giờ nữa.

      Ngài làm tốt hơn tôi nhiều đó, Stewart nghĩ khi ra.

      CHƯƠNG 18


      Hai người từ Nhà Thế kỷ đến Riyadh trước Chip Barber từ Washington. Steve Laing và Simon Paxman hạ cánh trước bình minh, bay đêm từ Heathrow.

      Julian Gray, trạm trưởng Riyadh, gặp họ trong chiếc xe quen thuộc và đưa họ về ngôi biệt thự nơi ông vờ như ở, với vài cuộc viếng thăm tình cờ về nhà để gặp vợ mình, trong vòng năm tháng nay. Ông bối rối vì xuất trở lại đột ngột của Paxman từ London; ông chưa biết đến thượng cấp cao hơn Steve Laing, để khôi phục chiến dịch được đóng lại.

      Trong biệt thự, sau những cánh cửa đóng kín, Laing với Gray chính xác tại sao Jericho cần được tìm lại và đưa vào vai diễn ngay chậm trễ.

      - Chúa ơi. Thế cái thằng con hoang đó lại đúng à?

      - Chúng tôi e rằng đúng, Laing . Khi nào Martin nghe?

      - Giữa 11 giờ 15 và 11 giờ 45 đêm nay, Gray . Để an toàn, chúng tôi gửi gì cho ta từ năm ngày nay. Chúng tôi cho rằng ta về biên giới vào bất cứ lúc nào.

      - Hãy hy vọng rằng ta vẫn còn ở lại đó. Nếu , chúng ta thực rơi vào vực thẳm đó. Chúng ta lại phải gài lại ta, và điều đó có thể thể thực được. Các sa mạc của Iraq đầy lính tuần tra rồi.

      - Bao nhiêu người biết được điều đó? Gray hỏi.

      - Càng ít càng tốt, và vẫn thế mà, Laing trả lời.

      nhóm rất những người cần-phải-biết được thiết lập giữa London và Washington, nhưng với giới chuyên nghiệp như thế vẫn còn là quá nhiều. Ở Washington có tổng thống và bốn thành viên trong chính phủ của ông ta, cộng thêm chủ tịch Hội đồng An ninh Quốc gia và Chủ tịch Đội hoạt động chung. Cộng thêm vào đó là bốn người ở Langìey, trong số đó, Chip Barber, chỉ huy ở Riyadh. Tại California, vị tiến sĩ may Lomax có người khách mời đến túp lều của mình để đảm bảo ông liên lạc với bất kỳ ai ở bên ngoài.

      Ở London, tin đến với vị thủ tướng mới, John Major, thư ký Chính phủ, và hai thành viên của Chính phủ; Ở Nhà thế kỷ, ba người biết. Tại Riyadh tại chỉ có ba người trong căn hộ của SIS, và Barber đường đến. Trong giới quân , thông tin chỉ được truyền cho bốn vị tướng, ba người Mỹ và người .

      Tiến sĩ Terry Martin có hộ chiếu ngoại giao và sống rất tiện nghi trong ngôi nhà an toàn của SIS ở thôn quê, được trông coi bởi người trông nhà hiền lành và ba người được hiền lành cho lắm.

      Kể từ đó, tất cả các chiến dịch chống Iraq có quan hệ đến việc truy tìm, và tiêu diệt, thiết bị của Liên quân được đặt biệt danh Qubth-ut-Allah, hay Cú đấm của Thượng đê, có thể được tiến hành dưới vỏ bọc của những biện pháp tích cực được chỉ định để kết liễu chính Saddam Hussein, hay vì nguyên do có thể nào khác.

      Hai chủ định khác thực tế được tiến hành. Hai địa điểm được phát ở chỗ mà tổng thống Iraq có thể ở, ít nhất là đôi khi. ai có thể chính xác khi nào, đối với Rais chuyển đến biệt thự từ chỗ trốn của mình đến địa điểm trốn khi ông ta ở boong ke ở Baghdad.

      kiểm soát chung nhìn thấy hai địa điểm. là biệt thự ở thôn quê cách Baghdad 40 dặm, cái khác là ngôi nhà di động lớn được chuyển hoá thành chiếc xe chiến tranh và trung tâm lên kế hoạch.

      Trong cơ hội những người nhìn từ trung nhìn thấy các khẩu đội tên lửa di động và xe di chuyển đến địa điểm quanh biệt thự. máy bay của đội Eagle bay đến và thổi bay ngôi biệt thự. Đó là báo động nhầm - và con chim bay mất.

      Vào cơ hội thứ hai, hai ngày trước khi tháng Giêng kết thúc, chiếc xe lớn được nhìn thấy di chuyển đến vị trí mới. Lại lần nữa tấn công; và lại thêm lần nữa mục tiêu có ở đó.

      Ở cả hai cơ hội các phi công đều phải chịu những hiểm nguy cực lớn khi tấn công, bởi các tay súng Iraq bắn theo rất rát. thất bại trong việc kết liễu độc tài Iraq ở cả hai cơ hội khiến Liên quân mất ăn mất ngủ. Chỉ đơn giản là họ biết được các di chuyển chính xác của Saddam Hussein. Vấn đề là, ai biết được chúng, ngoài nhóm các vệ sĩ cá nhân được đến từ Amn-al-khass, được chính con trai của ông ta, Kusay chỉ huy.

      thực tế, ông ta luôn di chuyển. Mặc dù giả thuyết rằng Saddam ở trong boong ke của mình ở sâu dưới lòng đất trong hầu hết thời gian cuộc chiến, quả thực ông ở chỗ đó chỉ nửa thời gian mà thôi. Nhưng an toàn của ông ta được đảm bảo bởi hàng loạt những dấu vết giả. Nhiều lần ông ta bị "nhìn thấy" bởi những đội quân thân của ông ta, mỉa mai. Người mà các đội quân Iraq nhìn thấy trong tất cả những lần đó chỉ là người rất giống Saddam đóng giả nhưng chỉ những người thân cận nhất với ông ta mới biết được điều đó

      Những lần khác, các đoàn xe limousin, khoảng tá, quanh khắp Baghdad với cửa sổ đen ngòm, khiến cho dân cư nghĩ rằng Rais của họ ở trong xe. phải vậy; đó chẳng qua là cách trang trí. Khi ông ta di chuyển, đôi khi ông ta chỉ chiếc xe hơi thể nhận diện.

      Ngay cả giữa những người thân cận nhất của ông ta, các biện pháp an toàn cũng được sử dụng. Các thành viên Chính phủ được thông báo họp với ông ta có thể chỉ được báo trước có năm phút để rời khỏi nhà, lên xe, và theo người xe môtô đằng trước. Ngay cả khi đó, đích đến cũng phải là địa điểm họp.

      Họ có thể được dẫn đến xe buýt đỗ với cửa sổ đóng kín, thấy ở đó các bộ trưởng khác ngồi trong bóng tối. Có tấm chắn giữa các bộ trưởng và người tài xế. Ngay cả người lái xe cũng phải theo người của Amn-al-khass lái mô tô dẫn đến chỗ hẹn thực .

      Sau người lái, các bộ trưởng, tướng lĩnh, và cố vấn ngồi trong bóng tối giống như những cậu bé học trò trong chuyến di kỳ bí, bao giờ biết đâu, hoặc, sau đó, ở đâu.
      Phần lớn các trường hợp những cuộc họp như thế diễn ra trong các biệt thự rộng và biệt lập, được đặt trước cho ngày đó và được làm trống trước khi nửa đêm. nhiệm vụ đặc biệt của Amn-al-khass là tìm kiếm biệt thự khi Rais muốn họp, bắt những người chủ chỗ khác, và cho họ về nhà sau khi Rais từ lâu

      Chẳng khó hiểu tại sao Liên quân thể nào tìm thấy ông ta. Nhưng họ thử - cho đến tuần đầu tiên của tháng Hai. Sau đó, mọi ý định ám sát đều bị bỏ, và bên quân bao giờ biết tại sao.

      Chip Barber đến biệt thự người ở Riyadh ngay sau giữa trưa ngày cuối cùng tháng Giêng. Sau khi chào hỏi, bốn người ngồi xuống và chờ đến giờ có thể liên lạc với Martin, nếu còn ở đó.

      - Tôi cho là chúng ta có hạn cuối về việc này chứ?

      Laing hỏi. Barber gật đầu.

      - Ngày 12 tháng Hai. Norman Bão tố muốn đổ bộ vào đó ngày 12 tháng Giêng.

      Paxman huýt sáo. Hai mươi ngày, quái quỷ . Chú Sam liệu có chuyển ngày đó lại được ?

      - Có. Giám đốc ra lệnh giao cho Jericho triệu đôla đến ngay tài khoản của ta ngay lập tức, trong ngày hôm nay. Với địa điểm của thiết bị, hãy giả thuyết có và chỉ thôi, và chúng ta trả cho tên con hoang đó gấp năm lần.

      - Năm triệu đôla? Laing thốt lên. Chúa tôi, ai được trả nhiều tiền như thế cho thông tin hết cả!

      Barber nhún vai. Jencho, dù là ai chăng nữa, được xếp vào hàng đại phú rồi đấy. ta thích tiền, gì ngoài tiền. Thế cứ để ta kiếm chác. Đó là cái bẫy. Người Arập thế, chúng ta . Năm ngày sau khi ta nhận được lời báo, chúng tôi giọt từng nửa triệu mỗi ngày cho đến khi ta chỉ được địa điểm chính xác. Hẳn ta phải biết.
      Ba người lẩm bẩm rằng đó là tổng cộng tiền lương của tất cả họ cộng lại trong suốt đời.

      - Tốt. Laing nhận xét, điều này có thể làm ta phải ra đấy.

      Thông điệp được tạo ra vào buổi chiều và tối. Đầu tiên, liên lạc nối được với Martin, người có thể phải khẳng định với mật mã mới những từ có rằng vẫn ở đó và vẫn chưa bị tóm. Rồi Riyadh có thể ta về món quà cho Jericho, cách chi tiết, và cho hiểu tình thế bây giờ gấp đến mức nào rồi.

      Những người đó ăn cách chán ngán, thấy thức ăn dở, bị gánh nặng phải đối mặt với áp suất trong phòng. Mười giờ rưỡi Simon Paxman vào phòng radio với những người khác và thông điệp được đưa vào máy. Đoạn được tăng tốc hai trăm lần và biến thành chỉ còn hai giây. Vào 11 giờ 15 quá 10 giây, kỹ sư trưởng của radio gửi tín hiệu ngắn gọn - có nghĩa " có ở đó ". Ba phút sau. có tiếng động nghe như rất tĩnh. Chiếc dĩa vệ tinh bắt được nó, và khi bật chậm lại, năm người nghe thấy giọng của Mike Martin: "Râu Đen gửi Núi Đá. nhận. Hết."

      Cả niềm vui bùng nổ trong ngôi biệt thự ở Riyadh, bốn người đàn ông trưởng thành nhảy lên lưng nhau như những cổ động viên bóng đá ăn mừng khi đội của mình thắng trong giải Super Bowl.
      Ai chưa từng ở tình cảnh đó hẳn khó hình dung cảm giác khi được biết " người trong số chúng ta" vẫn còn ở đó sau đường dây, bằng cách nào đó vẫn sống và an toàn.

      - ta ngồi ở đó mười bốn ngày chó chết, Barber cảm kích. Thế quái nào mà ta lại ngu ngốc rời khỏi đó khi được báo tin nhỉ?

      - Bởi vì ta quả là tay cứng đầu, Laing lẩm bẩm.

      - Chỉ là quá tốt mà thôi.

      Người trực điện đàm kém phấn khích hơn gửi bản câu hỏi vắn tắt khác. ta muốn năm từ để khẳng định - thậm chí cả khi người đọc tin với ta giọng bắt được. quả là của Martin - vị chỉ huy SAS vẫn bắt phải kiểm tra kỹ.

      Mười bốn ngày còn hơn là kỳ nghỉ cho người.

      Thông điệp của ta từ Baghdad ngắn hết mức có thể. "Của Nelson và bắc, tôi lại. của Nelson và bắc. Ra."

      Ba phút nữa trôi qua. Ở Baghdad, Martin nằm bò sàn nhà trong cái bao của mình trong góc vườn nhà Bí thư thứ nhất Kulikov, bắt được thanh, trả lời, ấn nút tăng tốc, và gửi đoạn phần mười giây đến thủ đô Xêut.

      Những người bên kia nghe "Hát ngày chói lọi biết". Người trực nhăn nhở cười.

      - Chính là ta đấy, thưa ngài, còn sống hoạt bát và tự do.

      - bài thơ đấy à? Barber hỏi.

      - Câu đúng là, Laing , Hát ngày vinh quang biết.

      Nếu ta đọc đúng, tức là ta với họng súng dí vào thái dương. Trong trường hợp đó... ông nhún vai. Người trực gửi thông điệp cuối cùng, thông điệp thực , và đóng lại. Barber với chiếc cặp tài liệu của mình.

      - Tôi biết có thể đúng lắm với thể thức ở đây, nhưng cuộc đời ngoại giao có số ưu tiên nhất định.

      - Tôi , Gray , Dom Pengnon. Ông có nghĩ Langley có thể trả tiền ?

      -Langley, Barber , vừa mới bỏ năm triệu đôla giấy xanh vào trong bàn đánh bạc. Tôi cho rằng có thể cho người của các ông chai sâm banh đấy.

      - Tuyệt , Paxman .

      tuần trôi qua với chuyển hoá bên trong Edith Hardenberg - tuần, nghĩa là, và những hiệu ứng . Với khuyến khích nhàng của Karim bộ tóc mới ở Grinzing, người thả xoà tóc xuống, cắt nó và làm đẹp cho nó, phủ xuống đến cằm, nên nó rơi xuống trước mặt , điền vào những nét hẹp và cho quyến rũ chín muồi hơn.

      Người của chọn loạt những đồ trang sức với đồng ý rụt rè của ; có gì lố lăng, chỉ là bút kẻ mắt, kem dưỡng da, ít phấn, và vệt son môi ở miệng.

      Ở ngân hàng, Wolfgang Gemuetlich cảm thấy khó chịu, ngầm nhìn ngang qua gian phòng, giờ cao hơn với đôi giày cao gót inch. Thậm chí phải giày cao gót hay tóc hay đồ trang sức làm ông khó chịu, dù ông thẳng thắn cấm chúng. Gemuetlich còn gợi lên ý tưởng khác nữa. Điều làm ông ta quấy động nhất trong cung cách của , cảm giác tự tin khi đứng trước ông ta với những bức thư để ký hay để đọc lại.

      Dĩ nhiên ông biết điều xảy ra. trong số những điên rồ ở tầng dưới thuyết phục tiêu nhiều tiền hơn. Đó là chìa khoá của tất cả, tiêu tiền. Điều này luôn luôn, theo kinh nghiệm của ông ta, dẫn đến chỗ thảm hoạ, và ông ta e sợ kết cục xấu nhất.

      rụt rè bản chất của chưa hoàn toàn tan biến, và trong ngân hàng vẫn giữ nguyên giọng cũng như trong cung cách. Nhưng khi có mặt Karim, khi họ ở lại mình với nhau, thường xuyên tự làm đỏm với khả năng của mình. Trong suốt hai mươi năm những thứ vật chất là quá kinh tởm với , và giờ đây giống như lữ khách trong chuyến với khám phá chậm và tuyệt vời, nửa lo sợ hãi hùng, nửa tò mò kích thích. Thế là đương của họ - thoạt tiên hoàn toàn là đơn phương - trở nên có tính khám phá và từ cả đôi bên. Thời gian đầu chạm vào ta "ở dưới đó", nghĩ chết vì sốc và ngượng, nhưng ngạc nhiên thấy vẫn còn tiếp tục sống được.

      Vào buổi tối ngày ba tháng Hai mang về nhà cho cái hộp gói bằng giấy gói quà với ruy băng.

      - Karim, phải làm những việc như thế đâu. tiêu nhiều tiền quá đấy.

      ôm vào lòng và vuốt tóc . học được cách thích điều này khi làm vậy.

      - Xem này, em thân , cha giàu có. ông cho nhiều tiền. Liệu em có thích tiêu nó vào các hộp đêm nào?

      cũng thích khi vuốt ve . Dĩ nhiên, Karim bao giờ có thể đến những chỗ kinh tởm như thế. Thế là nhận những lọ nước hoa và đồ trang điểm mà, chỉ mới hai tuần trước thôi, còn nghĩ mình bao giờ chạm vào.

      - Em có mở được ? hỏi.

      - chính nó ở đây là để em mở mà.

      Đầu tiên hiểu chúng là gì. Bên trong của cái hộp như là lớp lụa và dây và màu sắc. Khi hiểu ra, bởi vì xem quảng cáo các tạp chí - phải loại mà mua, dĩ nhiên - mặt trở nên đỏ bừng.

      - Karim, em thể đâu. Em thể đâu.

      - Có chứ, em có thể mà, , và cười. Hãy thử chúng , em . Hãy vào phòng ngủ và mặc thử chúng xem. Đóng cửa phòng vào - nhìn trộm đâu.

      để những thứ đó lên giường và nhìn chằm chằm vào chúng. , Edith Hardenberg ư? bao giờ. Đó là những thứ tất dài và đồ nữ, quần lót các loại, và áo ngủ, đủ các màu đen, hồng, đỏ, kem, và be. Những cái buộc dây hoặc , những đồ lót mềm bằng lụa mà đó ngón tay cảm thấy như là chạm vào băng.

      ngồi mình trong phòng suốt tiếng đồng hồ trước khi mở cửa phòng trong bộ đồ ngủ. Karim đặt tách cà phê xuống, đứng lên. và tiến lại. nhìn xuống với nụ cười trìu mến vào bắt đầu cởi dây buộc bộ váy. lại thấy nóng bừng cả người và thể có được hứng khởi như . ngó lơ.

      để chiếc váy cởi dở.

      - Ồ em , em đa cảm quá.

      biết phải gì, chỉ biết quàng tay lên cổ , còn thấy hoảng sợ hay ghê tởm khi hông chạm vào vật cứng trong quần jean của .

      Khi họ làm tình xong, đứng lên và vào trong phòng tắm. Khi quay lại đứng sững và nhìn xuống . phần nào cơ thể . ngồi lên thành giường và lần đầu ngón tay xuống cái sẹo dọc theo bên cằm , cái mà có khi ngã từ nhà kính của vườn ươm của bố ở bên ngoài Amman.

      mở mắt, mỉm cười, và nâng khuôn mặt lên. ngậm lấy tay và luồn ngón tay xuống dưới, cho đến cái nhẫn ngón út của , cái nhẫn với màu phớt hồng mà mẹ cho .

      - Chúng ta làm gì tối nay? hỏi.

      - ăn , . Cửa hàng Sirk's ở Bristol.

      - thích steak quá nhỉ.

      trườn ra sau và nắm lấy đôi nhũ đào bé của dưới lần áo mỏng.

      - Đây là món steak mà thích đấy. cười.

      - Ngừng lại - kinh khủng đấy, Karim!, , em phải mặc quần áo.

      đẩy ra và liếc nhìn mình trong gương. Làm thế nào mà có thể thay đổi ghê gớm đến thế nhỉ? nghĩ. Bằng cách nào lại có thể mặc vào người đồ lanh như thế này? Rồi nhận ra vì sao. Đó là cho Karim, Karim của , người và người , có có thể làm bất cứ việc gì. Tình có thể chỉ đến vào lúc có tuổi, nhưng nó đến với sức mạnh của dòng thác chảy xuống từ núi cao.

      Mike Martin tìm thấy dấu phấn vào ngày 7 tháng Hai và nhận phong bì mỏng từ hòm thư chết cùng tối hôm đó. Ngay sau nửa đêm, dựng đĩa vệ tinh ra hướng về cửa ra vào của túp lều và đọc bản tin tiếng Arập trang duy nhất giấy nến thẳng vào máy ghi. Sau tiếng Arập, thêm vào bản dịch tiếng của mình và gửi thông tin vào lúc 0 giờ 16, phút sau vào cửa sổ của mình.

      Khi thông tin chạy qua và vệ tinh bắt được nó tại Riyadh, người trực đài làm nhiệm vụ kêu to lên:

      - ta đấy. Râu Đen trở lại rồi.

      Bốn người đàn ông ngủ trong phòng phụ chạy vào. Chiếc máy ghi to dùng dựa vào tường đọc chậm lại và giải mã thông điệp. Khi kỹ thuật viên ấn nút quay chậm, căn phòng đầy thanh của Martin đọc tiếng Arập. Paxman, với tiếng Arập tốt nhất, nghe được nửa chừng:

      - ta tìm thấy rồi. Jericho ta tìm thấy rồi.

      - Trật tự nào, Simon.

      Tiếng Arập ngừng lại, và đoạn tiếng bắt đầu. Khi giọng dừng lại và tắt , Barber đấm cú từ tay này vào tay kia đầy phấn khích.

      - Cậu bé, cậu làm được rồi. Các , các có thể cho tôi bản cái đó, ngay bây giờ ?

      Kỹ thuật viên chạy lại băng, cắm tai nghe vào, quay máy chữ của mình, và bắt đầu gõ.

      Barber đến cái điện thoại trong phòng khách và gọi cho đại bản doanh ngầm dưới đất của CENTAF. Chỉ có người mà cần chuyện.

      Tướng Chuck Horner cần ngủ rất ít. ai khác trong các văn phòng Chỉ huy Liên quân dưới Bộ Quốc phòng Xêut của đại bản doanh CENTAF dưới toà nhà của lực Xêut đường Old Airport ngủ nhiều trong những tuần đó, nhưng tướng Horner là người ngủ ít nhất.
      Khi đội bay quý của ông bay và chao lượn tận bên trong lãnh thổ kẻ thù, ông hề cảm thấy có thể ngủ được. Khi chuyến bay được thực hai bốn giờ mỗi ngày, lại càng có ít thời gian để ngủ hơn.

      Ông có thói quen dạo trong các văn phòng của toà nhà CENTAF vào lúc giữa đêm, từ chỗ các nhà phân tích của Hố Đen dọc đến Trung tâm Chiến thuật Bay. Nếu cú điện thoại kêu lên cách chờ đợi và ông ở gần đó, ông có thể trả lời được ngay. Nhiều sĩ quan lực thích đùa trong sa mạc, gọi về để hỏi điều gì đó, thấy mình được chuyện với chính ông chủ.

      Đó là thói quen dân chủ, nhưng nhiều khi mang lại bất ngờ. Trong lần chỉ huy đội bay, người phải giữ bí mật tên, gọi để than phiền rằng các phi công của ta chạy trong đêm chiếc máy A ba lần đường đến mục tiêu của mình. Liệu các tay súng Iraq có thể bị quét sạch bởi chuyến thăm từ các máy bay ném bom nặng được , hở Buff?
      Tướng Horner với viên trung tá rằng điều đó là thể được - các Buff đều được trao nhiệm vụ đầy đủ. Người chỉ huy đội bay ở bên ngoài sa mạc phản đối, nhưng câu trả lời vẫn giữ. nguyên. Tốt, viên trung tá , trong trường hợp đó ông có thể bú tôi .

