Những bí ẩn của sa mạc - Frederik Forsythe [Bí ẩn]

Thảo luận trong 'Các Thể Loại Khác (Kinh Dị, Trinh Thám..)'

  • ^^! Nếu bạn không gửi link bài viết trên Facebook được, hãy sử dụng link trong khung này để chia sẻ bài viết :
    1. Nữ Lâm

      Nữ Lâm Well-Known Member

      Bài viết:
      23,871
      Được thích:
      22,185
      CHƯƠNG 11


      Phải mất chặng bộ khá dài vào lúc sáng sớm từ trạm xe buýt phía bắc thành phố đến ngôi nhà của Bí thư thứ nhất Liên Xô ở quận Mansour, nhưng Martin thích điều này.
      Thử nhất, phải hai chiếc xe buýt khác nhau, trong vòng 12 tiếng đồng hồ, tới 240 dặm từ Al-Rutba đến thủ đô và phải những chiếc ghế bành hảo hạng. lý do nữa, cuộc bộ cho cơ hội lần nữa có lại được cảm giác về thành phố nhìn thấy kể từ khi rời khỏi chuyến máy bay London khi còn là cậu bé học trò 13 tuổi đầu óc luôn sôi sùng sục, và là hai mươi tư năm trôi qua rồi.

      Rất nhiều thay đổi. Thành phố nhớ từng là thành phố rất Arập, hơn nhiều, quây lấy xung quanh các quận trung tâm Shaikh Omar và Saadun ở bờ Tây Bắc của sông Tigris ở Risafa, và quận Aalam qua con sông ở Karch. Trong cái thành phố bên trong này nơi phần lớn cuộc sống diễn ra; ở đó là những phố chật hẹp, lối , chợ, nhà thờ hồi giáo, và những ngôi nhà chiếm lĩnh đường chân trời để nhớ đến những người phục vụ cho thánh Allah.

      Hai mươi năm thu nhập từ dầu hoả mang đến những đường cao tốc phân luồng qua những gian trước đây rộng mở với những cầu quay. cầu vượt, và những chỗ giao nhau lớn. Xe cộ đông đặc. và những toà nhà chọc trời, Mammon vượt đối thủ cũ. Mansour, khi đến nơi của phố Rabia, rất khó nhận biết. nhớ đến những khoảng gian rộng mở xung quanh Câu lạc bộ Mansour nơi cha từng mang cả nhà đến vào các buổi chiều kỳ nghỉ cuối tuần. Mansour ràng vẫn còn là ngoại ô nghèo nàn, nhưng những gian rộng mở được lấp đầy với đường phố và các căn nhà cho những người có khả năng chi trả sống có phong cách.

      chỉ cách vài trăm yard ngôi trường dự bị cũ kỹ của ông Hartley, nơi học những bài học và chơi đùa trong những giờ nghỉ với những người bạn Hassan Rahmani và Abdelkarim Badri, nhưng trong bóng tối nhận ra phố đó.

      chỉ biết công việc Hassan giờ làm, nhưng hai người con trai của bác sĩ Badri chẳng hề nghe thấy gì trong suốt phần tư thế kỷ nay. Liệu đứa , Osman, với năng khiếu toán học của mình, cuối cùng trở thành kỹ sư. tự hỏi. Và còn Abdelkarim, người từng đoạt nhiều giải thưởng đọc thơ - liệu ta có trở thành nhà thơ hay nhà văn ?

      Nếu Martin bộ theo cách của SAS, chỉ bằng gót và đầu ngón chân, vai giữ nguyên để trợ sức cho đôi chân, có thể hết chặng đường chỉ trong nửa thời gian. cũng có thể nhớ là, cũng giống như hai kỹ sư ở Kuwait, mà " có thể ăn mặc kiểu A -rập, nhưng vẫn theo kiểu người ".

      Nhưng đôi giày của buộc dây chặt lắm. Chúng là những chiếc cũ với đế tốt, đồ dưới chân của fellagha nghèo Iraq, cho nên vừa huýt sáo vừa gù gù , đầu cúi gằm.

      Ở Riyadh họ cho xem bản đồ mới cập nhật của thành phố Baghdad, và nhiều bức ảnh chụp từ độ cao nhưng khá là đẹp phóng to, người ta có thể nhìn vào những khu vườn sau những bức tường, có thể dựa vào những bể bơi và xe ôtô để biết về phong lưu và quyền lực.

      Tất cả những cái đó ghi nhớ. rẽ trái vào đường Jordan và vừa qua quảng trường Yarmuk sang phải đến đại lộ đầy cây nơi nhà ngoại giao Liên Xô sống.
      Trong những năm 1960, dưới Kassem và những vị tướng tiếp theo ông ta, Liên Xô có được vị thế được ưu đãi và đầy uy tín tại Baghdad, thu phục được chủ nghĩa dân tộc Arập bởi vì nó được coi là chống phương Tây, trong khi cố đẩy thế giới Arập sang theo Chủ nghĩa Cộng sản. Trong những năm đó đại sứ quán Liên Xô mua nhiều ngôi nhà rộng rãi ở bên ngoài khu của mình, những ngôi nhà hoàn toàn chỉ cho nhân viên, và như nhân nhượng những ngôi nhà đó và mặt đất của chúng được chuyển sang chế độ lãnh thổ Liên Xô Đó là đặc quyền mà ngay cả Saddam Hussein cũng bao giờ dám bỏ , nhất là vào những năm 1980 khi những đồ tiếp tế chính yếu ở Matxcơva, và 6000 cố vấn quân huấn luyện cho quân và các đội lính thuỷ của ông với trang thiết bị của Nga.

      Martin tìm thấy toà biệt thự và nhận ra nó bởi hàng rào báo hiệu ngôi nhà thuộc về Đại sứ quán Liên Xô. bấm chuông ngoài cổng và đứng chờ.
      Sau nhiều phút cửa mở ra để lộ người Nga đồ sộ, tóc cắt cua trong bộ đồ màu trắng của người quản gia.

      - Da? ta .

      Martin trả lời bằng tiếng Arập, lời của người thuộc cấp với cấp của mình. Người Nga gật đầu. Martin cúi xuống trong chiếc áo dài của mình và trình thẻ căn cước. Điều này có ý nghĩa đối với ông quản gia. Ông ta cầm lấy thẻ, . "Chờ nhé " bằng tiếng Arập, và đóng cửa lại.

      Năm phút sau ông ta quay lại. báo cho người lraq trong chiếc dish-dash nhầu nhĩ qua cửa vào sân trước. Ông ta dẫn Martin tới những bậc thang dẫn tới cửa chính của biệt thự.
      Khi họ đến dưới thềm người xuất cao. .

      - Được rồi để tôi, ta tiếng Nga với người phục vụ. ta nhìn người Arập và vào ngôi nhà.

      Yuri Kulikov, bí thư thứ nhất của Đại sứ quán Liên Xô, là nhà ngoại giao rất chuyên nghiệp, người thấy lệnh từ Matxcơva kỳ quặc nhưng thể thoái thác. ràng ta ăn tối, vì quấn chiếc khăn ta dùng để chùi miệng và xuống các bậc thang.

      - Thế là ông tới rồi đấy, ta bằng tiếng Nga. Giờ nghe nhé, nếu chúng ta phải làm cái trò này, phải làm thôi. Nhưng bản thân tôi làm gì đâu đấy nhé. Panimayesh?
      Martin, nới được tiếng Nga, nhún vai tuyệt vọng và bằng tiếng Arập:

      - Xin ngài, bey?

      Kulikov thay đổi ngôn ngữ rất chóng. Martin nhận ra với mỉa mai tinh tế rằng nhà ngoại giao Liên Xô nghĩ nhân viên mới mời mà tới là người Nga đồng chí gán cho ta bởi những chuyện gì đó ở Lubianka ở Matxcơva.

      - Ồ tốt lắm, tiếng Arập nếu muốn, ta buồn rầu. ta phải cố công học tiếng Arập. thứ tiếng ta tốt với sắc nặng của Nga. tệ nếu người trước mặt ta là nhân viên của KGB. Thế là ta tiếp tục bằng tiếng Arập.

      - Đây là thẻ của . Còn đây là bức thư tôi được lệnh chuẩn bị cho . Bây giờ, sống trong túp lều ở cuối vườn nhé, hãy lo cho đất đai, và chợ nếu quản gia ra lệnh. Ngoài đó ra, tôi muốn biết gì. Nếu bị tóm, tôi biết gì ngoài việc tôi nhận cách vui lòng. Giờ làm việc của và quẳng những con gà đáng nguyền rủa đó nhé. Tôi nhìn thấy gà qué chạy trong vườn đâu đấy.

      Cũng là may, cay đắng nghĩ khi ta quay trở lại để tiếp tục bữa tối bị bỏ dở. Nếu bị tóm đến chỗ nào đó, AMAM nhanh chóng biết ta là người Nga, và ý tưởng trong số những nhân viên thân cận của bí thư thứ nhất nhỡ đâu lại là tốt để bị chui xuống sông Tigris. Yuri Kulikov thực rất cú Matxcơva.

      Mike Martin tìm thấy chỗ của mình dựa lưng vào bức tường hậu của cái vườn rộng phần tư acre, bungalow buồng có phòng tắm, cái bàn, hai cái ghế. hàng chốt tường, và chỗ tắm kín trong góc. Kiểm tra xa hơn thấy nhà vệ sinh mặt đất gần đó và vòi nước lạnh tường khu vườn. Điều kiện vệ sinh hiển nhiên là khá cơ bản và thức ăn được đưa tới từ cái cửa bếp ở sau ngôi biệt thự. nháy mắt. Ngôi nhà ngoại ô Riyadh có lẽ là xa xôi quá rồi.

      tìm thấy đống nến và số bao diêm. Nhờ ánh sáng lim rim , kéo rèm che cửa sổ và làm việc mặt đất cứng của nền nhà với chiếc dao găm của mình. giờ lao động mệt nhọc đào được bốn hố, và giờ nữa đào thêm được hố để máy phát điện đàm, pin, máy thu, và đĩa vệ tinh.

      hỗn hợp bùn và đất bẩn giữa hố là những dấu hiệu còn lại duy nhất của công việc của . 'Ngay trước nửa đêm, dùng con dao của mình để cậy cái đáy giả của lồng gà và đưa những thứ trong đó vào đúng chỗ, cho nên còn dấu vết gì còn lại của cái hố rộng bốn inch. Trong khi làm việc lũ gà lại sàn nhà, hy vọng tìm kiếm những hạt lúa mì tồn tại nhưng lại tìm được những con sâu.

      Martin ăn nốt những quả ôliu và xúc xích của mình và chia những mẩu còn lại của chiếc bánh pita với những người bạn đồng hành của mình, cùng với cái bát nước lấy từ cái vòi bên ngoài lều.

      Bọn gà quay trở lại lồng, và nếu chúng tìm thấy nhà của mình giờ đây sâu hơn trước bốn inch chúng cũng chẳng phàn nàn tẹo teo nào. Chúng trải qua ngày dài, và chúng muốn ngũ.

      Cuối cùng Martin nhìn qua lượt những cây hoa hồng của Kulikov trước khi thổi tắt nến, cuộn người vào trong chăn và cũng làm giống như bọn gà.

      Đồng hồ tay của đánh thức dậy lúc bốn giờ sáng. Lấy đồ phát sóng từ trong những chiếc túi nhựa ra ghi lời nhắn ngắn cho Riyadh, tua nhanh nó lên hai trăm lần, nối với chiếc máy ghi vào máy phát, và dựng đĩa vệ tinh lên, cái chiếm khá nhiều chỗ trong lều hướng về cửa sổ mở rộng.

      Vào bốn giờ 45 sáng gửi thông tin chiều trong kênh của ngày, rồi tháo rời tất cả và cất chúng xuống dưới sàn nhà.

      Bầu trời vẫn còn tối đen khắp Riyadh khi chiếc đĩa tương tự nóc toà nhà SIS bắt được tín hiệu dài có giây và giải mã nó ra trong căn phòng thông tin. Thời gian chuyển tin "cửa sổ" là từ bốn giờ rưỡi đến năm giờ sáng, và cái đồng hồ nghe báo.

      Hai cái băng quay bắt dược tin từ Baghdad, và ánh sáng báo hiệu loé lên để báo cho các kỹ thuật viên. Họ tua chậm thông tin hai trăm lần cho đến khi thanh trong tai nghe trở nên ràng. người ghi lại bằng tay, gõ nó vào máy tính, và ra khỏi phòng.
      Julien Gray, chỉ huy trạm, được lay dậy vào lúc 5 giờ 15.
      - Râu Đen đấy. ta ở trong rồi.

      Gray đọc bức tin với xáo động tăng cao và đánh thức Simon Paxman dậy. Chỉ huy bàn Iraq giờ đây trong nhiệm vụ mở rộng ở Riyadh, nhiệm vụ của ta ở London được thuộc cấp của ta đảm nhiệm. ta ngồi dậy, tỉnh táo, và đọc nó.

      - Mẹ nó chứ, cho đến giờ tốt quá.

      - Vấn đề có thể nảy sinh, Gray , khi ta thử đánh động Jericho.

      Đó là suy nghĩ u tối. Tài sản trước đây của Mossad ở Baghdad tắt lịm trong tròn ba tháng trời. Ông ta có thể khai hết ra hoặc bị bắt, hoặc chỉ đơn giản là thay đổi suy nghĩ. Ông ta có thể biến, đặc biệt nếu như ông ta ở vào trong số những người chỉ huy các đội quân ở Kuwait.

      - Điều gì cũng có thể xảy ra. Paxman đứng lên.

      - Tốt hơn là báo cho London. Có uống cà phê ?

      - Tôi bảo Mohammed mang đến cả đây, Gray .

      Mike Martin tưới những luống hoa vào năm giờ rưỡi, khi ngôi nhà bắt đầu dậy. Người đầu bếp, phụ nữ Nga kín tiếng, nhìn thấy từ cửa sổ của bà và, khi nước nóng, gọi qua cửa sổ bếp.

      - Kak mazyvaetes? Bà ta hỏi, rồi nghĩ lúc và bằng tiếng Arập: Tên là gì?

      - Mahmoud, Martin .

      - Được có cà phê đây này, Mahmoud.

      Martin gật đầu nhiều lần tỏ ý đồng ý, lẩm bẩm "sukran" và cầm lấy chén nước bằng hai tay. đùa; đó là thứ cà phê ngon và là đồ uống nóng đầu tiên của ở bên kia biên giới của Xêut.

      Bữa sáng vào lúc bảy giờ, bát đậu và bánh pita, mà ăn rất ngon lành. Có vẻ như là người quản gia gặp tối qua và vợ ông ta, người đầu bếp, chăm sóc bí thư thứ nhất Kulikov, người có vẻ như có vợ. Khoảng tám giờ, Martin gặp người tài xế, người lraq bập bẹ tiếng Nga và có thể là người phiên dịch hữu hiệu những thông điệp đơn giản đến nhưng người Nga.

      Martin quyết định quá thân với người tài xế, người có thể là người của Cảnh sát mật AMAM gài vào, hay thậm chí là người của cơ quan phản gián của Rahmani. Việc đó có vẻ như chẳng vấn đề gì hết cả; điệp viên hay , người tài xế cũng là kẻ hãnh tiến và đối xử với người làm vườn mới với vẻ khinh khỉnh. ta, tuy nhiên, cũng đồng ý giải thích với người đầu bếp là Martin phải khỏi lúc vì ông chủ của họ lệnh cho rũ bỏ khỏi lũ gà.

      ra phố, Martin hướng về trạm xe buýt, giải phóng hai con gà ra cái đường có khoảng sân rộng đường. Cũng như nhiều thành phố Arập, bến xe buýt ở Baghdad chỉ đơn giản là nơi để lên các xe cộ rời các tỉnh. Đó còn là nơi nhung nhúc người của giai cấp lao động nơi người ta có đủ thứ để mua và bán. Chạy dọc theo bức tường phía nam là cái chợ trời rất hữu dụng. Chính ở nơi đó mà Martin, sau khi lựa chọn chán chê, mua chiếc xe đạp củ rích có thể được lắc lư nhưng có thể sửa lại khi tra thêm dầu vào.

      biết thể lại bằng ôtô, và thậm chí chiếc xe máy cũng là quá đáng với người làm vườn tầm thường. nhớ đến người làm cũ cho cha mình cong lưng đạp xe qua thành phố từ chợ này đến chợ khác, mua thực phẩm hàng ngày và qua đó có thể thấy cái xe đạp vẫn còn là cách thức thông thường hoàn hảo cho nhưng người lao động để lại.
      công việc với cái dao găm lên cái lồng gà, biến nó thành cái lồng xe vuông có nắp ở , mà có thể đảm bảo chỗ đằng sau xe với hai cái dây, trước đây là dây bảo hiểm ôtô mà mua được từ gara ôtô phố sau.

      đạp xe quay trở về trung tâm thành phố và mua bốn cây phấn viết màu sắc khác nhau từ trạm bán ở đường Shurja, ngay bên kia Nhà thờ Thiên chúa giáo thánh Joseph, nơi những người Công giáo Chalde gặp nhau để cẩu nguyện.

      nhớ lại khu vực của tuổi thơ mình, Agid al Nasara, hay Khu vực Công giáo, và Shurja và những phố Bờ sông vẫn còn đầy những chiếc ôtô đậu trái phép và những người ngoại quốc đổ vào mua rau cỏ và những thứ hương liệu.

      Khi còn là cậu bé, chỉ có ba cái cầu bắc qua sông Tigris: cầu Đường sắt ở phía bắc, cầu Mới ở giữa, và cầu Vua Faisal ở phía nam. Giờ có chín cái. Bốn ngày sau cuộc kích lại đến, có thể chẳng còn cái nào, vì cái nào cũng là mục tiêu của Hố Đen ở Riyadh. Nhưng vào tuần đầu tiên của tháng Mười , cuộc sống của thành phố vẫn nhộn nhịp ngừng qua lại chúng.

      Điều khác mà nhận ra là có mặt khắp mọi nơi của Cảnh sát mật AMAM, mặc dù phần lớn trong họ tỏ vẻ gì là mật cả. Họ nhìn ngó các góc phố và từ những chiếc xe đỗ. Hai lần nhìn thấy những người nước ngoài bị chặn lại và đòi trình thẻ căn cước, và hai lần nhìn thấy chuyện đó xảy đến với người Iraq. Cách đối xử với người nước ngoài là tức bực dồn nén, nhưng còn với người Iraq đúng là đe doạ ra mặt.

      bề mặt cuộc sống thành phố vẫn tiếp tục, và người dân Baghdad vẫn còn rất vui vẻ như cũ, nhưng biết là dưới vẻ ngoài đó, dòng sông hoảng loạn do bạo chúa áp đặt trong toà cung điện khổng lồ ngay bên bờ sông gần cầu Tammuz là rất mạnh và sâu sắc.
      Sáng đó đảo cái chợ nơi người Baghdad vẫn đến mua thực phẩm. ở chợ hoa quả và rau Kasra, ở bên kia qua sông ngôi nhà mới của , mặc cả giá về loại quả tươi với người bán hàng già cả. Nếu những người Nga vẫn tiếp tục cho ăn đậu và bánh, ít nhất có thể hỗ trợ cho cái thực đơn nghèo nàn đó bằng số hoa quả.

      Gần đó, bốn người của AMAM khám xét chàng trẻ tuổi rất gắt gao trước khi để ta . Người bán hoa quả già lắc đầu và phủi bụi, suýt làm vỡ những quả trứng của mình.

      - ngày nào đó Beni Naja trở lại và đánh bật lũ bẩn thỉu này , ông ta lẩm bẩm.

      - Cần thận nào, sao lại những lời ngu ngốc thế. Martin thào, chọn mấy quả lê chín. Người đàn ông nhìn chằm chằm vào .

      - từ đâu đến, người em?

      - Từ xa lắm. làng ở phía bắc, Baji ấy.

      - Thế quay về nhà , nếu coi trọng lời khuyên người già. Tôi nhìn thấy nhiều rồi. Bem Naji quay trở lại từ trời, áy dà, và Beni el Kalb.

      Ông ta lại phủi tay, và lần này những vỏ trứng được may mắn như lần trước nữa. Martin trả tiền những gì mình chọn, lê và chanh, và đạp xe . về đến nhà của bí thư thứ nhất Liên Xô vào buổi trưa. Kulikov đến Đại sứ quán từ lâu và lái xe với ta, thế là dù Martin có bị người đầu bếp đối xử tệ, bằng tiếng Nga, cũng chỉ nhún vai và ra vườn.

