CHƯƠNG 8 Mike Martin đến mộ Able Seaman Shepton ở nghĩa địa Sulaibikhat vào ngày đầu tiên của tháng Mười và phát tin nhắn từ Ahmed Al-Khalifa. ngạc nhiên lắm. Nếu Abu Fouad nghe về , cũng có thể nghe về tăng lên ngừng và phát triển của phong trào kháng chiến Kuwait và ánh sáng dẫn đường bí ấn của nó. Rằng cuối cùng họ phải gặp nhau có lẽ là điều thể tránh khỏi. Trong sáu tuần lễ, vị thế của các lực lượng chiếm đóng của Iraq thay đổi rất nhiều. Trong cuộc xâm lấn của mình họ làm ào ào: và họ bắt đầu chiếm đóng với tự tin dâng cao. được bảo đảm rằng trú ngụ ở Kuwait có thể có ý nghĩa như là chinh phục. ảo tưởng rất dễ dàng và có lợi, niềm vui phá huỷ, và sử dụng phụ nữ để giải trí. Kuwait, dù sao nữa, cũng là con bồ câu béo chuẩn bị cho bữa ăn. Nhưng trong sáu tuần, con bồ câu bắt đầu mổ và cào Hơn trăm lính Iraq và tám sĩ quan hoặc mất tích hoặc bị tìm thấy chết. Những biến mất có thể phải lúc nào cũng có thể giải thích bằng sơ sảy. Lần đầu tiên, các lực lượng chiếm đóng trải nghiệm nỗi sợ hăi. Các sĩ quan còn dám dạo chơi với chiếc xe riêng của mình mà phải có xe chở đội hộ vệ kèm. Các toà nhà đại bản doanh phải được canh gác ngày cũng như đêm, khiến các sĩ quan Iraq mất ngủ vì bị gọi dậy nhiều. Đêm trở thành quãng thời gian thể đâu hết. trừ khi di chuyển theo đội đông người. Các đội gác đường sâu vào trong trại của mình khi đêm tối buông xuống. Và mìn vẫn cứ nổ, những chiếc xe nổ tung cháy ầm ĩ hay dược nhận về với máy móc hỏng hết cả, những quá lựu đạn vẫn vung ra, và những người lính biến mất với cổ họng bị cứa đứt thành lỗ. kháng cự dâng cao buộc hội đồng chỉ huy tối cao phải thay Quân đội Nhân dân bằng các lực lượng đặc biệt. các đội quân chiến đấu tinh nhuệ luôn đứng ớ tuyến đầu trong trường hợp người Mỹ tới. Vào đầu tháng Mười với Kuwait phải là, như tiếng vọng của câu của Churchill, bắt đầu của cái kết cục, mà là kết cục của cái bắt đầu. Martin có cách nào để trả lời bức thông điệp của Al-Khalifa khi đọc nó trong vựa lúa, do đó cho đến ngày hôm sau mới đặt câu trả lời của mình vào đó. đồng ý gặp, , nhưng chỉ với những điều kiện của . Để lợi dụng đêm tối nhưng để tránh giờ thiết quân luật vào 10 giờ, hẹn gặp vào lúc bảy giờ rưỡi . cho địa diểm chính xác để Abu Fouad có thể đỗ xe của mình và khoảng rừng nơi họ có thể gặp nhau. Địa điểm ấn định nằm ở quận Abrak Kheitan, rất gần với đường quốc lộ từ thành phố sân bay giờ bị chiếm giữ và hoạt động. Martin biết nó là khu vực xây bằng đá theo cổ truyền những ngôi nhà với mái ngói bằng. trong số những mái nhà đó có thể ngồi đợi hai giờ đồng hồ trước cuộc gặp để xem liệu viên sĩ quan người Kuwait có bị theo đuôi và bị ai theo nếu có: các vệ sĩ của chính ông ta hay là người Iraq. Trong môi trường đầy thù địch như thế này, viên sĩ quan SAS vẫn tự tin vào trận. chẳng hề biết gì về quan niệm của Abu Fouad về an toàn và được chuẩn bị là ông ta kinh khủng đến thế. ra cuộc hẹn cho đêm đó ngày mồng 7 và để lại câu trả lời giữa tấm bia mộ. Ahmed Al-Khalifa lấy nó vào mồng 4. Tiến sĩ John Hipwell chưa từng bao giờ bị gọi trong cuộc trò chuyện thông thường đến thế đối với nhà vật lý nguyên tử, để lại nhà khoa học làm việc trong an toàn chặt chẽ của Tổ chức Nghiên cứu Vũ khí Hạt nhân ở Aldermaston vẽ ra những thứ vũ khí plutonium cho những hoả tiển Trident sắp được ra đời. người quan sát thoáng qua cho rằng ông là nông dân chất phác của Home Counties, hơn nữa còn bận rộn tính toán ở phiên chợ quê chứ phải giám sát những cái đĩa khủng khiếp chứa chất plutonium trong vàng ròng. Mặc dù thời tiết vẫn còn dịu khi Hipwell lại xuất trở lại trước Hội đồng Medusa, ông mặc, như vào tháng Tám. chiếc quần soóc kẻ ô vuông, ca vát bằng len, và áo jacket tweed. đợi được hỏi, ông dùng hai bàn tay hồng hào to tướng nhồi và bập cái tẩu dài thứ thuốc lá nặng để bắt đầu báo cáo của mình. Ngài Paul Spruce dí sát cái mũi nhọn của mình vẻ kinh tởm và bật máy điều hoà nhiệt độ để tránh mùi. - Rồi, thưa các ngài, tin tốt là người bạn Saddam Hussein của chúng ta có bom nguyên tử có thể dùng được. Chưa có đâu, còn lâu cơ. Tiến sĩ Hipwell . như là biến mất vào làn khói màu xanh nhợt nhạt. Ngừng chốc trong khi ông rít hơi thuốc. Terry Martin thấy vui, nếu bạn mạo hiểm hít vào người liều thứ khí plutonium chết người mỗi ngày, cái tẩu cũ kỹ kia đúng là chẳng hề mùi mẽ gì hết. Tiến sĩ Hipwell thoáng liếc vào các ghi chép của mình. - Iraq con đường làm quả bom nguyên tử cho riêng mình từ giữa những năm 1970, khi Saddam Hussein thực lên nắm quyền. Có vẻ như đó là nỗi ám ảnh của ông ta. Trong những năm đó Iraq mua lò phản ứng hạt nhân nguỵên chiếc từ Pháp -cái bị Hiệp ước loại trừ hạt nhân năm 1968 ngó ngàng dến vì nguyên nhân hợp lý đó. Ông hài lòng liếm và rít hơi thuốc nữa. Lại ngó những giấy tờ của mình. - Tha lỗi cho tôi. ngài Paul . Cái lò phản ứng đó có phải là cho mục đích sản xuất điện ? - Có vẻ là như thế. Hipwell nhất trí. Hoàn toàn là bịa đặt. dĩ nhiên rồi, và nước Pháp cũng thừa biết điều đó. lraq có trữ lượng dầu lửa lớn thứ ba thế giới. Họ có thê có trạm sản xuất năng lượng chạy dầu với gía rẻ. , vấn đề là cung cấp lò phản ứng hạt nhân với chất uranium làm nghèo, gọi là bánh vàng hay caramel, thế là có thể thuyết phục người ta bán nó . Sau khi sử dụng trong lò phản ứng, cái sản phẩm cuối cùng là chất plutonium. Có những cái gật đầu xung quanh bàn. Mọi người đều biết rằng lò phản ứng hạt nhân của tại Sellafield tạo ra điện cho năng lượng và làm ra chất pluto và chuyển đến Hipwell theo cầu của ông ta. - Thê là người lraq vào việc. Hipwell . Đội đầu tiên trong số các đội biệt kích của họ gỡ cái turbine khổng lồ ở Toulon trước khi nó được đưa xuống tàu, đấy là dự án hai năm trước đây. Rồi vào năm 1981, khi các nhà máy Osirak 1 và 2 quý giá của Saddam chuẩn bị bắt đầu vào hoạt động, các máy bay ném bom của lsrael bay vào và ném bom. Kể từ đó: Saddam chưa bao giờ tiếp tục mua cái lò hạt nhân nào nữa cả. Sau thời gian ngắn, ông ta thôi cố nữa . - Thế quái nào mà ông ta lại làm vậy. Harry Sinclair từ đầu bàn của mình hỏi. Bởi vì ông ta chuyển hướng: Hipwell với nụ cười rộng: như người giải xong ô chữ trong thời gian kỷ lục. Cho đến bây giờ, ông ta theo đuổi con đường plutonium. Với thành công ở mức nào đó, dù sao chăng nữa. Nhưng đủ đâu. Chưa đủ. - Tôi hiếu. ngài Paul Spruce hỏi. Đâu là khác biệt giữa quả bom nguyên tử dựa plutonium và quả uranium? - Uranium đơn giản thôi. nhà vật lý trả lời. Xem này. có nhiều chất phóng xạ có thể sử dụng cho phản ứng dây chuyền. nhưng với quả bom nguyên tứ đơn giản, nền tảng, có tác dụng của các ông uranium là chìa khoá đấy. Đó là hướng của Saddam kể từ sau 1982 - quả bom dựa uranium cơ bản. Ông ta chưa có được nó, nhưng ông ta vẫn thử, và ngày nào đó có được thôi. Hipwell ngồi xuống với tiếng thở, như là ông tạo ra sáng tạo đầu tiên huyền bí. Cũng giống như phần lớn những người ngồi xung quanh bàn. Spruce vẫn còn rất lúng túng. - Nếu ông ta có thể mua uranium đó cho cái lò phản ứng bị phá huỷ của mình, tại sao ông ta làm quả bom với nó? ông hỏi. Hipwell chồm lên câu hỏi như người nông dân lên món lợi lớn. - Có nhiều loại uranium khác nhau lắm, ông bạn thân mến ạ. Cái loại đấy buồn cười lắm, uranium ấy. Rất hiếm. Từ nghìn tấn quặng uranium, ông chỉ có thể thu được khối bằng cái hộp xì gà mà thôi. Bánh vàng. Nó được gọi là uranium tự nhiên, với số nguyên tố là 238. Ông có thể chạy lò phản ứng công nghiệp với chừng ấy, nhưng làm được quả bom đâu. Chưa đủ độ tinh khiết. Để làm quả bom ông cần có số nguyên tố hơn, uranium 235. - Thế làm thế nào để có được nó? Paxman hỏi. - Nó nằm ở trong bánh vàng ấy. Trong cái khối cỡ hộp xì gà đó có đủ uramum 235 để dán dưới cái móng tay mà chẳng hề hấn gì hết cả. Quỷ quái là làm thế nào để tách được chúng ra. Nó được gọi là tách nguyên tố. Rất khó, rất kỹ thuật, rất đắt, và rất lâu. - Nhưng ông lraq có được nó rồi, Sinclair lưu ý. - có nhưng giờ chưa, Hipwell . Chỉ có cách khả thi để làm trong và lọc được bánh vàng cho chín mươi phần trăm tinh khiết cần thiết. Nhiều năm trước, trong kế hoạch Manhattan, các đồng hương của ông thử rất nhiều phương pháp. Họ có kinh nghiệm lắm đấy chứ? Ernest Lawrence thử cách, Robert Oppenheimer thử cách khác. Trong những ngày đó họ sử dụng cả hai phương pháp với tốc độ khẩn trương và tạo ra đủ uranium 235 để chế tạo Little Boy. - Sau chiến tranh phương pháp ly tâm được phát minh và dần được hoàn thiện. Giờ đây chỉ có phương pháp này được sử dụng. về nền tảng, ông nhét quặng vào thứ gọi là máy ly tâm, nó xoáy nhanh đến nỗi toàn bộ quá trình được thực trong chân . Dần dần những nguyên tố nặng hơn, cái mà ông muốn, bị rơi ra ngoài cái lò tâm và nát ra. Cái còn lại là ít chất đó tinh khiết hơn là khi ông bắt đầu. Chỉ có tí chút thôi. Ông phải làm làm lại việc đó hàng nghìn tiếng đồng hồ, chỉ để có được tí ti uranium đủ cấp để làm bom với kích thước chỉ bằng cái tem thư. - Nhưng ông ta làm thế chứ ? Ngài Paul nằn nì. - Đúng vậy. làm nó từ khoảng năm nay. Những cái lò ly tâm đó... để tiết kiệm thời gian chúng ta nối chúng lại thành các dãy, gọi là các tầng. Nhưng ông cần hàng nghìn cái máy ly tâm đó để tạo được tầng. - Nếu họ lao vào đó kể từ năm 1982, tại sao đến giờ vẫn chưa có? Terry Martin hỏi. - Các ông vào cửa hàng bán đồ sắt và mua được cái máy ly tâm chạy bằng gas được đâu, Hipwell chỉ ra. Đầu tiên họ thử nhưng thất bại - các tài liệu cho thấy điều đó. Kể từ năm 1985 họ mua các linh kiện để dựng lên cái của chính họ. Họ có khoảng 500 tấn bánh vàng uranium nguyên thuỷ, nửa trong số đến từ Bồ Đào Nha. Họ mua phần lớn công nghệ ly tâm từ Tây Đức. - Tôi nghĩ Tây Đức ký các thoả thuận quốc tế đầy đủ hạn chế công nghệ sản xuất bom nguyên tử rồi cơ mà, Paxman phản đối. - Có thể họ làm vậy. Tôi thể nào biết được về chính trị, nhà khoa học . Nhưng họ có được các mẩu và các linh kiện từ mọi nơi. Các ông cần thép tinh vi, thép siêu cứng, tàu chống rung, van đặc biệt, các lò đun nhiệt độ rất cao gọi là các lò "sọ người" bởi vì trông chúng giống như vậy, cộng với các bơm chân và dưới đó - đó là cả công nghệ dây chuyền đấy. ít thôi, rồi kỹ năng nữa, đến từ Tây Đức. - Cho tôi hỏi thẳng nhé. Sinclair , liệu Saddam có các máy ly tâm tách nguyên tố hoạt động được chưa? - Có rồi, có tầng. Nó vận hành chừng năm nay. Và cái khác nữa sớm được đưa vào sử dụng nay mai. - Thế ông có biết tất cả những thứ thối tha đó ở đâu ? - Nhà máy có tầng ly tâm ở nơi có tên Taji - ở đây này. Nhà khoa học chìa ra bức ảnh chụp từ ra trước mặt người Mỹ và khoanh vùng loạt những toà nhà công nghiệp. Cái tầng dường như hoạt động ở ngầm dưới đất đâu đó xa cái lò hạt nhân cũ của Pháp ở Tuwaitha lắm, cái lò mà họ gọi là Osirak. Tôi biết liệu các ông có thể tìm thấy nó với cái máy bay ném bom nữa - chắc chắn nó ở dưới đất và được nguỵ trang rất kỹ. - Thế còn cái tầng mới? - biết gì hết cả. Hipwell . Có thể ở bất cứ nơi đâu - Có khả năng ở chỗ khác chăng, Terry Martin đề xuất Người lraq thường tiến hành nhân đôi và giả mạo bao giờ để tất cả trứng vào trong cùng giỏ để rồi người lsrael thổi bay tất cả. Sinclair càu nhàu. - Sao ông có thể chắc- ngài Paul hỏi- rằng Saddam Hussein thể có được quả bom đó? - Thực thế, nhà vật lý . Đó là vấn đề thời gian. Ông ta có đủ thời gian. Để cho quả bom nguyên tử cơ bản nhưng hữu dụng ông ta cần 30 đến 35 kg uranium 235 tinh khiết. Mới chỉ bắt đầu công việc được có năm, dù có được cái nếp vận hành suốt 24 giờ ngày - cái đó là thể - chương trình khó đến thế cần ít nhất 12 tiếng cho mỗi ly tâm. Ông cần có 1000 lần xoáy để có được từ phần trăm đến chín mươi ba phần trăm tinh khiết đòi hỏi. Cần 500 ngày quay. Nhưng rồi khi nó sạch, phục vụ được, còn phải bảo trì, rồi còn hỏng hóc nữa chứ. Ngay cả với nghìn cái lò ly tâm vận hành trong cái tầng bây giờ cũng như trong năm vừa qua, ông cũng phải cần đến năm năm. Đưa thêm tầng nữa vào năm tới - có thể rút ngắn xuống còn có ba năm. - Thế ông ta có 35 kg cho đến 1993 hay sao? Sinclair chèn vào. - , ông ta thể. - câu hỏi cuối cùng: nếu ông ta có được uranium, mất bao nhiêu lâu mới có được quả bom nguyên tử? - lâu đâu. Chỉ vài tuần thôi. ông thấy đấy, nước quan tâm đến việc làm ra quả bom cho riêng mình có khía cạnh cơ khí phát triển song song. Cơ khí, bom phải tất cả đều phức tạp, miễn là ông biết ông làm gì. Và Jaafar cũng thế - ông ta biết mất bao lâu để xây dựng cái và kích hoạt nó. Mẹ kiếp, chúng tôi đào tạo ông ta ở Harwell. Nhưng vấn đề là, chỉ tính riêng về thời gian thôi, Saddam Hussein cũng thể có đủ uranium đâu. 10 kg, thế là quá rồi ông ta cần ít nhất là ba năm nữa cơ Tiến sĩ Hipwell được cảm ơn vì những tuần lễ làm phân tích, và cuộc họp kết thúc. Sinclair có thể quay trở về Đại sứ quán của mình và viết ra những ghi chép lằng nhằng, những cái quay trở về Mỹ với mật mã rất khó dò. Ở đó chúng có thể được so sánh với các phân tích của các đối tác của nước Mỹ - các nhà vật lý từ các phòng thí nghiệm của Sandia, Los Alamos, và đặc biệt là Lawrence Livermore ở California, nơi trong nhiều năm nay phần bí mật có tên đơn giản là phòng Z giám sát mở rộng vững chắc của công nghệ nguyên tử khắp thế giới nhân danh Bộ Ngoại giao và Lầu Năm Góc. Mặc dù Sinclair có thể biết, các kết quả của các đội người và người Mỹ có thể khẳng định lẫn nhau với mức độ khá cao. Terry Martin và Simon Paxman rời khỏi cuộc họp đó và dạo qua Whitehead trong buổi hoàng hôn đầu tháng Mười. - Phải nhắc lại, Paxman , là ông già Hipwell khá hấp dẫn đấy. Có vẻ như là người Mỹ nhất trí. Rằng lão con hoang đó ở gần quả bom nguyên tử của rồi. Chẳng khác gì cơn ác mộng. Họ chia tay nhau ở góc phố, Paxman qua sông Thames để đến Nhà Thế kỷ, Martin qua quảng trường Trafalgar và theo ngõ St. Martin để đến phố Gower. Biết được cái mà Iraq có, hay thậm chí có khả năng có, là việc. Tìm chính xác ở đâu có chúng lại là chuyện khác hẳn. Việc chụp hình vẫn tiếp tục. Những chiếc KH-11 và KH- 12 vẫn bay qua thiên đường trong nhịp điệu vĩnh cửu của mình, chụp lại những gì chúng nhìn thấy đất Iraq dưới chân chúng. Tháng Mười, thiết bị khác được đưa vào bầu trời, máy bay trinh sát Mỹ bí mật đến nỗi đồi Capitol cũng chẳng hề hay biết. Được mang biệt danh Aurora, nó bay bên rìa gian, đạt đến tốc độ của Mach 8, gần 5000 dặm môi giờ, mang theo đạn dược - đó là hiệu ứng ramjet - rất xa các ra đa của Iraq hay những quả hoả tiễn đối . Thậm chí cả công nghệ tuyệt vời của Liên Xô cũng dò được Rạng Đông, cái thay thế Chim Đen huyền thoại SR- 71 . mỉa mai, trong khi Chim Đen được bỏ ra khỏi phi vụ cái khác thậm chí còn già lão hơn "lòng tin cũ" lại bay bầu trời Iraq mùa thu đó. gần 40 năm tuổi, có biệt hiệu Bà Rồng. chiếc U-2 vẫn bay và vẫn chụp hình. Quay trở lại năm 1960 khi Gary Powers bị bắn hạ trong chiếc U 2 bầu trời Sverdlovsk, Xibêri, và chính chiếc U-2 này phát những tên lửa đầu tiên của Liên Xô được lắp đặt ở Cu ba trong mùa hè năm 1962, thậm chí ngay cả Oleg Penkovsky cũng cho chúng là vũ khí tấn công chứ phải phòng vệ, do đó thổi bay các phản đối nực cười của Khrushchev và chỉ ra những mầm mống của phá huỷ thực tế của chính mình. Chiếc U-2 của năm 1960 được trang bị lại như "máy nghe" hơn là "máy nhìn' và được thiết kế lại TR-l, mặc dù nó vẫn chụp ảnh. Tất cả những thông tin này, từ các giáo sư và các nhà khoa học, các nhà phân tích và phiên dịch, những người theo dõi và những người nhìn, nhưng người phỏng vấn và những người tìm tòi, xây dựng hình ảnh về Iraq thông qua mùa thu năm 1990, và bức tranh đầy đe doạ có. Từ hàng nghìn nguồn tin khác nhau cuối cùng cũng được xâu chuỗi lại vào căn phòng rất bí mật hai tầng dưới đại bản doanh lực Arập Xêut đường Sân bay cũ. Căn phòng, nằm dưới con đường từ đó các quan chức quân ngồi hội họp và thảo luận về những kế hoạch được phép của mình (bởi Liên Hợp Quốc) với xâm chiếm của Iraq, được gọi đơn giản là "Lỗ Đen". Chính tại Lỗ Đen các chuyên gia lập kế hoạch và Mỹ rút ra từ ba cơ quan của mình và từ mọi cấp bậc, chỉ vào các địa điểm có thể bị tiêu huỷ. Cuối cùng, họ có thể tạo nên bản đồ chiến của tướng Chuek Horner. Nó chứa đựng 700 mục tiêu. 600 là mục tiêu quân - theo nghĩa là các trung tâm chỉ huy. cầu, sân bay, kho đạn, các hầm chứa thuốc nổ, các địa điểm có tên lửa, và các trại tập trung quân lính. trăm mục tiêu khác là những cái có liên quan đến các vũ khí của huỷ diệt, toàn bộ - các thiết bị nghiên cứu, các nhà máy sản xuất theo dây chuyền, các phòng thí nghiệm hoá học, các kho cảng. Tầng ly tâm ở Taji được đưa vào danh sách như là cái gần kề, được biết, vị trí của cái tầng ly tâm ngầm dưới đất ở đâu đó trong khu Tuwaitha. Nhưng cái nhà máy sản xuất nước đóng chai ở Tarmiya lại có trong danh sách: Al Qubai cũng . ai biết gì về chúng hết cả. bản sao của báo cáo toàn diện do Harry Sinclair lập ở London được mang đến cùng với những báo cáo khác từ nhiều bộ phận của nước Mỹ và ở nước ngoài. Cuối cùng, tổng hợp của tất cả những nghiên cứu chuyên sâu đó đến được với nhóm rất và rất kín đáo của Bộ Ngoại giao gọi là bộ não, chỉ được nhóm rất hạn chế ở Washington như Tình báo Chính trị và Nhóm Phân tích biết đến. PIAG là kiểu trung tâm phân tích các vấn đề ngoại giao và sản xuất ra các bản báo cáo tuyệt đối dành cho tiêu dùng của quần chúng. thực tế, đơn vị chỉ trả lời cho Bộ trưởng Ngoại giao, thời đó là James Baker. Hai ngày sau. Mike Martin