Những bí ẩn của sa mạc - Frederik Forsythe [Bí ẩn]

Thảo luận trong 'Các Thể Loại Khác (Kinh Dị, Trinh Thám..)'

  • ^^! Nếu bạn không gửi link bài viết trên Facebook được, hãy sử dụng link trong khung này để chia sẻ bài viết :
    1. Nữ Lâm

      Nữ Lâm Well-Known Member

      Bài viết:
      23,871
      Được thích:
      22,185
      CHƯƠNG 14


      Câu trả lời cho bối rối của vị tướng nằm ở cái xe đẩy đầy ắp dưới những ánh sáng rực rỡ của nhà máy, tám mươi fít bên dưới sa mạc lraq, nơi nó được xây dựng.
      kỹ sư bước lùi lại chờ cánh cửa dẫn sang căn phòng mở. Chỉ có năm người đàn ông trong đó trước hai vệ sĩ có vũ trang từ đội an ninh của tổng thống, đội Amn-al-Khass, đóng cửa lại.

      Bốn trong số năm người hướng tới người còn lại đứng giữa, ông ta mặc, như thường lệ, bộ quân phục chiến đấu đôi ủng cũ, vũ khí tuỳ thân trong tầm tay, chiếc khăn tay màu xanh bằng vải cotton phủ lên tam giác giữa cái áo và cổ họng.

      trong số bốn người kia là vệ sĩ cá nhân, người, ngay ở đây, nơi mọi người đều bị khám xét năm lần cho những vũ khí cấm, cũng rời khỏi ông ta. Giữa Rais và vệ sĩ của mình là con rể ông ta, Hussein Kamil, Bộ trưởng Công nghiệp và công nghiệp hoá Nhà binh, Mimi. Cũng như nhiều chỗ khác, Mimi được tách khỏi Bộ Quốc phòng.

      Bên kia tổng thống là bộ não của chương trình, tiến sĩ Jaafar Al-Jaafar, thiên tài về nguyên tử của lraq. Bên cạnh ông ta nhưng hơi lùi lại chút, là tiến sĩ Salah Siddiqui. Nếu Jaafar là nhà vật lý, Siddiqui là kỹ sư.

      Ánh thép của khẩu súng của họ ánh lên trong ánh sáng trắng. Nó dài 14 fít và chỉ có đường kính 3 fít. Đằng sau, cách bốn fit là cái thiết bị cấm động vào nảy lên khi bắn ra viên đạn. Phần còn lại của cái hộp 10 fít dài cũng thực tế là xabốt, thiết bị chia làm tám phần. Những hộp thuốc nổ có thể làm nó nổ tung như đầu đạn bắn ra, để lại cái lõi đường kính 2 fít ở lại mình. Xabốt ở đó để lấp đầy đầu đạn 24 inch cho 39 inch cần để đủ cho nòng súng, và để bảo vệ 4 đầu mỏng bên trong. lraq sở hữu những thiết bị đại để vận hành những đầu di động bằng các thiết bị radio từ mặt đất, nhưng những đầu cứng có thể phục vụ để thiết lập cân bằng viên đạn khi bay và ngăn cản nó bị hỏng.

      Phía trước, cái vòng tròn mũi làm bằng thép siêu cứng và rất nhọn. thực tế nó cũng trở nên cần thiết. Khi hoả tiễn, được đưa vào gian bên trong của đường bay của mình, vượt qua được bầu khí quyển trái đất, khí trở nên đặc hơn khi đường bay xuống tạo nên độ nóng lớn đủ để thiêu cháy đầu đạn nhọn. Chính vì thế mà các phi hành gia có kinh nghiệm cần có tấm lá chắn chống nóng này - để ngăn chặn lõi bị thiêu huỷ.

      Thiết bị mà năm người Iraq kiểm tra đêm đó cũng giống như thế. Mũi thép hình chóp có thể làm dễ dàng đường bay lên nhưng có thể còn tồn tại khi quay trở xuống. Nó được giữ lại, thứ kim loại cháy có thể gập xuống và cháy, tạo ra thân rơi xuống để tan ra, tung lên. quay tròn vào trong khí nóng bỏng, và cháy mất. Mũi thép được thiết kế để loại bỏ nguy cơ này khi bay, được dựng lên ở bên dưới trong chóp bay xuống. ngắn hơn, rắn hơn, bằng sợi cácbon.

      Trong những ngày tiến sĩ Gerald Bull còn sống, ông mua thiết bị này, nhân danh Baghdad, từ nhà máy ở Bắc lreland tên là LearFan. Đó là công ty hàng sắp phá sản. Nó cố dựng lên những chiếc máy bay mang tính quyết định với nhiều thành phần làm bằng sợi cácbon. Cái hấp dẫn tiến sĩ Bull và Baghdad phải các máy bay có ý nghĩa lớn, mà là những máy móc xử lý sợi cácbon ớ LearFan.
      Sợi cácbon đặc biệt chống chịu tốt, nhưng nó cũng rất rắn để có thể xử lý. Cácbon được chế từ dạng của gỗ, từ đó sợi dây hay thanh được rèn ra. Sợi dây được đặt và uốn nhiều lần cái đe, rồi được quấn lại thành vỏ để tạo ra hình dáng mong muốn.

      Bới vì sợi cácbon là cực kỳ cần thiết trong công nghệ hoả tiễn, công nghệ đó được xếp hạng cẩn thận cao độ, được quan tâm trong việc điều hành xuất khẩu những máy móc đó. Khi tình báo biết các thiết bị của LearFan được dành cho và được Washington cảnh báo, cuộc mua bán bị huỷ bỏ. Chính vì vậy lraq khi đó thể có được công nghệ làm thanh sợi cácbon.

      Các chuyên gia sai lầm. Iraq thực cách khác. nhà cung cấp điều hoà nhiệt độ và các sản phẩm tốt của Mỹ e ngại gì khi được thuyết phục bán cho công ty ở biên giới Iraq máy móc để cuộn gỗ tấm. Tại lraq các kỹ sư trong nước biến cái máy đó thành máy uốn sợi cácbon.

      Từ cái đuôi hấp thụ tác động đến cái mũi chóp nhọn là công việc của tiến sĩ Siddiqui - người bé, cần mẫn. nhưng có hiểu biết hoàn hảo về bom nguyên tử, để có được hiểu biết về nguyên lý súng ống, sử dụng các tác nhân lythium và polonium để tạo ra cái đống những nơ-tron cần thiết để bắt đầu phản ứng dây chuyền.

      Trong khi thực tiến sĩ Siddiqui làm thành công thực , quả bóng hình cầu và cái lỗ , giữa chúng có 35 kg nặng và được sản xuất dưới giám sát của tiến sĩ Jaafar. Cả hai đều có chất uranium-235 làm giàu. nụ cười đắc thắng giữa hàm ria rậm rì. Tổng thống tiến lên và chỉ ngón tay trỏ vào cái thép bị đốt cháy.

      - Nó có hoạt động đấy? Nó có thực hoạt động ? ông ta thầm.

      - Có, thưa Rais, nhà vật lý đáp.

      Đầu ngửa ra trong cái mũ bêre gật đầu chầm chậm nhiều lần.

      - Các ông được khen ngợi đấy, những người em của tôi.

      Dưới viên đạn, cái bệ gỗ, là khay đơn giản. Nó ghi chữ: Qubth-ut-Allah.

      Tariq Aziz nghiền ngẫm rất lâu và kỹ càng mình báo cho tổng thống về đe doạ của Mỹ như thế nào, trước khi ông ta từ Genève về.

      Hai mươi năm biết nhau, hai mươi năm trong đó vị bộ trưởng Ngoại giao phục vụ ông chủ của mình với trung thành của chó, luôn luôn đứng ở bên ông ta trong những ngày đầu tiên chiến đấu với cấp bậc của Đảng Ba'ath khi từng có những tranh giành quyền lực, luôn theo ông ta với đánh giá cá nhân rằng cao lớn nhất của con người từ Tikrit có thể chiến thắng, và luôn luôn biểu được quyền lực.

      Họ leo lên được chỗ cao nhất của chế độ Trung Đông cùng với nhau, người luôn là cái bóng của người kia. ông Aziz tóc ghi, biết cách đè nén bất lợi lớn về giáo dục cao hơn của mình và thông thạo hai ngôn ngữ châu Âu để nhắm mắt nghe lời.

      Tariq Aziz, cũng giống như tất cả những người xung quanh Rais, biết rằng còn chỗ nào khác cho mình để . Nếu có điều gì đó xảy ra với ông chủ của mình, ông cũng hết đời theo luôn.

      giống như số người quanh ngai vàng, ông quá thông minh để tin rằng đó là chế độ nhân dân. sợ hãi lớn nhất của ông phải là những người nước ngoài mà là trả thù tàn khốc của những người Iraq chỉ khi bảo vệ của Saddam được vén lên bị chuyển khỏi ông ta.

      Vấn đề ngày 11 tháng Giêng của ông, khi ông chờ đợi cuộc gặp cá nhân mà ông xin hội kiến khi từ châu Âu về, là làm cách nào để ra lời đe doạ của Mỹ mà khơi gợi lên điên khùng thể tránh khỏi nhằm vào chính ông. Rais, ông biết quá , có thể chỉ đơn giản nghi ngờ rằng chính ông, bộ trưởng Ngoại giao, thực đề xuất đe doạ cho người Mỹ. có lôgíc để mà lo sợ, chỉ là bản năng nội tại, khi nào đó là đúng và khi nào đó là sai. Nhiều người vô tội chết, và gia đình của họ cũng bị thanh toán luôn, dựa cơ sở của cảm hứng nghi ngờ nào đó của Rais.
      Hai giờ sau, quay trở lại xe của mình, ông thở phào, mỉm cười và bối rối.

      Lý do khiến ông thở phào đơn giản; Tổng thống của ông tỏ ra thư giãn và dễ tính. Ông ta lắng nghe với đồng tình với báo cáo đáng sợ của Tariq Aziz về chuyến công cán Genève của mình, về thân thiện rộng lớn ông tỏ ra trong tất cả những gì ông về với dẫn chiếu đến vị thế của Iraq, và về cảm giác chống Mỹ chung ra tăng dần lên ở phương Tây.

      Ông gật đầu tỏ vẻ hiểu biết khi Tariq phàn nàn về việc những con quỷ chiến tranh Mỹ. và khi đó, cuối cùng kết luận với chính phẫn nộ của mình, ông nêu lên những điều James Baker thực với ông, bùng nổ giận dữ được chờ đợi của Rais đến.

      Trong khi những người khác quanh bàn nhăn nhó và tức giận, Saddam Hussein vẫn tiếp tục gật đầu và mỉm cười.
      Bộ trưởng Ngoại giao mỉm cười khi ông rời bởi vì cuối cùng Rais chúc mừng ông về công vụ ở châu Âu. Vấn đề là. bằng những tiêu chuẩn ngoại giao, công vụ này thực ra là thảm hoạ - bị đối đáp ở mọi phía bị coi như là lịch băng giá bởi những người khác, cho phép giải quyết vấn đề Liên quân dàn trận chống lại đất nước của ông – chẳng tỏ ra hề hấn gì hết cả.

      bối rối của ông càng tăng thêm về điều mà Rais khi cuộc họp kết thúc. Đó là nhận xét , thầm chỉ đến bộ trưởng Ngoại giao khi tổng thống gặp ông ta ở cửa ra vào.

      - Rafeek. Đồng chí thân mến, đừng lo sợ. Tôi sớm có điều bất ngờ dành cho người Mỹ. Chưa đâu. Nhưng nếu bọn Beni el Kalb còn cố vượt qua biên giới, tôi trả lời bằng khí độc đâu, mà bằng Cú Đấm của Thượng Đế.

      Tariq Aziz gật đầu tán thành. dù ông ta chẳng biết tổng thống về chuyện gì nữa. Cùng với những người khác, ông tìm ra câu trả lời 24 giờ sau.

      Buổi sáng ngày 12 tháng Giêng diễn ra cuộc họp toàn thể cuối cùng của Hội đồng Chỉ huy Cách mạng tại Cung điện Tổng thống góc phố 14 tháng nảy Và phố Kindi. tuần sau nó bị bom phá sập, những con chim bên trong lồng bay mất.

      Nếu ông vẫn còn sống sau tất cả những cái đó, những là vì quan tâm nghiêm túc nhất về ám sát, chính bởi vì ám ảnh của ông đối với an ninh cá nhân.

      phải Cục Phản gián cũng như Cảnh sát Mật của Omar Khatib, và chắc chắn cũng phải Quân đội; cũng phải đội Vệ binh Cộng hoà được tin cậy giao cho việc này. Nhiệm vụ này thuộc về đội Amn-al-Khass. Họ có thể còn trẻ, nhiều người mới vừa ở tuổi thiếu niên ra, nhưng lòng trung thành của họ rất ấn tượng và là tuyệt đối. Chỉ huy của họ chính là con trai của Rais. Kusay.

      kẻ phản loạn nào có thể dù chỉ biết về con đường nào Rais sử dụng để khi, khi, hoặc ở đâu xe của ông. Những chuyến thăm của ông đến các căn cứ quân hay các cơ sở công nghiệp luôn là những bất ngờ, chỉ cho người được đến thăm mà cả những người xung quanh ông nữa.

      Ngay cả ở Baghdad ông cũng chuyển từ chỗ này sang chỗ khác, đôi khi ở lại vài ngày ở cung điện. lúc khác lại ngủ ở boong ke của riêng mình bên cạnh và ở dưới khách sạn Rashid.

      Mọi thứ được đưa lên phục vụ ông ta đều được nếm trước, và người nếm thức ăn là con cả của sếp. Mọi thứ đồ uống đều được đưa vào trong cái chai với dấu niêm phong chưa mở.

      Sáng hôm đó những lệnh triệu tập cuộc họp ở cung điện đến với từng thành viên của RCC bởi người đưa tin đặc biệt giờ trước khi cuộc họp diễn ra. hề có thời gian để chuẩn bị và để ám sát.

      Những chiếc limousin qua cổng, đưa những người đó đến, và mất đến gara đỗ xe đặc biệt. Mỗi thành viên của RCC qua cửa vòng cung bằng kim loại; được phép mang vào thứ vũ khí cá nhân nào hết.

      Tống cộng có 33 người ngồi quanh cái bàn hình chữ T. Tám người ngồi ở bề ngang chữ T, chỗ chính giữa vẫn trống. Những người còn lại ngồi đối diện nhau dọc theo thân của chữ T. Bảy người trong số những người có mặt có quan hệ huyết thống với Rais và ba người có quan hệ thông gia. Những người nay cộng với tám người nữa đến từ Tikrit hoặc từ những vùng phụ cận. Tất cả những thành viên ngồi theo chiều dọc đều là đảng viên Đảng Ba'ath.

      Mười trong số 33 người là các bộ trưởng trong nội các và chín người là các tướng lĩnh quân đội và quân. Saddi Tumah Abbas, trước đây là chỉ huy Vệ binh Cộng hoà. được thăng chức Bộ trưởng Quốc phòng ngồi ở đầu bàn. Ông ta được thay thế bởi Abd Al-jabber Shenshall. vị sư trưởng người Kurd từ lâu tách khỏi và trở thành đồ tể của chính dân tộc mình.

      Giữa các tướng lĩnh quân đội có Mustafa Radi từ Bộ binh, Farouk Ridha của Pháo binh. An Musuli của Phản gián, và Omar Khatib của Cảnh sát Mật. Khi Rais bước vào, mọi người đứng lên và vỗ tay. Ông ta mỉm cười, ngồi vào ghế của mình, vẫy tay cho họ ngồi xuống, và bắt đầu phát biểu. Họ ở đây phải là để thảo luận cái gì hết; họ chỉ có ở đây để nghe cái gì đó mà thôi.

      Chỉ con rể ông, Hussein Kamil, cho thấy bất ngờ nào khi Rais : Khi, sau 40 phút phát biểu đến những loạt thắng lợi chấm dứt dưới lãnh đạo của ông, ông cho họ biết tin mới, phản ứng tức thời là im lặng câm nín.

      Cái Iraq thử làm từ nhiều năm nay, họ đều biết cả. kinh ngạc trong lĩnh vực công nghệ này chỉ riêng nó cũng có vẻ có khả năng tạo ra cảm hứng đống những sợ hãi toàn thế giới và ngay cả những người Mỹ hùng mạnh cũng phải ghê người - giờ đây, khi cận kề chiến tranh - có vẻ như là khó tin. can thiệp của thánh thần. Nhưng Thần thánh thiên đường: chính người ngồi đây, với họ, trầm tĩnh mỉm cười.

      Chính Hussein Kamil, tiến lên trước, đứng lên và lái theo các ánh mắt. Những người khác dõi nhìn theo, ai cũng sợ là người cuối cùng theo vỗ tay đột ngột của ta. Rồi ai được chuẩn bị để là người đầu tiên dừng lại.

      Khi quay lại văn phòng của mình hai giờ sau đó, Hassan Rahmani, vị chỉ huy lịch thiệp và quảng giao của bộ phận Phản gián. dọn sạch bàn, lệnh cho ai vào, và ngồi vào bàn với tách cà phê đen. cần suy nghĩ, và nghĩ

      Như mọi người khác trong phòng ban nãy, tin tức lay động . Trong thoáng chốc cán cân quyền lực tại Trung Đông thay đổi. thậm chí dù ai biết đến điều đó. Sau Rais. người với những bàn tay giơ lên kêu gọi đánh giá cao ngưỡng mộ ngừng, kết luận thống trị của mình: mọi người trong phòng đều chìm trong im lặng.

      Điều đó Rahmani có thể hiểu được. Mặc dù rào đón mập mờ của ông ta, cũng hiểu được những vấn đề chính. thiết bị nào dạng đó có giá trị trừ khi những người bạn của bạn - và quan trong hơn. những kẻ thù của bạn - biết rằng bạn có nó. số quốc gia phát triển thứ vũ khí này chỉ đơn giản thông báo về kiện với lần thử nghiệm chính và để cho phần còn lại của thế giới làm các hậu quả. Những nước khác. như Israel và Nam Phi. chỉ đơn giản là che giấu những gì họ có nhưng bao giờ khẳng định, để cả thế giới và nhất là những nước xung quanh phải đoán già đoán non. đôi khi nó còn làm tốt hơn; những tưởng tượng dẫn đến bất ổn.

      Nhưng điều đó, Rahmani từng nghĩ, chỉ đơn giản là đến với Iraq được. Nếu cái mà được là đúng - và được thuyết phục rằng toàn bộ công trình đó phải là chuyện thêu dệt khác, tính đến thua kém thực thế để có được thực khác - ai ở bên ngoài Iraq có thể tin điều đó.

      Cách duy nhất với Iraq để ngăn chặn nó là chứng tỏ nó. Có vẻ như Rais giờ từ chối làm điều đó. Dĩ nhiên, có những vấn đề quan trọng khi để lộ ra những cái đó. Thủ nghiệm lãnh thổ của mình chẳng có vấn đề gì cả cực kỳ điên rồ. Gửi con tàu sâu xuống nam Ấn Độ Dương, rời bỏ nó, và để cho cuộc thử nghiệm diễn ra ở đó có thể từng là có thể, nhưng giờ . Tất cả các cảng đều bị phong toả hoàn toàn. Nhưng đội từ Cơ quan Năng Lượng hạt nhân Quốc tế của Liên Hợp Quốc ở Vienna có thể được mời đến để kiểm tra và chứng nhận đó phải là lời dối. Dù sao, IAEA từng được mời gần như hàng năm trong thập niên gần đây và gần như thường xuyên phải khẳng định cái họ thấy chỉ là điên rồ. Với bằng chứng hiển , họ có thể phải tin vào chính mắt mình và khẳng định .

      Thế còn , Rahmani, liệu nghe đến con đường đó chính thức bị cấm. Tại sao? Bởi vì đó hoàn toàn là lời dối ư? Bởi vì Rais có cái gì đó khác trong đầu ư? Và quan trọng hơn nữa, cái gì trong đó dành cho , Rahmani?

      Trong nhiều tháng tính đến chuyện Saddam Hussein khoác lác để tung hỏa mù lên cuộc chiến tranh mà ông có thể chiến thắng được; giờ đây ông ta làm điều đó. Rahmani tính đến thất bại cuối cùng của Rais dưới bàn tay người Mỹ, và chính được đánh giá cao trong chế độ tiếp theo do Mỹ hậu thuẫn. Giờ đây mọi việc thay đổi. cần, nhận ra, thời gian để suy nghĩ, để tìm ra cách tốt nhất để chơi quân bài mới đầy huyền bí này..

      Tối hôm đó, khi màn đêm buông, dấu phấn xuất bức tường sau Nhà thờ Chaldea của Thánh Joseph tại Lãnh địa của người Công giáo.

      Đêm đó cư dân của Baghdad run lên. Dù tiếng ồn ào của tuyên truyền vẫn ngớt tại đài phát thanh lraq và niềm tin mù quáng của nhiều người rằng điều đó tất cả đều đúng. vẫn có những người khác bí mật nghe đài BBC World Service bằng tiếng Arập. chuẩn bị ở London nhưng được phát ở đảo Síp, và biết rằng Beni Naji đúng. Chiến tranh đến gần.

      Trong thành phố lan truyền tin đồn rằng người Mỹ có thể bắt đầu bằng ném bom rải thảm ở Baghdad, tin đồn đến cả Cung điện Tổng thống. có những thiệt hại về người. Chế độ biết nhưng chẳng thèm quan tâm. Những người lãnh đạo cao cấp tính toán điều này gây ra hiệu ứng toàn cầu trước tiêu diệt hàng loạt dân thường trong nhà họ và có thể tạo nên phản đối quy mô thế giới chống Mỹ: buộc nước này phải ngừng tay và bỏ cuộc. Vì vậy khá đông báo chí nước ngoài vẫn được phép ở lại và thực tế được khuyến khích ở khách sạn Rashid. Có cả những trợ giúp và chỉ dẫn các camera các đài nước ngoài đến những cảnh tượng nồi da nấu thịt chóng chày bắt đầu.

      Tính tế nhị của luận điểm này bằng cách nào đó đến được những người còn ở trong nhà ở Baghdad. Nhiều người thực tế , những người phải Iraq trực chỉ hướng biên giới với Jordan để ở trong dòng thác suốt năm tháng trời người tị nạn từ Kuwait, những người Iraq tìm kiếm chỗ trú ngụ ở nông thôn.

      Hàng triệu người dán mắt lên màn hình vô tuyến ở Mỹ và châu Âu biết đến mức độ tinh vi của các thiết bị giờ đây trong tầm của Chuck Horner u buồn ở Riyadh.

      ai khi đó có thể cho rằng phần lớn các mục tiêu có thể được lựa chọn từ bảng do các camera vệ tinh chuẩn bị trong trung và bị phá huỷ bởi những quả bom do laser hướng lối hiếm khi bắn trúng cái mà chúng hướng đến.

      Điều mà các cư dân Baghdad biết. cũng như do BBC rò rỉ qua những cửa hàng và những chợ, rằng là bốn ngày từ 12 tháng Giêng. hạn cuối để rút khỏi Kuwait có thể hết và các máy bay chiến đấu Mỹ có thể tới. Vì thế thành phố vẫn khá yên tâm trong nhận định.

      Mike Martin đạp chiếc xe đạp của mình chầm chậm khỏi phố Shurja và quanh phía sau nhà thờ. nhìn thấy dấu phấn tường khi đạp xe ngang qua, và qua. Cuối đường dừng lại, xuống xe, và dừng lúc để sửa xích trong khi nhìn ngoái lại sau con đường để xem có cái gì đó chuyển động sau lưng mình .

      hề có. có dấu của cá chìm ở đằng sau, có những cái đầu ló ra từ những mái nhà. đạp xe trở lại, đến chỗ đó, xoá vết phấn, và bỏ .
      Số tám có nghĩa là thông điệp đợi dưới cán cờ trong cái sân bỏ hoang ngoài phố Abu Nawas, cách bờ sông chỉ nửa dặm.

      Khi còn là đứa trẻ từng chơi đùa ở đó, chạy dọc theo các bến nước với Hassan Rahmani và Abdelkarim Badri, nơi những người bán hàng chở những masgouf ngon tuyệt những chiếc giường bướu lạc đà. bán những mẩu của cá chép sông Tigris cho khách qua đường.

      Bây giờ các cửa hiệu đều đóng cửa, các hàng trà im lìm; vài người dạo dọc theo các bến nước theo thói quen. tĩnh lặng giúp ích rất nhiều. Ớ đầu phố Abu Nawas nhìn thấy nhóm vệ binh thường phục AMAM, nhưng chúng để ý đến người fellagha đạp xe mua đồ. hơi hoảng khi nhìn thấy họ; người của AMAM bao giờ khôn ngoan lắm. Nếu họ đến để bóc hòm thư chết, họ có thể đưa nhóm người rất rệt ở đầu đường. Cách làm việc của họ rất tinh vi, nhưng kín đáo.

      Thông điệp có ở đó. Viên gạch được đưa về chỗ sau giây, mẩu giấy gấp chui tọt vào túi . Mấy phút sau, khi qua cầu Ahrar bắc ngang sông Tigris, từ Risafa Karch, và về ngôi nhà của nhà ngoại giao Xô viết ở Mansour.

      Trong chín tuần cuộc sống của được thiết lập bên trong ngôi biệt thự kín cổng cao tường. Người Nga nấu ăn và chồng bà ta đối xử với rất thân ái, và học được ít ngôn ngữ của họ. Ngày nào cũng chợ để mua thức ăn tươi, điều đó cho lý do tốt để đảo qua tất cả các hòm thư chết của mình. chuyển 14 thông điệp cho Jericho giấu mặt và nhận về 13 trả lời từ ông ta.

