CHƯƠNG 4 Don Walker nhấn xuống bàn phanh và chiếc Corvette Stingray đời 63 dừng lại chốc ở lối vào chính của căn cứ quân Seymour Johnson để cho số người bộ qua trước khi lao lên đường cao tốc. Trời nóng. Mặt thời tháng Tám chiếu thẳng xuống thành phố Goldsboro của bang Carolina Bắc khiến những đám bụi trông giống như nước chuyển động. hay khi được phóng lên cao để cảm nhận gió, mặc dù gió nóng, chạy qua mái tóc ngắn màu vàng hoe của . lái chiếc xe thể thao cổ điển lau chùi kỹ càng để di lên đường cao tốc số 70, rồi lên cao tốc 13 theo hướng đông bắc. Don Walker, vào mùa hè nóng bức năm 1990. Ở vào tuổi hai mươi chín, độc thân, phi công, và vừa được biết mình sắp vào cuộc chiến tranh. Tốt thôi, có lẽ vậy. Có lẽ như là nó tuỳ thuộc vào gã Arập nóng tính phải. Cùng buổi sáng đó vị chỉ huy bay, đại tá (sau này là tướng) Hal Hornburg, thông báo: Trong ba ngày nữa, vào 9 tháng Tám, đội bay của ông, những chiếc phóng rocket số 336 của lực số chín của Chỉ huy quân tác chiến bay vịnh Arập. Các mệnh lệnh được đưa xuống từ chỉ huy TAC ở căn cứ quân Langley, Hampton, Virginia. Thế là bắt đầu rồi đây. bồn chồn giữa các phi công lên cao. Những năm tập luyện đó có ý nghĩa gì nếu bạn bao giờ được bắn? Với ba ngày trước mặt đó là đống ngổn ngang công việc cần phải giải quyết, và với với tư cách là sĩ quan phụ trách vũ khí của đội bay, còn hơn tất thảy những người khác. Nhưng xin nghỉ hai mươi tư giờ để và lời tạm biệt với người thân, và thiếu tá Steve Turner, chỉ huy về vũ khí. với xem liệu có chi tiết nào bị bỏ quên cho ngày 9 tháng Tám khi những con đại bàng F-15E lăn bánh. Rồi ông chun mũi hỏi Walker có thể quay về trước khi mặt trời lặn . Walker phóng như bay đồi Tuyết và Greenville vào lúc chín giờ sáng, về dãy đảo phía đông Pamlico Sound. thấy may mắn vì bố mẹ mình còn chưa về Tulsa, hoặc là phải làm thế. là tháng Tám, họ nghỉ ở ngôi nhà ven biển của gia đình gần Hatteras, cách căn cứ năm giờ lái xe. Don Walker là phi công khéo léo, và sung sướng vì điều này. Hai mươi chín tuổi và được làm việc gì mình thích nhất và làm việc đó cực kỳ tốt là cảm giác hạnh phúc. thích căn cứ, thích các chàng trai ớ đây và thích gầm rú và sức mạnh của con đại bàng chiến đấu F-15E McDonnell Douglas lái. nghĩ nó là chiếc tốt nhất trong của lực Mỹ, và đó là cái quái quỷ mà bọn người những chiếc Falcon chiến đấu đến- Chỉ chiếc Hornet F- 18 của Thuỷ quân có thể sánh được với nó, hoặc đó là điều họ , nhưng chưa từng bao giờ lái chiếc Hornet. Và thấy con Đại bàng là rất tốt cho mình rồi. Tại Bethel rẽ về phía đông đến Columbia và Whalebone, nơi mà đường cao tốc quay vào dãy đảo; với Kitty Hawk ở sau về bên trái, rẽ về phía nam hướng về Hatteras, nơi con đường cuối cùng cũng tách ra và biển ở cả hai bên. có những kỳ nghỉ rất tốt ở Hatteras khi còn là cậu bé, ra biển vào buổi tinh mơ với ông ngoại để câu cá, cho đến khi ông già ốm đến nỗi thể được nữa. Giờ đây cha về hưu từ công ty dầu lửa ở Tulsa: ông và mẹ có nhiều thời gian sống ở ngôi nhà ven bờ biển hơn và có thể đến đó thường xuyên hơn. còn đủ trẻ để mà nghĩ rằng thể quay