nằm ngửa mái ngói cho phép nhìn toàn bộ phần Abrak Kheitan nơi hẹn gặp Abu Fouad. Khá chính xác vào giờ hẹn, nhìn thấy chiếc xe ôtô đơn độc rời khỏi đường cao tốc Keng Faisal hướng về sân bay và vào trong phố ven đường. Chiếc xe từ từ thả xuôi phố, tách khỏi những chiếc đèn sáng của đường cao tốc và dòng xe cộ, và vào trong bóng tối. nhìn thấy chiếc xe dừng ở chỗ miêu tả trong bức thông điệp gửi Al-Khalifa. Hai người ra, người đàn ông và phụ nữ. Họ nhìn quanh, kiếm tra chiếc xe nào theo từ đường cao tốc, và bước chầm chậm, đến chỗ nơi đám cây quây lấy khoảnh đất trống. Abu Fouad và người đàn bà được cho biết là phải đứng chờ nửa giờ đồng hồ. Nếu người Bedou xuất , họ phải rời và quay trở về. Họ chờ đến 40 phút trước khi quay trở lại chiếc xe. Cả hai đều bực tức. - ta chắc bị tóm rồi, Abu Fouad với người đồng hành. đội lraq, có thể lắm. Ai biết? Dù sao, mẹ kiếp. Tôi lại phải bắt đầu lại. - Tôi nghĩ ông điên khi tin ta. Người phụ nữ . ông chẳng hề biết ta là ai hết cả. Họ rất ngắn gọn, chỉ huy kháng chiến Kuwait nhìn quanh phố để chắc có tên lính Iraq nào xuất khi ông - ta thành công và tinh quái, và ta làm việc như kẻ chuyên nghiệp ấy. Đó là mọi thứ tôi cần phải biết. Tôi muốn hợp tác với , nếu ta sẵn lòng. - Thế tôi chẳng có gì chống lại điều đó hết cả. Người phụ nữ bật ra tiếng kêu khẽ. Abu Fouad nhảy dựng lên chiếc ghế của mình. - Đừng quay ngang ngửa. Chỉ chuyện thôi. giọng từ ghế sau vang lên. Từ gương chiếu hậu người Kuwait chỉ nhìn thấy lờ mờ chiếc keffiyeh Bedouin và bắt được mùi hôi. Ông thở phào nhõm. - di chuyển êm dấy. Bedou ạ. - cần gây tiếng động. Abu Fouad ạ. Nó làm bọn lraq để ý. Tôi thích thế, trừ khi tôi sẵn sàng. Răng Abu Fouad nảy lên dưới chòm ria rậm. - Tốt lắm. Bây giờ chúng ta tìm được nhau rồi. chuyện vậy. Nhân tiện, tại sao lại trốn vào trong xe? - Nếu cuộc gặp này là cái bẫy đối với tôi, những lời đầu tiên của ông khi quay về xe khác nhiều. - Tự để lộ... - Tất nhiên. - Rồi sao - Ông có thể chết. - Hiểu rồi. - Ai cùng ông thế Tôi hề nêu là có người cùng cơ mà. - hẹn gặp. Chính tôi cũng tin cơ mà. ấy là đồng đội đáng tin. Asrar Qabandi. - Rất tốt. Hân hạnh, Qabandi. ông muốn về cái gì nào? - Về súng ống, Bedou ạ. Những khẩu súng máy Kalashnikov, lựu đạn đại, Semtex-H. Người của tôi có thể làm tốt hơn với những cái đó. - Người của ông bị bắt, Abu Fouad ạ. Mười người bị vây trong ngôi nhà bởi cả đội lính bộ binh Iraq dưới chỉ huy của AMAM. Tất cả đều bị bắt. Tất cả đều còn rất trẻ. Abu Fouad im lặng. Đó là thảm họạ rất lớn. - Chín thôi. cuối cùng ông . Người thứ mười giả chết và bò trốn được. ta bị thương, và chúng tôi chăm sóc ta. Đó là người với chúng tôi. - gì? - Rằng họ bị phản bội. Nếu ta chết, chúng tôi thể biết được. - A, phản bội. Luôn luôn là mối nguy hiểm trong phong trào kháng chiến. Thế còn kẻ phản bội? - Chúng tôi biết rồi, tất nhiên. Chúng tôi nghĩ có thể tin được. - Nhưng đáng tội? - Có vẻ là như thế. - Chỉ có vẻ thôi à? Abu Fouad gật đầu. - Người sống sót thề là chỉ có người thứ mười biết được cuộc họp, và địa chỉ. Nhưng cũng có thể có rò rỉ ở chỗ nào đó, hoặc ai đó trong số họ bị theo đuôi . . . - Thế cần phải kiểm tra nghi chứng này. Và nếu ta có tội, phải bị trừng phạt. Qabandi, liệu có thể cho chúng tôi chuyện riêng lúc được ? Người phụ nữ trẻ liếc nhìn sang Abu Fouad, ông gật đầu. ra khỏi xe và trở lại chòm cây. Người Bedou cẩn trọng với Abu Fouad chi tiết điều muốn ông ta làm. - Tôi rời khỏi nhà cho đến bảy giờ, kết thúc. Thế dù hoàn cảnh thế nào ông cũng phải gọi điện vào bảy giờ rưỡi. Hiểu chưa? Người Bedou trườn ra khỏi chiếc xe và biến mất giữa những lối tối đen chạy giữa các ngôi nhà. Abu Fouad lái xe lên phố và đón Qabandi. Hai người về nhà. Người Bedou bao giờ gặp lại người phụ nữ nữa. Trước ngày giải phóng Kuwait, Asrar Qabandi bị AMAM bắt, bị tra tấn hết sức dă man, bị hiếp tập thể, bị bắn, và chặt tay chân. Trước khi chết. hề điều gì hết cả. Terry Martin gọi điện cho Simon Paxman, người lao đầu vào công việc và muốn bị cắt đứt. ta cần vị giáo sư cho các nghiên cứu bằng tiếng Arập và Paxman nên mới cầm lấy máy điện thoại. - Tôi biết tôi là kẻ quấy rầy. nhưng có quan hệ gì với bên GCHQ ? - Có chứ. dĩ nhiên rồi. Paxman . Chủ yếu với bên chuyên trách Arập. Biết giám đốc ở đó. - Thế liệu có thể gọi ông ta cú và hỏi ông ta có muốn gặp tôi ? - Mấy hôm nay lraq kinh khủng quá. Tôi nghiên cứu tất cả các bài phát biểu của Saddam: tất nhiên, và thấy rất nhiều lời tuyên bố về con tin và những lá chắn người và thấy PR vô tuyến. Nhưng tôi muốn biết liệu có cái gì khác bị lấy . cái được làm sáng tỏ bởi Bộ Tuyên truyền. - Tốt thôi. cái việc mà GCHQ làm ấy, Paxman công nhận. Tôi biết tại sao nữa. Nếu từng ngồi với những người của Medusa, có thể biết hơn đấy. Tôi gọi điện cho ông ta. Chiều đó, qua hẹn gặp, Terry Martin lái xe về phía tây đến Gloucestershire và tự giới thiệu ở cánh cổng canh gác cẩn mật của dãy những toà nhà và ăng ten dựng lên cánh tay thứ ba quan trọng của tình báo bên cạnh MI-6 và MI-5, Đại bản doanh của cơ quan liên lạc chính phủ- Giám đốc bộ phận Arập là Sean Plummer, dưới ông chính là ông Al-Khouri người kiểm tra tiếng A rập của Mike Martin tại hàng ăn Chelsea mười tuần trước đây, mặc dù cả Terry Martin lẩn Plummer đều biết. Ông giám đốc đồng ý gặp Terry Martin vào giữa ngày làm việc bận rộn vì, là đồng nghiệp Arập. ông nghe về vị học giả trẻ tuổi của SOAS và ngưỡng mộ nghiên cứu độc đáo của ông về Abassid Caliphate. - Nào. tôi có thể làm gì cho ông đây? ông hỏi khi họ ngồi với tách trà bạc hà, xa xỉ mà Plummer tự cho phép để thoát ra khỏi những thứ cà phê công vụ khốn khổ. Martin giải thích rằng ngạc nhiên trước ít ỏi của số lượng những đoạn băng nghe trộm ở Iraq. Mắt Plummer ánh lên. - Ông đúng, dĩ nhiên rồi. Như ông biết đấy. những người bạn Arập của chúng ta có ý định chơi nổi lắm. Mấy năm trước, đường dây có khả năng hỏng mất rồi. Bây giờ, cả tính cách quốc gia cũng thay đổi rồi, hay... - Những cái dây bị cháy, Martin . Chính xác- Có vẻ như là Saddam và những người của ông ta thiêu cháy hơn 40-50 nghìn dây cáp liên lạc fiber-optic. Đó là cái mà họ đến đấy. Với tôi, cái đó tuyệt đối là rất bậy. Làm thế nào tôi có thể đưa cho các vị lãnh đạo ở London này hàng đống báo cáo thời tiết ớ Baghdad và về những danh sách giặt là của mẹ Hussein? - Đó là cách chuyện của ông ta, Martin nhận xét. Công việc của Plummer phụ trách nhiều hơn thế nhiều. - Họ vẫn dĩ nhiên - bộ trưởng, công chức, tướng lĩnh chuyện gẫu giữa các tay chỉ huy xe tăng biên giới Xêut. - Nhưng những cú điện thoại nghiêm túc. tuyệt mật bị ngăn trung. bao giờ thấy được. Thế ông muốn nghe gì nào? Trong bốn tiếng đồng hồ tiếp theo. Terry Martin căng mắt dãỵ những đoạn băng nghe trộm. Những đoạn băng quá ràng; tìm cái gì khác trong cú điện thoại được báo trước, từ nhịu, lỗi. Cuối cùng đóng các hồ sơ lại. - Liệu ông- hỏi-có thể để ý đến mọi thứ, cả những cái có vẻ ngớ ngẩn nhất ? Mike Martin bắt đầu nghĩ rằng ngày nào đó nên viết cuốn sách giới thiệu du lịch về các mái nhà của Kuwait City. bỏ ra thời gian cực kỳ nhiều nằm trong số chúng theo dõi khu vực bên dưới mình. Mặt khác. chúng trở thành những vị trí tuyệt vời cho các LUP, các vị trí rình mò. nằm trong số đó gần như suốt hai ngày hôm nay, theo dõi ngôi nhà mà địa chỉ trao cho Abu Fouad. Nó là trong sáu cái mà mượn của Ahmed Ai- Khalifa, và cái mà có lẽ bao giờ sử dụng nữa. Mặc dù hai ngày trôi qua kể từ khi trao địa chỉ cho Abu Fouad và có gì có vẻ xảy ra cho đến đêm nay, mồng 9 tháng Mười, nhưng vẫn tiếp tục theo dõi, ngày cũng như đêm, sống bằng ít bánh mỳ và hoa quả. Nếu những người lính lraq đến trước bảy giờ rưỡi tối ngày mồng 9, có thể biết được ai phản bội mình - chính Abu Fouad. liếc nhìn đồng hồ. Bảy giờ rưỡi. Viên đại tá người Kuwait nên gọi vào lúc này: như được chỉ dẫn trước. Bên kia thành phố, Abu Fouad thực tế cầm điện thoại, ông ta quay số, có người trả lời khi chuông reo lần thứ ba. - Salah phải ? - Phải, ai đấy? - Chúng ta từng gặp nhau. nhưng tôi nghe nhiều thứ hay ho về ông lắm đấy - rằng ông trung thành và dũng cảm, trong số chúng tôi. Người ta biết tôi với cái tên Abu Fouad. ngừng lại ở đầu dây. - Tôi cần giúp đỡ của ông, Salah ạ. Liệu chúng tôi, phong trào, dựa vào ông được ? - Ồ được chứ, Abu Fouad. Xin hãy cho tôi ông muốn làm gì. - phải chỉ cá nhân tôi, mà là người bạn. ta bị thương và yếu lắm. Tôi biết ông là dược sĩ, ông phải cho ta uống thuốc ngay lập tức - băng bó, sát trùng, diệt khuẩn. - Ông bao giờ nghe về người tên là Bedou chưa? - Rồi chứ, dĩ nhiên. Nhưng thế có nghĩa ông ông biết ta? - đâu. nhưng chúng tôi từng làm việc cùng với nhau trong nhiều tuần nay. ta đặc biệt quan trọng đối với chúng tôi đấy. - Tôi xuống thang chỗ cửa hàng ngay lúc này và chọn những đồ ta cần và mang chúng đến cho ta. Tôi có thể tìm thấy ta ở đâu? - ta náu ở ngôi nhà tại Shuwaikh và thể nhúc nhích được. Hãy mang đến đó bút chì và giấy. Abu Fouad đọc địa chỉ ông ta được đưa. Ở đầu dây bên kia người đàn ông chép lại. - Tôi lái xe ngay đây, Abu Fouad. Ông có thể tin tưởng ở tôi, Salah dược sĩ . - Ông là người tốt đấy. ông được thưởng xứng đáng. Abu Fouad bỏ máy. Người Bedou ông có thể gọi điện khi hoàng hôn xuống khi có gì xảy ra, và có thể xác minh lòng trung thành của viên dược sĩ. Mike Martin nhìn, đúng hơn là nghe, tiếng chiếc xe tải đầu tiên ngay trước tám giờ rưỡi. Nó vận hành, cái máy tạo ra tiếng động, và nó qua ngã tư của phố trước khi đến chỗ dừng cách xa đó vài yard và ở ngoài tầm nhìn. Martin gật đầu. - Chiếc xe tải thứ hai cùng làm như thế lúc sau. Từ mỗi chiếc xe, hai mươi người chậm rãi xuống, những chiếc mũ bê rê xanh với những người biết họ làm gì. Những người đàn ông vào theo hàng dọc phố, được dẫn đầu bởi sĩ quan mặc đồ dân . Cái dish-dash màu trắng của ta chìm nửa vào bóng tối. Với tất cả những cái bảng tên phố bị dỡ xuống, những người lính cần đến người dẫn đường để tìm ra con phố. Nhưng số nhà vẫn còn. Người mặc đồ dân dừng lại trước ngôi nhà, nhìn bảng số, và đưa tay chỉ. Viên đại uý chỉ huy có cuộc chuyện ngắn gọn, thào với viên trung sĩ của mình: người mang theo 15 người xuống cái lốí bên cạnh để vây đăng Được số lính còn lại sau, viên đại uý thử mở chiếc cửa sắt vào cái vườn . Nó mở. Họ vào trong. Trong vườn viên sĩ quan có thể nhìn thấy ánh đèn mờ ảo trong căn phòng tầng . Phần lớn tầng dưới là cái gara ôtô để trống. Ở cửa trước là những thứ linh tinh. Viên đại uý thử mở tay nắm: thấy nó bị khoá, và ra hiệu cho người lính ở đằng sau mình. Người đàn ông bắn phát từ khẩu súng trường tự động của mình vào ổ khoá trong cánh cửa gỗ và cửa mở toang ra.
Với viên đại uý dẫn đầu, đội lính mũ xanh tiến vào trong. số đến những căn phòng tầng dưới u tối: viên đại úy và số lính còn lại thẳng vào phòng ngủ chính. Từ bậc thềm giữa hai tầng viên đại uý có thể trông thấy bên trong của cái buồng ngủ có giường thấp, cái ghế bành với chỗ dựa quay ra cửa và cái keffiyeh vắt nóc. ta bắn. đại tá Sabaawi của AMAM chỉ : người đó cần được bắt sống để thẩm vấn. Khi ta lao lên trước, viên sĩ quan trẻ cảm thấy cái lưới bắt cá bằng cước choàng lấy mình. ta nghe thấy người của mình bắn vào từ đằng sau và những người khác lao lên tầng . ta nhìn thấy hình thù xấu xí tạo thành từ đất và chiếc áo trùm màu trắng, đầy rèm, và quả dưa hấu lớn bọc trong keffiyeh. Khuôn mặt ta nhãn nhúm vì tức giận, và ta có đủ thời gian để văng ra câu chửi tục vào thằng cha dược sĩ run như cầy sấy đứng ở cửa ra vào. Năm pound chất Semtex-H kêu to lắm, và cũng lan rộng đến thế. Những ngôi nhà xung quanh được xây dựng bằng đá và bê tông, những thứ bảo vệ những chỗ quanh đó, số trong đó là chỗ ở của người Kuwait, chỉ chịu thiệt hại bề mặt. Nhưng ngôi nhà mà những người lính đứng có vẻ như biến mất. Những mảnh vỡ từ mái ngói của nó sau đó được tìm thấy cách đó hàng trăm yard. Người Bedou đợi đến cùng để nhìn công trình của mình. ở cách xa hai phố, thở phào, xem xét lại công việc của mình, khi nghe tiếng quả bom gầm lên, như là cái cánh cửa bị bật tung, rồi khoảng im lặng trống rỗng trong giây, rồi tiếng ồn ã vang lên. Ba việc xảy ra vào ngày tiếp theo đó, tất cả đều trong bóng tối. Ở Kuwait, người Bedou có cuộc gặp thứ hai với Abu Fouad. Lần này, người Kuwait đến cuộc hẹn mình, trong bóng tối của cánh cửa ra vào rất sâu vào trong chỉ cách Sheraton có vài trăm yard. cái là chỗ của hàng chục sĩ quan cao cấp người Iraq. - Ông có nghe thấy . Abu Fouad? - Dĩ nhiên rồi. Cả thành phố sôi lên. Họ mất khoảng 20 người và số còn lại bị thương. Ông nháy mắt. có nhiều cuộc trả đũa vu vơ đấy. - Ông có muốn dừng lại bây giờ ? - . Chúng tôi thể. Nhưng có thể chịu đựng được thêm bao lâu nữa? - Người Mỹ và người đến. ngày nào đó. - Cầu thánh Allah cho nó đến sớm. Salah có cùng chúng ? - dẫn theo chúng. - Chỉ có tên dân thôi, ông có ai khác phải ? - đâu, chỉ mình thôi. Chắc hẳn là rồi. - gây ra cái chết của 9 người trẻ tuổi. thấy được Thiên đường đâu- - Thế à. Thế ông còn muốn tôi làm gì nữa nào? - Tôi hề hỏi là ai và từ đâu đến. Với tư cách sĩ quan quân đội được đào tạo chính quy, tôi biết thể chỉ đơn giản là người lái lạc đà Bedou từ sa mạc đến. có nguồn cung cấp thuốc nổ, súng ống, đạn dược, lựu đạn. Người của tôi cũng có thể làm nhiều việc với những thứ đó. - Thế ông đề xuất gì? - Đến với chúng tôi và mang theo các nguồn cung cấp của . Hoặc là ở lại chỗ của nhưng chia cho chúng tôi các nguồn đó. Tôi đến đây để doạ nạt, chỉ để cầu mà thôi. Nhưng nếu giúp cuộc kháng chiến của chúng tôi, đó là cách để thực đó. Mike Martin nghĩ hồi lâu, Sau 8 tuần sử dụng hết nửa số đồ của mình, vẫn còn giấu trong sa mạc hoặc được chia lẻ ở hai biệt thự sử dụng phải để ở mà để chứa đồ. Trong bốn căn nhà khác của mình, cái dã bị phá huỷ và cái khác, nơi dùng làm nơi gặp gỡ với các học trò của mình. dùng dược nữa. có thể đưa ra những dự trữ của mình và cầu thêm qua hộp thư đêm - liều lĩnh nhưng khả thi, miễn là những thông điệp của gửi về Riyadh bị dò thấy, điều thể nào biết dược. Hoặc có thể chuyến lạc đà nữa qua biên giới và trở về với hai giỏ nữa. Ngay cả nếu nó là dễ dàng - bây giờ có tới 16 đội lính Iraq rải quân dọc theo biên giới, cũng ra vào được đến ba lần rồi. đến lúc để liên lạc với Riyadh lần nữa và xin chỉ thị. Trong cùng lúc đó, có thể đưa Abu Fouad phần lớn những gì có. Nó nằm chếch phía nam ở biên giới; có thể cần đến lấy nó bằng cách nào đó. - Ông muốn chuyển nó đến đâu? hỏi. - Chúng tôi có nhà kho ở cảng Shuwaikh. Nó khá là an toàn. Nó chứa cá. Người chủ là người của chúng tôi. - Trong sáu ngày nữa nhé, Martin . Họ thoả thuận về thời gian và địa điểm nơi trợ tá đáng tin cậy của Abu Fouad có thể gặp người Bedou và dẫn đến chỗ còn lại của chuyến . Martin miêu tả chiếc xe lái và cái cách cải trang. Cùng đêm hôm đó, nhưng hai giờ sớm hơn bởi múi giờ khác nhau, Terry Martin ngồi trong nhà hàng yên tĩnh xa căn hộ của mình bao nhiêu nhâm nhi ly rượu trong tay. Người khách đợi vào vài phút sau đó, người đàn ông trọng tuổi với tóc nâu, đeo kính, và cái cà vạt cong có chấm, ông ta nhìn quanh tìm kiếm. - Moshe. ở đây này. Người lsrael nhìn quanh quẩn đến chổ Terry Martin nhổm lên, và chào rất hăng hái. - Terry, con trai của tôi. thế nào - Khá hơn khi được gặp ông, Moshe ạ. Liệu có thể nào để ông qua London mà ăn tối trò chuyện với tôi chứ. Người Israel khá già, ngang tuổi cha Martin, nhưng tình bạn của họ dựa mối lợi ích chung. Cả hai đều là học giả và đều là những nhà nghiên cứu nhiệt thành về các nền vãn minh cổ Trung Đông. văn hoá, nghệ thuật và ngôn ngữ vùng đó. Giáo sư Moshe Hadari trở về sau chuyến xa. Khi còn trẻ, ông khám phá nhiều nơi ở Đất Thánh cùng với Yigael Yadin, là giáo sư và vị tướng trong quân đội- Điều tiếc nuối lớn của Hadari là, vì mình là người Israel, phần lớn Trung Đông đều là đất cấm với ông, ngay cả chỉ là học bổng đến nghiên cứu. Thêm nữa. trong địa hạt của ông. Ông là trong những người giỏi nhất, và địa hạt này rất , thể tránh rằng hai vị học giả lại có thể gặp nhau ở buổi hội thảo nào đó, như quả là thế mười năm trước đây Đó là bữa tối tuyệt., và cuộc chuyện rôm rả về nghiên cứu gần đây nhất, về những quan niệm hoàn toàn mới mẻ về cách cuộc sống có trong các vương quốc của Trung Đông mười thế kỷ trước đây. Terry Martin biết được Hiệp ước bí mật chính thức bảo vệ, nên những hoạt động mới đây hợp tác với Nhà Thế kỷ phải chủ đề để bàn luận. Nhưng trong khi uống cà phê cuộc trò chuyện của họ rất tự nhiên quay sang cuộc khủng hoảng vùng Vịnh và những nguy cơ chiến tranh. - có nghĩ là ông ta rút khỏi Kuwait hả Terry? Vị giáo sư hỏi. Martin lắc đầu. ". ông ta thể, trừ phi ông ta được chỉ cho con đường được đánh dấu cụ thể, những nhượng bộ ông ta có thể sử dụng để biện hộ cho rút lui của mình. Nếu ra trần trụi, nghĩa là ông ta thua." Hadari gật dầu. - Lãng phí ghê quá nhỉ. ông . Cả cuộc đời tôi. lãng phí nhiều quá. Số tiền đó đủ để làm cho Trung Đông trở thành thiên đường. Tất cả những thiên tài đó, tất cả những cuộc đời trẻ trung đó. Và cho cái gì kia chứ? Terry, nếu nó xảy đến, liệu người có chiến đấu bên cạnh người Mỹ ? - Dĩ nhiên là có chứ. Chúng tôi gửi Sư đoàn số bảy, và tôi tin sư đoàn bốn cũng sắp đến thôi. Nó làm thành đại đoàn, ngoài những máy bay chiến đấu và tàu chiến. Đừng lo về chuyện đó. Đó là cuộc chiến tranh Trung Đông trong đó Israel chỉ có thể, nhưng bắt buộc phải, ngồi đống lửa. - Phải, tôi biết: người lsrael buồn rầu . Nhưng nhiều con người trẻ tuổi phải chết. Martin cúi về phía trước và gõ vào cánh tay người bạn. - Xem nào. Moshe. con người đó phải bị chặn đứng lại chứ. Sớm hay muộn thôi. Israel và các nước phải biết ông ta có thể đến đâu với vũ khí huỷ diệt của mình chứ. Theo nghĩa nào đó, chúng ta chỉ phải tìm ra mức độ chính xác ông ta có được. - Nhưng người của chúng tôi giúp, tất nhiên. Chúng tôi có khả năng lao vào mục tiêu chính đó. - Phải. trong các phân tích mục tiêu, Martin . Vấn đề cơ bản của chúng tôi là tình báo có giá trị. tại chỗ. Chúng tôi có tình báo cấp cao ở Baghdad. Cả người lẫn người Mỹ đều có, và thậm chí người của các cũng . 