      Tám lần bị AMAM chặn lại, nhưng lần nào thái độ khúm núm của . chiếc xe và cái giỏ đầy rau, quả, cà phê, gia vị và đồ xanh, cộng với bức thư của nhà ngoại giao và vẻ bên ngoài nghèo đói hiển khiến họ thả cho ngay.

      có thể biết rằng các kế hoạch chiến tranh được lên ở Riyadh, nhưng phải viết mọi câu hỏi và trả lời cho Jericho bằng chữ Arập của chính sau khi nghe chúng trong nhưng cuộn băng đến, và phải đọc trả lời của Jericho để gửi chúng trở lại trong những lần chuyển tin chớp nhoáng cho Simon Paxman.

      người lính, chỉ có thể đánh giá là thông tin của Jericho, về chính trị và quân , hẳn là vô giá với vị tướng cầm quân chuẩn bị tấn công Iraq.

      cũng cầu máy sưởi chạy dầu cho túi ngủ của mình và đèn dầu để đốt nó. Những túi ngủ Hessian từ chợ giờ đây trở thành rèm che tất cả các cửa sổ, và tấm chùi chân trước cửa báo hiệu cho nếu có ai đó tiến đến gần cửa.

      Đêm đó, chầm chậm sưởi ấm trong nhà của mình. đóng kín cửa, chắc chắn là các rèm cửa che hết mọi inch vuông của các cửa sổ, thắp đèn của mình lên, và đọc thông điệp mới nhất của Jericho. Nó ngắn hơn thường lệ, nhưng hề gì Martin đọc nó hai lần để chắc chắn để lọt từ nào, lẩm bẩm "Chúa ơi" và chuyển đồ nghề của mình ra để lấy máy ghi .

      Phải tránh mọi hiểu lầm, đọc tấm thông điệp chậm và cả bằng tiếng Arập và bằng tiếng vào trong cái máy trước khi chuyển cần tốc độ để cho nó chạy nhanh lên và chuyển tin của mình từ 5 phút xuống còn có nửa giây.

      chuyển nó vào 20 phút sau nửa đêm.

      Vì biết lần chuyển tin giữa 15 và 30 phút sau 12 giờ đêm nay. Simon Paxman vào giường. chơi bài với trong hai người trông coi máy điện đàm khi thông tin đến nơi. Người vận hành máy đưa tin từ phòng thông tin ra.

      - Tốt hơn là vào đây và nghe luôn . Simon ạ, ta .

      Mặc dù đội SIS ở Riyadh có liên quan nhiều hơn bốn người, người quản lý Jericho được coi là bí mật đến thế mà chỉ Paxman, chỉ huy Trạm Julian Gray, và hai người trực đài cũng biết. Ba phòng của họ bề ngoài trông tách biệt hẳn khỏi phần còn lại của toà biệt thự.

      Simon Paxman nghe giọng trong cái máy to tướng trong bọc đài, cái thực tế là phòng ngủ được sửa lại. Martin bằng tiếng Arập trước, đọc chính xác bức thư viết tay của Jericho hai lần, rồi đọc bản dịch tiếng của chính . Khi nghe, Paxman cảm thấy lạnh giá ghê gớm chuyển sâu vào trong bao tử mình. cái gì đó sai, hoàn toàn sai. Điều nghe được chỉ đơn giản là thể. Hai người kia đứng im lặng sau lưng .

      - Đó có phải là ta ? Paxman hỏi gấp ngay khi thông điệp kết thúc. Suy nghĩ đầu tiên của ta là Martin bị bắt và giọng là của kẻ khác.

      - ta đấy - tôi kiểm tra cao độ rồi. nghi ngờ gì nữa chính ta đấy.

      Những đặc điểm của giọng dao động trong nhiều cao độ và trường độ, cao và thấp, nhịp điệu có thể được ghi lại trong máy đo được rút lại thành loạt những đường chạy màn hình, giống như màn hình điện tâm đồ ở bệnh viện. Mọi giọng con người đều có khác biệt , thể có chuyện bắt chước được. Trước khi rời Baghdad. giọng của Mike Martin được ghi vào cái máy đó. Những lần chuyển tin sau đó từ Baghdad đều cùng được kiểm tra, trong trường hợp đọc chậm lại cũng như đọc nhanh, cùng nhau với độ chênh do máy hoặc vệ tinh truyền sai, tạo ra các biến dạng.

      Giọng từ Baghdad đêm đó được kiểm tra so sánh với giọng ghi ở trong máy. Đó chính là tiếng của Martin chứ phải ai khác.

      Lo sợ thứ hai của Paxman là Martin bị bắt, bị tra tấn và phản bội, và giờ đây ta chuyển tin dưới ép buộc. vứt bỏ ý nghĩ xấu xa nó ra khỏi đầu ngay.

      Có những từ được giao hẹn trước, dừng lại, lưỡng lự, tiếng ho có thể báo động cho những người nghe ở Riyadh nếu được tự do chuyển tin. Vả lại, lần phát sóng trước của chỉ trước đây có ba ngày mà thôi.

      Những tay cảnh sát mật ghê gớm của Iraq có thể làm được, nhưng thể nhanh đến thế. Và Martin rất cứng. người dao động và phản bội trong thời gian ngắn như thế có thể bị hành hạ, tra tấn rất kinh khủng, và có thể biểu trong khi chuyển tin.

      Điều đó có nghĩa Martin vẫn ổn - thông điệp đọc là chính xác những gì nhận được đêm đó từ Jericho. Điều đó còn bàn cãi gì nữa. Dù Jericho đúng hay sai, nhầm lẩn, hoặc là dối.

      - Gọi Julian , Paxman với trong hai người gác đài

      Trong khi người đó mời trưởng Trạm từ giường ngủ của ông ta tầng , Paxman gọi số điện thoại riêng cho đối tác người Mỹ của mình, Chip Barber.

      - Chip, tốt hơn hết là lại đây nhanh lên , ta .

      Người của CIA tỉnh rất nhanh. điều gì đó trong giọng của người khiến ông ta còn vương vấn ngủ nghê gì nữa cả.

      - Có vấn đề rồi hả, bạn?

      - Có vẻ là thế ở đây đấy, Paxman công nhận.

      Barber chạy băng qua thành phố đến ngôi nhà của SIS trong 30 phút, quần áo ngủ lung tung. giờ sáng. Khi đó, Paxman kịp có băng bằng tiếng và tiếng Arập, cộng với bản trong cả hai thứ tiếng. Hai người trực đài những người nhiều năm nay làm việc ở Trung Đông. rất thạo tiếng Arập và khẳng định bản dịch của Martin khá chính xác.

      - ta đùa chắc, Barber thào khi ông ta nghe băng. Paxman cho chạy những cái để kiểm tra giọng Martin là phải giả mạo.

      - Xem nào, Simon- Barber - đó chính là điều Jericho báo cáo điều mà ta có thể nghe từ Saddam sáng hôm nay - xin lỗi nhé, sáng hôm qua. Nhiều khả năng là Saddam dối. Hãy đối mặt với cái đó, ông ta dối như cuội ấy mà.

      dối hay , vấn đề gì cả với Riyadh cả. Các trạm SIS và CIA có thể cung cấp cho các vị tướng của mình với những thông tin quân chiến thuật và thậm chí chiến lược từ Jericho, nhưng cánh chính trị ở London và Washington? Barber nhìn đồng hồ. bảy giờ tối ở Washington.

      Chắc là họ uống cốc tai đây, ông ta . Tốt hơn là phá hỏng của bọn họ , các bạn ạ. Tôi gọi ngay về Langley đây

      - Coca và bánh bích quy ở London: Paxman . Tôi báo về Nhà Thế kỷ. Để cho họ mất luôn .

      Barber để gửi bản sao bản tin được mã hoá cao độ đến Bill Stewart, với dấu thượng khẩn, tuyệt mật. Điều đó có nghĩa là dù ông ta ở đâu, người ta cũng phải tìm cho ra ông ta và bảo ông ta đến đường dây điện thoại an toàn.

      Paxman cũng làm giống như thế với Steve Laing, người có thể bị đánh thức dậy vào giữa đêm và bị bắt phải rời khỏi cái giường ấm áp của mình để chạy trong đêm lạnh giá và quay ngay về London.

      Có điều cuối cùng mà Paxman phải làm, mà ta làm. Martin lần chuyển tin chỉ để nghe, và mới là giờ sáng. Paxman chờ đợi và gửi cho người của mình ở Baghdad thông điệp cực ngắn nhưng cực kỳ ràng. Nó Martin được có cử động gì trước khi có chỉ thị để tiếp cận bất kỳ cái nào trong số sáu hòm thư chết. Khẩn cấp.

      Karim, chàng sinh viên Jordan, thực được những tiến triển chậm chạp nhưng vững chắc trong công cuộc theo đuối Edith Hardenberg. cho phép ta cầm tay khi hai người dạo những phố của thành Vienna cổ, những vệ đường với băng giá giữa chân họ. thậm chí còn thú nhận với rằng cầm tay thế này thấy thú vị.

    2. Nữ Lâm

      Nữ Lâm Well-Known Member

      Bài viết:
      23,871
      Được thích:
      22,185
      Vào tuần thứ hai của tháng Giêng có được vé đến Burgtheater - do Karim trả tiền. Buổi biểu diễn là vở kịch của Grillparzer, vở "Gygus và chiếc nhẫn". nồng nhiệt giải thích trước khi họ vào đó rằng vở kịch là về ông vua già với nhiều đứa con trai, và người nối ngôi nhận được chiếc nhẫn của ông. Karim ngồi xem hết vở kịch và hỏi nhiều điều về lời thoại, mà luôn lưu ý.

      Giờ nghỉ Edith rết hạnh phúc được trả lời chúng. Sau đó. Avi Herzog có thể nới với Barzilai rằng tất cả đều rất hay ho như là xem tranh khô vậy.

      - Cậu đúng là con bò, người của Mossad . Cậu chẳng có tí ti văn hoá nào hết cả.

      - tôi ở đây để học đấy thôi. Avi .

      - Thế học : cậu bé.

      Vào chủ nhật, Edith. tín đồ Công giáo ngoan đạo, đến buổi lễ mixa sáng ở nhà thờ Votiv. Karim giải thích rằng vì mình là tín dồ Hồi giáo nên thể theo nhưng đợi quán cà phê gần quảng trường.

      Sau đó, khi uống cà phê mà ta lén cho vào ít rượu mạnh khiến má ửng hồng, giải thích những khác biệt và tương đồng giữa Công giáo và Hồi giáo - đều chung lòng tin vào Đức chúa thực , những người em và tiên tri, việc rao giảng những cuốn kinh và những đạo luật đạo đức. Edith tỏ ra sợ hãi nhưng bị cuốn hút. tự hỏi liệu nghe mọi thứ đó có làm hỏng tâm hồn mình , nhưng rất hào hứng biết được rằng sai lầm khi nghĩ những tín dồ Hồi giáo lật đổ các thần tượng.

      - Tôi muốn ăn tối quá, Karim ba ngày sau.

      - Tốt thôi, nhưng mà tiêu tốn nhiều tiền vì tôi quá đấỵ Edith . thấy rằng có thể nhìn thẳng vào khuôn mặt trẻ trung của và đôi mắt nâu với thích thú, trong khi luôn tự cảnh báo mình rằng khoảng cách 10 tuối giữa họ khiến họ chỉ có thể có được tình kiểu Platon khá là nực cười.

      - phải ở quán ăn đâu.

      - Thế ở đâu?

      - có thể nấu cho tôi ăn , Edith? có nấu ? Thức ăn thành Vienna nhé?

      đỏ ửng mặt và suy nghĩ. Mỗi tối, trừ khi mình tới buổi hoà nhạc, thường tự chuẩn bị cho mình cái bánh tồi tàn trong cái bếp trong căn hộ của mình dành cho phòng ăn tối. Nhưng có, nghĩ, có thể nấu ăn. lâu quá rồi.
      Ngoài ra, tự biện luận với chính mình, ta cho cônhững bữa ăn sang trọng như thế ở các quán ăn... và người đàn ông trẻ tuổi rất có học thức và lịch thiệp. Chắc là chẳng có gì hại ở đó đâu.

      Khỏi phải báo cáo của Jericho đêm ngày 12-13 tháng Giêng tạo ra những rối loạn tại những vòng London và Washington như thế nào. hoảng hốt gần lên đến đỉnh điểm.

      trong các vấn đề là nhóm những người biết về tồn tại của Jericho, tin ngay những chi tiết đó. Nguyên tắc cần- biết có thể rất khó nghe hay thậm chí vẫn ám ảnh. nhưng nó cần bởi lý do. Mọi tổ chức tình báo đều cảm thấy bắt buộc đối với cá chìm làm việc cho họ trong tình hình nguy hiểm cao độ, vấn đề gì khác là quá bất nhẫn rằng người đó có thể bị coi như đối xử như người bình thường.

      Jericho là kẻ tầm thường và có đầu óc xuất chúng phải là vấn đề. Vấn đề là ông ta phản bội cách kỳ cục đất nước của mình và chính phủ của mình khó hiểu. Chính phủ Iraq có tiếng về trấn áp đến thế, cho nên nguy hiểm khi mạo hiểm.

      Vấn đề là, ngoài giá trị ràng và thực những thông tin của ông ta có thể giúp Liên quân khỏi thiệt hại rất nhiều người người chiến trường, Jericho còn là của chìm giá trị cao, và cả hai cơ quan điều hành ông ta chỉ để cho nhóm rất ít người quan trọng biết đến tồn tại của ông ta. bộ trưởng nào, chính khách nào, công chức nào, và người lính nào được chính thức là Jericho tồn tại. Sản phẩm của ta vì lẽ đó được nguỵ trang theo nhiều cách. loạt những câu chuyện nguỵ tạo được làm ra để giải thích từ đâu dòng thác thông tin này tới.

      Các vị trí quân được giả thiết được có từ loạt những phản bội của những người lính lraq ở sân khấu Kuwait, bao gồm cả loạt những thứ tồn tại có ở cơ sở tình báo bí mật ở Trung Đông nhưng phải ở Arập Xêut.

      Các thông tin khoa học và kỹ thuật xem xét về các vũ khí huỷ diệt hàng loạt được có được từ nhà khoa học Iraq phản bội, về sau khi học ở Trường Hoàng gia London, và người , và loạt những nhà kỹ thuật khác của châu Âu làm việc ớ lraq giữa 1985 và 1990.

      Tình báo chính trị được đến hổn hợp các người tị nạn chạy khỏi Iraq, các thông tin giả qua phát thanh từ nước Kuwait bị chiếm đóng, và tình báo về các dấu hiệu ràng và tình báo điện tử , nghe trộm, và giám sát .

      Nhưng bằng cách nào để giải thích báo cáo trực tiếp về lời lẽ của chính Saddam, dù câu hỏi đó có vẻ là lạ lùng, được thực trong cuộc họp kín trong chính lâu đài của ông ta, mà để lộ điệp viên trong những giới chức cao cấp nhất tại Baghdad?

      Những nguy hiểm khi đưa ra lời chấp nhận đó là rất lớn. Thứ nhất, có những rò rỉ. Thời nào cũng có rò rỉ. Về tài liệu của Chính phủ.,về thông tin trao đổi của công chức, và những thông tin nội bộ các cơ quan.

      Các chính khách, cho đến nay những người giả danh liên quan, là những người tồi tệ nhất. Để tin vào những cơn ác mộng của những bậc thầy, họ với vợ, bạn , bạn trai, thợ cắt tóc, lái xe, và người bán rượu. Họ thậm chí còn tỉ tê tâm với nhau ngay cả khi người hầu bàn ăn đứng ngay bên cạnh.

      Thêm vào đó là vấn đề Washington và London có áp lực và các cơ quan truyền thông lớn mà tài năng do thám của họ: FBI và Scotland Yard còn lâu mới theo kịp, và còn có vấn đề là giải thích thế nào về sản phẩm của Jericho, mà chấp nhận là có Jericho.

      Cuối cùng,London cũng còn có hàng trăm sinh viên Iraq - số trong đó chắc chắn là điệp viên của tình báo Nước ngoài của tiến sĩ lsmail Ubaidi của Mukhabarat - chuẩn bị sẵn sàng để báo cáo về mọi thứ họ nghe và nhìn thấy được.

      thể có chuyện ai đó khai ra tên Jericho, điều đó thể xảy ra. Nhưng nếu ngụ ý rằng thông tin đến từ Baghdad, mạng lưới phản gián Rahmani có thể nhanh chóng tiến hành điều tra và lập được đầu mối. Tốt nhất, điều đó có thể làm Jericho im tiếng trong tương lai như ông ta doạ để tự bảo vệ mình; trường hợp xấu nhất là ông ta bị bắt.

      Vì cuộc tấn công sắp bắt đầu, hai cơ quan liên lạc lại với mọi chuyên gia về vật lý nguyên tử và hỏi lại về những thông tin được biết cách nhanh chóng. Liệu ở đó có khả năng thực nào đó rằng Iraq có thể có phản ứng tách nhanh hơn và lớn hơn như trước đây từng nghĩ ?

      Các trung tâm của Mỹ ở Sandia, Lawrence Livermore, và Los Alamos được hỏi lại, ở là Harwell và Aldermaston. Khoa Z ở Livermore, những người từng phụ trách về nảy nở của Thế giới thứ ba về nguyên tử, là những người bị hỏi nhiều nhất.

      Các chuyên gia quay trở lại, rất chắc chắn, tái khẳng định lời của mình. Dù đặt ra kịch bản xấu nhất. họ - đặt giả thuyết phải mà hai trung tâm sản xuất khí độc hoạt động phải trong mà là hai năm - cũng cách nào Iraq tạo được hơn nửa số uranium-235 cần thiết cho thiết bị đơn giản thấp kém nhất.
      Điều này đặt các cơ quan tình báo vào lựa chọn trong nhiều khả năng.

      Saddam nhầm bởi vì ông ta bị lừa dối. Kết luận: thể được. Những người phụ trách có thể mất mạng với cải kiểu đùa thế với Rais.
      Saddam như vậy, nhưng là dối. Kết luận: khá có khả năng - để lên dây cót tinh thần trong số những cận thần của mình. Nhưng tại sao phải tin đó ra trong vòng những cận thần thân tín nhất, những người hề sợ phản trắc?

      Tuyên truyền nâng cao tinh thần phải được thực với đám đông và bên ngoài chứ. thể giải thích nổi. Saddam thế. Kết luận: toàn bộ báo cáo là chuyện bịa đặt. Kết luận thứ hai: Jericho dối bởi vì ông ta muốn tiền và nghĩ chiến tranh đến và thời gian của ông ta chóng hết. ông ta ra giá triệu đôla cho thông tin của mình.

      Jericho dối bởi vì ông ta bị phát khai ra tất cả. Kết luận: cũng có khả năng, và lựa chọn này đặt ra mối nguy hiểm cá nhân rất lớn cho người ở Baghdad để giữ đường dây.
      Người của CIA lúc lắc sau tay lái. Langley, là người trả tiền chính, có quyền tuyệt đối để làm thế.

      - Tôi đưa kết luận, Steve ạ, Bill Stewart với Steve Laing trong đường dây an toàn từ CIA đến Nhà Thế kỷ vào tối ngày 14 tháng Giêng. Saddam sai hoặc ông ta dối. Dù thế nào di nữa, Chú Sam cũng trả triệu tiền xanh vào tài khoản ở Vienna cho cái thể loại giả dối này.

      - có cách nào khác hả Bill?

      - Cách nào mới được chứ?

      - Rằng Saddam và ông ta đúng.

      - có chuyện đó đâu. Đó là cú lừa kẹp ba. Chúng ta nuốt quả đắng này đâu. Xem nào, chín tuần qua Jericho tỏ ra tuyệt, dù giờ đây chúng ta phải kiểm tra lại những thứ cho chúng ta. nửa trong đó được chứng tỏ, và là tốt. Nhưng ông ta chơi đểu ở báo cáo gần nhất. Chúng tôi nghĩ đó là đoạn kết rồi. Chúng tôi biết tại sao, nhưng đó là điều được từ cao xuống đấy.

      - Thế chúng tôi gay rồi. Bill ạ.

      - Tôi biết, bạn ạ, và chính vì thế mà tôi gọi cho chỉ sau cuộc họp với giám đốc mấy phút nay. Dù Jericho bị bắt và ra mọi thứ với đội hành quyết, hay ông ta chuồn và cao cẳng. Nhưng nếu ông ta biết được rằng chúng ta gửi cho ông ta triệu đôla nào nữa, tôi chắc ông ta nổi đoá lên. Dù cách nào nữa, đó cũng là tin xấu cho bạn trẻ của các ở đó. ta giỏi đấy chứ, phải ?

      - Giỏi nhất đấy. Mẹ kiếp nhà nó chứ.

      - Thế rút ta về . Steve ạ. Lẹ lên.

      - Tôi nghĩ phải làm vậy thôi, Bill. Cám ơn khuyên. Tội - tốt thế cơ mà.

      - Giỏi nhất. trong khi còn được thế.

      Stewart dập máy. Laing lên tầng để gặp ngài Colin.

      Quyết định được đưa ra trong vòng giờ đồng hồ.

      Vào giờ ăn sáng ngày 15 tháng Giêng ở Arập Xêut, tất cả các thành viên của đội bay, người Mỹ, người , Italia, Xêut, và Kuwait, biết rằng họ vào cuộc chiến tranh. Các chính khách và nhà ngoại giao, họ tin thế, thất bại trong việc ngăn cản điều đó. Qua ngày mọi đơn vị. quân chuyển sang tình trạng chuẩn bị chiến đấu.
      Các trung tâm đầu não của chiến dịch đặt ở ba cơ sở tại Riyadh.

      Ở ngoại ô Riyadh căn cứ quân là tập hợp những lều trại có gắn máy lạnh, được biết đến bởi ánh sáng xanh lan toả những tấm vải bạt ở chỗ Barn. Đó là nơi đầu tiên lọc đống ảnh tình báo chụp từ trong nhiều tuần và có thể gấp đôi, gấp ba trong những tuần tới.

      Sản phẩm của Barn - tổng hợp của những thông tin ảnh quan trọng nhất đổ xuống từ rất nhiều những câu chuyện tình báo - được chặng đường để đến được đại bản doanh của lực Arập Xêut, đống những cái được chuyển lên cho quân Trung ương. CENTAF.

      toà nhà khổng lồ bằng nhôm kính dược dựng lên khu 50 mét chiều dài, đại bản doanh hoạt động hết công suất, và chính ở đó, sâu dưới mặt đất, là trụ sở CENTAF.

      Trong toà nhà bộ phận quan trọng nhất là Trung tâm Sản xuất Hình ảnh Hợp tác, cơ quan hợp tác với nhiều phòng trong đó làm việc qua chiến tranh 250 nhà phân tích. Mỹ và , của cả ba binh chủng, và mọi cấp bậc. Đó là Hố Đen.

      Tổng chỉ huy quân, tướng Chuck Horner, phụ trách về kỹ thuật, nhưng vì ông thường bị gọi lên Bộ Quốc phòng cách đó dặm đường, nên phó của ông có mặt thường xuyên hơn, tướng Buster Glosson.

      Các nhà hoạch định chiến lược cho cuộc chiến tại Hố Đen đọc đống tài liệu hàng ngày, thậm chí hàng giờ gọi là Sơ đồ Mục tiêu Cơ bản, danh sách và bản đồ mọi thứ ở lraq được nhắm đến để tấn công. Từ đó chúng được chia ra làm tài liệu hàng ngày của mỗi chỉ huy quân, sĩ quan tình báo quân, các sĩ quan chiến dịch lên kế hoạch, và đội bay tại vùng Vịnh - Lệnh Bay (ATO).

      ATO của mỗi ngày là tài liệu hết sức chi tiết. lên tới hơn 100 trang đánh máy. Mất đến ba ngày để chuẩn bị. Tiếp đến đầu tiên là Phân chia - quyết định về các tỉ lệ của các dạng mục tiêu ở lraq có thể được xử lý trong vòng ngày và những đội bay có thể sử dụng cho trận đó.

      Ngày thứ hai là Đặt chỗ - thảo luận về tỉ lệ các mục tiêu Iraq thành các số và địa điểm cụ thể. Ngày thứ ba là Phân chia quyết định "ai có ai ". Chính trong quá trình phân chia này có thể quyết định, chẳng hạn, cái đó là cho những chiếc Tornado của , cái này cho Eagle của Mỹ, cái khác cho Tomcat của Thuỷ quân, rồi cho Phantom, và cho Pháo đài bay B52.

      Chỉ khi đó mỗi phiên đội bay và người bay cùng mới được lên danh sách trong ngày hôm sau. Sau đó, là thực – tìm mục tiêu, vạch đường, nối với những máy bay tiếp nhiên liệu, kế hoạch hướng đánh, tính toán những mục tiêu thứ yếu trong trường hợp thất bại, và tìm đường trở về nhà.

      Người chỉ huy phiên đội có thể chọn các nhân viên của mình và đề nghị những người chỉ huy chuyến bay và người cùng. Những sĩ quan phụ trách vũ khí - mà Don Walker là trong số đó, có thể lựa chọn cách thức - bom "thép" hay là "ngu ngốc" , những bom có định hướng, rồi bom do laser định hướng, hoả tiễn laser dẫn đường, và nhiều thứ nữa.

      Cách đường Sân bay cũ dặm là toà nhà thứ ba. Bộ Quốc phòng Xêut rất mênh mông, gồm năm toà nhà chính nối với nhau bằng xi măng trắng, cao bảy tầng, với những cột nhà cao lênh khênh.

      tầng thứ tư toà nhà này tướng Norman Schwarzkopf dược dành cho dãy phòng mà hiếm khi ông dùng đến. thường xuyên ngả lưng thẳng xuống cái giường dưới tầng ngầm, cạnh vị trí chì huy của mình.

      Trong tất cả, bộ dài tới 400 mét và hàng chục fít cao, sạch trả các cổ tức trong Chiến tranh vùng Vịnh, khi Riyadh phải đóng vai trò chủ nhà với nhiều người nước ngoài. Dưới đất là hai tầng nữa gồm nhiều phòng chạy dọc theo chiều rộng của toà nhà, và trong số 400 mét. Ban Chỉ huy liên quân đóng trong 60. Chính ở đây các vị tướng lĩnh ngồi trong suốt cuộc chiến, nhìn vào bản đồ lớn trong khi các sĩ quan tuỳ tùng chỉ ra cái được xử lý, cái bị trượt. cái để lộ ra, cái di chuyển, và cái mà đáp lại của lraq và những vị trí có.