      Nhưng bối rối về điều mà người bán rau già . số người, có vẻ thế, có thể nhìn thấy trước xâm chiếm của họ và chống lại. Câu "Đuổi lũ bẩn thỉu này " chỉ có thể dẫn đến Cảnh sát mật, và do đó nhất là Saddam Hussein.

      các đường phố Baghdad, người được gọi là Beni Naji. Chính xác hài cốt Naji tan theo thởi gian, nhưng người ta vẫn tin ông là người thông thái và đáng tôn kính. Cảc sĩ quan trẻ người đóng ở phần đó của vương quốc thường đến thăm ông, ngồi dưới chân ông và nghe những lời thông thái của ông. Ông đối xử với họ như con trai của mình. ngay cả khi họ là người Công giáo và do đó dù phản bội. người ta vẫn gọi họ là "Các con trai của Naji".

      Người Mỹ được gọi là Beni el Kalb. Kalb trong tiếng Arập là con chó, và con chó, phải là tạo vật được đánh giá cao trong văn hoá Arập.

      Gideon Barzilai ít nhất cũng có thể rút được vài điều có ích từ báo cáo về Ngân hàng Winkler do viên sayan chuyển về ngân hàng của đại sứ quán cung cấp. Nó cho ông ta thấy được hướng cần theo.

      Ưu tiên số của ông là nhận diện đâu trong ba phó chủ tịch, Kessler, Gemuetlich, hay Blei, là người quản lý tài khoản thuộc về người Iraq bí mật Jericho.

      Con đường nhanh nhất có thể là cú điện thoại, nhưng xem theo báo cáo, Barzilai chắc chắn ai trong số họ chấp nhận nó bất cứ điều gì qua đường dây điện thoại bình thường.

      Ông chuyển lời cầu của mình được mã hoá cao độ từ trạm Mossad đặt ngầm dưới đất dưới Đại sứ quán tại Vienna và nhận được trả lời từ Tel Aviv nhanh hết mức có thể lo được.

      Đó là bức thư, đươc làm giả từ trong những ngân hàng lâu đời và uy tín bậc nhất, Coutts of The Strand, London, ngân hàng riêng của Nữ hoàng tôn kính. Chữ ký là bản làm giả hoàn hảo chữ viết tay của nhân viên cao cấp của Coutts, tại chi nhánh nước ngoài.

      có tên người nhận, phong bì của thư chỉ bắt đầu đơn giản bằng lời chào "Ngài kính mến."
      Văn bản của bức thư đơn giản và thẳng vào vấn đề. khách hàng quan trong của Coutts có thể sắp tới thực chuyển khoản lớn vào tài sản được đánh số của Ngân hàng Winkler - và nêu số ra. Khách hàng của Coutts được báo là họ phải dính vào những lý do kỹ thuật và thể tránh khỏi, đó có thể là bị hoãn nhiều ngày để chuyển số tiền. Liệu khách hàng của Winkler có thể cầu đến đúng lúc, Coutts có thể vô cùng biết ơn nếu ông Winkler có thể báo cho họ khách hàng của họ rằng cuộc chuyển khoản được thực và có thể đến do chậm trễ mà họ muốn. Cuối cùng: Coutts rất coi trọng hiểu biết của đến an toàn của chuyến hàng của mình.

      Barzilai tính rằng vì các ngân hàng thích viễn cảnh tiền sắp được chuyển đến, chí ít là Winkler, nên cái ngân hàng cũ kỹ bảo thủ ở Ballgasse cho các chủ nhà băng của Hoàng gia Windsor dễ mến của lời phúc đáp - bằng thư. Ông nghĩ đúng.
      Phong bì của Coutts từ Tel Aviv đến được trạm và được đóng dấu bằng tem , có vẻ như được gửi di từ bưu điện Quảng trường Trafalgar hai hôm trước. Nó được ghi địa chỉ đơn giản đến "Giám đốc, các tài khoản khách hàng nước ngoài, Ngân hàng Winkler" . Dĩ nhiên có chức vụ đó ở Winkler kể từ khi công việc được chia cho ba người phó.

      Phong bì được gửi , vào lúc đêm sắp hết, bằng cách tuồn vào hòm thư của ngân hàng ở Vienna. Đội giám sát yarid theo dõi ngân hàng tuần nay, nhận ra và chụp ảnh lại những thói quen hàng ngày, những giờ mở và đóng, đến của thư từ, của các thông tin tại đó. định vị của người nhận sau bàn của ta ở hành lang tầng dưới, và vị trí của gác cửa ở cái bàn đối diện với ta.

      Ngân hàng Winkler toà nhà mới. Ballgasse – và cả khu Franziskanerplatz - nằm ở khu quận cũ ngay ở Singerstrasse. Toà nhà của ngân hàng chắc từng là nơi cư trú cửa gia đình thương gia giàu có của Vienna, chắc chắn và thịnh vượng, được đóng sau cánh cửa gỗ nặng nề có những ô canh.

      Để đánh giá từ cách bài trí của ngôi nhà tương tự quảng trường mà đội yarid giả làm khách hàng của viên kế toán trong đó để do thám; toà nhà chỉ có năm tầng, mỗi tầng sáu phòng. Theo như quan sát của họ, đội yarid nhận ra rằng mỗi tối có chuyến đưa thư từ ra, ngay trước giờ đóng cửa, đến hòm thư ở quảng trường. Đó là thói quen do nhân viên hay viên gác cửa thực , rồi sau đó quay về toà nhà để giữ cánh cửa mở trong khi nhân viên ra. Cuối cùng ta để lại cho người gác đêm trước khi về nhà. Người gác đêm đóng cửa vào, đóng kín cánh cửa gỗ.

      Trước khi cái bì thư từ Coutts London được đưa vào cho cánh cửa ngân hàng, chỉ huy đội neviot về kỹ thuật kiểm tra hòm thư Franziskanerplatz và khịt mũi vì kinh tởm. Hiếm khi có đối đầu như thế. người trong đội của chuyên gia phá khoá mở và đóng lại hòm thư trong vòng ba phút. ta làm được chìa khoá chuẩn. Sau khi chỉnh lại chút, nó hoạt động tốt như chìa khoá của người đưa thư.

      Theo dõi thêm cho thấy rằng người gác ngân hàng thường xuyên ra lấy thư của ngân hàng khoảng 12, 13 phút sau chuyến đưa thư 6 giờ sáng thường lệ từ hòm thư bởi xe chở thư của bưu điện.

      Ngày mà thư của Coutts đến vào trong hòm thư, đội yarid và người thợ khoá neviot làm việc cùng nhau. Khi người gác ngân hàng quay trở lại ngân hàng theo lối sau khi nhét thư vào hòm, người phá khoá mở hòm thư ra, 24 lá thư ra từ Ngân hàng Winkler nằm ở cùng. Mất 30 giây để nhận ra có cái chuyển đến ông Coutts ở London, để lại những cái còn lại, và khoá hòm thư lại.

      Cả năm người của nhóm yarid đứng trong quảng trường đề phòng ai đó định can thiệp "người đưa thư" , có mặc đồng phục, được mua vội tại cửa hàng đồ cũ, mang cái mác giả của những bộ đồng phục của những người đưa thư của Vienna.

    2. Nữ Lâm

      Nữ Lâm Well-Known Member

      Bài viết:
      23,871
      Được thích:
      22,185
      Nhưng những công dân tốt của Vienna quen với những điệp viên của Trung Đông đến phá vỡ cái hòm thư. Chỉ có hai người quảng trường vào lúc đó, và chẳng ai buồn để ý đến người xuất như là nhân viên bưu điện làm công việc hợp pháp của mình. 20 phút sau, người lấy thư đến làm việc của mình, nhưng khi đó những người kia dã và thay vào đó là những người mới.

      Barzilai mở bức trả lời của Winkler cho Coutts và nhận ra rằng đó là thư ngắn nhưng lịch biết ơn, được viết bằng thứ tiếng dễ hiểu, và ký tên Wolfgang Gemuetlich. Vị chỉ huy của đội Mossad giờ đây biết chính xác người nào quản lý tài khoản của Jericho. Việc còn lại là bắt chợt hoặc xâm nhập ông ta.

      Barzilai hề biết là những vấn đề của ông mới chỉ bắt đầu.

      khá lâu sau khi bóng tối buông xuống khi Mike Martin rời khỏi toà nhà ở Mansour. thấy lý do gì để làm phiền những người Nga bởi chuyện ra bằng cổng chính; có cái cổng hậu hơn nhiều ở tường sau, với cái khoá hỏng mà có chìa khoá. xe đạp ra đến ngõ, khoá cổng lại, và bắt đầu đạp xe .

      biết có thể đây đêm dài. Nhà ngoại giao người Chile tên Moncada miêu tả rất chính xác cho các nhân viên Mossad chỉ huy khi đặt ba cái hòm thư chết dành cho những tin tức từ đến Jericho và nơi viết những phấn đánh dấu để báo hiệu cho tay Jericho vô hình rằng thông điệp đợi ông ta. Martin cảm thấy mình có lựa chọn nào khác ngoài việc sử dụng cả ba cái đó cùng lúc, với cùng thông điệp để lại ở mỗi chỗ.

      viết những thông điệp đó bằng tiếng Arập tờ giấy viết thư mỏng và gập mỗi cái lại thành gói vuông. Ba cái túi được nhét sâu trong túi . Những cục phấn viết nằm ở trong túi.

      Hộp thư thứ nhất nằm ở nghĩa trang Alwazia, qua sông ở chỗ Risafa. biết chỗ này, nhớ đến lâu lắm từng nghiên cứu những bức ảnh phóng to ở Riyadh. Tìm thấy viên gạch hổng trong bóng tối lại là chuyện khác. Mất mười phút, dò dẫm với đầu ngón tay trong bóng tối của khu nghĩa địa có tường bao bọc, trước khi tìm thấy chỗ.

      Nhưng đó đúng là nơi Moncada . hạ viên gạch xuống, tuồn cái gói vào trong đó, và đặt viên gạch trở lại chỗ cũ.

      Hòm thư thứ hai là bức tường cũ và tồi tàn khác, lần này gần thành đổ nát ở Asdhamiya, nơi cái hố sâu là tất cả những gì còn lại của ngày xưa. xa toà thành là khu tôn giáo Aladham, và giữa chúng là bức tường, cũng cũ và tồi tệ như chính ngôi thành. Martin tìm thấy bức tường và cái cây duy nhất mọc dựa vào đó. với tay ra sau cái cây và đếm mười lần gạch từ nóc xuống. Viên gạch thứ mười lung lay như răng bà lão. Chiếc phong bì thứ hai được nhét vào trong đó, và viên gạch cũng về chỗ cũ. Martin kiểm tra để chắc chắn ai nhìn thấy, nhưng thực hoàn toàn đơn độc; ai đến cái nơi hoang vắng này sau khi trời tối cả.

      Cái thứ ba và cũng là hòm thư cuối cùng nằm ở nghĩa địa khác, nhưng lần này là nghĩa trang của người , bị bỏ hoang ở Waziraya. gần Đại sứ quán Thổ Nhĩ Kỳ. Cũng như ở Kuwait, đó là ngôi mộ, nhưng cái gì ở bên trong tấm bia đá; mà bên trong cái bình đá trét xi măng, ở cuối của cái lỗ bị bỏ từ lâu ngày.

      - Đừng để ý nhé. Martin lẩm bẩm với ngươi chiến binh chết từ lâu lắm của vương quốc bên dưới. Chỉ chút thôi, ổn thôi mà.

      Vì Moncada ở toà nhà Liên Hợp Quốc, xa hơn nhiều dặm về đường sân bay Matar Sadam, ta khôn ngoan để những dấu phấn gần với những con đường gian rộng rãi ở Mansour, nơi chúng có thể dễ dàng nhìn thấy từ xe ôtô.

      Quy tắc là bất kỳ ai - Moncada hay Jericho - nhìn thấy dấu phấn, ta có thể nhận ra nó muốn đến hòm thư nào. rồi đến đó với bộ quần áo sẩm màu. Người đánh dấu, qua ngày hoặc hơn, có thể nhìn thấy nó biến và biết được rằng thông tin của mình được nhận và (có thể đoán) rằng hòm thư đó và cái bưu kiện được an toàn.

      Theo cách đó cả hai điệp viên liên lạc với nhau trong suốt hai năm mà hề gặp nhau.

      Martin, giống với Moncada, có ôtô, nên phải đạp xe suốt chặng hành trình. Dấu hiệu đầu tiên của , chữ thập theo hình chữ X, được viết với phấn xanh lên tảng đá ở tường của toà nhà bỏ hoang.

      Dấu thứ hai được viết bằng phấn trắng, cánh cửa nẹp sắt màu đỏ sẫm của gara ôtô ở cuối ngôi nhà ở Yarmuk. Nó mang hình dấu thập Lorraine. Cái thứ ba bằng phấn đỏ - hình lưỡi liềm Hồi giáo với thành ngang qua giữa - được viết lên tường của khu nhà của Liên đoàn Nhà báo Arập, ở lề của quận Mutanabi. Các nhà báo Iraq được khuyến khích để trở thành những người thực tìm kiếm tin tức, và dấu phấn tường của họ có thể hiếm khi tạo ra chú ý.

      Martin thể biết liệu Jericho, mặc dù có lời báo trước của Moncada là ta có thể trở lại, vân tiếp tục kiểm tra trong thành phố, từ cửa xe của mình nhìn ra bên ngoài để xem có các dấu hiệu được viết các bức tường . Tất cả những gì Martin biết được bây giờ là ngày nào cũng kiểm tra và chờ đợi.

      Vào ngày thứ bảy của tháng Mười nhận thấy dấu phấn màu trắng còn. Liệu có phải người chủ của gara xoá dấu phấn cửa để làm sạch tấm kim loại đó? Martin vòng vòng. Phấn xanh cổng toà nhà vẫn còn; phấn đỏ tường của các nhà báo cũng vậy.

      Đêm đó, kiểm tra ba hòm thư chết được dành cho các thông tin từ Jericho đến người điều hành ông ta.

      cái ở đằng sau viên gạch rỗng ở sau bức tường đóng vào khu chợ rau quả Kasra cuối phố Saadun. mảnh giấy vỏ hành. Hòm thư thứ hai, dưới hòn đá rỗng của ngôi nhà đổ nát ở cái ngõ trong đó nhiều con phố ngoằn nghoèo tạo thành soukh bờ bắc con sông gần cầu Shuhada, cũng cho cùng kết quả. Cái thứ ba và cũng là cuối cùng, dưới cán cờ rỗng của cái sân bị bỏ quên cuối phố Abu Nawas, có chứa phần tư tờ giấy mỏng. Martin giấu nó dưới áo và đạp về nhà ở Mansour.

      Nhờ ánh sáng của cây nến mờ tỏ, đọc được chúng. Thông tin giống nhau: Jericho vẫn còn sống và vẫn ổn. Ông ta sẳn sàng tiếp tục làm việc cho phương Tây, và ông ta hiểu rằng người và người Mỹ bây giờ là những người cần thông tin của ông. Nhưng những đe doạ tăng lên thể tưởng tượng, và do đó ông ta muốn được trả cao. Ông ta chờ đồng ý về điều đó và chỉ dẫn xem họ cần gì.

      Martin đốt cả ba bức thông tin và vứt giấy vào trong lò. biết câu trả lời cho cả hai câu hỏi. Langley chuẩn bị tỏ ra rộng rãi, thực rộng rãi, nếu sản phẩm tốt. Cũng như thông tin cần thiết, Martin ghi nhớ danh sách những câu hỏi liên quan đến trạng thái tinh thần Saddam, khái niệm về chiến dịch của ông ta. và những địa điểm trung tâm chỉ huy chính và những điểm sản xuất vũ khí.

      Ngay trước bình minh, cho Riyadh biết rằng Jericho quay trở lại cuộc chơi.
      Người mà họ gọi là "kẻ chỉ điểm" bay tới Vienna từ Tel Aviv qua London và Frankfurt, có ai đón, và chiếc ta xi từ sân bay Schwechat đến khách sạn Hilton, nơi ta đặt chỗ trước.

      Kẻ chỉ điểm rất ngộ nghĩnh và vui vẻ, giấy tờ là luật gia Mỹ đến từ New York. Tiếng giọng Mỹ của ta trơn tru - nghi ngờ gì nữa. quả là ta sống nhiều năm ở Mỹ - và tiếng Đức cũng khá.

      Vài giờ sau khi tới Vienna, ta sử dụng các dịch vụ thư ký của khách sạn Hilton để thảo bức thư lịch thiệp giấy viết thư in sẵn của hãng luật của mình đến ông Wolfgang Gemuetlich, phó chủ tịch Ngân hàng Winkler.

      Trạm cẩn thận kiểm tra bằng điện thoại, ràng ta là đối tác uy tín của hầu hết cả hãng luật uy tín của New York. mặc dù ta vắng (điều Mossad kiểm tra ở New York) và chắc hẳn cùng là người khách đến Vienna. Bức thư vừa tán dương vừa tự miêu tả, như cần phải thế. Người viết đại diện khách hàng rất giàu có và vững vàng muốn có những chỗ cất giấu tốt cho tài sản của ông ở châu Âu.

      Người khách hàng tự nhấn mạnh, ràng sau khi nghe lời khuyên từ người bạn, rằng Ngân hàng Winkler đáng đồng tiền bát gạo, và nhất là ngài Gemutlich kính mến. Người viết nhẽ ra hẹn gặp từ trước, nhưng cả khách hàng của ta cũng như hãng luật đặt lên rất cao tầm quan trọng phải tuyệt đối kín đáo, tránh các đường điện thoại mở và fax để tránh giao thiệp về công việc của khách hàng, cho nên người viết chọn cách sang thăm châu Âu và tự mình đến Vienna.

      Chương trình của ta chỉ cho phép ta ở lại Vienna có ba ngày, nhưng nếu ngài Gemuetlich có thể tốt bụng cho cuộc gặp, ta - người Mỹ, có thể rất vui mừng được đến ngân hàng.

      Bức thư được chuyển bởi chính tay người Mỹ qua hòm thư của ngân hàng trong đêm, và trưa hôm sau người đưa tin của ngân hàng đưa câu trả lời tại Sheraton, rằng ngài Gemuetlich rất vui sướng được gặp luật gia người Mỹ vào mười giờ buổi sáng ngày hôm sau đó.

      Từ lúc đó trở kẻ chỉ điểm bắt đầu hoạt động, mắt ta bỏ sót bất kỳ thứ gì. ta ghi chép, nhưng chi tiết nào thoát được khỏi và gì bị quên hết cả. Người tiếp tân kiểm tra giấy tờ của ta, gọi điện lên tầng để đảm bảo ta được hẹn, và người lục đưa ta lên - suốt con đường dẫn đến cánh cửa gỗ khắc kỷ, và ta gõ cửa. gì thoát khỏi con mắt nhìn của ta.

      Theo lời gọi "Vào ", người lục mở cửa và đẩy người Mỹ vào, kéo ra và đóng cửa lại sau ta trước khi quay trở lại bàn làm việc của mình đặt ở hành lang.

      ông Wolfgang Gemuetlich nhổm lên khỏi bàn, bắt tay, mời khách đến ngồi ở cái ghế bành đối diện với ông ta, và trở lại chỗ của mình.

      Từ "gemuetlich" trong tiếng Đức có nghĩa là "dễ chịu", với hàm ý tốt tính. có ai đời có cái tên ngược đời thế Cái ông Gemuetlich này gầy tong teo, ở vào độ tuổi 60, trang phục màu ghi. cà vạt màu ghi, với mái tóc mảnh và khuôn mặt cũng mảnh rất ăn nhập. ông dùng rất nhiều gam màu xám. Chẳng có chút gì hài hước trong đôi mắt xám của ông, và nụ cười đón chào của cặp môi mỏng có ý nghĩa đón chào nào hết cả.

      Văn phòng cũng khắc kỷ như người chủ của nó; những bức tường bê tông màu tối, được treo đầy những thứ của ngân hàng chứ phải tranh, và cái bàn rộng có khảm trai, mà mặt bàn chẳng bóng tẹo nào cả.

      Wolfgang Gemuetlich phải chủ nhà băng để đùa được, ràng là. mọi hình thức vui đùa đều là cái gì đô được con người này ưa chuộng. Ngân hàng là nghề nghiêm túc - hơn thế nữa, đó chính là cuộc sống. Nếu có điều gì đó mà ngài Gemuetlich chán ngán cách nghiêm túc. đó là tiêu tiền. Tiền là để tiết kiệm, mà tốt nhất là dưới hàng rào sắt của Ngân hàng Winkler. vụ rút tiền có thể làm cho ông ta thực cảm thấy rất đau đớn, và vụ chuyển tiền lớn từ tài khoản ở Ngân hàng Winkler đến nơi khác có thể làm ông ta suy sụp suốt cả tuần.