20 phút sau bữa tối kết thúc, và Terry Martin nhìn giáo sư Hadari vào chiếc ta xi để mang ông về khách sạn của mình. Vào khoảng nửa đêm, ba trạm tam giác được đặt ở Kuwait theo lệnh của Hassan Rahmani ở Baghdad. Chúng là các đĩa phát thanh được thiết kế để theo nguồn phát sóng đài và vùng xung quanh đó. cái là trạm cố định. được đặt mái nhà của toà nhà cao ở quận Ardiya, ở rìa cực nam ngoại ô Kuwait City. Mặt đĩa hướng ra ngoài sa mạc. Hai cái khác là các trạm di dộng, những chiếc xe to với những cái đĩa nóc, bộ xử lý bên trong để phát điện, và cái bên trong tối om nơi người trực có thể ngồi ở cần lái của mình và dõi theo các sóng trung, tìm những đợt chuyển sóng, những cái họ được có thể gửi từ đâu dó trong sa mạc giữa thành phố và biên giới với Saudi. trong những chiếc xe lớn đó ở ngoài Jahra, xa về phía tây của chiếc máy đồng nghiệp của mình ở Ardiya, và cái thứ ba xuôi về phía bờ biển, trong vùng đất của bệnh viện Al Adan, nơi chị của người sinh viên luật bị hiếp trong những ngày đầu tiên của những cuộc tấn công. Máy dò ở Al Adan có thể có được mọi cái được đưa về từ những người quét xa hơn về phía bắc, rồi chuyển nguồn tin về cho trung tâm vài trăm yard cách đó. Tại căn cứ quân Ahmadi, nơi có lúc Khaled Al-Khalifa bay chiếc Skyhawk của mình, chiếc trực thăng Hind do Liên Xô sản xuất có súng trực chiến 24 giờ mỗi ngày. Đội bay của chiếc Hind đến từ quân, thương lượng Rahmani thực với vị tướng chỉ huy nó. Các đội dò sóng đều từ chính bên Phản gián của Rahmani sang, được đưa đến từ Baghdad và là những người giỏi nhất có được. Giáo sư Hadari qua đêm ngủ. Điều bạn ông với ông làm ông lo ngại sâu sắc, ông tự coi mình như là người Israel tuyệt đối trung thành, sinh ra từ gia đình Sephardic nhập cư ngay trong giữa những năm giữa thế kỷ theo những người như là Ben-Yehuda và Ben-Gurion. Bản thân ông được sinh ra ở bên ngoài Jaffa, khi đó nó vẫn là cái cảng tí hon của người Arập Palestine, và ông học tiếng Arập khi còn là đứa bé con. Ông nuôi dạy hai đứa con trai và thấy đứa trong chúng chết trong cuộc bạo loạn tồi tệ ở nam Lebanon. Ông là ông nội của năm đứa cháu . Ai có thể rằng ông nước nào? Nhưng có điều gì đó sai trái. Nếu chiến tranh xảy đến, nhiều thanh niên trẻ chết, như là Ze'ev của ông chết. ngay cả khi họ là người , Mỹ hay Pháp. Liệu đây có phải là lúc để Kobi Dror chứng tỏ mạt hạng, sôvanh nước của mình ? Ông dậy sớm, thanh toán tiền khách sạn, sửa soạn đồ đạc, và gọi chiếc taxi để ra sân bay. Trước khi rời khách sạn, ông lưỡng lự lúc trước dãy điện thoại trong hành lang, rồi đột nhiên đổi ý. Nửa đường ra sân bay, ông bảo người lái xa dừng ở giữa đường M4 và tìm bốt điện thoại. Càu nhàu vì mất thời gian và có thể gãp chuyện rắc rối, người lái làm theo, cuối cùng cũng tìm được chiếc ở góc đường Chiswick. Hadari may mắn. Chính Hilary trả lời điện thoại ở căn hộ Bayswater. - Giữ máy nhé, ông , ta đường ra đến cửa đấy. Terry Martin đến máy điện thoại. - Moshe đây. Terry, tôi có nhiều thời gian đâu. Hăy với người của rằng Viện có nguồn tin rất cao cấp bên trong Baghdad. Hãy với họ rằng hãy hỏi điều gì xảy đến với Jericho. Tạm biệt. bạn của tôi. - Moshe, lúc nữa nào. ông có chắc ? Làm sao ông biết đươc? - Điều đó quan trọng. nghe thấy gì từ tôi đâu đấy nhé. Tạm biệt. Điện thoại im bặt. Ờ Chiswick nhà học giả già trở lại vào chiếc taxi của mình và tiếp đến Heathrow, ông run lên với việc lớn lao ông vừa mới làm. Và bằng cách nào ông có thể với Terry Martin rằng chính ông, vị giáo sư môn Arập của đại học tổng hợp Tel Aviv, là người thảo bức thư trả lời đầu tiên cho Jericho ở Baghdad ? Cú điện thoại của Terry Martin tìm thấy ta ở Nhà Thế kỷ ngay sau mười giờ. - Ăn trưa hả? Xin lỗi, tôi thể đâu. ngày tệ quá. - Ngày mai có thể đấy. - Thế muộn quá. Chuyện khẩn. Simon ạ. Paxman đồng ý. nghi ngờ gì nữa người bạn hàn lâm của ta tìm ra được cách diễn dạt nào đó mới mẻ của câu trong bản tin của lraq, cái có thể biến đổi ý nghĩa của cuộc sống. - Cũng thể ăn trưa đâu. Cuộc họp quan trọng ở đây. trong nhà. Xem nào, uống nước nhé. Nhà hàng Lỗ trống tường. quán ngầm dưới đất ở cầu Waterloo, khá gần đây .Thế mười hai giờ nhé. Tôi có thể chuyện được nửa giờ, Terry ạ. - Hơn nữa mới đủ được. Hẹn gặp nhé. Martin . Ngay sau giữa trưa. họ ngồi với cốc bia trong căn nhà đó vùng nam trải đến Kem, Sussex, và Hampshire. Martin chưa đưa lộ nguồn tin của mình, về cái vừa được cho biết vào buổi sáng. - Trời ơi, Paxman thầm . Có người ở bên buồng bên cạnh. Ai cho biết thế? - thể dược. - Có, phải . - Xem nào. lưỡng lự. Tôi hứa rồi. ấy là học giả cao cấp. Đó là tất cả. Paxman suy nghĩ. Học giả, và có quan hệ với Terry Martin. Chắc chắn là nhà Arập học khác. Có thể có quan hệ với Mossad. Dù sao nữa, thông tin phải được đưa về Nhà Thế kỷ chậm trễ. ta cám ơn Martin, bỏ cốc bia của mình, và lao ra đường về Nhà Thế kỷ. Bởi vì trong cuộc họp trưa nay. Steve Laing rời khỏi toà nhà. Paxman lôi ông ra chỗ và với ông. Laing cấp tốc báo thẳng lên chỉ huy. Ngài Colin, người bao giờ gì quá lời, chửi tướng Kobi Dror là kẻ đồng nghiệp chó chết nhất. bỏ bữa trưa, ra lệnh mang gì đó đến bàn của ông, và lui lên tầng cùng. Ở đó ông gọi cú điện thoại riêng vào đường dây đặc biệt an toàn đến luật gia William Webster, Giám đốc CIA. Mới là tám giờ rưỡi sáng ở Washington, nhưng luật gia là người thích dậy sớm cùng bình minh, và ông ngồi ở bàn làm việc để điện thoại, ông hỏi đồng nghiệp người số câu hỏi về nguồn thông tin, càu nhàu vì có, nhưng đồng ý đó là cái gì đó thể để xổng mất được. Webster với phó giám đốc (các chiến dịch) Bill Stewart, người giận điên lên, và rồi có cuộc chuyện nửa giờ với Chip Barber, chỉ huy các Chiến dịch cho Trung đông. Barber còn điên tiết hơn, vì ông từng là người ngồi trước mặt tướng Dror trong căn phòng sáng sủa đỉnh ngọn đồi ở bên ngoài Herzlia và , có vẻ như vậy, nhận lời dối. Giữa họ, họ phải làm điều họ muốn được thực . và chuyển ý kiến trở về giám đốc. Vào giữa trưa William Webster có cuộc gặp với Brent Scowcroft, Chủ tịch Hội đồng An ninh Quốc gia, và đưa vấn đề sang cho tổng thống Bush. Webster hỏi về cái ông muốn và được cho toàn quyền xử lý. Bộ trướng Ngoại giao James Baker đồng ý hợp tác, và ông thực ngay lập tức. Đêm đó, Bộ Ngoại giao gửi cầu khẩn cấp cho Tel Aviv, cầu này được trình bày với thành viên của nó vào buổi sáng tiếp sau đó, lúc mới ba giờ sáng do lệch múi giờ. Thứ trưởng Ngoại giao lsrael vào thời gian đó là Benjamin Netanyahu, nhà ngoại giao đẹp trai, lịch thiệp, tóc màu trắng bạc và là của Jonathan Netanyahu người Israel duy nhất bị giết trong cuộc đột nhập vào sân bay Entebbe của Idi Amin, trong đó các lính biệt kích Israel cứu các hành khách của chiếc máy bay Pháp bị tặc bởi những tên khủng bố Palestine và Đức. Benjamin Netanyahu sinh ra ở thế hệ sabra thứ ba và được giáo dục thời gian ở Mỹ. Nhờ được giáo dục tốt và chủ nghĩa dân tộc nhiệt thành của mình, ông ta là thành viên của chính phủ đảng Likud của Itzhack Shamir và thường xuyên là người phát ngôn giàu sức thuyết phục của Israel trong các cuộc phỏng vấn với giới truyền thông phương Tây. Ông đến Washington hai ngày sau đó, vào ngày 14 tháng Mười, hơi bối rối bởi khẩn cấp của lời mời của Bộ Ngoại giao mà ông phải bay sang Mỹ để thảo luận về vấn đề có tầm quan trọng rất lớn. Ông còn bối rối hơn khi hai giờ chuyện cá nhân với thứ trưởng Lawrence Eagleburger chỉ là cái nhìn tổng quan của phát triển của Trung Đông kể từ ngày 2 tháng Tám. Ông kết thúc buổi chuyện hết sức tức tối, rồi đối mặt với chuyến bay đêm quay trở về Israel. Chính lúc ông rời Bộ Ngoại giao trợ lý tuồn cái các rất đắt tiền vào tay ông. Chiếc các có hình người, và người viết, với lối hành văn lịch thiệp, cầu ông đừng rời Washington mà đến nhà người đó cho cuộc gặp ngắn, để bàn luận về vấn đề có tầm khẩn cấp nào đó "cho cả hai đất nước chúng ta và cho toàn thể dân chúng của chúng ta." Ông biết chữ ký, biết người đàn ông, và biết quyền lực cũng như giàu có của bàn tay viết ra nó. Chiếc limousin của người viết đậu ngoài cửa. Viên thứ trưởng Israel quyết định nhanh và bảo thư ký của mình quay về Đại sứ quán với cả hai bộ hành lý và gặp lại ông ở ngôi nhà ở Georgetown hai giờ sau đó. Từ đó họ có thể đến Dulles. Rồi ông lên chiếc limousin. Ông chưa bao giờ đến ngôi nhà trước đó, nhưng đúng như ông đoán trước, toà nhà tuyệt đẹp ở cuối đường M, chỉ cách có 300 yard từ khu học xá của đại học tổng hợp Georgetown. Ông được dẫn vào phòng sách đầy ắp tranh ảnh và sách quý hiếm tột cùng với thẩm mỹ cao. lúc sau chủ nhà vào, tiến về phía cái thảm Kashan với cánh tay mở rộng. - Bibi thân mến của tôi, tốt biết bao khi dành thời gian như thế này. Saul Nathanson, chủ nhân và là nhà tài phiệt, nhiều nghề làm ông trở nên cực giàu có, nhưng tài sản thực của ông được giấu sau những gì được lộ ra, và bản thân người đàn ông được giáo dục quá tốt để mà lộ ra. Những bức Van Dykes và Breughels các bức tường phải tranh sao chép, và những tặng phẩm từ thiện của ông, bao gồm số thứ cho Israel, là huyền thoại. Giống như vị Bộ trưởng Israel, ông rất lịch thiệp và tóc cũng màu ghi, nhưng giống người đàn ông trẻ hơn mình vài tuổi, ông mặc quần áo do nhà may Savile Row, London cung cấp và những chiếc áo lụa của ông từ Sulka. Ông chỉ người khách đến những chiếc ghế bành trước lò sưởi đốt gỗ, cái chai được mở với cái chai và hai ly rượu vang cái khay bạc. - số thứ mà tôi nghĩ ông có thể thích, bạn của tôi, trong khi chúng ta trò chuyện. Người hầu bàn rót ra hai cốc Lalique thứ vang đỏ, trong khi người lsrael nuốt khan. Nathanson nhướng mi mắt lên. - tuyệt, dĩ nhiên rồi. Netanyahu . Château Mouton Rothschild năm 61 dễ kiếm chút nào. Người hầu để lại cái chai trong tầm với và rút lui. Saul Nathanson còn lâu mới ngay vào vấn đề ông muốn . Các kiệt tác được bàn luận đầu tiên. Rồi đến Trung Đông. - có chiến tranh, cũng biết đấy, ông buồn bã - Tôi hề nghi ngờ gì về điều đó, Netanyahu đồng ý - Trước khi nhiều những người Mỹ trẻ tuổi có thể phải chết, những người trẻ tuổi khác đáng phải chịu. Chúng ta phải làm mọi thứ có thể để giữ con số đó ở mức nhân đạo nhất, ông có thấy thế ? Rượu vang nữa nhé? - Tôi thể uống thêm nữa. Người đàn ông này muốn lái vấn đề đến cái quỷ quái gì thế này? Vị thứ trưởng Ngoại giao lsrael thầm hỏi mà tìm được câu trả lời. - Saddam, Nathanson . nhìn chằm chằm vào bếp lửa, là mối đe doạ. ông ta phải bị chặn lại. ông có khả năng là mối đe doạ hơn nữa cho Israel hơn là bất kỳ các nước láng giềng nào khác. - Chúng tôi nới về điều đó nhiều năm rồi. Nhưng khi mà chúng tôi ném bom phá lò phản ứng hạt nhân của họ, Mỹ lại lên án chúng tôi. Nathanson phác cử chỉ phản đối bằng tay. - có ý nghĩa gì đâu. dĩ nhiên rồi, mọi có nghĩa rườm rà cho khuôn mặt của nhiều thứ. Cả hai ta đều biết điều đó, và cả chúng ta đều biết nhiều hơn. Tôi có con trai phục vụ tại vùng Vịnh. - Tôi biết đấy. Cầu cho ấy an toàn trở về. Nathanson tỏ ra xúc động sâu sắc. - Cám ơn . Bibi, cảm ơn . Ngày ngày tôi cầu nguyện điều đó. Đứa lớn nhất của tôi, đứa con trai duy nhất của tôi. Tôi chỉ cảm thấy rằng... Ở thời điểm này... hợp tác giữa chúng ta cần phải được thực có trở ngại nào hết cả. - Điều đó khỏi bàn cãi. Người lsrael dã có cảm giác khó chịu là tin xấu đến. - Để hạ mức thương vong xuống, cũng hiểu đấy. Đó chính là lý do tại sao tôi cầu giúp đỡ của , Bibi ạ, để hạ mức thương vong xuống. Chúng ta cùng ở phía mà, có đúng thế nào? Tôi là người Mỹ và là người Do Thái. Chuỗi từ lơ lửng trong khí. - Và tôi là người Israel và là người Do Thái. Netanyahu lẩm bẩm. Ông cũng có cả chuỗi từ. Nhà tài phiệt có cách nào lân tránh nữa. - Chính xác. Nhưng bởi vì giáo dục ở đây. hiểu thế nào - à, thế nào là chứ? Những người Mỹ đôi khi cũng xúc động. Liệu tôi có dở hơi ? cái thở dài, người Israel nghĩ. - Nếu có điều gì đó được thực có thể bằng cái cách bé nào đó giữ số lượng thương vong thấp xuống, dù chỉ chút ít thôi. cả tôi và những người đồng chí của tôi vĩnh viễn biết ơn bất kỳ ai đóng góp được cái gì đó. Nửa còn lại của tình cảm được giữ lại, nhưng Netanyahu quá kinh nghiệm của nhà ngoại giao dễ mà bỏ mất nó. Và nếu có cái gì đó được làm hay được làm có thể làm tăng những thương vong đó, nước Mỹ nhớ dai và trả thù của nó chẳng dễ chịu chút nào cả. - Các ông muốn gì ở tôi nào? ông hỏi. Saul Nathanson uống cạn ly rượu vang của mình và nhìn chằm chằm vào những cái đồng hồ. - Có vẻ như là, có người đàn ông ở Baghdad. Mật danh... Jericho... Khi ông kết thúc câu của mình, thứ trưởng Ngoại giao đầy ưu tư đến Dulles để bắt chuyến bay về nhà.
CHƯƠNG 9 Chốt kiểm tra chặn xe dừng lại ở góc phố Mohammed Ibn Kassem và đường Tiếng chuông Thứ tư. Khi nhìn thấy từ xa, Mike Martin có ý định quay xe chạy và quay lại con đường mà mình đến. Nhưng có những người lính Iraq đứng trạm ở đường ở cả hai bên lề ở những chỗ sắp đến điểm kiểm tra, có vẻ như chỉ là cho mục đích đó, và nó có thể là điên rồ để thử chạy trốn khỏi làn đạn súng trường của họ ở tốc độ đủ để vòng xe. có lựa chọn nào khác ngoài việc lái dấn lên, đứng vào cuối hàng xe cộ đợi để khám xét. Như lệ thường, lái xe qua Kuwait City, cố tránh những đường lớn nơi những trạm dừng xe có thể được dựng lên, nhưng qua bất cứ đường nào trong số 6 đường Ring bao quanh Kuwait City trong chuỗi những dải tập trung chỉ có thể được thực bằng cách qua chốt kiểm tra. .. hy vọng như thế, bằng cách lái xe vào giữa buổi sáng, để được hoà vào dòng xe cộ hoặc để tìm những người Iraq từ chỗ nóng. Nhưng giữa tháng Mười thời tiết dịu lại và các đội Lực lượng Đặc biệt cẩn thận hơn bọn Quân đội Nhân dân vô dụng. Vì thế phải ngồi vào sau vô lăng chiếc Volvo màu trắng có rơ moóc và chờ đợi. Trời vẫn còn tối và còn là đêm thẳm khi lái xe ra khỏi sa mạc về phía nam và đến chỗ để những thuốc nổ, súng ống: và thuốc súng của mình, những thiết bị hứa với Abu Fouad. là trước bình minh khi qua cái gara đóng kín trong những phố phường tối đen của Firdous từ chiếc xe jeep có kéo toa xe đằng sau. Giữa việc chuyển từ xe này sang xe khác và thời điểm khi cả quyết mặt trời lên cao đủ và đủ nóng để khiến lính lraq phải kiếm chỗ nghỉ trong bóng râm, thậm chí phải đắp chiếu xe trong cái gara, rồi lái chiếc xe kéo ra và đẩy chiếc xe jeep vào trong gara, lo ngại chiếc xe đắt tiền như thế sớm bị tịch thu. Cuối cùng che mặt và thay quần áo, thay chiếc áo dài sa mạc của những người bộ lạc Bedou bằng chiếc dish-dash màu trắng của viên bác sĩ Kuwait. Những chiếc xe ôtô trước mặt tiến từng chút về phía quân bộ binh Iraq tụ tập xung quanh những doanh trại ngay trước mặt. Trong số trường hợp lính Iraq chỉ đơn giản ngó qua tấm thẻ căn cước của lái xe và vẫy tay cho qua, trong những trường hợp khác chiếc xe bị đưa vào bên đường để kiểm tra. Thường . những chiếc xe kéo theo hàng hoá hay bị cầu dừng lại. đặc biệt thích thú gì với hai chiếc xe tải gỗ đằng sau mình, bãi để hàng, chúng rất to và ngăn chặn đường chạy của . Chiếc xe cuối cùng trước mặt qua, và lái xe lên chỗ những đội quân. Viên trung sĩ làm nhiệm vụ buồn hỏi giấy tờ chứng minh của người lái xe.. Nhìn thấy những bịch to ở đằng sau chiếc Volvo. người lính vẫy chiếc xe sang bên đường và hét lên lệnh cho các đồng nghiệp của mình đứng đợi tại đó. bộ quân phục màu ôliu xuất ớ cửa sổ lái xe, mà Martin hạ xuống. Bộ quân phục cúi xuống. và khuôn mặt nhàu nát xuất ở cửa sổ. - Ra ngoài, tên lính . Martin ra và thẳng lên. cười xã giao. viên trung úy với bộ mặt nặng nề, khó tính tiến lại. Viên binh nhì vòng quanh chiếc cửa sau và săm soi những gói. - Giấy tờ, viên trung sĩ . ta nghiên cứu chiếc thẻ căn cước mà Martin đưa cho, và liếc nhìn từ khuôn mặt đằng sau tấm plastic sang khuôn mặt ở trước mình. Nếu ta nhìn thấy bất kỳ khác biệt nào giữa viên sĩ quan người đứng đó với người nhân viên kho hàng của Công ty thương mại Al-khalifa mà tấm chân dung có trong thẻ, ta cũng để lộ dấu hiệu gì hết cả. Tấm thẻ căn cước được ghi ngày tháng và đóng dấu năm trước đây, và trong năm người đàn ông có thể quỵết định cạo bộ râu của mình. - là bác sĩ? - Phải. thưa ông trung sĩ. Tôi làm việc ở bệnh viện. - Ở đâu? - đường Jahra. - đâu? - Đến bệnh viện Amin ở Dasmam. Viên trung sĩ ràng có giáo dục nhiều, và trong vãn hoá của ta bác sĩ có nghĩa là người có học vấn và vị thế đáng nể. ta nhăn nhó và bước đến đằng sau chiếc xe hàng. - Mở ra. ta . Martin mở khoá cửa sau, và nó mở ra đầu họ. Viên trung sĩ nhìn chằm chằm vào hai gói to. - Cái gì thế? - Các mẫu, thưa trung sĩ. Phòng thí nghiệm khoa học ở Amiri cần chúng. - Mở ra . Martin rút từ túi chiếc dish-dash của mình chùm chìa