      Được bảo vệ khỏi ánh mặt trời gay gắt ngày tháng Giêng đó, chỉ huy đội của ngồi trước tấm bản đồ treo tường chỉ ra 700 mục tiêu được lên danh sách tại lraq. 240 mục tiêu chính và những cái khác còn lại là thứ yếu, nhận xét:

      - Tốt, thế là đúng đấy.

      Thực ra, phải là như thế. Những người lập kế hoạch hề hay biết, cả những vệ tinh và mọi thứ công nghệ, tính tàn bạo của con người được nguỵ trang và maskirovka làm họ bị đánh lừa.

      Tại hàng trăm địa điểm qua Iraq và Kuwait, các xe tăng Iraq đỗ và ở dưới nguỵ trang của chúng, hướng bắn rất chuẩn bởi Liên quân nhờ vào chất liệu kim loại của chúng: được phát bởi các rađa tốt nhất. Trong nhiều trường hợp làm bằng gỗ, gỗ ép, và thanh mỏng, những cái trống của thép cứng bên trong tạo ra thứ gần giống như thép với các máy cảm ứng.

      Những điểm của xích xe tải cũ giờ đây chất đống những ống cho tên lửa Scud. Những "máy phóng " di động này cũng có thề bị Liên quân bỏ qua.

      Nhưng nghiêm trọng hơn nữa, 70 mục tiêu chính yếu liên quan đến các vũ khí của Iraq được định vị bởi vì chúng được chôn sâu hay được nguỵ trang cách khéo léo thành cái gì đó khác. Chỉ sau này các nhà hoạch định mới bối rối về cách người Iraq xử lý để dựng lại toàn bộ những sư đoàn bị phá huỷ với tốc độ nhanh đến khó tin; chỉ sau này các điều tra viên của Hoa Kỳ mới phát hàng loạt nhà máy và kho hàng bị bỏ sót: và biết được những căn cứ ngầm dưới dất.

      Nhưng vào cái ngày nóng nực năm 1990 đó ai biết được những điều đó. Cái mà những người đàn ông trẻ tuổi ngoài những đường bay từ Tabuq miền tây đến Bahrain ở phía đông và xuôi xuống vùng Khamis Mushait bí mật cao độ ở phía nam được biết rằng là trong 40 tiếng đồng hồ họ có thể vào cuộc chiến tranh và số trong đó trở về.

      Trong toàn bộ ngày cuối cùng trước khi những cái quyết định bắt đầu, phần lớn trong số họ viết thư về nhà. số cắn bút chì nghĩ nên viết gì. Những người khác nghĩ đến vợ và con cái mình và khóc khi viết thư; những bàn tay quen điều khiển hàng tấn kim loại chết người tìm cách nghuệch ngoạc những từ chẳng ra sao để điều họ cảm thấy; những người cố diễn tả điều họ nên trước, những người cha khuyên nhủ -con trai mình chăm lo cho mẹ chúng nếu điều xấu nhất xảy đến.

      Đại uý Don Walker nghe tin tức với tất cả các phi công và những người trong đội lái khác của Đội Rocketeers của TFS số 336 trong thông báo từ đội trưởng ở Al Kharz. Ngay trước 9 giờ sáng: và mặt trời bắt đầu thiêu đốt sa mạc giống như thứ lò nướng.
      có lệnh cấm nào buộc những người lính được ra khỏi lều, mỗi người chìm trong suy nghĩ riêng của mình. Với mỗi người, những suy nghĩ đó rất gần với nhau: ý định gần đây nhất để tránh chiến tranh được thử và thất bại; các chính khách và nhà ngoại giao như con thoi từ cuộc họp này đến cuộc họp khác, đầu hàng và tuyên bố như vậy, thúc đẩy, đốt cháy, xin xỏ, doạ nạt, và ve vãn hàng tháng trời trước khi đến ngày hôm nay.

      Walker nhìn đội trưởng Steve Turner khỏi lều của mình để viết điều tin tưởng sâu sắc có thể là bức thư cuối cùng của cho Betty Jane ở Goldsboro, Carolina Bắc, Randy Roberts có vài từ ngắn gọn, thân mật với Boomer Henry. rồi họ chia tay và .

      Chàng trai Oklahoma trẻ tuổi nhìn vào vòm trời xanh nhợt nhạt nơi muốn lao vào từ khi còn là chú nhóc ở Tulsa và nơi đó sớm có thể chết vào độ tuổi ba mươi, và quay buớc chân về cái máy đo. Cũng giống những người khác, muốn được mình.

      có hàng rào để sang căn cứ ở Al Kharz, chỉ có hàng núi cát, và những đồng đất trải dài đến chân trời và đó lại tiếp nữa và tiếp nữa. Walker ngang qua những túp lều bé được tụ lại quanh nơi cụ thể, nơi các thợ máy làm việc với chức trách của mình và các đội trưởng qua các đội, và kiểm tra để chắc rằng khi cái trong số các baby của mình cuối cùng vào cuộc chiến, chúng có thể là những chiếc máy hoàn hảo trong tay những người biết sử dụng chúng.

      Walker đỗ chiếc Eagle của mình giữa chúng và vẫn thấy ngưỡng mộ khi chiêm ngưỡng chúng từ xa theo cái dáng điệu đe doạ câm lặng của chúng. Nó baỵ chậm qua đoàn đàn ông và phụ nữ, thầm mến hoặc thích thú, căm ghét hoặc sợ hãi, kiên nhẫn đợi đến lúc khi nó cuối cùng có thể làm cái được thiết kế để làm hàng năm trước khoang lái - mang lửa và cái chết đến cho những kẻ được đưa vào tầm ngắm bởi vị tổng thống Hợp chúng quốc Hoa Kỳ.

      Walker ghen tị với chiếc Eagle của mình; với mọi phức tạp kinh người, nó có thể cảm thấy gì hết cả, nó có thể bao giờ phải e ngại. rời khỏi thành phố của lều trại đằng sau mình và rảo bộ dường. đôi mắt ánh lên bởi độ cao của cái gậy bóng chày và những đôi kính bay, hiếm khi cảm thấy sức nóng của mặt trời vai mình.

      Tám năm nay bay chiếc máy bay của Tổ quốc mình, làm điều đó và thích thú nó. Nhưng chưa từng bao giờ , thành ngắm nhìn triển vọng mình có thể chết trong trận chiến. phần trong số mọi phi công chiến đấu thường đùa cợt với khái niệm thử nghiệm kỹ năng, thần kinh của , và hoàn hảo của chiếc máy bay chống lại người đàn ông khác trong thực tế chứ phải bài kiểm tra vớ vẫn nào đó. Nhưng phần khác vẫn luôn giải thích rằng bao giờ xảy ra như thế. Nó bao giờ thực biết đến việc giết những đứa con của những bà mẹ khác, hay bị họ giết chết.

      Sáng hôm đó, cũng giống như các buổi sáng khác, cuối cùng cũng nhận ra rằng trong thực tế điều đó xảy đến: rằng mọi năm học hành và huấn luyện trước đây cuối cùng đến ngày này và đến thời điểm này; rằng trong 40 giờ nữa có thể lại đưa chiếc Eagle của mình lên trung, và lần này có thể quay trở về.
      Cũng giống như những người khác, nghĩ về ngôi nhà. Khi chỉ còn là đứa trẻ và người độc thân, nghĩ về bố mẹ mình. nhớ mọi thời gian và mọi địa điểm của tuổi thơ mình ở Tulsa, những việc mà và cha mẹ cùng nhau làm trong cái sân sau nhà, cái ngày được tặng cái mitt đầu tiên và bắt bố mình chơi cùng cho đến tận khi mặt trời xuống.

      Những suy nghĩ của quay trở về những kỳ nghỉ mà họ ở cùng nhau trước khi rời nhà học đại học rồi vào quân. Người nhớ đến nhiều nhất là cái lần bố mang chiếc tàu đánh cá chỉ toàn đàn ông đến Alaska vào mùa hè năm 20 tuổi.

      Ray Walker hồi 20 năm trước đó, cứng chắc, khoẻ mạnh hơn con trai. Họ chiếc kayak, với người dẫn đường và những người nghỉ khác, và qua những vùng băng giá của vịnh Glacier, nhìn ngắm những con gấu trắng tập hợp lại đứng thành hàng những triền núi, những cảng biển vào tháng Tám, và cảnh mặt trời lên Mendenhall Glacier sau Juneau. Họ hạ hai con quái vật nặng 70 pound ngoài hố Halibut và mang cá hồi chúa khỏi kênh ngoài Sitka.

      Giờ đây thấy mình lang thang qua biển cát trong đất liền xa nhà với nước mắt chảy dài gò má, ngăn được, khô trong ánh nắng mặt trời. Nếu chết, bao giờ được cưới vợ và bao giờ có con hết cả. Hai lần suýt cưới vợ; lần với ở trường đại học, nhưng đó là khi còn quá trẻ chưa có kinh nghiệm gì, lần thứ hai với người phụ nữ chín chắn hơn mà gặp ngoài căn cứ gần Mc Connell, người làm hiểu bao giờ trở thành vợ của tay lính chiến lái máy bay.

      Giờ đây muốn, như chưa từng muốn như thế bao giờ trước đây, có con của riêng mình; muốn người đàn bà để trở về vào lúc cuối ngày, và đứa con đùa nghịch với và nghe đọc chuyện cổ tích khi sắp ngủ, và đứa con trai để dạy cho nó bắt quả bóng xoáy, để chiến đấu và thi đấu, để chơi đùa và câu cá, đúng theo cái cách bố dạy . Còn hơn thế nữa, muốn quay trở về Tulsa và ôm hôn mẹ lần nữa, người lo lắng bao nhiêu về những việc làm và can đảm chịu...

      Chàng phi công trẻ tuổi cuối cùng cũng quay về căn cứ, ngồi xuống cái bàn ăn tại căn lều ở chung với mấy người khác, và tìm cách viết bức thư về nhà. phải người viết thư giỏi. Từ ngữ đến dễ dàng. thường thử miêu tả những điều vừa mới xảy ra trong đội bay, bạn bè , tình hình thời tiết. Điều đó là khác.

      viết cho bố mẹ mình hai trang giấy, cũng giống như nhiều đứa con trai khác trong ngày hôm đó. tìm cách giải thích điều dang diễn ra trong đầu , cái chẳng dễ dàng chút nào.

      với họ về những tin tức mới vừa được thông báo sáng hôm đó và ý nghĩa của những tin đó, và bảo họ đừng có lo lắng cho . đào tạo tốt nhất thế giới và bay chiếc máy bay chiến đấu tốt nhất thế giới trong lực mạnh nhất thế giới.

      viết là rất tiếc về thời gian còn , và cảm ơn họ với mọi điều họ làm cho trong những năm qua, từ ngày đầu tiên xa lắc xa lơ cho đến tại khi vị tướng ngực những cánh máy bay.

      Trong 40 tiếng đồng hồ, giải thích, có thể cất cánh chiếc Eagle của mình và lại bay, nhưng lần này có thể khác nhiều. Lần này, lần đầu tiên, có thể thấy mình phải giết những người khác, và họ cũng tìm cách để giết . có thể nhìn thấy khuôn mặt của họ hay cảm giác về nỗi sợ hãi của họ, khi họ biết được điều đó, vì có cách nào khác trong chiến tranh đại. Nhưng nếu họ lùi bước và thất bại, cũng muốn bố mẹ mình biết họ thế nào, và hy vọng đứa con trai tốt của họ.

      Khi viết xong, dán thư lại. Nhiều bức thư khác cũng được dán trong ngày hôm đó dọc theo chiều dài và chiều rộng của Arập Xêut. Rồi các nhân viên bưu chính quân đội thu thập chúng, và chúng được chuyển cho Trenton , Tulsa, London , Rouen và Rome.
      Đêm đó Mike Martin nhận được tin khẩn từ những người kiểm soát ở Riyadh. Khi cho máy chạy lại, nhận ra giọng Simon Paxman . Đó phải là bản tin dài, nhưng ràng và thẳng vào vấn đề ngay. Trong thông điệp trước của mình, Jericho sai lầm, hoàn toàn và tuyệt đối sai. Mọi kiểm tra khoa học đều chứng tỏ có cách nào ta lại đúng được cả.

      ta sai dù là cố ý hay vô ý. Trong trường hợp đầu tiên ta có thể phản bội, bị loá mắt vì tiền, hay bị bắt buộc. Trong trường hợp thứ hai ta có thể chán ngán bởi vì CIA từ chối nhất quyết trả thêm đôla cho cái loại sản phẩm này nữa.

      Điều đó có nghĩa là, có lựa chọn nào khác ngoài việc tin rằng, hợp tác của Jcricho, toàn bộ chiến dịch bị Phản gián Iraq phát , giờ đây ở trong tay "Hassan Rahmani bạn "; hoặc điều đó rồi chóng chày xảy ra, nếu Jencho tìm cách trả thù bằng cách gửi thư nặc danh.

      Và cũng phải bỏ cả sáu hòm thư chết. Kiểu gì cũng phải làm. Martin có thể tự mình chuẩn bị để thoát khỏi Iraq với cơ hội an toàn đầu tiên, có thể là dưới trường hợp cuộc hỗn loạn có thể đến trong 24 giờ nữa. Hết thông báo.

      Martin nghĩ về nó trong suốt phần còn lại của đêm. ngạc nhiên rằng phương Tây còn tin Jericho nữa. Rằng các khoản tiền ngừng chảy nữa. Người chỉ báo cáo nội dung của cuộc họp tại đó Saddam có dự. Thế là Saddam dối - có gì mới mẻ cả. Thế Jericho làm gì khác đây - bỏ qua nó ư? Người đàn ông đòi đến triệu đôla làm điều đó.

      Do đó, lôgic của Paxman chấp nhận được.

      Trong bốn ngày, có thể là năm, Jericho kiểm tra và phát chưa có thêm tiền. Ông ta có thể trở nên giận dữ, cáu bẳn. Nếu bị rơi vào tay Omar Khatib "Kẻ Tra tấn", ông ta có thể hoàn toàn trả lời bằng cách bịa ra kẻ nặc danh nào đó Cũng có thể là điên rồ đối với Jericho nếu làm thế. Nếu Martin bị bắt và bị đánh - và chắc đau đớn thế nào trong tay Khatib và những tên chuyên nghiệp đấm bóp của - thông tin của chính có thể chỉ ra Jericho, dù đó là ai chăng nữa.
      Hơn nữa, con người ta lại hay làm những việc điên rồ. Paxman đúng, các hộp thư cần được giám sát.

      Còn với việc rời khỏi Baghdad, điều đó dễ hơn là làm. Qua câu chuyện phiếm ở các chợ, Martin nghe thấy rằng các con đường ra khỏi thành phố dầy đặc những đội tuần tra của AMAM và Cảnh sát quân , tìm kiếm những kẻ lang thang và chó săn. Bức thư của nhà ngoại giao Nga Kulikov chỉ cho phép phục vụ ông ta với tư cách người làm vườn ở Baghdad. khó giải thích cho điểm kiểm tra điều muốn làm khi về phía tây về sa mạc, nơi chiếc mô tô của được chôn ở đó. Suy tính lại quyết định ở lại trong khu nhà Xô viết thời gian nữa. Đó lại có thể là chỗ an toàn nhất ở Baghdad này.

    3. Nữ Lâm

      Nữ Lâm Well-Known Member

      Bài viết:
      23,871
      Được thích:
      22,185
      CHƯƠNG 15


      Hạn cuối cho Saddam Hussein để rời khỏi Kuwait hết vào nửa đêm ngày 15 tháng Giêng. Trong nghìn căn phòng, lều, tăng, và cabin khắp nước Arập Xêut, và ở Biển Đỏ cũng như vịnh Arập, những người đàn ông nhìn đồng hồ rồi nhìn nhau. Chẳng có gì mà cả.

      Hai tầng bên dưới Bộ Quốc phòng Xêut, sau những cánh cửa thép có thể chống mọi quả đạn tăng đời, gần như có cảm giác chán ngán. Sau tất cả các công việc, tất cả những gì được lên kế hoạch, chẳng còn gì để làm nữa cả - trong vài giờ. Giờ đây công việc đổ xuống vai những chàng trẻ tuổi. Họ có nhiệm vụ của mình, và họ có thể thực trong bóng tối đường băng rất xa bản doanh của các vị tướng.

      Vào 2 giờ 15 sáng, tướng Schwarzkopf vào gian phòng chiến tranh. Mọi người đều đứng. Ông đọc to thông báo cho các đội quân, người đàn ông cầu nguyện, và vị chỉ huy : "Được rồi, để họ làm ".

      Ngoài xa qua sa mạc, những người đàn ông vào việc. Lần đầu bay qua biên giới phải những chiếc máy bay chiến đấu mà là đội bay gồm tám chiếc trực thăng Apache thuộc về Sư đoàn quân 101 của quân đội. Nhiệm vụ của họ nhưng là chủ yếu.

      Về phía bắc biên giới nhưng xa Baghdad là hai căn cứ rađa mạnh của Iraq, với những chiếc đĩa quan sát cả bầu trời vùng Vịnh từ đông sang tây sa mạc.
      Những chiếc máy bay trực thăng được lựa chọn, dù có tốc độ thấp so với những chiếc máy bay siêu , bởi hai lý do. thăm dò sa mạc, chúng có thể bay dưới tầm rađa và tiếp cận các căn cứ đó mà bị phát ; hơn thế nữa, những người chỉ huy muốn có xác nhận của mắt con người rằng các căn cứ đó tồn tại, và ở rất gần. Chỉ những chiếc cánh quạt mới làm được diều đó. Có thể tốn nhiều mạng người nếu những máy rađa đó hoạt động được.

      Những chiếc Apache làm được tất cả những gì được cầu Chúng bị phát khi bắt đầu khai hoả. Tất cả đội bay đều có mũ đội gắn kính hồng ngoại, trông như những chiếc ống nhòm thòi ra từ phía trước. Chúng giúp phi công có tầm nhìn đêm hoàn hảo, để trong đêm tối mịt mùng với mắt thường ta có thể nhìn mọi thứ như thể trong đêm sáng trăng.

      Thoạt tiên họ dò các máy phát điện phục vụ máy rada, rồi các thiết bị liên lạc từ đó có mặt của họ có thể bị báo cáo cho các trận địa tên lửa xa hơn trong nội địa, và cuối cùng, họ bắn tung các dĩa rađa.

      Trong chưa đầy hai phút họ bắn tới tấp 27 tên lửa có laser dẫn đường Hellfire, loạt 100 quả rocket 70 ly, và 4000 vòng đạn pháo hạng nặng. Cả hai địa điểm ra đa đều bị phá huỷ.

      Công vụ mở ra cả lỗ hổng lớn trong hệ thống phòng của Iraq, và qua lỗ hổng đó nhảy xổ vào cả phần còn lại của chuyến tấn công đêm này.

      Những người nhìn thấy kế hoạch chiến tranh của tướng Chuck Horner sau này đều cho rằng đó là trong những kế hoạch giỏi nhất từng có. Nó bao gồm cột trụ, chính xác đến từng bước và có đủ độ linh hoạt để đối đầu với mọi bất trắc cần đến thay đổi.

      Bước khá ràng trong các mục tiêu và được chuyển sang ba giai đoạn khác. Đó là tiêu diệt mọi hệ thống phòng của lraq và chứng tỏ vượt trội của quân Liên quân? với nó họ bắt đầu, thành tối cao của quân.

      Trong ba giai đoạn còn lại tiếp theo trong vòng kỳ hạn 35 ngày tự đặt ra, máy bay của Liên quân phải có được thế thượng phong đè bẹp đối phương ở . Khi đàn áp phòng của Iraq, vấn đề cốt yếu là rađa.

      Trong chiến tranh đại, rada là cái quan trọng hàng đầu và là công cụ được sử dụng nhiều nhất, mặc cho chói sáng của tất cả những cái khác trong khí tài.
      Rađa dò xét được các máy bay chiến đấu bay đến gần, rađa hướng lối cho máy bay của chính họ đến nơi cần đến; ra đa hướng lối cho các tên lửa phòng ; và ra đa hướng đường bắn cho pháo.

      Phá huỷ ra đa khiến kẻ thù trở nên mù loà, giống như võ sĩ quyền hạng nặng sàn đấu có mắt. ta có thể to lớn và vẫn rất khoẻ, ta có thể ra được những cú đấm kinh người, nhưng kẻ thù của ta có thể vòng xung quanh chàng Samson mù loà, nháy nhót và chơi những cú làm chàng khổng lồ mệt nhoài cho đến lúc trọng tài tuyên bố ta thua cuộc.

      Với lỗ thủng to đùng ngay ở tầm khống chế hệ thống rada của Iraq, các máy bay Tornado và Eagle, những chiếc Aardvard F-111 và F-4G Wild Weasel xuyên qua chỗ hở đó, đến được các địa điểm rađa sâu hơn trong nội địa, đến được các căn cứ tên lửa do các căn cứ rađa đó hướng lối, nhắm vào các trung tâm chỉ huy nơi các viên tướng lraq ngồi, và thổi bay các địa điểm liên lạc qua đó các viên tướng cố truyền đạt mệnh lệnh cho các đơn vị bên ngoài.

      Từ các tàu chiến Wisconsin và Missouri và chiếc San Jacinto ngoài Vịnh, 52 tên lửa hành trình Tomahawk được bắn ra trong đêm đó. Chúng do tổ hợp ngân hàng dữ liệu được máy tính hoá và máy camera vô tuyến điện, những chiếc Tomahawk đến được các nơi, chiếm thế thượng phong tại đó. Khi đến nơi, chúng "nhìn" thấy mục tiêu, so sánh chúng với cái có trong bộ nhớ, xác định toà nhà chính xác, và bắn vào trong đó.
      Wild Weasel là phiên bản của Phanton, nhưng được chế tạo đặc biệt để tiêu diệt rada. Nó mang theo những HARM, những tên lửa chống xạ tốc độ cao. Khi chiếc đĩa rađa loé sáng hoặc "phát sáng", nó tạo ra các sóng điện từ, và để bị lộ. Nó thể tránh thế được. Công việc của những HARM là tìm những sóng đó bằng các bộ cảm ứng của mình và thẳng đến trung tâm của rađa trước khi nổ tung.

      Có thể máy bay chiến đấu lạ nhất trong số đó bay về bắc ở trời cao đêm đó là máy bay F-117A, được biết đến như máy bay chiến đấu Stealth. Toàn thân màu đen, nó được chế tạo với hình dạng mà nhiều chiều của nó tránh được hầu hết các sóng rađa hướng lên vào nó và hấp thụ phần còn lại vào chính mình, chiếc chiến đấu Stealth để những sóng rada đối nghịch trở về máy thu và do đó để lộ tồn tại của nó cho kẻ thù.

      Là tàng hình, những chiếc F- 117A đêm đó bay qua bay lại bị phát qua các màn hình rađa Iraq để ném những quả bom 2000 pound do lazer dẫn đường rất chính xác vào 34 mục tiêu dính với hệ thống phòng quốc gia. 13 trong số các mục tiêu đó là ở ngay ngoài Baghdad.

      Khi những quả bom đó xuống đến mặt đất người Iraq loé hết cả mắt nhưng nhìn lên thấy gì hết. Trong tiếng Arập, Stealth có nghĩa là shabah; có nghĩa là "ma". Chúng đến từ căn cứ bí mật của Khamis Mushait sâu ở miền nam Arập Xêut, nơi chúng được chuyển từ nhà Tonopah, Nevada, cũng bí mật như thế. Trong khi những phi công Mỹ kém may mắn hơn phải sống trong lều trại, Khamis Mushait được xây dựng cách xa hàng dặm nhưng với bầu nhiên liệu rất lớn và hệ thống điều hoà nhiệt độ, nguyên nhân người ta để những chiếc Stealth ở đó.

      Vì phải bay xa đến thế, có thể là những phi vụ đường xa nhất trong chiến tranh, đến sáu giờ bay từ khi cất cánh đến khi tiếp đất, và tất cả đều bí mật. Chúng bay mà hề bị phát qua số trong các hệ thống phòng dày đặc nhất thế giới - của Baghdad - và cái nào bị hề hấn gì, trong đêm đó cũng như những đêm khác.

      Khi chúng làm xong điều phải làm, chúng liền bay , hành trình như những đợt sóng mặt biển hiền hoà, và quay trở về Khamis Mushait.

      Công việc nguy hiểm nhất của đêm đến với những chiếc Tornado của . Nhiệm vụ của họ, và trong tuần tiếp đó cho đến khi còn nữa, là " chiến", sử dụng những quả bom JP-233 to đùng của mình. Vấn đề của họ khó gấp hai. Người Iraq xây dựng những lá chắn tên lửa cực kỳ lớn. Tallil lớn gấp 4 lần Heathrow, với 16 đường băng và đường cho xe taxi có thể được sử dụng để cất và hạ cánh cùng lúc. Chỉ đơn giản là thể tiêu diệt nó hoàn toàn ngay lập tức được.

      Vấn đề thứ hai là về độ cao và tốc độ. Những quả bom JP- 233 phải được phóng ra từ chiếc Tornado trong khi bay thẳng tuyệt đối và ở độ cao nào đó. Ngay cả sau khi thả bom, những chiếc Tornado vẫn có cách lựa chọn nào khác là bay qua mục tiêu. Ngay cả khi những chiếc rada bị hạ gục, những tay súng vẫn hề: pháo chống máy bay, được biết đến như là A nhân ba, bắn đến chúng bằng những đợt sóng cuộn khi chúng lại gần, cho nên phi công miêu tả những phi vụ đó là "bay qua những cái ống thép mềm".

      Những người ném bom phải là những người duy nhất bay đêm đó. Đằng sau chúng và với chúng còn bay theo cả đống công tác phục vụ đặc biệt khác nữa.

      Những chiếc máy bay chiến đấu sức mạnh vượt trội bay qua lại những chiếc thả bom. Những lệnh của những người chỉ huy mặt đất của Iraq cho các phi công của mình - số ít người được cất cánh đêm đó - bị những chiếc Raven của Mỹ và Prowler của Hải quân đè nát. Các phi công Iraq bay đêm đó có chỉ dẫn bằng lời và có rađa hướng lối. cách khôn ngoan, hầu hết đều bay về nhà.