      Kẻ chỉ điểm biết ta ở đó để ghi chép và báo cáo lại. Nhiệm vụ đầu tiên của , giờ đây hoàn thành, là nhận diện Gemuetlich cho đội yarid ở ngoài phố. cũng tìm kiếm mọi thứ an toàn mà các chi tiết hoạt động của tài khoản Jericho có thể chứa đựng, cũng như các khoá an toàn, chốt cửa, hệ thống báo động - tóm lại, ta có mặt ở đó để lo cho vụ đột nhập .

      Tránh các chi tiết về số lượng khách hàng của mình muốn chuyển đến châu Âu nhưng mập mờ về số lượng lớn kinh khủng của nó, người đến tiếp tục cuộc trò chuyện bằng cách cầu hỏi về mức độ an toàn và kín đáo mà Ngân hàng Winkler có thể bảo đảm. Ngài Gemuetlich rất sung sướng được giải thích rằng các tài khoản có đánh số với Winkler là thể xâm nhập và kín đáo quên .

      Chỉ lần trong cuộc chuyện họ bị ngắt đứt. cửa bên mở ra để nhận vào người phụ nữ bé , mang ba bức thư lên để ký. Gemutlich nhăn trán.

      - Ông là chúng rất quan trọng. thưa ngài Gemutlich. Thế mà... người phụ nữ . Liếc nhìn lần thứ hai. ta già như vẻ ngoài - có thể là bốn mươi. mái tóc chải hất ra đằng sau, bộ quần áo tối màu, giày đen, và mỏng gợi lên điều gì.

      - Ja, ia, ja... Gemutlich , và đưa tay ra nhận thư.

      Entschuldigung..., ông ta với người khách. Ông ta và người khách dùng tiếng Đức, sau khi nhận ra rằng Gemuetlich chỉ có thể được thứ tiếng ngập ngừng. Người khách, tuy nhiên, đứng bật dậy và nhăn nhó với người mới vào.

      - Gruss Gott Fraulein..., ta . ta có vẻ sửng sốt.

      Khách của Gemuetlich thường đứng lên với thư ký. Tuy nhiên, cử chỉ buộc Gemuetlich phải vuốt họng thầm:

      - À phải, đây là Hardenberg, thư ký riêng của tôi.

      Kẻ chỉ điểm ghi nhớ điều đó, khi ta ngồi xuống.

      Rồi ta rút lui, được đảm bảo rằng khách hàng ở New York của ta có được tài khoản tốt nhất của Ngân hàng Winkler, mức phí như nhau cho mỗi lần chuyển tiền vào. Người lục được gọi lên từ sảnh chính và xuất ở cửa. Người khách từ biệt và theo người đó ra.

      Cùng với ta, đến thang máy , gắn sắt để xuống. Kẻ chỉ điểm hỏi liệu ta có thể vào toilet trước khi . Người nhân viên nhăn trán như thể những vận hành cơ thể như thế được dự tính trước trong Ngân hàng Winkler, nhưng ta cũng dừng thang máy lại ở tầng đệm.

      Gần các cánh cửa thang máy, ghi nhận cánh cửa gỗ hông ghi biển hiệu, và vào đó. ràng nó được dành cho các nhân viên nam của ngân hàng, căn phòng ống , bồn rửa tay và ống, và bồn vệ sinh. Người khách vặn vòi nước để tạo tiếng động và kiểm tra nhanh căn phòng. cửa sổ có chấn song được đóng kín: chạy ngang qua những chấn song, hệ thống báo động - có thể vô hiệu hoá, nhưng dễ. Thông gió bằng quạt tự động Bồn vệ sinh chứa bàn chải, thuốc đánh răng, thuốc bôi, và máy sấy. Thế phải có đội ngũ nhân viên vệ sinh. Nhưng họ làm việc ở đâu? Đêm hay cuối tuần?

      Theo kinh nghiệm của mình ta đoán ngay cả người dọn dẹp cũng chỉ làm việc trong các văn phòng tư dưới giám sát. là, người lục hay người gác đêm có thể dễ dàng loại bỏ, nhưng đó phải là điểm quan trọng. Lệnh của Kobi Dror rất chính xác: được bỏ qua bất kỳ đầu mối nào hết.

      Khi ra khỏi phòng, người nhân viên vẫn ở bên ngoài. Nhìn thấy những bậc thang đá dẫn đến hành lang khác, kẻ chỉ điểm mỉm cười, vờ dợm bước về phía đó, và dọc theo hành lang hơn là thang máy chặng đường gần như thế.

      Người nhân viên sau , kèm ta đến cầu thang. và đẩy ra khỏi cửa. Kẻ chỉ điểm nghe thấy tiếng cửa đóng lại rất to của hệ thống tự đóng sau lưng mình. Nếu người lục ở tầng , ta nghĩ. làm thế nào người nữ tiếp tân có thể tiếp nhận khách hàng hay người đưa tin?

      ta mất hai giờ báo cáo lại cho Gidi Barzilai về những hoạt động bên trong ngân hàng, cho đến giờ ta có thể quan sát họ, và báo cáo u ám. Đội trưởng đội neviot ngồi xuống, ôm lấy đầu .

      Họ có thể đột nhập, ông . khó gì. tìm hệ thống báo động và vô hiệu hoá nó. Nhưng để rời để lại dấu vết gì - điều đó khó lắm. Có người gác đêm có khả năng lại bên trong đó. Và rồi, họ tìm gì đây? két an toàn? ở đâu? Và thế nào? Chìa khoá hay vòng quay hay cả hai? Nó có thể đòi hỏi hàng giờ. Và họ liệu có thể làm im mồm người gác đêm . Điều này để lại dấu vết. Nhưng Dror cấm tiệt điều đó.

      Kẻ chỉ điểm bay khỏi Vienna và trở về Tel Aviv ngày hôm sau. Chiều đó, từ loạt những bức ảnh, ta nhận ra Wolfgang Gemuetlich và, với kích thước tốt. Hardenberg. Khi ta , Barzilai và chỉ huy đội neviot lại họp nhau lần nữa.

      - thẳng ra, tôi cần nhiều thông tin về bên trong hơn. Gidi ạ. Còn quá nhiều thứ mà tôi còn chưa biết. Những giấy tờ mà ông cần - ông ta phải giữ ở trong két an toàn. Ớ đâu mới được chứ? két sàn nhà? Hay trong văn phòng người thư ký? Trong ngăn đặc biệt ở hầm? Chúng ta cần có thông tin bên trong về điều này.

      Barzilai nhăn nhó. Trước đây, khi được huấn luyện, trong số các thầy dạy của ông với các ông: có điều gì mà người ta thể tìm ra điểm yếu. Tìm ra điểm đó, khủng bố tinh thần, và ta hợp tác. Sáng hôm sau cả đội yarid và neviot bắt đầu giám sát chặt chẽ Wolfgang Gemutlich. Nhưng người Vienna cứng rắn này cho thấy là ông thầy sai.

      Steve Laing và Chíp Barber có vấn đề chính. Khoảng giữa tháng Mười , Jericho đến cùng với câu trả lời đầu tiên cho những câu hỏi được đưa đến cho ông ta qua hòm thư chết ớ Baghdad. Giá của ông ta cao, nhưng Chính phủ Mỹ chuyển tiền đến tài khoản Vienna mà ậm ừ gì hết. Nếu thông tin của Jericho là chính xác - và lý do gì để nghi ngờ ngược lại - vô cùng hữu ích. Ông ta trả lời tất cả các câu hỏi, nhưng trả lời số và trả lời phần những câu khác.

      Về nguyên tắc, ông ta định danh khá ràng mười bảy địa điểm có dính đến việc sản xuất các vũ khí. Tám trong số đó Liên quân ngờ đến: trong số đó, ông ta sửa lại hai cái. Chín cái còn lại là thông tin mới, chủ chốt trong số đó là điểm chính xác của phòng thí nghiệm được chôn sâu trong đó có tầng máy ly tâm sản xuất khí cho việc chuẩn bị quả bom nguyên tử uranium-235.

      Vấn đề là: làm thế nào để cho bên quân , mà để lộ rằng Langley và Nhà Thế kỷ có vật chìm nằm trong Baghdad?

      phải các ông trùm tin bên quân . Ngược lại là khác, họ là những sĩ quan cao cấp chỉ vì lý do đó. Nhưng trong thế giới bảo mật nguyên tắc lâu đời được kiểm chứng nhiều lần gọi là "cần biết". người biết điều gì đó để lộ nó, dù là chỉ vô tình. Nếu những người vận đồ dân chỉ đơn giản tạo ra danh sách những mục tiêu nóng hổi đâu đó, bao nhiêu tướng tá vứt dâu?

      Trong tuần thứ ha của tháng, Barber và Laing có cuộc gặp riêng ở căn cứ của Bộ Quốc phòng Xêut, với tướng Buster Glosson, đại diện cho tướng Chuck Horner, người chỉ huy quân mặt trận vùng Vịnh.

      Dù ông ta nhất định phải có tên riêng, nhưng bao giờ có ai đến tướng Glosson ngoài cái tên "Buster" , và chính ông là người lên kế hoạch và vẫn tiếp tục lên kế hoạch cho cuộc tấn công quân toàn diện tối hậu vào Iraq mà ai cũng biết là để chuẩn bị trước cho đổ bộ.

      London và Washington từ lâu cạnh tranh quan điểm rằng, kể Kuwait, cỗ máy chiến tranh của Saddam Hussein chỉ đơn giản cần bị phá huỷ, và rằng rất nhiều bao gồm các khả năng sản xuất khí, vi trùng, và bom hạt nhân. Trước khi Lá chắn Sa mạc cuối cùng phá huỷ được mọi cơ may của cuộc tấn công vào Arập Xêut, các kế hoạch cho cuộc chiến tranh cuối cùng được lên, dưới mật hiệu tên là Sấm chớp Bất chợt. Kiến trúc sư của cuộc chiến tranh là Buster Glosson.

      Ngày 16 tháng Mười , Liên Hợp Quốc và nhiều Bộ trưởng ngoại giao toàn thế giới ngồi với nhau để bàn việc lập ra "kế hoạch hoà bình" để chấm dứt cuộc khủng hoảng mà phải bắn giết, thả bom, hay phóng rocket. Ba người đàn ông trong căn phòng dưới hàm ngầm ngày hôm đó hiểu rằng cái kế hoạch như thế bao giờ có thể có được Barber rất ngắn gọn vào vấn đề: "Như ông cũng biết đấy, Buster, chúng ta và người cố định vị các phương tiện WMD của Saddam hàng tháng nay rồi." Vị tướng quân gật đầu đồng ý. Ông có bản đồ dọc theo hành lang với nhiều cây thông hơn cây, và mỗi cái là mục tiêu đánh bom. Thế bây giờ phải làm gì?

      Thế là chúng ta bắt đầu với các giấy phép nhập khẩu và theo dấu các nước xuất khẩu, rồi các công ty tại các nước đó thực các hợp đồng. Rồi các nhà khoa học nghiên cứu bên trong những dụng cụ đó, nhưng nhiều trong số đó chẳng lên điều gì, và biết được ở đâu cả.

      - Cuối cùng, Buster, chúng tôi kiểm tra những người xây dựng, những người thực xây lên phần lớn các điểm sản xuất khí của Saddam. Và số trong đó lộ ra. là bẩn thỉu kinh khủng.

      Barber đưa danh sách các mục tiêu cho vị tướng. Glossonchăm chú nghiên cứu. Chúng được định vị bản đồ chiến thuật. như các điểm đánh bom cần thế, nhưng các miêu tả là đủ để nhận ra chúng từ các bức ảnh chụp từ có trong tay.

      Glosson nhăn mặt. ông biết số trong danh sách là những mục tiêu được nhắm tới; những cái khác, với những dấu hỏi, giờ cần dược khẳng định lại: những cái khác là mới, ông hướng mắt lên.

      - Đúng thế này à?

      - Đúng. người . chúng tôi tin rằng những người xây dựng là nguồn tốt, có thể là tốt nhất: bởi vì họ biết được nơi họ làm việc khi họ xây dựng các địa điểm đó, và họ riêng biệt, do đó nhiều hơn các viên chức.

      Glosson nhổm lên.

      - OK. Các ông còn có gì khác cho tôi nữa ?

      - Chúng tôi tìm kiếm tiếp ở châu Âu. Buster, Barber . Chúng tôi có mục tiêu đúng nào mới, chúng tôi chuyển ngay cho bên ông. Họ chôn rất nhiều thứ, ông cũng biết đấy. Sâu dưới sa mạc. Chúng ta về các dự án xây dựng chính đấy.

      - Các ông với tôi nơi họ đặt chúng, và chúng tôi thổi bay chúng , vị tướng .

      Sau đó, Glosson cầm bản danh sách đến Chuck Horner. Vị giám đốc USAF còn lùn hơn Glosson, vẻ ngoài u tối, người đàn ông nghiêm khắc với khuôn mặt đỏ sậm và những khéo léo ngoại giao của con tê giác với sừng. Nhưng ông ta các phi công và nhân viên mặt đất, và họ thành kính đáp lại tình đó.

      Ông có thể chiến đấu với danh nghĩa của họ với các nhà thầu, các viên chức, và các chính trị gia ngay cả ở Nhà Trắng nếu ông nghĩ cần phải thế, và bao giờ hạ thấp giọng điệu của mình. Tất cả những gì bạn thấy và có được.

      thăm các quốc gia vùng Vịnh Bahrain, Abu Dhabi, và Dubai, nơi số phi công của ông đóng, ông tránh các Sheraton và Hilton nơi có tiện nghi xa hoa để cùng cộng khổ với các phi công chiến đấu ở căn cứ và ngủ trong lán . Những người phục vụ và phụ nữ hay che giấu tình cảm của mình; họ nhanh chóng biết họ thích gì và ghét gì. Các phi công USAF có thể lao vào chống lraq vì Chuck Horner.

      Horner nghiên cứu danh sách từ những người tình báo giấu mặt và nhăn mặt. Hai trong số địa điểm bản đồ là sa mạc trống trơn.

      - Họ lấy những thứ này ở đâu? ông hỏi Glosson.

      - Thẩm vấn các đội xây dựng xây chúng, đấy là họ thế, Glosson .

      - Mẹ kiếp, tướng Horner . Những cái của nợ này lại có ai đó ở Baghdad rồi đây. Buster, chúng ta điều này với bất kỳ ai đâu nhé - ai cả. Chỉ cần ra lệnh đánh vào đó thôi. Ông ngừng lại chút để suy nghĩ, rồi thêm: Hãy nghĩ xem thằng cha đó có thể là ai.

      Steve Laing về nhà mình ở London vào ngày 18, London trong làn sương khói phủ cuộc khủng hoảng mà chính phủ bảo thủ như Nghị sĩ đối lập tìm ra những quy tắc của đảng để hất Margaret Thatcher khỏi chức vụ của bà.

      Mặc dù mệt mỏi. Laing vẫn cầm thông tin bàn của mình từ Terry Martin và gọi ở trường. Do Martin rất nhiệt tình, Laing đồng ý gặp để uống cái gì đó sau giờ làm việc hoãn trở về nhà mình ở ngoại ô lại quãng thời gian ngắn nữa.

      Khi họ ngồi ở cái bàn ở góc trong quán bar yên tĩnh ở West End, Martin lấy từ cặp tài liệu của mình máy quay cassette và cái băng. Đưa cho Laing xem, giải thích cầu của mình nhiều tuần trước với Sean Plummer, và cuộc gặp của họ cuối tuần trước.

      - Tôi cho nó chạy nghe nhé? hỏi.

      - Được thôi, nếu bị ai nghe thấy. tôi biết, mẹ kiếp. là thể, Laing . Xem nào, Sean Plummer có những người Arập như là Al-Khouri trong số nhân viên. Nếu họ thể tìm ra...

      Lặng yên. ông lịch lắng nghe.

      - Nghe thấy nó? Martin sôi nổi hỏi? Chữ "k" nghe sau chữ have? Người đó muốn đến giúp đỡ của mình với Iraq. ông ta sử dụng danh xưng. Đó là cái khiến người kia tức giận đến thế. ràng là. ai được sử dụng danh xưng này cách công khai như thế. Nó chỉ gói gọn trong số rất ít người mà thôi.

      - Nhưng ông ta thực gì? Laing chán quá

      Martin nhìn thẳng vào ông ta. Liệu Laing có hiểu được điều gì đó ?

      - Ông ta rằng quân Mỹ đông chẳng thành vấn đề gì cả, bởi vì chúng ta sắp có được Qubth-ut-Allah.

      Laing càng tỏ ra bối rối hơn.

      - vũ khí, Martin thúc đẩy. Nó phải là như thế. cái gì đó sớm có xử lý được người Mỹ.

      Hãy tha lỗi cho tiếng Arập tồi tệ của tôi, nhưng Qubth- ut Allah là gì thế vậy?

      - Ồ, Martin . Nó có nghĩa là Cú đấm của Thượng đế.

      CHƯƠNG 12


      Sau mười năm nắm quyền và thắng trong ba cuộc bầu cử phổ thông, thủ tướng thực đổ vào ngày 20 tháng Mười , dù hai ngày sau bà mới thông báo quyết định từ chức của mình.

      đổ khỏi quyền lực của bà được thúc đẩy bởi quy tắc mờ ám trong nguyên tắc Đảng Bảo thủ đòi tái đắc cử danh nghĩa của bà với chức danh Chủ tịch Đảng vào những thời điểm định kỳ. định kỳ như thế xảy ra vào tháng Mười . tái bầu cử của bà có thể chỉ là thủ tục, cho đến khi cựu bộ trưởng chọn cách ứng cử chống lại bà. lường được mối nguy hiểm, bà coi cuộc cạnh tranh là nghiêm túc, dẫn đến lơ là chiến dịch chạy đua và cuối cùng dự cuộc họp ở Paris đúng ngày diễn ra cuộc bỏ phiếu.

      Sau lưng bà là cả loạt những đòn đánh, những chống đối, và những sợ hãi khủng hoảng khiến bà thậm chí thể dự cuộc bầu cử sắp đến, liên minh thù địch ngăn cản bà với được chức lãnh đạo Đảng ngay từ lần bỏ phiếu đầu tiên. Liệu bà có lùi bước quá , có thể có lần bỏ phiếu thứ hai, và người đối địch có thể biến mất vào trong tối tăm. Trong cuộc bỏ phiếu ngày 20 tháng Mười bà cần có hai phần ba đa số, bà chỉ thiếu có bốn phiếu, buộc phải kéo đến cuộc bỏ phiếu thứ hai.

      Trong vài giờ, cái bắt đầu như vài viên gạch khó chịu rơi xuống đồi thành cuộc lở tuyết. Sau khi tham khảo Nội các của mình, người ta bà giờ đây có thể mất chức, bà bèn từ chức. Người chỉ huy phe đối lập, bộ trưởng Tài chính John Major, xuất và chiến thắng.
      Tin tức làm hoảng sợ những người lính ở vùng Vịnh. Mỹ cũng như . Ở Oman, các phi công máy bay chiến đấu người Mỹ giờ đây ngày ngày làm việc với SAS từ căn cứ kề bên hỏi người điều gì diễn ra và nhận được những cái nhún vai chẳng lên điều gì hết cả.

      Mike Martin nghe tin khi người lái xe Iraq qua và cho . Martin nghe tin, tỏ vẻ chẳng biết gì, hỏi:

      - Bà ấy là ai?

      - Điên à, tay lái xe tức mình. Lãnh đạo của Beni Naji đấy.

      Giờ chúng ta thắng. quay về xe để nghe tin tức từ đài phát thanh Baghdad. lúc sau bí thư thứ nhất Kulikov đứng từ nhà hét gọi và được chở thẳng về sứ quán của mình.

      Đêm đó, Martin gửi tin dài về Riyadh. chứa cả đống những câu trả lời mới nhất của Jericho và câu hỏi thêm vào của chính để nhận được chỉ thị nhiều hơn. Dựa vào cánh cửa của túp lều có thể phát những kẻ đột nhập, vì cái đĩa vệ tinh được đặt ở lối ra hướng về phía nam. Martin đợi trả lời. ánh sáng chậm, run run ở màn hình của máy nhận với vào lúc giờ rưỡi rằng vào buổi sáng có câu trả lời. tháo đĩa, cất nó vào dưới sàn nhà với những cái pin và máy nhận, làm chậm thông điệp, và nghe nó quay lại.

      Đó là danh sách những cầu mới về thông tin từ Jericho và đồng ý cho đòi hỏi mới nhất của điệp viên về- tiền, được chuyển vào tài khoản của ông ta. Trong vòng tháng thành viên Hội đồng Chỉ huy Cách mạng kiếm được hơn triệu đôla.
      Thêm vào danh sách là hai chỉ dẫn cho Martin. Đầu tiên là gửi cho Jericho thông điệp, phải ở dạng câu hỏi, mà là hy vọng ông ta có thể bằng cách nào đó xâm nhập vào suy nghĩ của những người lập kế hoạch ở Baghdad. Đó là tìm hiểu hiệu ứng tin từ London lên Rais.