khoá. Những cái khoá mua từ kho hàng, và mỗi cái có hai khoá vòng. - Ông có biết những cái đó được làm lạnh rồi ? Martin xã giao, trong khi giở chìa khoá ra. - Làm lạnh? viên trung sĩ bị từ đó mê hoặc. - Phải, thưa Trung sĩ. Bên trong lạnh. Chúng giữ mầm ở nhiệt độ thấp ổn định. Nó đảm bảo rằng chúng nằm im. Tôi e rằng nếu tôi mở ra, khí lạnh thoát ra ngoài hết và nó có hoạt tính trở lại. Tốt nhất là nên để yên. Khi nghe đến "nằm im", viên trung sĩ lùi lại và nâng khẩu cacbin của mình lên, chĩa vào Martin như thể ngờ những cái hộp có chứa loại vũ khí nào đó. - muốn gì? ta hoảng hồn. Martin nhún vai xin lỗi. - Tôi xin lỗi, nhưng tôi ngăn được nó đâu. Những cái mầm chỉ thoát ra ngoài khí xung quanh chúng ta mà thôi. - Mầm - mầm gì? Viên trung sĩ bối rối và giận dữ, vì ngu dại của chính mình cũng ngang bằng với cung cách của viên bác sĩ. - Tôi chẳng tôi làm ở đâu rồi à? hỏi thân mật. - Rồi, ở bệnh viện. - Đúng. bệnh viện hẻo lánh. Ở đó đầy những mẫu đậu mùa và ỉa chảy cần phân tích. đến đó viên trung sĩ nhảy lùi lại, tận hai fit. Những dấu hiệu mặt của ta nghi ngờ gì nữa - như đứa trẻ gần chết vì đậu mùa. - Mang mấy thứ chó chết đó , mẹ mày chứ! Martin xin lỗi lần nữa, đóng cánh cửa sau lại, luồn vào sau tay lái, và lái xe . giờ sau, được hướng dẫn đến kho chứa cá ở cảng Shuwaikh và chuyển hàng của mình cho Abu Fouad. Bộ Ngoại giao Hợp chủng quốc Hoa kỳ Washington D.C 20520 NGÀY I6 THÁNG MƯỜI,1990 Bản thông cáo gửi: James Baker Từ: Tình báo Chính trị và Nhóm Phân tích Chủ đề: Phá hoại Cỗ máy chiến tranh của Iraq Xếp hạng: sao chụp Sau mười tuần kể từ khi Iraq xâm chiếm vương quốc Kuwait, điều tra kỹ càng nhất được thực , bởi cả người của chúng tôi cũng như các bạn đồng minh , những chuẩn bị với độ chính xác cao cổ máy chiến tranh mà Saddam Hussein có khả năng có trong tay. Những lời phê phán có thể sai khi cho rằng có thể hoàn thành báo cáo sớm hơn. Nhưng các kết quả của nhiều phân tích giờ đây ở trước chúng ta cho thấy bức tranh rất nhiều xáo trộn. Những lực lượng chính quy của riêng Iraq, với quân đội thường trực triệu người và đại đoàn, súng ống, xe tăng, tên lửa, và quân đại, khiến lraq vượt trội và trở thành nước có tiềm lực quân lớn nhất Trung Đông. Hai năm trước đây, có ý kiến cho rằng hiệu ứng của cuộc chiến tranh với Iran giảm bớt cỗ máy chiến tranh Iran tới mức nó có thể còn là mối đe doạ thực tế với các nước xung quanh, những thiệt hại do Iran gây ra cho bộ máy chiến tranh của Iraq cũng có tầm quan trọng tương tự. Giờ đây ràng rằng, trong trường hợp Iran, cấm vận thương mại hà khắc được tạo nên cách có tính toán kỹ càng bởi chúng tôi và các đồng nghiệp tạo ra tình trạng như vậy. Tuy nhiên với trường hợp Iraq, hai năm qua được củng cố bởi chương trình tái vũ trang với tốc độ đáng sợ. Ông có thể nhớ lại, thưa ông bộ trưởng, rằng chính sách phương Tây ở vùng Vịnh và thực tế Trung Đông từ lâu dựa quan niệm về cân bằng: khái niệm về ổn định và do đó nguyên trạng chỉ có thể được giữ vững nếu quốc gia nào trong khu vực được phép đạt đến quyền lực để đe doạ mọi nước xung quanh và qua đó tạo ra thống trị. Trong chiến tranh chính quy trước mắt, giờ đây rằng Iraq có được quyền lực đó và bây giờ có khả năng tạo ra thống trị đó. Nhưng báo cáo này còn liên quan hơn đến khía cạnh khác của những chuẩn bị của lraq: việc tạo lập kho vũ khí đáng kể, đôi với những kế hoạch liên tục với những hệ thống chuyển dịch thậm chí còn mang tính quốc tế cao hơn và còn có thể xuyên lục địa. tóm lại, trừ khi phá hoại hoàn toàn các vũ khí này, những vũ khí vẫn được phát triển, và các hệ thống được hoàn thành, tương lai xa cho thấy viễn cảnh rất đen tối. Trong vòng ba năm, theo những nghiên cứu được trình bày tại Hội đồng Medusa và với nó người đảm nhiệm hoàn toàn. Iraq phát triển quả bom nguyên tử của chính mình và khả năng phóng nó bất kỳ nơi đâu trong phạm vi 2000 km tính từ Baghdad. Trong vòng ba năm, thất bại trong hành động trá dũa: Iraq có thể thống trị chỉ qua việc đe doạ toàn bộ khu vực từ bờ biển phía bắc của Thổ Nhĩ Kỳ đến vùng vịnh Aden, từ các biển ngoài Haifa đến các núi ở Kandahar. Hiệu ứng của những khám phá đó cần phải thay đổi tận gốc chính sách của phương Tây. phá huỷ cỗ máy chiến tranh của lraq giờ đây cần trở thành hướng chính của chính sách phương Tây. giải phóng Kuwait nay trở thành cấp thiết, chỉ phục vụ như lời minh chứng. Mục tiêu đề ra chỉ được giải quyết bằng rút quân đơn phương của Iraq khỏi Kuwait, và mọi cố gắng cần được thực để đảm bảo nó xảy ra. Chính sách của nước Mỹ, trong liên minh với các bạn đồng minh của chúng ta, do đó nên được chia thành bốn điểm sau: 1. Cần tăng cường khiêu khích và những luận cứ để khiến Saddam Hussein từ chối chịu rút khỏi Kuwait. 2. Loại bỏ mọi cam kết của ông ta có thể đề xuất để đổi lại việc rời khỏi Kuwait, chuẩn bị đánh và phá huỷ bộ máy chiến tranh của ông ta. 3. Thúc đẩy Liên Hợp Quốc tiếp tục với Nghị quyết số 678 của Hội đồng bảo an bị đình lại quá lâu, cho phép Liên quân bắt đầu chiến ngay khi chuẩn bị xong. 4. Tỏ ra chào đón nhưng thực ra thực mọi kế hoạch hoà bình cái có thể cho phép lraq thoát ra khỏi thế lưỡng nan của họ nay cách an bình. ràng Tổng thư ký Liên Hợp Quốc, Paris, và Matxcơva là những mối nguy hiểm chính ở đây, bởi đề xuất vào bất cứ lúc nào tiến trình ngây thơ nào đó có khả năng ngăn chặn cái cần phải làm. Dư luận, dĩ nhiên, tiếp tục được đảm bảo đứng ở bên kia. Kính trọng trình lên, PIAG - Itzhak, chúng ta thực phải cùng với họ trong vụ này đấy. Thủ tướng Israel, vẫn thường xuyên như vậy, đung đưa trong chiếc ghế dựa, khi thứ trưởng Ngoại giao của ông chặn ông ở văn phòng riêng đầu tiên bên cạnh Knesset ở Jerusalem. Hai người ở bên ngoài cánh cửa gỗ lim nẹp thép để lộ tiếng động ra bên ngoài. Itzhak Shamir nhổm người qua cái bàn, đôi chân ngắn của ông ta ngoe nguẩy tự do phía tấm thảm, mặc dù ở đó đặc biệt có chỗ để chân cho ông ta. Khuôn mặt gầy, ốm yếu của ông ta dưới mái tóc màu ghi xám làm ông trông giống như vị thần phương Bắc. Vị thứ trưởng của ông ta khác thủ tướng ở khía cạnh: cao, trong khi vị chỉ huy đất nước thấp, ăn mặc chải chuốt trong khi Shamir búi xúi, thành thị trong khi ông ta quê mùa. Tuy vậy họ rất hợp nhau, chia sẻ cùng cách nhìn nhận có thoả hiệp của đất nước mình và về người Palestine, cho nên vị thủ tướng gốc Nga e dè gì khi thăng cấp cho nhà ngoại giao có quan điểm thế giới này. Benjamin Netanyauhu thực rất tốt sứ mạng của mình. Israel cần có Mỹ: hào phóng của họ, đồi Capitol và ở các phương tiện truyền thông Mỹ; những món quà, vũ khí, quyền phủ quyết trong Hội đồng Bảo an. Đó là phương cách đáng sợ để giả đò đối với nhân viên Iraq nóng ruột do Kobi Dror điều hành từ khi đến đó ở Tel Aviv. - Để họ có được Jericho , dù ta là ai chăng nữa. Netanyahu thúc bách. Nếu giúp họ diệt được Saddam Hussein. lại càng tốt cho chúng ta chứ sao. Vị Thủ tướng càu nhàu, gật đầu và gọi vào máy điện thoại nội bộ. - Gọi tướng Kobi Dror, và với ông ấy tôi cần gặp tại văn phòng của tôi, ông với thư ký riêng của mình. , phải bao giờ ông ấy rỗi. Ngay bây giờ. Bốn giờ sau đó, Kobi Dror rời khởi vãn phòng thủ tướng, ông ta ngộp thở. thực tế, ông tự nhủ khi chiếc ôtô thả dốc cái đồi bên ngoài Jerusalem và vào đường cao tốc lớn trở về Tel Aviv, ông nhớ nổi mình từng tức giận đến thế bao giờ chưa. Bị thủ tướng trẻ măng thẳng vào mặt rằng ông sai quả là tồi tệ quá mức. Bị rằng ông là thằng già ngu ngốc là cái gì đó mà ông thể nào hình dung được. Thường ông khoan khoái nhìn những cánh rừng gai nơi, trong cuộc bao vây Jerusalem khi đường cao tốc ngày hôm nay từng chỉ là con đường mòn bé, cha ông và những người khác chiến đấu để đẩy lui cả đống người Palestine và chiếm được thành phố. Nhưng đó phải là chuyện ngày hôm nay. Quay trở về văn phòng của mình, ông gọi Sami Gershon và với ông ta tin mới. - Làm thế quái nào mà người lại biết được? ông kêu lên. Ai để lộ tin đó - người bên Văn phòng, Gershon kết luận. Về gã giáo sư sao? Tôi thấy lão ta vừa từ London trở về đấy. Thằng phản bội chó chết, Dror gầm lên. Tôi xé xác ra. - Bọn có thể chuốc rượu cho lão, Gershon đưa ra giả thuyết. Say sưa rồi linh tinh. Thôi bỏ , Kobi. Điều tồi tệ xảy ra rồi. Nhưng chúng ta phải làm gì đây? - cho họ mọi điều về Jericho, Dror mệt mỏi. Tôi thể làm được đâu. Hãy gửi Sharon . Để ta làm việc đó. - Cuộc gặp ở London, nơi nguồn tin bị buột ra. Gershon suy nghĩ và nhe răng cười. - Có cái gì buồn cười lắm sao? - Chỉ có thế thôi. Chúng ta thể liên lạc với Jericho được nữa rồi. cứ để họ thử . Chúng ta cũng biết thằng cha đó ở đâu nữa mà. Cứ để bọn họ tìm. Nếu may mắn. họ có được con át chủ bài. Dror nghĩ, và cuối cùng nụ cười mỉm rạng rỡ cũng ra mặt ông. "Hãy gửi Sharon vào tối nay": ông . " Rồi chúng ta tung ra kế hoạch mới. Tôi có nó trong đầu ít lâu nay rồi. Chúng ta gọi đó là Chiến dịch Joshua." - Tại sao? Gershon hỏi, bối rối. - Thế nhớ điều mà Joshua làm với Jericho à? Cuộc gặp ở London là quá đủ quan trọng đối với Bill Stewart, phó giám đốc Langley (phụ trách các chiến dịch) để mà tự mình phải đích thân qua Đại Tây Dương, cùng với Chíp Barber của phân ban Trung Đông. Họ ở lại những ngôi nhà an toàn của công ty, căn hộ xa Đại sứ quán ở quảng trường Grosvenor, ăn tối với phó giám đốc SIS và Steve Laing. Phó giám đốc ở đây chỉ thuần tuý là vì vấn đề nghi thức, để có người ngang hàng với Stewart; nhẽ ra người thay ông ngồi nghe David Sharon báo cáo phải là Simon Paxman, người chịu trách nhiệm về lraq. David Sharon bay từ Tel Aviv tới dưới cái tên giả và được katsa đón tiếp từ Đại sứ quán Israel ở cung điện Green. Cơ quan phản gián MI-5 - thích các nhân viên nước ngoài, kể cả các bạn bè - được SIS báo trước và chỉ có người katsa từ đại sứ quán chờ. Ngay khi được đón tiếp, "ngài Eliyahu ", ở bên ngoài chuyến bay từ Tel Aviv, nhóm MI-5 vào, nồng nhiệt đón chào ngài Sharon ở London, và tạo mọi điều kiện thuận lợi nhất để chuyến công cán được dễ chịu nhất. Hai người Israel tức giận bị dẫn ra xe ôtô, bị vẫy từ lối vào, và sau đó bị theo nhằng nhẵng vào trung tâm London. Các đám đông của Sư đoàn Vệ binh cũng thể làm việc được tốt hơn thế. Sáng hôm sau David Sharon bắt đầu, và việc này mất trọn ngày và nửa đêm. SIS đòi sử dụng chính những ngôi nhà an toàn của họ, căn hộ được bảo vệ tốt và "nối mạng" hiệu quả ở nam Kensington. Nó là (và vẫn là) địa điểm rộng rãi, có phòng ăn phục vụ các cuộc họp. trong số các phòng ngủ được trang bị ghế băng có gắn máy ghi , và hai kỹ thuật viên ghi lại từng lời thốt ra. người phụ nữ trẻ vận đồ đen đến từ Nhà Thế kỷ để trông coi bếp và quản lý tập đoàn khay cà phê và bánh xăng uých cho sáu người ngồi xung quanh cái bàn ăn. Hai người đàn ông ăn vận tề chỉnh trong hành lang dẫn xuống tầng dưới mất cả ngày để sửa chữa cái thang máy vẫn hoạt động hoàn hảo, mà nhiệm vụ là đảm bảo ai ngoài những người ở trong toà nhà có thể ra đến hè ngoài. Tại bàn ăn là David Sharon và người katsạ từ đại sứ quán tại London, người cũng là điệp viên; hai người Mỹ, Stewart và Barber.từ Langley; và hai người kia SIS? Laing và Paxman. Theo lời những người Mỹ, Sharon bắt đầu câu chuyện và điều gì xảy ra. - kẻ hám tiền? kẻ hám tiền tự nguyện? Stewart hỏi. Ông giỡn tôi đấy chứ? - Những lời của tôi là hoàn toàn chân thực, Sharon . Đó là cách câu chuyện diễn ra. Những người Mỹ có gì chống lại những kẻ hám tiền hết cả. Thực tế, đó là ưu điểm. Giữa mọi động lực để phản bội đất nước , tiền là đơn giản và dễ dàng nhất cho cơ quan thuê người. Với người hám tiền ai biết đâu vào với đâu Chẳng hề có dằn vặt vì những cảm giác hối tiếc, giận dữ vì chán ghét, phải ngu ngốc để có thể bị sai khiến và phỉnh nịnh, quá nhát để mà bị hù. kẻ hám tiền trong thế giới điệp viên cũng giống như mỏ vàng. cần đến những bữa tối có nến thắp hay những điều dịu ngọt nào đó. núi đôla bàn có thể là làm được nhiều lắm rồi. Sharon miêu tả tìm tòi khó nhọc ai đó có thể sống tại Baghdad dưới cái vỏ bọc ngoại giao và được ở lại lâu, và lựa chọn tối hậu là Alfonso Benz Moncada, với chuyến huấn luyện căng thẳng ta ở Santiago, và chuyện ta điều hành Jericho trong vòng hai năm. - Ngừng nào, Stewart nới. Cái người nghiệp dư điều hành Jericho trong hai năm ? Làm được bảy mươi lần lấy tin từ các hòm thư và gửi về? - Phải. Tôi thề đấy. Sharon . - thấy thế nào, Steve? Laing nhún vai. "Cái may mắn của kẻ bắt đầu. thể nào may thế ở Đông Đức hay Matxcơva đâu." - Đúng đấy. Stewart . Và ta bao giờ bị theo đuôi khi đến hòm thư ư? bao giờ rắc rối gì à? - , Sharon . Có vài lần ta bị bám, nhưng luôn chỉ là tình cờ và định kỳ thôi. theo từ nhà ta đến toà nhà Hội đồng Kinh tế hoặc về, và lần khi ta đến hòm thư. Nhưng ta thấy họ và rẽ lối khác. - Chỉ là giả thuyết thôi nhé, Laing nới, ta thực bị theo đuôi đến hòm thư bởi đội mật thám thực . Các nhân viên phản gián của Rahmani đến được hòm thư và xử lý Jericho. Do bị thúc ép, Jericho phải đồng ý hợp tác... - Thế sản phẩm phải kém chất lượng chứ, Sharon . Nhưng Jericho thực gây ra thiệt hại lớn đấy. Rahmani thể nào cho phép điều đó tiếp tục đâu. Nếu thế có cuộc khám xét và bắt giữ Jericho, và Moncada có lẽ bị trục xuất, nếu là may mắn đấy. - Có vẻ như những kẻ của AMAM, thậm chí những người nước ngoài đều làm cho Rahmani. Dù sao, họ cũng ngớ ngẩn như lệ thường thôi. Moncada qua mặt họ mà chẳng gặp rắc rối gì cả. Ông biết AMAM thường xuyên cố gắng làm việc phản gián . Những người nghe gật đầu. đối nghịch chẳng có gì mới mẻ - nó diễn ra ngay trong nước của chính họ. Khi Sharon kể đến lúc Moncada đột ngột bị rút khỏi Iraq, Bill Stewart bật lên. - muốn ta bỏ , liên lạc gì nữa? có cho chúng tôi là người có người kiểm soát đấy? - Chính thế đấy, Sharon kiên nhẫn nới. quay sang Chip Barber. Khi tướng Dror ông ấy điều hành ai ở Baghdad cả có nghĩa là ông ta đấy. Mossad bị mất Jericho. như chiến dịch hết, chấm dứt. Barber nhìn bắn vào người katsa trẻ tuổi cái nhìn muốn nới, "Hãy thả cái chân kia ra, cậu bé. Nó kêu đấy." - Chúng tôi muốn thiết lập lại liên lạc. Laing mềm mỏng. Làm thế nào? Sharon đưa ra cả sáu địa điểm những hòm thư chết. Trong hai năm của mình Moncada thay đổi hai trong số đó; vì địa điểm bị ủi đất để xây dựng, còn cái kia là vì cửa hàng nghèo đói được trang bị lại và bán trở lại. Nhưng sáu hòm thư vận hành và sáu địa điểm nơi phấn đánh dấu được đặt là những cái mới kể từ những vụ cuối cùng ta làm trước khi bị trục xuất. Địa điểm chính xác của các hòm thư đó và chỗ đánh phấn dấu được ghi lại chi tiết. - Có thể chúng ta có thể có được nhà ngoại giao thân thiện để tiếp cận ta trong phi vụ, với ta cần trở lại hoạt động và tiền cao hơn. Barber đề xuất. Hãy để lại các dấu hiệu dưới mọi viên gạch và cán cờ. - , Sharon . Qua các hòm thư, hoặc là các ông thể liên lạc với ông ta dâu. - Tại sao? Stewart hỏi. - Các ông thấy khó là tin, nhưng tôi thề là đúng đấy. Chúng tôi thể tìm ra ông ta là ai hết. Bốn điệp viên phương Tây nhìn chằm chằm vào Sharon hàng phút. - Các tìm ra được ông ta là ai à? Stewart hỏi chậm rãi. - Chưa bao giờ. Chúng tôi thử. Chúng tôi cầu ông ta ra để có thể được bảo vệ. Ông ta từ chối, doạ im tiếng nếu chúng tôi cứ nằn nì. Chúng tôi có những phân tích chữ viết, chân dung tâm lý. Chúng tôi phân tích rất kỹ các thông tin ông ta có thể cung cấp và những cái ông ta xâm nhập được. Chúng tôi gút được danh sách gồm 30, có thể là 40 người, tất cả đều ở xung quanh Saddam Hussein. tất cả đều trong Hội đồng Chỉ huy Cách mạng, trong lãnh đạo cao cấp của quân đội, hoặc những nhân vật cao cấp của đảng Ba'ath. thể có hơn thế. Hai lần chúng tôi đưa vào hai thuật ngữ tiếng vào lời cầu của chúng tôi. Lần nào chúng cũng quay trở về với lời đề nghị giải thích. Có vẻ như là ông ta được hoặc là rất ít tiếng . Nhưng cũng có thể là giả đò. Có thể ông ta rất thạo, nhưng nếu chúng tôi biết được điều đó, chúng tôi có thể thu hẹp danh sách còn hai hoặc ba người. Do đó ta luôn viết bằng tiếng Arập mà thôi. Stewart càu nhàu, bị thuyết phục. "Nghe như là Họng Sâu ấy," - Chắc chắn Woodward và Bernstein định vị được Họng Sâu ? Paxman hỏi. Họ thế đấy, nhưng tôi ngờ lắm. Stewart . Tôi cho rằng thằng cha nằm trong bóng tối rất sâu, cũng giống Jericho ấy. Bóng tối rơi xuống từ lâu vào lúc bốn người trong số họ nhả David Sharon kiệt sức về Đại sứ quán của mình. Nếu có cái gì đó ta có thể cho họ, họ bắt ta phải bật ra. Nhưng Steve Laing lần này chắc rằng Mossad thẳng thắn. Bill Stewart với ông về mức độ sức ép từ Washington. Hai sĩ quan tình báo người và hai người Mỹ, mệt mỏi vì bánh xăng uých và cà phê, đến quán ăn cách đó nửa dặm. Bill Stewart, người có cái bao tử điên lên vì mười hai giờ chỉ ăn bánh mỳ và căng thẳng, thích thú với đĩa cá hồi hun khói. - Đúng là thằng con hoang, Steve ạ. Đó là thằng con hoang bốn mắt . Giống như Mossad ấy, chúng ta phải thử và tìm ra nhà ngoại giao đáng tin cậy được huấn luyện trong mọi trường hợp và đưa ta vào làm việc cho chúng ta. - Trả tiền cho ta nếu chúng ta phải thế. Langley chuẩn bị tung nhiều tiền vào đó lắm đấy. Thông tin của Jericho có thể cứu nhiều mạng người khi đánh nhau bắt đầu đấy. - Ai bây giờ. Barber . Nửa số đại sứ quán tại Baghdad bị đóng cửa. Số còn lại hẳn là phải bị giám sát chặt chẽ lắm. Ai len, Thụy Sĩ, Thuỵ Điển, hay Phần Lan đây?