      Bao quát phần phía nam của biên giới là 60 chiếc tiếp nhiên liệu: KC-135 và KC-10 của Mỹ, KA-6D của Hải quân Mỹ và Victor và VC-10 của . Công việc của chúng là nhận những chiếc máy bay chiến đấu đến từ Arập Xêut, cấp nhiên liệu để chúng làm nhiệm vụ, rồi gặp chúng dường chúng lui về để tiếp nhiên liệu nữa để về được nhà. Điều này nghe có vẻ thường, nhưng thực tế được làm trong bóng tối được miêu tả bởi lái máy bay là "cố nhét spaghetti vào cái lỗ ".

      Và bên ngoài Vịnh, nơi chúng ở đó 5 tháng nay, những chiếc Hawkeye E-2 của Hải quân Mỹ và những chiếc Sentry AWACS E-3 của USAF bay vòng vòng. ra đa của chúng hướng lên mọi máy bay của mình và của bên đối phương bầu trời, cảnh báo, khuyên nhủ, hướng lối, và nhìn ngó.

      Vào lúc hoàng hôn, những chiếc rađa của Iraq gần như bị quét sạch, các căn cứ quân của nước này trở nên mù loà Và những trung tâm chỉ huy chính bị phá huỷ. Có thể mất đến bốn ngày đêm nữa mới có thể hoàn thành công việc, nhưng thế thượng phong về lực thấy . Sau đó có thể đến các trạm phát điện, các tháp thông tin, liên lạc điện thoại, các trạm hoãn, kho chứa máy bay, các tháp điều khiển, và tất cả những cái được coi là thiết bị để sản xuất và trữ vũ khí huỷ diệt toàn bộ.

      Sau đó có thể đến "xuống cấp" có hệ thống dưới 50% lực lượng quân của quân đội Iraq ở phía nam và tây nam biên giới với Kuwait, điều kiện mà tướng Schwarzkopf nhấn mạnh trước khi ông có thể dùng quân bộ tấn công.

      Hai nhân tố khi đó chưa được biết đến sau này có thể làm thay đổi tiến trình cuộc chiến. là quyết định của Iraq bắn loạt tên lửa Scud vào Israell cái còn lại là hành động nóng nảy của đại uý Don Walker của Đội bay chiến thuật số 336.

      Bình minh lên vào buổi sáng ngày 17 tháng Giêng Baghdad bị rung chuyển rất mạnh. Các công dân thể ngủ tiếp sau chấn động vào lúc ba giờ sáng, và khi ánh sáng ban ngày đến, số trong đó liều lĩnh ra ngoài để thám thính cách tò mò số địa điểm chính của thành phố. Họ sống sót qua đêm dường như là cả kỳ diệu, vì họ thể nhận ra rằng 20 chỗ bốc khói được lựa chọn cẩn thận và được bắn với độ chính xác mà dân thường hề bị nguy hiểm gì lớn.

      Nhưng cảm giác sốc là giữa các quan chức. Saddam Hussein rời khỏi Dinh Tổng thống và trốn ở boong ke kỳ ảo lạ lùng của mình ở sau và dưới khách sạn Rashid, vẫn còn rất đông người phương Tây, chủ yếu là giới truyền thông.

      Boong ke được xây dựng nhiều năm trước đây trong khu chống được động đất, chủ yếu với công nghệ Thuỵ Điển. Các biện pháp an ninh của nó rất tinh vi và thực cái hộp ở trong cái hộp khác, và bên dưới và xung quanh cái hộp bên trong là hàng loạt những sức mạnh để bảo vệ những người trong đó khỏi quả bom nguyên tử, giảm bớt các xung lực có thể làm đảo lộn cả thành phố bên mà ở dưới chỉ còn thấy như chấn động .

      Mặc dù đường vào phải qua cả loạt những hệ thống ống nước ở dưới khách sạn, cấu trúc chính vẫn nằm dưới Rashid, cái được xây dựng có tính toán ở mặt đất phía như nơi ở đặc biệt dành cho người phương Tây ở Baghdad.

      Bất kỳ kẻ thù nào có ý định thâm nhập sâu bằng cách ném bom vào boong ke phải chơi Rashid trước. Dù cố gắng cách nào, những ống ngầm xung quanh Rais vẫn rất chắc chắn tạo ra những rung động ban đêm. Chầm chậm, mức độ của thảm hoạ vào trong mọi tâm trí.

      Họ trông chờ tất cả vào trận ném bom boong ke, cái làm cho các vị trí bị san phẳng và hàng nghìn người dân vô tội phải chết. Thảm hoạ này được giới báo chí đưa tin, được quay phim và chứng tỏ cho tất ca các khán giả rồ cả người vì sợ ở nhà. Do đó có thể bắt đầu làn sóng phản đối tông thông Bush và nước Mỹ toàn thế giới, có thể đạt đến phiên họp khẩn cấp của Hội đồng Bảo an Liên Hợp Quốc và phiếu chống của Trung Quốc và Nga.

      ràng rằng "Con của Chó" từ bên kia Đại Tây Dương thể dám làm. Cho đến lúc này khi các vị tướng của Iraq đề phòng, những quả bom rơi lân cận nơi họ nhắm đến, nhưng đó là tất cả. Với tất cả các vị trí trọng yếu về quân ở Baghdad được xây dựng có chủ đích tại các khu dân cư đông đúc, thể đối với các thương vong dân thường để phải tránh. Và trong lần vòng quanh thành phố 20 điểm chỉ huy, các địa điểm tên lửa, căn cứ rađa, và các trung tâm liên lạc bị bắn vào, những cái trong các toà nhà ở tầm ngắm sống hơn là các cửa sổ bị vỡ và thậm chí bị hư hại gì quá nặng cả.

      Giới cầm quyền phải tự thoả mãn với việc tự sáng tác danh sách dân thường bị chết và kêu la rằng quân Mỹ bắn rụng như lá mùa thu. Phần lớn người lraq, trong nhiều năm bị tuyên truyền làm mê mụ, tin tưởng ở các báo cáo đầu tiên đó - trong thời gian.

      Các viên tướng chịu trách nhiệm phòng biết hơn. ràng với họ mất hầu hết các ra đa áo trước mọi chuyện, rằng các SAM của họ - các tên lửa đất đối - bị mù, và liên lạc với các đơn vị bên ngoài bị cắt đứt hoàn toàn. Tồi tệ hơn nữa, những người vận hành ra đa sống sót làm thiệt hại lớn hơn do các máy bay thả bom chỉ đơn giản là làm lên màn hình. Những tên dối ngay lập tức bị tóm cổ.

      số thiệt hại về dân thường thực tế cũng có xảy ra. Ít nhất hai tên lửa đạn đạo Tomahawk nổ trật mục tiêu. cái làm sập hai ngôi nhà và làm lật mái nhà thờ, mà báo chí đưa tin vào buổi trưa.

      Quả còn lại rơi vào đất trong phố và tạo ra lỗ sâu hoắm. Trong buổi trưa đầu tiên xác người phụ nữ được tìm thấy ở dưới đáy, bị nát nhừ bởi sức ép.
      Những loạt thả bom tiếp tục trong ngày, đến nỗi cứu thương được chuẩn bị về cáng, đưa đến nhà xác của bệnh viện gần nhất, và để nó lại đó. Bệnh viện lại gần với trung tâm chỉ huy quân bị phá huỷ, và tất cả các giường đều có các nhân viên bị thương ở đó nằm. Nhiều xác người được đưa đến cùng nhà xác đó, tất cả đều chết vì bom. Người phụ nữ chỉ là trong số đó.

      Với các nguồn tin ở mục tin khẩn cấp, nhà bệnh học làm việc rất nhanh và đầy tò mò. định dạng và nguyên nhân cái chết là những ưu tiên hàng đầu của ông ta. và ông ta có thời gian để khám những bệnh . Qua thành phố tiếng ì ùng của bom nổ có thể nghe thấy, và ánh chớp của lưới đạn phòng thủ cũng ngừng. ông ta nghi ngờ gì rằng tối và đêm có thể mang lại cho ông nhiều xác chết hơn.

      Điều làm vị bác sĩ ngạc nhiên là tất cả các xác chết của ông đều là nhân viên Nhà nước, trừ người phụ nữ. Thứ bụi có trong vệt máu khuôn mặt nhừ nát của ta, kèm với chỗ ta được tìm thấy, cho thấy có giải thích nào ngoài việc ta chạy quả tên lửa rơi xuống bãi đất và giết chết ta. Xác chết được gói lại, rồi đem chôn.

      Chiếc xắc tay của ta được tìm thấy gần xác chết, và nó chứa gói bột, son môi, và những cái thẻ của ta. Đó là Leila Al-Hilla, nghi ngờ gì nữa là nạn nhân dân thường đầu tiên của đợt bom, nhà bệnh học kiệt sức lệnh đưa ta để chôn ngay lập tức.

      Khám nghiệm tử thi mà ngày 17 tháng Giêng đó thể thực có thể cho thấy người đàn bà bị hiếp dâm nhiều lần và rất tàn bạo trước khi bị đánh cách có hệ thống đến chết. Mãi nhiều giờ sau đó thứ bột trong hố bom mới được tìm thấy.

      Tướng Abdullah Kadin chuyển từ văn phòng tráng lệ của mình ở Bộ Quốc phòng hai ngày trước. thể có chuyện ở lại đó để bị bom Mỹ băm nhừ, và ông ta dược chắc rằng Bộ có thể bị ném trúng và bị phá huỷ trước khi cuộc chiến còn nhiều ngày nữa. ông ta đúng.

      Ông về ngôi biệt thự của mình, mà ông có thể chắc chắn cách có lý là khá được biết tới - dù rất xa hoa - hề nằm bản đồ mục tiêu của Mỹ. Về điểm ông lại tiếp tục đúng.

      Ngôi biệt thự từ lâu được cung cấp với phòng liên lạc riêng, với nhân viên từ Bộ vận hành. Tất cả các máy móc liên lạc cho đại bản doanh chỉ huy của Quân đội xung quanh Baghdad được chôn ngầm, xây cáp quang, cái cũng ở ngoài tầm của những máy bay ném bom.

      Chỉ các đơn vị xa mới được thông tin qua vô tuyến điện, với dường dây nối - dĩ nhiên, là những đơn vị ở Kuwait.

      Vấn đề của ông, khi bóng tối trùm lên Baghdad đêm đó, là biết dùng cách nào để liên lạc với các vị chỉ huy Quân đội hay truyền lệnh gì cho họ. Họ có thể tham dự vào cuộc chiến, được lệnh phân tán xe tăng của mình càng diện rộng càng tốt, giữa những dãy cát hay chôn chúng xuống trong các boong ke ngầm sâu dưới đất và chờ đợi.

      Vấn đề của ông ta đúng hơn là an ninh cá nhân, và ông ta hề sợ người Mỹ.
      Hai đêm trước, tỉnh dậy trong giường của mình với bộ mặt nhàu nhĩ vì rượu arak như thường lệ, ông ta chui vào nhà tắm, ông nghĩ cánh cửa bị kẹt và xô mạnh, 200 pound cơ thể ông ta lao đánh ầm vào và cánh cửa mở tung ra.

      Rất hung ác, nhưng Abdullah Kadin phải đến từ phố hậu gần Tikrit để có thể chỉ huy tất cả các xe tăng của lraq ngoài Đội Vệ binh, leo lên bằng con đường huyết thống bên trong đảng Ba'ath, và có được vị trí được tin cậy trong Hội đồng Chỉ huy Cách mạng mà có hàng đống khôn ngoan của con thú.

      Ông ta im lặng nhìn chằm chằm vào nhân tình của mình, quấn mình trong chiếc áo dài ngồi bồn cầu, tờ giấy là mặt sau của hộp Kleenx, mồm ta thành hình chữ O vì kinh ngạc và hoảng sợ, chiếc bút vẫn còn lủng lẳng. Rồi ông đá vào chân ta và đấm vào hàm .

      Khi ta bị nhúng đầu vào trong nước, ông ta có thời gian đọc báo cáo ta chuẩn bị và gọi khẩn cấp chàng Kemal trung thành từ chỗ của ta qua sân. Chính Kemal là người chịu trách nhiệm cho toàn bộ toà nhà.

      Kađiri đọc đọc lại bản báo cáo ta gần như viết xong. Liệu nó có liên quan đến những thói quen và sở thích cá nhân của ông ta, kẻ ghét thư từ, ông ta có thể đuổi và chỉ đơn giản là giết ta. Những kẻ xung quanh Rais cũng khá giống Rais. Ông cũng biết là Rais chẳng để ý đâu.

      Điều đó còn tồi tệ hơn. Vẻ ngoài ông ta về những điều xảy ra trong chính phủ và trong Quân đội. Quá ta làm gián điệp. Ông cần biết ta làm thế trong bao lâu và báo những gì, và cơ bản hơn cả, là làm cho kẻ nào. Kemal đầu tiên sung sướng vô cùng, với cho phép của ông chủ. người đàn ông nào thoả mãn đến thế sau khi Kemal kết thúc cuộc hỏi cung. Mất hàng giờ. Rồi, Kadiri biết, Kemal có tất - chí ít, mọi điều giang hồ biết.

      Sau đó, Kemal tiếp tục thoả mãn riêng của mình cho đến khi ta chết.

      Kadiri được thuyết phục rằng ta biết về người đàn ông trả tiền cho ta và thuê ta do thám ông, nhưng bức tranh đó đủ để vẽ ra Hassan Rahmani.

      mô tả của những vụ đổi chác thông tin lấy tiền trong phòng xưng tội của nhà thờ Thánh Joseph cho thấy người đàn ông rất chuyên nghiệp, và Rahmani ràng là người như thế. Điều có thể bị nhìn thấy làm Kadiri bận lòng. Tất cả những người xung quanh Rais đều bị nhìn thấy; thực tế, họ nhìn lẫn nhau. Các quy tắc của Rais rất đơn giản và ràng.

      Mọi người ở cấp cao đều bị theo dõi và bị báo cáo bởi ba trong số những người khác. phản bội có thể và có khả năng làm sụp đổ tất cả Do đó, ít kẻ phản bội có thể xa được. trong số những người đó tin tưởng có thể báo cáo về vấn đề, và điều đó có thể đến được tai Rais.

      Để làm vấn đề thêm phức tạp, mỗi thành viên xung quanh đều đôi khi bị thử, để xem thử phản ứng của người đó. đồng nghiệp, được sử dụng để làm điều đó, có thể lôi kéo theo người bạn và làm ta liên luỵ.

      Nếu người bạn đồng ý, thế là ta tiêu. Nếu ta thất bại báo cáo được người đề nghị, ta cũng tiêu. Thế là cách nào cũng có thể là khiêu khích - điều đó chỉ đơn giản là quá bất cẩn để mà làm khác. Do đó, tất cả đều báo cáo về những người khác.

      Nhưng ở đây lại khác. Rahmani là giám đốc Phản gián. Liệu ông ta có báo cáo về chính mình, và nếu có thế, tại sao? Liệu đó có phải là chiến dịch với hiểu biết và đồng tình của chính bản thân Rais, và nếu đúng thế. tại sao?

      Ông ta gì? Viên tướng băn khoăn. Mọi điều đều rất kín đáo, hẳn nhiên rồi. Nhưng phản bội ư?

      Cái xác ở trong toà nhà cho đến khi bom rơi xuống, khi Kemal tìm thấy hố bom ở bãi đất trống để đùn nó xuống. Viên tướng nhấn mạnh là cái túi xắc cần để bên cạnh đó. Hãy để cái thằng con hoang Rahmani đó biết điều gì xảy đến với kế hoạch chó má của .

      Khi quá nửa đêm, tướng Abdullah Kadiri lên cơn nóng sốt, rỏ nước vào arak. Nếu đó chỉ là Rahmani, ông ta có thể kết thúc tên con hoang. Nhưng bằng cách nào có thể biết cái thang đó dẫn đến đâu? Ông ta có thể cần cẩn trọng, cẩn trọng hơn nhiều so với trước. Những chuyến đêm vào thành phố cần kết thúc. Dù thế nào nữa, khi cuộc chiến tranh bắt đầu, là thời gian để dừng lại rồi.

      Simon Paxman bay về London. còn vấn đề gì nữa đế tiếp tục ở lại Riyadh. Jericho chắc hẳn bị đá bởi CIA, mặc dù sư đoàn vô hình ở Baghdad có thể còn chưa biết điều đó, và Mike Martin vẫn ở lại cho đến khi có thể trốn thoát ra sa mạc và tìm cách an toàn trốn qua biên giới.

      Tiếp theo đó, Paxman có thể đặt tay lên tim cuộc họp vào buổi tối ngày 18 với tiến sĩ Terry Martin như là trùng hợp . ta biết Martin sống ở Bayswater, cũng như chính ta, nhưng đó là khu ngoại ô rộng lớn với nhiều cửa hàng.

      Với người vợ thăm mẹ ốm và chưa biết lúc nào quay về, Paxman đến nhà vào căn hộ trống tủ lạnh rỗng tuếch, thế là ta mua sắm ở siêu thị mở cửa muộn ở Westbourne Grove.

      Xe của Terry Martin suýt đâm thẳng vào ta khi ta qua góc của những ngăn hàng pasta và thức ăn gia súc Cả hai người đều la hoảng.

      - Tôi có được phép biết đấy? Martin hỏi với nụ cười bối rối.

      Lúc đó trong đường có ai khác.

      - Sao chứ? Paxman . Tôi chỉ là công chức bình thường mua đồ cho bữa tối thôi mà.

      Họ cùng nhau mua đồ và thoả thuận đến ăn ở cửa hàng Ấn Độ. Hilary, có vẻ như thế, cũng xa.

      Paxman có thể, dĩ nhiên, làm điều đó. ta có thể bao giờ cảm thấy bất tiện rằng người của Terry Martin ở trong tình cảnh khá là nguy ngập và rằng ta, với những người khác, đẩy ta vào đó, điều đó có thể làm ta bận tâm lớn rằng nhà học giả tin người có thể thực tin rằng người em quý của mình được an toàn trong Arập Xêut. Mọi thứ đều nhấn mạnh rằng người kia bận tâm đến cái loại việc đó. Nhưng ta lại làm thế.

      Đó là mối bận tâm khác. Steve Laing là thượng cấp của ở Nhà Thế kỷ, nhưng Laing chưa từng bao giờ đến Iraq. ông ta chuyên về Ai Cập và Jordan. Paxman biết Iraq – và tiếng Arập. như Terry Martin, dĩ nhiên, nhưng Martin là biệt lệ. Paxman biết khá đủ, qua nhiều chuyến đến thăm trước khi trở thành chỉ huy bàn Iraq, để tạo ra kính trọng chân thành với trình độ các nhà khoa học lraq và giỏi giang của các kỹ sư của họ. có gì bí mật rằng phần lớn các viện kỹ thuật của đều coi những người tốt nghiệp ở Iraq là giỏi nhất trong thế giới A rập.

      Điều bận tâm đeo đẳng ta từ khi được các thượng cấp cho biết báo cáo cuối cùng của Jericho có thể gì hơn là thứ vô nghĩa chỉ đơn giản là lo lắng rằng, dù mọi thứ lệch lạc, lraq giờ đây có thể còn tiến lên xa hơn các nhà khoa học phương Tây chuẩn bị để tin.

      ta đợi cho đến khi hai suất ăn được dọn ra, được bao quanh bởi các lọ gia vị mà nếu món ăn Ấn Độ nào được là hoàn chỉnh cả, rồi :

      - Terry này, ta , tôi làm điều mà nếu ra có thể là cắt đứt nghiệp của tôi trong cơ quan đó.

      Terry ngừng lại chút.

      - Có vẻ trầm trọng đó. Tại sao nào?

      - Bởi vì tôi báo cho .

      Nhà học giả dừng lại khi gắp mẩu xoài vào đĩa.

      - Tôi được coi là đáng tin nữa à?

      - Chính Steve Laing bắt tôi phải làm thế đấy.

      - phải. Vấn đề là - quá lo lắng đấy.

      Paxman được chuẩn bị để dùng những từ chửi thề của Laing.

      - Có thể là thế. Đó là chuyện huấn luyện mà. Giới học giả thích những thứ rắc rối dường như có lời giải đáp.

      - Còn chúng tôi phải tiếp tục lo lắng cho đến khi cái mẫu tự rắc rối đó bắt đầu có ý nghĩa. Câu đó có ý nghĩa gì khác nhỉ?

      - Có đấy, đó là những việc khác.

    4. Nữ Lâm

      Nữ Lâm Well-Known Member

      Bài viết:
      23,871
      Được thích:
      22,185
      Paxman chọn món gà; Martin thích đồ nóng hơn, vindaloo. Vì biết món ăn phương Đông của mình, Martin uống trà đen, chứ phải bia ướp lạnh, cái chỉ làm cho món ăn trở nên tồi tệ hơn mà thôi. nháy mắt với Paxman qua khoé mắt.

      - Được rồi. Thế lời thú tội to lớn là gì nào?

      - Liệu có hứa là ai biết nữa ?

      - Dĩ nhiên rồi.

      - lời dối.

      Paxman có chủ định nhất nào tiết lộ tồn tại của Jericho. Nhóm người biết có cá chìm ở Iraq rất và nên chỉ là như thế.

      - Liệu tôi có được nghe đấy?

      - . bị khoá rồi. Đừng tiếp cận Sean Plummer. Ông ta phải chối, và điều đó có thể để lộ biết thông tin.

      Martin ăn thêm raita để làm bớt vị cay của món cary.

      - Thế cái mới đó là gì thế?

      Paxman cho biết. Martin để rơi cái dĩa và mở mắt trừng trừng, đỏ hồng lên vì vị gừng.

      - Liệu điều đó - liệu nó, trong bất kỳ trường hợp nào, có là đúng được ? Paxman hỏi.

      - Tôi biết. Tôi phải nhà vật lý. ta thế à, phải ?

      - Phải. các nhà khoa học về hạt nhân chỉ đơn giản là đồng ý điều đó thể là . Rằng Saddam dối.

      Thâm tâm, Martin nghĩ đó là đoạn băng được nghe dở. Nó có thể như là thông tin từ bên trong cuộc gặp kín.

      - Saddam dối, Martin , lúc nào cũng thế. Nhưng thường là với đám đông. Điều đó được ra trong đám thân tín của ông ta à? Tôi tự hỏi là tại sao? cách lên dây cót trước nguy cơ chiến tranh à?

      - Các ông chủ nghĩ thế đấy, Paxman .

      - Các vị tướng có được cho ?

      - . suy luận là, họ quá bận bịu để mà có thể ngay lập tức và cần bị phiền nhiễu bởi cái gì đó chỉ đơn thuần là rác rưởi.

      - Thế muốn gì ở tôi, hả Simon?

      - Tâm trạng của Saddam. ai có thể làm điều đó. gì có thể được coi là có nghĩa ở phương Tây. Liệu ông ta có bẩn thỉu và cuội như cáo ?

      - Trong thế giới của ông ta, là cái sau. Trong thế giới của ông ta, cái đó có nghĩa đấy. kinh hoàng làm đảo lộn chúng ta có nghĩa lý với ông ta đâu, và điều đó có nghĩa đấy. Những đe doạ và trừng phạt có nghĩa với ông ta. Chỉ khi nào ông ta cố gắng len chân vào thế giới của chúng ta - với những bài học PR ở Baghdad, cạo tóc đứa trẻ người đó, chơi trò ông chú hiền từ, cái thể loại đó - chỉ khi đó ông ta mới cố tỏ ra kẻ điên mà thôi. Trong thế giới riêng của ông ta ông ta điên đâu. Ông ta sống sót, còn có quyền lực, ông ta giữ được lraq thống nhất, kẻ thù của ông ta thất bại và thua đau.

      - Terry, chúng ta ngồi đây, còn đất nước ông ta được mạ bạc.

      - vấn đề gì đâu, Simon ạ. Điều đó có thể thay thế được mà.

      - Nhưng tại sao ông ta lại điều ông ta cần phải ?

      - Thế các ông chủ nghĩ thế nào?

      - Rằng ông ta dối.

      - đâu, Martin , ông ta dối với đám đông thôi. Còn với những kẻ thân tín của mình, ông ta chẳng việc gì phải làm thế đâu. Họ là của ông ta cơ mà, dù sao nữa. Hoặc nguồn thông tin này dối hoặc

      Saddam chưa bao giờ điều đó; hoặc ông ta bởi vì ông ta tin là nó đúng.

      - Lúc đó chính ông ta lừa dối ông ta?

      - Cũng có thể chứ. Ai mà chẳng làm điều đó có thể tốt khi ông ta tìm ra. Nhưng nào, đoạn này có thể nghe được đấy. thứ có tính toán, được dựng ra để được nghe thấy.

      Paxman thể điều ta biết: rằng nó phải thứ nghe trộm dược. Điều đó đến từ Jericho. Và trong hai năm dưới quyền của Israel và ba tháng dưới tay người -Mỹ, Jericho chưa bao giờ sai hết cả.

      - vẫn còn nghi ngờ gì à? Martin .

      - Tôi cho rằng có đấy, Paxman công nhận.

      Martin nhún vai.

      - Thứ linh tinh thôi, Simon ạ. câu trong đoạn ghi được, người bảo người kia câm mồm và gọi đứa con của thần, câu của Saddam về nhường bước và được xem như là thắng lợi - trong cuộc truy bắt của người Mỹ - và giờ đây là cái này. Chúng ta cần xâu chuỗi lại.

      - Xâu chuỗi?

      - Cọng rơm chỉ tạo nên được hình hài khi quấn nó xung quanh chuỗi này. từng có cái gì đó khác như là cái thực trong đầu. Mặt khác, các ông chủ đúng đấy, và ông ta dùng vũ khí sinh học có được thực .

      - Được rồi. Tôi tìm kiếm đoạn.

      - Còn tôi, Martin , hề gặp trong buổi tối hôm nay, và chẳng gì hết cả.

      - Cám ơn , Paxman .