lại từ vùng Vịnh, nếu có chiến tranh, có thể vụt qua óc . Walker tốt nghiệp trường trung học ở Tulsa vào tuổi mười tám với chỉ khao khát cháy bỏng duy nhất - muốn bay. Cho đến bây giờ như còn nhớ được, từng luôn muốn bay. bỏ ra bốn năm ở bang Oklahoma, chuyên sâu vào ngành cơ khí hàng , và tốt nghiệp tháng Sáu năm 1983. Thời gian đó làm cho ROTC, và mùa thu năm đó được đưa vào quân. được huấn luyện phi công ở William AFB, gần Phoenix, ba chiếc T-33 và T-38, và sau mười tháng, trong cuộc diễu hành máy bay, vượt qua như người tốt nghiệp xuất sắc, xếp thứ tư trong tổng số bốn mươi học viên. Với niềm vui tột cùng của , năm người dẫn đầu được gửi đến trường đào tạo lái máy bay chiến đấu ở Holloman AFB, gần Alamagordo, New Mexico. Các học viên còn lại, nghĩ với cao ngạo khủng khiếp của người đàn ông trẻ được lái những chiếc máy hay chiến đấu, có thể được gửi để trở thành các phi công thả bom hay do thám. Ớ đơn vị huấn luyện luân phiên tại Homestead, Florida. cuối cùng cũng rời chiếc T-38 và chuyển sang chiếc Phantom F-4, chiếc máy bay to lớn thô kệch, mạnh mẽ, nhưng dù sao cũng là chiếc máy bay chiến đấu thực . Chín tháng ở Homestead kết thúc với lần bay đầu tiên trong đội, đến Osan Ở Hàn Quốc, lái chiếc Phantoms trong năm. cảm thấy tốt và hiểu biết về nó. Sau Osan, họ gửi đến Trường vũ khí máy bay chiến đấu ở McConnell AFB ở Wichita, Kansas. Máy bay chiến đấu có vũ khí ràng là cuộc đua khắc nghiệt nhất ở USAF. Nó chỉ dành cho những người bay thiện chiến, khôn ngoan trong công việc. Công nghệ của các vũ khí mới ngoài sức tưởng tượng. Các học viên tốt nghiệp của McDonnell phải hiểu mọi kỹ thuật, mọi con chíp bán dẫn và siêu mạch của ma trận rối mù của bảng điều khiển mà chiếc phi cơ chiến đấu đại phải nằm lòng. Walker lại nổi lên như học viên tốt nghiệp xuất sắc, điều đồng nghĩa với việc mọi đội máy bay chiến đấu của quân đều rất sung sướng có được . Đội 336 ở Goldsboro có vào mùa hè năm 1987, bay Phantoms trong- năm, tiếp theo là bốn tháng ở Luke AFB ở Phoenix, rồi chuyển sang chiếc Strike Eagle cùng những chiếc Rocketeers kèm. lái chiếc Đại bàng trong hơn năm khi Saddam Hussein tấn công Kuwait. Chiếc Stingray rẽ ngay trước giữa đường vào dãy đảo: vài dặm lên phía bắc là công trình ở Kitty Hawk nơi Orville và Wilbur Wright phóng lên trời trong vài yard để chứng tỏ rằng con người thực có thể bay trong chiếc máy bay có năng lượng. Nếu họ biết được rằng. . . Qua Nag's Head theo nhóm người bộ và những người xe bò cho đến khi cuối cùng họ rẽ và con đường vắng tanh qua Cape Hatteras lên đến đỉnh của đảo. lái chiếc Stingray vào lối vào của căn nhà khung bằng gỗ của bố mẹ mình. thấy họ đứng ở cổng nhà nhìn ra mặt biển xanh thẳm im lìm. Ray Walker nhìn thấy con trai trước và bật ra tiếng reo vui mừng. Maybelle ra khỏi bếp, nơi bà chuẩn bị bữa trưa, và lao đến ôm lấy . Ông ngồi ghế đung đưa, nhìn ra biển. Don lại gần và : - Cháu chào ông. Cháu, Don đây. Ông già ngước mắt lên, gật gù và mỉm cười: rồi ông lại quay nhìn ra biển. - Ông được khoẻ, Ray . đôi lúc ông nhận ra con, đôi lúc . Thôi ngồi xuống và