- Bên trung lập chơi trò này. Laing . Và tôi ngờ rằng họ có được nhân viên được đào tạo cắm ớ Baghdad cho chính họ. Quên Thế giới thứ ba - có nghĩa là phải bắt đầu chương trình tuyển chọn và đào tạo toàn bộ thôi. - Chúng ta làm gì có thời gian, hả Steve. Gấp lắm rồi. chúng ta thể cùng con đường với Israel đâu. Ba tuần là điên rồ rồi. Có thể được đấy, nhưng Baghdad con đường chiến tranh. Phải gấp thêm nữa. Hãy tỉnh táo nào. Tôi tôi muốn ba tháng tối thiểu để tạo cho nhà ngoại giao. Stewart gật đầu đồng ý. - Vẫn còn ai đó có thể vào cách hợp pháp. số nhà kinh doanh vẫn ra vào được đấy, nhất là người Đức. Chúng ta có thể lấy tay người Đức khá, hay người Nhật. Vấn đề rắc rối là, họ ở lại đó những chuyến ngắn lắm. Lý tưởng nhất là ai đó làm gà mẹ cho Jericho lần sau - cái gì? Bốn tháng. Thế còn nhà báo sao? Laing đề xuất. Paxman lắc đầu. "Tôi từng chuyện với cả bọn họ khi họ đến; là nhà báo, họ bị theo dõi chặt lắm. vòng vòng khắp nơi thể được với tay nước ngoài - người của AMAM bám theo họ, mọi lúc. Bên cạnh đó, đừng quên rằng nhà ngoại giao ngoại cỡ và đáng tin tưởng này, chúng ta về chiến dịch rất bí mật. Ai cũng muốn biết cái gì xảy đến với điệp viên rơi vào tay của Omar Khatib? Bốn người đàn ông ở bàn ăn nghe thấy tiếng vọng bạo tàn của Khatib, chỉ huy AMAM. biệt danh là Al-Mu'azib. "Gã đồ tể". - cũng phải liều thôi. Barber nhận xét. - Tôi thấy nên đồng ý là hơn. Paxman nêu ý kiến. Cái mà doanh nhân hay phóng viên lúc nào cũng có thể đồng ý, biết rằng nó có thể trong kho nếu lấy được? Tôi thích KGB hơn là AMAM đấy. Bill Stewart đặt chiếc nĩa của mình xuống vì tức giận và gọi cốc sữa. - Rồi. thế nghĩa là - cần tìm nhân viên được đào tạo có thể mà có thể là người lraq. Paxman liếc nhìn vào Steve Laing, người nghĩ ngợi lúc và chầm chậm gật đầu. - Chúng tôi có người làm được đấy, Paxman . - tay Arập giả hiệu chứ gì? Thế chúng ta có Mossad rồi còn gì nữa: Stewart - nhưng phải ở cỡ đó. Mang thông tin, lấy tin. Đó là liều lĩnh nhiều, lợi nhuận nhiều. - , người , thiếu tá của SAS ấy chứ. Stewart ngừng lại, cốc sữa vẫn còn lơ lửng treo ở mồm. Barber bỏ chiếc dao ăn và chiếc nĩa và ngừng nhai miếng bít tết nữa. - tiếng A rập là chuyện. Biến thành người Iraq ở trong đó lại là cả chuyện khác. Stewart . - ta có nước da sẫm, tóc đen, mắt nâu, nhưng ta trăm phần trăm . ta được sinh ra và lớn lên ở đó. ta có thể biến thành ai đó. - Và ta được đào tạo hoàn chỉnh trong những nhiệm vụ giả danh chứ? Barber hỏi. Mẹ kiếp, ta là ai thế. - giờ, ta ở Kuwait, Laing . - Mẹ kiếp. muốn ta luồn vào đó, chui được vào - . ta có vẻ lại tự do lắm. - Thế nếu ta có thể ra, ta làm gì? - giết bọn lính Iraq. Stewart nghĩ và chậm rãi gật đầu. - Trò chơi lớn đấy, ông ta lẩm bẩm. Thế các ông có thể lôi ta ra khỏi đó ? Chúng tôi muốn mượn ta đấy. - Tôi cũng cho là có thể, thế lần sau ta gửi điện đàm về nhé. Chúng tôi có thể điều hành ta, dù sao nữa. Và chia sẻ sản phẩm. Stewart lại gật đầu. - Tôi cũng định thế. Các mang lại cho chúng tôi Jericho. Đó là cách. Tôi trình bày với ông luật gia. Paxman đứng dậy và lau mồm. - Tốt hơn hết là tôi Riyadh đây. Mike Martin là người quen tự tạo vận may cho mình, nhưng sống sót được qua tháng Mười đó quả là phải nhờ đến số mệnh. thực cuộc điện đàm đến nhà SIS định ở ngoại ô Riyadh trong cái đêm ngày 19, cùng đêm mà bốn nhân viên tình báo cao cấp ăn tối tại South Kensington. làm, có thể ở ngoài khí, do hai giờ cách biệt, trước khi Simon Paxman có thể quay về Nhà Thế kỷ và thông báo Riyadh rằng ta được cầu. Tệ hơn nữa, có thể gửi lên trung trong vòng năm đến mười phút, chuyện với Riyadh về báo về loạt vũ khí và đạn dược. thực tế, ở trong gara khá kín nơi để chiếc jeep của mình ngay trước nửa đêm, chỉ để phát ra rằng chiếc xe xịt mất lốp. Chửi thề, đành sửa xe mất tiếng, vật lộn để tháo được vỏ xe, gần như bị đóng xi măng lại do hỗn hợp những thứ bụi và cát sa mạc. giờ kém mười lăm phút lăn bánh ra khỏi gara, và mới được nửa dặm nhận ra cả chiếc bánh dự phòng cũng bị thủng lỗ sâu hoắm. Chẳng thể làm gì khác ngoài việc quay trở về gara và bỏ cuộc điện đàm với Riyadh. Phải mất hai ngày mới sửa xong cả hai chiếc lốp, và chỉ mãi đến đêm ngày 21 mới có thể sâu vào trong sa mạc, xa về phía nam thành phố, quay chiếc đĩa vệ tinh của mình hướng về thủ đô Xeut nhiều dặm xa đó, sử dụng nút gửi để chuyển loạt những tiếng bíp để báo rằng ai gọi và rằng chuẩn bị lên trời. - Núi đá, Râu Đen, đọc năm. Các mật mã được mật định giữa Riyadh và Martin hợp với nhau với ngày tháng và kênh, ngay trong trường hợp ai đó thù địch cố phá sóng. Martin ấn nút Gửi và nhiều câu. Ớ ngoại ô Kuwait City về phía bắc, kỹ thuật viên trẻ người Iraq bị báo động bởi ánh sáng nhảy nhót cái màn hình ta theo dõi trong căn hộ được cầu tầng cùng toà nhà ở. trong số các trợ lý của ta bắt được đợt chuyển tin và khoá lại. - Đại uý, ta vội vã gọi. sĩ quan từ bộ phận tín hiệu Phản gián của Hassan Rahmani chạy vội đến màn hình. Ánh sáng vẫn nháy, và người kỹ thuật viên quay số điện thoại để báo động. - Ai đó vừa mới gửi tin vào trung. - Ở đâu? - Trong sa mạc, thưa ngài. Kỹ thuật viên nghe ngóng các tai phôn theo các người chỉ dẫn hướng định ra theo nguồn chuyển tin. - Chuyển bằng điện đàm, thưa ngài. - Hẳn là đấy. Ông chủ đúng. Tần số thế nào? Viên sĩ quan tóm lấy điện thoại để báo động hai đơn vị tuần tra, những chiếc xe tải đỗ ở Jahra và bệnh viện Al Adan gần bờ biển. - Hai cấp. Nghĩa là hai mươi hai độ về phía tây ngả sang nam, và tuyệt đối có gì ở hướng này ngoài sa mạc Kuwait, cái chạy về mọi hướng để nhập vào với sa mạc Xêut ở biên giới. - Tần số? Viên sĩ quan gào lên khi người theo dõi ở Jahra cầm lấy máy điện thoại. Người dò sóng tần số, kênh hiếm ở tần số cực thấp. - Trung uý, ta gọi qua vai mình:đến ngay căn cứ quân Ahmadi. với họ cho máy bay trực thăng. Chúng ta có mục tiêu rồi. Ở xa trong sa mạc: Martin kết thúc những điều phải và bật sang nút Nhận để có được câu trả lời từ Riyadh. phải là cái chờ đợi. nghe mười lăm giây. - Núi Đá, Râu Đen, về hang ngay. Tôi lại, về hang ngay. Tuyệt đối khẩn cấp. ngay lập tức. Viên đại uý Iraq đưa tần số cho cả hai trạm khác nữa. Ở Jahra và ở bệnh viện những kỹ thuật viên khác cũng đưa máy dò của mình vào tần số định, và đầu họ những cái đĩa dường kính bốn fit quay về các hướng. Trạm ở bờ biển bao phủ khu vực từ biên giới phía bắc với Iraq của Kuwait xuống đến biên giới với A-rập Xêut. Các máy quét của Jahra về phía đông sang tây từ biển đến các sa mạc phía đông của Iraq ở phía tây. Giữa ba cái đó, họ có thể khoanh tam giác địa điểm chính xác trong trăm yard và đưa ra chỗ và khoảng cách đến chiếc máy bay trực thăng Hind và mười người lính vũ trang của nó. - Vẫn còn đấy chứ? Viên đại uý hỏi. Kỹ thuật viên quét chiếc màn hình tròn trước mặt mình, choãi ra xung quanh lề của nó với những điểm của cái compa. Trung tâm của cái đĩa chính là điểm nơi ta đứng. Mấy giây trước có đường nhấp nháy qua màn hình, chạy từ trung tâm cái compa đến compa số 202. Giờ đây màn hình đen lại. Nó chỉ có ánh sáng trở lại khi ngườl ở đó lại chuyển tin . - , thưa ngài, biến rồi. Có khả năng nghe trả lời - trở lại thôi, viên đại uý . Nhưng ta đă sai. Râu Đen nghe những lời chỉ dẫn bất ngờ từ Riyadh, tắt máy , đóng máy phát lại và gấp ăngten. Những người Iraq xem tần số trong suốt đêm đó cho mãi đến sáng, trong khi chiếc Hind ở Al Ahmadi tắt máy và nằm im, những người lính mệt mỏi về. Simon Paxman nằm thiếp cái bàn của văn phòng mình khi điện thoại kêu. Đó là nhân viên bên liên lạc của căn cứ. - Tôi đến ngay đây. Paxman . Đó là thông điệp hết sức ngắn gọn, mới được giải mã từ Riyadh. Martin liên lạc và được truyền lệnh. Từ văn phòng của mình Paxman gọi diện cho Chip Barber ở căn phòng CIA ở quảng trường Grosvenor. - ta về đấy, . Chúng tôi biết khi nào ta vượt qua biên giới. Steve ta muốn tôi đến đó. Các ông có đến " - Được Barber . DDO quay về Langley trong chuyến bay sáng. Nhưng tôi cùng với . Tôi phải gặp chàng ấy mới được. Trong ngày 22 tháng Mười Đại sứ quán Mỹ và Văn phòng Bộ Ngoại giao cả hai đều tiếp cận Đại sứ quán Xêut cho thông báo ngắn đáng tin về nhà ngoại giao trẻ mới cho Riyadh. vấn đề gì hết. Hai tấm hộ chiếu, đều mang tên Barber hay Paxman. được cấp thị thực chần chừ, và hai người lên chiếc máy bay vào 8 giờ 45 từ Heathrow, đến sân bay quốc tế King Abdulaziz ở Riyadh ngay trước khi bình minh lên. chiếc xe của sứ quán Mỹ đến đón Chip Barber và đưa ông ta thẳng đến chỗ người Mỹ, nơi chiến dịch CIA mở rộng đóng quân, trong khi chiếc sedan hơn đeo biển mang Paxman đến ngôi biệt thự nơi chiến dịch SIS đóng. Tin đầu tiên Paxmna nhận được là Martin có vẻ vượt qua được biên giới. Lệnh quay trở về căn cứ từ Riyadh, theo quan điểm của Martin, dễ hơn là làm. quay về từ sa mạc trước bình minh của ngày 22 tháng Mười và mất cả ngày đóng cửa. thông điệp được để lại dưới tấm bia mộ của Able Seaman Shepton ở nghĩa địa Công giáo để giải thích cho ông Al- Khalifa rằng rất tiếc phải rời khỏi Kuwait. thông báo khác với Abu Fouad giải thích ở đâu và bằng cách nào có thể lấy được những đồ đạc vũ khí còn lạí và thuốc nổ còn chứa ở hai trong số sáu ngôi biệt thự từng là của . Buổi chiều lái chiếc xe tải của mình về trang trại lạc đà Sulaibiya, nơi những trạm canh cuối cùng của Kuwait City chạy đến và sa mạc bắt đầu. Những con lạc đà của vẫn còn ở đó và rất khỏe. Con con trổ giò và hứa hẹn trở thành con thú đáng giá, nên dùng nó để trả luôn món nợ cho người chủ trang trại nuôi nó hộ . Ngay trước khi hoàng hôn leo lên con lạc đà cái và theo hướng tây nam, để khi đêm buông xuống và bóng tối lạnh lẽo của sa mạc bao phủ, Martin ở xa những dấu hiệu cuối cùng của con người. mất bốn tiếng đồng hồ chứ phải như thường lệ để đến được nơi chôn đài của mình, địa diểm được đánh dấu bởi cái vỏ săm xe ô tô, trước đây rất lâu bị nổ và bị vứt lại đây. giấu đài vào giữa những cái mà giấu các giỏ của mình. Ngay cả với những cái đó, con lạc đà vẫn thoải mái mang như là nó mang thuốc nổ và vũ khí vào Kuwait chín tuần trước đây. Nó để lộ dấu hiệu gì, chán nản vì bị mang nặng và bị tách khỏi chỗ sung sướng ở trang trại. Nhưng nó từ chối và hàng dặm trong bóng tối. Tuy nhiên, đó là chuỵến khó nhọc, so với chuyến giữa tháng Mười. Trong khi về phía nam, Martin nhìn thấy ngày càng nhiều dấu hiệu của quân đội lraq giờ đây vào sâu trong khu vực phía nam thành phố, trải dài xa hơn về phía tây biên giới Iraq. Thường có thể nhìn thấy dấu những ngọn đèn của các giếng dầu ở đâu đó trong sa mạc, và biết người Iraq có thể chiếm chúng, bèn sâu vào trong vùng cát để tránh họ. Vào những dịp khác hít thở khói đốt gỗ từ đám lửa của người lraq và có thể chui vào đâu đó ngủ. lần suýt rơi vào trung đội tăng, trốn sau những bức tường cao của cát ngay trước mặt người Mỹ và người Xêut ngang qua biên giới về phía nam. nghe thấy tiếng động của kim loại đúng lúc, để giật cương đột ngột sang phải, và quay lại lủi vào trong những đụn cát. Khi xâm nhập chỉ có hai đội Vệ binh Cộng hoà lraq ở phía nam Kuwait, và xa hơn về phía đông, sang nam của Kuwait City. Giờ đây sư đoàn Hammurabi nhập vào hai cái đó, và 11 sư nữa, chủ yếu là quân chủ lực, được lệnh vào miền nam Kuwait để đánh nhau với người Mỹ và Liên quân ở bên kia. 14 sư đoàn là nguồn nhân lực lớn, ngay cả khi trải rộng sa mạc. May làm sao cho Martin, có vẻ họ canh gác mà có trạm canh và ngủ say giữa xe cộ của mình. nhưng số lượng người đó đẩy xa mãi về phía tây. thể vượt qua 15 km ngắn ngủi để đến được ngôi làng Xêut của Hamatiyyat với trang trại lạc đà Kuwait, bị đẩy lên phía tây đến tận biên giới với Iraq, được đánh dấu bởi vịnh nước sâu của Wadi el Batin, cái mà thực hề muốn qua. Bình minh lên khi ở phía tây của vùng dầu Manageesh và còn ở Bắc của trạm cảnh sát Al Mufrad, cái đánh dấu biên giới ở những điểm nổi lên. Đất dốc lên, và thấy đám đá trong đó có thế qua ngày. Khi mặt trời lên, xuống lạc đà, thở phì phò và nhìn cát với đá vẻ kinh tởm, chẳng buồn kiếm cọng cỏ để ăn sáng, rồi chui vào chỗ ngủ. Vừa mới sau buổi trưa, bị đánh thức bởi tiếng động của những chiếc xe tăng khá gần và nhận ra ở quá gần đường chính dẫn đến Jahra, ở Kuwait, về tây nam để vượt qua Ảrập Xêut ở trạm hải quan Ai Salmi. Sau khi mặt trời xuống đợi đến lúc đêm xuống tối rồi mới lên dường. biết biên giới thể xa hơn 12 dặm về phía nam. khởi hành muộn của cho phép về giữa những đội canh lraq vào khoảng ba giờ sáng, cái giờ tâm trí con người xuống thấp nhất và chỉ muốn ngày khò khò. Bằng ánh sáng trăng, nhìn thấy trạm cảnh sát Qaimat Subah đứng bên đường, và còn cách đó hai dặm, biết mình vượt được qua biên giới. Để đến được bên an toàn, phải bỏ đường cái đông-tây giữa Hamatiyyat và Ar-Rugi. Ở đó tháo chiếc đĩa của mình. Vì người Iraq phía bắc sâu vào hàng dặm bên kia biên giới Kuwait, và vì các lực lượng cho kế hoạch của tướng Schwarzkopf tên là Lá chắn Sa mạc cũng đứng sát đó để đảm bảo biết, khi bị tấn công. rằng liệu Iraq có xâm lược Kuwait hay , nên Martin thấy mình ở giữa vùng bóng người. ngày nào đó, vùng đất vắng người đó có thể trở thành dòng thác khủng khiếp của các dòng suối quân Xêut và Mỹ theo hướng bắc về phía Kuwait. nhưng trong bóng tối trước bình minh của ngày 24 tháng Mười đó chỉ có mình mà thôi. Simon Paxman bị đánh thức bởi thành viên cấp thấp của đội Nhà Thế kỷ ở trong biệt thự. - Râu Đen gửi tin. Simon. ta vượt được qua biên giới. Paxman nhảy ra khỏi giường và chạy vào phòng điện đàm trong bộ pyjama. người điều hành điện đàm chiếc ghế đung đưa ngồi trước màn hình chạy suốt bức tường từng là căn phòng ngủ khá thanh lịch. Bởi vì là ngày 24, các mật mã thay đổi. - Corpus Christi gửi Texas Ranger, là ai? lại , định vị địa điểm của . Giong hơi , nhưng hoàn toàn . - Phía nam Qaimat Subah, đường từ Hamatiyyat đến Ar-Rugi. Người điều khiển máy quay lại liếc nhìn Paxman. Nhân viên SIS ấn nút Gửi và : - Ranger, ở nguyên đó. Có chiếc taxi đến đón đấy. - Hiểu, giọng cất lên. Tôi đợi chiếc xe đen. Đó thực ra phải là chiếc xe buýt màu đen. Đó là chiếc trực thăng Blackhawk của Mỹ bay đường từ hai giờ trước, chiếc chở nặng ở cửa dưới người phi công, mắt đeo đôi kính, nhìn xuống dấu vết mờ mịt ở đường. Từ hai trăm fít, chiếc máy bay nhìn thấy người đàn ông đứng cạnh con lạc đà và bay xuống khi người đàn ông vẫy tay. Chiếc Blackhawk thả xuống cái thang dây và nhìn người Bedou chằm chằm. Cho đến khi người phi công biết, quá gần biên giới cách khó chịu. Còn nữa, địa điểm bản đồ được đưa bởi sĩ quan tình báo đội bay rất chính xác, vả lại còn ai trong tầm nhìn nữa cả. Chính Chip Barber thu xếp với quân đội Mỹ ở căn cứ quân Riyadh cho mượn chiếc Blackhawk để đón người vượt qua biên giới khỏi Kuwait. Chiếc Blackhawk lên đường, nhưng ai với viên phi công về người thổ dân Bedouin với con lạc đà hết cả. Khi những phi công quân đội Mỹ nhìn từ hai trăm fít. người đàn ông dưới đất đứng giữa dải đá. Chiếc máy bay to định vị vào tấm gương của mình để nhìn cách bố trí những viên đá. Nó rất đơn giản: Chào, ở đây này. Người lái qua chiếc mặt nạ. - Đúng thằng cha đó rồi. Xuống mang lên . Viên phi công gật đầu, và chiếc Blackhawk bay vòng vòng và xuống cho đến khi nó chỉ còn cách mặt đất 20 yard cách người đàn ông và con thú của ta. Martin cầm các giỏ và bộ yên lạc đà nặng khỏi con vật và đẩy nó sang bên đường. Bộ điện đàm và vũ khí cá nhân của , khẩu Browning 9 ly mười ba phát tự động rất được người của SAS thích, nằm trong chiếc túi đeo qua vai. Khi chiếc trực thăng hạ xuống, con lạc đà sợ hãi và vùng ra chạy. Martin nhìn nó chạy . Nó phục vụ rất tốt, dù cái tính khí dở người của nó. Nó có thể gặp nguy hại gì khi mình trong sa mạc. Hẳn nó về nhà. Nó có thể lang thang tự do, tự tìm thức ăn và nước, cho đến khi người Bedou nào đó tìm thấy nó, thấy có dấu và sung sướng chiếm nó thành của riêng luôn. Martin cúi gò người tránh gió và chạy đến cánh cửa mở. Qua tiếng ồn của động cơ, người lái phụ hét lên: - Tên là gì? - Thiếu tá Martin. bàn tay chìa ra khỏi cửa để kéo Martin vào trong khoang lái. - Xin chào mừng lên máy bay, thiếu tá. Vào điểm máy móc ầm ĩ thể chuyện được, người lái phụ trao cho Martin cái che tai rồi ngồi sau, và quay trở về Riyadh. Lại gần thành phố, người phi công lượn xuống ngôi biệt thự ngoài ngoại ô thành phố. Gần đó là khoảng đất trống rộng ai đó để đó thành hình chữ H. Khi chiếc Blackhawk lượn xuống, người đàn ông trong bộ áo Arập nhảy từ ba fít xuống đất, quay lại vẫy tay cảm ơn đội bay, và về phía ngôi nhà khi chiếc trực thăng bay . Hai người phục vụ kéo rèm lại. Martin qua cửa hình vòm vào bức tường ngôi biệt thự và thấy mình trong cái sân có treo cờ. Hai người đàn ông ra từ cánh cửa ngôi nhà. người nhận ra từng gặp ở đại bản doanh SAS ở tây London nhiều tuần trước. - Simon Paxman, người trẻ hơn , bắt tay . Tốt làm sao là lại về được. Đây là Chip Barber, trong những người em của chúng ta từ Langley. Barber bắt chặt tay và tiến lên trước mặt , chiếc áo dài màu trắng trùm từ cằm xuống sàn nhà, chiếc khăn quấn quanh vai, keffiyeh với hai cái dây màu đen để giữ yên nó, khuôn mặt xương, nặng nề, tóc đen, mắt đen. - Rất mừng được gặp , thiếu tá. Tôi nghe nới nhiều về . Mũi ông ta nhảy nhảy. cần nước nóng để tắm chứ? - Ồ đúng, tôi chuẩn bị ngay thôi, Paxman . Martin gật đầu "Cám ơn ", và vào trong ngôi biệt thự mát mẻ. Paxman và Barber vào sau . Barber cảm thấy rất hãnh diện với bản thân. - Mẹ kiếp, ông ta nghĩ. thể nghĩ thằng