      Liệu thông tin lệch lạch này có đến được các hội đồng cao nhất của Baghdad , nhưng trong tuần Saddam Hussein dã tuyên bố rằng sụp đổ của Thatcher là do phản đối của người .
      Chỉ dẫn thứ hai trong cuộn băng của Mike Martin đêm đó là hỏi Jerieho xem liệu ông ta từng bao giờ nghe về vũ khí hay hệ thống vũ khí có liên quan đến Cú đấm của Thượng đế chưa.
      Bằng ánh sáng của ngọn nến, Martin dành gần như cả đêm đó để viết các câu hỏi bằng tiếng Arập vào hai tờ giấy viết thư. Trong hai mươi giờ, các giấy được bí mật giấu sau viên gạch rỗng trong tường gần với nhà thờ Imam Aladham ở Aadhamiya.

      Mất tuần để các câu trả lời quay trở lại. Martin đọc bản viết bằng tiếng Arập loằng ngoằng của chữ viết tay của Jericho và dịch mọi thứ sang tiếng . Từ quan điểm người lính, nó rất hấp dẫn. Ba sư đoàn Vệ binh Cộng hoà dàn trước người và người Mỹ dọc theo biên giới, Tawakkulna và Medina, giờ đây có thêm Hammurabi, được trang bị hỗn hợp T-54/55, T-62 và T-72 những loại xe tăng chiến đấu chính, cả ba đều do Nga sản xuất.

      Nhưng trong lần sau, Jericho tiếp tục, tướng Abdullah Kadiri của Đội lính kinh hoàng phát phần lớn các đội bay đổi pháo và sử dụng chúng làm quạt, bếp, đài phát thanh và máy quay cassette. đáng nghi ngờ rằng những đội quân đó có thể chiến đấu được. có nhiều cuộc hành quyết tại chỗ, và hai chỉ huy cao cấp bị cách chức và đuổi về nhà.
      Người em trai cùng cha khác mẹ của Saddam, Al Hassan Majid, giờ là tổng quản Kuwait, báo cáo rằng chiếm đóng bắt đầu trở thành cơn ác mộng, với những cuộc tấn công vào lính Iraq vẫn thể dò ra và những mất mát tăng lên. Quân kháng chiến xuất đầu lộ diện, mặc dù những cuộc tra khảo thảm khốc và nhiều cuộc hành hình bởi đại tá Sabaawi của AMAM và hai lần đến thăm của đích thân ông chủ của nó, Omar Khatib.

      Tệ hơn nữa, quân kháng chiến giờ đây biết bằng cách nào có được chất nổ dẻo tên là Semtex, cái mạnh hơn nhiều so với thuốc nổ công nghiệp.
      Jericho chỉ ra hai địa điểm chỉ huy quân quan trọng nữa, cả hai đều được xây dưng trong các hầm ngầm và từ trung thể nào nhìn thấy được.
      Rồi đến tin rằng những người thân cận với Saddam Hussein thực nghĩ rằng sụp đổ của Margaret Thatcher có phần ảnh hưởng của ông ta. Ông ta hai lần đưa ra lời từ chối thẳng thừng của mình để xem xét việc rút khỏi Kuwait.

      Cuối cùng, Jericho chưa từng bao giờ nhìn thấy bất cứ gì có mật danh Cú đấm của Thượng đế nhưng có thể từng nghe đến câu đó. Cá nhân, ông ta nghi ngờ có tồn tại thứ vũ khí hay hệ thống vũ khí mà Liên quân còn chưa biết.
      Martin đọc cả bức thông điệp vào băng, quay nhanh nó lên. và chuyển nó . Ớ Riyadh nó được tiếp nhận nhanh chóng Và các kỹ thuật viên phát thanh ghi giờ đến của nó: 23.55 giờ, ngày 30 tháng Mười 1990.
      Leila Al-Hilla từ từ ra khỏi phòng tắm, dừng lại ở cửa với cái đèn sau để giơ tay lên khung cửa ở cả hai bên và nghỉ lúc. Ánh đèn của phòng tắm, chiếu sáng qua tấm kính mờ, cho thấy nếp nhăn và cái dáng đứng gợi tình của ta cách ràng nhất. Cần phải thế, trời tối, rất tối, và đáng giá gia tài , đồ nhập từ Paris mua được từ cửa hiệu ở Beirut.

      Người đàn ông to béo giường hau háu nhìn, thè cả lưỡi ra khỏi làn môi dưới dày, và cười nhăn nhở. Leila thích đằm mình trong phòng tắm trước khi làm tình. Có những chỗ cần được rửa sạch và tẩm thơm, mắt cần được bôi mascara, môi cần được tô đỏ, và nước hoa được sử dụng, những hương vị khác nhau cho những phần khác nhau của cơ thể .
      Đó là cơ thể đẹp chừng ba mươi xuân xanh, những khách hàng tàu nhanh thích: béo, nhưng đầy đặn nơi cần thiết, đẫy đà và ngực to, với gân săn chắc. hạ thấp cánh tay và tiến về cái giường tối om, cởi áo, đôi giày cao gót tăng thêm bốn inch cho chiều cao của ta.

      Nhưng người đàn ông giường, ở tấm lưng trần của ông ta, phủ như con gấu từ cằm đến mắt cá, nhắm mắt lại.
      Đừng có đến ngủ với tao lúc này, đồ ngốc, nghĩ, phải đêm nay khi tôi cần . Leila ngồi lên mép giường và luồn những ngón tay nhuộm đỏ lên đến tóc của ông béo cho đến ngực, cựa vào, rồi cho tay xuống nữa, đến bụng và bụng dưới. nhổm lên và hôn người đàn ông vào môi, lưỡi hé mở. Nhưng môi người đàn ông chỉ ngập ngừng đáp lại , và nhận thấy mùi arak rất nặng.

      Lại nốc đầy rượu rồi. nghĩ - tại sau lão ngố này thể bỏ được nhỉ. Dù sao nó cũng có những lợi thế, chai arak mỗi tối. Ồ tốt thôi, làm việc nào.
      Leila Al-Hilla là kỹ nữ giỏi, và ta biết điều đó. Trình độ cao nhất ở Trung Đông, ai đó , và nhất định là trong những nàng đắt đỏ nhất.
      ta được đào tạo nhiều năm trước, khi còn là đứa bé , trong học viện tư ở Li băng nơi những trò làm tình và những thủ thuật của ouled-nails của Maroc, của những Ấn nautch. và những kỹ nghệ gia tinh tế của Fukutomi-cho được thực hành bởi những khác trong khi những đứa trẻ nhìn và học theo.

      Tài năng của ta là phỉnh nịnh, tâng bốc, tán dương, và dỗ dành, nhưng giỏi nhất là kích thích được nhưng gã mít ướt nhất và khiến đối tượng của mình lúc nào cũng cảm thấy thèm muốn.
      đưa tay xuống bụng dưới và cảm thấy của quý của gã đàn ông. thấy gì. Ngắn mẩu. Tướng Abdullah Kadiri, chỉ huy đội lính của Quân đội Cộng hoà Iraq, đêm nay cần chút kích thích.
      lấy từ gầm giường lên cái túi mềm và đổ chất lỏng bên trong ra mẩu giấy bên cạnh. Bôi thứ chất lỏng nhờn vào tay, thứ chất như kem, luồn cái dương vật giả cỡ trung bình rung rung vào giữa háng ông tướng.

      Tướng Kadiri nhăn mặt, mở mắt, liếc nhìn xuống ả đàn bà nằm bên cạnh của mình, và lại cười nhăn nhở, hàm răng loé lên giữa chòm ria đen dầy.
      Leila bóp chặt máy: và bắt đầu làm đầy phần dưới của vị tướng. nhận ra trong tay mình cơ quan đó bắt đầu nổi lên. ngậm thứ chất dầu mùi vị vào miệng rồi chồm lên ấn của quý của người đàn ông vào mồm mình. Chất dầu mềm mại và cử động nhanh của cái lưỡi thành thục của bắt đầu có hiệu quả. Mười phút sau, cho đến khi đau nhức cả hàm, ta vuốt ve và mút đến lúc cương cứng của vị tướng tốt như chưa bao giờ được như thế.

      Trước khi ông ta mất trạng thái đó, luồn đầu xuống, phủ lên người ông ta, đưa ông ta vào mình, và bắt đầu. từng có trong người những cái to hơn và tốt hơn, nhưng cái này cũng làm việc đấy chứ. Leila chồm lên và cọ ngực mình vào mặt ông ta.

      - A, con gấu đen khỏe mạnh to béo của em, ta rủ rỉ, là tuyệt, như mọi khi vậy.

      Ông ta cười nhìn . bắt đầu nhún, nhanh quá, cho đến khi vào đến nơi, chầm chậm cho đến khi được cả. Khi chuyển động, sử dụng những cơ vận động để nhún lên nhún xuống, nghỉ và lại tiếp.
      biết hiệu ứng của gợi hứng nhân đôi. Tướng Kadiri bắt đầu rên ư ử và sau đó thét lên, những tiếng kêu ngắn ngủn buột ra khỏi mình bởi cảm giác cực khoái nơi vùng người đàn bà nhổm lên nhổm xuống vững vàng với nhịp điệu tăng dần.

      - Phải, phải, ôi phải, sướng quá, làm nữa , em , cọ vào mặt ông ta cho đến khi ông ta ra được. Trong khi ông ta giật lên, Leila bò xuống, quấn quanh người ông ta, liếm láp đống tinh dịch với thích thú, rồi cũng oải ra.

      Khi ông ta ra xong, ông ta đột ngột nảy lên và trong vài giây tháo chiếc dương vật giả, lay lay để ông ta khỏi ngủ mất quá nhanh. cũng muốn ngủ lắm rồi sau công việc nặng nhọc đến vậy. Nhưng vẫn còn có việc cần phải làm.

      - Con gấu tội nghiệp của em, ta lẩm bẩm, có mệt lắm ? làm việc nặng nhọc như thế, người tình tuyệt diệu của em. Họ làm cho mệt quá nhỉ. Hôm nay ra sao hả? Nhiều vấn đề ở Hội đồng lắm hả, và luôn luôn là phải giải quyết chúng à? Mm? cho Leila , biết có thể cho Leila bé mà.

      Thế là trước khi ông ta ngủ, ông ta .
      Sau đó, khi tướng Kadiri ngáy do hiệu ứng của arak và tình dục, Leila rút ra phòng tắm nơi, với cánh cửa khoá và ngồi xuống bồn cầu với cái khay lòng, ta ghi lại bản tiếng Arập ngắn gọn, nghuệch ngoạc.

      Sau đó, vào buổi sáng, những tờ giấy mỏng tang của được giấu kín để tránh bị kiểm tra, có thể đưa nó cho người đàn ông trả tiền cho .
      là nguy hiểm, biết, nhưng ra tiền lắm chứ, gấp đôi thu nhập cho cùng công việc, và ngày nào đó có thể trở nên giàu có - đủ giàu để rời khỏi Iraq mãi mãi và tự lập cho mình lầu xanh, có thể ở Tangier, với đoàn các thiếu nữ trẻ đẹp để ngủ với những ông lớn Marốc khi cảm thấy nhu cầu.

      Nếu Gidi Barzilai bị bất ngờ bởi các hệ thống an toàn của Ngân hàng Winkler, hai tuần theo dấu Wolfgang Gemuetlich khiến ông thất vọng. Người đàn ông đó thể tiếp cận được.
      Theo nhận diện của kẻ chỉ điểm, Gemuetlich nhanh chóng bị theo đến nhà của ông ta ở ngoài công viên Prater. Ngày hôm sau, trong khi ông làm việc, đội yarid theo dõi ngôi nhà cho đến khi bà Gemuetlich chợ. Thành viên nữ của đội theo bà, có liên lạc với các đồng nghiệp của mình bằng máy điện đàm cá nhân để báo động họ khi bà ta về. thực tế vợ của nhân viên ngân hàng vắng đến hai tiếng đồng hồ - nhiều thời gian hơn cần thiết.

      Cuộc đột nhập bởi các chuyên gia neviot vấp phải vấn đề gì, và những máy theo dõi nhanh chóng được đặt tại phòng khách, phòng ngủ, và máy điện thoại. nghiên cứu - nhanh: có nghề, và để lại dấu vết - mang lại được gì cả. Có những giấy tờ thông thường: giấy nhà, hộ chiếu. giấy khai sinh, giấy hôn thú, thậm chí cả loạt giấy tờ ngân hàng.
      Mọi thứ đều được chụp ảnh, nhưng liếc qua ở tài khoản ngân hàng đưa lại bằng chứng nào về gian trá của Ngân hàng Winkler - thậm chí còn có nguy cơ đưa người đàn ông trở thành người hoàn toàn lương thiện.

      Tủ quần áo và những đồ phòng ngủ có gì đáng ngạc nhiên, những quần áo cá nhân - quần áo tầng lớp trung lưu đáng kính - và chỉ huy đội neviot, người trông thấy bà Gemuetlich ra khỏi nhà, bị bất ngờ vì điều này.
      Nếu thư ký riêng của người đàn ông là xíu, vợ ông như là con cua giấy. Người Israel nghĩ ông hiếm khi cảm thấy chán nản như thế này.
      Khi của dội yarid vào máy điện đàm báo động vợ người nhân viên ngân hàng về, các chuyên gia đột nhập neviot kết thúc và ra. Cửa trước được khoá lại bởi người trong đồng phục bưu điện sau khi phần còn lại ra bằng cửa sau và qua vườn.

      Từ đó trở , đội neviot có người đàn ông trong các máy thu trong cái xe to đỗ ngoài phố để nghe những gì diễn ra trong ngôi nhà.
      Hai tuần sau chỉ huy thất vọng với Barzilai rằng các băng của họ chạy hết cả rồi. Tối đầu tiên họ thu được 18 từ Bà ta : "Bữa tối của ông đây, Wolfgang" - có lời đáp lại Bà ta đòi thay rèm cửa mới - từ chối. ông ta "Sáng sớm mai tôi dậy sớm".

      - Đêm quái nào lão ta cũng thế cả, cứ như vẫn thế từ ba mươi năm nay vậy , người của đội neviot phàn nàn.

      - có chuyện tình ái gì à?

      - đùa đấy à, Gidi. Họ thậm chí còn chẳng năng, chỉ có thế thôi.

      Mọi điều có thể khắc hoạ tính cách Gemuetlich đều là con số . đánh bạc, chơi bời, giao tiếp, hộp đêm, tình nhân, vượt đèn đỏ ngoài phố. lần ông ta rời nhà, các thành viên của đội theo dõi lập tức bám theo. Gemuthch trong đồ đen và đội mũ, sau khi trời tối và món súp tối, qua ngoại ô mờ tối cho đến khi tới ngôi nhà cách đó năm khu. ông ta gõ cửa và đợi. Cửa mở ra, ông ta vào, và cửa đóng lại. ngọn đèn tầng dưới bật lên, sau những tấm rèm dày. Trước khi cửa đóng lại, trong số những người theo dõi Israel bắt được cái liếc của người phụ nữ trông mờ tối mặc bộ áo dài bằng vải nỉ.

      tắm chăng? Tắm hơi, xông hơi với hai người chăng?

      kiểm tra vào sáng hôm sau cho thấy người phu nữ vận bộ đồ dài là điều trị viên nhiều tuổi làm việc ngay tại nhà. Wolfgang Gemuetlich bị bệnh gì đó.
      Vào ngày đầu tiên tháng Mười hai, Gidi Barzilai nhận được thư hoả tốc từ Kobi Dror ở Tel Aviv. Đó phải là chiến dịch với thời gian vô tận, ông ta cảnh báo. Liên Hợp Quốc cho Iraq thời hạn đến 16 tháng Giêng để rút khỏi Kuwait. Sau đó, có thể là chiến tranh. Mọi thứ đều có thể xảy ra. Khẩn trương lên .

      - Gidi, chúng ta có thể theo thằng cha này mãi cũng thế thôi, hai chỉ huy đội với người tổng chỉ huy. Chẳng có vết tỳ nào trong cuộc đời của cả. Tôi thể hiểu được thằng cha. gì hết - chẳng làm gì để ta có thể sử dụng được cả.

      Barzilai đứng trước chọn lựa. Họ có thể bắt cóc vợ và doạ người chồng tốt hơn hết là cộng tác với họ nếu ... Vấn đề rắc rối là, có thể chẳng đến dâu. Tệ hơn nữa, ông ta có thể gọi cớm.
      Họ cũng có thể tóm Gemutlich và buộc ông ta. Ờ đây vấn đề lại là người đàn ông có thể quay về ngân hàng để thực chuyển khoản đóng tài khoản của Jericho lại. khi vào trong ngân hàng, lão làm gì có trời biết. Kobi Dror dã , để lỡ và dấu vết.

      - Thế chuyển sang thư ký nhé, Barzilai . Những thư ký tin cậy thường biết đủ moi thứ về ông chủ mình.

      Thế là hai đội chuyển chú ý sang Edith Hardenberg cũng có vẻ ngoài tối tăm như thế.

      Thậm chí họ chỉ mất ít thời gian hơn, chỉ có mười ngày. Họ theo đuôi về nhà, căn hộ trong ngôi nhà cũ ngay ngoài Trautenauplatz xa về quận 19, ngoại ô tây bắc của Grinzing.
      sống mình. tình nhân, bạn trai, thậm chí cả con chó con mèo gì. nghiên cứu giấy tờ riêng của ta cho thấy tài khoản ngân hàng khiêm tốn, bà mẹ nghỉ hưu ở Salzburg. Căn hộ từng được bà mẹ thuê, như trong sổ thuê nhà cho biết, nhưng người con bảy năm trước mới chuyển đến khi bà mẹ lui về sống ở thành phố quê hương Salzburg của mình.

      Edith lái chiếc Seat , mà ta đỗ ở ngoài phố ngoài ngôi nhà, nhưng chủ yếu ta làm bằng phương tiện giao thông công cộng, nghi ngờ gì là do đậu xe khó khăn ở trung tâm thành phố.
      ta được trả lương thấp đến thảm hại - "dã man", người của đội neviot kêu lên khi nhìn thấy con số - và giấy chứng sinh của ta cho thấy ta mới 39 tuổi - "và trông như 50 rồi ấy, người kia nhận xét.
      có ảnh người đàn ông nào trong căn hộ, chỉ có ảnh mẹ ta, trong cuộc nghỉ ở cái hồ nào đó. và cái có vẻ như là người bố quá cố của ta trong bộ đồng phục nhân viên hải quan.

      Nếu có người đàn ông nào đó trong cuộc đời ta. đó chỉ có thể là Mozart.

      - ta mê nhạc opera lắm, và đó là tất cả. Chỉ huy đội neviot báo cáo với Barzilai, sau khi căn hộ được để lại nguyên trạng như họ trông thấy. Có sưu tập lớn đĩa hát - ta chưa có đĩa CD - và toàn là đĩa opera thôi. Có thể là phải tiêu phần lớn tiền dành dụm của ta vào đó. Sách về opera, về các tác giả ca sĩ, và chỉ huy dàn nhạc. Tranh ảnh của lịch diễn mùa đông Nhà hát Vienna, dù ta chẳng bao giờ đủ tiền mua cái vé hết cả.

      - người đàn ông nào trong cuộc đời ta cả ư?

      Barzilai mơ màng.

      - Có lẽ ta mê Pavarotti, nếu ông có thể tóm được ông ta. Ngoài đó ra, quên tất cả .

      Nhưng Barzilai quên nó. Ông nhớ lại trường hợp ở London, lâu rồi. viên chức ở Bộ Quốc phòng, thực là khó nhằn; rồi người Liên Xô đưa vào Nam Tư trẻ xinh đẹp đó... ngay cả thẩm phán cũng phải mê đắm.
      Tối đó Barzilai gửi bức điện mã hoá dài cho Tel Aviv.