      Rất ít sĩ quan có thể với vị tướng toàn quyền làm điều đó và làm điều đó. Việc này lên rất nhiều phương pháp của Chuck Horner với các đội bay của mình, hai tuần sau người chỉ huy đội bay đó được thăng vượt cấp lên tướng.

      Chính theo cách này mà Chip Barber tìm thấy Horner đêm đó, ngay trước khi giờ đêm; ông gặp vị tướng trong văn phòng riêng ở toà nhà dưới lòng đất 40 phút sau đó.

      Vị tướng đọc bản viết bằng tiếng từ nhóm ở Riyadh. Barber sử dụng máy chữ để đánh dấu số phần - trông nó còn giọng thông tin điện đàm nữa.

      - Cái thông tin khác này của diễn giải của là từ các cuộc phỏng vấn các doanh nhân ở châu Âu đấy hả? ông châm biếm hỏi.

      - Chúng tôi tin thông tin này là chính xác, thưa tướng quân.

      Horner nhăn mặt. Cũng giống như những chiến binh khác, ông có ít thời gian cho thế giới giả trang. Còn hơn thế. Nguyên nhân đơn giản. Chiến đấu được dành cho tìm kiếm lạc quan - lạc quan tếu cũng có thể, nhưng tuy nhiên vẫn là lạc quan hoặc ai có thể dự phần vào đó. Thế giới tình báo được dành cho giả thuyết bi quan. Hai triết lý có rất ít điểm chung, và thậm chí ở bước đó của cuộc chiến lực Mỹ trở nên ngày càng sôi mấu bởi những gợi ý nhắc nhắc lại của CIA rằng nó phá huỷ được ít mục tiêu hơn là tưởng.

      - Và có thể cho rằng là mục tiêu gắn với đó tôi nghĩ? Vị tướng hỏi.

      - Chúng tôi chỉ tin nó là rất quan trọng, thưa ngài.

      - Tốt, điều thứ nhất, thưa ngài Barber, chúng tôi xem xét mẹ kiếp, vấn đề này.

      Lần này chiếc TR-1 ra ngoài Taif để thực những chiến công hiển hách. phiên bản được nâng cấp của U-2 đời cũ TR- 1 được sử dụng như loại máy thu thập thông tin đa chức năng, có khả năng bay Iraq mà bị nhìn thấy và nghe thấy, sử dụng công nghệ của mình để nằm sâu vào trong hàng phòng thủ cùng với rađa tưởng tượng ra và nghe ngóng trang thiết bị. Nhưng nó vẫn có các camera và đôi khi vẫn được sử dụng phải để chụp ảnh cỡ lớn mà chỉ cho nhiệm vụ bí bé nào đó. Nhiệm vụ chụp ảnh địa điểm chỉ dược biết tên là Al Qubai là đặc vụ bé như ai đó có thể đoán ra.

      lý do thứ hai để chọn TR- 1 : Nó có thể chuyển các bức ảnh của mình vào thời điểm thực . chờ phải trở về. truyền tải TARPS, rửa phim, và đưa thẳng về Riyadh. Khi chiếc TR-l thám tiễu đường sa mạc được định vị phía tây Baghdad và nam căn cứ quân Al-Muhammadi, các hình ảnh nó thấy đến thẳng màn hình vô tuyến trong căn cứ của đại bản doanh nằm ở lực Xêut.

      Có năm người đàn ông ở trong phòng, gồm kỹ thuật viên vận hành màn hình và là người có thể. theo lệnh từ trong số bốn người kia, lệnh cho máy tính giữ lại khung hình và in ra ngay lập tức để nghiên cứu.
      Chip Barber và Steve Laing ở đó, hiền dịu trong bộ đồ dân ở thánh địa của khí tài quân đó; hai người còn lại là đại tá Beatty của USAF và chỉ huy đội bay Joe Peck của RAF, cả hai đều là chuyên gia về phân tích mục tiêu.

      Lý do sử dụng Al Qubai chỉ đơn giản là nó gần mục tiêu hơn chỉ vì nó quá bé để có thể ra các bản đồ của họ, nó là điểm tham chiếu kèm và miêu tả rất quan trọng đối với các nhà phân tích.
      Chiếc TR-l tìm ra nó cách vài dặm điểm tham chiếu do Jericho gửi, nhưng ở đó vấn đề gì rằng miêu tả chính xác, và ở đó hề có địa điểm nào gần đó từ xa hợp với miêu tả.
      Bốn người nhìn vào mục tiêu dần ra, lưu lại khung hình đẹp nhất, và giữ lại. Máy in ra bản để nghiên cứu.

      - Ớ dưới này chăng? Laing thở hổn hển

      - Hẳn là thế rồi, đại tá Beatty . chẳng có gì khác giống thế trong hàng dặm xung quanh hết cả.

      - Chấy rận , Peck .

      Al Qubai thực tế là nhà máy chế tạo nguyên tử cho chương trình nguyên tử toàn Iraq của tiến sĩ Jaafar Al- Jaafar.

      kỹ sư nguyên tử người lần nhận xét rằng đội cùng làm của ta là "l0% thiên tài và 90% ngu ngốc". Thậm chí còn có phần hơn thế. Nhà máy chế tạo là nơi đội đó tạo ra sản phẩm của các nhà vật lý, các tính toán của các nhà toán học và các máy tính, và các kết quả của các nhà hoá học và tổng hợp tất cả lại để thành sản phẩm cuối cùng, chính các kỹ sư nguyên tử thực làm cho thiết bị trở thành linh kiện kim loại có thể di chuyển được.

      Iraq chôn nhà máy Al Qubai của mình hoàn toàn dưới sa mạc, sâu tới 80 fít, và đó chính là độ cao của mái. Bên dưới, 3 tầng xưởng chạy sâu xuống dưới. Điều khiến chỉ huy Đội Peck phải thốt lên chấy rận " là kỹ năng với nó nhà máy được nguỵ trang.
      khó lắm để xây dựng cả nhà máy ở dưới lòng đất, nhưng nguỵ trang nó lại gặp phải những vấn đề lớn. khi nó được xây dựng trong cái hố khổng lồ của mình, cát có thể làm hình những bức tường thép và mái trừ khi toà nhà được xoá sạch . Cho toà nhà chìm xuống dưới tầng thấp nhất có thể phải đối mặt với vấn đề nước thải.

      Nhưng nhà máy cần phải có điều hoà nhiệt độ; điều này đòi hỏi đưa vào máy lọc khí và kiểu máy to đùng - cả hai đầu ống đều phải tòi ra nền sa mạc. Nó cũng cần có rất nhiều năng lượng điện và do đó máy phát điện diesel mạnh. Nó cũng rất cần lắp đặt khí và bộ phận xả lại thêm hai ống nữa.
      Lại còn cần máy hoặc thang máy chở người và máy chở hàng để chuyên chở và lại cho nhân viên và dụng cụ - cấu trúc làm lộ lên mặt đất nữa. Những xe tải chuyên chở thể chạy nền cát mềm; nó cần có đường nền cứng, phải có nhựa đường chạy chí ít đường chính.

      Cũng phải có các máy khí nóng, sử dụng được trong ngày khi bên ngoài rất nóng, nhưng còn được như thế trong những đêm giá lạnh.

      Do đó làm cách nào có thể nguỵ trang khỏi giám sát từ trung vùng đất sa mạc trinh nguyên có chứa con đường trải nhựa có vẻ như chạy đến đâu, bốn cái ống chính, đường thang máy, điểm đến và cố định của các xe tải, và các máy sưởi thường xuyên sử dụng?
      Chính đại tá Osman Badri, thiên tài trẻ tuổi của Quân giới lraq, làm được điều đó; và giải pháp của ta làm điên tiết cả Liên quân với tất cả những máy bay do thám của mình.

      Từ trung, Al Qubai là cái sân di động chiều ngang 5 acre chiều dài 40 acre. Mặc các con mắt quan sát ở Riyadh, ngay cả với những dụng cụ tốt nhất, cũng thể nhìn thấy được nó, bốn trong số những cái xe vứt ngổn ngang - những vòm vững chắc với kim loại cuộn - dưới đó các ống được đưa ra ngoài khí hoặc được lọc khí qua các thân xe ôtô và xe tải gãy.

      Vùng chính, xưởng cán thép, với những cái thùng to bằng thép chứa ôxy và axêtylen được đặt cách bướng bỉnh bên ngoài, che giấu lối vào của các thang máy. tự nhiên của ngôi nhà ở chỗ như thế chứng tỏ nguồn khí ấm. Lý do khiến con đường vào bị nhìn thấy ràng - các xe tải chở những chiếc xe vứt đến đó rồi chở thép

      Toàn bộ hệ thống thực được nhìn thấy trước bởi AWACS, cái thông báo nhìn thấy khối lượng kim loại khổng lồ ngay giữa sa mạc. Liệu đó có phải là sư đoàn xe tăng? đập nước? chuyến bay do thám sớm được thực trả lời đó chỉ là bãi rác xe hơi, và mối quan tâm liền bị bỏ qua.

      Cái mà bốn người đàn ông ở Riyadh cũng thể nhìn thấy là bốn đống xác xe hơi khác cũng tạo nên những khung lớn, bên trong được tạo thành hình vòm, nhưng với các ống thuỷ lợi bên dưới chúng. Hai trong số chúng có chứa các khẩu đội pháo phóng hoả lực mạnh, nòng ZSU-23-4 của Nga với nhiều phát bắn; cái khác là hai SAM, đời 6,8,và 9, phải do rađa hướng lối mà là kiểu dò tìm bằng sức nóng hơn đĩa rađa có thể hướng được lối.

      - Vậy nó phải ở dưới đó, Beatty thầm.

      Họ nhìn thấy cả xe tải dài kéo các xác xe hơi cũ kéo . Nó có vẻ di chuyển trong những lối , bởi vì TR-l, bay 80 nghìn fít phía Al Qubai, chạy qua vẫn các khung hình đó ở tỉ lệ nhiều giây. Phấn khích, hai sĩ quan tình báo nhìn cho đến khi chiếc xe tải lại quay trở về địa điểm cũ.

      - Cá là đồ ăn, nước uống, và đồ tiếp tế đều ở dưới các xác xe hơi đấy, Beatty . ông ngồi xuống. Vấn để phức tạp là, chúng ta bao giờ đến được cái nhà máy thối tha đó. Ngay cả khi các Buff có thể ném bom đạt đến độ sâu đó.

    2. Nữ Lâm

      Nữ Lâm Well-Known Member

      Bài viết:
      23,871
      Được thích:
      22,185
      - Chúng ta có thể phong toả chúng, Peck . Phá vỡ đường vào ra, cố định chúng ở trong đó. Rồi nếu chúng thử cố các biện pháp cứu chữa để phá vây, chúng ta bắn chúng tung xác.

      - Nghe hay đấy, Beatty đồng ý. Thế phải mất mấy ngày nữa mới tới ngày đổ bộ?

      - Mười hai, Barber .

      - Chúng ta có thể làm được điều đó. Độ cao, laser dẫn lối, nhiều máy bay, chiếc gorilla.

      Laing ném sang Barber cái liếc xéo cảnh báo.

      - Chúng tôi thích cái gì đó kín đáo hơn chút Barber . cuộc tiễu trừ hai chiếc, độ cao thấp, xác nhận bằng mắt thường phá huỷ.
      im lặng bao trùm.

      - Người của cố chúng ta điều gì đó à? Beatty hỏi.

      - Baghdađ được phép biết là chúng ta quan tâm

      - Thế có thể làm như thế được ? Laing gợi ý. Có vẻ như là chẳng có phòng thủ gì cả đâu. Chìa khoá ở đây là nguỵ trang thôi mà.
      Beatty gật đầu. Mẹ kiếp bọn này chứ, ông nghĩ. Họ cố bảo vệ ai đó đây mà. Tốt thôi, chẳng phải việc của ta. - nghĩ gì thế hả Joe? ông hỏi vị chỉ huy đội bay.

      - Các Tornado có thể làm được việc này, Joe Peck , cùng với các Buccaneer hướng mục tiêu cho chúng. Sáu quả bom nghìn pound rơi đúng vào cửa của chỗ đó. Tôi cá cửa đó được gia cố ở bên trong đó. Có thể khó phá.

      Beatty gật đầu.

      - Tốt rồi, người của làm việc đó. Tôi lại với tướng Horner. thích sử dụng ai hả Joe?

      - Đội 6, à 8, ở Maharraq. Tôi biết viên sĩ quan, Phil Curzon. Tôi gọi ta đến đây nhé?

      Chỉ huy bay Philip Curzon chỉ huy mười hai trong số những chiếc Tornado Panavia của lực Hoàng gia trong Đội 608, đảo Bahrain, nơi họ đến hai tháng trước từ căn cứ của mình ở Laarbruck, Đức. Ngay sau buổi trưa ngày hôm đó mồng tám tháng Hai, ta nhận được lệnh được chối từ: ngay lập tức về trung tâm CENTAF ở Riyadh. Độ khẩn cấp lớn đến nỗi vào thời điểm biết được thông điệp, người sĩ quan cấp báo cáo rằng chiếc Beach King phải từ Shakey's Pizza ở bề bên kia đảo đỗ xuống và đỗ đó chờ đón ta. Khi ta lên được chiếc Beach King sau khi vơ vội quân phục, ta phát chiếc máy bay hai động cơ là thuộc về đích thân tướng Horner.

      - Cái quái gì xảy ra đây? chỉ huy bay tự hỏi, rất băn khoăn.

      Tại căn cứ quân Riyadh chiếc ôtô chở người của USAF đợi để mang ta dặm khỏi đường Sân Bay Cũ để đến Hố Đen.

      Bốn người ở trong phòng họp để xem các bức ảnh do chiếc TR-l gửi về vào 10 giờ sáng vẫn còn ở đó. Chỉ thiếu người kỹ thuật viên. Họ cần có thêm ảnh nữa. Những cái họ có được trải rộng mặt bàn. Chỉ huy đội Peck dẫn giải.

      Steve Laing giải thích điều họ cần, và Curzon kiểm tra các bức ảnh.

      Philip Curzon hoàn toàn điên, hoặc là ta chưa từng chỉ huy phi đội bay của những chiếc máy bay ném bom vô cùng đắt giá của Nữ Hoàng. Trong các phi vụ ít quan trọng trước với những quả bom JP-233 chống các địa điểm sân bay của Iraq; hai người biết chết. Hai người khác bị dẫn lôi , bị đánh và hành hạ, TV Iraq, trong số các kiệt tác của PR của Saddam.

      - Tại sao đưa mục tiêu này vào danh mục Nhiệm vụ quân, giống như mọi cái khác? trầm ngâm hỏi. Tại sao phải vội thế?

      - Hãy để tôi thẳng thắn với , Laing . Chúng tôi giờ đây biết được mục tiêu này là chứa đựng cái chính yếu của Saddam và có thể chỉ chứa những đầu đạn khí độc rất nguy hiểm. ràng là các kho dần được chuyển ra ngoài mặt trận. Vì thế cần phải rất khẩn trương.

      Beatty và Peck gật gù. Đó là lời giải thích đầu tiên họ nhận được cho mối quan tâm quá đáng vào cái nhà máy nằm dưới cái bãi rác.

      - Nhưng mà hai máy bay tấn công thôi à? Curzon vẫn khăng khăng. Chỉ có hai? Như thế làm cho nó trở thành nhiệm vụ hết sức quan trọng. Tôi thế nào với người của tôi đây? Tôi dối họ đâu, thưa các ngài. Xin hãy thẳng thắn ra .

      - cần đâu, Laing . Chỉ cần với họ mà thôi. Rằng kiểm soát từ nhận ra các chuyển động của xe tải đến và khỏi địa điểm. Các nhà phân tích tin rằng đó là các xe tải quân , và họ đến kết luận rằng cái có vẻ vô hại đó che giấu đống những thứ kinh tởm - đặc biệt là bên trong cái tảng khổng lồ trung tâm đó. Do vậy nó trở thành mục tiêu. Và còn với điệp vụ ít quan trọng, có thể thấy là có tên lửa, có loại A đâu.

      - Và đó là chứ? Viên chỉ huy bay hỏi.

      - Tôi thề mà.

      - Thế tại sao, thưa các ngài, chủ định thế rằng nếu bất kỳ ai trong số người của tôi bị bắn hạ và bị thẩm vấn, Baghdad có thể moi được thông tin từ đó? Các tin câu chuyện xe tải quân cũng như tôi vậy đâu.

      Đại tá Beatty và chỉ huy bay Peck ngồi xuống. Người này quả thực khó chơi. tốt.

      - với ta , Chip, Laing chào thua .

      - Tốt thôi, chỉ huy bay, tôi với vậy. Nhưng chỉ là cho riêng thôi đấy nhé. Phần còn lại là hoàn toàn đúng. Chúng tôi có tay trong. Trong đó. Vào trước chiến tranh như là sinh viên sau đại học. Bây giờ ta say mê Mỹ và muốn ở lại trong đó. Trong các cuộc phỏng vấn với người di cư, số điều xảy đến. người phỏng vấn thông minh chuyển ta cho chúng tôi.

      - CIA phải ? Curzon hỏi.

      - Phải, đúng là CIA. Chúng tôi trò chuyện với chàng trai. ta có thẻ xanh, cứu chúng tôi. Khi ta còn ở Iraq, trong Đội Công binh, ta làm việc với số dự án bí mật. Giờ ta hết chúng ra. Nên chúng tôi biết được. Nhưng nó là tuyệt mật đấy. Nó phải là sau nhiệm vụ, và phải là dối nếu với người của chuyện đó - nếu chẳng may, thể làm.

      - Câu hỏi cuối cùng nhé, Curzon hỏi. Nếu người đó an toàn trong đó, tại sao lại cần chơi đểu Baghdad cú như thế?

      - Còn có những mục tiêu khác ta hở cho chúng tôi nữa cơ. Mất thời gian, nhưng chúng tôi có thể có được 20 mục tiêu nóng sốt nhờ ta. Chúng tôi báo động Baghdad rằng ta hót như con chim yến, họ rời các chỗ đó trong đêm rồi. Họ còn có thể thêm vào hai cái nữa, cũng biết đấy.

      Philip Curzon đứng dậy và nhặt những bức ảnh lên. Mỗi cái đều có điểm tham chiếu chính xác bản đồ để kế bên.

      - Tốt rồi. Rạng sáng ngày mai. Điểm này ngừng tồn tại. Rồi ta . chuyến bay trở về ta mải mê nghĩ về nhiệm vụ. Cái gì đó bên trong với ta rằng mình bị lừa dối thảm hại. Nhưng những lời giải thích hoàn toàn có thể chấp nhận, và ta nhận lệnh. thể dối, nhưng bị cấm để lộ bất cứ gì. Phần tốt đẹp là, mục tiêu được đặt ở chỗ trống, có bảo vệ. Người của ta có thể đến và về gặp gì trắc trở. biết người có thể thực cuộc tấn công đó.

      Chỉ huy bay Lofty Williamson sung sướng lắc lư trong cái ghế trong ánh mặt trời buổi chiều khi tiếng chuông điện thoại vang lên. ta đọc số mới nhất của tạp chí lực Thế giới, kinh thánh của phi công chiến đấu, và buồn chán đến chết bài báo đầy chất mệnh lệnh về trong số những máy bay thả bom của Iraq có thể phải lao vào.

      Chỉ huy đội bay ở trong văn phòng của mình, những bức ảnh bày ra trước mặt. Trong giờ đồng hồ trình bày ngắn gọn với thượng cấp của mình điều họ cần.

      - có hai chiếc Buck để đánh dấu mục tiêu cho , nên cần chuồn lẹ khỏi đó trước khi quỷ biết được điều gì xảy ra.

      Williamson tìm thấy hoa tiêu của mình, người ngồi ở băng ghế sau mà người Mỹ gọi là wizzo, người giờ đây làm nhiều việc hơn chỉ là dẫn đường, chịu trách nhiệm các đồ điện tử và các hệ thống vũ khí. Trung uý bay Sid Blair nổi tiếng với khả năng tìm thấy được cái vỏ lon sa mạc Sahara nếu cần phải ném bom.

      Giữa họ, với trợ giúp của những người của Chiến dịch, họ đánh dấu bản đồ mục tiêu của phi vụ. Địa điểm chính xác của cái bãi rác được tìm thấy, từ chỗ tham chiếu của nó các bản đồ bay.

      Viên phi công phàn nàn ta muốn tấn công từ phía đông vào đúng lúc mặt trời lên, để nếu có tay súng Iraq nào có thể giương súng lên trong mắt họ trong khi ta, Williamson, có thể nhìn thấy mục tiêu với độ chính xác cao.

      Blair nhấn mạnh ta muốn "stone bonker", vị trí thể nhầm lẫn dọc theo đó ta có thể có được những điều chỉnh là phút cuối cùng trong cuộc của ta. Họ tìm thấy hơn dặm ngược lại khỏi mục tiêu trong hướng lệch sang đông - làn sóng điện đàm chính xác đúng dặm từ chỗ đó.

      Đến nơi vào lúc bình minh cho họ Thời điểm Mục tiêu cốt tử hay TOT, mà họ cần. Lý do TOT phải được làm theo đến từng giây là vì độ chính xác này quyết định khác biệt giữa thành công và thất bại. Nếu phi công thứ nhất bị chậm dù chỉ giây, phi công thứ hai có thể theo đúng chính xác chỗ những quả bom của đồng nghiệp mình nổ; tệ hại hơn thế, phi công thứ nhất chiếc Tornado đến vào sau ta vào gần 10 dặm phút - phải dấu hiệu hay. Cuối cùng, nếu phi công thứ nhất vào quá sớm hoặc phi công thứ hai vào quá muộn, các tay súng có thời gian để tỉnh giấc, hướng nòng súng của họ lên, và nhắm bắn họ. Do đó những người bay thế phải vào đúng khi có vụ nổ bùng lên dưới đất.

      Williamson mang theo người bay cùng mình và hoa tiêu thứ hai, hai trung uý bay trẻ tuổi, Peter Johns và Nicky Tyne. Thời điểm chính xác khi mặt trời lên dãy đồi thấp ở phía đông mục tiêu được nhất trí là 7 giờ 8 phút, và cuộc tấn công trực chỉ vào 270 độ tây.

      Hai chiếc Buccaneer từ Đội số 12, cũng đóng ở Maharraq, được chỉ định. Willamson có thể dựa vào các phi công ở đó trong buổi sáng. Các khẩu pháo được hướng về để cung cấp ba quả bom nghìn pound trang bị các mũi laser hướng dẫn PAVEWAY cho mỗi chiếc Tornado. Vào tám giờ tối đó, bốn người trong đội ăn và ngủ, với đồng hồ đặt chuông chỉ 3 giờ sáng.