cha này làm thế được. Mất nhiều lần tắm liên tục trong chiếc bồn tắm bằng đá của biệt thự, do hoàng thân Khaled bin Sultan tặng người . Martin mới bỏ được những bụi bặm và hôi hám của nhiều tuần dồn lại. ngồi khoanh tay trong khi người thợ cạo được gọi đến cho mục đích cắt tóc cho , rồi cạo râu với nước cạo của Simon Paxman. Chiếc keffiyeh của , khăn choàng, rồi áo dài, và dép được mang ra ngoài vườn, nơi người hầu Xêut cho vào lửa đốt Hai giờ sau, trong đôi giày tông của Paxman và chiếc áo phông ngắn, Mike Martin ngồi tại bàn ăn và ngắm nhìn bữa trưa hết sức ngon lành. - có thể cho tôi được , hỏi, tại sao lại rút tôi ra? Chip Barber trả lời. - Câu hỏi hay đấy, thiếu tá. Mẹ kiếp câu hỏi hay . Xứng đáng câu trả lời chuẩn. Đúng nào? là, chúng tôi muốn vào Baghdad. Tuần sau. Xalat hay cá nào? CHƯƠNG 10 Cả CIA và SIS đều rất khẩn trương. Dù lộ liễu, cuối tháng Mười xuất rất nhiều nhân viên CIA tại Riyadh. Trước đó, có mặt của CIA gây bất hoà với cơ quan chỉ huy quân cách đó dặm, trong những căn phòng hoạch định kế hoạch bên dưới Bộ Quốc phòng Xêut. Tâm trạng, ít nhất của các vị tướng quân, là bằng mọi cách, thông qua việc sử dụng thành thạo ma trận lằng nhằng những trò kỹ thuật ở trong tầm kiểm soát của mình, tìm hiểu về phòng thủ và chuẩn bị của Iraq. Và đó là ma trận đáng ngạc nhiên. Ngoài những vệ tinh cung cấp liên tục nguồn ảnh về mảnh đất của Saddam Hussein; ngoài Rạng Đông và U-2 làm cùng việc đó nhưng với khoảng cách gần hơn, còn có những bộ máy khác còn có mức độ phức tạp lớn hơn nhiều dành cho việc cung cấp những thông tin quan trọng. mạng vệ tinh khác, ở tầng bình lưu, vòng quanh Trung Đông, có nhiệm vụ nghe ngóng người Iraq gì, và những vệ tinh đó bắt được từng lời trong đường dây mở. Nó có thể bắt được những cuộc họp bàn kế hoạch được thực độ cao 45.000 dặm của những cái dây siêu dẫn. Với các máy bay, chỉ huy là Hệ thống Cảnh báo bay và Hệ thống Kiểm soát, được biết dưới cái tên AWACS. Đó là những chiếc Boeing 707, mang theo chiếc rada vòm khổng lồ lưng. Quay những vòng chậm rãi bờ bắc của Vịnh, luôn chuyển động hai tư giờ mỗi ngày, AWACS có thể thông báo cho Riyadh trong vài giây mọi chuyển động trung phía Iraq. Hiếm khi máy bay Iraq có thể di chuyển hay làm nhiệm vụ bay lên mà Riyadh lại biết được số hiệu, hình dáng, tốc độ, và độ cao của nó. Chỗ dựa của AWACS là Boeing 707 khác, E8-A, được biết dưới cái tên J-STAR, theo dõi các chuyển động mặt đất trong khi AWACS kiểm soát những chuyển động trung. Với cái rađa Norden lớn của mình nó quét phía dưới và các bên, để có thể bao trùm khắp Iraq mà cần xâm nhập phận lraq, chiếc J-STAR có thể nghe thấy tiếng mọi mẩu kim loại bắt đầu chuyển động. phối hợp của những máy móc đó và nhiều điều kỳ diệu kỹ thuật khác mà Washington tiêu hàng tỷ và hàng tỷ đôla thuyết phục các vị tướng lĩnh rằng nếu có gì được ra, họ có thể nghe thấy, nếu có gì chuyển động, họ có thể nhìn thấy nó, và nếu họ biết như vậy rồi, họ có thể tiêu diệt nó khi cần thiết. Hơn nữa, họ có thể thấy được mọi thứ dù trời mưa hay sương mù, dù là đêm hay ngày. bao giờ kẻ thù có thể trốn dưới cái hầm hay trong rừng rậm mà thoát được khỏi dò xét. Những con mắt trời cao có thể nhìn thấy tất cả mọi thứ đó. Các sĩ quan tình báo từ Langley rất đa nghi, và điều đó thấy rất . Cánh dân hay nghi ngờ. Đối mặt với cái đó cánh quân trở nên điên tiết. Nó có công việc khó nhọc để làm, nó tiếp tục làm, cần gì đến những cái khác. Bên phía người tình hình lại khác hẳn. Chiến dịch SIS sân khấu vùng Vịnh hề giống với CIA, nhưng nó còn là chiến dịch lớn hơn nhiều theo các tiêu chuẩn của Nhà Thế kỷ. và theo cung cách của Nhà Thế kỷ nó là khía cạnh thấp kém hơn và bí mật hơn. Hơn thế nữa, người được chỉ định chỉ huy tất cả các lực lượng ở vùng Vịnh, và là người đứng bên cạnh tướng Schwarzkopf, người lính bình thường của hoàn cảnh bất thường. Norman Schwarzkopf là người đàn ông to lớn, quả quyết với năng lực quân to lớn và là người lính rất có chất lính. Được biết đến dưới cái tên Norman Bão táp hay "Con Gấu", tâm trạng ông có thể chuyển từ rất tốt bụng đến bùng nổ tức giận, luôn luôn thất thường, đức tính mà các nhân viên của ông có thể nhận ra khi vị tướng sắp thực địa. Đối tác người của ông thể nào khác hơn được thế.Thiếu tướng Sir Peterr de le Billière, người tới vào đầu tháng Mười để chỉ huy người ở đây là người gầy gò xương xẩu, cương nghị với thái độ thờ ơ với cách năng ngắc ngứ. Người Mỹ to lớn hướng ngoại và người mảnh khảnh hướng nội làm thành cặp cọc cạch, những người chỉ nhường bước bởi vì người này hiểu người kia quá để nhận ra là chẳng việc gì phải đối đầu với nhau hết cả. Ngài Peter, được các đội quân biết đến như là P.B, là người lính có nhiều huân chương nhất trong Quân đội , vấn đề mà ông bao giờ đến dù trong bất kỳ trường hợp nào. Chỉ những ai theo ông trong nhiều chiến dịch mới đôi khi dám thầm sau những vại bia về lạnh lùng dưới làn đạn, đức tính làm "mọc lên" áo ông nhiều huân chương lấp lánh đến thế. Ông cũng từng là sĩ quan chỉ huy của SAS, lính bộ binh, điều khiến ông có những hiểu biết hữu dụng nhất về vùng Vịnh, về tiếng Arập, và các chiến dịch giả trang. Bởi vì vị chỉ huy người làm việc trước đó với SIS, đội của Nhà Thế kỷ tìm thấy ở ông cái tai quen thuộc hơn để nghe những lời của họ hơn là với nhóm CIA. SAS có có mặt tốt ở sân khấu vùng Vịnh, nhất là trong trại kín của họ ở góc của căn cứ quân lớn hơn nằm bên ngoài Riyadh. Với tư cách là chỉ huy cũ của những người đó, tướng P.B cho rằng những tài năng đáng chú ý của họ thể nào để bị bỏ phí trong những công việc ngày ngày buồn chán mà bộ binh hoặc lính đánh dù phải làm. Những người đó là các chuyên gia trong việc xâm nhập sâu và bắt con tin. Ngồi trong ngôi biệt thự ngoài Riyadh trong tuần cuối tháng Mười, đội CIA và SIS bàn luận về chiến dịch rất có trong phạm vi hoạt động của SAS. Chiến dịch là tung chỉ huy địa phương của SAS, và ông ta làm việc hoạch định. Cả buổi chiều của ngày thứ nhất của Mike Martin ở ngôi biệt thự được dành để giải thích về phát của Liên quân -Mỹ về điệp viên Jericho tại Baghdad. Họ với rằng vẫn có quyền từ chối và trở lại trung đoàn của mình. suy nghĩ trong suốt buổi tối. Rồi nới với các sĩ quan thường trực của CIA-SIS: - Tôi vào đó. Nhưng tôi có những điều kiện, và tôi muốn chúng được thực . Vấn đề chủ yếu, như tất cả đều biết là câu chuyện giả danh của . Đó phải là nhiệm vụ nhanh chóng vào rồi ra ngay, phụ thuộc vào tốc độ và tinh quái của mạng lưới phản gián. Cũng phải tính đến chuyện hỗ trợ bên ngoài và bảo vệ như từng có ở Kuwait. Cũng phải lang thang trong sa mạc bên ngoài Baghdad như thổ dân bộ lạc Bedouin lang thang. Thời gian này Iraq trở thành trại lính khổng lồ. Thậm chí các vùng đất có bản đồ dường như đổi khác và trở nên trống trơn, nơi các đội tuần tra suốt ngày. Tại Baghdad, quân đội và những đội AMAM có mặt ở khắp mọi nơi, Cảnh sát Quân tìm kiếm những kẻ đơn độc và AMAM tìm mọi người khả nghi. Nỗi sợ hãi mà AMAM gây ra được mọi người trong ngôi biệt thự chia sẻ. Các báo cáo từ các doanh nhân và nhà báo, và từ các nhà ngoại giao và Mỹ trước khi họ bị rút , mở rộng phân tích có mặt khắp nơi của cảnh sát mật, những người luôn khiến công dân Iraq sợ hãi và run rẩy. Nếu Martin vào trong đó, có thể phải ở lại. Điều khiển điệp viên như Jericho hẳn hề dễ dàng với . Thứ nhất, người đàn ông phải sẵn sàng tìm dấu những hộp thư chết và được thông báo ông ta quay trở lại nhiệm vụ. Các hộp thư có thể bị theo dõi. Jericho có thể bị bắt và bị buộc phải khai hết ra. Hơn thế nữa, Martin cũng phải thiết lập chỗ để sống, căn cứ nơi có thể gửi và nhận các thông tin. phải vòng vòng khắp thành phố, theo dõi các hòm thư nếu nguồn tin bên trong của Jericho được thu hẹp lại, mặc dù giờ đây nó có thể được dành cho những vấn đề khác nữa. Cuối cùng, và tệ nhất trong mọi chuyện, có thể có vỏ bọc ngoại giao nào hết, hề có lá chắn bảo vệ để giúp thoát khỏi những cơn khủng khiếp rằng có thể bị bắt và bị xử lý Với con người như thế, các phòng thẩm vấn của Abu Khatib có thể sẵn sàng. - - e hèm - nghĩ gì vậy? Paxman hỏi khi Martin đưa ra đề nghị của mình. - Nếu tôi thể trở thành nhà ngoại giao, tôi muốn là tuỳ viên cho nhà ngoại giao. - dễ dâu, bạn ạ. Các Đại sứ quán đều bị theo dõi. - Tôi là Đại sứ quán. Tôi nhà của nhà ngoại giao. - dạng như tài xế? Barber hỏi. - . Quá lộ liễu. Người lái xe phải luôn ngồi sau tay lái ta lái xe chở nhà ngoại giao khắp nơi và trông giống như nhà ngoại giao. - Thế gì? - Trừ phi mọi việc thay đổi hoàn toàn, rất nhiều nhà ngoại giao cao cấp sống bên ngoài toà nhà Đại sứ quán, và nếu chức đủ cao, họ vẫn còn có biệt thự có vườn với tường bao. Ngày xưa những ngôi nhà đó có người làm vườn. - người làm vườn? Berber hỏi lại. Nhưng đó là công việc tay chân. bị tóm cổ và bị đưa vào quân đội. - đâu. Người làm vườn làm mọi việc ở ngay trong nhà. ta chăm sóc vườn tược, mua bán xe đạp, mua cá ở chợ cá, hoa quả và rau. bánh và dầu rán. ta sống trong căn lều ở cuối vườn. - Thế điểm mấu chốt là ở đâu, Mike? Paxman hỏi. - Mấu chốt là ở chỗ, ta vô hình. ta tầm thường đến vậy, ai để ý đến ta cả. Nếu ta bị bắt, tấm thẻ căn cước của ta hợp lệ và ta cầm lá thư đại sứ quán, bằng tiếng Arập, giải thích rằng ta làm việc cho nhà ngoại giao và được miễn quân dịch, và có quyền xin cho ta làm việc. Trừ khi ta làm việc gì sai trái, chẳng người cảnh sát nào gây rắc rối với ta và lại còn muốn làm chống lại đại sứ quán nữa chứ. Hai nhân viên tình báo nghĩ ngợi. - Có thể được đấy, Barber đồng ý. Tầm thường, vô hình. nghĩ thế nào, Simon? - Tốt. Paxman . nhà ngoại giao có thể làm được điều này. - Chỉ là phần thôi, Martin . ông ta có thể cần phải được nhận lệnh đơn giản từ chính phủ của mình để nhận người lạ vào làm việc. ta nghi ngờ là chuyện riêng của ta. ta giữ chặt mồm miệng nếu ta muốn giữ được công việc của mình và nghề ngỗng. Nghĩa là lời đề nghị phải đến từ cấp khá cao. - Đại sứ quán bị thôi rồi, Paxman . Người Iraq có thể làm mọi cách để làm hại người chúng ta. - Chúng tôi cũng thế thôi. Barber . có nghĩ đến ai , Mike? Khi Martin với họ: họ nhìn chằm chằm như tin. - nghiêm túc rồi. người Mỹ . - Tôi nghiêm túc, Martin bình thản . - Thế quái nào đấy, Martin, lời cầu như thế có thể toi mất, trời đất, ngài thủ tướng. - Và tổng thống nữa. Harber . - Nào, chúng ta giờ đây là cánh bạn bè rồi, tại sao chứ? Ý tôi là, nếu sản phẩm của Jericho có thể cứu được tính mạng của Liên quân. cú điện thoại chẳng lẽ lại là quá đáng ư? Chíp Barber liếc nhìn đồng hồ. Giờ Washington sớm hơn bảy giờ so với ở vùng Vịnh. Langley có thể kết thúc bữa trưa của mình. London chỉ sớm hơn có hai giờ, nhưng các sĩ quan cấp cao có thể ngồi vào bàn làm việc rồi. Barber chạy thẳng về Đại sứ quán Mỹ và gửi bức tin khẩn bằng mật mã về phó giám đốc, Bill Stewart, người, khi đọc điều đó mang đến cho giám đốc, William Webster. Đến lượt ông này gọi điện sang Nhà Trắng và xin cuộc gặp với tổng thống. Simon Paxman gặp may. Cú phôn mã hoá của ta tóm được Steve Laing ngồi ở bàn ở Nhà Thế ký, và sau khi nghe, người chỉ huy các Chiến dịch Trung Đông gọi Chỉ huy ở nhà riêng. Ngài Colin suy nghĩ và gọi cú điện thoại đến thư ký Chính phủ, ngài Robin Butler. Chỉ huy Cơ quan Tình báo mật, trong những trường hợp khẩn cấp, có thể cầu và được chấp nhận cuộc gặp cá nhân với thủ tướng, và Margaret Thatcher luôn dễ tính đối với những người điều hành các công vụ tình báo và các Lực lượng Đặc biệt. Bà đồng ý gặp Chỉ huy tại văn phòng riêng của mình tại số 10 phố Downing vào tám giờ sáng ngày hôm sau. Bà, như vẫn luôn vậy, làm việc từ trước bình minh và dọn bàn trước khi Chỉ huy có mặt. Bà nghe lời đề nghị kỳ khôi với cái nhăn trán khó hiểu, đòi giải thích nhiều lần, nghĩ ngợi, và sau đó, theo cách thông thường của bà, bà ghi nhớ ngay chậm trễ. - Tôi thoả thuận với tổng thống Bush ngay khi ông ấy muốn, và chúng ta xem có thể làm gì được. Thế cái, ùm, người đó - thực làm việc đó à? - Đó là chủ đích của ta, thưa thủ tướng. - trong số người của ông à, ngài Colin? - , ta là thiếu tá của SAS. Mắt bà sáng bừng. - người đáng chú ý đấy. - Tôi cũng tin vậy, thưa bà. - Khi mọi chuyện xong, tôi cũng muốn gặp ta. - Tôi chắc thu xếp được, thưa thủ tướng. Khi Chỉ huy , nhân viên phố Downing thiết lập cú điện thoại cho Nhà Trắng, ngay vào giữa đêm ở đó, và tạo kết nối nóng vào tám giờ sáng ở Washington và giờ chiều ở London. Bữa trưa của thủ tướng được lùi lại mười ba phút. Tổng thống Bush, cũng giống người tiền nhiệm Ronald Reagan, luôn luôn thấy khó khăn trong việc từ chối thủ tướng điều gì đó khi bà tấn công từ khắp mọi hướng. - Tốt thôi, Margaret, tổng thống sau năm phút, tôi gọi điện. - ta có thể từ chối, bà Thatcher nhấn mạnh, và ta làm thế. Dù sao nữa, chúng ta phải làm mọi chuyện để giúp ta. - Đúng vậy, làm, tổng thống . Hai vị lãnh đạo Chính phủ gọi điện trong giờ cả hai, và câu trả lời từ người đàn ông bối rối ở đầu dây bên kia là đồng ý ông ta có thể gặp các đại diện của họ, gặp riêng, ngay khi họ tới Tối đó Bill Stewart khỏi Washington, và Steve Laing bắt chuyến bay cuối cùng của ngày từ Heathrow. Nếu Mike Martin có ý tưởng nào đó về nhanh chóng của hoạt động của cầu của dã được bắt đầu, cũng để lộ chút nào hết cả. trải qua ngày 26 và 27 tháng Mười nghỉ ngơi, ăn uống, và ngủ. Nhưng ngừng cạo râu, để mặc chòm râu đen tiếp tục dài ra. Những công việc theo cầu của được thực tại nhiều nơi khác nhau. Chỉ huy Trạm SIS ở Tel Aviv đến thăm tướng Kobi Dror với lời cầu cuối cùng. Chỉ huy Mossad nhìn chằm chằm tò mò người đàn ông người . - thực làm cái đó chứ? ông ta hỏi. - Tôi chỉ biết là tôi được lệnh là nhờ ông, Kobi ạ. - Quỷ . Các ông biết ta bị bắt, có biết hả? - Ông có thể làm hả. Kobi? - Tất nhiên chúng tôi có thể làm được điều đó. - Hai mươi tư giờ nhé? Kobi Dror lại vào vai Fidder in the Roof. - Với , chàng dở hơi, tay phải của tôi đây này. Nhưng xem này, lạ lùng chưa, đề xuất cái gì thế này? Ông đứng dậy và ra sau bàn của mình, vòng tay quanh vai người đàn ông người . - cũng biết đấy, chúng tôi phá bỏ mất phân nửa quy tắc của chúng tôi rồi đấy, và chúng tôi gặp may. Thường , chúng tôi bao giờ có người của mình đến thăm hòm thư chết. Nó có thể là cái bẫy. Với chúng tôi, hòm thư luôn là chiều: từ katsa đến điệp viên. Với Jericho, chúng tôi bỏ quy tắc đó . Moncada lấy sản phẩm theo cách đó bởi vì còn có cách nào khác nữa cả. Và ta gặp may - gặp may trong hai năm liền. Nhưng ta có vỏ bọc ngoại giao. Giờ các lại muốn... điều đó. Ông cầm lên bức ảnh của người đàn ông khuôn mặt trông như người A-rập với tóc đem sậm và xoăn, bức ảnh người mới nhận được từ Riyadh, mang nó đến (từ nơi đó có đường dây thương mại nào giữa hai thủ đô) bởi chiếc máy bay phản lực HS-125 riêng của tướng de la Billière. Chiếc 125 đỗ ở sân bay quân Sde Dov, nơi những dấu hiệu sống động của nó dã được chụp ảnh lại rất nhiều. Dror nhún vai. - Thôi được. Sáng mai nhé. Hứa đấy. Mossad có số dịch vụ kỹ thuật tốt nhất thế giới Ngoài máy điện toán trung tâm với dữ liệu khoảng hai triệu tên và số liệu, ngoài những dịch vụ tốt vào loại nhất thế giới, còn có tại căn cứ và dưới đất của đại bản doanh Mossad loại những phòng nơi nhiệt độ được kiểm soát hết sức kỹ càng. Những phòng đó để chứa giấy tờ. phải chỉ là giấy tờ cũ - những giấy tờ rất đặc biệt. Những bản gốc của gần như mọi loại hộ chiếu thế giới nằm ở đây, cùng với vô vàn những giấy tờ căn cước khác, giấy phép lái xe, thẻ bảo hiểm xã hội, và đủ thứ linh tinh. Rồi còn có những thẻ căn cước trống, để khống đó người viết có thể điền vào, sử dụng các bản gốc như là hướng dẫn để tạo ra đồ giả với chất lượng tuyệt hảo. Các thẻ căn cước chỉ có tính đặc biệt. Những giấy ngân hàng khó bắt chước có thể và được làm ra với số lượng lớn. dù là để giúp làm lụn bại đồng tiền nước láng giềng thù địch, hay để cấp tiền cho các chiến dịch bí mật của Mossad. những cái mà cả thủ tướng lẫn Knesset đều biết mà cũng muốn biết. CIA và SIS phải nhờ đến Mossad, đơn giản vì họ thể làm nổi tấm thẻ căn cước của người lao động chân tay người Iraq 45 tuổi với chắc chắn có thể qua được mọi kiểm soát trong nước Iraq. may mắn, Sayeret Matkal, nhóm trinh sát qua biên giới bí mật đến nỗi tên nó thể được in lên thậm chí ở Israel, làm chuyến vào Iraq hai năm trước để cấy oter Arập có quan hệ ở mức độ này ở đó. Trong khi lại ở Iraq, các điệp viên bắt chợt hai người làm việc đồng ruộng, xử lý họ, và lấy thẻ căn cước của họ. Như hứa. những người của Dror làm việc thâu đêm và đến bình minh làm được tấm thẻ căn cước Iraq, bẩn thỉu đến mức chấp nhận được và trông nhầu nát như dùng từ lâu lắm, với cái tên Mahmoud Al-Khouri. 