      Hassan Rahmani nghe về cái chết của điệp viên Leila của mình hai ngày trước khi điều đó xảy ra, vào ngày 19 tháng Giêng. ta xuất để trao thông tin từ giường của tướng Kadiri theo kế hoạch, và lo sợ điều xấu nhất có thể xảy ra, ta kiểm tra lại sổ của các nhà xác.

      Bệnh viện ở Mansour đưa ra bằng chứng, mặc dù cái xác bị chôn, với nhiều người khác từ các toà nhà quân , trong cuộc thanh trừng hàng loạt.

      Hassan Rahmani còn tin rằng điệp viên của mình bị bom nổ trúng khi qua khu đất hoang giữa đêm, rằng ta tin vào ma quỷ. Chỉ có những con ma duy nhất bầu trời thủ đô Baghdad là những chiếc máy bay ném bom vô hình của Mỹ mà đọc được các tạp chí phương Tây, và có ma quỷ theo cách suy luận của lôgic. Do đó đó là cái chết của Leila Al-Hilla.

      Kết luận duy nhất theo lôgic của ta là Kadiri phát các hoạt động bên ngoài của mình và dừng lại. Điều đó có nghĩa ta có thể ra trước khi chết.
      Điều đó có nghĩa là, với , Kadiri trở thành kẻ thù hùng mạnh và hết sức nguy hiểm. Tồi tệ hơn thế, mối duy nhất của nối với các phiên họp kín của chế độ mất biến.

      Liệu ta có biết rằng Kadiri từng lo đến chính , Rahmani có thể thấy thoải mái. Nhưng ta hề hay biết. ta chỉ biết rằng từ lúc này trở phải cực kỳ thận trọng.

      Vào ngày thứ hai của cuộc chiến, Iraq bắn loạt tên lửa đầu tiên vào Israel. Báo chí ngay lập tức thông báo chúng là những tên lửa Scud-Bs do Xô viết sản xuất, và cái tên đó đeo đuổi trong suốt cuộc chiến. thực tế, có tên lửa Scud nào hết cả.
      Vấn đề của cuộc bắn giết là hề điên rồ. lraq nhận ra khá rằng Israel phải là đất nước được chuẩn bị để tiếp nhận số lượng lớn dân thường thiệt mạng. Ngay khi quả tên lửa đầu tiên rơi vào vùng ngoại ô thành phố Tel Aviv, Israel trả đũa bằng cách tham chiến. Đó chính là điều mà Baghdad mong muốn.

      Trong Liên quân 50 nước tập hợp để chống Iraq có 17 quốc gia Arập, và nếu có điều gì làm chia rẽ từ lòng tin Hồi giáo, thù ghét người lsrael. Iraq tính toán, có thể là đúng, rằng Israel có thể bị khiêu khích để tham gia cuộc chiến bằng cuộc tấn công chống lại họ, các nước Arập trong liên quân có thể rút lui. Ngay cả Fahd, quốc vương của Arập Xêut và là người cầm trịch của hai vùng đất thánh, cũng có thể ở trong tình thế tiến thoái lưỡng nan.

      Những phản ứng đầu tiên của vụ bắn tên lửa vào Israel là chúng có thể mang theo chất độc sinh học hay mầm vi trùng gây bệnh. như vậy, Israel thể ngồi ngoài được nữa. được nhanh chóng chứng tỏ rằng ngòi nổ chiến tranh bùng lên.

      Nhưng hiệu ứng tâm lý trong lsrael còn to lớn hơn nhiều. Nước Mỹ ngay lập tức gây áp lực buộc Jerusalem được bắn trả đũa. Liên quân, Itzhak Shamir được cho biết, có thể đề phòng giúp chuyện đó. Israel thực bắn trả đũa theo cách của mình bằng đợt những máy bay ném bom F- 15 nhưng được gọi lại khi vẫn trong phận Israel.

      Chiếc Scud quả tên lửa Xô viết to đùng, bướng bỉnh mà Iraq mua 900 quả nhiều năm trước đây. Nó có tầm bắn dưới 300 km và có trọng lượng gần 1000 pound. Nó được dẫn đường, và ngay cả trong hình dáng nguyên thuỷ của mình nó cũng có thể, trong tầm bắn tối đa, đậu vào bất kỳ đâu trong phạm vi cách đích nửa dặm.

      Theo quan điểm của Iraq, ràng bề ngoài chẳng ích lợi gì để mua cả. Nó thể với tới Teheran trong cuộc chiến Iran- Iraq, và chắc chắn là thể nào bay đến Israel được, ngay cả khi được bắn từ điểm cực tây của Iraq.

      Điều người Iraq làm trong lúc đó, với giúp đỡ của Đức, kỳ quặc. Họ cắt những quả Scud thành nhiều đoạn và sử dụng ba trong số chúng tạo ra những quả tên lửa mới. Để gây chú ý nhiều quá vào đó, tên lửa Al-Husayn mới là hỗn độn.

      Bằng cách thêm vào Iraq tăng được tầm bắn lên tới 620 km có thể đến được (và thực tế đến được) Teheran và lsrael. Nhưng trọng lượng của nó được giảm xuống chỉ còn 160 pound. hướng lối của nó, luôn sai hướng, giờ đây loạn xạ. Hai trong số chúng, được bắn vào Israel, chỉ bắn trượt Tel Aviv, mà còn trượt cả nước đó và rơi ngay vào Jordan.

      Nhưng với tư cách là thứ vũ khí gây khủng bố ràng nó có hữu hiệu. Ngay cả dù tất cả những quả Al-Husayn rơi Israel có trọng lượng giảm hơn bom 2000 pound rơi ở Iraq, nó lại làm cho dân chúng Israel phen kinh hoảng.

      Nước Mỹ trả lời bằng ba cách. Đúng 1000 phát được bắn ra để hạ những quả tên lửa đến và thậm chí còn với cả những cái phóng cơ động hơn. Pháo của những quả tên lửa Patriot của Mỹ được gửi đến Israel trong vài giờ với mục đích bắn hạ các quả tên lửa bay đến nhưng chủ yếu là với mục đích bảo Israel đứng ngoài cuộc chiến.

      Và SAS, mà sau đó là lính Mũ nồi xanh của Mỹ, được gửi đến các sa mạc miền tây lraq để tìm các máy phóng tên lửa cơ động và hơn nữa là phá huỷ chúng với những tên lửa Milan của mình hay gọi máy bay đến bằng vô tuyến điện.

      Những chiếc Patriot, mặc dù có được những ưu điểm nổi bật, chỉ có được những thành công hạn chế - nhưng đó phải lỗi của chúng. Raytheon thiết kế Patriot để cho máy bay, chứ phải tên lửa, và chúng được áp dụng quá hấp tấp cho vai trò mới. Lý do chúng hiếm khi đạt được mục đích bao giờ được để lộ.

      Vấn đề là, khi mở rộng tầm bắn của tên lửa Scud bằng cách đổi chúng thành Al-Husayn, người Iraq cũng tăng tầm cao của chúng. Tên lửa mới này, vào trung bên trong của đường bay hình parabôn của mình, nóng rực lên khi đáp xuống, điều mà tên lửa Scud bao giờ được thiết kế để trở thành như thế. Khi quay trở lại bầu khí quyển trái đất nó nổ tung. Cái rơi xuống Israel phải toàn bộ quả tên lửa mà chỉ là đám khói bụi mà thôi.

      Chiếc Patriot, làm việc của mình, lên để ngăn chặn và tìm kiếm mảnh kim loại nào được đến. Cho nên bộ não bé của nó cái được lập trình để làm - đến cái to nhất. Thường nó chỉ tiêu tốn nhiên liệu, rơi ra ngoài tầm khống chế. Đầu đạn, hơn nhiều và dính chặt vào đằng sau, chỉ rơi tự do mà thôi. Nhiều cái hề nổ, và phần lớn khẩu đội pháo của lsrael bị ảnh hưởng thiệt hại.

      Nếu cái được gọi là tên lửa Scud là đòn khủng bố tâm lý Patriot lại là thứ nâng cao tâm lý. Nhưng tâm lý có tác dụng, là giải pháp tốt để giữ Israel ở ngoài cuộc chiến.

      phần khác của lời hứa là tên lửa cải tiến đáng kể sẵn sàng - được dựng lên vào năm 1994. Phần thứ ba ngay ở lsrael để chọn dược 100 mục tiêu phụ mà lực Liên quân cần đến được. Các lựa chọn được thực - chủ yếu là các mục tiêu do vị trí địa lý có gì để làm với giải phóng Kuwait ở bên kia bán đảo.

      Các máy bay ném bom của lực Mỹ và để chống tên lửa Scud có được rất nhiều thắng lợi, những lời tuyên bố.có ngay hoài nghi của CIA, đối với điên giận của tướng Chuck Horner và tướng Schwarzkopf.

      Hai năm trước cuộc chiến tranh, Washington chính thức từ chối rằng máy phóng tên lửa Scud di động bị phá huỷ bởi quân - đề xuất nay vẫn còn có khả năng làm bấy kỳ phi công nào trở nên giận điên lên. Vấn đề là ở chỗ các phi công vô cùng thất vọng bởi maskirovka.

      Nếu sa mạc phía nam của Iraq là cái bàn bi-a chẳng có hình thù gì, các sa mạc tây và tây bắc có địa hình núi đá, dốc, và có tới cả nghìn wadis và gullies. Đó là vùng đất đó Mike Martin trong phi vụ đột nhập Baghdad. Trước khi phóng các tên lửa để tấn công, Baghdad tạo ra hàng đống máy phóng tên lửa Scud dỏm, và những cái đó được giấu giếm, cùng với những cái , ở khắp mọi nơi.

      Thói quen là sản xuất chúng trong đêm, ống kim loại cứng để cái xe tải to, và vào bình minh thùng dầu và vải trong ống. Xa hơn, các bộ cảm ứng của AWACS bắt được hơi nóng và coi đó là bệ phóng tên lửa. Các phi công căn điểm đó để thả bom.

      Những người bị lừa bịp kiểu đó là người của SAS. Mặc dù chỉ nhúm người, họ cũng lao vào các sa mạc phía tây những chiếc Land-Rover và xe mô tô, trong suốt những ngày nóng như đổ lửa và những đêm buốt giá, và theo dõi. Từ cách xa 200 yard, họ có thể thấy rằng đó thực máy phóng di động chứ phải của giả.

      Khi các máy phóng tên lửa thứ thiệt ra khỏi các chỗ cất giấu và bên dưới những cây cầu nơi chúng được giấu để tránh quan sát từ trung, những con người lặng lẽ trong quân phục nhìn qua ống nhòm. Nếu có quá nhiều người Iraq quanh đó, họ bình thản gọi lên các đội bay bằng điện đàm. Nếu có thể thực ở đó, họ bèn sử dụng chính những tên lửa Milan chống tăng của mình, tạo ra tiếng nổ rất to khi đâm vào xe tăng của Al-Husayn thứ thiệt.

      được nhận ra từ sớm có đường bắc-nam vô hình chạy trong sa mạc. Ở phía tây con đường đó, tên lửa của lraq có thể đến được Israel; phía đông, là ngoài tầm. Công việc là khủng bố các đội bay Iraq để sao cho họ dám thám thính về phía tây con đường này mà chỉ bắn từ phía đông và phải khuất phục trước sức mạnh vượt trội. Mất tám ngày, và rồi các cuộc tấn công bằng tên lửa vào Israel ngừng lại. Chúng bao giờ lại tiếp tục nữa.

      Về sau, con đường Baghdad-Jordan được sử dụng như đường phân cách. Phía bắc đường là đường Scud Bắc, lãnh địa của các Lực lượng Đặc biệt Mỹ, đến trong những chiếc máy bay trực thăng bay được xa. Dưới con đường là đường Scud Nam, đại bản doanh của lực . Bốn con người giỏi giang chết ở các sa mạc đó, nhưng họ làm công việc mà mình được gửi đến để làm, nơi hàng tỉ đôla công nghệ thể làm gì được.

      Vào ngày thứ tư của cuộc chiến , ngày 20 tháng Giêng, đội 336 ra khỏi Al Kharz là trong số những đơn vị được chuyển xuống các sa mạc phía tây.
      Nhiệm vụ của họ hôm đó là chở tên lửa SAM lớn về phía tây bắc của Baghdad. Các SAM do hai đĩa rađa kiểm soát. Các cuộc tấn công bằng quân trong kế hoạch của tướng Horner chuyển lên phía bắc. Với gần như toàn bộ căn cứ tên lửa và đĩa rađa ở phía nam đường nằm ngang từ phía nam Baghdad ra, thời điểm tới để quét sạch gian phía tây, phía đông. và bắc của thủ đô.

      Với 24 chiếc Eagle chiến đấu trong đội, ngày 20 tháng Giêng trở thành ngày nhiều nhiệm vụ. Chỉ huy đội bay, trung tướng Stever Turner, định vị nhóm 12 máy bay cho căn cứ quân . nhóm Eagle được biết đến với cái tên "gorilla".

      Gorilla được dẫn đầu bởi trong số hai chỉ huy bay cao cấp. Bốn trong số 12 máy bay mang theo HARM, các tên lửa có gắn rađa được hướng lối từ đĩa rađa. Tám chiếc còn lại chở hai quả bom dài, thuôn, hợp kim thép do laser hướng lối, có tên GBU-10-I. Khi các rađa câm tiếng và tên lửa bị mù, chúng có thể theo các HARM và làm thổi tung các khẩu đội hoả tiễn.

      Dường như chẳng có điều gì bất thường xảy ra hết. 12 chiếc Eagle cất cánh thành ba nhóm mỗi nhóm bốn máy bay, tự tạo thành hình thang rộng, và lên đến độ cao 1700 fít. Bầu trời xanh trong tuyệt vời, và sa mạc nâu sẫm phía dưới nhìn rất .
      Dự báo thời tiết về mục tiêu cho thấy có gió mạnh hơn ở Arập Xêut nhưng hề gì đến shamal, trong số những cơn bão cát có thể làm mục tiêu biến mất trong vài phút. Phía nam biên giới, 12 chiếc Eagle gặp các máy bay tiếp nhiên liệu của mình, hai chiếc KC- 10. Mỗi chiếc tiếp nhiên liệu có thể cắm vòi cho sáu máy bay đói nhiên liệu, nên từng cái Eagle vào trạm sau các chiếc tiếp nhiên liệu và đợi khi bộ phận thả bom, nhìn chằm chằm vào chúng với cửa sổ Perspex chỉ cách có vài fít, "nón"' đợi tiếp xăng.

      Cuối cùng, 12 chiếc Eagle đầy xăng cho nhiệm vụ và quay sang bắc hướng đến Iraq. AWACS Vịnh cho họ biết hề có hoạt động thù địch nào hướng đến họ hết. có các máy bay chiến đấu Iraq trung, Eagle có, ngoài bom, hai loại hoả tiễn đối ; chiếc Air Interception 7 và chiếc AIM-9, được biết đến nhiều hơn với tên Sparrow và Sidewinder.

      Căn cứ tên lửa ở đó, chính chỗ đó. Nhưng các ra đa hoạt động. Nếu các đĩa rađa vận hành ở chỗ đến của mình, họ có thể mở nó ngay lập tức để hướng lối cho các SAM trong khi tìm kiếm những kẻ đến. Ngay khi các rađa bắt đầu hoạt động, bốn chiếc Eagle mang HARM có thể phóng đạn, theo USAF hướng dẫn.

      Dù cho chỉ huy quân Iraq có lo ngại cho tấm da của mình hay chỉ là vì quá khôn ngoan, người Mỹ bao giờ thực điều đó hết cả. Nhưng các rađa đó từ chối chịu sống lại.

      Bốn chiếc Eagle đầu tiên, do chỉ huy bay dẫn đầu, lao xuống mãi để khiêu khích các rađa bật lên. Chúng từ chối. Có thể là điên rồ đối với các máy bay chở bom để mà vào với các rađa vẫn im như tờ - liệu chúng có đột nhiên bừng lên mà báo trước, các SAM có lẽ làm nguội những chiếc Eagle.

      Sau 20 phút lao vào mục tiêu, cuộc tấn công bị huỷ. Các thành phần của gorilla bị gọi sang các mục tiêu thứ yếu.

      Don Walker lời trao đổi nhanh với Tim Nathanson, trợ lý của mình, ngồi sau . Mục tiêu thứ yếu cho ngày hôm đó là căn cứ Scud cố định ở phía nam Samarra, dù trong trường hợp nào cũng bị các máy bay ném bom viếng thăm bởi vì nó được biết đến như là cơ sở khí độc. AWACS khẳng định có hoạt động cất cánh nào từ hai căn cứ quân lớn của Iraq ở đông Samarra và đông nam Balad. Don Walker gọi người cùng bay, và đội bay hai máy bay trực chỉ về hướng căn cứ Scud.

      Mọi liên lạc giữa đội bay Mỹ được mã hoá bởi hệ thống Nhanh, làm tăng tốc độ đến nỗi bất kỳ ai có ý định nghe trộm thể bắt được cùng những thanh như thế. Các mã hoá có thể được thay đổi hàng ngày nhưng rất quen thuộc đối với các lính bay của Liên quân.

      Walker nhìn lướt xung quanh. Bầu trời trong sáng; nửa dặm cách chiếc máy bay cùng, Randy "R-2" Roberts, bay vòng quanh và hơi ở chút, với wizzo Jim "Boomer" Henry ngồi ở đằng sau.

      địa điểm chiếc máy phóng tên lửa Scud cố định, Walker nhào xuống để nhận mục tiêu. Trong cơn điên giận của mình, nó bị che lấp bởi mây đen do gió bụi sa mạc gây nên, shamal nổi lên, tạo ra bởi gió sa mạc rất mạnh đổ xuống phía dưới.

      Những quả bom có laser hướng lối của thể trật mục tiêu, miễn là nó có thể theo hướng được lên mục tiêu từ chính đội bay của . Để lên được hướng đúng, phải nhìn thấy mục tiêu của mình.

      Điên lên và dần hết nhiên liệu, quay . Hai lần thất vọng trong buổi sáng thế là quá đủ. ghét hạ cánh với đầy bom đạn như cũ. Nhưng có chỗ nào để trút đường về ở phía nam hết cả.

      Ba phút sau, nhìn thấy khu công nghiệp rất lớn ở ngay dưới.

      Cái gì thế hỏi Tim. WSO kiểm tra bản đồ lược của mình.

      - Gọi là Tarmiya.

      - Chúa ơi, nó to quá.

      - Ừ

      Dù cả hai đều biết, khu công nghiệp Tarmiya chứa tới 381 toà nhà và chiếm khu vực rộng đến mười dặm vuông.

      - Có trong danh sách ?

      - thấy.

      - Cứ chơi . Randy, chuẩn bị nhé.

      - ừ chơi , người cùng bay với qua trung.

      Walker chúi chiếc Eagle xuống 10.000 fít. Khu công nghiệp trải ra rộng ngút ngát. Trong trung tâm là toà nhà mênh mông, kích cỡ của sân vận động.

      - Vào

      - Don, chơi thôi chứ.

      Hạ xuống 8.000 fít, Walker kích hoạt hệ thống hướng lối bằng laser và hướng về cái nhà máy khổng lồ ở dưới ngay trước mặt . Màn hình trước mắt chỉ ra khoảng cách ngắn dần lại và cho vài giây để bắn. Khi đạt đến số , nhấn nút thả bom, giữ mũi mình hướng vào mục đích đến.

      Loé laser lên trước hai quả bom là hệ thống PAVEWAY. Dưới phóng ra của là môđun hướng lối tên là LANTIRN. LANTIRN chỉ ra đường vô hình hướng tới mục tiêu, nơi đường đó phản ngược lại để tạo ra kiểu sóng điện từ hướng ngược về.

      Chiếc mũi PAVEWAY những cái hình chóp cảm ứng được cái giỏ đó, vào trong, và theo đường ống xuống và vào trong cho đến khi chạm được cách chính xác nơi đường đó hướng đến.

      Cả hai quả bom đều thực được công việc của mình. Chúng nổ tung dưới mái nhà máy. Nhìn thấy chúng nổ, Don Walker lại lao lên, trượt xuống Eagle, và lao ngược lên 25.000 fít giờ sau, và người bay cùng, sau lần tiếp nhiên liệu giữa đường, bay về Al Kharz.

      Trước khi trượt xuống mũi, Walker nhìn thấy chớp sáng bùng lên của hai vụ nổ và cột khói lớn nổi lên, và nhìn liếc về đám mây bụi tiếp theo quả bom nổ.

      Điều nhìn thấy là hai quả bom này nổ bùng ở đầu nhà máy, để mái nhà chổng ngược lên vào khí như lá buồm con thuyền biển.

      cũng quan sát thấy cơn gió sa mạc mạnh sáng đó - cũng giống như cái tạo ra cơn bão cát thổi bay địa điểm Scud - làm nốt phần còn lại. Nó làm lật mái của nhà máy, làm tung nó về đằng sau như mở hộp cá xác đin, như những tờ mảnh thép bay tung toé về đủ các hướng.

      Quay về căn cứ, Don Walker, cũng giống như tất cả các phi công khác, được lui về. Đó là quá trình đáng ngán với mọi phi công, nhưng cần phải hoàn thành. Chịu trách nhiệm là sĩ quan tình báo đội bay, thiếu tá Beth Kroger.

      ai cho là gorilla có được thắng lợi, nhưng mọi phi công đều có được mục tiêu thứ yếu của mình, trừ cái. Những vũ khí nóng của họ người sĩ quan bỏ mục tiêu thứ yếu của mình và tấn công hú hoạ chỗ khác.

      - Các làm cái đó vì quỷ quái gì vậy? Kroger hỏi.

      - Bởi vì nó rất lớn và trông có vẻ quan trọng.

      - Nó có trong Danh Sách Nhiệm vụ đâu nào, lên tiếng.

      chỉ vào mục tiêu được lựa chọn, vị trí chính xác và miêu tả của nó, và báo cáo về thiệt hại do bom và cùng với lưu ý của TACC - Trung tâm Quản lý Chiến thuật Bay, cái chia sẻ căn cứ của CENTAF dưới đại bản doanh quân Arập Xêut với các nhà phân tích của Hố Đen ở Riyadh.

      - Nếu làm nổ tung nhà máy đóng nước hay nhà máy sản xuất thức ăn trẻ em, các liệu hồn đấy, ta cảnh báo Walker.

      - cũng biết đấy, Beth, rất đẹp khi nổi giận, chọc tức .

      Beth Kroger là sĩ quan có nghiệp tốt. Nếu ta để bị phỉnh phờ, thích đại tá trở lên cơ.

      - Đại uý lạc đề rồi đấy, với , và để cất bản báo cáo của mình.

      Walker nhún vai và về nghỉ. ta đúng, dù sao nữa. Nếu chỉ tính đến việc trại trẻ mồ côi lớn nhất thế giới. Khi nó xảy ra, người ta bao giờ Don Walker chỉ cái chạm phải sáng hôm đó.

      Nhưng đó phải trại trẻ mồ côi.

      CHƯƠNG 16



      Krim đến ăn tối với Edith Hardenberg ở căn hộ của tại Grinzing tối hôm đó. ta tìm thấy đường đến khu ngoại ô bằng phương tiện giao thông công cộng, và mang theo quà: đôi nến tẩm hương liệu rất thơm tho, mà đặt lên cái bàn trong phòng ăn; và hai chai rượu vang đắt tiền.

      Edith để vào, má hồng lên và bối rối hơn bất kỳ lúc nào, rồi quay trở lại về những thứ thành Vienna mà chuẩn bị trong cái bếp của mình. 20 năm kể từ ngày chuẩn bị bữa ăn cho người đàn ông; tìm kiếm trầm tĩnh thường ngày, nhưng kinh ngạc thấy mình rất bồn chồn.

      Karim đón chào với nụ hôn vào má ở cửa ra vào, làm cho càng trở nên bối rối hơn, rồi tìm thấy bản Nabucco của Verdi giá sách của và cho vào máy. Ngay lập tức hương thơm của những cây nến, êm dịu và mê đắm, thêm vào nhịp điệu cao quý của "Hợp xướng Xlavơ" lan toả khắp căn hộ.

      Điều này giống hệt như đội neviot miêu tả: rất ấm áp, rất bé, rất sạch . Căn hộ này là của người phụ nữ khô cứng sống thân mình.

      Khi đồ ăn xong, Edith giới thiệu với những lời xin lỗi bối rối. Karim thử món thịt và tuyên bố đó là thứ ngon nhất từng được dùng, làm cho càng bối rối hơn nữa, nhưng rất dễ chịu.

      Họ chuyện trong khi ăn, về văn hoá; về chuyến thăm được dự định đến Cung điện Schonbrunn và để xem những con ngựa Lippizzaner lừng danh, trường đua ngựa Tây Ban Nha bên trong Hofburg tại Josefplatz.

      Edith ăn cũng như khi làm bất cứ chuyện gì khác - cách chính xác, giống như con chim mổ xác chết. buộc tóc ra đằng sau như mọi khi, thành búi to
      sau đầu.

      Trong ánh sáng của những ngọn nến, vì tắt đèn điện bàn, Karim trở nên đẹp trai cách hắc ám và lịch thiệp như chưa bao giờ thế. rót đầy cốc rượu của ngay lập tức, nên uống nhiều hơn số rượu tự cho phép mình trong thường thường.

      Hiệu ứng của thức ăn, rượu vang, nến, nhạc, và có mặt của người bạn trẻ tuổi dần dần làm giảm đề kháng của .

      những cái đĩa rỗng Karim ngả người về phía trước và nhìn vào mắt .

      - Edith?

      - Vâng.

      - Tôi có được phép hỏi điều ?

      - Nếu muốn.

      - Tại sao lại để tóc như thế

      Đó là câu hỏi bất ngờ, rất riêng tư. thở rất sâu ra.

      - Tôi... tôi vẫn luôn như thế mà.

      , điều đó đúng. có thời, nhớ lại, với Horst, khi nó dài xuống đến vai , dầy và nâu, trong cái mùa hè năm 1970. Đó là thời khi nó nâu trong gió của hồ ở Schlosspark ở Laxenburg.

      Karim nhổm lên lời nào và vòng ra sau lưng cảm thấy nỗi sợ tăng lên. Điều này kích thích.