      Vẫn còn tối om khi người trong đội bay chiếc xe tải đến những khu phố còn say ngủ của đội số 608 để mang bốn người lên chỗ bay.

      Nếu những người Mỹ ở Al Kharz cày dưới canvas, những người đóng ở Bahrain vẫn còn vui vẻ với những tiện nghi cuộc sống dân . số đóng trong những căn phòng hai người ở khách sạn Sheraton. Những người khác trong những khu độc thân xây bằng gạch gần căn cứ quân. Thức ăn rất tuyệt, đồ uống sẵn sàng, và đơn tệ hại nhất của đời lính chiến được giảm bớt bằng có mặt của 300 nữ phục vụ bay huấn luyện trong trường huấn luyện của quân vùng Vịnh.

      Những chiếc Buccaneer được đưa ra ngoài Vịnh chỉ tuần trước đó, đầu tiên được được muốn. Kể từ đó, chúng thể hơn cả giá trị của mình. Về bản chất là những chiếc đánh ngầm dưới nước, các Buck quen hơn với việc chìm sâu dưới nước của Biển Bắc tìm kiếm những quả thuỷ lôi của Xô viết, nhưng hề để ý đến sa mạc.

      Khả năng đặc biệt của chúng là bay thấp, và mặt dù chúng là những chiến binh già tới 30 tuổi, chúng được biết đến, trong những cuộc tập trận chung với USAF ở Trường Bay quân ở Miramar, California, để tấn công nhanh hơn rất nhiều những máy bay chiến đấu của Mỹ chỉ đơn giản bởi "ăn bẩn" - bay thấp đến nỗi trở nên thể bị theo dọc theo các mô đấtt và ụ đất của sa mạc.

      đối nghịch trong nội bộ lực có cái mà những người Mỹ thích bay thấp và dưới 500 fít cố thấp hơn nữa, vì lực Hoàng gia thích điều đó và 100 fít thể được nữa. thực tế, cả hai chiếc đều bay thấp hoặc cao, nhưng những chiếc Buck, siêu nhưng được chế tạo cách tuyệt diệu, cho thấy chúng có thể xuống thấp hơn bất kỳ ai mà vẫn sống sót được.

      Lý do xuất của chúng ở vùng Vịnh là những thất bại ban đầu của những chiếc Tornado, ở những phi vụ thấp kỷ lục làm việc mình, những chiếc Tornado phải ném bom rồi sau đó theo chúng mọi cách thức đến được mục tiêu, ngay vào trung tâm của hình tam giác chữ A. Nhưng khi chúng và những chiếc Bucaneer làm chung với nhau, bom của Tornado với mũi gắn PAVEWAY, trong khi những chiếc Buck có thiết bị truyền

      laser, được gọi là PAVESPIKE. Lái bên và bên dưới chiếc Tornado, chiếc Buck có thể "đánh dấu mục tiêu, để chiếc Tornado định vụ bom và sau đó thổi tung tất cả.
      Hơn thế nữa, hệ thống PAVESPIKE của Buck được chứa trong cái hộp hình ống chắc chắn ở bụng mình, bằng cách đó nó cũng có thể quay và vẫy, trong khi vẫn giữ tia laser thẳng vào mục tiêu cho đến khi bom đến và thổi .

      Trong buồng lái, Williamson và hai phi công Buck đồng ý thiết lập IP của họ - tức là Điểm Đầu tiên, khởi điểm của bom - ở 12 dặm về phía đông của địa điểm cần ném bom. Rồi họ thay đồ bay. Như thường lệ, họ đến trong bộ đồ thường phục; ở Bahrain có quá nhiều dấu hiệu quân đường phố có thể đánh động người dân sở tại.

      Khi họ thay đồ xong, Wilhamson với tư cách chỉ huy phi vụ điền vào báo cáo. Vẫn còn hai giờ nữa mới đến lúc cất cánh. Những phi công của chiếc "scramble" 32 của Thế chiến hai còn nhiều thời gian. Vẫn còn đủ để uống cà phê và bước sang bước tiếp theo của các chuẩn bị. Mỗi người cầm súng tay lên, khẩu Walther PPK đều được lắp đạn, cần đến nếu cuộc tấn công trong sa mạc cần bắn vào cái đầu Iraq nào đó và hy vọng xử lý được bằng cách này.

      Họ cũng rút 1000 bảng của mình bằng đồng tiền vàng và "goolie chít". Tài liệu đáng chú ý này lần đầu được người Mỹ đưa vào sử dụng ở Chiến tranh vùng Vịnh, nhưng người , người bay chiến đấu trong khu vực này kể từ những năm 1920, hiểu chúng. goolie chít là thư bằng tiếng Arập và sáu thứ tiếng phương ngữ Bedouin. Nó rằng "Kính thưa ngài Bedou, người cầm lá thư này là sĩ quan người . Nếu ngài đưa ta về với đội tuần tra gần nhất của , với an toàn tuyệt đối của ta, ngài được thưởng 5000 bảng bằng vàng". Đôi khi cách đó cũng được việc.

      Các bộ quân phục bay được trang bị ở vai miếng kim loại để có thể được nhìn thấy bởi các đội tìm kiếm của Liên quân nếu phi công bị rơi xuống sa mạc.

      Sau khi uống cà phê là đến lúc khử trùng - đến nỗi ghê gớm như nghe qua. Mọi thứ nhẫn, thuốc lá, bật lửa và ảnh gia đình đều bị thu lại, mọi thứ có thể cung cấp cho người tra hỏi thứ cá tính của tù binh. Việc tìm kiếm này được thực bởi WAAF đáng sợ tên là Pamela Smith - đội bay cho rằng đó là phần hay ho nhất của phi vụ, và các phi công trẻ hơn sẵn sàng giấu những thứ có giá nhất của mình ở những chỗ

      đáng kinh ngạc để xem Pamela có tìm ra . may mắn, từng là y tá và chấp nhận cái trò đùa nhảm gì này với vui vẻ bình thản.

      giờ trước khi cất cánh. số người ăn, số thể, số gấp chăn, số uống cà phê và hy vọng bị chơi bất thình lình đường làm phi vụ, số người khác mặc kệ.

      Chiếc xe bus chở tám người đến chỗ, được chuẩn bị đầy đủ trang thiết bị, vũ khí. Mỗi phi công quanh chỗ mình, tìm xem theo nghi lễ tiền cất cánh. Cuối cùng họ trèob lên khoang lái. Nhiệm vụ đầu tiên là ngồi yên, chắc, và nối với điện đàm nhanh do đó có thể được. Rồi APU - đơn vị trợ lực lắp mọi thứ đồ đạc dụng cụ nhảy.

      Wilhamson khởi động máy bên phải, cái bắt đầu rú lên chậm rãi, rồi bên trái. Đóng lại, bấm vào nút số , điểm chọn . Có dấu hiệu từ tháp, bấm vào nút cất cánh. Williamson liếc nhìn sang bên phải. Chiếc Tornado của Peter Johns ở sau và hơi chậm hơn, và bên dưới là hai chiếc Buccaneer. giơ tay lên. Ba cánh tay đeo găng tay màu trắng cũng giơ lên trả lời.

      Nhấn ga, đẩy đến mức năng lượng tối đa. Chiếc Tornado hơi chòng chành nhè . Qua cánh cửa để bay ra, giờ đây nó . lần giơ ngón cái lên cuối cùng và ba lời đáp lại. Thả phanh ra, trôi lên, lăn , nền đường ray ngày càng bị nghiến nhanh hơn nhanh hơn, và rồi chúng bị vượt, bốn cái trong đội, lao thẳng ra ngoài biển đen sẫm, những ánh đèn của Manama để lại đằng sau, chuẩn bị đường cho cuộc gặp gỡ với chiếc tiếp nhiên liệu đợi ở đâu đó biên giới giữa Xêut và Iraq.

      Wilhamson đẩy năng lượng lên mức cao và lượn vòng ở độ cao 12 nghìn fít. Với rađa, họ tìm thấy chiếc tiếp nhiên liệu trong bóng tối, rất gần, và cắm chiếc mũi tiếp nhiên liệu vào những chiếc máy bay. Khi được đổ đầy nhiên liệu, cả bốn chiếc lại quay và lao về hướng sa mạc.

      Williamson nâng độ của mình lên f00 rít, lập cruise tối đa 480 knot, và lao thẳng vào Iraq. bay với trợ sức của TIALD, hình ảnh Nhiệt và Chỉ định Ijaser, là tương đương của với hệ thống LANTIRN. Thấp dưới sa mạc đen sẫm, các phi công có thể nhìn thấy mọi thứ đến với mình, các tảng đá, bụi cây, mưa, đồi, khi chúng đến gần.

      Ngay trước khi mặt trời mọc, họ quay IP của mình đến chế độ sẵn sàng thả bom. Sid Blair nhìn vào màn hình điện đàm và với phi công của mình chỉnh lộ trình độ. Williamson chỉnh lại độ thả bom đến độ tự động và liếc xéo về màn hình trước mặt, nó chạy hàng dặm và hàng giây đến mục tiêu thả. hạ xuống 100 fít, nền đất phẳng và giữ nguyên như thế. Ở nơi nào đó bên dưới , người bay cùng cũng làm giống hết. Thời gian Mục tiêu chính xác.

      nhấn nút thả và giữ tốc độ tấn công ở 540 knot. Mặt trời chiếu lên những quả đồi, những sợi khói đầu tiên lan toả bình nguyên, và còn cách 6 dặm nữa. có thể nhìn thấy ánh thép, những đống xe bị vứt chỏng chơ, và cái miệng màu ghi to lớn ở trung tâm, hai cánh cửa chìa về phía .

      Những chiếc Buck ở 100 fít phía dưới và dặm phía sau. Những câu từ những chiếc Buck, bắt đầu ở IP, tiếp tục vang vào tai . Sáu dặm nữa lại gần, năm dặm nữa, chuyển động nào đó khu vực mục tiêu, bốn dặm.

      "Tôi đánh dấu đây", hoa tiêu của chiếc Buck thứ nhất . Mũi laser của chiếc Buck chĩa thẳng vào cửa khu đó Cách ba dặm, Williamson bắt đầu "lướt", thả lỏng dần, nhìn chằm chạm vào mục tiêu. vấn đề gì hết, công nghệ có thể làm nốt phần còn lại. Cách 300 fít HUD của bảo thả bom. nhấn vào nút thả bom, và cả ba quả bom nghìn pound rơi xuống dưới. Vì lướt, những quả bom lao lên cùng chút trước khi trọng lực trái đất kéo chúng xuống và chúng bắt đầu đường rơi hình parabol xuống bãi rác.

      Máy bay của được tấn rưỡi, lao lên nhanh đến 1000 fít, rồi chuyển sang 135 độ nghiêng và giữ theo cột điều khiển. Chiếc Tornado lao xuống và quay lại, quay về phía mặt đất và về phía con đường đến. Chiếc Buck của lao theo, rồi cũng quay ngược.

      Vì có màn hình camera ở bụng máy bay, người hoa tiêu của chiếc Buccaneer có thể nhìn thấy tác động của những quả bom vào chính diện những cánh cửa của cái bãi rác. Toàn bộ khu vực phía trước bãi rác chuyển thành tảng lửa và khói, trong khi cột bụi bay lên từ nơi trước kia từng là bãi rác.

      bắt đầu yên trở lại, Peter Johns trong chiếc Tornado thứ hai đến, chậm hơn người chỉ huy 30 giây. Người hoa tiêu của chiếc Buck nhìn thấy nhiều hơn thế. Những chuyển động ta thấy trước đó được ấn định vào mảng. Những họng súng lộ ra.

      - Chúng có pháo phòng đấy! ta gào lên. Chiếc Tornado thứ hai lao lên. Chiếc Buccaneer thứ hai có thể nhìn thấy toàn bộ. Bãi rác, bị thổi bay thành từng mảnh dưới áp lực của ba quả bom đầu tiên, để lộ ra cấu trúc bên trong bị xoáy lên và đổ rạp. Nhưng có những họng súng phòng chĩa lên từ những chiếc xe nát bẹp.

      - Thả bom rồi! Johns hét lên, và chuyển chiếc Tornado của ta vào chế độ quay hình chữ G tối đa. Chiếc Buccaneer của ta cũng chạy ra khỏi mục tiêu, nhưng cái PAVESPIKE ở dưới bụng nó vẫn giữ hướng về bãi rác.

      - Trúng rồi! Người hoa tiêu của chiếc Buck kêu lên.

      tiếng động của đạn giữa những chiếc xe đổ nát. Hai SAM bắn dựa vai khạc lửa sau chiếc Tornado. Wilhamson chuyển sang chế độ quay, trở về 100 fít bên sa mạc nhưng hướng sang hướng khác, về phía mặt trời

      ra. nghe thấy giọng thét lên của Peter Johns:

      "Chúng tôi bị trúng rồi!"

      Sau , Sid Blair im lặng. Trong cơn điên giận,

      Wilhamson giật chiếc Tornado quay thêm vòng nữa, nghĩ rằng có cơ may bắn được các tay súng Iraq bằng súng của mình. quá chậm.

      - nghe thấy trong hai chiếc Buck , "Họ có tên lửa dưới đó", và rồi nhìn thấy chiếc Tornado của Johns, lao xuống, khói bốc ra từ động cơ cháy, nghe thấy chàng 25 tuổi khá , " rơi... phóng ra".

      Họ còn có thể làm được gì nữa rồi. Trong những phi vụ trước đó những chiếc Buck thường theo những chiếc Tornado về nhà. Trong ngày hôm nay, thoả thuận rằng những chiếc Buck có thể về bằng đường riêng của mình. Trong im lặng hai chiếc đánh dấu mục tiêu làm cách tốt nhất của mình: Họ chĩa bụng xuống sa mạc và giữ nguyên như thế để trở về.

      Lofty Williamson trong cơn giận mù quáng, ràng bị lừa dối. ta : ai biết về pháo phòng và những quả tên lửa giấu ở Al Qubai.

      Ở bên , chiếc TR-l gửi về những bức ảnh đúng lúc cuộc tàn phá về Riyadh. đồn E-3 nghe thấy mọi thứ trong cuộc trò chuyện với Riyadh họ mất chiếc Tornado.

      Lofty Williamson trở về nhà mình, để báo cáo và đổ tức giận của mình vào những kẻ lựa chọn mục tiêu ở Riyadh. Tại đại bản doanh của CENTAF ở đường Old Airport, mềm vui mừng của Steve Laing và Chíp Barber rằng Quả Đấm của Thượng đế bị chôn vùi trong cát bụi nơi nó được tạo ra bị che mờ bởi thể mất hai người lính trẻ.

    3. Nữ Lâm

      Nữ Lâm Well-Known Member

      Bài viết:
      23,871
      Được thích:
      22,185
      CHƯƠNG 19


      Thiếu tướng Hassan Rahmani ngồi trong văn phòng riêng của mình ở toà nhà Mukhabarat ở Mansour uể oải quan sát các kiện của hai mươi tư giờ trước đó.

      Việc các trung tâm quân và quân giới chủ chốt của đất nước ta bị xơi tái cách có hệ thống bởi những quả bom và hoả tiễn làm ta lo ngại. Những tiến triển đó, tiên liệu từ nhiều tuần trước, chỉ đơn giản làm gần lại hơn xâm chiếm của Mỹ và rơi khỏi ghế của con người đến từ Tikrit.

      Đó là cái ta lên kế hoạch, chờ đợi, và dự định cách tự tin, mảy may nghi ngờ vào cái ngày giữa tháng Hai năm 1991 là đến. Rahmani là người rất thông minh, nhưng cũng thể là quả bóng pha lê tì vết.

      Vụ ném bom lúc rạng đông ngày hôm trước vào nhà máy chế tạo bom nguyên tử ở Al Qubai, được hướng lối chính xác đến nhường ấy mà ai hiểu nổi, làm lung lay sức mạnh của tinh hoa Baghdad đến tận gốc rễ.

      Trong vài phút sau khi hai máy bay ném bom của bay , những tay súng sống sót liên hệ trực tiếp với Baghdad để báo cáo về vụ tấn công. Khi nghe về kiện, tiến sĩ Jaafar Al-jaafar trực tiếp lên xe và lái đến điểm đó để kiểm tra về đội ngũ dưới đất của mình. Ông ta giận dữ đến điên người và vào buổi trưa phàn nàn cách cay đắng với Hussein Kamil, dưới lệnh của người này Bộ Công nghiệp và Công nghiệp hoá Quân toàn bộ chương trình nguyên tử được đặt ở đó là chương trình, nhà khoa học báo cáo lại với người con rể của Saddam, rằng ngoài tổng cộng chi phí trị giá 50 tỉ đôla trong suốt thập kỷ tiêu đến 8 tỉ đôla, và vào lúc sắp đạt được thắng lợi lại bị phá huỷ. Liệu Nhà nước còn có thể bảo vệ người của mình được nữa hay ?

      Nhà vật lý lraq có thể nhảy dựng lên cao năm fit và bị đốt cháy như con muỗi, nhưng trong điều kiện ảnh hưởng của ông ta lớn đến chừng đó, và lời lẽ của ông ta cứ thế dâng trào.

      Hussein Kamil bị xúc phạm báo cáo cho bố vợ của mình, người cũng dã rơi vào cơn điên giận khủng khiếp. Khi điều đó xảy ra, cả Baghdad run lên cho cuộc sống của mình. Các nhà khoa học dưới lòng đất chỉ sống sót mà đều thoát ra ngoài được, vì nhà máy còn có đường hầm hẹp dẫn đến nửa dặm dưới sa mạc và kết thúc trong cái thangmáy có đường ray gắn vào tường.

      Những người đó lên mặt đất theo con đường đó, nhưng thể nào di chuyển được máy móc nặng nề qua cùng đường hầm và thang máy đó. Thang máy chính và đường tiếp tế hàng hoá bị thổi tung khỏi mặt đất sâu đến 20 fít. Tái tạo lại nó có thể mất đến hàng tuần - những tuần mà Hassan Rahmani ngờ rằng Iraq có nổi.

      - Liệu kết thúc vấn đề đó chưa, ta chỉ đơn giản bị nghi, vì lo lắng sâu sắc con người đó từ cuộc họp ở cung điện trước khi cuộc chiến bắt đầu, khi Saddam để lộ tồn tại của thiết bị "của ông ta".

      Cái giờ đây làm Rahmani lo sợ là cơn điên giận kinh khủng của người đứng đầu Nhà nước. Phó tổng thống Izzat Ibrahim gọi lên ngay sau buổi trưa ngày hôm trước, và vị chỉ huy Tình báo bao giờ biết đến người thân cận nhất của Saddam ở trong tình trạng đó.
      Ibrahim với ta Rais điên lên, và khi điều đó xảy ra, máu có thể chảy như suối. Chỉ điều đó mới làm đè nén được cơn giận của người đến từ Tikrit. Phó tổng thống cho rằng - Rahmani - có thể phải tạo ra chứng cứ, và nhanh. "Chính xác chứng cứ nào, ông nghĩ ra chưa?" ta hỏi Ibrahim. "Hãy tìm cho ra", Ibrahim gào lên vào tai ta, "cách nào đó mà họ hiểu được".

      Rahmani có quan hệ với bạn bè mình trong Quân đội. những người chuyện với các tay súng, và các báo cáo hướng đến điểm: quân cử đến hai chiếc máy bay. có hai cái nữa bay cao hơn, nhưng kết luận là những cái đó chỉ là nguỵ trang; chắc chắn chúng hề thả quả bom nào hết.

      Từ Quân đội, Rahmani chuyện với đơn vị Lập kế hoạch quân. Quan điểm của họ - và nhiều trong số sĩ quan được huấn luyện của phương Tây - là có mục tiêu nào với mức độ quan trọng về quân lại chỉ được gửi đến có hai máy bay. bao giờ như thế hết.

      Vậy là Rahmani suy luận, nếu người nghĩ bãi rác ôtô là đống rác rưởi bỏ , họ nghĩ nó là cái gì? Câu trả lời có khả năng nằm ở hai giặc lái người bị rơi. Cá nhân mà , thích tự trực tiếp tiến hành các cuộc xét hỏi, chắc chắn rằng với số thuốc kích thích có thể buộc họ trong vài giờ.

      Quân đội khẳng định họ bắt được viên phi công và viên hoa tiêu sau ba giờ truy đuổi, sâu trong sa mạc, bị bỏ lại do vỡ mắt cá. may, chi tiết từ AMAM làm quay ngược mọi thứ với tốc độ đáng kể và mang theo những người bay. ai lý luận gì với AMAM hết. Do đó hai người giờ đây ở chỗ Omar Khatib, và chỉ Allah mới có thể rủ lòng thương đến họ.

      Bị mất cơ hội tuyệt vời tạo ra thông tin do những viên giặc lái trao cho, Rahmani nhận ra ta có thể phải tạo ra cái gì đó Câu hỏi là - ai? Chỉ điều có thể đủ là cái Rais mong muốn. Và ông ta muốn gì? Tại sao, phản bội. Rồi phản bội. Vấn đề then chốt có thể là máy phát. ta cầm máy và gọi thiếu tá Mohsen Zayeed, chỉ huy lĩnh vực nghe trộm của đơn vị , người chịu trách nhiệm nghe ngóng các cuộc truyền tin bằng radio. là lúc cần chuyện lại.

      Hai mươi dặm về phía tây Baghdad có thị trấn tên là Abu Ghraib, địa điểm rất khó nhận diện và cho đến giờ vẫn hề được biết đến nếu vì hiếm khi được nhắc đến trong Iraq. Bởi vì ở Abu Ghraid có nhà tù lớn, được dành gần như tuyệt đối để sử dụng cho những cuộc hỏi cung và những vụ thanh trừng về chính trị. Vì lẽ đó, nó được trang bị người và được điều hành phải bởi cơ quan tù quốc gia mà là Cảnh sát Mật, AMAM.

      Vào thời gian Hassan Rahmani gọi chuyên gia nghe lén của mình, chiếc Mercedes dài màu đen lại gần những cánh cửa gỗ dày cộp của nhà tù. Hai người gác, nhận ra người trong xe, hú lên vào những cái cổng và mở chúng ra. Vừa đúng lúc, người đàn ông trong xe có thể trả lời với bạo tàn lạnh lùng đối với những ai cả gan làm chậm ông ta giây phút vì lơ là công việc. Chiếc ôtô vào, những cánh cửa đóng lại. Khuôn mặt ở ghế sau nhận ra những nỗ lực của những người gác mà để lộ ra nét vẻ gì. bao giờ có biểu nào hết.