45 tuổi, từ ngôi làng ở những quả đồi phía bắc Baghdad. làm việc ở thủ đô với nghề tay chân. Những người làm giả biết Martin lấy tên của Al- Khouri, người từng kiểm tra tiếng Arập của trong quán ăn Chelsea hồi đầu tháng Tám; họ cũng thể biết rằng chọn ngôi làng từ đó người cha làm vườn của ông ta đến, ông già, trước đó rất lâu gần cái cây ở Baghdad, cho đứa con người của mình về nơi nó ra đời, về ngôi nhà thờ Hồi giáo và quán cà phê và những ruộng đồng trồng alfalfa và dưa hấu bao quanh. Và đó lại thêm điểm nữa mà những người làm giả hề hay biết. Trong buổi sáng Kobi Dror đưa tấm thẻ căn cước cho người của SIS đóng ở Tel Aviv. - Nó làm hại ta đâu. Nhưng tôi nó, ông đập vào bức ảnh với ngón tay béo trục, nó, cái tay Arập bất kham đó, phản bội các ngay lập tức hoặc bị bắt trong vòng tuần. Người của SIS chỉ có thể nhún vai. Thậm chí ta cũng biết người đàn ông có trong bức ảnh giả hoàn toàn phải là người Arập. ta phải cần biết, thế là ta được . ta chỉ làm điều được ra lệnh - đưa chiếc thẻ lên máy bay HS-125, đó nó được chở quay về Riyadh. Quần áo cũng chuẩn bị xong, chiếc dish-dash đơn giản của người lao động Iraq, cái keffiyeh cũ màu nâu, và đôi giày cổ lỗ to xù chiếc mũ lưỡi trai có vành, thể biết làm gì, tạo ra kiểu ăn mặc kỳ quái. ta là người Xêut đáng thương. Bên ngoài thành phố Riyadh, căn cứ quân bí mật, nơi tập hợp các loại xe cộ đặc biệt được chuẩn bị. Chúng được mang đến chiếc Hercules của RAF từ căn cứ chính của SAS xa hơn về phía bán đảo Arập ở Oman và được thả xuống và trang bị lại cho chuyến dài và gian khổ. Điều cốt yếu của cuộc thoả thuận về hai chiếc Land-Rover loại lớn là cần trang bị vũ khí nhưng tốc độ cao và được xa. Mỗi xe có thể chở được những vật dụng thông thường cho bốn nhân viên SAS, và cái có thể mang khách. Chiếc còn lại có thể mang chiếc xe máy to đùng cũ rích, cũng có bình xăng được rất lâu. Quân đội Mỹ cũng cho mượn sức mạnh của mình theo cầu, lần này dưới dạng hai chiếc trực thăng Chinook to phản lực. Chúng chỉ được biết là luôn phải túc trực. Mikhail Sergeivitch Gorbachev ngồi như thường lệ ở cái bàn của văn phòng làm việc cá nhân của mình ở tầng thứ bảy và là cao nhất của toà nhà Trung ương Đảng ở Novaya Ploshad, cùng hai người thư ký, khi máy điện thoại nội bộ reo để báo đến của hai sứ giả từ London và Washington. Trong hai mươi tư giờ ông rối tinh lên bởi những cầu của cả tổng thống Mỹ và thủ tướng mà ông nhận được đặc phái viên cá nhân từ mỗi phía. phải là chính trị gia, phải nhà ngoại giao - chỉ là người đưa tin. Trong cái ngày này và ở tuổi tác đó, ông tự hỏi, thông điệp như thế nào mà lại thể qua các kênh ngoại giao thông thường Họ có thể sử dụng đường dây nóng có độ an toàn tuyệt đối thể xâm nhập được, mặc dù cần đến các phiên dịch và kỹ thuật viên. Ông bối rối và tò mò, và vì tò mò là trong những đặc tính nổi bật nhất của ông, ông nóng lòng được gỡ mối tơ rối. Mười phút sau, hai người khách vào đến trong văn phòng riêng của Tổng Bí thư Đảng Cộng sản Đỏ và Chủ tịch nước Liên Xô. Đó là căn phòng dài, hẹp với dãy cửa sổ dọc theo hai bên, nhìn sang Quáng trường Đỏ. có cửa sổ sau lưng chủ tịch, người ngồi quay lưng vào tường ở cuối cái bàn họp dài. Ngược hẳn với phong cách u buồn, nặng nề được những người tiền nhiệm mình ưa thích, Andropov và Chernenko, Gorbachev trẻ tuổi thích cách bài trí sáng sủa, thoáng mát. Cái bàn riêng và bàn làm việc được làm từ gỗ sáng, dọc theo là những cái ghế êm ái. Các cửa sổ được bảo vệ bằng những bức rèm thanh nhã. Khi hai người vào, ông vẫy tay bảo các thư ký ra. Ông nhổm lên khỏi bàn và ra đón. - Xin chào, các quý ngài, ông bằng tiếng Nga. Trong số các ông có ai được bằng thứ tiếng của tôi ? người, mà ông cho là người , trả lời bằng tiếng Nga ngập ngừng. "Có lẽ phải cần phiên dịch, thưa ngài chủ tịch". - Vitali, Gorbachev gọi với vào trong những thư ký ra, bảo Yevgeny đến ngay đây. Trong khi còn chưa năng gì được, ông mỉm cười và hoa chân múa tay cho các vị khách bảo ngồi xuống. Phiên dịch riêng của ông vào trong vài giây và ngồi về cùng phía ,ở cái bàn của chủ tịch. - Thưa ngài, tên tôi là William Stewart. Tôi là phó giám đốc của Cơ quan Tình báo Trung ương ở Washington, người Mỹ . Miệng Gorbachev mím lại và lông mày co lại. - Và, thưa ngài, tôi là Stephen Laing. giám đốc Chiến dịch, phân ban Trung Đông, của Tình báo . bối rối của Gorbachev càng tăng lên. Gián điệp, chekisti - cái quỷ quái gì thế này? - Mỗi cơ quan của chúng tôi. Stewart , đều cầu với Chính phủ của mình để cầu ông đón tiếp chúng tôi. Vấn đề là: thưa ngài, Trung Đông tiến đến cuộc chiến tranh. Tất cả chúng ta đều biết điều đó. Để có thể tránh được nó. chúng tôi cần biết được nội tình của chế độ Iraq. Những cái họ cho dân chúng và những cái họ bàn thảo trong bí mật, chúng tôi tin là khác nhau hoàn toàn. - có gì là mới mẻ cái chuyện đó đâu. - hề mới, thưa ngài. Nhưng đó là chế độ có tính bất ổn rất cao. Nếu chúng ta chỉ có thể biết được trong văn phòng của tổng thống Saddam Hussein thực nghĩ gì ngày hôm nay, chúng ta có thể có được kế hoạch tốt hơn để lập chiến lược để ngăn chặn cuộc chiến sắp xảy ra. Laing - Dĩ nhiên là có các vị ngoại giao lo chuyện đó rồi, Gorbachev chỉ ra. - Thường là như thế, đúng, thưa ngài chủ tịch. Nhưng có những giai đoạn mà ngoại giao quá mở, quá công cộng cho kênh những suy nghĩ bên trong có thể mà mở ra được. Ông còn nhớ trường hợp Richard Sorge ?
Gorbachev gật đầu. Mọi người Nga đều biết đến Sorge. Chân dung ông xuất những con tem bưu điện. ông là người hùng sau khi chết cho Liên Xô. - Thời gian đó, Laing tiếp tục. thông tin của Sorge về Nhật Bản có thể tấn công Xibêri là cốt tử với đất nước của ngài. Nhưng nó thể về với các ngài thông qua con đường đại sứ quán được. - Vấn đề là, ngài chủ tịch, chúng tôi có lý do để tin tưởng trong Baghdad có tồn tại nguồn tin, ở vị trí khá là cao, người được chuẩn bị để làm lộ cho chúng tôi những bàn luận tuyệt mật bên trong Saddam Hussein. Thông tin như thế có thể làm ra khác biệt giữa chiến tranh và rút lui tự nguyện của người lraq khỏi Kuwait. Mikhail Gorbachev gật đầu. Ông phải là bạn của Saddam Hussein. từng là bạn hàng ngoan ngoãn của Liên Xô, Iraq dần ngày càng trở nên độc lập hơn, nhưng còn xơi vị lãnh đạo của nó mới chịu chống lại Liên Xô. Hơn thế nữa. vị lãnh đạo Xô viết rất ý thức tốt rằng nếu ông muốn tiếp tục được các cải cách của mình, ông có thể phải cần tới những trợ giúp về tài chính và công nghiệp bên ngoài. Điều đó có nghĩa là hảo tâm của phương Tây. Chiến tranh lạnh kết thúc - đó là thực tế. Đó là tại sao ông nhân danh Liên Xô cất lời lên án tấn công Kuwait của Iraq tại Hội đồng Bảo an. - Thế , thưa các quý ngài, hãy liên lạc với nguồn tin đó : Gorbachev trả lời. Hãy cho chúng tôi thông tin rằng những thế lực đó có thể sử dụng để làm lợi cho tình thế đó, và chúng tôi rất lấy làm biết ơn. Liên Xô hề muốn thấy cuộc chiến tranh ở Trung Đông chút nào đâu. - Chúng tôi cũng muốn thiết lập liên lạc chứ, thưa ngài, Stewart . Nhưng chúng tôi thể. Nguồn tin từ chối tự bộc lộ mình, và chẳng ai biết được tại sao cả. Với ông ta, các mối nguy hiểm hẳn là phải rất lớn. Để liên lạc được, chúng tôi phải tránh con đường ngoại giao. rằng là chúng tôi phải chơi trò giả danh để kết nối được với ta. - Thế các ông cần gì ở tôi nào? Hai người phương Tây lấy hơi. - Chúng tôi muốn tuồn người vào Baghdad để làm việc như là cầu nối giữa nguồn tin và chúng tôi, Stewart . - điệp viên? - Phải. thưa ngài chủ tịch, điệp viên. Vào trong Iraq. Gorbachev nhìn chằm chằm vào ông ta. - Các ông có người như thế? - Có thưa ngài. Nhưng ta phải có được khả năng sống ở đâu đó - trầm lặng, kín đáo, vô tội - trong khi ta lấy các thông tin và chuyển chúng cho chúng tôi. Chúng tôi cầu rằng ta được phép vào đó như người Iraq trong số các nhân viên của thành viên của Đại sứ quán Liên Xô. Gorbachev chống cầm lên các đầu ngón tay. Ông chẳng hề biết gì về những chiến dịch đội lốt thế này; KGB của ông làm nhiều rồi. Giờ đây ông được cầu giúp những nhân vật cũ chính của KGB thoát tội, và cho mượn Đại sứ quán Liên Xô như thứ ô dù của ai đó. là lạ kỳ, ông bật cười phá lên. - Nếu người của các ông bị bắt. Đại sứ quán của tôi bị liên luỵ mất. - . thưa ngài. Đại sứ quán nước ngài luôn được coi là kẻ thù cũ của phương Tây. Saddam tin điều đó, Laing Gorbachev nghĩ ngợi. Ông nhớ đến thoả thuận của tổng thống và thủ tướng về vấn đề này. ràng là nó phải quan trọng lắm, và ông có lựa chọn nào khác là coi những thiện chí của họ là cũng quan trọng như thế. Rốt cuộc ông gật đầu. - Tốt thôi. Tôi báo tướng Vladimir Kryuchkov để hợp tác chặt chẽ với các ông. Thời kỳ đó, Kryuchkov là chủ tịch KGB. Mười tháng sau, trong lúc Gorbachev vắng mặt Biển Đen, Kryuchkov, cùng với bộ trưởng Quốc phòng Dmitri Yazov và những người khác, gây ra cuộc đảo chính chống lại chính chủ tịch của mình. Hai người phương Tây nặng nhọc thở hắt ra. - Với kính trọng cao nhất, thưa ngài chủ tịch, Laing hỏi. liệu chúng tôi có thể cầu rằng bộ trưởng Ngoại giao của ngài và chỉ mình ông ấy được biết chuyện này ? Eduard Shevardnadze là bộ trưởng Ngoại giao và là người bạn tin cậy của Mikhail Gorbachev. - Chỉ mình Shevardnadze thôi? Chủ tịch hỏi. - Vâng. thưa ngài, nếu ông cho phép. - Tốt thôi. Những sắp xếp được thực chỉ thông qua bộ Ngoại giao. Khi các sĩ quan tình báo phương Tây , Mikhail Gorbachev ngồi suy nghĩ hồi lâu. Họ muốn chỉ ông và Eduard được biết về chuyện này. phải là Kryuchkov. Liệu họ, ông tự hỏi, có biết điều gì đó mà chủ tịch nước Liên Xô biết ? Có mười điệp viên của Mossad ở đó - hai đội năm và người giám sát, người mà Kobi Dror đích thân chỉ định, đưa ra khỏi công việc nhàm chán là giảng viên tuyển người ở trường dạy nghề ở bên ngoài Herzlia. trong số hai đội đến từ nhánh yarid, bộ phận của Mossad liên quan đến an ninh chiến dịch và giám sát. Đội kia từ neviot, những người có chuyên môn là chui lủi, phá hoại và xâm nhập - tóm lại, là mọi thứ gắn liền với những đối tượng máy móc. Tám trong số mười người là người Đức xịn, và người giám sát cũng tiếng Đức trôi chảy. Hai người còn lại là các kỹ thuật viên. Nhóm tiền trạm cho Kế hoạch Joshua xâm nhập vào Vienna hơn ba ngày nay, đến từ nhiều điểm khác nhau của châu Âu, mỗi người với hộ chiếu và câu chuyện giả trang hoàn hảo. Joshua được đánh dấu ain efes, nghĩa là công việc thể hỏng, công việc mà, được phát lệnh từ chính bản thân ông chủ, có ý nghĩa ưu tiên đặc biệt. Thường mỗi đội yarid và neviot có từ bảy đến chín người, nhưng bởi vì mục tiêu giảm xuống mức dân , trung tính, nghiệp dư, và để tránh bị nghi ngờ, số lượng người được giảm xuống. Chỉ huy trạm Riyadh của Mossad ở Vienna dành ba trong số những ngôi nhà an toàn của mình và ba bodlim để giữ chúng sạch , đẹp đẽ và được tiếp tế đủ vào mọi thời điểm. bodet, mà số nhiều là bodlim: thường là người lsrael trẻ, hay là sinh viên. được tham gia vào với tư cách người tập trong kiểm soát chặt chẽ của những người độ tuổi phụ huynh và có nền tảng. Công việc của ta là điều hành những người lang thang, tạo ra những tiếng vọng, và hỏi han gì hết. Đổi lại ta được phép sống thoải mái trong ngôi nhà an toàn của Mossad, mối lợi rất lớn đối với sinh viên thiếu thốn tiền bạc ở thủ đô nước ngoài. Khi những người "bắn súng" đến thăm vào ở, bodel phải chỗ khác nhưng có thể được giữ lại để làm việc dọn dẹp, giặt giũ, và mua sắm. Mặc dù Vienna có thể phải thủ đô lớn, với thế giới điệp viên nó lại luôn rất quan trọng. Lý do quay trở lại năm 1945, khi Vienna. với tư cách là thủ đô thứ hai của Đế chế Thứ ba, bị quân Đồng minh chiến thắng chiếm giữ và bị chia thành bốn phần - Pháp. , Mỹ và Nga. giống như Berlin, Vienna giành lại được quyền tự do của mình - ngay cả khi người Nga chịu rút - nhưng cái giá là phải chấp nhận trung lập hoàn toàn. Vienna cũng như toàn nước Áo. Với chiến tranh lạnh diễn ra ngầm trong thời cấm vận Berlin năm 1948. Vienna sớm trở thành ổ tình báo. Khá là trung lập, với dường như có mạng lưới phản gián của riêng mình, lại gần biên giới với Hungari và Czech, mở thẳng ra phương Tây nhưng lại dính với Đông Âu, Vienna là căn cứ hoàn hảo đối với nhiều cơ quan tình báo thế giới. lâu sau khi thành lập năm 1951. Mossad cũng nhìn thấy những lợi thế của Vienna và đưa vào đó Chỉ huy Trạm với quyền hành còn to hơn cả vị đại sứ. Quyết định càng được coi là đúng đắn vì thủ đô thanh lịch và lừng danh thế giới của Vương quốc Áo-Hung trước kia trở thành trung tâm của hệ thống ngân hàng tuyệt mật, có trụ ở của ba tổ chức độc lập của Liên Hợp Quốc, và là điểm vào châu Âu được ưu tiên đối với những tên khủng bố. Vì có chế độ trung lập, Áo từ lâu có phản gián và cơ chế an ninh trong nước rất đơn giản để mà xâm nhập đến nỗi các điệp viên Mossad biến thành những sĩ quan có định hướng tốt như là fertsalach, từ hẳn là kinh khủng có nghĩa là fart. Người giám sát chiến dịch do Kobi Dror lựa chọn là katsa nghiêm khắc với nhiều năm kinh nghiệm với châu Âu, Berlin, Paris, và Brussels. Gideon Barzilai cũng phục vụ thời gian trong trong những đơn vị hành quyết kidon, theo dõi những tên khủng bố người Arập có trách nhiệm với vụ thảm sát các vận động viên điền kinh lsrael tại Thế vận hội Munich 1972. May mà với nghiệp của chính mình, ông chưa từng dính vào trong những thất bại lớn nhất trong lịch sử Mossad, khi đơn vị kidon bắn vào người hầu bàn vô hại người Maroc tại Lillehammer, Na Uy, sau khi định vị nhầm người đàn ông là Al Hassan Salameh, bộ não đứng đằng sau vụ thảm sát. Gideon "Gidi" Barzilai giờ đây là Ewald Strauss, đại diện cho nhà sản xuất đồ nhà tắm ở Frankfurt. chỉ giấy tờ của ông hoàn toàn hợp lệ, mà lục tìm hồ sơ của ông chỉ có thể thấy những quyển quảng cáo , sách đặt hàng, và thư từ của công ty. Ngay cả cú điện thoại đến văn phòng trung tâm của ông ở Frankfurt cũng có thế khẳng định câu chuyện giả danh của ông ta, đó là số điện thoại của văn phòng ở Frankfurt do Mossad điều hành. Giấy tờ của Gidi, cũng như của mười người trong nhóm của ông, là sản phẩm của đơn vị khác của các dịch vụ hậu thuẫn toàn diện của Mossad. Trong cùng toà nhà hành dinh ở Tel Aviv do phòng làm giả đóng là loạt những căn phòng được dành để chứa những chi tiết của số lượng thực khổng lồ các công ty, thực cũng như ma. Các giấy tờ kế toán của công ty, mua bán, đăng ký. và trung tâm chính được giữ lưu trong đầy đủ đó để mà bất kỳ katsa nào trong chiến dịch tại nước ngoài có thể được trang bị với điểm đặc biệt được hợp tác chặt chẽ thể để xâm nhập. Sau khi đến ở trong căn hộ của mình, Barzilai có cuộc họp mở rộng với chỉ huy Trạm địa phương và bắt đầu sứ mệnh của mình với nhiệm vụ khá là đơn giản: tìm ra mọi thứ có thể về ngân hàng kín đáo và tuyệt đối truyền thống tên là Winkler Bank, ngay ở Franziskanerplatz. Cùng cuối tuần đó, hai máy bay Chinook của Mỹ bay vào trung từ căn cứ quân bên ngoài Riyadh và theo hướng bắc để bay đến đường Tapline chạy dọc biên giới Xeut - Iraq. Trong khoang của mỗi chiếc Chinook là chiếc Land- Rover chuyên đường xa được bó cẩn thận, chỉ có những bộ phận cốt yếu nhất nhưng được trang bị những thùng dầu rất lớn. Có bốn người của SAS cùng mỗi xe, cũng ngồi cùng chỗ sau đội bay. Đích đến cuối cùng phải ở đây, nhưng phía Tapline Road đợi sẵn hai máy bay tiếp nguyên liệu lớn, đến từ Dammam ở ven bờ vùng Vịnh. Khi những chiếc Chinook khát nhiên liệu đỗ xuống đường, đội lái chở nhiên liệu đến làm việc cho đến khi những chiếc trực thăng lại tiếp tục bay được với đầy đủ nhiên liệu. Trong khi cất cánh, chúng hướng đến con đường theo hướng Jordan. giữ độ cao để tránh ra đa Iraq đặt dọc theo biên giới. Ngay thành phố Badanah của Xêut, trong khi tiếp cận điểm các đường biên giới của Arap Xêut, Iraq và Jordan gặp nhau, hai chiếc Chinook lại hạ cánh lần nữa. Lại có thêm hai chiếc xe tiếp nhiên liệu đợi để tiếp cho chúng, nhưng ở điểm này chúng dỡ hàng và các hành khách của mình. Nếu đội bay Mỹ biết nơi những người trầm tính đến, họ cũng tỏ dấu hiệu gì, và nếu như thế, họ cũng hỏi. Những chiếc chở hàng hạ những chiếc xe chuyên chạy sa mạc xuống đường, bắt tay, và . "hey, chúc các cậu may mắn nhé". Rồi họ nạp nhiên liệu và bay trở về con đường cũ. Những chiếc tiếp nhiên liệu bay theo họ. Tám người SAS nhìn họ . rồi tiến về hướng khác, xa hơn về con đường hướng Jordan. 