kể cho bố mẹ tin tức nào. Này, Maybelle, thế có bia cho những kẻ chết khát này sao? Trong khi uống bia, Don cho bố mẹ vùng Vịnh trong năm ngày nữa. Bàn tay của Mavbelle đưa lên che miệng; bố có vẻ trang trọng. - Bố cứ nghĩ làm thế làm gì, tập luyện và đủ thứ khác, ông chậm rãi. Don xoay xoay cốc bia và tự hỏi phải lần đầu tiên tại sao bố mẹ cứ luôn phải lo lắng quá như thế, ông nhìn chằm chằm, vẻ nhận biết ra trong đôi mắt mỏi mệt của ông. - Don ra chiến tranh, ông ạ. Ray Walker kêu lên với ông Đôi mắt ông già lại ánh lên sống. Cả nghiệp mình ông là thuỷ quân, cùng với đội thẳng khỏi trường, rất nhiều năm trước đây. Năm 1941 ông hôn tạm biệt vợ và để lại cho người nhà ở Tulsa, cùng với Maybelle đứa con mới sinh của họ, để Thái Bình Dương. Ông ở cùng với MacArthur ở Corregidor và nghe ông : "Tôi trở về, và ông ở cách vị tướng có hai mươi yard khi MacArthur ngoẻo. Tại đó ông chiến đấu đến chục trận ở Marianas và sống sót khói địa ngục Iwo Jima, ông chịu mười bảy vết sẹo người. tất cả đều do đánh nhau, và được tặng nhiều huân chương, Sao Bạc, hai Sao Đồng và bảy Trái tim Tyar ngực. Ông luôn từ chối thoả hiệp, hạnh phúc được là trung sĩ dẫn đường, mà ông biết được tầm quan trọng thực , ông ra khơi ở Inchon, Triều Tiên. Và khi cuối cùng họ gửi ông để kết thúc những ngày trong quân đội như là giảng viên ở quần đảo Parris, bộ quân phục của ông mang nhiều danh hiệu hơn bất kỳ bộ quần áo nào khác căn cứ. Khi cuối cùng họ cho ông về hưu sau hai lần trì hoãn, bốn ông tướng đến dự cuộc diễu hành cuối cùng của ông, hơn hẳn thông lệ dành cho ông tướng khác. Ông già quay nhìn đứa cháu. Don nhổm từ bàn lên để nghe. Hãy theo dõi bọn Nhật, cậu bé. Ông già thầm- chúng tóm được cháu đấy. Don vòng tay ôm ông già to lớn, vai rung rung. - Đừng lo ông ạ. Chúng còn ở gần chúng ta nữa đâu. Ông già gật đầu và tỏ ra hài lòng. Ông tám mươi tuổi. Cuối cùng, đó phải là người Nhật hay người Triều Tiên tóm được vị trung sĩ bất tử. Đó là ông già Alzheimer. Những ngày này ông trải qua phần lớn thời gian trong giấc mơ êm ái, với con và con rể để nhìn lại phía sau mình còn nơi nào khác để cả. Sau bữa trưa, bố mẹ Don về chuyến của họ ở vịnh Arập, từ đó họ trở về bốn ngày trước đây. Maybelle đến và chỉ những bức ảnh của bà, những cái vừa lấy về từ chỗ người rửa ảnh. Don ngồi cạnh mẹ khi bà giở tập ảnh, chỉ những cung điện và nhà thờ hồi giáo, những mặt biển và chợ của những tiểu vương và các sheikhdom bà và Ray đến thăm. - Bây giờ con phải cẩn thận khi đến đấy nhé. Bà nhắc nhở con trai. - Có những kẻ mà con phải chống lại. Những kẻ nguy hiểm , chỉ cần nhìn vào mắt chúng cũng biết này. Don Walker nhìn vào bức ảnh trong tay bà mẹ. Người đàn ông Bedouin đứng giữa hai đụn cát với sa mạc sau lưng mình, chiếc khăn quấn quanh mặt. Chỉ có đôi mắt đen nhìn chằm chằm đầy vẻ nghi kị vào máy ảnh. - Con ổn thôi và tìm ra ta, hứa với bà. Bà hài lòng vì điều đó. Đến năm giờ quyết định về căn cứ. Bố mẹ theo đến trước nhà nơi xe của đỗ. Maybelle ôm con trai và nhắc lại là phải cẩn thận, và Ray ôm hôn và họ tự hào về . Don bước lên xe và quay xe