      Trước những bậc thang dẫn lên toà nhà văn phòng chính, xe dừng lại, và người gác khác đến mở cửa sau xe. Tướng Omar Khatib xuống xe, giản dị trong bộ quân phục barathea vừa khít, và rảo bước lên các bậc thang. Những cánh cửa nhanh chóng được mở ra cho ông ta ở mọi lối. sĩ quan cấp dưới, trợ tá của ông ta, cầm theo chiếc cặp công tác của ông ta.

      Để lên được văn phòng của mình, Khatib sử dụng chiếc thang máy lên đến tầng năm và là tầng cao nhất, và khi ông ở lại mình, ông ta cầu mang cà phê Thổ Nhĩ Kỳ lên và bắt đầu nghiên cứu giấy tờ. Các báo cáo của ngày miêu tả chi tiết tiến bộ trong việc khai thác những thông tin cần thiết từ những người ở tầng dưới.

      Đằng sau vẻ mặt lạnh lùng của mình, Omar Khatib cũng lo lắng như tất cả các đồng nghiệp của mình ở khắp Baghdad.

      giống như Rahmani, người hưởng giáo dục từ quốc, biết nhiều ngôn ngữ, và khí cởi mở gần như trở thành đáng ngờ, Khatib có thể tính đến lợi thế cơ bản của mình là đến từ Tikrit. lâu đến thế ông ta làm công việc này do Rais giao phó, và làm rất tốt, luôn giữ dược những lời tâm tình để bảo đảm xảy ra bạo loạn, ông ta an toàn.

      Nhưng hai mươi tư giờ vừa qua gây xáo trộn rất nhiều. Cả ông ta cũng nhận được cú điện thoại ngày hôm trước, nhưng từ người con rể, Hussein Kamil. Cũng giống như Ibrahim đối với Rahmani, Kamil cũng mang đến những tin tức về tức giận vô bờ bến của Rais qua kiện ném bom Al Qubai và đề nghị có những bằng chứng.

      giống như Rahmani, Khatib có trong tay những người . Đó là lợi thế mặt, và là nguy hiểm ở mặt khác. Rais muốn biết, và nhanh, bằng cách nào các tay lái máy bay này biết được trước phi vụ - chỉ là bằng cách nào mà Liên quân lại biết được nhiều đến thế vế Al Qubai, và bằng cách nào họ có được những thông tin đó.

      Điều đó phụ thuộc vào ông ta, Khatib, để tạo ra các thông tin. Những người của ông ta làm việc với các tay lái trong suốt 15 tiếng đồng hồ, kể từ bảy giờ sáng hôm trước, khi họ đến Abu Ghraib. Cho đến giờ, bọn điên đó vẫn vững vàng.

      Từ sân bên dưới cửa sổ của ông ta vang đến thanh của va động, va chạm, và tiếng lướt . Lông mày Khatib nhăn lại, rồi nở ra khi ông ta nhớ lại. Trong cái sân trong dưới cửa sổ của ông ta người Iraq bị treo cổ tay cái giá chữ thập, những ngón chân tươm máu của ta chỉ cao quá làn bụi 4 inch. Gần đó có cái vại, trước màu sáng, giờ chuyển sang thấm hồng.

      Mỗi người gác và lính tráng ngang qua sân đều nhận lệnh phải đứng lại, cầm lên trong hai cái roi mây từ cái bình, và vòng ra sau lưng người đàn ông bị treo, đánh vào giữa cổ và đầu gối. hạ sĩ đứng gần đó trông coi. Người đó là tay thương gia ngu xuẩn dám tổng thống là con mụ đĩ , kẻ giờ đây học, dù có hơi muộn, cách thức các công dân kính trọng Rais.

      Vấn đề gây nhức đầu là ông ta vẫn còn ở đây. Nó chỉ ra bẩn thỉu mà những tầng lớp lao động này có. Người thương gia phải chịu đựng hơn 500 cái đánh, kỷ lục đầy ấn tượng. ông ta có thể chết trước cái thứ nghìn - ai có thể chịu đến nghìn - nhưng như thế là thú vị lắm rồi. Điều thú vị khác là rằng người đàn ông bị tố cáo bởi đứa con mười tuổi của ông ta. Omar Khatib nhấm nháp tách cá phê của mình, đung đưa cây bút nạm vàng, và cúi xuống giấy tờ của mình.

      Nửa giờ đồng hồ sau, có tiếng gõ bí vào cánh cửa phòng.

      - Vào , ông ta gọi, và nhìn ra để kiểm tra. ông ta cần có tin mới, và chỉ người có thể gõ cửa thẳng chứ cần qua viên sĩ quan cấp dưới ở ngoài.

      Người vào to lớn, và ngay cả mẹ ta cũng khó có thể bảo ta đẹp trai. Khuôn mặt bị rỗ chằng chịt dấu ấn của bệnh đậu mùa, và hai vết sẹo tròn chạy xuống giật giật. ta đóng cửa lại và đứng im, đợi lệnh.

      ta chỉ mới là trung sĩ, thực ra ta chỉ có cấp hàm thấp như thế, vì ta là trong số rất ít mà viên tướng cảm thấy có tin cậy đồng đội. mình giữa đám nhân viên nhà tù, trung sĩ Ali được phép ngồi khi có mặt ông ta, khi được mời lên.

      Khatib chỉ cho người đàn ông cái ghế và mời ta điếu thuốc. Viên trung sĩ ngồi xuống và nhả khói từ từ; công việc của ta rất nặng nhọc và mệt mỏi, điếu thuốc là giờ nghỉ đầy may mắn. Lý do Khatib nhân nhượng thứ tình cảm bà con từ người ở cấp bậc thấp như vậy là vì ta thực ngưỡng mộ vô bờ với ông ta. Khatib nắm bắt được hiệu quả trong đánh giá cao của mình, và viên trung sĩ được ông ta ưu ái là người bao giờ phản lại ông ta. Bình tĩnh, có phương pháp, người chồng và người cha tốt, Ali thực tay chuyên nghiệp.

      - Tốt chứ? ông ta hỏi.

      - Viên hoa tiêu kín, rất kín, thưa ngài. Viên phi công... ta nhún vai. tiếng hay là hơn rồi đấy.

      - Tôi nhắc lại cho là cả hai chúng đều phải hé răng. Ali, bắt buộc đấy. Và những câu chuyện của chúng phải ăn khớp với nhau. Chính Rais tin tưởng vào chúng ta đấy.

      - Ông có thể, thưa ngài. Tôi nghĩ trong vòng mười phút ngài có được câu trả lời của mình. Viên hoa tiêu trước, và khi viên phi công học được điều gì đó, ta làm theo.

      - Tốt lắm.

      Khatib nhổm lên, và viên trung sĩ mở cửa cho ông ta. Cùng nhau họ xuống qua tầng trệt đến khu nhốt người thứ nhất, nơi thang máy dừng lại. Có lối hướng đến các tầng ngầm dưới đất. Dọc theo lối là những cánh cửa bằng thép, và đằng sau chúng, thu lu trong còng, là bảy người Mỹ, bốn người , người Italia, và phi công lái máy bay Skyhawk của Kuwait.
      Ở tầng tiếp theo dưới sâu hơn có nhiều xà lim hơn, tại đó có hai người mới bị bắt. Khatib nhìn qua lỗ khoá trong cánh cửa xà lim thứ nhất. ngọn đèn duy nhất chiếu sáng xà lim, những bức tường của nó rất chắc chắn và có màu máu sẫm. Giữa phòng, cái ghế văn phòng bằng nhựa, người đàn ông ngồi, gần như trần truồng, ngực bê bết vết nôn mửa, máu và nước dãi. Đôi tay của ta bị trói giật ra sau, và mặt nạ đen ngòm trổ lỗ mắt phủ lên mặt ta. Hai người của AMAM trong bộ đồ giống hệt với trung sĩ Ali lắc người đàn ông ghế, tay của ta chạm xuống những ống nhựa xếp dưới sàn, những cái thêm vào trọng lượng mà làm giảm độ nhạy. Họ đứng quay lưng, nghỉ lúc. Trước khi dừng, họ tập trung vào ống quyển và xương bánh chè.

      Khatib gật đầu và chuyển sang phòng tiếp theo. Qua lỗ khoá ông ta có thể trông thấy người tù thứ hai bị bịt mắt. con mắt hoàn toàn nhắm nghiền, con ngươi lòi thịt của lông mày và má đầy máu. Khi ta mở miệng, có lỗ hổng do hai chiếc răng bị gẫy gây ra, và luồng máu trồi lên môi ta.

      - Tyne, viên hoa tiêu thầm, Nicholas Tyne. Trung úy bay. Năm ôi ôi chín sáu tám.

      - Viên hoa tiêu đó, viên trung sĩ thầm.

      Khatib thầm trả lời, "Ai trong số người của biết tiếng ?"

      Ali chỉ - người ở bên trái.

      - Bảo ta ra ngoài này.

      Ali vào xà lim của viên hoa tiêu và ra với trong số hai tra xét viên. Khatib chuyện lúc với người này bằng tiếng A rập. Người đàn ông gật đầu, trở vào xà lim, và đeo mặt nạ lên mặt viên hoa tiêu. Chỉ sau đó Khatib mới cho phép mở cả hai cánh cửa xà lim.

      Người biết tiếng cúi xuống đầu Nicky Tyne và qua lần vải. Tiếng của ta có sắc rất nặng nhưng có thể hiểu được.

      - Tốt rồi, trung uý Bay, đúng đó. Với , qua rồi. còn phải chịu đựng nữa đâu.

      Viên hoa tiêu trẻ tuổi nghe thấy câu . Cơ thể ta như thể rùng lên vì đau đớn.

      - Nhưng bạn của , ta được may mắn như thế. ta chết đấy. Thế là chúng tôi có thể chuyển ta vào bệnh viện - những mảnh vải trắng, các bác sĩ, mọi thứ ta cần; hoặc chúng tôi có thể kết thúc công việc của mình.

      Lựa chọn của đấy nhé. Khi cho chúng tôi biết, chúng tôi ngừng ngay và đưa ta vào bệnh viện. Khatib gật đầu hướng đến hành lang với trung sĩ Ali, người vào xà lim bên kia. Từ cánh cửa mở những thanh của tiếng nhựa cọ vang lên. Rồi viên phi công bắt đầu hét lên.

      - Tốt rồi, đầu đạn? Nicky Tyne hét lên dưới lớp vải. Dừng lại , lũ con hoang các người! Đó là kho khí độc.

      Tiếng đánh đập ngừng lại. Ali xuất , thở hổn hển, từ xà lim của viên phi công.

      - Ngài đúng là thiên tài, thưa Sayid tướng quân.

      Khatib nhún vai khiêm tốn.

      - Đừng bao giờ đánh giá thấp tính đa cảm của người và người Mỹ, ông ta với học trò của mình. Hãy mang những người phiên dịch đến đây. Ghi vào mọi chi tiết, dù là nhất. Khi có bản dịch rồi, mang lên văn phòng cho tôi.

      Quay trở lại phòng của mình, tướng Khatib gọi cú điện thoại tiếng đến Hussein Kamil. tiếng đồng hồ sau, Kamil gọi lại. Bố vợ ta bình tâm trở lại; cuộc họp có thể được triệu tập, khả năng là đêm nay. Omar Khatib có thể phải chuẩn bị để sẵn sàng đến cuộc họp.

      Tối đó, Karim lại tiếp tục ve vãn Edith, cách dịu dàng và chút ma mãnh nào, lần này về công việc của .

      - Em có bao giờ thấy buồn chán ở ngân hàng , em ?

      - , đó là công việc thú vị. Sao lại hỏi thế.

      - À, cũng biết nữa. Chỉ để hiểu bằng cách nào em lại có thể nghĩ nó là hấp dẫn. Với , nó chắc là công việc nhàm chán nhất đời đấy.

      - Nhưng mà phải thế đâu.

      - Thôi được rồi. Thế hấp dẫn ở chỗ nào?

      - biết đấy, quản lý các tài khoản, đặt các đầu tư, những việc tương tự như thế. Đó là công việc quan trọng.

      - Chẳng nghĩa lý gì hết cả. Cứ như là "Chào buổi sáng, vâng thưa ngài, thưa ngài, dĩ nhiên thưa ngài" với hàng đống người đến và ra để rút cái séc 50 silinh. Chán lắm.

      nằm ngửa giường của . lại và đến nằm bên cạnh , choàng tay qua vai , bằng cách đó họ có thể sát vào nhau. thích sát vào nhau.

      - Thỉnh thoảng là ngốc, Karim ạ. Nhưng em ngốc nghếch như thế. Ngân hàng Winkler phải ngân hàng phát hành - nó là ngân hàng buôn bán.

      - khác nhau thế nào?

      - Bọn em có tài khoản séc, khách hàng với sổ séc ra vào. làm việc theo cách đó đâu.

      - Thế bọn em kiếm tiền sao được, vì có khách đâu.

      - Dĩ nhiên có tiền chứ, nhưng là với các tài khoản rút tiền.

      - chẳng bao giờ có cái nào như thế cả, Karim thừa nhận. Chỉ có tài khoản vãng lai thôi. Dù sao vẫn thích tiền mặt hơn.

      - thể có tiền mặt khi đến hàng triệu. Người ta ăn cắp của . Nên phải cho vào ngân hàng và đầu tư chúng.

      - Em muốn là ông già Gemuetlich có đến hàng triệu đồng? Tiền của người khác?

      - Phải, hàng triệu ấy chứ.

      - Siling hay đôla?

      - Đôla, đồng bảng, hàng triệu.

      - Tốt, thể tin cậy ông ta với tiền của được.

      ngồi dậy, hơi bị tức.

      - Ngài Gemuetlich hoàn toàn trung thực. ông ấy bao giờ nghĩ đến chuyện làm như thế đâu.

      - Có thể là , nhưng người khác có thể chứ. Xem nào - thử xem, biết người có tài khoản ở Winkler. Tên ta là Schmitt. hôm đến và : Chào buổi sáng, Ngài Gemuetlich, tên tôi là Schmitt, và tôi có tài khoản ở đây. Ông ta nhìn vào sổ của mình, và : Phải, có. Thế là : Tôi thích rút toàn bộ ra. Thế là khi chàng Schmitt thực đến, chẳng còn cái quái gì hết cả. Chính vì thế tại sao lại thích tiền mặt hơn đấy.

      cười phá lên vì ngây thơ của và kéo lên, thầm vào tai ta:

      - thể thế được đâu. ông Gemuethch có thể biết được chàng Schmitt quý giá của . Cách nào nữa, ông ấy cũng phải tự xác minh.

      - Hộ chiếu có thể làm giả. bọn Palestine quỷ quái chẳng suốt ngày làm thế còn gì.

      - ta còn cần có chữ ký nữa, với cái đó có mẫu

      - Thế , tập ký giả chữ ký của Schmitt.

      - Karim, em nghĩ trở thành tên tội phạm ngày nào đó. xấu tính lắm.

      Cả hai cười vang lên vì ý tưởng đó.

      - Cách nào nữa, nếu là người nước ngoài và sống bên ngoài, có khả năng có tài khoản được đánh số. Chúng là hoàn toàn thể bắt chước được.

      nhìn xuống vào từ khuỷu tay, lông mày nhăn

      - Là cái gì thế?

      - tài khoản đánh số

      - Mmmmm.

      giải thích nó hoạt động như thế nào.

      - Điên quá nhỉ, khi kết thúc. Bất kỳ ai cũng có thể đến và tuyên bố là chủ. Nếu Gemuetlich chưa từng bao giờ nhìn thấy người chủ ...

      - Có những quy trình nhận diện chứ, ngốc. Những mật mã hết sức phức tạp, các phương pháp chữ viết, các cách thức chắc chắn mà các chữ ký phải được định vị - tất cả những thứ đó để kiểm tra rằng người đó thực là chủ của tài khoản đó Trừ khi tất cả họ thông đồng với nhau - với chữ viết – ông Gemutlich hợp tác đâu. Thế cho nên giả danh là được đâu
      - Thế ông ta hẳn là phải có trí nhớ khủng khiếp lắm nhỉ.

      - Ôi, quá là ngốc nghếch đấy. Phải viết ra chứ. Thế có cho em ăn tối ?

      - Em có đáng thế ?

      - biết là em có mà.

      - À thế được. Nhưng muốn thứ ăn tại chỗ.

      bối rối. "Tốt thôi, đặt chỗ ".

      - muốn là em ấy.

      với lên và nắm lấy cổ tay của bộ đồ ngủ của , kéo với ngón tay đằng sau lên giường. vùng vẫy cách sung sướng. trườn lên người và bắt đầu hôn. đột nhiên ta ngừng lại. ngẩng nhìn cảnh giác.

      - biết phải làm gì rồi, thầm trong hơi thở, thuê cái két an toàn, vào trong kho của ông già Gemuetlich, và nhìn các mật mã. Rồi lấy tiền với chúng.

      cười phá lên với suy nghĩ thay đổi suy nghĩ cả trong lúc làm tình.

      - thế được đâu. Mmmmm. Làm nữa .

      - Có chứ.

      - Aaaa. được đâu.

      - Có Những thứ an toàn suốt ngày bị phá. Hãy đọc báo hàng ngày mà xem.

      luồn bàn tay khám phá của mình xuống dưới, và mắt mở to ra.

      - Ooooo, thế là tất cả với em đấy ư? là người đàn ông dáng , kỳ vĩ, khoẻ khoắn, Karim, và em . Nhưng ông già Gemuetlich, theo cách gọi ông ấy, có thông minh hơn chút đấy...

      phút sau, còn quan tâm xem Gemuetlich thông minh cỡ nào nữa.

      Trong khi nhân viên Mossad làm tình ở Vienna, Mike Martin dựng đĩa vệ tinh của mình khi sắp tới nửa đêm và ngày 11 tháng Hai sắp sửa chuyển sang ngày 12. Iraq thế là chỉ còn cách ngày tấn công theo lịch tám ngày vào ngày 20 tháng Hai. Phía nam biên giới, dải đất phía bắc của sa mạc A;rập Xêut chất đầy những trại tập trung lớn nhất của người và vũ khí, súng ống, xe tăng, và các kho được chia ra thành những phần rất của vùng đất kể từ Thế chiến hai.

      Gió nóng ngừng thổi từ khí, dù phần lớn các mục tiêu trong danh sách đầu tiên của tướng Horner đều được thăm hỏi, có khi còn đến hai lần hoặc hơn. Mặc dù dấn sâu vào các mục tiêu mới tạo nên bởi hàng rào Scud ngắn ngủi đất Israel, kế hoạch chiến thiên tài vào guồng. Mọi nhà máy được biết cho sản xuất vũ khí đều bị thổi tung, trong số đó có 12 cái mới thêm vào nhờ thông tin của Jericho.

      lực Iraq ràng ngừng tồn tại. Hiếm khi có những máy bay chiến đấu chống trả, họ chọn cách đối đầu với những chiếc Eagle, Hornet, Tomcat, Falcom, Phantom và Jaguar của Liên quân, quay trở về căn cứ của mình và vào giữa tháng Hai còn bận tâm đến việc thử nữa. số máy bay chiến đấu và thả bom được gửi cách có suy tính cẩn thận sang Iran, nơi họ ngay lập tức bị đánh bật.

      Ở cấp độ cao nhất, những người chỉ huy Liên quân có lẽ hiểu nổi tại sao Saddam chọn cách gửi đội tốt nhất của mình sang kẻ thù cũ. Lý do là vì sau thời điểm nào đó ông ta chắc chắn đoán rằng mọi quốc gia trong vùng còn lựa chọn nào khác là quay mũi kiếm vào mình; vào lúc đó ông ta có thể dùng lại quân của mình.

      Vào lúc đó hiếm khi tìm được cây cầu nào chưa bị đánh phá khắp đất nước hay trạm sản xuất điện nào còn vận hành được.

      Vào giữa tháng Hai, nỗ lực thêm nữa của Liên quân được hướng đến Quân đội Iraq ở nam Kuwait và biên giới giữa Kuwait và Iraq.

      Từ đông sang tây biên giới bắc Xêut với đường cao tốc Baghdad-Barsa, các Buff vẫn truy diệt pháo binh, xe tăng, các khẩu đội tên lửa, và các vị trí đặt quân bộ binh. Những chiếc Thunderbolt A-10 của Mỹ, được đặt biệt hiệu do khủng khiếp bầu trời của chúng là "những con chó bay", lùng kiếm và tiếp tục làm tốt nhất có thể - tiêu diệt xe tăng. Những chiếc Eagle và Tornado cũng định vị nhiệm vụ "xử lý xe tăng ".

      Điều mà các vị tướng của Liên quân ở Riyaôh biết được là 40 cơ sở được cho là sản xuất vũ khí tiêu diệt hàng loạt vân còn được giấu bên dưới sa mạc và đồi núi, hoặc các căn cứ quân Sixco vẫn còn an toàn.

      Kể từ khi chôn vùi được nhà máy Al Qubai, tâm trạng nhàng hơn giữa bốn vị tướng biết thực nó chứa đựng gì, cũng như giữa những người của CIA và SIS đóng ở Riyadh.
      Đó là tâm trạng được phản ánh trong thông điệp ngắn gọn mà Mike Martin nhận được đêm đó. Những người chỉ huy ở Riyadh bắt dầu thông báo cho về thắng lợi của điệp vụ Tornado dù bị mất máy bay. Đợt chuyển tin đến chỗ khen ngợi ở lại ở Baghdad sau khi được phép rời và về toàn bộ phi vụ. Cuối cùng, được cho biết còn nhiều việc để làm. Jericho có thể được chuyển cho thông điệp cuối cùng, để thông báo Liên quân rất vui nhận được thông tin của ta, và toàn bộ tiền của ta được trả, và mối quan hệ này có thể dược xây dựng lại sau chiến tranh. Sau đó, Martin được cho biết, thực có thể trốn khỏi đó vì an toàn của chính mình để về Arập Xêut trước khi điều này thể làm được nữa.

      Martin đóng lại máy của mình, gói nó và chôn xuống đất dưới sàn, và nằm giường của mình trước khi ngủ. thú vị nghĩ. Các quân đội vào Baghdad. Thế còn Saddam sao nhỉ - đâu là mục đích của việc này? cái gì đó dã thay đổi rồi.

      Nếu biết về cuộc họp diễn ra tại đại bản doanh của Mukhabarat chưa đến dặm cách đó, giấc ngủ của Mike Martin thể dễ dàng được.

      Về những vấn đề kỹ thuật có bốn mức - thông thạo, rất tốt, xuất sắc và tự nhiên. Cấp cao nhất nằm ở mọi kỹ năng và vào lĩnh vực nơi mọi kiến thức kỹ thuật được hỗ trợ bởi cảm giác bẩm sinh, bản năng tốt, giác quan thứ sáu giỏi giang với chủ đề và máy móc thể viết trong các sách hướng dẫn.