      Những ngón tay đầy kinh nghiệm ve vuốt làm cái lược cắm vào búi tóc rời ra. Điều này phải chấm dứt. cảm thấy cả người nổi gai, tóc trở nên mất trật tự, rơi xuống sau lưng . ngồi cứng đơ ở ghế. Cùng những ngón tay đó vuốt mái tóc và dần xuống khuôn mặt .

      Karim đứng sau , và nhìn sang. ta rút tay lại và mỉm cười.

      - Như thế này đẹp hơn đấy. trông trẻ ra mười tuổi và đẹp hơn nhiều. Hãy ngồi lên ghế sofa . bật cái đĩa thích nhất còn tôi chuẩn bị cà phê, được chứ?

      đợi được phép, ta cầm lấy đôi bàn tay nhắn của và đỡ đứng dậy khỏi ghế. Để tay buông thõng, dẫn ra khỏi phòng bếp để sang phòng khách.

      Rồi quay trở lại trong bếp, để tay kia xuống. Ơn Chúa ta làm thế. cảm thấy run rẩy từ đầu đến chân. Như thế có thể hướng đến tình bạn trong trắng kiểu Platon. Nhưng khi đó, ta hề chạm vào , thực chạm vào . có thể, dĩ nhiên, bao giờ cho phép loại việc như thế.

      liếc nhìn dung nhan mình trong cái gương treo tường, đỏ hồng và bối rối, tóc rơi xuống hai vai, trùm lên tai, đổ xuống khuôn mặt . nghĩ cái liếc nhìn thiếu nữ từng biết hai mươi năm trước.

      lên cơn sốt với chính mình và chọn cái đĩa Strauss thích của , những bản valse mà biết từng nốt , "Những bông hồng từ phương Nam", "Rừng Vienna", "Những người trượt tuyết", "Danube"... Cảm ơn Chúa lòng lành ta ở trong bếp và nhìn thấy suýt ngã khi đứng ở chỗ cái bàn. ta dường như cảm thấy rất thích thú khi chuẩn bị cà phê, nước nóng, phin pha, đường.

      ngồi vào đầu xa của ghế sofa khi ta quay trở lại đầu gối chụm lại, cà phê trong lòng. muốn về buổi hoà nhạc được lên kế hoạch cho Musikverein vào tuần sau, những từ ngữ ra nổi khỏi miệng . Thay vào đó uống cà phê.

      - Edith này, xin đừng sợ hãi tôi, thầm. Tôi có phải là bạn nào?

      - Đừng thế chứ. Dĩ nhiên tôi có sợ đâu.

      - Tốt. Bởi vì tôi bao giờ làm đau khổ, cũng biết đấy.

      Bạn. Phải, họ từng là bạn, tình bạn sinh ra từ tình giống nhau về nhạc, nghệ thuật, opera, văn hoá. có gì hơn nữa, chắc hẳn rồi. Với khoảng cách như thế, bạn với cả bạn trai. biết rằng các thư ký khác ở ngân hàng có chồng và bạn trai, nhìn họ hồi hộp trước khi đến chỗ hẹn, tràn trề sung sướng ở cơ quan vào buổi sáng hôm sau, thương hại đơn đến thế.

      - Có phải bản Những bông hồng từ phương Nam hay ?

      - Phải, đúng rồi.

      - Tôi nghĩ đó là bản valse tôi thích nhất.

      - Tôi cũng thế. là tốt khi quay trở về nhạc.

      cầm lấy tách cà phê khỏi lòng và để ra sang bên cạnh mình cái bàn để cạnh đó. Rồi nhổm đứng lên, cầm lấy tay và kéo .

      - Cái gì

      thấy tay phải mình ở trong tay trái của , cánh tay khoẻ khoắn đầy tin cậy, và quay nhàng nền nhà của căn phòng giữa đồ đac, nhảy điệu valse.

      Gidi Barzilai có thể , làm điều đó , cậu bé, đừng có mất thời gian thêm nữa. biết được gì rồi nào? có gì hết cả. Đầu tiên của , rồi rơi. Karim để tay phải của mình sau lưng của Edith.

      Khi họ quay, nhiều inch gian ngăn cách họ, Karim giữ đôi tay dính chặt vào vai , và với cánh tay phải kéo Edith lại gần mình. Điều này là thể chống lại được. Edith thấy mặt mình ở trong ngực và cố quay . Đôi vú của tựa vào người , và có thể lại cảm thấy mùi đàn ông lần nữa.

      đẩy ra. để làm, nới tay phải , và dùng tay trái nâng cầm lên. Rồi hôn , trong khi họ vẫn nhảy. Đó phải là nụ hôn nhàng. giữ môi , để đẩy ra. Trí óc lộn tùng phèo đủ mọi cảm giác, chiếc máy bay còn kiểm soát được nữa, xoay tròn, rơi xuống, những ý muốn phản kháng nổi lên nhưng thất bại. Ngân hàng, Gemuetlich, tiếng tăm của , tuổi trẻ của , xa lạ của , tuổi tác của , ấm áp, rượu, hương thơm, sức mạnh, đôi môi. nhạc ngừng lại. Nếu làm thêm điều gì đó nữa, đuổi .

      rời môi khỏi môi và nâng đầu lên cho đến khi dựa vào ngực . Họ đứng đó như thế trong căn hộ im lặng trong nhiều giây liên.

      là người tách ra. quay về ghế sofa và ngồi xuống, nhìn lên trước. thấy quỳ gối trước mặt mình. cầm cả hai tay .

      - có giận tôi , Edith?

      - Lẽ ra nên làm thế, .

      - Tôi muốn thế đâu. Tôi thề mà. Tôi thể.

      - Tôi nghĩ nên .

      - Edith, nếu giận và muốn trừng phạt tôi, chỉ có cách có thể. Nhưng hãy cho phép tôi gặp lại nữa nhé.

      - Tôi chắc đâu.

      - Hãy để tôi gặp nữa.

      - Tôi cũng cho là thế.

      - Nếu , tôi bỏ học để về nhà. Tôi thể sống ở Vienna nếu chịu gặp tôi nữa.

      - Đừng điên thế. phải học chứ.

      - Thế gặp tôi nữa chứ?

      - Thôi được rồi.

      Năm phút sau . tắt đèn, thay bộ đồ ngủ, xoá mặt và chải răng, rồi lên giường ngủ. Trong bóng tối ngồi bó gối. Sau hai giờ làm điều chưa từng làm trong suốt nhiều năm: mỉm cười trong bóng tối. ý nghĩ điên rồ vừa lướt qua tâm trí lại lại, và chú ý Mình bạn trai. ta trẻ hơn đến mười tuổi, là sinh viên, người ngoại quốc, người Arập, và người Hồi giáo. Thế mà mình cũng thèm để ý.

      Đại tá Dick Beatty của USAF đứng sân trong đêm đó, rất sâu ở dưới đường sân bay Cũ ở Riyadh. Hố Đen bao giờ dừng, nó bao giờ giảm , và trong những ngày đầu tiên của cuộc chiến. nó làm việc nhiều hơn và nhanh hơn bất kỳ khi nào.

      Bản kế hoạch tài năng của tướng Chuck Horner cho cuộc chiến được thử nghiệm bằng sai chỗ do bởi đa dạng của hàng trăm máy bay săn lùng các điểm bắn tên lửa Scud thay vì bắn vào các mục tiêu được chỉ định trước.

      Bất kỳ vị tướng đánh trận nào cũng khẳng định rằng kế hoạch cần được thực đúng từng ly từng tý, nhưng khi quả bóng bay lên, bao giờ giống được như thế hết cả. Cuộc khủng hoảng do các hoả tiễn rơi xuống Israel gây ra chứng tỏ vấn đề nghiêm trọng. Tel Aviv gào lên với Washington, và Washington gào vào Riyadh. đa dạng của tất cả những máy bay đó chỉ tìm những máy phóng di động mạnh là cái giá Washington phải trả để giữ Israel nhảy vào với những hành động trả đua, và các lệnh của Washington cũng có luận lý gì cả. Mọi người đều có thể thấy rằng Israel mất kiên nhẫn và việc họ tham gia cuộc chiến có thể gây ra thảm hoạ đối với Liên quân giờ đây họp nhau lại để chống Iraq, nhưng vấn đề còn lớn hơn nữa.

      Các mục tiêu thông thường được định ra cho ngày thứ ba bị dời lại vì thiếu lực lượng máy bay, và hiệu ứng giống như những. con đôminô. vấn đề thêm nữa là điều có thể vẫn có Giám sát Thiệt hại do bom, hay BDA. Điều này là cốt yếu, và phải được thực . Lựa chọn có thể là như thế.

      Các BDA là rất cốt tử bởi vì Hố Đen phải biết được mức độ của thành công, hay nếu , của làn sóng các máy bay chiến đấu mỗi ngày. Nếu trung tâm chỉ huy chủ yếu của Iraq, chỗ của rađa, hay khẩu đội tên lửa có ở Bộ phận Tác chiến Bay, điều đó có thể rất dễ bị tấn công. Nhưng nếu nó bị phá huỷ chưa? Nếu , ở mức độ nào? Mười phần trăm, năm mươi phần trăm, hay chỉ là cơn gió thoảng?

      Chỉ đơn giản là giả dụ rằng căn cứ của Iraq bị thổi bay là ổn. Ngày tiếp sau, các máy bay Liên quân nghi ngờ gì có thể được gửi đến địa điểm đó trong nhiệm vụ nữa. Nếu địa điểm đó vẫn còn hoạt động được, các phi công có thể hy sinh.

      Vậy mỗi ngày các nhiệm vụ được điều lên, và các phi công mệt mỏi miêu tả cách chính xác việc mình làm và tiêu diệt được gì. Hoặc nghĩ họ đâm phải gì. Ngày tiếp theo, các máy bay khác bay đến các mục tiêu và chụp ảnh chúng.

      Do đó, mỗi ngày khi Cơ quan Nhiệm vụ Bay bắt đầu chuyến bay ba ngày để chuẩn bị, danh mục nguyên gốc của các mục tiêu được chỉ định phải bao gồm cả các nhiệm vụ cần đến thứ hai, để kết thúc công việc chỉ được thực lần.

      Ngày 20 tháng Giêng, ngày thứ tư của cuộc chiến , các lực lượng bay của Liên quân chính thức đến được gần để bỏ phí các nhà máy công nghiệp được nhắm đến như những cái tạo ra vũ khí tiêu diệt hàng loạt. Chúng vẫn đặt trọng tâm vào SEAD - áp lực của Các lực lượng Phòng địch.

      Đêm đó, đại tá Beatty chuẩn bị danh sách các nhiệm vụ chụp ảnh trộm ngày hôm sau. Vào khoảng nửa đêm, ông rất gần, và những lệnh sớm được truyền theo đường của mình đến các đội bay khác nhau được chỉ định cho nhiệm vụ chụp ảnh từ vào bình minh.

      - Được rồi, thưa ngài.

      sĩ quan cấp cao của Hải quân Mỹ, đứng bên cạnh ông. Viên đại tá liếc nhìn vào mục tiêu.

      - muốn gì vậy, Tarmiya?

      - Tôi rồi, thưa ngài.

      - Thế Tarmiya là cái quái quỷ gì vậy?

      - Đây này, thưa ngài.

      Viên đại tá liếc nhìn lên bản đồ hàng . Địa điểm chẳng có nghĩa gì với ông hết cả.

      - Rađa à? Tên lửa, căn cứ quân, điểm chỉ huy?

      - , thưa ngài. Cơ sở sản xuất công nghiệp.

      Đại tá mệt. qua đêm dài, và có thể còn phải tiếp tục đến bình minh.

      - Vì chúa, chúng ta chưa nhằm vào các mục tiêu công nghiệp đâu. Nhưng dù sao cũng đưa tôi danh sách nào.

      Ông dùng mắt chạy qua danh sách. Nó bao gồm gần như tất cả các cơ sở công nghiệp mà Liên quân biết đến có liên quan đến sản xuất vũ khí; nó có các nhà máy được biết sản xuất vỏ đạn, thuốc nổ, xe cộ, linh kiện súng, và xe tăng.

      Trong hàng đầu tiên có tên Al Quam, As-Sharqat, Tuwaitha, Fallujah, Al-Hillah, Al-Atheer, và Al-Furat. Viên đại tá có thể biết thiếu trong danh sách cái tên Rashadia, nơi người Iraq lắp đặt tầng máy ly tâm khí thứ hai để sản xuất uranium tinh chế, vấn đề được các chuyên gia của Hội đồng Medusa loại bỏ. Nhà máy đó, được phát bởi Liên Hợp Quốc mãi sau này, bị chôn sâu xuống nhưng được nguỵ trang như nhà máy sản xuất nước đóng chai.

      Đại tá Beatty cũng biết rằng Al-Furat là địa điểm chôn sâu dành cho tầng uranium thứ nhất, địa điểm mà người Đức, tiến sĩ Stemmler đến thăm, "nơi nào đó gần Tuwaitha", và vị trí chính xác của nó bị Jericho tiết lộ.

      - Tôi thấy đâu là Tarmiya cả, ông cằn nhằn.

      - đâu, thưa ngài. Nó có ở đó. Viên sĩ quan

      - Hãy đưa cho tôi điểm quy chiếu nào.

      ai có thể đoán trước rằng các nhà phân tích nhớ được hàng trăm cái tên địa danh Arập lằng nhằng, trong số trường hợp cái tên lại chỉ đến hàng chục mục tiêu khác nhau, nên tất cả các mục tiêu đều được đưa ra điểm quy chiếu được thực bởi Hệ thống Định vị Toàn cầu, được chuyển xuống chỉ còn 12 đơn vị, mảnh vuông 50 yard vuông.

      Khi ném bom nhà máy khổng lồ ở Tarmiya, Don Walker nhận ra điểm quy chiếu này, gắn vào báo cáo ngắn gọn của mình.

      - Nó có ở đây, đại tá phản đối. Đó thậm chí phải là mục tiêu đáng nguyền rủa. Ai chơi vậy?

      - phi công nào đó của đội 336 ở Al Kharz. Trượt ở hai mục tiêu được chỉ định đầu tiên của mình dù phải lỗi của cậu ta. muốn quay về nhà với đầy súng đạn. Đấy là tôi đoán thế.

      - Mẹ, viên đại tá lẩm bẩm. Tốt thôi, dù sao hãy chuyển cho BDA. Nhưng để ưu tiên ít thôi. Đừng có phí phim vào đó đấy nhé.

      Trung uý Chỉ huy Darren Cleary ngồi ở chỗ kiểm soát của chiếc Tomcat F-14 của mình. ta là chàng hết sức nồng nhiệt.

      Dưới ta là con tàu chở hàng to lớn màu ghi USS Ranger nhúng mũi vào làn gió thực 27 nút qua nước. Biển bắc vùng Vịnh lặng tờ trong lúc sắp mặt trời lên, và bầu trời có thể sớm sáng lên và màu xanh. Hẳn ngày rất thoải mái cho phi công hải quân bay trong những chiếc máy bay chiến đấu tốt nhất thế giới.

      Được đặt biệt danh "Đội Phản công", chiếc Tomcat chở được hai người đến với số lượng khán giả lớn hơn khi được tái trong phim Top Gun. Khoang lái của nó có khả năng là chiếc ghế được tìm kiếm nhiều nhất trong số các máy bay chiến đấu, chắc chắn là trong đội bay Hải quân, và trong tầm kiểm soát của máy bay chiến đấu như thế ngày đẹp đẽ như thế ngay tuần trước khi đến trạm ở vùng Vịnh có thể làm cho Darren Cleary rất sung sướng.

      Nguyên do của chán nản của được chỉ định phải nhiệm vụ chiến đấu mà là BDA, " chụp những hình ảnh cận cảnh may mắn", như phàn nàn đêm hôm trước. có được từ sĩ quan chiến dịch của độibay để săn tìm những chiếc MIG, nhưng chẳng ăn thua gì.

      "Ai đó phải làm việc này chứ", đó là câu trả lời của ta. Cũng giống như các phi công chiến đấu kiêu căng trong Liên quân ở chiến tranh vùng Vịnh, Cleary sợ rằng các máy bay Iraq có thể rời khỏi bầu trời sau chỉ ít ngày, dẫn đến kết quả họ chẳng còn gì để mà chiến đấu hết nữa cả.

      Vậy cho nên buồn lắm, bị "gài" - bị ra lệnh - cho nhiệm vụ TARPS.

      Đằng sau và sĩ quan bay của , hai kỹ sư máy bay của General Electric quay cuồng với chiếc móc vào cái máy đẩy hơi nước, dí mũi vào đường trung tâm của chiếc Ranger. Cleary đợi, gạt cần lái bằng tay trái, điều khiển cái cột vững và trụ được ở bên phải, khi các chuẩn bị cuối cùng hoàn thành. Cuối cùng đòi hỏi, cái nút, và bùng lên mãnh hệt của năng lượng khi chiếc cần đẩy lên trước, sang phải qua cánh cửa để phụt ra, và chiếc máy phóng đẩy và 68000 pound trọng lượng chiếc máy bay chiến đấu từ 0 đến 150 nút trong vòng ba giây.

      Thép xám của chiếc Ranger biến mất ở đằng sau , và mặt biển u tối lùi lại phía dưới. Chiếc Tomcat kêu ù ù khí xung quanh, và trườn cách nhàng để tiến về đường chân trời.

      nhiệm vụ dài bốn tiếng đồng hồ với hai lần tiếp nhiên liệu. có 12 mục tiêu cần chụp ảnh, và thể được ở mình. chiếc Avenger A-6 với những quả bom có gắn laser dẫn đường trong trường hợp rơi vào pháo phòng , trong đó chiếc Avenger biết cách dạy cho các tay súng Iraq cần im miệng. chiếc Prowler EA-6B cùng với nhiệm vụ như thế, có trang bị các HARM trong trường hợp rơi vào địa điểm tên lửa SAM do rađa chỉ đường. Chiếc Prowler có thể sử dụng các HARM của mình để thối bay rada, và chiếc Avenger có thể sử dụng bom của mình vào các tên lửa.

      Trong trường hợp Quân lực Iraq ra, hai chiếc Tomcat nữa có thể giương súng lên, ở phía dưới và ở bên người chụp ảnh, những chiếc ra a AWG-9 mạnh mẽ của họ có khả năng làm nhiễu độ đo của các phi công Iraq trước khi thoát khỏi lưới đạn.
      Tất cả những thứ kim loại và công nghệ đó để bảo vệ cái treo dưới và đằng sau chân của Darren Cleary, Hệ thống Pod Nhận biết quân Chiến thuật, hay TARPS.

      Treo hơi nghiêng về bên phải của chiếc Tomcat, TARPS trông giống như cái hộp ngầm dài 17 fít. Nó chỉ hơi phức tạp hơn chiếc Pentax của khách du lịch.

    5. Nữ Lâm

      Nữ Lâm Well-Known Member

      Bài viết:
      23,871
      Được thích:
      22,185
      Ở mũi của nó là máy chụp ảnh mạnh với hai hướng: lên trước và xuống, hay thẳng xuống. Dưới nó là chiếc máy chụp toàn cảnh nhìn ra bên ngoài, ở bên cạnh, và phía dưới. Sau nó là bộ nhận biết được bọc kỹ, dành để ghi sức nóng (độ nóng) các hình ảnh và nguồn gốc của nó. Trong vòng cuối cùng, phi công có thể nhìn màn hình phía trước bên trong khoang lái của mình cái ta chụp trong khi vẫn ở phía .

      Darren Cleary nâng độ cao lên 15 nghìn fít, cùng với phần còn lại của đội hộ tống mình, và họ bắt đầu kết nối với chiếc truyền nhiên liệu KC-135 ngay ở phía nam biên giới Iraq.

      bị làm rối bởi kháng cự Iraq, Cleary chụp ảnh 11 mục tiêu chính được ra lệnh rồi bay qua Tarmiya cho địa điểm dược quan tâm ở mức độ thứ yếu.

      Khi bay qua Tarmiya, nhìn liếc qua màn hình và lẩm bẩm "Cái chó chết gì thế này?" Đó là thời khắc các ống kính 750 của những máy camera chính của chọn để bấm máy.

      Sau lần tiếp nhiên liệu thứ hai nhiệm vụ đỗ về chiếc Ranger có rắc rối nào. Các nhân viên mặt 'đất gỡ những chiếc camera và mang chúng vào phòng ảnh để rửa thành phim bản.

      Cleary vắn tắt về nhiệm vụ bất đắc dĩ của mình, Lùi ngồi xuống cái bàn cùng với nhân viên tình báo. Khi các phim bản được đưa lên màn hình với ánh sáng trắng ở dưới, Cleary giải thích cái mà mỗi khung chụp và ở nơi nào. Viên sĩ quan tình báo ghi chép cho báo cáo của ta, cái có thể được gắn vào với báo cáo của Cleary, kèm với các bức ảnh.

      Khi họ xem đến những bức cuối cùng, viên sĩ quan tình báo hỏi:

      - Gì thế này?

      - Đừng có hỏi tôi, Cleary . Nó đến từ cái mục tiêu ở Tarmiya đấy. còn nhớ - cái mà Riyadh thêm vào ở phút cuối ấy?

      - Phải rồi. Thế những cái này là ở bên trong nhà máy à?

      cứ nhìn những cái đĩa quay nhựa khổng lồ này,
      Cleary đề xuất cách tinh quái.

      Đó là câu hóc hiểm. Viên sĩ quan tình báo đưa nó vào báo cáo của mình, cùng với lời chứng nhận phải là ý tưởng vớ vẩn như người ta nghĩ. Khi cái gói đầy, chiếc Viking S-3 Lockheed được chuyển lên boong chiếc Ranger và đưa toàn bộ cái gói về Riyadh. Darren Cleary quay trở lại với các phi vụ bay chiến đấu, bao giờ chạm trán với những chiếc MIG nổi danh, và rời khỏi vùng Vịnh cùng chiếc USS Ranger vào cuối tháng Tư năm 1991.

      Wolfgang Gemuetlich ngày càng trở nên lo lắng, qua cái buổi sáng hôm đó, vào trạng thái của người thư ký riêng của mình.

      ta lịch thiệp và trang trọng như chưa bao giờ thế và có ích hết mức ông ta có thể cầu - và ngài Gemuetlich đòi hỏi rất nhiều. phải người có nhạy cảm cao, thoạt tiên ông chưa nhìn thấy điều gì bất thường, nhưng chuyến đến thăm văn phòng riêng của ta để lấy bức thư, ông ta quan sát có cái gì đó bình thường ở .

      Dĩ nhiên có gì phải lo lắng, và ràng dạ - ông ta có thể bao giờ lượng thứ cho điều đó. Đó là trạng thái tâm lý ta có với mình ta. Ở lần đến thứ ba ông ta quan sát cận hơn, như, đầu cúi gập quyển sổ, ghi ra lời đọc của ông ta.

      Đúng là bộ đồng phục làm việc màu tối vẫn đúng chỗ, dài quá đầu gối. Tóc vẫn được cặp lại ở đằng sau thành búi sau đầu Lần đến thứ tư ông ta nhận ra với kinh hoàng rằng Edith Hardenberg bộ mặt thoa phấn. nhiều lắm, nhưng nhận ra được. Ông ta kiểm tra nhanh để chắc rằng có son môi .

      Có thể, ông ta lý luận, ông tự đánh lừa mình. Đó là tháng Giêng, trời lạnh bên ngoài có thể làm da trắng bệch ra; nghi ngờ gì nữa phấn là để đỡ làm nhợt nhạt. Nhưng vẫn còn cái gì đó khác nữa.

      Đôi mắt. có kẻ mắt - Chúa ơi, hãy đừng có kẻ mắt nhé. Ông ta kiểm tra lại, nhưng có. Ông ta tự huyễn hoặc mình, ông lại tự trấn an. Vào giờ ăn trưa khi ông ta trải chiếc khăn trải bàn ra và ăn những chiếc xăng uých được chuẩn bị kỹ càng bởi bà Gemuetlich, như mọi ngày, lời giải đáp đến.

      Chúng ánh lên. Đôi mắt của Hardenberg ánh lên. thể là do khí hậu mùa đông được - ở trong nhà trong suất bốn giờ đồng hồ cơ mà. Ông chủ ngân hàng để chiếc xăng uých ăn dở xuống và nhận ra ông nhìn thấy triệu chứng đó trong trong số các thư ký trẻ ngay trước giờ được nghỉ làm vào thứ Sáu.

      Đó là hạnh phúc. Edith Hardenberg thực hạnh phúc. Điều đó thể ra, ông ta giờ đây nhận ra, theo cách ta bước , cách ta năng, và cách ta nhìn. giống như mọi buổi sáng - rằng, có dùng phấn. Thế là đủ để làm khuấy động Wolfgang Gemuetlich rất nhiều. Ông ta hy vọng ta tiêu tiền.

      Những bức ảnh chụp chớp nhoáng do trung uý chỉ huy Darren Cleary chụp dược đưa đến Riyadh trong buổi chiều, phần của đợt những hình ảnh mới mẻ đến được đại bản doanh CENTAF mỗi ngày.

      số trong số những hình ảnh đó đến từ các vệ tinh KH- 11 và KH-12 ở phía mặt đất, cung cấp những bức ảnh kích thước lớn, tỷ lệ cao, về cả đất nước Iraq. Nếu chúng tỏ ra có gì khác biệt so với hôm trước đó, có nghĩa là sa lầy.

      Những cái khác đến từ những phi vụ chụp ảnh bất thường bay thấp hơn so với những chiếc TR-1. số cho thấy các hoạt động của Iraq, quân hoặc công nghiệp - những hoạt động chuyển quân, các máy bay chiến đấu nếu có ở đó trước, những máy bắn tên lửa tại các địa điểm mới. Chúng đến với cơ quan Phân tích Mục tiêu.

      Những bức ảnh từ chiếc Tomcat của Ranger dành cho Bộ phận Đánh giá Thiệt hại do bom. Chúng được lọc chọn qua Barn, tập hợp những lều xanh ở bên lề căn cứ quân ; rồi, chúng được dán nhãn và chỉ định, rồi lên đường đến Hố Đen, nơi chúng đổ bộ xuống phòng BDA.