ra dường. quay lại nhìn. Từ ngôi nhà ông ngoại . chống hai chiếc gậy, đứng lên hiên nhà. Chầm chậm ông để hai chiếc gậy sang bên và đứng thẳng lên, cố đè nén cơn cảm cúm ra khỏi lưng và vai mình cho đến khi nó thẳng lên được- Rồi ông giơ tay lên, hạ xuống, đến đỉnh của cái chày đánh bóng và giữ nguyên đó, và người chiến binh già chào đứa cháu ngoại lên đường đến cuộc chiến tranh khác. Don, từ xe của mình, giơ tay lên đáp lại. Rồi nhấn ga và tăng tốc . bao giờ gặp lại ông ngoại. Ông già chết trong khi ngủ vào cuối tháng Mười. Ở London trời tối. Terry Martin làm việc khuya, mặc dù sinh viên sắp tốt nghiệp cho kỳ nghỉ hè dài. vẫn có những bài giảng phải chuẩn bị, và vì những khoá học trong hè đặc biệt mà trường vẫn tổ chức lâu nay, khá là bận bịu ngay cả trong những tháng hè. Nhưng tối nay tự bắt mình tìm việc khác để làm: để tâm trí cám thấy quá lo lắng như thế. biết nơi trai mình đến, và trong con mắt tinh thần của mình tưởng tượng những cực hình khi cố xâm nhập vào Kuwait bị Iraq chiếm giữ. Mười giờ, trong khi Don Walker bắt đầu lái xe về phía Bắc từ Hatteras. Terry rời trường, chuẩn bị đêm tuyệt diệu cho con chó già mà chăm sóc, và xuống phố Gower và đường St.Martin để đến quảng trường Trafalgar. Có thể, nghĩ, những ánh sáng có thể làm hồi lại. Đó là buổi tối ấm áp và dễ chịu. Ở St Martin-in-the-Rields, nhận ra các cánh cửa được mở và từ phía nam thanh của những bài ca vọng ra từ bên trong. vào đó, thấy mục sư gần bục giảng đạo, và nghe dàn đồng ca hát. Nhưng những giọng ca trong sáng của dàn đồng ca chỉ làm thêm chìm sâu hơn vào khủng hoảng tinh thần. nghĩ đến thời thơ ấu mà và Mike chia sẻ ba mươi nãm trước ở Baghdad. Nigel và Susan Martin sống trong ngôi nhà đẹp, rộng rãi hai tầng ở Saadun, cái quận sang trọng ở nửa thành phố gọi là Risafa. Ký ức xa nhất của Terry, khi còn hai tuổi, là người tóc đen mặc quần áo cho ngày đầu tiên đến nhà trẻ của Saywell. Nghĩa là áo phông và quần cộc, giày và tất, đồng phục của chú bé . Mike hét lên chống cự khi bị cởi tuột chiếc dish-dash quen thuộc của mình, chiếc áo dài bằng vải côtông màu trắng cho cậu được tự do cử động và làm cho cơ thể được mát mẻ. Cuộc sống rất dễ dàng và dễ chịu cho cộng đồng người ở Baghdad trong những năm 1950. Có hội hè ở câu lạc bộ Mansour và Alwiya, với bể bơi, sân tennis, và sân chơi squash, nơi các nhân viên của Công ty dầu mỏ lraq và Đại sứ quán có thể gặp nhau để chơi, bơi, hay uống đồ lạnh ở quầy bar. nhớ dến Fatima, dada hay vú nuôi của họ, dễ chịu đến từ ngôi làng mà lương trả khá hậu khiến có thể cưới chàng trẻ tuổi khá giàu có khi trở về với bộ lạc của mình. thường chơi sân với Fatima cho đến khi họ đến để đưa Mike về từ trường của Saywell. Trước khi hai đứa lên ba, chúng là những đứa trẻ tất cả tiếng lẫn tiếng Arập. học tiếng Arập từ Fatima, người làm vườn hay người đầu bếp. Mike học ngôn ngữ đặc biệt nhanh, và vì cha hai đứa trẻ là người ngưỡng mộ sâu sắc văn hoá Arập. ngôi nhà thường xuyên đầy bạn bè người lraq. Những người Arập có vẻ quý những đửa trẻ , tỏ ra rất kiên nhẫn với chúng hơn là người châu Âu, và