      Về vấn đề phát thanh, thiếu tá Mohsen Zayeeh là người bẩm sinh. Khá trẻ, với những đường nét ngây thơ làm cho ta có vẻ như là sinh viên năm đầu, Zayeed sống, ăn, và thở với công nghệ phát thanh Nơi ở của ta đầy những tạp chí mới nhất từ phương 'Tây, và khi ta bắt gặp thiết bị mới có thể làm tăng hiệu quả bộ phận nghe trộm điện đàm của mình, ta thế nào cũng đòi mua bằng được. Bởi vì nó có giá trị với ta, nên Hassan Rahmani luôn cố kiếm cho ta.

      lâu sau nửa đêm, hai người đàn ông ngồi trong văn phòng của Rahmani.

      - Có tiến triển gì ? Rahmani hỏi.

      - Tôi nghĩ là có đấy, Zayeeh trả lời. Ở đây này, tốt thôi - nghi ngờ gì quả là về cái đó. Vấn đề rắc rối là, ta sử dụng những cú chuyển nhanh thể bắt kịp. Chúng chạy nhanh quá. Gần như, nhưng khá đấy. Với kỹ năng và kiên nhẫn, ai đó có thể tình cờ tìm ra cái, ngay cả thậm chí nó chỉ dài có vài giây thôi.

      - đến gần đâu rồi? Rahmani hỏi.

      - à, tôi theo được các tần số phát đến dải khá hẹp với tầm sóng siêu dài, làm cho dễ hơn. Nhiều ngày trước, tôi gặp may. Chúng tôi đổi theo dải hẹp ngoài tầm: và nó đột nhiên xuất . Nghe nhé.

      Zayeeh bật cái đài và bấm nút Play. đống hỗn độn thanh tràn ngập văn phòng. Rahmani tỏ ra bối rối.

      - Nó đấy à?

      - Đó là mật mã, dĩ nhiên.

      Dĩ nhiên rồi, Rahmani . có phá được ?

      - Gần như chắc chắn là . Họ đóng mã bằng con chíp silicon duy nhất, kèm với mạch siêu phức tạp.

      - Có giải mã được ? Rahmani tỏ ra chán nản; Zayeeh sống trong thế giới riêng của với ngôn ngữ thân mật.

      ta thực nỗ lực lớn để cố và thẳng lên cho sĩ quan chỉ huy của mình.

      - Đó phải là mật mã. Để nghe được cái đống này với tốc độ ban đầu của nó có thể cần đến con chíp silicon tương tự như thế. Những cái của đó giá hàng triệu đấy

      - Thế điểm mấu chốt là gì?

      - Vấn đề là, thưa ngài, là - tôi có ý hay rồi.

      Hassan Rahmani cúi xuống tò mò.

      - ý hay?

      - Đợi nhé. Và đoán được nào? Bức thông điệp được gửi vào lúc nửa đêm, 30 giờ trước khi Al Qubai bị oanh tạc. Tôi đoán là, các chi tiết của nhà máy hạt nhân ở trong đó. Còn có gì đó hơn nữa.

      - Tiếp tục .

      - ở trong này.

      - Trong Baghdad?

      Thiếu tá Zayeeh mỉm cười và gật đầu. ta giữ tin tốt nhất của mình đến tận phút cuối cùng. ta muốn được khen.

      - , thưa ngài, ta ở trong quận Mansour. Tôi khoanh được bốn km vuông rồi.

      Rahmani suy nghĩ rất lung. Thế hẹp , là hẹp. Điện thoại kêu. ta nghe trong vài giây, rồi đặt máy và đứng lên.

      - Tôi bị gọi họp rồi. Điều cuối cùng. Còn cần nghe trộm được bao nhiêu lần nữa mới có thể làm chúng? Đến toà nhà, hay thậm chí ngôi nhà?

      - Nếu may mắn, tôi nghĩ tôi có thể tóm nhanh thôi, nhưng với lần đầu tiên tôi nghĩ tôi có thể tìm thấy . Cầu cho gửi bức thông điệp dài, nhiều giây trung. Rồi tôi có thể đưa cho ông khu vực diện tích chỉ vài trăm mét vuông thôi.

      Rahmani thở ra mạnh và xuống đến chiếc xe chờ sẵn.

      Họ đến địa điểm họp với Rais trong hai chiếc xe bus bịt bùng. Bảy vị bộ trưởng trong chiếc, chiếc còn lại gồm sáu vị tướng và ba trùm tình báo. ai biết nơi mình đến, và qua kính trước người lái xe chỉ đơn giản là theo chiếc xe mô tô.

      Chỉ khi chiếc xe bus dừng lại tại cái sân có tường bao bọc nơi 9 người chiếc xe thứ hai mới được phép xuống. Mất 40 phút lái xe vòng vèo. Rahmani cho rằng họ ở vùng nông thôn, cách Baghdad khoảng 30 dặm. hề có tiếng ồn ào xe cộ lại và những ngôi sao bầu trời chiếu lên những nét mờ nhạt của ngôi biệt thự lớn cửa sổ màu đen.

      Trong căn phòng khách chính bảy vị bộ trưởng ngồi đợi Các vị tướng ngồi vào chỗ được chỉ định và im lặng. Các vệ binh chỉ chỗ cho tiến sĩ Ubaidi của Tình báo Nước ngoài, Hassan Rahmani của Phản gián, và Omar Khatib của Mật. vụ 3 chỗ ngồi đối diện với cái ghế bành rộng duy nhất có đệm dành cho Rais. Người đàn ông gửi tin cho họ vào mấy phút sau đó.

      Tất cả đứng lên và được vẫy tay để ngồi xuống. Với số người, ba tuần nay họ mới được gặp lại tổng thống. ông có vẻ mệt mỏi, mắt quầng thâm và cái cằm cau có tỏ nhiều điều.

      rào trước đón sau, Saddam Hussein thẳng vào việc của buổi họp. Họ bị trận ném bom - tất cả đều biết, kể cả những người trước đó chưa hề biết về nơi tên là Al Qubai.

      Địa điểm bí mật đến nỗi ở Iraq có quá 10 người biết đích xác nó ở đâu. Giờ nó bị ném bom. Chỉ có thể là người ở cấp cao nhất và số kỹ thuật gia cao cấp được. đến thăm đó mà bị bịt mắt hoặc trong những chiếc xe bịt bùng, trước. khi nó bị đánh bom.

      Im lặng trong phòng. im lặng chết chóc. Các vị tướng - Radi của bộ binh, Kadin của đội Hải quân, Ridha của Pháo binh, và Musuli của Công binh, và hai người khác, chỉ huy Đội Vệ binh Quốc gia và chỉ huy Nhân - nhìn chằm chằm vào chiếc thảm trước mặt họ.

      - Đồng chí của chúng ta, Omar Khatib, hỏi cung hai viên phi công người , Rais gằn giọng. Giờ ông ta có thể giải thích điều gì xảy ra.

      ai dám nhìn thẳng vào Rais, giờ đây mọi cặp mắt đổ dồn vào thân hình manh khánh của Omar Khatib.

      Đồ tể vẫn nhìn thẳng vào đoạn giữa người đứng đầu Nhà nước, chiếu thẳng khuôn mặt của mình qua căn phòng.

      - Bọn phi công phun ra, ông ta lạnh lùng . Chúng đường về phía bắc. Chúng được chỉ huy chúng cho biết quân Liên quân nhìn thấy có xe tải, xe tải Quân đội, di chuyển ra vào khu bãi rác ôtô. Từ đó, Bọn con của Chó có cảm giác cái kho được nguỵ trang kho vũ khí, đặc biệt nơi dành cho đầu đạn chứa khí độc. Nó được quan tâm đặc biệt lắm và hề nghĩ rằng có phòng ở đó Cho nên chỉ có hai máy bay được gửi đến để thực nhiệm vụ, cùng với hai chiếc khác bay chúng để hướng dẫn mục tiêu hề có đề phòng trước có pháo phòng , bởi vì chúng hề nghĩ là có. Chúng - viên phi công và viên hoa tiêu - chẳng biết gì hơn thế cả.

      Rais ngoái đầu về phía tướng Farouk Ridha.

      - Đúng hay sai, Rafeek?

      - Như thế cũng là bình thường, Sayid Rais, người đàn ông, chỉ huy pháo binh tại các địa điểm SAM , khi chúng gửi đầu tiên là các máy bay chiến đấu có hoả tiễn đến để bắn các điểm phòng , rồi mới có máy bay ném bom đến đánh mục tiêu. Chúng thường xuyên làm như thế. Với mục tiêu có tầm quan trọng hàng đầu. chẳng bao giờ có chuyện chỉ có hai máy bay tiếp viện đến đâu.

      Saddam suy nghĩ về câu trả lời, đôi mắt đen của ông ta hề để lộ chút nào suy nghĩ của ông. Đó chính là phần của quyền lực ông có được đối với những con người này; họ bao giờ biết dược ông ta phản ứng như thế nào.

      - Có khả năng nào, Rafeek Khatib, rằng bọn đó định giấu điều gì, rằng chúng có biết nhiều hơn những điều chúng ?

      - . thưa Rais. Chúng được... thuyết phục để hợp tác toàn bộ.

      - Thế là vấn đề xong rồi đấy à? Rais trầm tĩnh hỏi.

      Cuộc tấn công đó chỉ là đòn hú hoạ của chúng và chúng gặp may?

      Những cái đầu gật xuống trong cả phòng. Tiếng hét vang lên làm tất cả trở nên tê liệt.

      - Sai? Tất cả các ông đều sai?

      Trong giây giọng đó trở về với mót lời thầm bình tĩnh, nhưng sợ hãi nó gây ra vẫn lơ lửng. Tất cả mọi người đều hiểu rằng dịu dàng của giọng có thể là báo trước cho những điều kinh khủng nhất, những hình phạt ghê gớm nhất.

      - Chẳng có xe tải nào hết cả. xe tải Quân đội ấy. Xin lỗi những tên phi công trong trường hợp chúng bị bắt nhé. Còn có cái gì khác nữa, có ?

      Phần lớn mọi người toát mồ hôi hột dù diều hoà nhiệt độ vẫn chạy. Vẫn thường xuyên là như thế, kể từ buổi bình minh của lịch sử, khi thủ lĩnh của bộ lạc gọi tất cả vào chỗ của phù thủy và tất cả run sợ trước nguy cơ chiếc gậy chỉ thẳng vào mình.

      - Có kẻ phản bội, Rais thào. Có kẻ bán đứng chúng ta. Ai đó là kẻ phản bội, kẻ đó dám chống lại ta.

      Ông ta im lặng trong vài phút, để cho họ run lên. Khi ông ta tiếp tục , ông ta nhìn về phía ba người đứng trước mặt mình đầu kia căn phòng.

      - Tìm . Tìm và mang về đây cho ta. ta biết được những hình phạt cho những tội lỗi như thế. ta và gia đình ta.

      Rồi ông ta thẳng ra khỏi phòng, cùng với viên vệ sĩ riêng của mình. 16 người đàn ông rời phòng ai nhìn ai, thể bắt được cái nhìn của ai. Như thế có thể là hy sinh. ai muốn trở thành đồ tế. Ai cũng lo sợ cho mình, nếu chẳng may dấu hiệu đó tỏ ra là như thế.

      Mười lăm người trong số đó cách xa người còn lại, cây gậy của viên thầy cúng, cái kẻ tên là Al-Mu'azib, Đồ tể. Ông ta có thể tạo ra vật tế.
      Rahmani im lặng. có thời gian để nêu lên những làn sóng đài. Những chiến dịch của là rất tinh tế, tinh vi, dựa dò xét và trí thông minh thực . Điều cuối cùng cần làm là làm sao bọn AMAM phá đám những điều tra của .

      Trong tâm trạng kinh hoàng các vị bộ trưởng và tướng lĩnh quay trở lại vào màn đêm và về với những nhiệm vụ của mình.

      - Ông ta giữ chúng trong hòm an toàn ở văn phòng đâu, Avi Herzog, tức Karim , với Gidi Barzilai chỉ huy của mình trong bữa sáng muộn mằn vào buổi sáng hôm sau.

      Cuộc gặp an toàn, trong căn hộ của Barzilai. Herzog gọi điện, từ bốt điện thoại công cộng, cho đến khi Edith Hardenberg chắc chắn yên vị trong ngân hàng. Ngay sau đó, đội yarid tới. theo ta đến cuộc hẹn để chắc ta bị theo dõi. Nếu ta có đuôi, họ phát ra. Đó là chuyên môn của họ.

      Gidi Barzilai chồm lên trước qua cái bàn gỗ, mắt sáng lên.

      - Làm tốt đấy, chú nhóc xinh trai. Thế là bây giờ tôi biết ông ta giữ mật mã. Nhưng vấn đề là chúng ở đâu?

      - Trong bàn ông ta.

      - Bàn? Cậu điên rồi. Ai chẳng có thể mở cái bàn.

      - Thế ông nhìn thấy nó chưa?

      - Bàn của Gemuetlich? Chưa.

      - Nhìn bề ngoài nó rất lớn, rất đẹp và rất cổ. thứ đồ cổ đấy. Có ngăn riêng, do người làm bàn đầu tiên tạo ra, rất bí mật, rất khó tìn, mà Gemuetlich nghĩ là an toàn hơn bất cứ chiếc két sắt nào. Ông ta tin tên trộm có thể tìm đến két sắt chứ chẳng bao giờ nghĩ đến cái bàn của ông ta. Ngay cả khi tên trộm mò vào bàn, ta cũng chẳng thể tìm thấy cái ngăn đâu.

      - Và ta biết nó ở đâu à?

      - . Chưa từng thấy nó mở ra. Ông ta luôn tự tay khoá nó trong văn phòng khi ông ta cất giấu gì đó.

      Barzilai suy nghĩ.

      - Thằng cha lỏi . Chẳng bao giờ mình nghĩ được chuyện đó cả. Cậu biết đấy, có khả năng là đúng.

      - Tôi ngừng công việc của mình được chưa?

      - Chưa, Avi, chưa đâu. Nếu cậu đúng, cậu làm rất tốt đấy Nhưng vẫn phải tiếp tục, phải đóng vai tiếp. Nếu bây giờ cậu biến, ta nhớ lại cuộc chuyện vừa rồi, chắp nối lại và nhìn ra đấy. Hãy tiếp tục với ta, và đừng bao giờ gì về ngân hàng nữa.
      Barzilai suy nghĩ về vấn đề. ai trong đội của ông ở Vienna này từng nhìn thấy cái két, nhưng có người từng.

      Barzilai gửi bức điện được mật mã rất kỹ cho Kobi Dror ở Tel Aviv.

      Kẻ chỉ điểm được đưa vào và ngồi trong phòng cùng với nghệ sĩ. Kẻ chỉ điểm đa tài lắm, nhưng ta có kỹ năng rất đặc biệt: có trí nhớ cực tốt. Trong năm giờ ta ngồi nhắm mắt và nhớ lại về cuộc phỏng vấn ta thực với Gemuetlich trong khi đóng vai luật sư đến từ New York. Nhiệm vụ chủ yếu của ta là tìm các chỗ đặt hệ thống báo động cửa sổ và cửa ra vào, tìm két sắt tường. những đường dây điện - mọi thứ thủ thuật để giữ cho căn phòng được an toàn. Những cái đó ta ghi chép và báo cáo. Cái bàn thu hút ta nhiều lắm.

      Nhưng ngồi trong căn phòng dưới đại lộ Vua Saul nhiều tuần sau đó, ta có thể nhắm mắt lại và nhìn thấy lại mọi thứ.

      Từng dòng , ta miêu tả cái bàn cho người nghệ sĩ. đôi khi kẻ chỉ điểm có thể nhìn vào bản vẽ, sửa lại, và tóm tắt. Người hoạ sĩ làm việc với mực ấn Độ với chiếc bút nét và tô màu chiếc bàn với màu nước. Sau năm tiếng đồng hồ người hoạ sĩ có được mảnh giấy vẽ chi tiết đó có bức tranh tô màu của cái bàn ở trong văn phòng của Herr Wolfgang Gemuetlich ở Ngân hàng Winkler ở Ballgasse, Vienna.

      Bức tranh đến tay Gidi Barzilai trong phong thư ngoại giao từ Tel Aviv đến Đại sứ quán Israel ở áo. Ông có nó trong hai ngày.

      Trước đó kiểm tra trong danh sách các sayanim khắp châu Âu làm nảy ra tồn tại của Monsier Michel Levy, nhà sưu tập đồ cổ ở đại lộ Raspail, Paris, được coi là trong số các chuyên gia hàng đầu về đồ gỗ cổ điển tại châu Âu.
      cần đợi đến đêm ngay 14 tức là ngày tại Vienna, Barzilai nhận được bức vẽ màu, còn Saddam Hussein lại triệu tập lần nữa cuộc họp với các bộ trưởng, tướng lĩnh và chỉ huy tình báo của mình.

      Lần này cuộc họp vẫn được triệu tập theo cầu của chỉ huy AMAM Omar Khatib, người thông báo tin thắng lợi của mình qua con rể Hussein Kamil của Rais, và lại là ngôi biệt thự giữa đêm sâu.

      Rais bình thản bước vào phòng và ra hiệu cho Khatib báo cáo về những kết quả của mình.

      - Tôi có thể gì đây, Sayid Rais? Viên chỉ huy Cảnh sát mật giơ cả hai tay lên và để chúng rơi xuống như thể tuyệt vọng hoàn toàn. Đó là kiệt tác trong việc biểu lộ nỗi thất vọng.

      Rais đúng, còn tất cả chúng ta đều sai. Vụ ném bom Al Qubai quả thực phải là tình cờ. Có kẻ phản bội, và chúng tôi tìm ra .
      kinh ngạc to lớn lan trong phòng. Người đàn ông ngồi chiếc ghế có nệm cao nhấc lưng hướng về bức tường có cửa sổ phải giơ tay lên để ngừng những tán dương lại Cũng phải mất lúc trật tự mới được lập lại.

      - Ta có đúng nào? nụ cười muốn : chăng phải lúc nào ta cũng đúng sao?

      - Làm thế nào mà phát ra thế, hả Rafeek? Rais hỏi.

      - phối hợp giữa may mắn và công tác điều tra,

      Khatib khiêm tốn lên tiếng. là may mắn, chúng ta đều biết đó là món quà của thánh Allah, người luôn mỉm cười với Rais.

      Tiếng đồng tình lại vang lên trong căn phòng.

      - Hai hôm trước cuộc tấn công của bọn ném bom của lũ Beni Naja, chốt giao thông được lập lên con đường gần đó. Đó là điểm canh thường lệ do người của tôi điều hành để quản lý những lại của bọn người sa mạc, buôn lậu hàng hóa... Các số xe đều bị ghi lại. Hôm kia tôi kiểm tra chúng và phát phần lớn trong số những chiếc xe đó đều là xe địa phương - xe hơi cũng như xe tải. Nhưng cái rất đắt tiền, được đăng ký ở Baghdad này. Chủ nhân bị tìm ra, người có thể có lý do để đến thăm Al Qubai. Nhưng cú điện thoại chắc chắn ta đến cơ sở đó. Tại sao, tôi tự hỏi, liệu ta có ở khu vực đó ?

      Hassan Rahmani gật đầu. Đó là công tác điều tra cơ đấy. Và cũng chẳng hề giống với Khatib vẫn thường xuyên chỉ biết chém to kho mặn.

      - Thế tại sao lại ở đó? Rais hỏi.

      Khatib ngừng lại để tăng hiệu ứng lời của mình.

      - Để ghi chép chi tiết về bãi rác ôtô, đê xác định khoảng cách từ vị trí đánh dấu gần nhất và những thứ khác mà quân cần để có thể tìm ra.

      tiếng thở phào vang lên trong cả căn phòng.

      - Nhưng điều xảy ra sau đó, Sayid Rais. Thoạt tiên tôi mời thằng cha đến gặp tôi ở trụ sở AMAM để chuyện thẳng thắn.

      Đầu óc Khatib quay trở lại về cuộc đối thoại thẳng thắn tại trụ sở dưới tòa nhà của AMAM ở Saadun, Baghdad, khu nhà được biết đến với cái tên Nhà tập.

      Thường Omar Khatib để những người dưới mình tiến hành hỏi cung, chỉ tự mình làm tùy vào mức độ nghiêm trọng và giám sát kết quả. Nhưng lần này là vấn đề có tính tế nhị cao mà ông ta phái tự mình thực , cho ai khác bước qua cánh cửa cách của căn phòng hỏi cung.

      Từ nền của căn xà lim có hai cái cùm đê cách nhau yard, và từ chúng có treo hai sợi dây xích móc vào thanh gỗ cứng. Hai cổ tay của người bị tình nghi bị buộc vào thanh gỗ thế là ta bị treo bằng tay cách nhau yard. Vì được đứng chân mình, ta cảm thấy đau khủng khiếp.

      Chân ta bị treo cách sàn bốn inch, mắt cá chân bị buộc vào thanh gỗ dài yard. Người tù bị treo thành hình chữ X khiến cho mọi bộ phận cơ thể ta đều đau đớn; ta bị treo giữa phòng, có thể bị đánh từ mọi hướng. Omar Khatib để chiếc roi mây chiếc bàn bên cạnh và vòng ra trước mặt ta. Tiếng thét hãi hùng của người đàn ông sau 50 đòn đầu tiên ngừng lại, để bật ra những tiếng rền rĩ van lơn. Khatib nhìn chằm chằm vào mặt ta.

      - điên lắm, bạn của tôi ạ. có thể kết thúc tất cả những chuyện này dễ dàng lắm mà. phản bội Rais, nhưng ông ấy tha thứ thôi. Tôi chỉ cần lời khai của .

      - , tôi xin thề. có thánh Allah . . . Allah vĩ đại, tôi chẳng hề phản bội ai hết.

      Người đàn ông rên rỉ như đứa trẻ con, nước mắt ràn rụa mặt. ta mềm yếu, Khatib nhận ra như vậy; việc này tốn mấy thời gian nữa.

      - Có chứ, phản bội. Có thánh Allah - có biết như thế có nghĩa là thế nào ?

      - Có chứ ạ, người đàn ông thầm.

      - Và biết ở đâu được an toàn ?

      Khatib nâng đầu gối lên đánh mạnh về phía trước. Người đàn ông muốn tránh nhưng nổi. ta nôn ọc cả người mềm oặt ra.

      - Có - gì?

      - Có thưa sayid.

      - Tốt hơn rồi đấy. Thế Cú đấm của Thượng đê được giấu ở đâu nào - kẻ thù chúng ta thể biết được chúng phải nào?

      - , sayidi, đó là bí mật.

      Bàn tay Khatib vung lên và chìa ra trước mặt người tù.

      - Manyouk, manyouk. thế bằng cách nào máy bay kẻ thù lại có thể đến đánh bom và phá hủy của chúng ta vào sáng sớm?