      Đại tá Beatty bắt tay vào việc lúc bảy giờ sáng. Ông làm việc hai giờ đồng hồ nhìn vào các điểm nóng là địa điểm tên lửa ( phần bị phá huỷ, hai khẩu đội ràng câm họng) và trung tâm thông tin (bằng rub), cộng với ma trận những lá chắn máy bay được bảo vệ mà các MIG để trong nhà của Iraq, hay những chiếc Mirage, và Sukhois được phân tán.

      Khi ông xem đến khoảng chục bức ảnh về nhà máy ở Tarmiya, ông nhăn trán, đứng lên, và lại quanh chiếc bàn của trung sĩ bay người của lực Hoàng gia.

      - Charlie, cái gì thế này?

      - Tarmiya, thưa ngài. Ngài còn nhớ cái nhà máy bị chiếc Eagle bắn ngày hôm qua - cái chưa hề có trong danh sách ấy?

      - Ôi, phải rồi, cái nhà máy chưa bao giờ là mục tiêu ấy à?

      - Chính nó đấy. chiếc Tomcat từ tàu Ranger chụp được nó ngay sau mười giờ sáng nay đấy.

      Đại tá Beatty đập tay vào những bức ảnh.

      - Thế cái quỷ quái gì diễn ra ở dưới này thế

      - biết, thưa ngài. Chính vì thế tôi phải chuyển sang cho ngài. ai có thể làm được.

      - Tốt, cái chàng Eagle này chắc hẳn tình cờ vớ đúng đấy.

      Viên đại tá người Mỹ và viên sĩ quan người nhìn chằm chằm vào các bức ảnh do chiếc Tomcat chụp về từ Tarmiya. Chúng rất , đủ độ phân giải. số từ khung camera trước và dưới ở trước mũi pod TARPS cho thấy nhà máy đổ nát khi chiếc Tomcat tiếp cận từ 15 nghìn fít; những bức khác từ camera toàn cảnh ở khoảng giữa của khu. Những người ở Barn rút lại chỉ lấy những cái đẹp nhất và nhất.

      - Nhà máy này to cỡ nào? viên đại tá hỏi.

      - Khoảng chừng mườm km dài và rộng sáu km, thưa ngài.

      Cái mái ngói khổng lồ bị lật ra, và chỉ mảnh bị lộ nằm lên khoảng vuông của sàn nhà của cái nhà máy Iraq .

      Trong ba phần tư còn lại được nhìn , toàn bộ bố trí của nhà máy có thể thấy theo cách nhìn từ cao. Có những phân xưởng chia ra, và trong mỗi cái có cái đĩa màu đen lớn nằm rất lớn sàn.

      - Là kim loại à?

      - Đúng vậy, thưa ngài, dựa theo máy quét cảm ứng. Thép hoặc là cái gì đó.

      Lại càng rối rắm hơn, và lý do cho tất cả những chú ý của những người ở BDA, là phản ứng của lraq với hành động tấn công của Don Walker. Quanh cái nhà máy bị tốc mái có chỉ mà là đến năm chiếc cần trục cực lớn, những cánh tay của chúng chìa vào bên trong như truy điệu người chết. Với tất cả những thiệt hại có ở Iraq: những chiếc cần trục cỡ đó là của cực hiếm.

      Quanh nhà máy và bên trong, toán thợ thể nhìn thấy được làm việc để gắn những chiếc dĩa vào cần máy để chuyển .

      - Có đếm được bao nhiêu người , Charlie?

      - Hơn hai trăm người, thưa ngài.

      - Thế còn những cái đĩa đó? - đại tá Beatty tư vấn báo cáo của sĩ quan tình báo của Ranger - những cái "Đĩa khổng lồ đó"?

      - có ý kiến gì, thưa ngài. Chưa từng nhìn thấy gì giống như thế.

      - Thôi được, ràng nó cực kỳ quan trọng đối với ngài Saddam Hussein. Liệu Tarmiya có thể thực vùng có mục tiêu nào ?

      - Thôi được rồi, cho vào danh sách vậy, thưa đại tá. Nhưng liệu ông có thể xem cái này ?

      Viên trung sĩ bay cầm lên bức ảnh khác mà ta lấy ra từ đống hồ sơ. Viên đại tá nhìn vào chỗ ta chỉ.

      - Dây chuyền đôi.

      - Dây chuyền đôi. Còn ở đây?

      Đại tá Beatty cầm lên chiếc cốc đẹp tuyệt và nhìn lại lần nữa.

      - Chuỗi khai thác mỏ... những khẩu đội A... tháp canh. lấy những cái này ở đâu thế, Charlie?

      - Ở đây thôi. Hãy lấy bức ảnh lớn mà xem.

      Đại tá Beatty nhìn chằm chằm vào bức ảnh mới được đặt trước mặt mình, bức chụp từ rất cao được toàn bộ Tarmiya và vùng phụ cận. Rồi ông ta thở dài.

      - Chúa tôi, chúng ta phải đánh giá lại toàn bộ Tarmiya đây. Thế quái nào mà chúng ta lại bỏ qua nó nhỉ?

      Vấn đề là, toàn bộ khu công nghiệp gồm 381 toà nhà của Tarmiya bị xoá ngay từ những nhà phân tích đầu tiên như là hề có tính chất quân phải là mục tiêu với những lý do sau này trở thành phần của những giai thoại lưu truyền ở Hố Đen.

      Có người Mỹ và người , và họ đều là người của NATO. đào tạo của họ trong việc đánh giá các mục tiêu Xô viết, và họ nhìn theo cách Xô viết cách làm các việc. Các đầu mối họ tìm kiếm là những chỉ số chuẩn. Nếu toà nhà hay khu nhà là quân và quan trọng, nó là ngoài giới hạn. Nó có thể được bảo vệ được qua và được bảo vệ khỏi các tấn công.

      Thế liệu những tháp canh, dây chuyền, các khẩu đội A, tên lửa, dây chôn, trại lính là thế nào đây? Chúng có phải là các dấu hiệu của những xe tải nặng ra vào; chúng có phải là những đường dây năng lượng lớn hay trạm phát điện bên trong?

      Những cái đó đều có nghĩa là mục tiêu. Tarmiya cũng hề có những cái đó - có vẻ như thế.

      Cái mà viên trung sĩ RAF làm, trong lúc, là kiểm tra lại bức ảnh có độ mở cực cao về toàn thể khu vực. Và có hàng rào, các khẩu đội, trại lính, những cửa được gia cố, tên lửa, những hàng rào mạnh mẽ. Nhưng còn xa hơn thế. Người Iraq chỉ đơn giản là lấy phần đất lớn trăm km vuông và vây lại. vùng nào có thể đối với người phương Tây và thậm chí cả người Đông Âu.

      Khu công nghiệp đó, gồm 381 toà nhà mà 70 trong số đó sau này bị coi là sản xuất đồ chiến tranh, nằm ở giữa khu đất vuông đó, được phân tán rộng để tránh bom đánh phá, nhưng chỉ còn 500 acre bên ngoài 10000 được bảo vệ cẩn mật.

      - Những đường dây điện à? Viên đại tá hỏi. có gì ở đây có thể phát điện hơn cái bàn chải đánh răng.

      - đây này, thưa ngài. 45 km về phía tây. Các đường dây điện chạy theo hướng ngược lại. 50 đến độ nóng, những đường dây này là dây điện thoại. Cái dây cáp thực bị chôn dưới đất và chạy từ trạm năng lượng đến trung tâm Tarmiya. Đó là trạm phát điện 150 MW, thưa ngài.

      - Mẹ nó chứ, viên đại tá thở dài. Rồi ông ta thẳng ra và nhìn vào đống ảnh.

      - Làm tốt đấy, Charlie. Tôi mang tất cả những cái này đến cho Buster Glosson. Trong lúc đó, phải đợi ở đây ở cái nhà máy mất mái này đâu. Nếu nó là quan trọng đối với người Iraq - chúng ta cho nó tiêu tùng luôn.

      - Vâng, thưa ngài. Tôi cho nó vào trong danh sách.

      - phải trong vòng ba ngày kể từ hôm nay. Ngày mai. Cái gì thế nhỉ?

      Viên trung sĩ bay đến màn hình máy tính và gõ câu

      - có gì đâu. Mọi việc ổn, tất cả các đơn vị.

      - thể làm đội nào à?

      - thực tế. Bởi vì về chiến dịch săn đuổi tên lửa Scud, chúng ta chậm rồi. Nào, tiếp tục , 4300 xuống Diego. Chúng có năng lực đấy.

      - Tốt rồi, hãy đưa chúng cho Buffs.

      - Nếu ngài tha lỗi tôi , viên sĩ quan bay nhận xét, với lịch thiệp rất trang trọng nhấn mạnh vào những cái mặt nạ lấy gì làm hay ho. Các Buff phải là những tay thả bom chính xác tuyệt đối đâu.

      - Xem nào. Charlie, trong 24 giờ nữa những tên Iraq đó xoá sạch dấu vết. Chúng ta có lựa chọn nào khác. Hãy đưa nó sang cho Buffs.

      - Vâng, thưa ngài.

      Mike Martin cẩn trọng nằm im trong toà nhà của người Xô viết thêm vài ngày nữa. Tay giúp việc người Nga và vợ ông ta rất bực bội, ngủ được đêm vì những loạt bom và tên lửa rơi dứt cùng với tiếng gầm rú của đạn phòng Iraq to mồm nhưng chẳng mấy hiệu quả.

      Họ rất thận trọng với cửa sổ với tất cả các tay lái bay người Mỹ hay , nhưng cũng còn gì ăn, và dạ dày Nga là luận lý thúc đẩy. Giải pháp là gửi Mahmoud người làm vườn chợ trở lại.

      Martin đạp xe vòng vòng quanh thành phố trong vòng ba ngày, khi nhìn thấy vạch phấn. Nó nằm bức tường phía sau của trong những ngôi nhà của khu Khayat cổ ở Karadit-Mariam, và có nghĩa là Jericho gửi hàng đến hòm thư chết tương ứng.

      Mặc dù có bom rơi, sống hàng ngày của người dân vẫn diễn ra và bắt đầu thích ứng dược. lời nào thốt ra, trốn dưới những tảng đá và rồi chỉ thành viên gia đình thể phản bội với người của AMAM, nhận ra ám ảnh tầng lớp lao động rằng "Con của Chó" và "Con của Naji" có vẻ như có vẻ đánh trúng dược cái muốn đánh và để phần còn lại được yên.

      Sau 5 ngày Cung điện Tổng thống trở thành đống bùng nhùng. Bộ Quốc phòng còn tồn tại, cũng chẳng còn trao đối điện thoại hay những trạm phát điện chính. Thậm chí còn kinh hơn, tất cả 9 cây cầu giờ đây trang hoàng cho đáy dòng Tigris, nhưng loạt những nhà doanh nghiệp dựng ngay dịch vụ phà qua sông, rộng đủ để chớ cả xe tải và xe hơi, số còn mang được chục hành khách và xe đạp của họ, với chỉ vài mảnh ghép lại.

      Phần lớn các toà nhà chính vẫn còn chưa bị động đến. Khách sạn Rashid ở Karch vẫn đầy dân báo chí nước ngoài, thậm chí dù cho Rais chắc hẳn xuống trú chân ở dưới đó. Còn tồi tệ hơn thế, đại bản doanh của AMAM, khu những toà nhà liên kết với nhau với vẻ ngoài tồi tàn và bên trong tối tân trong khu phố chắc chắn gần Qasr-el-Abyad ở Risafa, vẫn còn yên lành. Bên dưới hai ngôi nhà trong số đó là Nhà tập, bao giờ được nêu tên chỉ trừ khi thầm , là Omar Khatib Đồ tể khai thác người bị bắt.

      Qua sông đến Mansour, toà nhà văn phòng lớn đơn độc tạo thành đại bản doanh của Mukhabarat, cả nước ngoài và Phản gián, vẫn chưa bị tìm ra.

      Mike Martin xem xét vấn đề của phấn đánh dấu khi đạp xe về toà biệt thự Xô viết. biết những mệnh lệnh với mình đều là chính thức - có cách tiếp cận nào. liệu từng là nhà ngoại giao người Chile tên là Benz Moncada có thể nghe theo lời chỉ dẫn đó, và luôn đúng. Nhưng Moncada được huấn luyện để nằm bất động, nếu là cần thiết trong số ngày, trong trạm quan sát đơn lẻ và nhìn ngó cảnh vật xung quanh cho đến khi những con chim đến làm tổ ta.

      Đêm hôm đó, bộ, Martin lại qua sông đến Rifasa khi các máy bay chiến đấu bắt đầu và đến chợ rau quả ở Kasra. Có những khuôn mặt hai bên đường đây đó, ngả về phía trước như những ngôi nhà bình thường có thể thoát khỏi tên lửa tự hành Tomahawk và chỉ là trong sốchúng. Quan trọng hơn, đánh bạc của coi các đội tuần tra của AMAM chẳng ra gì: chúng có khiếu đánh hơi đối với những phố rộng với người Mỹ ở đầu.

      tìm thấy điểm quan sát của mình mái của nhà kho hoa quả, từ lề của nó có thể nhìn ngó con phố, bức tường của chợ rau quả. Và gạch và cái cán cờ đánh dấu chỗ hòm thư. Trong tám tiếng đồng hồ, từ tám giờ tối đến bốn giờ sáng hôm sau, chỉ nằm và nhìn.

      Nếu hòm thư lộ, AMAM thể sử dụng dưới 20 người. Lúc nào đó có gì đó như tiếng giày đá, tiếng ho, cử động nào đó, ánh diêm, điếu thuốc cháy, giọng ra lệnh bằng cổ họng đê buộc tất cả trật tự; nhất định phải có cái gì đó. chỉ đơn giản là tin người của Khatib hay Rahmani có thể bất động và im lặng trong suốt tám tiếng đồng hồ.

      Ngay trước bốn giờ sáng, trận ném bom kết thúc. có ánh sáng nào trong chợ phía dưới. kiểm tra lại lần nữa xem có máy camera nào cái cửa sổ cao nào , nhưng trong khu đó hề có cái cửa sổ ở cao nào. Lúc bốn giờ 10 phút trườn khỏi mái nhà, ngang qua đường, trong cái dish-dash màu ghi sẫm di chuyển trong bóng tối, tìm thấy viên gạch, lấy bức thông điệp: và .

      vượt tường khu nhà của Bí thư thứ nhất Kulikov ngay trước bình minh và nằm gọn trong túi ngũ của mình trước khi bất kỳ ai có thể tỉnh giấc.

      Thông điệp từ Jericho rất ngắn gọn: ta nghe ngóng dược gì từ chín ngày nay. ta nhìn thấy phấn đánh dấu. Kể từ lần gửi thông điệp cuối cùng đến giờ có liên lạc nào hết. hề có tiền công chuyển vào trong tài khoản ngân hàng của ta. Liệu thông điệp của ta có sao ; ta biết điều đó bởi vì ta kiểm tra. Có gì sai trái chăng?

      Martin chuyển thông điệp này đến Riyadh. biết nên làm trái mệnh lệnh, nhưng tin là , chứ phải Paxman, là người ở chốt và có quyền có quyết định nào đó cho bản thân mình. liều thân đêm nay để cho cái tính toán trước; sử dụng những kỹ năng của mình chống lại người mà biết là thấp hơn trong trò chơi nguy hiểm. Liệu còn có cái gì đó che giấu con đường dưới kiểm soát, có thể tiêu khi ta đến, và ai có thể nhìn thấy ta.

      Có thể là Paxman đúng và rằng Jericho hỏng. Cũng có khả năng Jericho chỉ đơn giản gửi tin vì đúng là ta nghe Saddam Hussein vậy. Điểm rắc rối là hai triệu đôla mà CIA từ chối trả. Martin tự viết câu trả lời. số vấn đề bởi bắt đầu cuộc kích nhưng chút kiên nhẫn nữa cũng chẳng có hại gì. Jericho rằng thông điệp trước của ta được lấy và được chuyển , nhưng rằng ta, Jencho, cũng phải hiểu triệu đôla là số tiền rất lớn và rằng thông tin còn cần được kiểm tra lại nữa. Việc đó có thể phải mất chút thời gian. Jericho nên bình tĩnh trong khoảng thời gian rối tinh này và chờ đợi khi có dấu phấn đánh dấu sau báo hiệu cho ta mọi việc lại đâu vào đấy

      Trong ngày Martin để lại bức thông điệp vào sau viên gạch tường gần chỗ của thành cổ Aadhamiya, và trong bụi viết phấn lên bề mặt đỏ quạch của cái cửa gara ôtô ở Yarmuk.

      24 giờ sau, dấu phấn lại xuất . Mỗi đêm Martin đều mở máy hướng về Riyadh nhưng gì đến cả. biết các mệnh lệnh bảo mình trốn khỏi Baghdad và rằng những người quản lý có khả năng chờ vượt biên giới. quyết định đợi thêm thời gian nữa.

      Diego Garcia phải trong những địa điểm du lịch được ưa thích nhất thế giới. Nó chỉ là hòn đảo . còn hơn đám san hô, ở tận cùng quần đảo Chagos ở phía nam Ấn Độ Dương. từng là lãnh thổ thuộc , nhiều năm nay nó được chuyển sang cho Mỹ thuê.

      Mặc dù trơ trọi của mình, trong chiến tranh vùng Vịnh nó đóng vai trò chủ nhà cho đội ném bom số 4300 cực nhanh của USAF, là những pháo đài bay B-52. B-52 nghi ngờ gì nữa là ông già cả nhất trong cuộc chiến, phục vụ từ hơn 30 năm nay. Với nhiều cái trong đó từng là xương sống của Chỉ huy Bay Chiến dịch, đóng trụ sở ở Omaha, Nebraska, đấu sĩ bò tót bay vòng quanh vương quốc Xô viết ngày và đêm mang theo những khí cụ chiến tranh.

      B-52 có thể là già nua, nhưng vẫn là loại máy bay ném bom gây khiếp sợ, và trong chiến tranh vùng Vịnh phiên bản G nâng cấp được sử dụng để tạo nên hiệu ứng phá huỷ trong những đội thọc sâu của Iraq có tên là Vệ binh Cộng hoà trong các sa mạc ở nam Kuwait. Nếu điều quan trọng của Quân đội Iraq là những boong ke và với những cánh quân nổi lên tại vùng đất của Liên quân để phản công, nó là phần vì quan trọng của nó được rải ra và tinh thần bị bẻ gãy bởi những chiếc B-52 bay lượn vòng quanh.

      Chỉ có 80 chiếc máy bay ném bom loại này trong cuộc chiến, nhưng trọng tải cực lớn của nó và số lượng bom chở được rất nhiều đổ xuống 26.000 tấn bom theo lệnh, 40% số bom được ném xuống trong toàn cuộc chiến.

      Chúng rất lớn mặt đất, sải cánh của chúng, đến tám động cơ Pratt và Whitney J-57 trong bốn cụm, mỗi cụm mang hai chiếc, đổ xuống mặt đất. Khi cất cánh với trọng lượng tối đa. các cánh nâng lên trước, như thể trượt lên cái đồi lớn như con mòng biển. Chỉ trong khi bay chúng mới dựng thẳng lên theo đúng chiều của mình.

      trong các nguyên nhân chúng tạo ra nỗi kinh hoàng lớn đến vậy cho Vệ binh Cộng hoà trong sa mạc là vì chúng bay ngoài tầm kiểm soát về hình ảnh cũng như thanh, cao đến nỗi bom của chúng rơi xuống hề được báo trước và là điều đáng sợ nhất. Nhưng nếu chúng là những máy bay rải thảm cực tốt, độ chính xác trong thả bom lại phải là điểm mạnh, như viên trung sĩ bay chỉ ra.

      Vào buổi bình minh ngày 22 tháng Giêng, ba chiếc Buff trượt lên khỏi Diego Garcia và hướng về Arập Xêut. Mỗi chiếc đều chở theo trọng tải tối đa, 51 bom mỗi quả 750 pound để được thả xuống từ độ cao 35.000 fít. 27 quả bom được chứa ở bên trong, phần còn lại được ở dưới cánh.

      Ba máy bay ném bom này tạo nên đội bay cho các chiến dịch Buff, và đội bay của chúng trông chờ ngày câu, bơi, và chơi bời trong vùng đất nhiệt đới. nghi ngờ gì, họ chuyến đến cái nhà máy xa xôi mà họ chưa từng nhìn thấy và cũng bao giờ nhìn thấy được.

      Pháo đài bay B-52 được gọi là Buff bởi vì nó được vẽ bằng nét màu nâu sẫm. Từ đó phải là phái sinh của hai tiết của số của nó - B-52. Nó được coi là tên cưỡng dâm béo xấu xa to lớn. Cho nên các Buff bay về phía bắc, tìm Tarmiya, mang theo hình ảnh của cái nhà máy bị định vị, và thả xuống 153 quả bom. Rồi chúng trở về nhà ở quần đảo Chagos.

      Vào buổi sáng ngày 23, vào giờ London và Washington bắt đầu đòi hỏi có thêm hình ảnh về những chiếc đĩa bí đó, nhiệm vụ BDA hơn nữa được định ra, nhưng lúc này máy điện thoại được chở đến bởi chiếc Phantom được bay bởi Đội Vệ binh quân Quốc gia bên ngoài căn cứ Sheikh Isa ở Bahrain, về địa điểm được biết là bánh Pizza của Shakey.

      Trong buổi nghỉ đáng chú ý theo truyền thống, những chiếc Buff thực đạt đến được mục tiêu. Khi nhà máy với những cái đĩa lớn trở thành hố sâu hoắm, Washington và London buộc phải thoả mãn với hơn chục bức ảnh có được từ trung uý chỉ huy Darren Cleary.

      Các nhà phân tích giỏi nhất của Hố Đen xem các bức ảnh, nhún vai vì biết gì của mình, và gửi chúng lên thượng cấp tại hai thủ đô lớn.

      Các ảnh sao ngay lập tức đến được JARIC, trung tâm phân tích ảnh của , và Ở Washington tại ENPIC. Những người từng đến đó, toà nhà gạch vuông vắn tại góc của thủ đô Washington, có thể thích ở lại cái ở trong. Chỉ đầu mối trung tâm Phân tích ảnh Quốc gia để lộ từ khu nhà có lắp đặt điều hoà nhiệt độ bên trong, giữ nhiệt độ được kiểm soát với cái pin cực lớn của những siêu máy tính mạnh nhất của Mỹ. Phần còn lại, những cửa sổ chống bụi và mưa, cánh cửa nặng nề, và bụi bay từ phố bên ngoài có thể gợi ý đó là nhà kho chẳng lấy gì làm sang trọng.

      Nhưng ở đây có những hình ảnh do các vệ tinh đưa về; có những nhà phân tích làm việc để cho những người ở Văn phòng Tình báo Quốc gia và Lầu Năm Góc và CIA chính xác những "con chim" đắt đỏ bị trông thấy. Họ rất giỏi, các chuyên gia này, luôn có được những công nghệ mới nhất, rất trẻ, thông minh, và đầy trí tuệ. Nhưng họ bao giờ được nhìn thấy những cái đĩa như ở Tarmiya. Cho nên họ đóng hồ sơ những bức ảnh lại và như thế.

      Các chuyên gia ở Lầu Năm Góc tại Washington và ở Bộ Quốc phòng ở London, những người chỉ biết về vũ khí thực từ chỗ của mình, kiểm tra các bức ảnh, lắc đầu, và đặt chúng xuống.

      Trong trường hợp họ có điều gì đó để làm việc với các vũ khí huỷ diệt hàng loạt, chúng được đưa đến cho các nhà khoa học ở Sandia, Los Alamos, và Lawrence Livermore ở Mỹ và ở Porton Down, Harwell, và

      Aldermaston ở . Kết quả hoàn toàn giống nhau.

      Lời đề xuất tốt nhất là rằng các đĩa là phần của những máy chuyển điện dành cho trạm phát điện mới của Iraq. Đó là lời giải thích buộc phải đến, khi cầu những bức ảnh nhiều hơn nữa từ Riyadh được đáp ứng với các tin tức rằng nhà máy Tarmiya thực còn tồn tại nữa.

      Đó là lời giải thích rất hay, nhưng thất bại làm sáng tỏ được vấn đề: Tại sao trong bức ảnh chính quyền Iraq lại cố gắng cách tuyệt vọng để cứu thoát chúng?

      Tối ngày 24 Simon Paxman, từ trạm điện thoại gọi cho tiến sĩ Terry Martin tại căn hộ của .

      - Muốn ăn đồ Ấn tối nay nữa ? ta hỏi.

      - Tối nay được đâu, Martin . Tôi đóng gói đồ đạc.

      là Hilary về, và cũng muốn có tối với bạn mình.

      - đâu nào? Paxman hỏi.

      - Mỹ, Martin . lời mời dạy về Abassid Caliphate.Khá là đáng nể, đấy. Họ có vẻ thích nghiên cứu của tôi về hệ thống của caliph thứ ba. Xin lỗi nhé.

      - Chỉ có điều là có cái gì đó đến từ phía nam. câu đố nữa mà ai có thể giải thích được. Nhưng phải về các khía cạnh ngôn ngữ Arập đâu, mà là kỹ thuật cơ. Vẫn...

      - Cái gì thế hả?

      - bức ảnh. Tôi cố hiểu bức ảnh.

      Martin do dự.

      - cọng rơm nữa trong cơn gió à ?. hỏi. Thôi được rồi. cùng cửa hàng đó nhé. Tám giờ.

      - Dĩ nhiên là được, Paxman . Chỉ là cọng rơm thôi.

      biết là cái sắp sửa tiếp cận được thứ là quan trọng.

      CHƯƠNG 17


      Terry Martin đỗ xuống sân bay quốc tế San Francisco đúng vào ba giờ chiều ngày hôm sau, được chủ nhà của mình, giáo sư Paul Maslowski, thiên tài, đứng đón trong bộ đồng phục Viện Hàn lâm Mỹ, áo jacket và bộ đồ da, và ngay lập tức được ôm lấy bằng vòng tay ấm áp của tình nồng nhiệt Mỹ.

      - Betty và tôi chọn khách sạn có vẻ rất kín đáo và tự hỏi liệu có thích ở cùng với chúng tôi hay ?