khi Mike có thể chơi sân với mái tóc đen và đôi mắt cũng đen, chạy tự do trong chiếc dish-dash màu trắng của mình và trò chuyện bằng tiếng Arập, những người bạn Iraq của bố cậu cười phá lên vì vui thích và kêu lên: - Này Nigel, trông nó cứ như là người của chúng tôi ấy! Có những chuyến chơi vào cúối tuần để xem Harithiya Hunt hoàng gia, kiểu săn cáo của được du nhập vào Trung Đông, với những chuyến săn chó núi với chỉ huy của kiến trúc sư thành phố Philip Hirst. Và có những chuyến dã ngoại tuyệt vời theo sông đến đảo Lợn, nằm ở giữa dòng Tigris nước lững lờ chia thành phố làm hai phần. Sau hai năm Terry cũng theo Mike đến nhà trẻ của Saywell, nhưng vì cậu ốm yếu quá nên phải đến trường dự bị do ông Hartley làm hiệu trưởng, cùng lúc đó. Cậu sáu tuổi và trai lên tám khi họ lần dầu tiên đến Tasisiya, nơi có số đứa trẻ người nhưng cũng có số đứa bé người lraq của những gia đình tầng lớp . Hồi đó, có vụ đảo chính ở Iraq. Ông vua trẻ con và Nuri nhiếp chính bị lật đổ và tướng Kassem của Đảng cộng sản mới giành được quyền lực tuyệt đối. Mặc dù hai đứa trẻ người hề nhận thức được tất cả những chuyện đó, bố mẹ chúng và cộng đồng người trở nên lo lắng. Dung dưỡng đảng Cộng sản Iraq. Kassem thực thi chính sách hà khắc chống lại các thành viên đảng Ba'ath dân tộc chủ nghĩa, đảng đến lượt mình lại tìm cách ám sát ông tướng đó. trong số người trong nhóm thất bại trong việc bắn súng máy vào tay súng có tên Saddam Hussein. Ngày đầu tiên ở trường Terry thấy mình bị nhóm nhóc con người lraq trêu chọc. - Nó là thằng lai. đứa . Terry bắt đầu khóc. - Tao phải lai, cậu sụt sịt. - Đúng là thế đấy, đứa trẻ cao nhất . Mày béo và trắng với mái tóc mới dị hợm chứ. Mày trông như thằng lai. Lai, lai, lai. Rồi cả bọn đứng đồng thanh. Mike xuất từ sau cậu. Tất nhiên, chúng đều tiếng Arập cả. - Đừng có gọi em tao là lai, nó đe doạ. - Em của mày à? Nó trông giống mày. Nhưng dù sao nó cũng giống thằng lai. sử dụng nắm đấm phải là phần của văn hoá Arập. thực tế, nó có liên quan đến phần lớn các nền văn hoá, chỉ trừ số ở Viễn Đông. Ngay ở miền nam Sahara nắm đấm cũng phải là vũ khí truyền thống. Những người da đen từ châu Phi-và con cháu mình được dạy cất nắm đấm và chìa khuỷu tay ra. Đúng ra nắm đấm là truyền thống của người Địa Trung Hải và nhất là người Anglo-Saxon. Nắm đấm tay phải của Mike Martin tung vào hàm của đứa cầm đầu trêu chọc Terry và hạ nó ngay. Đứa trẻ bị đau bằng bị bất ngờ. Nhưng đứa nào gọi Terry là lai nữa. đáng ngạc nhiên. Mike và đứa trẻ Iraq đó sau này lại trở thành bạn. Qua những năm học trường dự bị, chúng trở nên thể tách rời. Đứa trẻ cao tên là Hassan Rahmani. Đứa thứ ba trong đảng của Mike là Abdelkarim Badri. người có đứa em là Osman, cùng tuổi với Terry. Thế là Terry và Osman cũng trở thành bạn, điều rất hữu dụng bởi vì ông bố Badri là bác sĩ và nhà Martin rất vui mừng có được ông như là bác sĩ gia đình. Chính ông giúp Mike và Terry Martin qua những chứng bệnh sởi đậu quai bị của trẻ em. Abdelkarim, cậu bé Badri lớn, Terry nhớ lại: rất say mê thơ ca, đầu của cậu luôn chìm sâu trong những cuốn