      Vào giữa tháng Mười hai, lực lượng Liên quân ở miền Nam biên giới Kuwait trở nên rất lớn, hàng làn sóng người và sắt thép.
      Ba trăm nghìn đàn ông và phụ nữ từ ba mươi nước ở dọc theo sa mạc Xêut từ bờ biển về phía Tây trăm dặm. Tại các cảng của Jubail, Dammam, Bahrain, Doha, Abu Dhabi, và Dubai các chuyến tàu chở hàng từ biển đến ngớt đổ xuống súng ống và xe tăng, dầu và hàng hoá, thực phẩm và đồ ăn, nhu yếu phẩm và đồ đạc. Từ những chuyến hàng về phía tây theo Tapline Road để thiết lập những cơ sở hậu cần rộng lớn mà ngày nào đó cung cấp cho quân đội tiến công.

      phi công Tornado từ Tabuq, bay về phía nam cuộc tấn công vào biên giới Iraq, với những đồng nghiệp của mình ta bay ngay trước mũi đoàn xe tải và sau đó bay ngược đến hết đoàn. Với vận tốc 500 dặm giờ, mất sáu phút ta mới hết đươc đoàn xe 50 dặm.
      Ở Căn cứ Hậu cần Alpha khu nhà có những cái thùng dầu chồng lên nhau, những khay 6 fít vuông, với những đường xe tải ở giữa. Khu này rộng 40 km vuông. Và đó mới chỉ là dầu. Những khu khác ở Log Alpha chứa đạn dược, tên lửa, súng, những cỗ pháo chống tãng, và lựu đạn. Nhưng nơi khác có thực phẩm và nước, máy móc, nòng pháo tàng và những đội người di động.

      Vào thời gian đó các lưc lượng Liên quân được chỉ huy bởi tướng Schwarzkopf đến phần sa mạc nam Kuwait. Điều mà Baghdad biết là trước khi tấn công, vị tướng Mỹ chủ đích gửi nhiều đội dọc theo Wadi và Batin và trăm dặm nữa xa hơn về hướng tây đến sa mạc, để xâm nhập vào Iraq, đẩy về phía bắc và sau đó sang đông dể đánh thọc sườn Đội Vệ binh Cộng hoà và tiêu diệt.
      Ngày 13 tháng Chạp những đội phóng tên lửa, Đội 336 của Chỉ huy chiến thuật quân USAF, rời khỏi căn cứ của mình ở Thumrait ở Oman và chuyển đến Al Kharz ở Arập Xêut. Đó là quyết định được thưc vào ngày đầu tiên của tháng Chạp.

      Al Kharz là sân bay lộ liễu, được xây dựng với những đường băng và lối cho taxi nhưng ngoài ra có gì nữa cả có tháp chỉ huy, có hăng ga, kho tàng, có gì thích hợp với bất kỳ ai

      - chỉ là mảnh trơn trong sa mạc với những chuyến bay cụ thể.

      Nhưng đó là sân bay. Với vẻ ngoài kỳ lạ, chính phủ Xêut ra lệnh xây dựng đủ số căn cứ quân để có được lực lượng quân đạt mức tổng cộng nhiều hơn năm lần - lực Hoàng gia Xêut.
      Sau ngày tháng Chạp các đội xây dựng người Mỹ chuyển vào đó. Chỉ trong 30 ngày thành phố lớn khả năng đón được 5000 người và 500 đội bay chiến đấu được xây dựng xong.
      Chủ chốt trong số những người xây dựng là những kỹ sư giỏi những đội Ngựa Đỏ, được hậu thuẫn bởi 40 máy phát điện khổng lồ từ quân. số thiết bị được chuyển đến bằng đường bộ bằng xe tải, nhưng phần lớn bằng đường . Họ dựng lên những hăng-ga kín, những công trường, kho chứa dầu, các phòng chiến dịch, các tháp chỉ huy, lều chứa, và gara ôtô.

      Cho đội bay và đội dưới đất họ dựng lên những phố lều với đường lớn giữa đó, với phòng tắm, hấp, sảnh lớn, và tháp nước được làm đầy bởi những đoàn xe tải từ nguồn nước gần nhất. Al Kharz nằm 50 dặm về đông nam Riyadh, nơi giờ đây
      chỉ còn cách tầm bắn tối đa 3 dặm của những tên lửa Scud của Iraq. Nó là nơi ở trong ba tháng cho năm đội bay: hai trong số những Con đại bàng F-15E - đội ném tên lửa 336 và những chỉ huy, đội 335 ngoài Seymour Johnson, cũng đến nhập vào đây; và hai đội máy bay chiến đấu Falcon F-16.

      phố đặc biệt dành cho đội ngũ 250 phụ nữ trong đội; nơi này có luật sư, các chỉ huy đội dưới đất, lái xe tải, nhân viên, y tá, và hai sĩ quan tình báo đội. Đội bay cũng bay đến từ Thumrait; đội mặt đất và các nhân viên khác tới máy bay chở hàng. Việc vận chuyển mất hai ngày, và khi họ đến, các kỹ sư vẫn còn làm việc và có thể còn phải tiếp tục cho đến Giáng Sinh.
      Don Walker đầu tiên tới Thumrait. Các điều kiện sống đại và tuyệt, và trong khí thư giãn của Oman, những đồ uống có cồn được cho phép trong căn cứ. Lần đầu tiên, gặp những người của SAS. Những người có căn cứ huấn luyện thường xuyên ở đây, và các "sĩ quan hợp đồng" khác phục vụ các lực lượng Oman của Sultan Qaboos.

      Lái những chiếc Đại bàng trong những phi vụ ở biên giới Iraq là tuyệt.

      Về những người SAS, sau chuyến đến sa mạc với họ trong những chiếc xe , Walker nhận xét với chỉ huy đội vừa được bổ nhiệm, trung tá Steve Turner:

      - Những thằng cha đó đúng là mất trí.

      Al Kharz hoàn toàn khác so với Thumrait. Là nơi có cả hai vùng đất thánh, Mecca và Medina, Arập Xêut buộc phải thắt chặt, cũng như bắt phụ nữ ăn mặc kín đáo, chỉ để lộ bàn tay và chân. Trong công lệnh Số , tướng Schwarzkopf cấm mọi thứ rượu cồn đối với toàn thể Liên quân dưới quyền chỉ huy của ông. Tất cả các đơn vị Mỹ đều bị đặt dưới lệnh đó, và nó được thực nghiêm ngặt ở Al Kharz.

      Tuy nhiên tại cảng Dammam, những người Mỹ đổ bộ sửng sốt trước hàng đống nước gội dầu dành cho lực Hoàng gia quốc. Từng thùng từng thùng được dỡ xuống, được chất lên những chiếc xe tải hay những máy bay chở hàng Hercule C-130, và được mang đến cho các đội RAF. Họ rất bối rối rằng ở trong gian rộng lớn có nước, đội bay lại có thể mất nhiều thời gian thế để gội đầu. Đó là tiếp tục làm họ bối rối cho đến cuối cuộc chiến tranh.

      Ở bên kia bán đảo, căn cứ sa mạc Tabuq, mà các Tornado của chia sẻ với những chiếc Falcon của Mỹ, các phi công USAF còn rối trí hơn nhiều khi thấy người lúc chiều xuống, ngồi gần họ, mở gói nước gội dầu trong cái cốc và uống nó với nước.

    3. Nữ Lâm

      Nữ Lâm Well-Known Member

      Bài viết:
      23,871
      Được thích:
      22,185
      Ờ Al Kharz vấn đề nảy sinh - vì có thứ nước đó Hơn nữa các điều kiện ở đây hà khắc hơn ở Thumrait. Ngoài vị chỉ huy bay, người có riêng túp lều. những người khác từ đại tá trở xuống đều cùng nhau ở hai, bốn.,sáu, tám hay mười hai người cái lều, tuỳ theo cấp bậc.

      Tệ hơn nữa, các nhân viên nữ bị đặt ở ngoài, vấn đề còn khó chịu hơn nhiều do ở chổ những phụ nữ Mỹ, đúng theo văn hoá của mình, khác hẳn với Mutawa của Xêut - cảnh sát tôn giáo - choàng khăn tắm những chiếc bikini sau những hàng rào thấp dựng ngay xung quanh lều của họ.

      Ngoài những bó buộc về quân như thế, hầu như tất cả còn phải nằm những chiếc giường cũi kêu cót két.

      Cũng có tâm trạng mới do lý do khác. Liên Hợp Quốc ban hành hạn cuối vào 15 tháng Giêng cho Saddam Hussein. Baghdad vẫn tiếp tục nghe lời. Lần đầu tiên ràng rằng họ vào cuộc chiến tranh. Các phi vụ tập dượt được thực với khẩn cấp mới.

      nguyên nhân nào đó, ngày 15 tháng Chạp ở Vienna khá là nóng. Mặt trời chiếu sáng, và nhiệt độ tăng. Vào giờ ăn trưa Hardenberg rời khỏi ngân hàng như thường lệ để ăn bữa trưa đạm bạc của mình và quyết định bỏ đồng mua bánh xăng uých và ăn chúng ở Stadtpark cách Ballgasse vài khối nhà.

      Đó là thói quen của trong mùa hè và thậm chí còn vào cả trong mùa thu, và vì vậy thường xuyên mang theo bánh xăng uých. Ngày 15 tháng Chạp đó phải là mùa hè cũng phải mùa thu.

      Tuy nhiên, nhìn bầu trời xanh trong Franziskanerplatz và được bảo vệ bởi chiếc áo khoác của mình, quyết định rằng nếu trời hào phóng tặng, dù chỉ trong ngày, chút của Altweibersommer - mùa hè của các bà già, theo cách của người Vienna - có thể ra ngồi ăn ở công viên.

      lý do đặc biệt khiến cái công viên dọc theo sông Rhine này. đầu là Hubner Kursalon, nhà hàng tường bằng kính giống như giàn nhạc lớn. Tại đó vào bữa trưa giàn nhạc đến chơi những giai điệu của Strauss: người mang đậm chất Vienna nhất trong số các nhạc sĩ.

      đủ tiền để ăn ở đó, những người khác có thể ngồi bên ngoài gần đó và thưởng thức nhạc mất tiền. Hơn thế nữa. Ở trung tâm công viên, được bảo vệ bởi vòm đá của mình, là bức tượng của chính Johann vĩ dại.

      Edith Hardenberg mua bánh xăng uých ở cửa hàng bán đồ ăn gần đó, tìm thấy ghế đá công viên trong ánh mặt trời, và lơ đãng lắng nghe những giai diệu valtz.

      - Entschuldigung.

      nhảy dựng lên, cảm thấy chấn động bởi cái giọng trầm "Xin lỗi".

      Hardenberg hề trông đợi được người nước ngoài hướng tới. liếc nhìn về phía đó.

      ta còn trẻ, tóc đen, với đôi mắt nâu dịu dàng, và giọng của sắc của người nước ngoài. nhìn thẳng ra trước sau khi nhận ra người đàn ông trẻ quyển sách minh hoạ hình vẽ trong tay và chỉ từ trong đó Mặt dù cụp mắt xuống. Quyển sách là chương trình có minh hoạ của "Cây sáo thần".

      - Xin cho hỏi, từ này - phải là tiếng Đức có phải ?

      Ngón tay trỏ của ta chỉ vào từ partitura.

      có thể bỏ nơi đó, và sau đó, tất nhiên. chỉ việc bỏ . bắt đầu gói bánh của mình lại.

      - , ngắn.gọn, đó là tiếng Italia.

      - A. người đàn ông giọng hối lỗi. Tôi học tiếng nhưng tôi cũng hiểu tiếng Italia. Nó có nghĩa là câu chuyện có phải ?

      - , . nó có nghĩa là bản nhạc.

      - Cám ơn . ta với biết ơn trìu mến. là khó để hiểu được những bản opera thành Vienna của các , nhưng tôi rất thích chúng đấy.

      Những ngón tay của chậm lại trong khi gói lại những cái bánh xăng uých và .

      - Nó được phổ nhạc ở Ai Cập, biết đấy, người đàn ông trẻ tuổi giải thích. Ôi là ngớ ngẩn, biết hết về Cây sáo thần còn gì.

      là thế, . Thế là xa quá rồi, tự nhủ. Dù ta là ai nữa, ta cũng là chàng trai dễ mến. Tại sao. họ lại trò chuyện mới được chứ. Ý tưởng mới kỳ quặc sao.

      - Aida cũng thế đấy, nhận xét. quay trở lại nghiên cứu tờ chương trình của mình. Tôi nhạc Verdi, nhưng tôi nghĩ tôi thích Mozart hơn.

      Những chiếc bánh của được gói lại; sẵn sàng để chỉ cần đứng lên và . quay sang nhìn ta, và ta chọn đúng lúc đó để nhìn lên và mỉm cười.

      Đó là nụ cười rất rụt rè. gần như cầu khẩn; đôi mắt nâu sẫm có làn mi mà người mẫu nào cũng sẵn sàng giết người để có được.

      - có so sánh, . Mozart là bậc thầy của tất cả.

      Nụ cười của mở rộng ra. cho thấy hàm răng trắng.

      - Ông từng sống ở đây. Có thể ông từng ngồi ở đây, ngay cái ghế này, và soạn nhạc của mình.

      - Tôi chắc rằng ông ta làm thế đâu, . Hồi đó chưa có cái ghế này đâu.

      đứng lên và quay . Người đàn ông trẻ tuổi cũng đứng lên và cúi chào nhanh kiểu Vienna.

      - Tôi xin lỗi làm phiền , thưa . Nhưng cám ơn giúp đỡ

      ra khỏi công viên: quay trở về bàn của mình để ăn xong bữa trưa. tức giận với chính mình. Trò chuyện với những người đàn ông trẻ tuổi ở công viên - còn gì xảy ra nữa đây? Dù sao, ta chỉ là sinh viên nước ngoài cố học về opera thành Vienna. có nguy hại gì cả, là thế.

      Nhưng đủ là đủ. qua tấm tranh quảng cáo, dĩ nhiên, dàn nhạc Opera Vienna diễn vở Cây sáo thần trong ba ngày. Có thể đó là phần trong kỳ học của chàng trai.

      Mặc dù say mê của mình. Edith Hardenberg chưa từng hao giờ được vào nghe nhạc ở Staatsoper. Dĩ nhiên, vào trong đó khi nó mở cửa ban ngày, nhưng vé xem hoà nhạc nằm ngoài tầm với của . Chúng đắt quá mức. Những vé opera trong mùa được truyền từ thế hệ này sang thế hệ khác. Muốn đặt dài hạn trong mùa phải thực giàu có. Những cái vé khác chỉ có thể mua được nếu có thế lực, mà chẳng hề có. Ngay cả những cái vé thường cũng nằm ngoài khả năng của . thở dài và quay trở lại công việc của mình.

      kết thúc đợt ấm. Những đám mây màu ghi lạnh lẽo quay trở lại. Theo thói quen của bữa trưa đến quán café quen thuộc và ở cái bàn quen thuộc. người rất nguyên tắc, có những thói quen bất di bất dịch.

      Vào ngày thứ ba sau chuyện ở công viên đến bàn của mình vào giờ thường lệ, đúng đến từng phút. và chợt nhận ra cái bên cạnh có người. Có hai quyển sách sinh viên – buồn ngó qua tên - và chai nước uống dở.

      vừa gọi xong món người ngồi bàn quay ra từ nhà vệ sinh nam. Chỉ đến khi ngồi xuống rồi ta mới nhận ra và tỏ ra rất ngạc nhiên.

      - Ôi Gruss Gott - lại gặp nữa rồi. .

      Môi mím lại tức tối. Người phục vụ tới và đặt trước đĩa thức ăn. thể được. Nhưng chàng trai chịu lùi bước.

      - Tôi xem xong tờ chương trình rồi. Tôi nghĩ giờ đây tôi hiểu được toàn bộ rồi.

      gật đầu và bắt đầu cách tinh tế để ăn. "Tốt lắm. Cậu học ở đây à?"

      Chẳng tại sao lại hỏi thế? Cái thứ điên rồ nào chạy vào trong người vậy? Nhưng những cuộc trò chuyện trong hàng ăn luôn có. Thế phải lo gì, hả Edith? ràng đó là cuộc trò chuyện có văn hoá, ngay cả với sinh viên nước ngoài, có hại gì đâu nào? tự hỏi ông Gemuetlich có thể nghĩ gì, ông tức lắm, tất nhiên rồi.
      Đôi mắt sẫm màu của chàng trai ánh lên hạnh phúc.

      - Phải. Tôi học kỹ sư. Ở Đại học kỹ thuật. Khi tôi có bằng, tôi về nhà và giúp xây dựng đất nước tôi. Xin lỗi, tên tôi là Karim.

      - Hardenberg, chậm rãi. Thế từ đâu đến thế, thưa Karim?

      - Tôi từ Jordan đến.

      Ôi chúa nhân từ ơi, người Arập. cũng cho rằng có nhiều người bọn họ ở đại học Kỹ thuật, cách Karntner hai dãy nhà. Phần lớn trong số đó nhìn thấy phố, những người kinh tởm bán thảm và báo tại những quán cà phê vỉa hè và chịu bỏ . Chàng trai gần lại trông đáng kính. Có lẽ ta đến từ nhà khá giả. Nhưng dù sao nữa... người Arập. kết thúc bữa ăn và gọi tính tiền. Thời gian đến để thoát khỏi chàng trai, dù nghĩ rằng lịch đáng ngạc nhiên. Đối với người Arập.

      - Thế, vẻ tiếc nuối, tôi nghĩ tôi có thể .

      Giấy tính tiền của tới. đếm mấy đồng tiền.

      - đâu?

      - Đến rạp opera. Để xem Cây sáo thần. phải mình - tôi chẳng điên đến thế. Nhiều người lắm. biết đâu cả biết vỗ tay thế nào.

      mỉm cười vẻ khoan dung.

      - Ôi tôi nghĩ đến đấy đâu, chàng trai trẻ ạ, bởi vì có vé.

      có vẻ bối rối.

      - Ôi , phải thế đâu.

      với tay vào túi áo và đặt hai vé lên mặt bàn. Bàn của . Ngay cạnh giấy tính tiền. Hàng thứ hai từ dàn nhạc. Cách các ca sĩ có mấy fít. Ngồi giữa.

      - Tôi có người bạn ở Liên Hợp Quốc. Họ có vé mà, biết đấy. Nhưng ta muốn xem, thế là cho tôi.

      Cho. bán, mà là cho. Ngoại hạng, và người ta cho

      - Liệu , chàng trai hỏi giọng cầu khẩn, có thể cùng ? Xin mà.

      ta dịu dàng, như thể có thể mang ta vậy.

      nghĩ đến chuyện được ngồi trong cái thiên đường lớn lao, có vòm. lung linh, diệu kỳ đó, tâm trí nhảy dựng lên với sắc của những giọng trầm, giọng trung, giọng cao, và giọng buồn trong trần nhà phía .

      - Chắc là được rồi, .

      - Ôi tôi xin lỗi, thưa . Tôi xúc phạm đến .

      ta chìa tay ra và cầm lấy hai cái vé, mỗi tay cầm nửa và chuẩn bị xé chúng.

      - Đừng. Tay hạ xuống ngay trước khi xé những tấm vé vô giá thành đôi. được làm thế.

      đỏ hồng cả má lên.

      - Nhưng chúng chẳng có ích gì với tôi cả.

      - Thế . tôi đề nghị...

      Khuôn mặt căng lên.

      - Thế chỉ cho tôi Nhà hát Opera chứ?

      Chỉ cho ta rạp Opera. Chắc chắn việc đó lại là khác. phải là cuộc hẹn hò. phải cái loại hẹn hò mà người ta... chấp nhận các cuộc hẹn. Giống tua du lịch hơn, là thế. lịch thiệp thành Vienna, chỉ cho sinh viên từ nước ngoài đến với những băn khoăn về thủ đô nước Áo.
      có gì nguy hại trong đó hết cả...

      Họ gặp nhau bậc tam cấp lúc bảy giờ năm mươi. lái xe đến từ Grinzing và đỗ xe gặp trở ngại nào. Họ hài lòng gặp nhau.

      Nếu Edith Hardenberg xoay xoả với hai mươi mùa hè tình , rơi vào thiên đường, đó là cái đêm vào năm 1990 đó khi ngồi cách sân khấu có vài fít và tự cho phép mình đắm vào nhạc. Nếu chưa từng bao giờ có cảm giác say rượu, tối đó tự cho phép mình có chút ít trong cơn thác những giọng ca trầm bổng.

      Vào nửa đầu cuộc diễn, khi Papageno hát và biểu diễn trước , cảm thấy bàn tay mạnh mẽ đặt lên tay . Bản năng khiến rút phắt tay mình lại. Vào nửa cuối. khi chuyện đó lại diễn ra lần nữa, làm gì hết cả và cảm thấy, với nhạc, ấm nóng tăng lên trong bầu máu khác.

      Khi buổi diễn kết thúc, vẫn còn ngất ngây. Mặc dù vậy nhẽ ra nên cho phép đưa bộ qua quảng trường đến ngôi nhà cũ của Freud, quán cà phê Landlmann, giờ đây được dựng lại cho vinh quang năm 1890 của ông. Chính người hầu bàn siêu hạng Robert chỉ bàn cho họ, và họ ăn bữa tối muộn.