      Người tù mở to mắt, cơn choáng làm ta quên hổ thẹn của lời lăng nhục. Trong tiếng A-rập manyouk có nghĩa là người đóng vai đàn bà trong các cặp tình nhân đồng tính luyến ái nam.

      - Nhưng thể thế được. Chỉ có rất ít người biết được về Al Qubai...

      - Nhưng kẻ thù lại biết... Chúng phá hủy chúng.

      - Sayidi, tôi thề đấy. thể được đâu. Chúng bao giờ có thể tìm ra. Người xây dựng nó, tướng Badri, nguy trang nó rất kỹ mà...

      Cuộc hỏi cung tiếp tục thêm chừng nửa giờ nữa cho đến khi có kết luận cuối cùng.

      Khatib bị chính Rais cắt dứt dòng hồi tưởng.

      - Thế kẻ phản bội là ai vậy?

      - Tên kỹ sư, tiến sĩ Salah Siddiqui, thưa Rais.

      khoảng im lặng. Tổng thống chậm rãi gật đầu, như thể ông nghi ngờ toàn bộ con người này.

      - Có thể hỏi, Hassan Rahmani , thằng cha nó làm việc cho ai?

      Khatib liếc cái nhìn nham hiểm về phía Rahmani và ngừng lúc.

      - Điều đó chịu , sayid Rais.

      - Nhưng , thôi, tổng thống .

      - Sayid Rais, Khatib thầm, tôi e rằng tôi phải báo cáo rằng vào cuối cuộc hỏi cung này, kẻ phản bội chết.

      Rahmani chồm lên, quên hết cả nghi thức.

      - Thưa tổng thống, tôi phải phản đối. Điều này cho thấy kém năng lực đến khó tin. Tên phản bội hẳn phải có đường dây liên hệ với kẻ thù, con đường mà ta gửi các thông tin. Chúng ta thể biết được.

      Khatib ném vào cái nhìn của lòng thù hận cháy bỏng mà Rahmani, người đọc Kipling khi còn là đứa trẻ ở trường của ông Hartley. nhớ đến Krait, con rắn kêu lên "Cẩn thận, ta chết dây".

      - Ông có thể gì nào? Rais hỏi.

      Khatib ngẩn người! "Sayid Rais, tôi phải gì ư? Những người phục vụ dưới quyền tôi kính ngài như cha đẻ của họ vậy - , còn hơn thế nữa. Họ có thể chết cho ngài. Khi họ nghe rằng thằng cha này phản bội... quả là sao chịu nổi."

      Ngu thế cơ chứ, Rahmani nghĩ. Nhưng Rais lại chậm rãi gật đầu. Đó là kiểu mà ông ta rất thích nghe.

      - Có thể hiểu được chứ, Rais . Những việc như thế xảy ra đấy. Còn , thưa tướng quân Rahmani, chỉ trích đồng nghiệp của mình, thế có thành công nào chưa? Có thể thấy rằng Rahmani mấy quan tâm đến Rafeek, "đồng chí". cần phải thận trọng, rất thận trọng.

      - Có máy phát tại Baghdad này, sayid Rais.

      chuẩn bị điều thiếu tá Zayeed cho biết. nghĩ cần thêm vào câu cuối cùng. - thêm lần chuyển tin nữa, nếu chúng tôi tóm được, tôi nghĩ chúng tôi tóm được tên gửi chúng ". - nhưng quyết định có thể chờ đợi thêm.

      - Thế sau khi kẻ phản bội chết: Rais , tôi có thể nhắc lại với điều tôi hai ngày trước. Cú đấm. của Thượg đế bị phá hủy, thậm chí còn bị chôn vùi. 24 giờ sau vụ ném bom, tôi lệnh chuyển nó ra chỗ khác an toàn hơn.

      Mất nhiều giây những tiếng vỗ tay mới chấm dứt như đám đông ngưỡng mộ người chỉ huy thiên tài của mình.

      Ông ta với họ vũ khí được chuyển đến Pháo đài, nơi thể với đến. và từ Qa'ala nó có thể được phóng ra, để thay đổi toàn bộ lịch sử, vào ngày đầu tiên, chiếc ủng đầu tiên của bộ binh Mỹ bước lên vùng đất thánh Iraq.

    4. Nữ Lâm

      Nữ Lâm Well-Known Member

      Bài viết:
      23,871
      Được thích:
      22,185
      CHƯƠNG 20


      Tin tức về việc những chiếc Tornado của trượt mục tiêu thực của mình tại Al Qubai là cú sốc lớn đối với người đàn ông chỉ được biết đến với cái tên Jericho. Ông ta chỉ có thể cũng tự bắt mình vỗ tay phụ họa để tỏ lòng ngưỡng mộ Rais của mình như tất cả những người khác.

      Trong chiếc xe bus cửa sổ đen ngòm cùng với các vị tướng khác chuyển đến trung tâm Baghdad, ông ta ngồi im lặng ở băng ghế sau, chìm vào những suy nghĩ của riêng mình.

      Việc sử dụng thứ vũ khí được cất giấu ở đâu đó - tại chỗ có tên là Qa'ala, Pháo đài, mà ông ta chưa từng nghe đến tên và cũng biết nằm ở đâu - có thể gây ra nhiều, rất nhiều cái chết, chắc chắn thể nào là ít được. Chính vị thế của ông ta làm ông ta lạc lối. Trong ba năm liền ông ta mạo hiểm tất cả mọi thứ - an toàn, sụp đổ, và cái chết ghê rợn - để phản bội lại chế độ của chính đất nước mình. Vấn dề chỉ đơn giản là xây dựng gia tài khổng lồ cho mình ở nước ngoài; ông ta có thể làm được điều đó bằng cách lạm dụng chức quyền của mình, ngay ở Iraq này, dù làm việc đó ở đây cũng phải là có nguy cơ gì.

      Vấn đề là phải ra được nước ngoài với lý lịch và hình dạng khác hẳn, do những người nước ngoài trả tiền cho ông ta chu cấp: được bảo đảm an toàn khỏi các đội hành hình chuyên ám sát. ông ta nhìn thấy số phận của những người chỉ đơn giản là ăn cắp và sau đó chạy trốn; họ thường trực sống trong nỗi sợ hãi cho đến ngày, những người báo thù Iraq tóm cổ được họ.

      Ông ta, Jericho, muốn cả giàu có lẫn an toàn, vì lẽ đó ông ta vui mừng khi người đứng sau mình chuyển từ Israel sang Mỹ. Họ có thể lo cho ông ta, do phụ thuộc vào lời cam đoan, và tạo cho ông ta lý lịch mới, cho phép ông ta trở thành người khác với quốc tịch khác, mua cho ông ta ngôi nhà đẹp đẽ cạnh bờ biển tại Mexico, nơi ông ta sống cuộc sống nhàn nhã và đầy đủ.

      Giờ đây mọi chuyện bắt đầu thay đổi. Nếu ông ta im lặng và thứ vũ khí đó được sử dụng, người Mỹ có thể nghĩ ông ta dối về Al Qubai. ông dối, nhưng trong khi giận dữ họ bao giờ quên điều đó. Tệ hơn thế nhiều, người Mỹ có thể phanh phui tài khoản của ông ta, và điều này có thể được làm vì lẽ gì cả. Bằng cách nào đó ông ta phải báo cho họ rằng nhầm lẫn. Nhiều nguy cơ hơn, và có thể mọi chuyện qua - Iraq thất bại, Rais bị đổ, và ông ta, Jericho, thoát khỏi nơi đây và cao chạy xa bay.

      Trong văn phòng riêng ông ta viết bức thông điệp của mình, vẫn bằng tiếng Arập, tờ giấy mỏng để lộ mấy khoảng trống. Ông ta giải thích về cuộc họp tối đó; rằng khi ông ta gửi thông tin trước, vũ khí đúng là có ở Al Qubai. Như ông ta , nhưng trong 48 giờ sau đó khi những chiếc Tornado rút , nó được chuyển chỗ. Đó phải là lỗi của ông ta.

      Ông ta muốn tất cả những gì mình biết: rằng có địa điểm bí mật tên là Pháo đài; rằng vũ khí nằm ở đó, và từ Qa'ala nó có thể được phóng ra khi người Mỹ đầu tiên vượt qua biên giới lraq.

      Ngay sau nửa đêm, ông ta chiếc xe ôtô biển số và biến mất vào trong những đường phố tối om của Baghdad. ai dám hỏi ông ta đâu, ai dám. Ông ta để bức thông điệp của mình dưới cán cờ trong cái sân cũ ở đường Abu Nawas, rồi đánh dấu phấn sau nhà thờ Thánh Joseph ở khu của người Thiên chúa giáo. Lần này dấu phấn có hơi khác chút. Ông ta hy vọng người mà ông ta biết thường đến nhận tin của mình để mất thời gian.

      Và quả đúng là như vậy, Mike Martin rời khỏi ngôi biệt thự của người Xôviết rất sớm vào buổi sáng ngày 15 tháng Hai. Người đầu bếp Nga đưa cho danh sách dài thức ăn tươi cần mua, danh sách rất khó để có thể thực đầy đủ Đồ ăn thức uống hiếm dần. còn những người nông dân ở nông thôn nữa; có những vấn đề về vận chuyển. Hầu hết các cây cầu đều bị phá. Vùng đồng bằng trung tâm của Iraq là vùng đất với những con sông cung cấp nước tưới cho cây cối, là nguồn thực phẩm cho Baghdad. Buộc phải trả chi phí tàu phà để qua được những con sông đó, những người sản xuất nghĩ tốt hơn hết là ở lại nhà mình.

      may mắn, Martin lại bắt đầu từ chợ gia vị ở đường Shurja, rồi đạp xe đến nhà thờ Thánh Joseph để đến con đường vòng sau nhà thờ. Khi nhìn thay dấu phấn, thiếu điều nhảy dựng lên. Dấu phấn bức tường đặc biệt này luôn được thỏa thuận là số 8 viết đúng chiều, với nét ngắn qua giao điểm của hai đường tròn. Nhưng Jericho trong trường hợp thực khẩn cấp thay nét ngắn bằng hai đường tròn , mỗi cái trong hình tròn tạo nên số 8 đó.

      Hôm nay dấu vết quả là như thế. Martin đạp vội đến cái sân đường Abu Nawas, đợi cho đến khi mọi người cả, lại dừng xe cúi xuống như thể sửa dép, luồn tay vào kẽ tường, và tìm thấy cái bì thư mềm. Khoảng giữa trưa, trở về ngôi biệt thự, giải thích cho ông bếp cáu kỉnh rằng cố lắm nhưng thực phẩm hôm nay chẳng chịu đến thành phố gì cả. có thể quay lại để mua vào buổi chiều.

      Khi đọc thông điệp của Jericho, cảm thấy lạnh toát như người bị cơn sợ rất lớn. Martin thảo nhanh thông điệp của chính mình, giải thích cho Riyadh tại sao cần phải tự mình đứng ra giải quyết theo cách riêng của mình. còn đủ thời gian cho những cuộc họp ở Riyadh và những lần gửi tin tức qua lại nữa. Điều tồi tệ nhất, đối với , là tin Phản gián Iraq biết được về máy phát tin bất hợp pháp gửi những tín hiệu mật. có thể biết họ ở gần mình đến đâu, nhưng phải đặt giả thuyết thể tiếp tục gửi tin với Riyadh được nữa. Do đó phải tự mình ra quyết định.

      Martin đọc thông điệp của Jericho bằng tiếng Arập trước, rồi dịch sang tiếng vào máy thu. đọc luôn vào đó thông điệp của chính mình và chuẩn bị để gửi . thể gửi tin cho đến đêm muộn - đêm luôn được chọn vì cả nhà Kulikov đều ngủ sớm. Nhưng, cũng giống như Jericho, có cách liên lạc trong những trường hợp khẩn cấp

      Đó là lần chuyển tin với thanh dài và sắc, trong trường hợp này, là tiếng huýt gió cao, tần số khác hẳn, so với dải VHF vẫn thường sử dụng. kiểm tra lại xem người lái xe cùng Bí thư thứ nhất Kulikov đến đại sứ quán ở trung tâm thành phố chưa và người quản gia Nga cùng vợ mình ăn trưa. Rồi. dù có nguy cơ bị lộ, vẫn dựng đĩa vệ tinh ra gần cứa ra vào mở rộng và gửi tiếng còi dài.

      Trong căn phòng trực đài, phòng ngủ trước đây trong ngôi biệt thự của SIS tại Riyadh, ánh đèn lóe lên. là hai giờ rưỡi chiều. Người trực điện, nhận những thông tin thường ngày giữa ngôi biệt thự và London, ngừng việc mình làm, kêu to qua cánh cửa, và mở máy Nhận với tần số ngày hôm đó.

      Kỹ thuật viên thứ hai thò đầu vào cửa.

      - Cái gì thế

      - Gọi Steve và Simon nhanh lên. Tin của Râu Đen đấy, khẩn lắm.

      Người đó biến . Martin cho Riyadh 15 phút, rồi chuyển bức thông diệp chính.

      Riyadh phải duy nhất có đài bắt được tín hiệu này. Ngoài thành phố Baghdad, đĩa vệ tinh khác, chầm chậm quét dải bằng VHF, cũng bắt được phần trong đó. Bức thông điệp dài đến mức, dù được làm ngắn , vẫn kéo dài tới 4 giây. Những người nghe trộm Iraq bắt được 2 giây cuối và định vị dược.

      Ngay khi gửi , Martin đóng ngay máy lại và giấu nhanh thiết bị của mình xuống dưới những tấm tôn ở sàn nhà. làm nghe có tiếng bước chân sỏi. Đó là người đầu bếp người Nga, vốn tốt bụng, qua sân để cho điếu thuốc Balkan. Martin nhận nó với trống ngực đập dữ dội và thầm "Shukran".

      Người Nga, tự hào vì lòng tốt của mình, quay trở lại ngôi nhà. "Tội nghiệp chưa kìa". nghĩ. "Đúng là cuộc đời".

      Khi ở lại mình, kẻ tội nghiệp bắt đầu viết những ký tự Arập sít tờ giấy viết thư để dưới cái hộp. Trong khi làm thế, thiên tài về phát thanh tên là thiếu tá Zayeed bản đồ thành phố có tỉ lệ xích cực kỳ cao, đặc biệt về quận Mansour. Khi kết thúc những tính toán của mình, ta kiểm tra lại lần nữa cho chắc ăn rồi gọi cho thiếu tướng Hassan Rahmani ở đại bản doanh đóng tại Mukhabarat, cách ngôi nhà hình viên kim cương ở Mansour 500 yard mà dò tìm bằng mực xanh. Cuộc gặp gỡ được ấn định vào lúc 4 giờ.

      Tại Riyadh, Chip Barber vòng quanh căn phòng khác chính của ngôi biệt thự với tờ giấy in tay, theo cách thức ông ta chưa từng lặp lại kể từ rời khỏi Hải quân 30 năm trước.

      - ta làm cái quỷ quái gì vậy? ông hỏi hai sĩ quan tình báo cũng ở trong phòng.

      - Dễ hiểu thôi mà, Chip. Laing . ta phải làm cái quỷ quái dài hạn. ta gặp nguy hiểm lớn đấy. Bọn xấu ở gần ta lắm rồi. Mọi đường dây đều cho chúng ta biết chúng ta nên rút ta ra khỏi đó - ngay bây giờ.

      - Phải, tôi biết chứ, ta là tay cừ. Nhưng ta có quyền làm như thế. Chúng ta là người ra lệnh chứ, nhớ nào?

      - Chúng tôi nhớ chứ, Paxman , nhưng ta là người của chúng tôi, và ta gặp nguy hiểm. Nếu ta chọn ở lại, có nghĩa là hết chuyện, cho các cũng như cho chúng tôi.
      Barber bình tĩnh lại.

      - Ba triệu đôla. Làm thế quái nào tôi có thể với Langley ta cho Jericho thêm ba triệu đôla lần này cơ chứ? Thằng cha Iraq này có quyền đòi hỏi rồi cơ đấy. Với tất cả những gì tôi biết được, ta dang chơi trò lường gạt để kiếm tiền thôi.

      - Chip, Laing . chúng ta đến chuyện nghiêm túc đấy nhé.

      - Có thể, Barber nhăn nhó, có thể chúng ta . Có thể Saddam có đủ uranium vào lúc này rồi, có thể ông ta lúc này lắp đặt xong tất cả. Mọi thứ chúng ta thực có là những tính toán của số nhà khoa học và lời tuyên bố của Saddam - nếu thực tế lão ta từng thế. Mẹ kiếp, Jericho là thằng chỉ giỏi moi tiền. ta có thể dối lắm chứ. Các nhà khoa học có thể sai lầm, Saddam có thể dối, vẫn thế mà. Thế tại sao lại có thể chi khoản tiền như thế

      - Ông muốn nhận mạo hiểm về phần mình à? Laing hỏi.

      Barber đung đưa người cái ghế.

      - , ông ta chậm rãi , đâu. Tốt thôi, tôi giải quyết vấn đề đó với Washington. Rồi chúng tôi với các vị tướng. Họ phải được biết điều này. Nhưng tôi với các điều nhé: ngày nào đó tôi gặp thằng cha Jericho này, và nếu chơi chúng ta, tôi đấm vỡ mặt và dần đến chết thôi.

      Bốn giờ chiều hôm đó, thiếu tá Zayeed mang theo các bản đồ và các tính toán của mình đến văn phòng của Hassan Rahmani. ta cẩn thận trình bày rằng hôm đó ta đảm bảo chính xác các tính toán của mình và thu hẹp được địa chỉ ở Mansour. Rahmani nhìn ta nghi ngờ.

      - Chỉ còn 100 yard vuông nữa thôi, ta . Tôi nghĩ công nghệ đại có thể tìm ra nguồn của lần chuyển tin này với độ chính xác yard vuông.

      - Nếu tôi bắt được lần chuyển tin dài, phải, tôi có thể, viên thiếu tá trẻ kiên nhẫn giải thích. Tôi có thể tìm ra chỗ của máy nhận lớn hơn yard vuông đâu. Cộng cái đó với mẩu tin bắt được từ vị trí khác, thế là ta có được yard vuông cần thiết. Nhưng chúng ngắn khủng khiếp. Chúng chỉ xuất trong trung có hai giây là tắt. Cái tốt nhất tôi thu nhận được là dải sóng hình nón rất hẹp, điểm của máy nhận, ở ngoài nước và rộng lắm. Có thể góc của giây của độ com pa. Nhưng chỉ cách có hai dặm, và chúng ta có được 100 yard vuông. nó vẫn là diện tích thôi mà.

      Rahmani nhìn vào bản đồ. Địa điểm được đánh dấu gồm có 4 ngôi nhà.

      - Thế đến thử đó xem sao, ta gợi ý.

      Hai người theo bản đồ khu Mansour cho đến khi tới được địa điểm. nêu. Đó là khu sang trọng và rất giàu có. Bốn toà nhà đều kín cổng cao tường, và là đất riêng. Trời tối khi họ đến được nơi.

      - Sáng mai hãy khám xét họ, Rahmani . Tôi cho quân đội đến phong toả khu vực, nhưng kín đáo thôi. biết tìm gì rồi mà. vào cùng với các chuyên gia của mình và kiểm tra cả bốn chỗ, nhưng cách riêng biệt. Nếu tìm ra, có nghĩa chúng ta bắt được tên gián điệp.

      - vấn đề là, viên thiếu tá , có nhìn thấy cái bảng đồng đằng kia ? Nhà của đại sứ quán Liên Xô đấy.

      Rahmani suy nghĩ. hề muốn làm phát sinh vụ ầm ĩ mang tầm quốc tế.

      - Thế kiểm tra ba toà nhà kia trước , ra lệnh Nếu tìm thấy gì, tôi xử lý nhà của người Liên Xô với giúp đỡ của Bộ Ngoại giao.

      Trong khi họ chuyện, nhân viên của toà nhà Liên Xô đó ở cách xa ba dặm. Người làm vườn Mahmoud Al- Khouri ở nghĩa trang cũ của người , đặt phong bì thư mỏng vào chiếc bình bằng đá dưới tấm bia mộ. Sau đó: đành dấu phấn lên bức tường của toà nhà Hội Nhà báo. Trong khi về quận Mansour khi khuya lắm, nhận ra ngay trước nửa đêm rằng vệt phấn biến mất.

      Tối đó có cuộc họp ở Riyadh. cuộc họp rất kín tại văn phòng kín đáo dưới toà nhà Bộ quốc phòng Arập Xêut hai tầng ngầm. Bốn vị tướng có mặt, trong số đó ngồi ở đầu bàn, cộng thêm hai người mặc đồ dân , Laing và Barber. Khi những người dân ngừng , bốn vị tướng ngồi trong im lặng bão tố.

      - Việc đó là nghiêm túc đấy chứ? trong số những người Mỹ hỏi.

      - trăm phần trăm. Barber , chúng tôi chắc. Nhưng chúng tôi nghĩ rất nhiều khả năng thông tin đó là đúng.

      - Cái gì làm chắc chắn đến thế hả? viên tướng của USAF hỏi.

      - Như các ông chắc cũng từng đoán. từ cách đây vài tháng chúng tôi cá chìm làm việc cho chúng tôi ở chức vụ cao ở Baghdad.

      Nhiều nụ cười mỉa mai ra.

      - Xin đừng rằng thông tin về mục tiêu đến từ quả bóng chiêm tinh của Langley nữa nhé, vị tướng của quân , vẫn còn thù CIA vì làm ông mất các phi công.

      - Vấn đề là, Laing , cho đến giờ, chúng tôi vẫn chưa hề thấy thông tin nào của ta là chính xác cả. Nếu ta dối chúng ta vào lúc này, kỳ quặc. Thứ hai, chúng ta liệu có sẵn sàng chấp nhận nguy cơ này ?

      yên lặng kéo dài trong nhiều phút.

      - Có việc người của các lầm. Người chỉ huy USAF . Vận chuyển.

      - Vận chuyên ư? Barber hỏi.

      - Đúng đấy. có vũ khí là chuyện: chuyên chở nó ngay trước mũi kẻ thù lại là chuyện khác. Xem nào, ai có thể tin Saddam lại có tài thu mọi vật. Cái đó đòi hỏi công nghệ cực kỳ cao. Tóm lại ông ta thể bắn cái thứ đó đâu, nếu quả ông ta có nó, từ nòng súng xe tăng. Hay là thứ pháo bình thường. Hoặc khẩu đội theo kiểu Cachiusa. Hoặc hoả tiễn.

      - Thế tại sao phải là bằng rocket được: thưa Tướng quân?