      Maslowski hỏi khi ông đưa khách ra khỏi khu sân bay và ra đường cao tốc.

      - Cám ơn ông, thế tuyệt lắm, Martin , và quả thực nghĩ vậy.

      - Các sinh viên mong ngóng được nghe giảng, Terry ạ. có nhiều trong chúng tôi đâu, dĩ nhiên – khoa Arập của chúng tôi hẳn là hơn khoa của ở SOAS rồi, nhưng rất sôi nổi đấy.

      - Tuyệt. Tôi cũng mong được gặp họ.

      Hai người chuyện gẫu vui vẻ về mối say mê chung của mình, Lưỡng Hà thời Trung đại, cho đến khi họ về đến nhà riêng giáo sư Maslowski ở vùng ngoại ô phát triển ở Công viên Menlo.

      Tại đó gặp vợ của Paul, Betty, và được dẫn vào phòng khách ấm áp và tiện nghi. liếc nhìn đồng hồ: 15 phút nữa đến năm giờ.

      - Tôi có thể dùng điện thoại ? hỏi khi xuống tầng.

      - Dĩ nhiên rồi, Maslowski . muốn gọi điện về nhà à?

      - , chỉ trong vùng thôi. ông có cuốn danh bạ ?

      Giáo sư đưa cho cuốn danh bạ điện thoại và ra. Đó là ở Livermore: Phòng thí nghiệm quốc gia Lawrence Livermore ở hạt Alameda. đúng giờ.

      - Có thể nối máy cho tôi tới Phòng Z ? hỏi, phát nó là Zed, khi người trực tổng đài trả lời.

      - Ai cơ? hỏi.

      - Phòng Zee, Martin sửa lại. Giám đốc văn phòng. - Xin hãy giữ máy.

      giọng phụ nữ khác vào máy.

      - Văn phòng giám đốc đây. Tôi có thể giúp gì cho ngài?

      Giọng tiếng . Martin giải thích là tiến sĩ Martin, nhà khoa học từ sang thăm, và rất mừng nếu có thể chuyện được với ngài giám đốc. giọng đàn ông vang lên.

      - Tiến sĩ Martin phải ?

      - Vâng.

      - Tôi là Jim Jacobs, phó giám đốc. Tôi có thể giúp gì cho ngài?

      - Xem nào, tôi biết đây là thông tin quá vắn tắt. Nhưng tôi vừa tới đây trong chuyến viếng thăm ngắn để giảng cho khoa Cận Đông ở Đại học Berkeley. Rồi tôi phải bay trở về. Vấn đề là, tôi tự hỏi liệu tôi có thể đến thăm Livermore để gặp ông ?

      bối rối lộ ra bên kia dây .

      - Ngài có thể cho tôi biết là về việc gì , thưa tiến sĩ Martin?

      - dễ đâu. Tôi là thành viên của Hội đồng Medusa bên . Liệu điều đó có lên điều gì ?

      - Tất nhiên là có rồi. Chúng tôi chuẩn bị đóng cửa trong chốc lát. Liệu ngày mai có được thưa ngài?

      - Tốt rồi. Tôi phải giảng bài trong buổi chiều. Thế buổi sáng nhé?

      - 10 giờ nhé? Tiến sĩ Jacobs hỏi.

      Việc hẹn gặp xong. Martin khéo léo tránh nêu mình hoàn toàn phải là nhà vật lý nguyên tử, mà là chuyên gia tiếng Arập. Chẳng việc gì phải làm rối các vấn đề lên cả.

      Đêm đó, qua thế giới thành Vienna, Karim đưa Edith Hardenberg lên giường. quyến rũ của ta vội vàng cũng chẳng cuống cuồng nhưng như thể trong buổi tối có nhạc giao hưởng và ăn tối với tự nhiên hoàn hảo. Ngay cả khi lái xe đưa từ trung tâm thành phố về đến căn hộ của mình ở Grinzing, Edith cố thuyết phục mình rằng đó chỉ là cho tách cà phê và nụ hôn tạm biệt, dù sâu thẳm ý nghĩ biết sắp đến lúc đó rồi.

      Khi ôm trong vòng tay và hôn dịu dàng nhưng đầy quả quyết, nghĩ chỉ cho phép ta làm thế mà thôi; lời tự dối mình trước đó rằng có thể chống cự lại dường như tan biến, và thể ngăn được điều đó lại. , tận sâu bên trong, còn muốn nữa.

      Khi đặt nằm xuống và đưa vào trong buồng ngủ bé của , chỉ quay mặt mình vào vai ta và để điều đó xảy ra. hiếm khi cảm thấy mình ít nghiêm túc đến thế khi chiếc quần lót rơi xuống sàn nhà. Những ngón tay của ta có ma lực mà Horst bao giờ có dược.

      vẫn còn mặc quần lót khi dằn xuống chiếc chăn Bettkissen, chiếc chăn mềm to kiểu Vienna, và sức nóng từ cơ thể trẻ trung mạnh mẽ của giống như thứ tiện nghi tuyệt vời trong đêm mùa đông.

      biết phải làm gì, thế !à nhắm chặt mắt và để cho điều đó xảy ra. Những cảm giác xa lạ, khủng khiếp, tội lỗi bắt đầu xâm chiếm với những cảm giác lạ lùng bên dưới những chú ý của môi ta và những ngón tay dò tìm nhàng. Horst chưa từng bao giờ như thế cả.

      bắt đầu sợ khi môi ta chạm vào môi và từ ngực đến những chỗ khác, những chỗ xấu xa, cấm kỵ mà mẹ thường chỉ là "ở phía dưới".

      cố đẩy ra, yếu ớt phản dối, biết là những đợt sóng bắt đầu tràn ra từ thân dưới của sạch và trong sáng gì, nhưng ta phấn hứng và trườn xuống dưới.

      hề tỏ ra chú ý gì đến câu lắp lắp lại của "Nein, Karim, das sollst du nicth", được làm thế, và những đợt sóng bắt đầu thành dòng và con tàu xoay tròn trong đại dương điên rồ cho đến khi đợt sóng lớn cuối cùng tràn qua rơi vào cảm giác chưa từng bao giờ có trong suốt 39 năm cuộc đời mình.
      Rồi ôm đầu ta vào tay và ấn khuôn mặt ta vào giữa đôi gò vú gày gò và lặng lẽ lắc .

      Hai lần nữa trong đêm ta làm tình với , lần ngay sau nửa đêm và lại làm nữa trong bóng tối trước khi bình minh, và mỗi lần lại dịu dàng và mạnh mẽ đến nỗi say lên vì và tự mình dâng hiến cho theo cái cách chưa từng bao giờ nghĩ tới là có thể. Chỉ sau lần thứ hai mới có thể tự bắt mình choàng tay quanh người ta để vuốt ve trong khi ta ngủ và tự hỏi về làn da và tình cảm thấy đối với mỗi inch đó.

      Mặc dù có ý tưởng nào rằng người khách của mình có quan tâm đến thế giới ngoài các nghiên cứu Arập, tiến sĩ Maslowski vẫn nhấn mạnh rằng ông lái xe chở Terry Martin tới Livermore trong buổi sáng chứ để để phải xe buýt.

      - Tôi cho rằng tôi có chàng trai quan trọng hơn tại nhà mình mà tôi nghĩ, ông gợi ý khi lái xe. Nhưng dù Martin điều đó là đúng, nhà học giả xứ California biết khá đầy đủ về Phòng thí nghiệm Lawrence Livermore để biết rằng phải ai ất ơ cũng vào được đó sau cú điện thoại. Tiến sĩ Maslowski, với kín đáo rất cao thủ, ngăn mình hỏi thêm về điều đó.

      Ở cửa an toàn chính các vệ binh mặc đồng phục kiểm tra danh sách, kiểm tra hộ chiếu của Martin, gọi cú điện thoại, và đưa họ vào khu để xe.

      - Tôi đợi ở đây, Maslowski .

      Công việc tiến triển. Phòng thí nghiệm là tập hợp nhà cũ kỹ ở đường Vasco, số trong chúng đại, nhưng nhiều cái có từ những ngày khi nó còn là căn cứ quân . Để thêm vào đống hỗn loạn các phong cách, các toà nhà "thời vụ" cách nào đó trở nên thường xuyên được dựng lên giữa các doanh trại cũ. Martin được đưa đến nhóm các văn phòng ở đại lộ phía đông của khu nhà.

      Trông giống thế lắm, nhưng nó ở bên ngoài đống nhà cửa này mà nhóm các nhà khoa học điều khiển mở rộng của công nghệ hạt nhân chuyển qua Thế giới Thứ ba.

      Jim Jacobs trông già hơn Terry Martin chút, sắp sang tuổi 40, tiến sĩ, và là nhà vật lý nguyên tử. chào đón Martin vào văn phòng dán đầy giấy của mình.

      - Buổi sáng lạnh ghê. Hẳn ông nghĩ Califorma phải ấm lắm. Ai cũng thế. Nhưng ở đây đâu. Cà phê chứ?

      - Vâng.

      - Với đường hay kem nhỉ?

      - , cà phê đen thôi.

      Tiến sĩ Jacobs ấn cái nút nội bộ.

      - Sandy, mang cho chúng tôi hai tách cà phê được ?

      - Của tôi biết rồi đấy. Và cốc đen.

      ta mỉm cười qua cái bàn với người khách của mình. ngại ngần gì mà ra rằng chuyện với Washington để khẳng định về tên của người khách và rằng ta thực thành viên của Hội đồng Medusa. số người ở bên phía Mỹ trong hội đồng, mà có biết, kiểm tra danh sách và khẳng định là đúng. Jacobs rất có ấn tượng. Người khách có thể trông rất trẻ, nhưng ta hẳn là phải có thế lực ở lắm. Phó giám đốc biết tất cả về Medusa bởi vì ta và các đồng nghiệp được tư vấn trong nhiều tuần về Iraq và trao tất cả những gì mình có, mọi chi tiết về câu chuyện nực cười và bỏ qua trong phần của phương Tây rằng có trong Saddam Hussein vũ khí hạt nhân.

      - Thế tôi có thể giúp gì nào? ta hỏi.

      - Tôi biết dài lắm, Martin , mở cặp của mình ra. Nhưng tôi cho rằng ông nhìn thấy cái này rồi chứ?

      chìa ra bản sao khoảng chục bức ảnh về nhà máy Tarmiya lên bàn, cái mà Paxman trái thượng lệnh mà đưa cho . Jacobs liếc nhìn và gật đầu.

      - Tất nhiên, cũng có đống được gửi từ Washington đến đây 3 hay 4 ngày trước gì đó. Tôi có thể gì nào?

      Chúng chẳng lên điều gì cả. thể hơn cho điều tôi cho Washington. Chưa từng bao giờ nhìn thấy gì giống thế cả.

      Sandy vào khay cà phê, tóc vàng hoe California đầy vẻ tự tin.

      - Xin chào, mời ông.

      - À, xin chào. ông giám đốc có ở đây nhỉ?

      Jacobs nhăn trán. Thế có nghĩa chưa ở cấp cao cho phép. "Giám đốc trượt tuyết ở Colorado cơ. Nhưng ở đây tôi số bộ óc giỏi nhất chúng tôi có, và hãy tin tôi, họ rất giỏi đấy."

      - Ôi tất nhiên là thế rồi, Martin .

      Sandy đặt hai tách cà phê lên bàn. Mắt rơi xuống những bức ảnh.

      - Ôi lại chúng nữa kìa, .

      - Phải, lại là chúng đấy, Jacobs , và mỉm cười độ lượng.

      Tiến sĩ Martin ở đây nghĩ có thể có ai đó... cao tuổi hơn có thể xem xét chúng.

      - Thế , , hãy mang chúng sang cho bố Lomax vậy.

      đoạn ra khỏi phòng.

      - Bố Lomax là ai thế Martin hỏi.

      - Ôi đừng để ý mà. Chỉ là cách gọi thân mật ở đây thôi.

      nghỉ hưu rồi, sống mình núi kia. Lừng danh thủa. Các thích ông, ông mang cho họ cả núi hoa. ông già kỳ lắm.

      Họ uống cà phê, nhưng còn gì để nữa. Jacobs có việc phải làm. xin lỗi lần nữa vì thể giúp được gì nhiều. Rồi dẫn người khách ra, quay trở vào xưởng, và đóng cửa lại. Martin đợi ở hành lang lúc, rồi thò đầu vào qua cửa

      - Thế tôi có thể tìm thấy bố Lomax ở đâu? hỏi Sandy.

      - Tôi biết. Sống đâu đó các ngọn đồi. ai lên đến đấy cả.

      - Ông ấy có điện thoại ?

      - , có đường dây nào lên đó cả. Nhưng tôi nghĩ có thể ông ấy có máy di động. Công ty bảo hiểm đặt dấu nhấn rồi. Tôi muốn ông ấy già kinh khủng.

      Cách đó 10 múi giờ, là buổi tối ở Baghđad. Mike Martin đạp xe, đạp về phía tây bắc về phố Cảng Said. vừa mới qua Câu lạc bộ cũ kỹ ở đó thường được gọi là Southgate, và bởi vì nhớ lại từ hồi còn trẻ con, vào trong đó chơi.

      thiếu chú ý của suýt gây tai nạn. đến được rìa Quảng trường Nafura và hề nghĩ gì cả vẫn đạp dấn về phía trước. Tại đó chiếc limousin to tướng ra từ bên trái , nó đúng đường quy định, nhưng có cả hai đoàn hộ tống xe máy. trong số họ quặt rất gấp để tránh chiếc fellagha dở hơi với cái giỏ đựng rau quả gắn vào phía sau, bánh trước của chiếc mô tô đè lên chiếc xe đạp hơn và đẩy nó bật xuống đường.

      Martin ngã nhoài cùng chiếc xe đạp của mình, nằm đường, rau dưa tung toé cả. Chiếc limousin phanh lại, dừng, và ngoặt trước khi phóng . Quỳ đầu gối, Martin nhìn lên khi chiếc xe ngang. Khuôn mặt người ở ghế sau nhìn chằm chằm ra khỏi cửa sổ vào kẻ dám làm chậm rãi mình khoảnh khắc.

      Đó là khuôn mặt lạnh lẽo trong bộ quân phục của trung tướng, gày gò và đầy nét Arập, những đường nhăn dọc theo các chiều mũi để tạo nên cái miệng nghiệt ngã. Trong nửa giây, điều Martin chú ý nhất là đôi mắt. phải mắt lạnh lùng cũng phải giận giữ, phải đỏ long lên hay thậm chí cũng ác độc. Đôi mắt trắng dã, trắng khủng khiếp và trắng hoàn toàn, đôi mắt của chết. Rồi khuôn mặt sau cửa sổ qua.

      cần những tiếng thầm của hai người lao động nhấc đứng lên và giúp nhặt rau quả của mình. nhìn thấy khuôn mặt đó trước rồi, nhưng mờ tối, ràng được chụp ở căn cứ, trong bức ảnh cái bàn tại Riyadh nhiều tuần trước. vừa nhìn thấy khuôn mặt đáng sợ nhất của Iraq sau Rais, có thể kể cả Rais luôn. Đó là người có tên Al Mu'azib, tức Đồ tể, kẻ tra khảo, chỉ huy AMAM, Omar Khatib.

      Terry Martin cố gọi số máy có được trong giờ ăn trưa. có trả lời, chỉ có giọng mềm oặt trong máy ghi với : "Số điện thoại quý khách vừa gọi liên lạc được hoặc ở ngoài vùng phủ sóng. Xin gọi lại sau".

      Paul Maslowski chở Martin ăn trưa với các đồng nghiệp của ông ở trường đại học. Cuộc tranh luận rất sôi nổi và đầy chất học thuật. Trong bữa ăn Martin cảm ơn những người chủ nhà lần nữa mời và nhắc lại đánh giá cao nhiệt tình của họ tài trợ tài chính cho chuyến này. lại cố thử gọi lần nữa sau bữa trưa khi dường về Barrows Hall, hướng về giám đốc Kathlene Keller của Khoa Cận Đông, nhưng lại lần nữa có trả lời.

      Bài giảng rất tốt. Có 27 sinh viên cao học, tất cả đều làm tiến sĩ, và Martin rất ấn tượng về trình độ và độ sâu sắc hiểu biết của họ về các tác phẩm viết về chủ đề Caliphate lãnh đạo Lưỡng Hà trung tâm trong đó người châu Âu gọi là thời Trung Cổ. Khi trong số các sinh viên đứng dậy cảm ơn đến để với họ và tất cả những người còn lại vỗ tay, Martin đỏ mặt và lắp bắp lời cảm ơn của mình đến họ. Tiếp sau đó, đến điểm gọi điện thoại phải trả tiền tường trong hành lang. Lần này có câu trả lời, và giọng cộc cằn

      - Vâng.

      - Xin thứ lỗi, có phải tiến sĩ Lomax ?

      - Chỉ có người thôi mà, bạn. Tôi đây.

      - Tôi biết điều này có vẻ ngu ngốc, nhưng tôi từ đến, tôi muốn gặp ông. Tên tôi là Terry Martin.

      - Nước à? Xa xôi nhỉ. Thế muốn gì ở thằng già như tôi nào, ông Martin?

      - Muốn cầu tới trí nhớ bền bỉ. Cho ông xem thứ này. Mọi người ở Livermore ông làm ở đó lâu hơn tất cả họ, dã từng nhìn thấy mọi thứ. Tôi muốn cho ông xem thứ này. Rất khó để giải thích trong điện thoại. Tôi có thể lên gặp ông ?

      - phải phiếu thu thuế đấy chứ?

      - .

      - Thế tập playboy chăng?

      - Chắc chắn là rồi.

      - Thế làm tôi tò mò rồi đấy. biết đường chưa?

      - Chưa. Tôi có giấy bút đây. Chỉ cho tôi nào.

      Bố Lomax cho cách lên được nơi ông sống. Mất khá thời gian. Martin viết tất cả ra.

      - Sáng mai nhé, nhà vật lý về hưu . Giờ quá muộn xe ô tô đấy lạc đường trong bóng tối mất. Và cần phải có bản đô

      trong số hai chiếc E-8A J-STAR ở vùng Vịnh bắt được tín hiệu sáng đó, 27 tháng Giêng. Những chiếc J-STAR vẫn còn là những chiếc bay có kinh nghiệm và bay với các kỹ thuật viên dân khi chúng bị lao xuống trong sớm tháng Giêng từ căn cứ của mình ở nhà máy Grumman Melbourne ở Florida nửa đường thế giới sang A rập. Sáng đó, trong hai chiếc bay căn cứ quân Riyadh cao biên giới Iraq, vẫn còn ở trong lãnh thổ Saudi, nhìn bằng chiếc rađa Norden xuống và sang bên hơn trăm dặm vào trong sa mạc phía tây của Iraq.

      lắm, nhưng nó chỉ ra được kim loại, di chuyển chậm chạp, rất xa trong nước Iraq, đoàn xe dài hơn hai, có thể là ba xe tải. Vẫn thế, chính là cái mà chiếc J-STAR có ở đó, cho nên người chỉ huy nhiệm vụ với trong những chiếc AWAC bay vòng vòng ở đầu phía bắc biển Đỏ, cho các AWAC vị trí chính xác của đoàn xe của Iraq.

      Bên trong AWAC người chỉ huy nhiệm vụ ngồi đúng chỗ và nhìn nhanh tìm nhân tố bay nào đó có thể tiện để cho đoàn xe đòn choáng váng. Tất cả các đơn vị sa mạc phía tây đều hướng đến việc tìm các tên lửa Scud vào lúc đó, ngoài chú ý được đưa ra cho hai căn cứ quân khổng lồ của Iraq gọi là H2 và H3 được định vị trong những sa mạc đó. Chiếc J-STAR nhẽ ra gọi máy phóng Scud di động, ngay cả dù điều đó có thể là bất thường giữa thanh thiên bạch nhật như thế này.

      AWACS cuối cùng cũng tìm ra toán hai chiếc Eagle chiến đấu F-15E từ đường Scud Bắc đến phía nam này.

      Don Walker lái về phía nam ở độ cao 20 nghìn fít sau công vụ đến vùng ngoại ô Al Quam, nơi và người bay cùng, Randy Roberts, vừa tiêu diệt xong căn cứ tên lửa hỗn hợp bảo vệ cho trong số những nhà máy sản xuất khí được đánh dấu làm mục tiêu cho lần huỷ diệt sau đó.

      Walker cầm máy và kiểm tra nhiên liệu. xuống thấp rồi. Tệ hơn nữa, với những quả bom có laser hướng lối thả. những phần dưới máy bay chỉ còn lại hai Sidewinder và hai Sparrow.

      Nhưng đó là các tên lửa đối trong trường hợp rơi đúng vào các máy bay tiêm kích Iraq. Ở nơi nào đó phía nam biên giới chiếc máy bay tiếp nhiên liệu của kiên nhẫn chờ đợi, và có thể cần từng giọt để có thể về được tới Al Kharz. Nhưng đoàn xe chỉ là 50 dặm cách đó. Ngay cả nếu có gì, cũng chẳng hại gì nếu đến đấy xem sao.

      Người cùng bay với nghe được tất cả, và hai chiếc Eagle lăn vào trong cái đường hầm bên phải mình. Từ độ cao 8000 fít, có thể nhìn thấy nguồn của tiếng động ra màn hình chiếc J-STAR. Đó phải là máy phóng Scud, mà là hai xe tải và hai BRDM-2, những xe có gắn vũ khí do Liên Xô làm lăn bánh, nhưng phải xe tải.

      Từ chỗ của mình, có thể nhìn thấy nhiều hơn rất nhiều là chiếc J-STAR. Ở dưới trong wadi sâu ở dưới chiếc Land Rover chỏng chơ. Từ độ cao 5000 fít, có thể nhìn thấy 4 người SAS của đứng quanh chiếc xe, những con kiến bé trong bộ quần áo màu nâu của sa mạc.

      Điều họ trông thấy là bốn chiếc xe của Iraq tạo thành gọng kìm xung quanh, cũng thể thấy những tên lính Iraq tràn xuống từ các thùng xe của hai xe tải để bao vây lấy cái hố.

      Don Walker gặp người của SAS Ở Oman. biết họ hoạt động trong các sa mạc phía tây chống các máy phóng Scud; và nhiều người trong đội bay của từng có liên lạc radio với những cái giọng nghe rất kỳ đó từ mặt đất khi các SAS hướng đến mục tiêu họ thể đến dược.

      Cách 3000 fít, có thể thấy bốn người nhìn lên vẻ tò mò. Thế là khi còn cách nửa dặm, là lính Iraq. Walker nhấn nút truyền tin của mình.

      - Phía dưới, bắn lũ xe tải .

      - Được rồi.

      chẳng còn bom hay hoả tiễn, còn ở bên cánh phải, ngay bên ngoài khí, là chiếc M-61 nòng Vulcan 20 ly, 6 barrel xoay có khả năng phóng ra tổng cộng 450 viên đạn cùng với tốc độ rất ấn tượng. Viên đạn cỡ nòng 20 ly là cỡ của quả chuối nổ khi có tác động. Đối với những người ở trong xe tải hay chạy bên ngoài, chúng có thể phá hỏng bất kỳ cái gì.

      Walker nhấn vào các nút Aim và Arm, và màn hình Head Up của - HUD - cho thấy hai chiếc xe hơi chạy thẳng qua màn hình của , rồi cái chạy vụt qua, mà vị trí rơi đúng vào tầm.

      Chiếc BRMD đầu tiên dính trăm viên đạn thần công và thổi tung . Hơi phổng mũi, lại hướng nòng về Plexiglas của HUD vào cần của chiếc xe thử hai. nhìn kim chỉ nhiên liệu xuống. Rồi đứng lên và bắn, trườn ra và lăn cho đến khi sa mạc màu nâu ra dưới . Giữ cho nó chạy tiếp, Walker lại cho chiếc Eagle nhào xuống lần nữa. Chân trời màu xanh và nâu lại trở lại vị trí quen thuộc, cùng với sa mạc màu nâu ở đáy và trời xanh ở cùng.

      Cả hai BRDM đều bùng cháy, xe tăng lật ra, chiếc còn lại khựng lại. Những khuôn mặt xíu kinh hoàng chạy ra nấp vào các tảng đá.

      Bên trong wadi bốn người của SAS bắt được thông báo. Họ chạy ra ngoài, nhào xuống dòng suối cạn và chạy khỏi điểm bị phục kích. Họ biết điều xảy ra, nhưng họ biết người vừa cứu sống họ.

      Những chiếc Eagle bay , đảo cánh, và trườn về phía biên giới nơi có chiếc tiếp nhiên liệu chờ.

      NCO chỉ huy SAS là trung sĩ tên là Peter Stephenson. ta giơ tay lên chỉ vào những chiếc máy bay chiến đấu vừa bay .

      - biết bạn là ai, nhưng tôi nợ đấy.

      Và điều đó xảy ra, bà Maslowski có chiếc Jeep của Suzuki chạy được, và dù bà chưa từng bao giờ lái xe bốn bánh, bà nhấn mạnh với Terry Martin là hãy mượn nó. Chuyến bay của đến London phải đến năm giờ chiều, và hoãn vì biết phải mất bao nhiêu thời giờ. với bà định quay lại khoảng hai giờ là muộn nhất.

      Tiến sĩ Maslowski phải quay về văn phòng của mình nhưng ông kịp tặng cho Martin bản đồ để thể bị lạc được.

      Con đường đến thung lũng sông Mocho khiến phải ngược đường về Livermore, nơi tìm thấy con đường Mines chạy qua Tesla. Từng dặm , những ngôi nhà cuối cùng của ngoại ô Livermore xa, và đường bắt đầu cao lên. may mắn về mặt thời tiết. Mùa đông ở vùng đó chưa bao giờ lạnh, nhưng do gần biển nên có nhiều mây dày và những chỗ ngoặt gấp với sương mù. Ngày 27 tháng Giêng đó bầu trời xanh và trong sáng, khí yên lành và lạnh

    6. ^^! Nếu bạn không gửi link bài viết trên Facebook được, hãy sử dụng link trong khung này để chia sẻ bài viết :