      Sau đó, về xe của mình. bình tâm lại. nguôi

      - Tôi rất thích nếu có thể chỉ cho tôi thành Vienna , Karim trầm giọng . Thành Vienna của , thành Vienna của những bảo tàng và những buổi hoà nhạc. Tôi bao giờ hiểu được văn hoá nước áo, nếu chỉ cho tôi.

      - gì thế, Karim?

      Họ đứng cạnh chiếc xe. , nhất định để dẫn mình đến nhà ta, dù ở đâu chăng nữa, và nhất quyết mời ta về nhà .

      - Tôi rất thích được gặp nữa.

      - Tại sao?

      Nếu ta mình đẹp, mình đánh ta, nghĩ.

      - Vì dễ mến quá, .

      đỏ hồng má trong bóng tối. lời nào nữa mà chỉ cúi về phía trước và hôn vào má . Rồi . chạy qua quảng trường. lái xe về nhà mình.

      Tối đó. những giấc mơ của Edith Hardenberg lộn xộn.
      mơ về trước đó lâu. mơ thấy Horst, người qua mùa hè năm 1970 khi mười chín tuổi và còn trinh trắng. Horst, người khêu gợi và làm . Horst, người vào mùa đông lời để lại hay giải thích hay chỉ là lời từ biệt.

      Đầu tiên nghĩ ta gặp tai nạn. và gọi đến các bệnh viện. Rồi nghĩ rằng công việc bán hàng lưu động của ta gọi ta ra ta gọi lại cho .

      Sau đó, được biết ta cưới ở Graz, người ta khi đến đó.
      kêu khóc cho đến mùa xuân. Rồi mang mọi thứ kỷ niệm về ta, mọi dấu hiệu về hữu của ta ở đó. và đốt . đốt các món quà và ảnh họ chụp khi họ mặt đất và khi lái tàu những cái hồ Schlosspark ở Laxemburg, và phần lớn trong đó đốt bức ảnh cái cây dưới đó lần đầu tiên, và làm cho thuộc về ta.

      có người đàn ông nào nữa cả. Họ chỉ bội bạc con và bỏ rơi con, mẹ thế, và mẹ đúng: thể bao giờ có người đàn ông nào nữa hết, bao giờ, thề.

      Đêm đó, tuần trước lễ Giáng Sinh, những giấc mơ tan biến trước bình minh, và ngủ với tờ chương trình Cây sáo thần bên cạnh. Trong khi ngủ, vài nét dễ dàng từ khoé miệng và khoé mồm lộ ra. Và khi ngủ, mỉm cười. Chắc chắn chẳng có gì hại ở đó hết cả.

    4. Nữ Lâm

      Nữ Lâm Well-Known Member

      Bài viết:
      23,871
      Được thích:
      22,185
      CHƯƠNG 13


      Chiếc Mercedes to lớn màu ghi gặp tắc đường. Bấm còi như điên, người lái xe đẩy dạt vào hai bên dòng thác ôtô, xe tải, hàng chợ, và những xe đẩy tạo nên dòng cuộc sống giữa các phố tên là Khulafa và Rashid.

      Đó là Baghdad cổ, nơi những người buôn bán và bán hàng, những người bán quần áo, vàng, hương liệu. những người mua hầu hết các hàng hoá, phải khó khăn lại trong suốt mười thế kỷ qua.

      Chiếc xe rẽ xuống phố Bank, nơi hai đường đầy xe ôtô đỗ, và cuối cùng lao sang phố Shurja. Trước đó, chợ phố của những người bán hương liệu là thể vào được.

      Người lái xe quay đầu lại.

      - Tôi chỉ có thể vào được đến thế này thôi.

      Leila Al-Hilla gật đầu và đợi cánh cửa mở ra cho mình. Bên cạnh người lái xe là Kemal, vệ sĩ thân tín của tướng Kadiri. trung uý sắt thép của các Lực lượng Vũ trang trở thành nhân viên của Kadiri trong nhiều năm. ghét ta.

      Sau lát dừng lại, viên trung sĩ mở cửa, nhấc thân hình cao lớn của mình lên vỉa hè, và mở cửa sau. ta biết lần nữa lại nhục mạ , và nó được thể trong mắt ta. nhàng bước ra khỏi xe và chẳng buồn liếc nhìn hay lời cám ơn.

      lý do khiến ghét người vệ sĩ là vì ta theo mọi nơi. Đó là công việc của ta, dĩ nhiên do Kadiri giao, nhưng điều đó làm bớt ấn tượng xấu về ta. Khi nghiêm túc, Kadiri là người lính chuyên nghiệp rất nghiêm khắc; trong vấn đề dục tình ông ta cũng ghen tuông ở mức độ thua kém. Từ đó quy tắc của ông ta là bao giờ được mình trong thành phố hết cả.

      Lý do khác khiến ưa người vệ sĩ là ràng ta ve vãn . người đàn bà với ham muốn cao độ như có thể hiểu mọi người đàn ông đều ham muốn cơ thể , và nếu giá chấp nhận được chấp nhận ngay, quan tâm đến cái trò kỳ quặc đến thế nào. Nhưng Kemal phạm vào cái lỗi xấu xa nhất: Là trung sĩ. ta nghèo, làm thế nào mà ta lại cả gan có những ý nghĩ đó kia chứ ta ràng là dám - pha trộn của chiêm ngưỡng và ham muốn nhục dục. Điều đó lộ ra khi ta biết tướng Kadiri có đó.

      Về phần mình ta biết mãnh liệt của , và điều đó làm ta thích ve vãn bằng những cái liếc nhìn trong khi ngôn ngữ vẫn lộ chỉn chu.

      phàn nàn với Kadiri về sỗ sàng láo toét của ta, nhưng ông chỉ phá lên cười. Ông có thể nghi ngờ bất kỳ người đàn ông nào ham muốn , nhưng Kemal được phép có nhiều tự do bởi vì Kemal cứu sống ông trong trận Al Fao chống người Iran, và Kemal có thể vì ông mà hy sinh.

      Người vệ sĩ sập cửa lại và đứng cạnh khi họ tiếp tục xuống phố Shurja.

      Vùng này là Agid al Nasara, vùng của người Công giáo- Ngoài nhà thờ thánh George bên kia sông, được xây dựng bởi người cho chính mình và niềm tin Tin lành của mình, có ba giáo phái Công giáo ở Iraq, chiếm khoảng 7% dân số nước này. Giáo phái lớn nhất là Assyry hoặc Syriac, mà nhà thờ nằm giữa vùng Công giáo, bên ngoài phố Shurja. dặm cách đó là nhà thờ Armenie, gần cái khác rất gần những phố và đường mà lịch sử được lùi lại nhiều thế kỷ tên là Campel Arman, khu phố cổ Armeny.

      Kề với nhà thờ lớn Syriac là nhà thờ thánh Joseph, của người Công giáo Chaldea, giáo phái nhất. Nếu lễ nghi Syriac giống nhà thờ Chính giáo Hy Lạp, của Chaldea lại hao hao nhà thờ Thiên chúa giáo. Người Iraq đáng kính nhất trong số các tín đồ công giáo Chaldea khi đó là bộ trưởng ngoại giao Tang Aziz, mặc dù trung thành như chó săn của ông ta với Saddam Hussein và những chính sách diệt chủng của mình, ông ta, Aziz, vẫn luôn mồm rao giảng về hoà bình. Leila Al-Hilla cũng sinh ra là tín đồ Chaldea, và giờ đây điều này tỏ ra rất hữu dụng.

      Cặp trai ưa gì nhau đến cái cổng nẹp thép dẫn vào cái sân to trước mặt cánh cửa vòng cung của nhà thờ Chaldea. Kemal dừng lại. Là tín đồ Hồi giáo, ta thể thêm bước nào nữa. gật đầu với ta và vào trong cổng. Kemal nhìn khi mua cây nến cửa hàng ngoài cửa. lật chiếc mũ ra đằng sau, và vào bên trong tối om.

      Người vệ sĩ nhún vai và lùi lại vài yard để mua lon Coke và tìm chỗ để ngồi và nhìn đường ra. ta tự hói tại sao ông chủ của mình lại cho phép cái trò vô tích này. Người đàn bà là thứ dở hơi; vị tướng có thể ngày nào đó bỏ ta và ta, Kemal, được hứa. có thể rất sung sướng trước khi ta bị loại . ta mỉm cười về triển vọng, và làm tràn nước ngọt ra cằm.

      Trong nhà thờ Leila dừng lại để thắp ngọn nến từ trong những hàng trăm ngọn lửa gần cửa, rồi. cúi lom khom, vào những ô xưng tội ở bên kia. nhà tu mặc áo chùng đen qua nhưng đoái hoài gì đến cả.

      Luôn cùng trong ô xưng tội. vào vào giờ chính xác, nối đuôi người đàn bà vận đồ đen cũng tìm nhà tu để nghe những tôi lỗi cho mình, có khả năng còn tầm thường hơn người đàn bà trẻ tiếp đuôi bà ta và ngồi vào chỗ của mình.

      Leila đóng cửa sau lưng mình, quay lại, và ngồi vào chỗ của người xưng tội. Bên phải cái mắc lưới chắc chắn.

      nghe thấy có tiếng động đằng sau. ta có thể ở đó rồi; ta luôn ở đó vào giờ hẹn.

      ta có thể là ai? tự hỏi. Tại sao ta lại trả nhiều tiền đến thế cho thông tin mà mang đến cho ta? ta phải là người ngoại quốc - tiếng Arập của ta quá tốt, tiếng Arập của người sinh ra và lớn lên ở Baghdad này. Và tiền của ta tốt, là tốt.

      - Leila phải ? Giọng tiếng thầm, và đều đều. luôn phải đến sau ta và rời trước ta. ta báo trước là được rình mò bên ngoài để nhìn ta, nhưng bằng cách nào có thể làm vậy, với Kemal luôn kè kè bên cạnh cơ chứ? Thằng cha có thể thấy cái gì đó và báo lại cho ông chủ của . Cuộc đời đáng giá hơn thế chứ.

      - Hây con là ai .

      - Thưa cha, con phạm tội trong những vấn đề xác thịt và đáng được cha tha thứ.

      Chính ta là người sáng tác ra câu đó. bởi vì ai khác có thể như thế.

      - Thế có gì cho tôi?

      luồn tay vào giữa hai chân, kéo ra, và xé gói băng vệ sinh ta đưa nhiều tuần trước. đầu rơi ra. kéo ra cuốn giấy dày hình ống lớn hơn cái bút chì. chuyển nó qua tấm mành của cái ô.

      - Đợi nhé.

      nghe thấy tiếng sột soạt của giấy nến khi người đàn ông đưa con mắt chuyên nghiệp kiểm tra những ghi chép của - báo cáo về những suy tính và kết luận của hội đồng kế hoạch ngày hôm trước do đích thân Saddam Hussein chủ trì, tại đó tướng Abdullah Kadiri cũng có mặt.

      - Tốt, Leila. Tốt lắm.

      Hôm nay tiền bằng đồng frăng Thụy Sĩ , những đồng tiền có mệnh giá rất cao, được tuồn qua song từ ta đến . giấu kín tất cả chúng vào chỗ để thông tin của mình, chỗ biết hầu hết những tín đồ Hồi giáo nam đều coi là bẩn thỉu trong khoảng thời gian nào đó. Chỉ bác sĩ hay lũ AMAM chết dẫm mới có thể tìm thấy ở đó.

      - Phải tiếp tục bao lâu nữa đây? hỏi chấn song.

      - lâu nữa đâu. Chiến tranh sớm xảy ra thôi. Khi nó kết thúc, Rais sụp đổ. Những người khác lên nắm quyền. Tôi có thể là trong số đó. Khi đó thực được thưởng, Leila ạ. Hãy bình tĩnh làm công việc của mình, và kiên nhẫn.

      mỉm cười. Thực được trả công. Tiền, rất nhiều tiền, đủ để xa và sống những ngày cuối đời trong giàu có.

      - Giờ .

      đứng lên và rời khỏi cái ô. Người đàn bà nhiều tuổi mặc đồ đen tìm thấy ai đó khác để xưng tội. Leila lại qua khung nhà và ra ánh mặt trời. Thằng khốn Kemal đứng ở cánh cổng nẹp thép, vung vẩy lon nước ngọt ngón tay to đùng, phơi mình ra trước cái nóng. Tốt, cứ để ta đổ mồ hôi. còn đổ nhiều mồ hôi hơn nữa nếu biết...

      thèm liếc qua ta, quay lại phố Shurja, qua cái chợ đông nghịt đến cái xe đợi sẵn. Kemal điên tiết nhưng biết làm thế nào, lủi thủi theo ta. thèm để ý dù chỉ chút cái fellagha tồi tệ đây cái xe đạp với cái giỏ trần đằng trước, và người này cũng mảy may quan tâm đến . Người đàn ông là người duy nhất trong chợ mua đồ ăn, mua các thứ quả.

      mình trong ngăn xưng tội, người đàn ông trong chiếc cassock đen của thầy tu Chaldea ngồi đợi lúc lâu để chắc chắn rằng nhân viên của mình rời khỏi phố. ta chẳng thể nào nhận ra ông ta, nhưng trong trò chơi này ngay cả những điều vớ vẩn cũng có thể dẫn đến thảm hoạ. Ông ta nghĩ về những điều với . Chiến tranh đến gần. Người Mỹ mắc vào và thể rút được nữa. Trừ khi người trong cung điện bên dòng sông ở cầu Tamuz chịu rút lui đơn phương khỏi Kuwait. May mắn sao, ông ta có vẻ như là dính chặt vào chuyện phá huỷ của mình. Người Mỹ có thể chiến thắng trong cuộc chiến, và rồi sau đó họ có thể quay trở lại Baghdad để hoàn thành công việc của mình.

      Chắc chắn là họ thể chỉ chiến thắng ở Kuwait và nghĩ là đó là kết thúc của chuyện đó? ai có thể mạnh hơn và ngu ngốc hơn thế.

      Khi họ tới, họ có thể phải cần đến chính quyền khác.

      Là người Mỹ, họ có thể ngả mạnh về ai đó có thể tiếng lưu loát, người nào đó hiểu các phương cách của họ, các suy nghĩ của họ, và tiếng của họ, và người có thể biết phải gì để làm vui lòng họ và trở thành lựa chọn của họ.

      Với giáo dục tốt, tinh thông tài năng giờ đây là những thứ phản lại , lại có thể là cái đem lại mọi thứ. Lúc này, ta bị gạt ra khỏi các hội đồng cao nhất và những quyết định tốt mật của Rais - bởi vì ta phải thuộc bộ lạc Al- Tikriki khốn khiếp, hay là người đệ tử trung thành cả đời của đảng Ba'ath, hay ông tướng, hay em cùng cha khác mẹ của Saddam.

      Nhưng Kadiri thuộc bộ lạc đó - và được tin tưởng. Chỉ ông tướng xe tăng tầm thường và với những sở thích của con lạc đà ngớ ngẩn, từng chơi trong cát bụi của những con đường Tikrit với Saddam và tộc người của ông ta, và thế là đủ. Kadiri có mặt ở mọi cuộc họp đưa đến quyết định và biết mọi bí mật. Người trong đó cần biết những cái đó dễ mà tự có những chuẩn bị của mình.

      Khi nghĩ rằng đợi đủ rồi, người đàn ông đứng dậy và ra. Thay vì ngang qua cửa chính, ta lướt qua cửa bên ra hông, gật đầu với thầy tu chính hiệu mặc quần áo cho nghi lễ, và rời khỏi nhà thờ bằng cửa sau.

      Người đàn ông xe đạp chỉ cách đó có 20 fít. Rất tình cờ ta liếc nhìn lên khi người thầy tu trong bộ cassock màu đen của mình lên trong ánh mặt trời và tiến tới đúng lúc đó.

      Người đàn ông mặc cassock cũng liếc nhìn người kia, chỉ trông thấy cái fellagha quấn chiếc xe đạp thay cho xích, và nhanh xuống cái ngõ về hướng cái xe rất bình thường.

      Người chợ mua thức ăn thấy mồ hôi ròng ròng mặt và tim nảy lên. Gần quá, mẹ kiếp, gần quá. cố gắng tìm cách tránh mọi chỗ gần đại bản doanh của Mukhabarat ở Mansour tránh trường hợp bị nhìn thấy mặt. Thế quái nào ông ta lại là thầy tu trong khu phố Công giáo cơ chứ?

      Chúa ơi, nhiều năm trôi qua - nhiều năm kể từ khi họ cùng chơi với nhau sân của ngôi trường Tasisiya của ông Hartley, từ khi đấm vào hàm thằng nhóc vì nhạo báng đứa em trai quý của : kể từ khi họ ngâm thơ trong lớp: luôn bị Abdelkarim Badri vượt mặt. khoảng thời gian dài kể từ khi nhìn thấy người bạn cũ Hassan Rahmani, giờ đây là chỉ huy Phản gián của Cộng hoà lraq.

      Giáng sinh đến gần, và trong các sa mạc của miền bắc Arập Xêut, ba trăm nghìn người Mỹ và người Âu hướng suy nghĩ của mình về nhà khi họ chuẩn bị cho buổi lễ trong vùng đất rất đậm chất Hồi giáo. Nhưng mặc dù buổi lễ ra đời Chúa đến gần, đội quân của lực lượng xâm lược lớn nhất từ sau Normandie vẫn tiếp tục.

      Phần sa mạc trong đó các lực lượng Liên quân đóng quân vẫn ngả về phía nam của Kuwait. hề có gì che giấu cuối cùng nửa lực lượng này được đưa xa hơn về phía tây.

      Ở các cửa ngõ ven biển các sư đoàn mới vẫn tiếp tục đổ vào Lữ đoàn số bốn của gia nhập Những con chuột Sa mạc, đội thứ Bảy, để tạo nên Sư đoàn thứ nhất. Người Pháp cũng có đóng góp của mình lên tới 10.000 người, trong có có cả đội lính Lê dương.

      Người Mỹ nhập khẩu, hay gần như thế, Sư đoàn Kỵ binh số , số Hai và Số Ba, Sư đoàn Bộ binh tiên tiến số và Ba, hai sư đoàn Hải quân. và Đội quân 82 và 101.

      Ngay đường biên giới, nơi họ muốn ở, là lính thường trực Xêut và các lực lượng đặc biệt, với các sư đoàn Ai Cập và Syrie hỗ trợ và những đơn vị khác được rút đến từ nhiều quốc gia Arập hơn.

      Các nguồn nước phía bắc của Vịnh Arập phần lớn được đậu bởi những tàu chiến từ các hải quân Liên quân. Trong Vịnh hay Biển Đỏ bên kia của Arập Xêut, Mỹ đặt năm đội tiếp tế do các tàu Eisenhower, Independence, John F. Kennedy, Middway, và Saratoga chỉ huy, với những chiếc America. Ranger, và Theodore Roóevelt vẫn đường tới.

      Chỉ riêng lực lượng quân của những chiến hạm này, những chiếc Tomcat, Hornet, Intruder, Prowler, Avenger, và Hawkeye gây ấn tượng lắm rồi.

      Trong vịnh, chiến hạm Wisconsin của Mỹ ở trạm, cùng với chiếc Missouri vào tháng Giêng.

      Tại các nước vùng Vịnh và Arập Xêut, mọi sân bay có giá trị đều có máy bay chiến đấu, máy bay thả bom, máy bay tiếp nhiên liệu, máy bay chở hàng, và máy bay do thám, tất cả trong số đó đều sẵn sàng bay vào mọi lúc, mặc dù vẫn chưa xâm phạm phận Iraq, với ngoại lệ là những chiếc máy bay do thám bay tít ở bị phát .

      Trong nhiều trường hợp lực Mỹ chia sẻ sân bay với các đội bay của lực Hoàng gia . Vì các đội bay cùng ngôn ngữ, liên lạc dễ dàng, thoải mái, và thân thiện. Đôi lúc, tuy nhiên, cũng có những hiểu lầm.

      trong số đó liên quan đến địa điểm bí mật của được biết đến đơn giản là MMFD.

      Vào công vụ tập sớm, chiếc Tornado của bị người kiểm soát lưu hỏi có phải đến địa điểm nào đó . Phi công trả lời là , ta vẫn ở MMFD.

      Vào lúc đó, nhiều phi công Mỹ nghe về địa điểm này và giở bản đồ để tìm. Đó là rắc rối vì hai lẽ: người có vẻ bỏ quá nhiều thời gian vào đó, và nó bản đồ hàng nào của Mỹ. Lý thuyết được đặt ra rằng nó có thể là môt nghe nhầm của KKMC, cái được đặt cho Khu quân Vua Khaled, căn cứ lớn của Xêut. Điều này được tranh luận, và tìm kiếm tiếp tục. Cuối cùng những người Mỹ đành bỏ. Mọi nơi MMFD được đặt, đó chỉ đơn giản được tìm thấy các bản đồ hàng do các đội USAF cung cấp bởi các nhà hoạch định chiến lược ở Riyadh.