      - Vì tải trọng của nó. viên phi công vẻ châm chọc. Cái thứ tải trọng quỷ quái. Nếu đó là thứ vũ khí dữ dội. chúng ta phải tìm được đến nửa tấn. Tức là chừng 1000 pound. Nếu giờ đây chúng ta biết được những quả tên lửa Al-Abeid và Al-Tammuz vẫn chỉ được phát triển khi chúng ta nghiền nát dụng cụ ở Saad-l6. Al.Abbas và Al-Badr, cũng giống thế. thể được đâu - dù là nghiền ra hay tải trọng cực .

      - Thế còn Scud sao? Laing hỏi.

      - Cũng thế thôi, vị tướng . Tầm xa được gọi là Al- Husayn làm vỡ nòng khi bắn và có tải trọng lên tới 160 kg. Ngay cả với tên lửa Scud do Liên Xô tài trợ cũng chỉ có tải trọng tối đa lên tới 600 kg. Quá .

      - Thế vẫn còn quả bom ném từ máy bay, Barber gợi ý.

      Viên tướng quân nhăn mặt: " Thưa các quý ngài, tôi dám đưa ra đảm bảo của riêng mình, bây giờ và ở đây: kể từ lúc này. máy bay chiến đấu nào của Iraq ra được tới biên giới nữa.

      Thậm chí thể rời được đường bay. Những cái về phía nam bị bắn hạ cách biên giới nửa dặm. Tôi có đủ AWACS, đủ máy bay chiến đấu - tôi có thể đảm bảo điều đó.

      - Thế còn Pháo đài sao? Laing hỏi. Cái máy phóng, hangar tuyệt đối bí mật.có thê là ngầm dưới đất. thứ chỉ rất ít người biết: có chiếc Mirage, chiếc MIG, Sukhoi - được lắp đặt và sẵn sàng . Nhưng chúng ta tóm được nó trước khi nó đến biên giới.

      Quyết định được đưa ra bởi vị tướng Mỹ ngồi đầu bàn chủ trì.

      - Các tìm kiếm nơi đó . cái pháo đài ấy? Ông trầm tĩnh hỏi.

      - Có thưa ngài. Barber . Chúng tôi bây giờ thử rồi.

      - Chúng tôi cho rằng mất nhiều ngày nữa đâu.

      - Hãy tìm ra nó , và chúng tôi tiêu diệt nó.

      - Thế còn thời hạn đổ quân sắp tớỉ. thưa ngài? Laing hỏi.

      - Tôi cho các biết sau nhé.

      Tối đó, được thông báo rằng cuộc tấn công bộ vào Kuwait và Iraq được hoãn lại và được lên lại kế hoạch vào ngày 24 tháng Hai.

      Sau này. các sử gia đưa ra hai nguyên nhân cho trì hoãn này. : Hải quân Mỹ muốn chuyên trục tấn công chính sang xa hơn vài dặm về phiía tây và như thế cần rất nhiều vận chuyển, về đồ đạc, và các chuẩn bị khác nữa. Điều này cũng là đúng.

      Lý do thứ hai trước báo chí cho rằng hai tên tin tặc người đột nhập hệ thống máy tính của Bộ Quốc phòng và phá mất các thông tin về dự báo thời tiết cho khu vực tấn công, gây ra hoang mang đối với lựa chọn ngày tốt nhất cho cuộc tấn công từ quan điểm khí hậu.

      thực tế, thời tiết vẫn đẹp và trong giừa ngày 12 và ngày 24, và nó chỉ xấu khi đội quân tiên phong bắt đầu tiến lên.

      Tướng Norman Schwarzkopf là người đàn ông to lớn và mạnh khoẻ, về thể chất cũng như tinh thần. Nhưng tâm trạng của ông có thể thay đổi tuỳ thuộc vào những ngày vừa qua bắt đầu với ông.

      Ông làm việc mỗi ngày 20 tiếng đồng hồ trong suốt 6 tháng mà nghỉ. Ông chỉ được coi là nhà quân lớn nhất và nhanh nhất trong lịch sử, kỷ lục có thể hạ gục người kém cỏi hơn, nhưng ông cũng phải đối mặt với những điều phức tạp về quan hệ với những điều nhạy cảm trong xã hội Arập Xêut, phải giữ cho được hoà bình hàng chục lần có nguy cơ làm tan rã Liên quân, và phải nghe theo những can thiệp rất nhiều nhưng chẳng mấy cần thiết của đồi Capitol.

      Và đó còn chưa phải là mọi thứ quấy nhiễu giấc ngủ cực kỳ cần thiết của ông trong những ngày vừa qua. Chính trách nhiệm về những sinh mệnh trai trẻ khiến ông có những cơn ác mộng.

      Trong cơn ác mộng, có tam giác. Luôn như thế. Đó là tam giác đất đều đặn, nằm bờ của nó. Cái có thể là đáy của tam giác là được từ Khafji trải xuống qua Jubail cho đến ba thành phố nối liền với nhau là Dammam, Al Khoba và Dhahran.

      Đường chéo của tam giác là đường biên giới chạy sang phía tây từ bờ biển, đầu tiên là giữa Arập Xêut và Kuwait, rồi vào trong sa mạc để trở thành biên giới của Iraq. Đường trung trực là đường nối điểm ngoài cùng phía tây trong sa mạc với bờ biển ở Dhahran.

      Trong tam giác đó gần nửa triệu đàn ông và đàn bà ngồi đợi lệnh của ông. 80 phần trăm trong số họ là người Mỹ.

      Phía đông là người Xêut, những đội quân Arập khác, và Hải quân. Tại trung tâm là các đơn vị bộ binh Mỹ đồ sộ trang bị tối tân. và giữa họ là Sư đoàn Thứ nhất của . Ớ sườn bên kia là người Pháp.

      Lại thêm lần nữa, cơn ác mộng lại là hàng chục nghìn chàng trai trẻ đổ vào để tấn công, để rồi phải hứng lấy trận mưa khí độc và chết giữa những bức tường cát và hàng rào dây thép. Giờ đây mọi chuyện lại còn tồi tệ hơn.

      Chỉ mới tuần trước thôi, quan sát tam giác bản đồ quân , sĩ quan tình báo Quân đội thực tế gợi ý, có thể Saddam định đặt quân ở đây". Người đó từng nghĩ là mình đùa.

      Đêm đó, vị tướng tổng chỉ huy lại cố ngủ và lại thất bại. Luôn là cái Tam giác. Rất nhiều người, và gian quá hẹp.

      Tại biệt thự của SIS, Laing, Paxman, và hai kỹ thuật viên phát thanh chia nhau cái gì đó được bí mật mang từ Đại sứ quán đến. Họ cũng nghiên cứu bản đồ; họ cũng nhìn thấy cái Tam giác. Họ cũng cảm thấy kinh sợ.

      - Quả bom khốn khiếp, quả bom , tàn bạo chết mẹ, lần đầu tiên sau quả bom Hiroshima ở đây quả khác, khí tung lên hay mặt đất tung lên... Laing .

      Họ cần đến các nhà khoa học để biết được rằng vụ nổ đầu tiên có thể giết chết 100.000 người lính trẻ trung. Trong nhiều giờ, cơn mưa phóng xạ, nhiễm vào hàng tỷ tấn cát trong sa mạc, có thể bắt đầu tác hại, làm mọi thứ đường của nó phải chết.

      Những chiếc tàu đậu ngoài biển có thể còn đủ thời gian để chạy thoát, nhưng những đội quân đóng mặt đất ở các thành phố Arập Xêut này thể. Về phía đông nó có thể lan rộng về phía Bahrain và các sân bay của Liên quân, làm nước biển nhiễm xạ, qua cho đến bờ biển của Iran, tại đó loại trừ những người mà Saddam Hussein từng tuyên bố là xứng đáng được sống - " Bọn Ba Tư, bọn Do Thái,. và ruồi"

      - ta nhất định thể phóng nó được. Paxman thể có quả hoả tiễn hay máy bay có thể làm được việc đó.

      Rất xa về phía bắc, giấu mình trong Jebal ở Hamreen, rất sâu trong nòng khẩu súng với nòng dài 180 mét và tầm bắn hàng nghìn km. Cú đấm của Thượng đế nằm im lìm nhưng sắp được gọi để bay lên.

      Ngôi nhà ở Qadisiyah chỉ mới lơ mơ tỉnh dậy và còn chưa chuẩn bị cho các vị khách đến vào lúc bình minh. Khi người chủ nhà xây nó vào nhiều năm trước. nó được đặt vào giữa vườn hoa lan lớn. Nó nằm đó cách bốn biệt thự ở Mansour mà thiếu tá Zayeeh của Cục phản gián chuẩn bị để giám sát đúng ba dặm. lan rộng của vùng ngoại ô tây nam của Baghdad bao bọc lấy ngôi nhà, và đường cao tốc Qadisiyah lao lên qua cái từng là những đồng ruộng trồng lê và mơ.

      Nó vẫn là ngôi nhà đẹp thuộc sở hữu của người giàu có từ lâu về hưu, kín cổng cao tường và vẫn giữ được số cây ăn quả ở cuối vườn.

      Có hai chiếc xe tải lớn đầy lính AMAM dưới chỉ huy của thiếu tá, và họ tham dự vào vở kịch. Khóa của cửa chính bị phá, cánh cổng bị đá tung, và bọn lính ùa vào, phá tung cánh cửa trước và đánh người hầu cố ngăn chúng lại.

      Họ chạy qua ngôi nhà, lật tung các chạn bát và đồ đạc. trong khi người đàn ông chủ ngôi nhà kinh hoàng cố phòng thủ và bảo vệ vợ mình.

      Bọn lính xông vào khu đất trống và tìm thấy gì. Khi người đàn ông cầu xin chúng cho ông ta biết họ muốn tìm gì, viên thiếu tá chỉ ông ta biết quá còn gì. và kiểm tra lại tiếp tục.

      Sau ngôi nhà, bọn lính khám đến khu vườn. T'ại góc vườn gần bức tường chúng tìm thấy đất mới được đào lên. Hai trong số chúng giữ lấy người đàn ông trong khi bọn còn lại đào. Ông kêu lên là mình biết thế quái quỷ nào mà đất lại được đào lên, rằng ông ta giấu cái gì hết. Nhưng chúng tìm thấy.

      Đó là cái túi rộng và có thể nhìn thấy. Khi chúng đổ nó ra, bộ điện đàm. Người đàn ông chẳng hề biết gì về đài phát thanh, cũng thể biết rằng chiếc máy phát tín hiệu Morse ở trong cái túi chẳng liên quan gì tới máy phát siêu đại qua vệ tinh mà Mỉke Martin sử dụng và vẫn nằm dưới sàn nhà ở vườn nhà Bí thư thứ nhất Kulikov. Đối với viên thiếu tá AMAM. cứ điện thoại là đồng nghĩa với gián điệp, và chỉ cần như thế là đủ.

      Ông già bắt đầu than vãn rằng ông chưa từng nhìn thấy nó trước đây, rằng ai đó hẳn là vượt tường vào ban đêm để chôn nó ớ đó, nhưng bọn lính AMAM đánh ông ngã bằng báng súng, và vợ ông cũng bị chúng đánh khi bà kêu lên.

      Viên thiếu tá kiểm tra chiến lợi phẩm, và thậm chí có thể nhìn thấy số ký tự cái túi dường như là chử Hebrew.

      Họ hề muốn bắt người hầu của ngôi nhà hay bà vợ - mà chỉ người đàn ông, ông vào khoảng 70 tuổi, nhưng chúng lôi ông xềnh xệch, mắt cá và cổ tay bị bọn lính túm lấy, và ông ta bị đẩy lên thùng xe tải giống như cái túi đựng cá.

      Viên thiếu tá rất hoan hỉ. Hành động theo lời tố cáo nặc danh, ta hoàn thành được nhiệm vụ của mình. thượng cấp của hẳn mừng lắm. Đó phải là trường hợp cho nhà tù Abu Ghraib. chở người tù của mình đến đại bản doanh AMAM và Nhà tập. lý luận, đó là chỗ duy nhất cho bọn gián điệp Israel.

      Cùng ngày hôm đó l6 tháng Hai. Gidi Barzilai ở Paris, cho Michel Levy xem bức tranh. Ông già chuyên gia đồ cổ cũng là sayan rất vui mừng vì có thể giúp được cho Gidi. Trước đây ông ta mới được nhờ làm việc có lần, việc chuyển số đồ đạc cho katsa để cố xâm nhập tòa nhà nào đó, vào vai tay trung gian đồ cổ.

      Với Michel Levy là mừng và phấn khích, cái gì đó làm sống động trở lại cuộc sống của người luống tuổi khi được Mossad hỏi và có thể giúp đỡ theo cách nào đó

      - Boulle. ông ta .

      - Xin ông tha lỗi nhé, Barzilai , nghĩ mình quá đường đột.

      - Boulle. ông già nhắc lại. Được đánh vần là B-u-h-l. Nghệ nhân làm bàn nổi tiếng người Pháp. Phong cách của ông ta, thấy , nét. có thấy . phải ông ta làm đâu. Thời đó quá xa đối với ông ta.

      - Thế ai làm?

      Mexừ Levy khoảng hơn 80 tuổi, với mái tóc trắng mảnh cái sọ méo mó, nhưng đôi má hồng hào và đôi mắt sáng vẫn long lanh niềm vui sống. ông cho kaddish cho nhiều người trong thế hệ của ông ta.

      - Tốt, Boulle khi chết nhường lại cửa hàng của mình cho người mà ông ta bảo trợ, German Oeben. Rồi theo truyền thống ông này lại để lại cho German khác là Riesener. Tôi nghĩ đây có thể vào thời Riesener. Chắc chắn là do bàn tay người thợ khéo, có thể chính là người chủ. định mua nó

      Ông ta nheo mắt, dĩ nhiên rồi. ông biết Mossad bao giờ mua đồ để sưu tầm nghệ thuật cả. Đôi mắt ông ta nhảy múa những ánh nhìn tinh quái.

      - Chỉ cần biết là tôi quan tâm đến nó. Barzilai .

      Levy rất vui vẻ. Họ lại giở những ngón nghề cũ ra rồi đây. Ông bao giờ biết được, nhưng như thế này cũng vui chán rồi.

      - Làm những bàn đó...

      - Bàn làm việc chứ, Levy .

      - Thôi được rồi, làm những cái bàn đó có ngăn bí mật nào ở bên trong ?

      - Càng lúc càng tốt hơn rồi đây - vui ! Ôi, phấn khích làm sao!

      - A, ý muốn đến cachette phải . Dĩ nhiên rồi. biết đấy, bạn trẻ, nhiều năm trước, khi người có thể bị gọi ra và bị giết trong cuộc dấu súng về vấn đề danh dự, quý bà có việc gì đó là bí mật. có điện thoại, fax. vi deo vào thời đó. Mọi thứ tư tưởng kỳ dị nhất của người tình bà ta được viết ra giấy. Thế bà ta phải giấu chồng mình như thế nào? phải trong tủ sắt trong tường - họ hề có đâu. Cũng phải trong cái hộp sắt - chồng bà ta có thể đòi đưa chìa khóa.

      Thế những người trong xã hội thời đó cần phải có những loại đồ gỗ có cachette. phải lúc nào cũng thế, nhưng cũng có lúc Cần phải làm khéo, nếu lộ mất.

      - Thế làm cách nào người ta có thể biết nếu thứ đồ như thế... nghĩ đến chuyện mua cái cachette như thế.

      Ôi thế này tuyệt quá rồi. Người đàn ông từ Mossad mua bureau của Riesner, ta cần phá cái như thế.

      - có muốn nhìn cái ? Levy hỏi.

      Ông ta gọi nhiều cú điện thoại, và lúc sau họ cùng ra khỏi cửa hàng của ông ta và lên chiếc xe bus. Đó là người môi giới khác. Levy trò chuyện lúc ngắn, người đàn ông gật đầu và để họ lại mình. Levy nếu ông ta có thể đảm bảo vụ mua bán, chỉ mất khoản phí đáng kể, và chỉ có thế. Người môi giới tỏ ra hài lòng: vẫn thường là như thế trong thế giới đồ cổ.

      Chiếc bàn mà họ xem xét rất giống cái ở Vienna.

      - Bây giờ, Levy , cái cachette rộng lắm đâu,. Nó có thể ở bên ngoài cũng như gắn ở bên trong. Nó rất mỏng. thẳng đứng hoặc nằm ngang. Có khả năng rộng hơn hai cm đâu, giấu trong cái ngăn có vẻ như rất cứng, rộng tới ba cm, nhưng thực tế có hai ngăn bằng gỗ với cái cachette nằm ở giữa. Đầu mối là cái nút bấm.

      Ông kéo trong hai ngăn cùng ra.

      - Đây này. ông ta .

      Barzilai sờ bằng đầu ngón tay cho đến đáy.

      - Vòng quanh xem nào.

      - Chẳng có gì cả. viên katsa .

      - Thế là bởi vì chẳng có gì , Levy . phải ở trong cái ngăn này. Nhưng có thể có cái nút hoặc lẫy gì đó.

    5. Nữ Lâm

      Nữ Lâm Well-Known Member

      Bài viết:
      23,871
      Được thích:
      22,185
      cái nút rất mềm. ấn vào đó : cần gạt, quay nó ; nếu là thanh ngang. hãy dịch chuyển sang hai bên, và xem điều gì xảy ra.

      - Cái gì xảy ra?

      tiếng động , và mẩu hoa văn bằng ngà thò ra, nhảy lên. Bên dưới đó là cái cachette.

      Ngay cả tài hoa của người thợ đồ gỗ thế kỷ XVIII cũng có chỗ hạn chế. Trong suốt giờ đồng hồ, mexừ Levy dạy cho viên katsa về mười chỗ cơ bản cần xem xét cái lẫy bí mật có thể làm mở được cái ngăn đó.

      - Đừng bao giờ cố đẩy mạnh quá để tìm. Levy nhấn mạnh vì nó đề lại dấu vết gỗ đấy.

      Ông ta liếc nhìn Barzilai và mỉm cười. Barzilai thết ông già bữa trưa thịnh soạn ớ nhà hàng Coupole, rồi taxi ra sân bay để quay về Vienna.

      Sáng sớm hôm đó, ngày 16 tháng Hai, thiếu tá Zayeed và đội của mình cũng có mặt ở ngôi biệt thự đầu tiên trong số ba biệt thự bị khám xét. Hai cái khác bị niêm phong, với những người án ngữ ở tất cả các lối vào và những người canh gác cẩn mật ở bên trong.

      Viên thiếu tá vô cùng lịch , nhưng lệnh của ta là thể chống lại. giống người của AMAM cách đó dặm rưỡi tại Qadisiyah, người của Zayeeh là các chuyên gia, rất ít gây ra các thiệt hại trong khi khám nhà, và rất hiệu quả trong việc tìm kiếm của mình.

      Bắt đầu từ tầng trệt, tìm kiếm lối vào của địa điểm bí mật dưới các mái tôn. rồi khắp nhà, từng phòng , từng tủ , từng hầm . Khu vườn cũng bị tìm kiếm, nhưng dấu vết nào được tìm thấy Trước buổi trưa, viên thiếu tá cuối cùng cũng thỏa mãn: xin lỗi những người sống trong đó và rời . ta bắt tay vào khám xét ngôi nhà kế bên.

      Tại căn phòng dưởi đại bản doanh của AMAM tại Saadun, ông già bị treo ngược. cổ tay cổ chân buộc chặt vào cái bàn gỗ và xung quanh là bốn chuyên gia khai thác lời khai. Ngoài những người đó ra, còn có bác sĩ, và tướng Omar Khatib bàn bạc với trung sĩ Ali ở góc phòng.

      Chính người chỉ huy của AMAM quyết định danh mục các đòn tra tấn được thực . Trung sĩ Ali nhướng lông mày; ta có thể, ta nhận ra, chắc chắn cần đến mọi biện pháp trong ngày hôm nay. Omar Khatib gật đầu đồng tình và ra. ông ta có giấy hẹn gặp ở tầng .

      Ông già tiếp tục van xin rằng mình chẳng biết gì về máy phát, và vào vườn từ nhiều ngày nay do thời tiết xấu Những tay hỏi cung chăng mảy may quan tâm. Chúng treo cả hai mắt cá chân lên cái cán chổi chạy chạy lại. Hai trong số bốn tên giơ chân ông ta lên đến vị trí vừa đủ với đế giày hướng vào trong phòng, trong khi Ali và tên đồng nghiệp còn lại của mình dốc xuống từ tường những luồng điện mạnh.

      Khi trận đòn vào lòng bàn chân bắt đầu, ông già thét lên, và khi tất cả làm xong, cho đến khi mất giọng, rồi tái nhợt. gáo nước lạnh ngắt từ trong phòng phun ra, nơi loạt ca nước được xếp sẵn, làm ông ta tỉnh lại.

      Đôi khi, trong buổi sáng, những người còn ở lại, để thả lỏng cơ bắp cho đôi tay, trở nên mệt mỏi với những đòn đánh. Khi chúng dừng lại, những chiếc cốc uống xong bị vứt thẳng vào chân người tù. Rồi, khi lại sức, chúng tỉếp tục đánh. Giừa những lần tỉnh tỉnh lại, ông già tiếp tục phản đối rằng mình còn chẳng biết bật đài radio và do đó chắc là có nhầm lẫn gì đó.

      Vào khoảng giữa buổi sáng, da thịt cả hai bàn chân rách rưới hết cả và những vụn xương trắng rơi ra qua dòng máu. Viên trung sĩ Ali gật đầu và ra hiệu rằng có thể ngừng được rồi. ta châm điếu thuốc và nhâm nhi làn khói trong khi trợ tá của dùng thanh sắt ngắn để bẻ xương chân từ mắt cá lên đầu gối.

      Ông già van vỉ viên bác sĩ, với tư cách là người điều trị bệnh nhân hãy giúp ông, nhưng viên bác sĩ của AMAM nhìn chằm chằm lên trần nhà. ta có lệnh, là phải giữ cho tù binh sống và còn suy nghĩ được.

      Bên kia thành phố, thiếu tá Zayeed kết thúc việc lục soát đối với ngôi biệt thự thứ hai vào lúc 4 giờ chiều, ngay trước khi Barzilai và Michel Levy đứng dậy khỏi bàn ăn ở Paris. Lại lần nữa ta tìm thấy gì hết cả. Nhã nhặn xin lỗi cặp vợ chồng kinh hoàng thấy căn nhà mình bị gỡ ra từng mảnh cách có hệ thống, ta rời với đội của mình về ngôi biệt thự thứ ba và là cuối cùng.

      Ở Saadun, ông già ngất mỗi lúc nhanh hơn, và viên bác sĩ bảo các nhân viên tra tấn rằng ông ta cần có thời gian dể hồi phục. mũi tiêm được chuẩn bị sẵn và được phóng vào động mạch chủ của người tù. Nó có hiệu quả tức , đưa ông ta từ trạng thái lâm sàng về tỉnh táo và kích thích thần kinh ông ta khả năng suy nghĩ.