50 dặm về phía đông bắc của Badanah họ dừng lại và chờ đợi. Viên đại uý chỉ huy nhiệm vụ hai chiếc xe kiểm tra lại vị trí của họ. giống với những năm trước khi đại tá David Stirling ở sa mạc tây Libya, định vị theo mặt trời, mặt trăng và các vì sao. Công nghệ năm 1990 cho phép làm điều đó dễ dàng và chính xác hơn trước nhiều. Trong tay viên đại uý có thiết bị kích thước bằng quyển sách. Nó được gọi là Hệ thống Định vị Toàn cầu. hay SATNAV, hay Magellan. Mặc dù kích thước của nó, máy GPS có thể định vị cho người cầm nó tới địa điểm lớn hơn 10 yard ở mọi nơi bề mặt trái đất. Chiếc máy GPS cầm tay của viên đại uý được vặn cả theo lệnh-Q lẫn lệnh-P. Lệnh-P chính xác cho vị trí 10-10 yard, nhưng nó cần bốn trong số các vệ tinh Mỹ mang tên NAVSTAR ở chân trời ở cùng thời điểm. Lệnh-Q chỉ cần hai chiếc NAVSTAR ở nhưng chỉ chính xác với mức độ 100-100 yard. Ngày hôm đó chỉ có hai chiếc vệ tinh bay qua, nhưng thế là đủ. ai lại nhìn thấy người khác trong phạm vi 100 yard vuông bên ngoài trống trải của cát và cát, hàng dặm cách xa cả Badanah và biên giới Jordan. Thoả mãn đến được điểm hẹn, viên đại úy tắt máy GPS và chui xuống chiếc lều nguỵ trang do người của ta dựng lên giữa hai chiếc xe để che cho chúng khỏi mặt trời. Nhiệt kế chỉ 130 độ F. giờ sau đó, chiếc trực thăng Gazelle của bay tới từ phía nam. Thiếu tá Mike Martin bay từ Riyadh trong chiếc Hercules RAF vận chuyển đến thành phố Al Jawf của Xêut, vị trí gần nhất với biên giới. Chiếc Hercules mang chiếc Gazelle với máy móc gập lại của nó, phi công của nó: đội dưới đất. và những bình nhiên liệu lớn cần thiết để cung cấp cho chiếc Gazelle từ Al Jawf đến Tapline Road và quay trở về. Để tránh trường hợp có rada theo dõi của lraq tại nơi hoang vắng này, chiếc Gazelle baỵ là là sa mạc, nhưng viên phi công nhanh chóng nhìn thấy phát pháo sáng do viên đại uý SAS bắn lên khi ta nghe tiếng động cơ lại gần. Chiếc Gazelle đỗ xuống đường cách 50 yard khỏi hai chiếc Land-Rover, và Martin bước xuống. cầm chiếc túi to vai và cái gói ở tay trái, trong dó là những cái mà phi công chiếc Gazelle cứ thắc mắc liệu có phải ta đến gia nhập lực Hoàng gia - hay nhánh nào đó của Hiệp hội Nông dân. Chiếc giỏ chứa hai con gà còn sống nguyên. Mặt khác, Martin ăn vận như tám người SAS đợi: giày sa mạc, những chiếc giày rộng với vành cứng, áo phông, máy, và chiếc áo chiến nguỵ trang trong sa mạc. Quanh cổ là chiếc keffiyeh có thể gấp lên thành tấm lá chắn khuôn mặt khỏi cát bay, và đầu là chiếc mũ len đan tròn có thêm đôi dây to tướng. Viên phi công tự hỏi tại sao người này chết ngốt trong cái của nợ đó, nhưng đó là khi ta chưa được trải qua cái lạnh của sa mạc về đêm. Những người của SAS mang từ đằng sau chiếc Gazelle những can nhựa đựng xăng với trọng tải tối đa có thể, và đổ đầy các bình nhiên liệu. Khi đổ đầy, viên phi công vẫy tay tạm biệt và cất cánh, về phía nam về Al Jawf, rồi về Riyadh, và lần quay lại để làm dấu thánh cho những kẻ điên sa mạc. Chỉ khi ta những người của SAS mới cảm thấy thoải mái. Mặc dù tám người với hai chiếc Land-Rover là người của đội D - những chuyên gia về xe cộ loại - và Martin là lính dù của Đội A, cũng biết hai người trong đó. Với những lời chào hỏi nhau, họ làm điều mà lính làm khi có thời gian: họ uống tách trà. Viên đại uý chọn điểm vượt biên giới vào Iraq, nơi rất hoang vắng. Địa điểm càng khắc nghiệt càng dễ xâm nhập, rủi ro rơi vào đúng đội tuần tra lraq lại càng ít. Công việc của ta phải là hạ gục lính lraq mà là trốn hoàn toàn khỏi kiểm soát. Lý do thứ hai là điều phải làm nhiệm vụ càng gần càng tốt con đường cao tốc của lraq từ Baghdad về phía Tây ngang qua những bình nguyên bao la của sa mạc để đến biên giới với Jordan qua ở Ruweishid. Cái điểm canh đáng thương trong sa mạc này trở thành quá quen thuộc với những người xem vô tuyến sau cuộc tấn công đầu tiên vào Kuwait. Bởi vì nó là nơi của những dòng thác người tị nạn may mắn - Philippin, Bengal, Palestíne. Và những người khác - được đến để qua sau khi cảm nhận được hỗn loạn mà vụ xâm chiếm gây ra. Tại cái góc xa xôi ở Tây Bắc Arập Xêut đó, khoảng cách từ biên giới đến đường Baghdad là ngắn hơn cả. Viên đại úy biết rằng ở phía đông ta, từ Baghdad xuống biên giới Xêut, mặt đất nghiêng dần xuống sa mạc phẳng lỳ, êm như mặt bàn billard ở gần như mọi chỗ, cho phép có thể chạy nhanh từ biên giới đến con đường gần nhất đến Baghdad. Nhưng cũng có thể là nó bị các đội tuần tra của quân đội theo dõi. Ở đây trong những sa mạc của lraq, mặt đất nhấp nhô hơn, bị chia cắt bởi những đường nếp trở thành cơn lũ sau những trận mưa và vẫn còn phải rất thận trọng trong mùa khô nhưng có vẻ như là có các đội tuần tra Iraq. Điểm vượt biên giới được lựa chọn cách 50km về phía bắc nơi họ đứng, và đường biên giới được đánh dấu trăm km nữa để đến được dường Baghdad-Ruweishid. Nhưng viên đại uý quyết định cần đợi đêm xuống hoàn toàn, để dễ dàng cho nguỵ trang trong cả ngày hôm sau, và đêm tiếp đó, để có thể chuyển hàng của mình đến địa điểm trong khoảng cách bộ của con đường. Họ đợi đến bốn giờ chiều. Mặt trời vẫn còn chiếu sáng, và hơi nóng như là trong lò. Vào sáu giờ bóng tối toả xuống, và nhiệt độ bắt đầu hạ - rất nhanh. Bảy giờ trời tối hoàn toàn, và lạnh lêo bắt đầu hoành hành. Mồ hôi đông cứng lại người họ, và họ rất cảm ơn những áo ấm mà viên phi công chiếc Gazelle ngầm chế nhạo. chiếc xe dẫn đường người chỉ lối ngồi bên cạnh lái xe và liên tục kiểm tra vị trí và lộ trình. Về đến căn cứ, ta và viên đại úy ngồi nhiều giờ dò theo những bức ảnh phóng to, độ phân giải lớn, được những chiếc U-2 Mỹ thân tín cung cấp tại căn cứ Taif của họ, cái tạo nên bức tranh hơn là bản đồ. Họ lái xe bật đèn, mà chỉ với cái đèn pin của người dẫn đường giữ lối cho chuyến gian nan của họ, sửa lại mỗi lần có chỗ sai khi họ quá nhiều khi về phía đông hoặc phía tây. Mỗi giờ, họ dừng lại để chắc chắn vị trị bằng chiếc máy Magellan. Người dẫn đường phóng to kích thước những bức ảnh của mình theo từng phút và giây kinh độ và vĩ độ, để những con số đo màn hình số của chiếc Magellan cung cấp cho họ biết chính xác họ ở đâu những bức ảnh. Tiến trình rất chậm bởi vì ở mỗi chỗ quanh trong số những người phải chạy lên trước và nhìn ngó cẩn thận để đảm bảo có bất ngờ khó chịu nào ở bên kia đường. giờ trước khi bình minh lên, họ tìm thấy wadi rộng rãi, lái vào đó, và phủ vải bạt lên . trong số những người rút đến điểm cao gần đó để theo dõi xuống doanh trại và chỉnh lại cho đến khi ta hài lòng về chỗ dừng có thể bị nhìn thấy từ bên ngoài wadi. Trong ngày họ ăn, uống và ngủ, luôn có hai người gác trong trường hợp bác chăn cừu hay lữ khách lang thang nào đó xuất . Nhiều lần họ nghe tiếng máy bay Iraq ngay đầu, và lần đàn dê ngang rất gần cái đồi Nhưng những con dê, có vẻ như có người chăn cùng, lang thang sang hướng khác. Sau khi mặt trời lặn họ lại lên đường. Có thị trấn Iraq tên là Ar-Rutba nằm cạnh đường quốc lộ, và ngay trước bốn giờ sáng họ nhìn thấy ánh đèn của nó từ khoảng cách khá xa. Chiếc Magellan khẳng định họ ở nơi họ muốn đến, ngay ở phía nam của thị trấn, cách con đường khoảng 5 dặm. Bốn người dò đường xung quanh cho đến khi tìm được wadi với cái nền mềm mại, có cát. Ở đó họ đào hố, im lặng, sử dụng những dụng cụ để ở trong hai chiếc Land- Rover. Họ chôn chiếc xe máy đường trường với những chiếc lốp dự trữ, và những bình nhiên liệu đủ có thể ra đến biên giới, dùng đến khi cần. Mọi thứ đều được bọc trong những túi polyetylen chắc chắn để bảo vệ chống lại cát và nước, chống lại nước mưa đến. Để bảo vệ nơi cất giấu khỏi bị cuốn mất, họ dựng đống đá lên để tránh nước xói mòn. Người dẫn đường bò lên đồi phía wadi và định vị chính xác từ điểm đến đài điện đàm ở phía Ar-Rutba, mà ánh đèn đỏ báo hiệu có thể nhìn thấy từ xa. Trong khi họ làm việc, Mike Martin cũng mở túi của mình và lấy ra chiếc áo dài, khăn đội đầu, và dép xăng đan của Mahmoud Al-Khouri, người nông dân Iraq và là người làm vườn. Với cái túi quần áo chứa bánh mỳ, dầu ăn, xúc xích, và dầu ôliu cho bữa sáng, ví tiền rách tươm với thẻ căn cước và những bức ảnh của cha mẹ già của Mahmoud, và cái vỏ lon cũ với vài đồng xu, sẵn sàng để lên đường. Những chiếc Land- Rover cần giờ để khuất khỏi nơi này trước khi trời sáng. - Chân cứng đá mềm nhé, viên đại uý . - săn may mắn, ông chủ, người dẫn đường . - Chí ít cậu cũng có quả trứng tươi cho bữa sáng, người khác , và có tràng cười bụm miệng vang lên. Mike Martin vẫy tay chào và bắt đầu qua sa mạc để đến đường cái. Mấy phút sau, hai chiếc Land-Rover lên đường, và wadi lại trở lại trống trơn. Trưởng trạm Vienna có trong sổ của mình sayan làm trong ngành ngân hàng, giám đốc cao cấp trong ngân hàng hàng đầu của nước này. Người này được cầu chuẩn bị bản báo cáo, càng đầy đủ càng tốt về Ngân hàng Winkler. Người sayan chỉ có thể cho biết số công ty lsrael có quan hệ với Winkler và muốn được đảm bảo về vững chắc, về tiền sử, và các nghiệp vụ ngân hàng của nó. ta được cho biết thời gian gần đây ngân hàng này dính vào số hoạt động buôn lậu cần được điều tra. Người sayan chấp nhận lý do cho lời cầu và ta làm với tất cả khả năng của mình, ta khám phá ra ngay là Winkler được vận hành theo những cách thức khá là bí . Ngân hàng được thành lập gần trăm năm trước đây bởi cha của người chủ và chủ tịch duy nhất thời. Ngài Winkler năm 1990 91 tuổi và trong giới ngân hàng Vienna được gọi là der Alte. nghĩa là "bố già ". Mặc dù tuổi tác, ông ta vẫn từ chối lui về nghỉ chức chủ tịch hay tự mình quản lý nguồn lợi. Goá vợ và con cái, có người thừa kế, cho nên sau đó tất cả đều do ý muốn của ông. Tuy nhiên, việc điều hành ngân hàng có thêm ba phó chủ tịch. Những cuộc gặp với Bố già Winkler được thực tháng lần tại nhà riêng của ông, trong đó vấn đề chủ yếu nhất có vẻ là để thuyết phục những tiêu chuẩn cổ lỗ của ông vẫn còn được giữ lại. Những quyết định cuối cùng đều qua tay các phó chủ tịch, Kessler, Gemuetlich và Blei. Đó phải là ngân hàng bù trừ, dĩ nhiên, có cổ đông giữ tài khoản thời, và phát hành sổ séc. Công việc của nó là nhận tiền gửi từ quỹ của các khách hàng, và có thể được đem đầu tư rất chắc chắn, những đầu tư an toàn, chủ yếu là thị trường châu Âu. Nếu lãi suất từ những đầu tư đó bao giờ được đưa vào trong số mười hãng thành công nhất, cũng chẳng vấn đề gì hết cả. Các khách hàng của Winkler trông chờ mức độ tăng trưởng hoặc thu nhập tăng chóng mặt. Họ tìm kiếm an toàn và vô danh tuyệt đối. Ngân hàng Winkler đám bảo cho họ điều đó, và ngân hàng hoạt động được. Những tiêu chuẩn đó Bố Già Winkler đầu tư là nhấn mạnh vào kín đáo tuyệt đối như là danh tính của những người chủ sở hữu những tài sản được đánh số của họ, kèm với tránh né hoàn toàn cái mà Bố Già đặt tên là " vô nghĩa mới mẻ". Chính thù ghét thiết bị đại cách mù quáng khiến ngân hàng dùng máy vi tính để chứa những thông tin nhạy cảm hay quản lý tài khoản, dùng máy fax. Và nơi nào có thể, cả máy điện thoại. Ngân hàng Winkler có thể chấp nhận những lời chỉ dẫn và thông tin qua điện thoại, nhưng nó có vẻ bao giờ tin tưởng vào đường dây điện thoại. Nơi nào có thể, Ngân hàng Winkler thích sử dụng những lá thư viết tay cổ lỗ sĩ đó có in tên công ty, hay những cuộc gặp cá nhân tại chính công ty. Tại Vienna người đưa tin của ngân hàng có thể chuyển mọi lá thư và lời thông báo trong những phong bì có đóng dấu sáp ong, và chỉ khi phải gửi thư tỉnh ngoài hay nước khác ngân hàng mới tin tưởng vào hệ thống bưu điện công cộng. Với các tài khoản có đánh số do các khách hàng ngoại quốc sở hữu - viên sayan được hỏi rất kỹ về điều này - ai biết chẳng hạn có bao nhiêu cái, nhưng lời đồn đại về hàng trăm triệu đôla. ràng, nếu quả thực là như thế, và cử cho rằng phần trăm trong số các khách hàng bí mật bỗng khi nào đó bị chết đột ngột gì về chuyện vận hành tài khoản, Ngân hàng Winkler có thể là rất sung sướng, biết ơn người đó. Gidi Barzilai đọc rất lâu bản báo cáo. Bố Già Winkler có thể chẳng biết gì về những kỹ thuật mới nhất về nghe trộm điện thoại và xâm nhập máy tính, nhưng những bản năng thính nhạy của ông ta quả là đáng gờm. Trong những năm của xây dựng công nghệ vũ khí lraq, mỗi cuộc mua bán từ Đức đều được thanh toán thông qua trong ba ngân hàng Thụy Sĩ. Mossad biết rằng CIA xâm nhập vào các máy tính của cả ba ngân hàng đó - đặc biệt trong công cuộc tìm kiếm rửa tiền buôn ma tuý - và chính nhờ những thông tin nội bộ đó Washington thu thập được tài liệu về những phản kháng trong chính phủ Đức về xuất khẩu. Đó là lỗi lầm hiếm hoi của CIA khi thủ tướng Đức Helmut Kohl bỗng dưng dở chứng loại bỏ tất cả những ai phản đối; thông tin hoàn toàn chính xác. Nếu Gidi Barzilai nghĩ ông có thể xâm nhập vào máy tính trung tâm của Ngân hàng Winkler. ông nhầm, làm gì có. Còn lại việc xâm nhập phòng, chặn thư, và nghe trộm điện thoại. cách nào trong số đó có thể giải quyết được vấn đề của ông. Nhiều tài khoản ngân hàng cần có Losungswort, mật khẩu được mã hoá, để điều hành chúng, để có thể rút tiền và chuyển khoản. Nhưng những người có tài khoản có thể chỉ sử dụng mật khẩu để định danh chính mình trong cuộc gọi điện thoại hay trong bản fax, cũng như trong bức thư. Ngân hàng Winkler dường như mã hoá cao độ các khách hàng của mình, người khách nước ngoài chẳng hạn như Jericho có thể có cả hệ thống quản lý phức tạp khó xâm nhập; ở đây sử dụng cả vẻ ngoài mang tính hình thức cao với cá nhân hoá cao độ, mẫu chuyển tiền đặc biệt và những mật khẩu mã hoá cùng những thứ biểu tượng phải xuất ở những chỗ định. ràng là, Ngân hàng Winlker có thể chấp nhận gửi tiền từ bất kỳ ai, vào bất kỳ lúc nào và ở bất kỳ đâu. Mossad biết vậy bởi vì cơ quan này trả đồng tiền xương máu của mình cho Jericho đến Winkler qua số tài khoản duy nhất. Thuyết phục Ngân hàng Winkler thực vụ chuyển khoản ra ngoài có thể là cả công việc khác. Bằng cách nào đó. Ở bên trong cái áo khoác nơi ông ta trải qua phần lớn cuộc đời mình để nghe nhạc nhà thờ. Bố Già Winker loại được công nghệ nghe trộm thông tin bất hợp pháp có thể làm lộ ra những kỹ thuật chuyển thông tin thông thường. Mẹ kiếp thằng già khôn ngoan. Chỉ điều khác mà sayan có thể chắc là những tài khoản đánh số với giá trị cao đó chắc chắn là được điều hành cá nhân bởi trong ba phó chủ tịch và chỉ mình ông ta thôi. Bố Già chọn các thuộc cấp của mình cao tay: Tiếng tăm của cả ba đều cho thấy họ có óc hài hước, nghiêm nghị, và được trả lương cao. tóm lại, thể nào xâm nhập được. lsrael, người sayan thêm vào. chẳng nên để ý đến Ngân hàng Winkler làm gì hết. ta, dĩ nhiên, nắm bắt được vấn đề Gidi Barzilai, vào tuần đầu tiên của tháng Mười , vô cùng chán ngán Ngân hàng Winkler. Đó là chuyến xe buýt giờ sau khi bình minh lên, và nó chậm lại để đón hành khách ngồi tảng đá bên đường cách Ar-Rutba ba dặm khi ông ta đứng lên và vẫy tay. Ông ta cầm hai tờ giấy bạc dinar, tìm chỗ ngồi ở đằng sau, đung đưa cái giỏ trong lòng, và ngủ thiếp di. Có đội tuần tra của cảnh sát ở trung tâm thị trấn, nơi chiếc xe buýt dừng lại chút trong cơn giật đùng đùng của nó và số hành khách xuống để làm hay chợ, trong khi những người khác lên. Nhưng trong khi cảnh sát kiểm tra thẻ căn cước của những người lên, họ chỉ liếc mắt nhìn qua những cửa sổ bẩn thỉu vào số những người ít ỏi còn lại và chẳng buồn để mắt đến người nông dân mang theo mấy con gà ở cuối xe. Họ tìm kiếm những kẻ xâm nhập, những kẻ khả nghi. giờ sau, chiếc xe buýt quành sang hướng đông, lắc lư và lảo đảo, đôi khi lại rùng lên khi đội xe lính phía sau vượt lên, dáng vẻ buồn bã ở đằng sau, nhìn chằm chằm vào những đám mây xám nổi lên bầu trời. Mắt nhắm nghiền, Mike Martin lắng nghe lời bàn tán xung quanh, bắt lấy từ khung quen thuộc hay chút sắc thái điệu mà có thể quên. Tiếng Arập của những người Iraq này khá là khác so với ở Kuwait. Nếu đóng vai fellagha thất học và vô hại ở Baghdad, những sắc và câu nhà quê lên tỉnh này có thể là rất hữu dụng, ít thứ mà cảnh sát thành phố có thể phát nhanh hơn là sắc quê mùa. Những con gà trong lồng của có chuyến khó khăn, ngay cả khi cho chúng ăn ngô trong túi và rót nước từ bình của mình cho nó uống, khi ở trong chiếc Land-Rover dưới những tấm lưới trong sa mạc phía sau lưng . Có lẽ cần có con mắt tinh tường để quan sát rằng cái đáy của cái lồng là đáy kép, tạo ra khoảng trống cao bốn inch. Trong khoảng gian đó có số những thứ mà cảnh sát ở Ai- Rutba có thể thấy rối trí nhưng rất thú vị. là cái dĩa vệ tinh được gấp lại, giống như cái ô . cái khác là máy nhận, còn mạnh hơn cái Martin từng sử dụng ở Kuwait. Baghdad cho phép nhận sóng dễ dàng như khi lang thang trong sa mạc. Những cuộc chuyển tin dài có thể được, nhưng có thiết bị ghi, có pin xạc, nhét trong cái hốc của khoang. Đó là máy ghi , nhưng là loại khá đặc biệt. Công nghệ mới mênh mông, rối tinh, và khó khăn để mà sử dụng. Khi nó phát triển, hai điều xảy ra. Những chi tiết bên trong ngày càng trở nên phức tạp hơn, nhưng lại hơn. và cách vận hành trở nên dễ dàng hơn. Những máy radio được mang vào Pháp bởi những điệp viên cho Lực lượng Chiến dịch Đặc biệt của trong Thế chiến hai là cơn ác mộng bởi các tiêu chuẩn đại. Cần đến cái va li để đựng, nó cần ăng ten bắt sóng dài hàng yard, những chiếc van cồng kềnh với kích thước của những bóng đèn tường, và chỉ có thể chuyển thông tin chiếc máy Morse. Người sử dụng phải gõ rất lâu, trong khi các đội tuần tra của Đức có thể khoanh vùng theo nguồn phát của nó và xiết chặt vòng vây. Chiếc máy ghi của Martin rất đơn giản để sử dụng nhưng cũng có những khía cạnh khá hữu dụng ở bên trong. thông tin 10 phút có thể được đọc chậm và ràng từng tiết . Trước khi nó được thu lại, con chíp bán dẫn mã hoá nó lại, nên dù có nghe trộm được, người Iraq cũng sao giải mã được. Khi bấm nút, máy tua trở lại. nút khác có thể cho phép ghi lại, nhưng với tốc độ nhanh gấp hai trăm lần, rút thông tin lại thành đoạn có ba giây có thể sao dò ra được. Đó chính là cách máy có thể chuyển tin khi nối với dĩa vệ tinh, pin, và máy ghi . Ở Riyadh thông tin được bắt lấy, được làm chậm lại, giải mã, và được chạy bình thường. Martin rời chiếc xe buýt ở Ramadi, nơi nó dừng lại, và lên chiếc khác để qua hồ Habbaniyah và căn cứ quân cũ, giờ đây chuyển thành trạm máy bay chiến đấu đại của lraq. Chiếc xe buýt dừng lại ở ngoại ô Baghdad, và mọi thẻ căn cước đều được kiểm tra. Martin đứng khiêm nhường ở dòng người, nắm chặt cái lồng gà, khi các hành khách lại gần cái bàn khi viên trung sĩ cảnh sát ngồi. Khi đến lượt mình, đặt cái giỏ nặng lên mặt bàn và trình thẻ căn cước của mình. Viên trung sĩ liếc mắt vào đó. Trời nóng và ta rất khát. Đó là ngày dài. ta chỉ tay vào nơi nguyên quán của người cầm thẻ. - Đây là ở đâu? - Đấy là làng phía bắc Baji. Rất nổi tiếng vì dưa hấu, bey. Miệng viên trung sĩ chun lại. Bey là dạng xưng hô kính trọng có từ thời Vương quốc Thổ Nhĩ Kỳ, chỉ đôi khi mới được nghe thấy, và chỉ những người hạ tiện mới dùng. ta phẩy tay; Martin nhấc lu gà của mình lên và quay trở lại xe buýt. Ngay sau bảy giờ tối, chiếc xe buýt đến điểm dừng nữa và thiếu tá Martin bước xuống bến xe buýt chính ở Kadhimiya, Baghdad.