      Cuối cùng các phi công Tornado chấp nhận bí mật của MMFD. Nó nằm ở "hàng dặm hàng dặm trong cái sa mạc chó chết".

      mặt đất, lính tráng ở trong MMFD. Với nhiều người, ngủ dưới xe tăng, lau súng, và ôtô, cuộc sống nặng nhọc, và còn tệ hơn, nhàm chán.
      Tuy vậy cũng có những trò giải trí, và trong số đó là thăm các đơn vị lân cận vào thời gian cho phép. Người Mỹ được trang bị với những chiếc túi tốt. mà người rất thèm muốn. Do tình cờ, người Mỹ cũng có cùng những món ăn được chuẩn bị, nhân viên phục vụ của Lầu Năm Góc thà chết cònhơn phải ăn nó ba ngày lần.

      Chúng được gọi là MRE, có nghĩa là Món-ăn-sẵn. Lính Mỹ từ chối vì chất lượng tồi của nó và cả quyết rằng MRE thực là những món đồ ăn do người Ethiopy vứt di. Ngược lại, người lại chén rất ngon lành. đến nỗi vụ chuyển nhượng chớp nhoáng được thiết lập giữa các giường Mỹ và đội .

      mẩu tin khác từ bên các đội làm người Mỹ há hốc mồm là Bộ Quốc phòng đặt nửa triệu bao cao su cho lính vùng Vịnh. Trong các sa mạc hoang vu của Arập vụ mua bán như thế hẳn nhiên ngu ý người phải biết gì đó mà lính Mỹ biết.

      Điều bí được làm sáng tỏ cái ngày trước khi trận chiến bộ mở màn. Người Mỹ tiêu tốn hàng trăm ngày lau chùi súng và còn mất nhiều hơn để tránh chúng khỏi cát bụi. Người biến bao cao su của mình thành những cái túi đựng dầu lau súng tuyệt vời.
      Ngay trước Giáng sinh đánh dấu bằng kiện Pháp gia nhập trở lại trái tim của cơ quan lập kế hoạch của Liên quân. Trong những ngày đầu tiên, Pháp thảm hoạ do Bộ trưởng Quốc phòng tên là Jean-pierre Chevenement gây ra, người tỏ ra rất thân thiện với Iraq và ra lệnh người chỉ huy Pháp chuyển mọi quyết định về kế hoạch của Liên quân về Paris. Khi tướng Schwarzkopf biết điều đó, ông và ngài Peter de la Billière gần như phá lên cười. Ông Chevenement vào thời điểm đó cũng là ngọn đèn dẫn lối cho Hội Hữu nghị Pháp - lraq.

      Mặc dù đội của Pháp do người lính tốt chỉ huy trong quân phục tướng Michel Roquejoffre, nước Pháp vẫn bị loại khỏi các cuộc họp lên kế hoạch.
      Cuối năm đó, Pierre Joxe lên nắm quyền Bộ trưởng Quốc phòng Pháp và ngay lập tức ngừng lệnh đó lại. Từ lúc đó, tướng Roquejoffre có thể được đưa vào trong vòng tin cậy của người Mỹ và người .
      Hai ngày trước Giáng sinh, Mike Martin nhận được từ Jericho câu trả lời cho câu hỏi được đặt ra tuần trước đó Jericho biết rất : Trong vài ngày trước cuộc họp nội các khẩn cấp chỉ gồm bộ sậu của Saddam Hussein, Hội đồng Chỉ huy Cách mạng, và những tướng lĩnh cao cấp nhất được tổ chức.

      Vấn đề Kuwait được nêu ra theo hướng từ chối đề nghị của Liên Hợp Quốc. Tất cả đều chờ đợi Saddam đưa ra gợi ý ông ta chịu làm vậy, như thường lệ ngồi ở đầu bàn như thể chờ đợi con rắn hổ mang, mắt đảo nhìn từ người này sang người khác như thể rình mò chút gì đó trung thành ở họ.
      như lệ thường, lời hướng dẫn của Rais, cuộc tranh luận bị đình xuống. Khi Saddam bắt đầu bình thản, điều đó có nghĩa là khi ông ta nguy hiểm nhất.
      Bất kỳ ai, ông , có trong đầu ý nghĩ chấp nhận nhục mạ lớn đến thế với Iraq trước người Mỹ, dù chỉ là ý nghĩ thoáng qua, đều là kẻ liếm gót Mỹ cả đời. kẻ như thế thể có chỗ ở cái bàn này được.

      Và chỉ có thế. Tất cả những người có mặt đều ngửa ra sau giải thích ý tưởng như thế bao giờ, trong trường hợp nào nữa, xuất trong đầu họ.
      Rồi vị tổng thống Iraq thêm vào điều nữa: chỉ khi lraq chiến thắng và được coi là chiến thắng mới có thể rút quân khỏi tỉnh thứ mười chín của Iraq.
      Mọi người quanh bàn đều gật đầu ngoan ngoãn, mặc dù ai hiểu ông ta gì.
      Đó là báo cáo dài, và Mike Martin chuyển nó cho ngôi biệt thự bên ngoài Riyadh cùng trong đêm đó.

      Chíp Barber và Simon Paxman chăm chú hàng giờ vào đó Mỗi người đều quyết định rời Arập Xêut về nhà vài ngày, để Julian Gray và Chỉ huy Trạm CIA địa phương người Mỹ lại liên lạc với Mike Martin tiếp tục diều hành Jericho. Chỉ còn có 24 ngày là đến hạn cuối của Liên Hợp Quốc và bắt đầu của cuộc chiến tranh của Chuck Horner chống Iraq. Cả hai người đều muốn có kỳ nghỉ ở nhà, và báo cáo đầy sức nặng của Jericho cho họ cơ hội đó. Họ có thể cầm nó về nước.

      - nghĩ ta muốn gì, chiến thắng và được coi là chiến thắng? Barber hỏi.

      - hiểu được, Paxman . Chúng tôi có số chuyên gia phân tích giỏi hơn chúng ta xem xét điều này.

      - Chúng tôi cũng có. Tôi đưa nó cho Bill Stewart, và ông ấy có lẽ có cách nào đó phân tích sâu hơn trước khi nó đến tay giám đốc và Bộ Ngoại giao.

      - Tôi cũng có nhân vật để làm việc này, Paxman . và họ chia tay tại sân bay để bay về nước của họ.

      Vào đêm Giáng sinh, ngồi trong bar rượu kín đáo ở London vùng tây với Simon Paxman, tiến sĩ Terry Martin được cho xem toàn văn văn bản của thông điệp của Jericho và được hỏi liệu có thể cố làm sáng tỏ điều đó, hoặc bất cứ gì, mà Saddam Hussein muốn đến bằng cách chiến thắng Mỹ với giá rời khỏi Kuwait.

      - Nhân tiện, hỏi Paxman, tôi biết điều này phá vỡ các quy tắc cần-biết, nhưng tôi thực lo lắng. Tôi làm những điều này cho - hãy làm cho tôi điều nhé. Mike của tôi làm thế nào ở Kuwait? ấy vẫn được an toàn chứ?

      Paxman nhìn chằm chằm vào vị tiến sĩ Arập nhiều giây liền.

      - Tôi chỉ có thể là từ lâu nay ấy còn ở Kuwait nữa rồi, ta . Và còn lại công việc của tôi biết được.

      Terry Martin thở phào.

      - Đây là Giáng sinh tốt đẹp nhất mà tôi có được. Cám ơn , Simon. nhìn lên và vẫy ngón tay. Chỉ điều thôi - đừng có nghĩ việc gửi ấy đến Baghdad đấy nhé.

      Paxman trong nghề được 15 năm. giữ khuôn mặt lạnh băng, cách nới năng vẫn nhàng như cũ. Nhà học giả ràng là chỉ đùa thôi.

      - ư?, Tại sao ?

      Terry uống cạn ly rượu của mình và nhìn thấy cái thoáng tinh quái trong mắt viên sĩ quan tình báo.

      - Simon thân mến của tôi, Baghdad là thành phố ấy thể đặt chân vào. còn nhớ những cuộn băng mà đài Iraq bắt được mà Sean Plummer đưa tôi ?

      số trong những giọng đó được nhận ra. Tôi nhận ra trong số những cái tên. Quỷ quái , nhưng tôi tin là tôi đúng.

      - ư? Paxman hờ hững . cho tôi xem nào.

      - lâu lắm rồi, dĩ nhiên, nhưng tôi biết đó vẫn là con người ấy. Và tại sao cơ chứ? ta bây giờ là giám đốc Phản gián Baghdad, tay săn gián điệp số của Saddam.

      Hassan Rahmani, Paxman lẩm bẩm. Paxman thể bình tĩnh được nữa, dù là ngay trước Giáng sinh. ta thể giữ được nữa. buột miệng.

      - Chính đó. Họ học cùng trường với nhau, biết . Tất cả chúng tôi. Ở cái trường của ông già Hartley ấy. Mike và Hassan là bạn rất thân. Thấy nào? Thế cho nên ấy bao giờ được để trông- thấy ở Baghdad.

      Paxman bỏ ngay quầy rượu và nhìn chằm chằm nhà Arập học ra phố.

      - Ôi mẹ kiếp, ta , ôi mẹ kiếp, mẹ kiếp .

      Ai đó vừa mới mất vui trong đêm Giáng sinh, và ta cũng phá hoại luôn đêm Noel của Steve Laing.

      Edith Hardenberg tới Salzburg để nghỉ với mẹ mình, truyền thống gia đình có từ nhiều năm nay. Karim, cậu sinh viên Jordan trẻ tuổi, có thể đến thăm Gidi Barzilai ở căn hộ an toàn của ông, nơi người điều hành chiến dịch Joshua uống rượu giải sầu với các nhân viên đội yarid và neviot làm việc dưới quyền của mình. Chỉ người may mắn phải đến Salzburg, theo dõi Hardenberg trong trường hợp đột ngột quay về thủ đô.

      Tên của Karim là Avi Herzog, 29 tuổi từng phục vụ cho Mossad nhiều năm nay ở Đơn vị 504, nhánh của Tình báo Quân đội chuyên gia về vượt biên, công việc cho ta thứ tiếng Arập chuẩn. Vì vẻ ngoài ngon lành của ta và vẻ rụt rè ngây thơ và cung cách rất được lòng chị em mà ta có thể sử dụng khi cần, Mossad hai lần sử dụng ta trong hai vụ "nam nhân kế"

      - Công việc tiến triển thế nào rồi, chàng trai ?

      Gidid hỏi khi ta vào chỗ những chai rượu.

      - Chậm chạp lắm, Avi .

      - Đừng để kéo dài quá đấy nhé. Ông già muốn kết quả, nhớ đấy.

      - Đó là mụ già rất khó chơi đấy, Avi trả lời. Chỉ quan tâm đến những vấn đề trí tuệ thôi.

      Trong vỏ bọc là sinh viên từ Amman, ta có căn hộ cùng ở với sinh viên Arập khác, thực tế là thành viên của đội neviot, chuyên gia nghe trộm điện thoại cũng tốt tiếng Arập. Đó là để đề phòng trường hợp Edith Hardenberg hay ai đó có thể nhúng mũi kiểm tra nơi ta ở và người sống cùng ta.
      Căn hộ chia nhau có thể bị kiểm tra - nó chất đầy các sách về cơ khí và vài tờ báo và tạp chí Jordan. Cả hai người đều ghi tên theo học ở Đại học Kỹ thuật trong trường hợp kiểm tra cũng được thực ở đó. Chính người cùng ở với Herzog trong căn hộ đó lên tiếng.

      - Trí thức Hãy phân tích xem nào.

      - Đó là vấn đề, Avi . Tớ thể.

      Khi tiếng cười lắng xuống, ta thêm:

      - Nhân tiện, tôi sắp gặp nguy hiểm đây.

      - Tại sao hả? Gidi hỏi. Nghĩ ta cắn vỡ nó khi cậu cởi cái quần jean của cậu à?

      - Đâu có Đó là các phòng trưng bày nghệ thuật, các buổi hoà nhạc, opera, độc tấu. Tôi thể chết vì buồn chán trước khi nó quá xa đấy nhé.

      - Cậu chỉ cần làm cái cậu có thể biết thôi, cậu bé xinh xẻo ạ Cậu chỉ ở đây bởi vì Văn phòng cậu có cái mà chúng tôi thể.

      - Đúng vậy, thành viên của đội yarid theo dõi . Khoảng 9 inch.

      - Đủ rồi đấy Yael trẻ tuổi ạ. có thể phải về vì nhiệm vụ thường ngày ở phố Hayarkon bất kỳ lúc nào muốn mà.

    5. Nữ Lâm

      Nữ Lâm Well-Known Member

      Bài viết:
      23,871
      Được thích:
      22,185
      Uống, tiếng cười, và những lời đùa cợt bằng tiếng Do Thái tới tấp bay ra. Đêm đó. Yael phát mình đúng. Đó là đêm Giáng sinh tốt đẹp cho đội Mossad ở Vienna.

      - Thế nghĩ gì vậy, Terry?

      Steve Laing và Simon Paxman mời Terry Martin đến gặp họ ở trong số các căn hộ của Hãng ở Kensington. Họ cần nhiều riêng tư hơn có thể có được ở quán ăn. Hai ngày nữa sang năm mới.

      - tuyệt. Martin . là rất tuyệt. Có hả? Saddam tất cả những thứ đó hả?

      - Tại sao lại hỏi thế?

      - Nào, nếu các thứ lỗi nếu tôi hỏi thế, đó quả là cú nghe trộm điện thoại kỳ lạ đó. Người có vẻ như báo cáo đến ai đó trong cuộc họp mà ông ta tham dự... Người kia ở bên đầu dây thấy gì.

      Dù chỉ đơn giản là cách Hãng với Terry Martin bằng cách nào họ có bản báo cáo.

      - Những can thiệp của người kia là rất đúng, Laing nhàng . Chỉ là những tiếng khùng khục và những câu tỏ ý quan tâm.

      - Nhưng đó đúng là ngôn ngữ Saddam dùng chứ?

      - chúng tôi tin thế mà.

      - là tuyệt vời. Lần đầu tiên tôi nghe được điều gì đó ông ta phải để xuất bản hay cho công chúng rộng rãi đấy.

      Martin có trong tay phải báo cáo viết tay của Jericho, cái bị huỷ bởi chính trai ở Baghdad ngay khi đọc xong nó, từng từ , vào máy thu thanh. Mà là bản đánh máy bằng tiếng Arập của văn bản đến Riyadh trong chuyến chuyển sớm trước Giáng sinh. ta cũng có bản dịch tiếng của văn bản này.

      - Câu cuối cùng này, Paxman nới, người có thể phải quay về Riyadh ngay trong tối hôm đó, ông ta chiến thắng và được coi là chiến thắng - điều này có gợi cho điều gì ?

      - Tất nhiên rồi. Nhưng các cũng biết đấy, các vẫn sử dụng từ chiến thắng trong nghĩa của châu Âu hay là của Bắc Mỹ. Tôi có thể sử dụng từ thắng trong tiếng .

      - Tốt thôi, Terry ạ. thế ông ta nghĩ thế nào mà có thể giành thắng lợi trước người Mỹ và Liên quân? Laing .

      - Bởi nhục nhã. Tôi với các rồi cơ mà, ông ta bị Mỹ coi là kẻ điên hoàn toàn.

      - Nhưng ông ta chịu rút khỏi Kuwait trong hai mươi ngày nữa ư? Chúng tôi thực cần biết diều đó, Terry ạ.

      - Nhìn này, Saddam đâ vào đó bởi vì những đòi hỏi của ông ta được đáp ứng, Martin . ông ta đòi hỏi bốn điều: - chiếm các đảo Warba và Bubiyan để có đường ra biển,- bồi thường cho những mất mát về dầu mà ông ta cho rằng Kuwait lấy mất bằng cách chia sẻ các vùng dầu, và chấm dứt sản xuất quá nhiều của Kuwait, - và bồi thường chiến tranh 15 tỷ đôla. Nếu ông ta có được những cái đó, ông ta có thể rút lui trong danh dự, rời khỏi gọng kìm của người Mỹ cách thoải mái. Đó là chiến thắng đấy.

      - có gợi ý nào rằng ông ta nghĩ có thể có được chúng à? Martin nhún vai.

      - Ông ta nghĩ những người mong mỏi hoà bình ở Liên Hợp Quốc có thể trải thảm. Ông ta đánh cuộc rằng thời gian này đứng về phía ông ta, rằng nếu ông ta có thể giải quyết được chuyện này, giải pháp của Liên Hợp Quốc có thể là có khả năng. Có lẽ ông ta có lý đấy.

      - Nhưng ông ta có thế đâu, Laing xen vào. Ông ta có hạn cuối cùng. Ngày 15 tháng Giêng, phải hai mươi ngày nữa. Ông ta đến chổ bị quét sạch.

      - Trừ phi, Paxman đề xuất, trong các thành viên thường trực của Hội đồng Bảo an có thể có được kế hoạch hoà bình ở phút cuối cùng để đẩy lùi thời hạn này lại.

      Laing trông có vẻ tức tối.

      - Paris hoặc Matxcơva, hoặc là cả hai, ông dự báo.

      - Nếu chiến tranh xảy ra, Terry Martin . Nhưng quay trở lại cái tôi với các đó - thiệt hại về người của Mỹ. Đừng quên, Saddam từng là tay súng đường phố. Chính thể của ông ta phải là những hành lang ngoại giao của Cairo và Riyadh. Đó là tất cả những đường lối lại và những cửa hàng người Palestine và những người Arập khác căm ghét người Mỹ, kẻ đứng đằng sau Israel. người nào có thể rời khỏi Mỹ an lành.

      - Nhưng ông ta thể làm như thế được, Laing khẳng định.

      - Ông ta lại nghĩ mình có thể, Martin dáp. Xem này, ông ta cũng đủ thông minh để thấy rằng trong mắt người Mỹ, Mỹ thể thua, phải được thua. Đó chỉ là cách duy nhất chấp nhận được. Hãy nhìn vào Việt Nam, vấn đề cựu chiến binh. Với nước Mỹ, những thiệt hại về người nhìn thấy của quân đội bị nghiền nát là dạng của thất bại. Thất bại thể chấp nhận được. Saddam có thể hy sinh ngay lúc 50 nghìn người của ông ta. Ông ta chẳng buồn quan tâm. Chú Sam làm thế được. Nếu Mỹ chơi cái kiểu đó, bị lung lay đến tận gốc rễ. Đầu phải rơi, các thứ bị nát vụn, các chính phủ bị đổ. Những cái đó có thể dai dẳng suốt thế hệ.

      - Ông ta thể làm thế được đâu, Laing lặp lại.

      - Ông ta nghĩ mình có thể, Martin đáp lại.

      - Đó là vũ khí khí độc, Paxman lẩm bẩm.

      - Có thể. Cuối cùng, liệu các ông có thể tìm thấy ý nghĩa trong băng nào?

      Laing liếc nhìn Paxman. Lại là Jericho. thể nêu tên Jericho được.

      - . ai chúng tôi hỏi nghe ra nổi. ai có thể làm sáng tỏ được.

      - Nó có lẽ là quan trọng lắm đấy, Steve ạ. cái gì khác cơ - phải là khí độc.

      - Terry. Laing kiên nhẫn . Trong vòng dưới hai mươi ngày người Mỹ, cùng với chúng ta, người Pháp, người Italia, người Xêut, và những người khác, tiến lên lật đổ Saddam Hussein với những chiến lược lớn nhất mà thế giới chưa từng trông thấy bao giờ. đủ hoả lực để kéo dài được trong vòng hai mươi ngày nữa trước cả cơn sấm chớp rơi xuống đầu trong Thế chiến 2. Các tướng lĩnh ở Riyadh rất bận rộn.

      Chúng ta thực thể đến đó và "Mọi việc thế nào, các bạn. Chúng ta có câu trong cuộn băng nghe trộm mà chúng ta thể làm được". Hãy nhìn thẳng vào đó, đó có thể chỉ là kẻ loạn óc đường dây điện thoại gợi ý Chúa ở bên họ mà thôi. có gì lạ trong đó đâu, Terry ạ, Paxman . Mọi người đến chiến tranh đều tuyên bố có trợ giúp của Chúa từ khi thời gian bắt đầu kia mà. Chỉ thế thôi.

      - Người khác với người kia im mồm và rời khỏi máy , Martin nhắc lại cho họ.

      - Chỉ vì ta bận và tức thôi. ta gọi người kia là đồ chó.

      - Có lẽ ta thích ta cho lắm.

      - Cũng có thể.