      Sáu giờ ông già lại rơi vào trạng thái mê man, và lần này viên bác sĩ quá chậm trễ. ta làm cuống cuồng, mồ hôi sợ hãi chảy đầy mặt, nhưng mọi thứ thuốc kích thích, được tiêm trực tiếp vào tim ông già, đều có hiệu quả. Ali rời khỏi phòng và quay trở lại sau 5 phút cùng Omar Khatib. Viên tướng nhìn vào cái xác, và hàng bao nhiêu năm kinh nghiệm cho ông ta biết đến lúc này thể cầu viện vào bất kỳ thứ thuốc nào nữa. Ông ta quay lại, và lòng bàn tay mở rộng của ông ta nắm lấy viên bác sĩ run cầm cập đập thẳng vào mặt ta.

      Sức mạnh của cái tát cũng như uy danh của ông ta khiến viên bác sĩ nằm bẹp sàn nhà giữa những dụng cụ y tế của mình.

      - Thằng chó. Khalib rít lên. Ra khỏi đây ngay.

      Viên bác sĩ thu dọn vội đồ đạc cho vào túi và bò ra khỏi phòng. Đồ tể nhìn vào công cụ của Ali. Có mùi mồ hôi trong khí mà cả hai đều rất quen thuộc, và thứ trộn lẫn giữa mồ hôi, kinh hoàng, nước tiểu, máu, đồ nôn, và mùi thuốc gây mê của thứ thức ăn quá lửa.

      - Cho đến lúc cuối lão ta vẫn khăng khăng, Ali . Tôi xin thề, nếu lão ta biết gì, chúng ta có được ngay.

      - Cho lão ta vào trong cái bao, Omar Khatib lạnh lùng, và chuyển về cho vợ lão ta để chôn cất.

      Đó là chiếc túi to màu trắng dài sáu fít và rộng hai fit. và được để ở bậc cầu thang của ngôi nhà ở Qadisiyah vào lúc 10 giờ tối. Rất chậm và rất khó khăn, vì cả hai người đều già cả. người vợ góa và người hầu phòng lôi cái túi vào, kiểm tra ở bên trong, và để nó lại bàn ăn. Người đàn bà ngồi phịch xuống cuối bàn và bắt đầu lên tiếng than vãn.

      Người hầu tên Talat ra chỗ điện thoại nhưng nó bị gỡ ra khỏi tường và còn hoạt động. Cầm lấy sổ điện thoại của bà chủ, mà ta thể đọc được. ta xuống phố đến nhà người dược sĩ và nhờ người hàng xóm thử liên lạc với cậu chủ - ai trong số các cậu chủ cũng dược.

      Cùng vào giờ đó, trong khi người dược sĩ cố gọi điện trong Iraq qua hệ thống điện thoại trong nước, và Gidi Barzilai, trở về Vienna, chuyển bức điện khẩn về cho Kobi Dror, thiếu tá Zayeed báo cáo về ngày làm việc kết quả của mình cho Hassan Rahmani.

      - Thế có nghĩa nó nằm ở đó, ta với chỉ huy Cục Phản gián. Nếu có, chúng tôi tìm ra rồi. Thế chỉ còn lại ngôi biệt thự thứ tư, của tay ngoại giao đó thôi.

      - tin là mình nhầm chứ? Rahmani hỏi. Cũng có thể là ngôi nhà khác sao?

      - . thưa ngài. Ngôi nhà gần bốn biệt thự nhất nằm bên ngoài khu vực mà chúng tôi định vị được. Nguồn gốc của những lần chuyển tin nhanh đó là nằm ở trong hình viên kim cương này bản đồ.

      Tôi xin thề đấy. .

      Rahmani lưỡng lự. Các nhà ngoại giao là quỷ quái để mà có thể kiểm tra, luôn luôn sân sàng gửi lời phàn nàn lên bộ Ngoại giao. Để vào được trong nhà của đồng chí Kulikov, có thể phải lên cấp cao

      - cao đến mức có thể tới được.

      Khi viên thiếu tá , Rahmani gọi điện cho Bộ Ngoại giao. may mắn: Bộ trưởng Ngoại giao, người liên tục trong mấy tháng nay. ở Baghdad. Hơn thế nữa, ông ta ngồi ở phòng làm việc của mình. Rahmani có được lời hẹn gặp vào lúc 10 giờ sáng hôm sau.

      Viên dược sĩ là người đáng mến, cố gọi điện suốt trong đêm. Ông liên lạc được với người con trai, nhưng, sử dụng đầu mối liên lạc trong Quân đội, ông chuyển được tin cho đứa con út của người quá cố. Ông thể trực tiếp chuyện với ta, nhưng bên Quân đội chuyển tin đó hộ ông.

      Thông tin đến được với người con trai út tại căn cứ của rất xa Baghdad vào bình minh. Ngay khi nghe tin, viên sĩ quan lên ôtô lái xe trở về. Thường chỉ mất đầy hai giờ lái xe. Nhưng lần này, ngày 17 tháng Hai, mất tới sáu tiếng. Có đầy các đội tuần tra và chốt giao thông. Với cấp bậc của mình, ta được phép lái xe lên đầu hàng, phải xếp hàng, và được vẩy tay cho qua.

      Điều này thể làm được với các cây cầu gẫy. Tại tất cả cầu phải dừng xe đợi phà. Mãi đến giữa trưa ta mới về được đến căn nhà của bố mẹ ở Qadisiyah. Mẹ chạy ra ôm chầm lấy và kêu gào vai . cố hiểu được các chi tiết chính xác những việc xảy ra, nhưng bà còn trẻ nữa và bị lên cơn động kinh. Cuối cùng, phải bế bà lên và đưa bà về phòng. Trong hỗn loạn những dấu vết nhà binh để lại mọi nơi sàn nhà tắm, ta tìm thấy cái chai thuốc ngủ bố sử dụng khi mùa đông lạnh đưa mua ở hiệu thuốc. đưa cho mẹ hai viên, và bà nhanh chóng thiếp .

      Trong bếp ra lệnh cho ông già Talat pha cà phê cho cả hai người, và họ ngồi vào bàn trong khi người hầu miêu tả điều xảy ra kể từ bình minh ngày hôm trước. Khi ông ta dừng lại, ông chỉ cho cậu chủ cái hố trong vườn nơi bọn lính tìm thấy cái gói với bộ đồ điện đàm. Chàng thanh niên khám xét bờ tường và phát những dấu vết mà kẻ đột nhập để lại trong đêm để lẻn vào chôn nó. Rồi ta trở lại ngôi nhà.

      Hassan Rahmani phải ngồi đợi, điều mà thích, nhưng có cuộc hẹn gặp với Bộ trưởng Ngoại giao, Tariq Aziz, ngay trước 11 giờ.

      - Tôi nghĩ hiểu điều lắm. vị bộ trưởng tóc màu ghi , nhìn cách thông minh qua cặp kính. Các đại sứ quán được phép liên lạc với thủ đô của họ qua radio, và những lần phát sóng của họ luôn được mã hóa.

      - Phải, thưa Bộ trưởng, và chúng đến từ tòa nhà đại sứ quán. Đó là phần trong công tác ngoại giao. Nhưng đây khác. Chúng ta về máy phát bí , được các gián điệp sử dụng, gửi các thông tin cực ngắn cho máy phát mà chúng tôi tin là phải ở Matxcơva mà ở gần hơn nhiều.

      - Những lần phát cực ngắn? Aziz hỏi.

      Rahmani giải thích đó là cái gì.

      - Tôi vẫn thể theo kịp dược. Thế tại sao nhân viên KGB nào đó - và hẳn đây là chiến dịch của KGB - lại gửi những thông điệp cực ngắn từ nhà của Bí thư thứ nhất trong khi họ có quyền tuyệt đối được gửi chúng từ những máy phát mạnh hơn nhiều từ đại sứ quán?

      - Điều này tôi biết.

      - Thế phải cho tôi những lời giải thích tốt hơn mới được, thưa tướng quân. Thế có ý tưởng nào về những việc xảy ra ở bên ngoài văn phòng của ? Chẳng nhẽ biết rằng hôm qua mãi muộn tôi mới từ Matxcơva về sau những lần thảo luận căng thẳng với ngài Gorbachev và đại diện Yevgeny Primacov của ông ta, người ở đây vào tuần trước? biết rằng tôi mang theo mình đề nghị hòa bình mà, nếu Rais chấp nhận - và tôi trình lên ông trong hai giờ nữa - có thể khiến Liên Xô phản đối trong Hội đồng Bảo an và chặn Mỹ tấn công chúng ta sao? Và trước tất cả những việc đó, vào chính lúc này, lại bảo tôi làm nhục Liên Xô bằng cách cho lục soát biệt thự của Bí thư thứ nhất của họ? Thẳng thắn mà , thưa tướng quân, có lẽ bị điên rồi đó.

      Cuộc chuyện kết thúc như vậy. Hassan Rahmani rời Bộ cảm thấy tuyệt vọng. Dù sao, cũng có điều mà Tariq Aziz cấm. Trong những bức tường của ngôi nhà, Kulikov có thể là bất khả xâm phạm. Trong xe ta có thể là thể chạm tới. Nhưng đường phố thuộc về Kulikov.

      - Tôi muốn nó phải đầu hàng, Rahmani với đội theo dõi giỏi nhất của mình khi quay trở về văn phòng. Hãy yên lặng, kín đáo, chậm rãi thôi. Nhưng tôi muốn phải theo dõi sát sao tòa nhà đó. Mọi người khách đến và - và phải có khách khứa đấy - tôi muốn các phải theo đuôi họ.

      Vào buổi trưa. các đội theo dõi vào vị trí. Họ ngồi trong những chiếc ôtô đậu dưới những tán cây phủ lên bốn bức tường của ngôi nhà của Kulikov và theo dõi cả hai đầu của con đường duy nhất dẫn đến đó. Những người khác, đứng xa hơn nhưng có liên lạc bằng điện đàm, có thể báo cáo về mọi đến gần và có thể theo bất kỳ ai ra khỏi nhà.

      Người con út ngồi trong phòng ăn của ngôi nhà bố mẹ mình và nhìn vào cái bao tải lớn có chứa bố mình. Những dòng lệ chảy dài mặt và rơi xuống bộ quân phục ta mang. nhớ lại những tháng ngày tươi đẹp ngày xưa. Bố bác sĩ giàu có vào thời đó, với phòng khám lớn, thậm chí còn khám bệnh cho số gia đình người sau khi được giới thiệu đến cho họ bởi người bạn Nigel Martin.

      ta nghĩ về khoảng thời gian cùng trai mình chơi đùa trong sân nhà Martin với Mike và Terry, và ta tự hỏi biết điều gì xảy đến với họ vào lúc này.

      Sau giờ ta nhận thấy mùi từ cái túi nặng lên. ta đứng lên và ra cửa.

      - Talat.

      - Thưa cậu chủ?

      - Mang kéo và cái dao lại đây.

      Còn lại mình trong phòng, đại tá Osman Badri mở phanh cái túi ra, từ miệng dọc sang bên và dọc đến đáy. Rồi kéo đầu cái túi ra và quay nó vào. Xác của bố gần như trần truồng.

      Theo truyền thống, đó là công việc của phụ nữ, nhưng mẹ thể làm gì được vào lúc này. bảo mang đến nước và bông băng, tắm rửa lau chùi cho cái xác tơi tả, lắp lại cái chân gẫy, duỗi thẳng nó ra và phủ hoa lên. Trong khi làm việc, khóc, và trong khi khóc, thay đổi.

      Vào hoàng hôn gọi cho Imam ở nghĩa trang Alwazia ở Risafa và thỏa thuận cho đám tang vào sáng ngày hôm sau.

      Mike Martin thực tế vào trong thành phố chiếc xe đạp của mình vào buổi sáng chủ nhật, ngày 17 tháng Hai đó, nhưng quay về sau khi mua xong rau quả và kiểm tra ba bức tường xem có dấu phấn nào , trở về đến ngôi biệt thự đúng trước buổi trưa. Trong buổi chiều rất bận rộn chăm sóc khu vườn. Ông Kulikov, trong khi người Công giáo cũng như đạo Hồi nào kỷ niệm dù là ngày lễ thánh Hồi giáo vào thứ Sáu hay ngày lễ Sabbath của người Công giáo vào Chủ nhật, vẫn ở nhà với vẻ lạnh lùng, phàn nàn về tình trạng những bông hoa hồng của mình.

      Trong khi Martin làm việc với những khóm hoa hồng, các đội theo dõi của Mukhabarat kín đáo nhìn vào trong qua bức tường. lập luận rằng Jericho có tin tức gì mới trong ít nhất hai ngày nữa; Martin có thể kiểm tra những dấu phấn lại vào tối ngày hôm sau.

      Đám tang của tiến sĩ Badri diễn ra ở Alwazia rất ngắn sau 9 giờ. Các nghĩa trang của Baghdad rất bận rộn trong thời gian đó, và Imam phải có nhiều việc phải làm. Chỉ vài ngày trước, Mỹ ném bom hầm trú công cộng, làm hơn 300 người chết. Nỗi buồn thương dâng cao. Nhiều người khóc lóc ở đám tang bên cạnh đều tưởng viên đại tá có người thân chết vì những quả bom của quân Mỹ. trả lời ngắn gọn bố mình chết vì những lý do tự nhiên.

      Theo phong tục đạo Hồi, tang lễ thường diễn ra nhanh chóng, mất thời gian chờ đợi giữa khi chết và khi chôn xuống đất. Và cũng có quan tài gỗ như ở người Công giáo; xác chết được quấn trong vải. Viên dược sĩ tới, giúp đỡ bà Badri, và họ về thành nhóm khi nghĩa trang đông người.

      Đại tá Badri chỉ cách vài yard từ cửa Alwazia khi nghe gọi tên mình. Đứng cách vài bước chân là chiếc limousin với cửa sổ màu đen. cửa sổ ở băng ghế sau mở. Lại có tiếng gọi tên . Đại tá Badri bảo viên dược sĩ đưa mẹ mình về nhà ở Qadisiyah; quay về gặp họ sau. Khi họ , bước tới chiếc ôtô.

      Giọng vang lên: "Lên đây nào, đại tá. Chúng ta cần chuyện".

      mở cửa xe và bước vào trong. Người duy nhất trong xe dịch vào dành chỗ cho . Badri nghĩ mình biết khuôn mặt này, nhưng mù mờ. nhìn thấy ở đâu đó. bước vào và đóng cửa.

      Người đàn ông trong bộ com lê màu ghi đậm nhấn cái nút, và cửa sổ đóng trở lại, ngăn tiếng động trong xe vang ra ngoài.

      - vừa mới chôn cất cha mình xong.

      - Phải. Người đàn ông đó là ai? Tại sao ông ta lộ mặt ra?

      - điên rồ, cái điều xảy ra với ông. Nếu tôi được biết đúng lúc, tôi có thể chặn nó lại. Tôi biết muộn quá.

      Osman Badri cảm thấy điều gì đó như cú đấm vào bao tử. nhận ra mình chuyện với ai - người chuyện với cuộc tiếp tân của giới quân hai năm trước đây.
      - Tôi định cho đây, đại tá, rằng, nếu báo cáo lại chuyện này, tôi có thể phải chết thảm còn hơn cha nhiều.

      cũng chỉ vẫn chuyện đó thôi, Badri nghĩ. Phản phúc.

      - lần nữa, người đàn ông trầm giọng , tôi nhắc lại là tôi Rais.

      - tôi cũng thế, Badri .

      - Nhưng mọi chuyện thay đổi. Ông ấy trong cơn điên. Trong cơn điên giận ông ta hành động kinh khủng lắm.

      - Ông ta phải bị chặn lại. chắc là cũng biết Qa'ala rồi chứ.

      Badri lại ngạc nhiên, lần này bởi thay đổi chủ đế đột ngột.

      - Dĩ nhiên, tôi xây dựng nó rồi mà.

      - Chính xác là như thế. có biết nó nằm ở đâu ?

      - .

      Viên sĩ quan cấp với .

      - Ông ta hẳn là nghiêm túc rồi, Badri .

      - Ông ta hoàn toàn nghiêm túc. ông ta có ý định sử dụng nó để chống lại người Mỹ. Điều đó có thể phải là điều chúng ta phải bận tâm. Nhưng có biết người Mỹ trả đũa như thế nào ?

      rất kinh khủng. viên gạch nào ở đây lành lặn nổi đâu, viên đá nào hết. Chỉ Rais là còn sống sót thôi. có muốn là nạn nhân trong đó ?

      Đại tá Badri nghĩ về những xác chết nằm trong nghĩa trang, đó những sexton ngang bằng với nhau khi đó tung khỏi mặt đất.

      - Thế ông muốn gì? hỏi.

      - cho tôi biết về Qa'ala.

      - Tại sao?

      - Người Mỹ phá huỷ nó .

      - Ông có thể chuyển thông tin cho họ à?

      - Tin tôi , có cách mà. Qa'ala...

      Thế là đại tá Osman Badri, người kỹ sư trẻ từng muốn xây những công trình lớn cho hàng thế kỷ, cũng như tổ tiên từng làm, với người có tên là Jericho.

      - Địa điểm đây.

      Badri đưa cho ông ta cái đó.

      - về chỗ của , đại tá. được an toàn.

      Đại tá Badri rời khỏi chiếc xe và , lòng nặng trĩu. dược 100 yard bắt đầu tự hỏi mình, hỏi hỏi lại: mình vừa làm gì vậy? Đột nhiên, hiểu là phải cho trai mình, người trai luôn có cái đầu lạnh lùng. là người cố vấn khôn ngoan hơn nhiều.

      Người mà đội Mossad gọi là kẻ chi điểm quay lại Vienna vào thứ Hai đó, do Tel Aviv triệu tập. Lại lần nữa ta vào vai luật gia có uy tín từ New York đến, với mọi thứ giấy tờ cần thiết để chứng minh.

      Ngay cả dù cho người luật gia thực còn nghỉ, các cơ may để Gemuetlich, người ghét điện thoại và fax, gọi điện đến New York để kiểm tra được coi là rất . Đó là nguy cơ mà Mossad chuẩn bị để ứng phó.

      Lại lần nữa người kẻ chỉ điểm lại ngồi ở Sheraton viết bức thư riêng đến Herr Gemuetlich. ta lại xin lỗi về đường đột đến thủ đô nước Áo nhưng giải thích mình có mang theo kế toán của hãng, và hai người muốn gửi tiền nhân danh khách hàng của mình.

      Bức thư được gửi bằng tay vào buổi chiểu muộn, và sáng hôm sau trả lời của Gemuetlich đến khách sạn, hẹn gặp vào 10 giờ sáng hôm đó.

      Kẻ chỉ điểm quả thực có người theo. Người cùng ta chỉ được biết là người phá khoá, chuyên môn của ta. Nếu Mossad có được ở đại bản doanh Tel Aviv của mình bộ sưu tập thể sánh được các loại công ty giả, hộ chiếu mạo, hòm thư, và mọi thứ linh tinh khác để đánh lừa, niềm tự hào của nó phải tính đến những tay chuyên bẻ khoá két sắt và hòm thư. Khả năng của Mossad đột nhập vào những nơi được khoá kỹ là sở trường trong thế giới ngầm. Về khoa học đột nhập, Lừ lâu Mossad được coi là giỏi nhất. từng có đội neviot trong vụ Watergate, ai có thể biết được. Tiếng tăm của những tay phá khoá Israel cao đến nỗi khi các nhà sản xuất gửi sản phẩm đến SIS theo lời đề nghị của họ, Nhà Thế kỷ chuyển ngay nó sang cho Tel Aviv. Mossad nghiên cứu nó, phá được nó, rồi chuyển về London với nhận xét chắc chắn". SIS bèn bỏ nó.

      Lần tới công ty khoá của làm ra được loại khoá mới rất ưu việt, Nhà Thế kỷ đề nghị họ mang về, giữ lấy nó, nhưng cung cấp cái khác dễ dàng hơn cho các nhà phân tích. Cái dễ hơn đó được chuyển sang Tel Aviv. Tại đó nó được nghiên cứu và cuối cùng bị phá, rồi được chuyển về London với nhận xét " thể phá được". SIS bèn khuyên nhà sản xuất tung khoá ra thị trường.

      Điều này dẫn đến vụ khá rắc rối năm sau đó, khi người phá khoá của Mossad mất nhiều giờ toát mồ hôi và tức điên lên khi làm việc với cái khoá như thế trong hành lang toà nhà văn phòng tại thủ đô châu Âu trước khi phải rời trong cơn tức giận. Kể từ đó, người tự kiểm tra lấy khoá của mình và buộc Mossad phải tự mầy mò.

      Chuyên gia phá khoá mang theo từ Tel Aviv phải là người giỏi nhất ở Israel mà là người giỏi thứ hai. Nguyên nhân cho việc này: ta có số phẩm chất mà người giỏi nhất có.

      Trong đêm chàng thanh niên nghiên cứu báo cáo dài sáu giờ từ Gidi Barzilai về chủ đề sản phẩm thế kỷ XVIII của nhà sản xuất đồ gỗ Đức-Pháp, Riesener, và miêu tả đầy đủ của kẻ chỉ điểm về cấu tạo của toà nhà Winkler. Đội theo dõi yarid hoàn tất việc truyền đạt thông tin với việc thông báo các chuyển động của người gác đêm, được quan sát nhiều lần và nhiều địa điểm về ánh sáng ở bên trong cũng như bên ngoài ngân hàng trong đêm.

      Cũng trong ngày thứ Hai đó. Mike Martin đợi cho đến năm giờ chiều trước khi đạp chiếc xe cà khổ của mình qua cái sân lát gạch đến cửa sau của khu vườn Kulikov, mở cửa, và ra.

      lên xe và bắt đầu xuôi phố theo hướng lối sang sông gần nhất, tại nơi nơi cầu Jumhuriya từng đứng trước khi những chiếc Tornado chú ý đến nó. quay sang góc, ngoài tầm nhìn của biệt thự, và nhìn thấy chiếc ôtô đầu tiên. Rồi chiếc thứ hai, đỗ xa hơn. Khi hai người ra từ chiếc xe thứ hai và ra đứng giữa đường, dạ dày bắt đầu thắt lại. cả gan ném cái liếc nhìn về phía sau, hai người đàn ông từ chiếc xe kia phong toả mọi lối ra.

      Biết mọi chuyện lộ, đạp xe . còn việc gì khác để làm nữa rồi. trong những người đàn ông đứng trước mặt chỉ sang vệ đường.

      - Này kia, ta kêu lên. Lại đây.

      dừng lại dưới các tán cây ven đường. Ba người đàn ông khác ra, toàn là lính. Súng của họ chĩa thẳng vào . chầm chậm giơ hai tay lên.

    6. ^^! Nếu bạn không gửi link bài viết trên Facebook được, hãy sử dụng link trong khung này để chia sẻ bài viết :