      - Terry, xin đấy, bỏ nó . Đó chỉ là câu thôi mà. Đó chỉ là khí độc thôi. Đó là cái ông ta tính đến. Mọi cái còn lại của phân tích của chúng tôi đều nhất trí cả.

      Martin là người đầu tiên, còn hai sĩ quan tình báo hai mươi phút sau. Xỏ tay vào áo mưa, dựng cổ lên, họ ra bên đường tìm taxi.

      - cũng biết đấy, Laing , ta là thông minh như quỷ, và tôi khá là thích ta. Nhưng ta thực khủng khiếp quá. có nghe gì về đời tư của ta '

      chiếc xe trờ tới. Chưa có khách, đèn nóc chưa bật. Thời gian nghỉ uống trà. Laing chửi thề.

      - Phải, dĩ nhiên rồi, Hộp kiểm tra mà.

      Chiếc Box, hay Box 500, là tiếng lóng trong ngành An ninh, MI-5. lần, lâu rồi, địa chỉ của MI-5 thực là P.O. Box 500, London.

      - Tốt, đó là nơi ở hồi đó mà. Laing .

      - Steve, tôi thực nghĩ rằng có cái gì đó phải làm với nó đâu.

      Laing dừng lại và quay về người thuộc cấp của mình.

      - Simon, tin tôi . ta có cái gì đó trong đầu, và ta chỉ làm mất thời gian của chúng ta mà thôi. Hãy xin chỉ dẫn .Bỏ tên giáo sư này .

      - Đó chính là khí độc, thưa ngài tổng thống.

      Ba ngày sau năm mới, những hoạt động ăn mừng ở đó có trong Nhà Trắng - và phần lớn trong đó đều dừng lại -tất cả đều bỏ . Cả Cánh Tây, trung tâm của hành chính Bush, đều đầy các hoạt động.

      Trong tĩnh lặng của phòng Bầu dục, George Bush ngồi sau cái bàn lớn, dựa vào những cửa sổ cao hẹp, 5 inch của tấm kính chống đạn màu xanh, và giữa dấu của Hợp Chủng quốc Hoa kỳ.
      Đối diện với ông là trung tướng Brent Scowroft, Cố vấn An ninh Quốc gia.

      Tổng thống liếc nhìn xuống người sâu vào phân tích vừa có mặt trước ông.

      - Tất cả đều nhất trí như thế chứ? ông hỏi .

      - Vâng, thưa ngài. .Nhóm vừa từ London đến cho thấy người của họ cũng đều đồng ý hoàn toàn với người của ta. Saddam Hussein rút lui khỏi Kuwait chừng nào ông ta bị tống ra khỏi đó, giáp lá cà, cái mà chúng ta đảm bảo ông ta thể có được. Còn lại , ông ta dựa vào những vụ tấn công hàng loạt bằng khí độc vào các lực lượng bộ của Liên quân, kể cả trước hay trong cuộc xâm chiếm qua biên giới.

      George Bush là tổng thống Mỹ đầu tiên từ John F. Kennedy từng tham gia chiến tranh. Ông từng nhìn thấy những xác lính Mỹ bị giết trong khi chiến đấu. Nhưng ở đó có cái gì đó đặc biệt xấu xa, đặc biệt điên khùng, trong suy nghĩ của những lính chiến trẻ qua những giờ phút cuối cùng của cuộc đời mình khi chịu khí độc xâm chiếm buồng phổi làm hại đến những hệ thống thần kinh trung ương của họ.

      - Thế ông ta tung khí đó ra thế nào? ông hỏi .

      - Chúng tôi nghĩ có bốn khả năng, thưa tổng thống. Khả năng rệt là bằng các hộp được thả từ các máy bay chiến đấu và những máy bay thả bom. Colin Powell vừa mới chuyện với Chuck Homer ở Riyadh.

      Tướng Horner ông cần 35 ngày ngừng kích. Sau ngày thứ 20, máy bay Iraq nào còn có thể đến được biên giới. Đến ngày thứ 30. máy bay Iraq nào có thể cất cánh nổi quá 60 giây. Ông ông đảm bảo điều đó, thưa ngài. Ông ta có những ngôi sao của ông ta để đảm bảo mà.

      - Thế còn lại?

      - Saddam có số lượng những pháo MLRS. Chúng là khả năng thứ hai.

      Các hệ thống bắn tên lửa đa chức năng của Iraq là những cái do người Xô viết xây dựng và dựa vào những chiếc Katyuashka cũ kỹ được sử dụng với hiệu ứng phá huỷ bởi Quân đội Xô viết trong Thế chiến thứ 2. Giờ đây được nâng cấp lên nhiều, những tên lửa đó, được phóng theo từng đợt nhanh từ "gói" tứ giác thùng của chiếc xe tải hoặc từ vị trí đa dạng, có tầm bắn trăm km.

      - cách thông thường, thưa ngài tổng thống. nhờ vào tầm bắn của mình, họ có thể phải bắn ở khoảng giữa Kuwait hoặc là sa mạc Iraq để đến được phía tây. Chúng tôi tin rằng các J-STAR tìm thấy chúng bằng rađa và chúng bị thả bom san phẳng. Người Iraq có thể nguỵ trang chúng thế nào chăng nữa, nhưng tiếng kim loại làm lộ chúng ra. Còn lại, Iraq có những kho vỏ đạn khí để sử dụng bằng xe tăng và pháo binh. Tầm bắn, dưới 37 km - 19 km. Chúng tôi biết các kho này được đưa vào vị trí, nhưng với tầm bắn đó để bắn qua sa mạc thể. Các chàng trai của quân tự tin rằng họ có thể tìm thấy và tiêu diệt chúng. Và rồi còn có tên lửa Scud họ được quan tâm ngay khi chúng ta ra.

      - Thế còn các biện pháp phòng chống?

      - hoàn thành rồi, thưa tổng thống. Trong trường hợp có tấn công bệnh than, mỗi người đều được miễn dịch. Người cũng làm điều đó. Chúng tôi tăng cường sản xuất các vacxin chống bệnh than trong từng giờ. Và mỗi người đàn ông cũng như phụ nữ đều có mặt nạ phòng độc và bình khí.

      Nếu ông ta định dùng cách đó...

      Tổng thống đứng lên, quay , và nhìn chằm chằm vào huy hiệu. Con đại bàng sói đầu, mang vòng của mình. cũng nhìn lại.

      Hai mươi năm trước, từng có những gói bọc xác người khủng khiếp đó được đưa từ Việt Nam về, và ông biết rằng cung cấp thậm chí giờ đây có thể được chứa trong những chiếc container mác bí dưới bầu trời Xêut. Ngay cả với những biện pháp phòng ngừa, vẫn có khả năng có những vết sạm da, những mặt nạ thể với tới được và được đưa ra đúng lúc.

      Năm tới là kỳ bầu cử lại. Nhưng đó phải vấn đề quan trọng. Thắng hay thua, ông cũng có ý định vào lịch sử như vị tổng thống Mỹ buộc hàng chục nghìn người lính phải chết, phải như ở Việt Nam trong chín năm, mà chỉ là trong vài tuần hay thậm chí vài ngày.

      - Brent này...

      - Thưa tổng thống.

      - James Baker phải đến gặp Tariq Aziz ngay.

      - Trong sáu ngày ở Genève.

      - cầu ông ta đến gặp tôi nhé.

      Trong tuần đầu tiên của tháng Giêng, Edith Hardenberg bắt đầu thoả mãn với mình cách , lần đầu tiên trong nhiều năm. sung sướng khi được khám phá và giải thích người bạn trẻ tuổi nồng nhiệt những thắc mắc về văn hoá thành phố của .
      Ngân hàng Winkler cho phép nhân viên của mình nghỉ bốn ngày nhân dịp năm mới; sau đó. họ phải lùi những hoạt động vãn hoá của mình về buổi tối, được hứa hẹn dành cho sân khấu, hoà nhạc, độc tấu, và kỳ nghỉ cuối tuần, khi các bảo tàng và phòng tranh vẫn còn mở.

      Họ trải qua nửa ngày ở Jegendstil, ngưỡng mộ Nghệ thuật Mới, và nửa ngày khác ở Sezession, nơi luôn có triển lãm thường kỳ và các phòng tranh về tác phẩm của Klimt. Chàng thanh niên Jordan rất thích thú và sung sướng. hàng loạt những câu hỏi được chàng ồ ạt tung ra, và Edith Hardenberg đầy hứng khởi, đôi mắt sáng bừng khi giải thích rằng có triển lãm khác ở Kunstlerhaus mà nhất định diễn ra vào cuối tuần tới.

      Sau khi đến nhìn Klimt, Karim đưa ăn tối ở Rotisserie Sirk. phản đối vì ở đó đắt quá, nhưng người bạn mới của giải thích rằng cha ta là nhà phẫu thuật khá giả ở Amman và tiền chu cấp cho ta rất rộng rãi.

      Hồi hộp, cho phép rót cho ly rượu vang và nhận ra khi nào ta rót đầy nó lần nữa. Cuộc trò chuyện của trở nên sống động hơn, và có màu phớt hồng ra gò má tái nhợt của .

      Khi uống cà phê, Karim nhổm về phía trước và đặt tay lên tay . trông bối rối và liếc nhìn nhanh xung quanh để xem có ai nhìn thấy , nhưng ai bận tâm hết cả. rút tay ra. nhưng rất chậm rãi.

      Cuối tuần đó, họ đến thăm bốn trong số các kho tàng văn hoá có trong đầu, và khi họ bộ về qua bóng tối lạnh giá về xe ôtô của sau buổi tối ở Musikverein, cầm bàn tay đeo găng của trong tay mình và giữ chặt nó. rút tay về, cảm thấy sức nóng truyền qua cái găng tay bằng vải cotton.

      - tốt làm mọi thứ đó cho tôi, nghiêm trang. Tôi chắc rằng thấy nhàm chán lắm nhỉ.

      - Ồ! đâu, hoàn toàn , sôi nổi. Tôi rất thích được xem và nghe những điều đẹp đẽ đó. Tôi rất vui vì cũng vậy. sớm thôi, trở thành chuyên gia về nghệ thuật và vãn hoá châu Âu.

      Khi họ đến chỗ chiếc xe, mỉm cười với , lấy tay nâng khuôn mặt tím lại vì lạnh của giữa đôi bàn tay để trần nhưng lại nóng đến ngạc nhiên của mình, và hôn thoáng qua môi .

      - Danke, Edith.

      Rồi . lái xe về nhà như thường lệ, nhưng tay run lên và suýt đâm phải cái xe điện.

      Bộ trưởng Ngoại giao James Baker gặp Bộ trưởng Ngoại giao Iraq Tariq Aziz ở Genève vào ngày 9 tháng Giêng. Đó phải là cuộc gặp kéo dài, và phải là cuộc họp thân thiện. Nó được chủ định như thế. Có phiên dịch - Arập có mặt. dù tiếng của Tariq Aziz là hoàn hảo để có thể hoàn thành công việc gặp mặt người Mỹ, người chậm và rất ràng. Thông điệp của ông ta khá là đơn giản.

      Nếu, trong cuộc chạy đua của mọi đối lực có thể xảy ra giữa hai nước chúng ta, nếu chính phủ chúng tôi bắt gặp vũ khí bị cấm quốc tế là khí độc, tôi được phép thông báo với ông và tổng thống Hussein rằng đất nước của chúng tôi sử dụng vũ khí nguyên tử. Chúng tôi , tóm lại, phá tan hoang Baghdad ra.

      Người Iraq gầy gò, tóc màu ghi hiểu ý nghĩa của thông điệp ngay lập tức nhưng tin vào điều đó. Trong suy nghĩ của mình ông ta nghĩ ai đó lại dám doạ nạt Rais của ông trắng trợn như thế.

      lý do khác, ông chắc ngay lập tức rằng người Mỹ nghiêm túc. Thiệt hại kinh người. khủng khiếp của quả bom nguyên tử. có thể xảy đến với Baghdad. chắc thế chứ? Nó phá huỷ phân nửa Trung Đông, liệu có thể nào?

      Tariq Aziz, khi quay trở về nhà ở Baghdad trở thành người bối rối cực điểm, biết đến ba điều.

      Thứ nhất là cái gọi là những quả bom nguyên tử "sân khấu" của khoa học đại là tiếng vọng xa vời của quả bom Hiroshima năm 1945. Những quả bom mới, "sạch " với độ tàn phá hạn chế được đưa vào, độ phóng xạ để lại sau đó rất ngắn.

      Điều thứ hai là trong chiến hạm Wisconsin, khi đó neo ở Vịnh và được chiếc Missouri đến gia nhập, là ba kho thép hợp kim cực kỳ đặc biệt, đủ mạnh, nếu tàu đắm, để lộ ra trong 10.000 năm nữa. Trong đó có ba tên lửa hành trình Tomahawk mà nước Mỹ hy vọng bao giờ phải sử dụng đến cả. Thứ ba là vị Ngoại trưởng hề đùa cợt chút nào.

      Tướng Sir Peter de la Billière mình trong bóng tối của đêm sa mạc, những suy nghĩ rối bời trong đầu ông. Là lính cả đời chuyên nghiệp và cựu lính chiến, những sở thích của ông khá là khiêm nhường. thể chịu đựng được xa hoa của đô thị, ông cảm thấy là ở nhà mình hơn, thoải mái hơn trong những trại lính và trong các lều với kề cận của những người lính bạn chiến đấu của mình. Cũng giống như những người khác trước ông, ông coi trọng sa mạc Arập - những đường chân trời mênh mông của nó, sức nóng kinh người của nó, và lạnh lẽo kinh người của nó, và nhiều lần là im lìm thê lương của nó.

      Đêm đó, trong chuyến thăm các tuyến mặt trận - trong số các điều mà ông tự cho phép mình làm thường xuyên khi có thể - ông bộ khỏi trại St. Patrick, rời sau lưng mình những chiếc xe tăng Challenger khủng khiếp giữa những tăng, những con thú trầm tĩnh chờ đến giờ phút của mình, và những người lính chuẩn bị bữa tối của mình.

      Khi đó với tư cách là bạn thân của tướng Schwarzkopf và được coi trọng trong mọi cuộc họp hoạch định chiến lược tối mật, vị tướng biết rằng chiến tranh đến gần. Chưa đến tuần trước hạn cuối cùng của Liên Hợp Quốc, vẫn có dấu hiệu nào cho thấy Saddam Hussein có bất kỳ ý định rút quân khỏi Kuwait.

      Cái làm ông lo lắng đêm nay dưới những vì sao của sa mạc Xêut là ông thể hiểu được cái điều chúa tể của Baghdad nghĩ. Là người lính, vị tướng thích hiểu được kẻ thù của mình, đoán biết được những dự tính của họ, những chuyển biến của họ, chiến thuật của họ, và chiến lược chung của họ.

      Cá nhân mà , ông chỉ quan sát người đàn ông ở Baghdad. Những đống hồ sơ tài liệu chất đống miêu tả giết chóc, tra tấn, và những thứ liên quan đến ông ta. Saddam phải là người lính, chưa từng bao giờ, và cái mà tài năng quân thực ông ta có trong quân đội là ông ta tiêu phí hàng đống những tướng lĩnh của mình mà phần lớn những người giỏi nhất đều bị xử lý.

      Đó có thể phải là vấn đề; vấn đề là Saddam Hussein ràng có chỉ huy chung của thứ - chính trị và quân - và với ông ta cái nào thực có ý nghĩa gì hết cả.

      Ông ta xâm chiếm Kuwait vào thời điểm chẳng ra sao và với những nguyên do sai lầm. Khi làm điều đó, ông ta tự mình vứt những cơ hội cho phép các đồng minh Arập của mình mở ra các cơ hội ngoại giao, và vấn đề có thể được giải quyết trong những thương lượng bên trong thế giới Arập với nhau, ông ta chọn con đường đó.

      Đó là ngu ngốc của chính vị độc tài mang đến cho phương tây, và chiếm đóng Kuwait, với tàn bạo của mình và chủ đích sử dụng người phương Tây làm lá chắn sống cho mình. đảm bảo lập hoàn toàn của ông ta.

      Trong những ngày đầu tiên Saddam Hussein có được những vùng dầu lớn nhất của phía đông bắc Arập Xêut trong tay, và ông ta bỏ . Với quân đội và quân của mình dưới chỉ huy của ông ta, ông ta thậm chí có thể đánh đến tận Riyadh và thiết lập chiếm giữ của mình. Ông ta thất bại. và Lá chắn Sa mạc được dựng lên đúng chỗ trong khi những quan hệ công chúng giỏi giang của ông ta xuống ở Baghdad.

      Ông ta có thể khôn vặt, nhưng trong vấn đề khác ông ta là con bò về chiến lược. Và còn nữa, vị tướng lập luận, bằng cách nào mà người lại có thể ngu đến thế dược cơ chứ?

      Ngay cả ở trước mặt quân giờ đây được sắp đặt để chống lại ông ta, Saddam Hussein làm đủ thứ sai lầm, cả về chính trị cũng như quân . Ông ta chẳng hề có ý tưởng nào về việc bị viếng thăm từ bầu trời ư? Liệu ông ta có thực hiểu được mức độ của sức mạnh có khả năng làm tiêu tùng quân đội ông ta xây dựng suốt mười năm trong vòng năm tuần ?

      Vị tướng dừng lại và nhìn chằm chằm qua sa mạc về phía bắc. có trăng đêm nay, nhưng các vì sao của sa mạc sáng đến mức có thể làm lên những đường nét mờ mờ có thể trông thấy bởi chỉ ánh sáng của chúng. Mặt đất phẳng, chạy về mê cung của các bức tường cát, những đường lửa, vùng mỏ, những chỗ linh tinh, tạo nên đường phản công của Iraq, xuyên qua đó các kỹ sư Mỹ của Đội Đỏ có thể làm bay để những xe tăng Challenger có thể tiến lên.

      Ông độc tài Baghdad lại có con át chủ bài nào trong số những cái vị tướng biết được và lo sợ: Saddam có thể chỉ đơn giản rút khỏi Kuwait.

      Thởi gian ở bên phía Liên quân; nó thuộc về Iraq. Ngày 15 tháng Ba kỳ Ramadan thiêng liêng bắt đầu. Trong tháng lương thực nước uống có thể trôi qua những làn môi tín đồ Hồi giáo giữa mãt trời lên và mặt trời lặn. Đêm mới được ăn uống. thể tiến hành chiến tranh với quân đội hành lễ Ramadan, gần như là điều thể.

      Sau ngày 15 tháng Tư, sa mạc có thể trở thành địa nguc, với nhiệt độ lên đến 130 độ. Sức ép có thể khiến những chàng trai phải lui; trong mùa hè, thê thảm của sa mạc có thể trở nên thể chịu đựng nổi. Liên quân có thể phải rút lui, và, khi làm thế, có thể bao giờ còn quay trở lại như thế được nữa. Liên quân chỉ là tượng - lần mà thôi.

      Thế 15 tháng Ba là giới hạn. Lùi lại: chiến tranh bộ có thể kéo dài trong 20 ngày. Nó có thể phải bắt đầu, nếu là nhất thiết, vào 23 tháng Hai. Nhưng Chuck Horner cần 35 ngày kích để đè nát các vũ khí của Iraq, các đơn vị và các thứ phòng thủ của đối phương. 17 tháng Giêng - đó là hạn cuối cùng có thể chấp nhận được.
      Người đàn ông điên rồ này dựa vào cái gì? Vị tướng tự hỏi mình lần nữa. Liệu ông ta có chờ đợi điều gì đó, can thiệp thần thánh theo tưởng tượng của ông ta: cái có thể đẩy lui kẻ thù và khiến ông ta chiến thắng ?

      tiếng động từ trại xe tăng sau ông, ông quay lại. Sĩ quan chỉ huy của Đội Khinh kỵ hoàng gia lreland của , Arthur Denaro, gọi ông về ăn súp. chàng Arthur Denaro vui vẻ, nhộn nhĩ, người được ở trong chiếc xe tăng đầu tiên qua khoảng cách đó ngày nào đó.

      Ông mỉm cười và bắt đầu bước về. là tốt được bước trong cát với người của mình, tung tẩy hạt đậu đóng lon và cầm cái gì đó nghe những giọng sặc lửa, những cái của Lancashire, tiếng gầm gừ của Hampshire, và tiếng nhàng Ireland; để cười vào lê chân và bông đùa, cái từ vựng ghê người của những người sử dụng thứ tiếng trúc trắc để chính xác điều họ muốn , và với hài hước. Chúa đưa người đàn ông này lên phía bắc. Cái quái quỷ gì đợi ông đây?

    6. ^^! Nếu bạn không gửi link bài viết trên Facebook được, hãy sử dụng link trong khung này để chia sẻ bài viết :