sách của các nhà thơ . và cậu giành nhiều giải thưởng về đọc thơ ngay cả khi cậu lớn lên cùng với những đứa trẻ người thực . Osman, đứa bé hơn, rất giỏi toán và nó muốn trở thành kỹ sư hay kiến trúc sư ngày nào đó và xây dựng những thứ đẹp đẽ Terry ngồi trong nhà thờ vào buổi tối ấm áp năm 1990 và nghĩ biết điều gì xảy ra với tất cả những đứa trẻ đó. Trong khi học tập ở Tasisiya, nhiều điều xung quanh chúng ở Iraq thay đổi. Bốn năm sau khi nắm quyền sau khi giết đức vua, chính Kassem cũng bị lật đổ và bị giết thảm bởi quân đội lo ngại vì ông quá thân thiện với Cộng sản. Tiếp theo là mười tháng cầm quyền chia sẻ giữa quân đội và đảng Ba'ath, trong thời gian đó những người đảng Ba'ath trả thù đẫm máu những kẻ trước mình: những người Cộng sản. Rồi quân đội gạt đảng Ba'ath ra. đẩy những thành viên của nó lần nữa đến con đường lưu vong, và mình cai trị cho đến năm 1968. Nhưng vào năm 1966, ở tuổi mười ba, Mike được gửi đến để hoàn thiện học tập ở trường công của tên là Haileybury. Terry cũng tiếp chân vào năm 1968. Cuối tháng Sáu mùa hè đó, bố mẹ cậu đưa cậu sang để có thể cùng tận hưởng kỳ nghỉ trước khi Teny đến gặp Mike ở trường. Do đó họ may mắn tránh được hai cuộc đảo chính, vào 14 và 30 tháng Bảy. lật đổ quân đội và đưa đảng Ba'ath lên cầm quyền dưới lãnh đạo của tổng thống Bakr, với phó tổng thống tên là Saddam Hussein. Nigel Martin ngờ điều gì đó sắp xảy đến và lên kế hoạch cho mình. ông rời IPC chuyển sang làm công ty dầu lửa đặt trụ sở ở tên là Burmah Oil, và sau khi giải quyết công việc gia đình ở Baghdad, ông đưa gia đình đến Hertford, nơi ông có thể giao tiếp hàng ngày với London và công việc mới của mình. Nigel Martin trở thành tay golf cừ khôi, và vào các cuối tuần các con của ông thường được làm nhặt hóng trong khi ông chơi với giám đốc từ Burmah Oil sang ông Denis Thatcher nào đó, với bà vợ khá quan tâm đến chính trị. Terry Haileybury, ngôi trường được đặt dưới điều hành của ông hiệu trưởng William Stewart; cả hai đứa trẻ ở nhà Melvill, mà chủ nhà là Richard Rhodes-James. Như được báo trước, Terry quay sang thành nhà học giả còn Mike trở thành vận động viên. Khi sắp phải đến trường đại học. Mike thông báo rằng muốn lập nghiệp trong quân đội. Đó là quyết định mà ông Rhodes-James rất sung sướng. Nếu thái độ bảo vệ của Mike với người em thấp bé và béo ị của mình bắt đầu ở trường của ông Hartley ở Baghdad, nó lại càng được khẳng định ở Haileybury, và rất được người em ngưỡng mộ. Terry Martin rời nhà thờ tối om khi dàn đồng ca ngừng hát, bộ qua quảng trường Trafalgar, và bắt chiếc xe bus Bayswater, nơi và Hilary cùng sống trong căn hộ. Khi ngang qua công viên Lane, nghĩ lại đến những năm học ở trường cùng với Mike. Và giờ đây, gây ra việc trai mình phải bị gửi đến Kuwait bị chiếm đóng. cảm thấy như phát khóc vì lo lắng và bồn chồn. xuống xe bus và xuống Chepstow Gardens. Hilary, công tác ba ngày nay, có lẽ trở về. hy vọng thế, cần được an ủi. Khi vào, lên tiếng gọi và vui mừng nghe tiếng trả lời từ phòng ngủ. bước vào phòng và gạt khỏi đầu điều ngu ngốc làm. Rồi ủ ấm mình, ôm chầm môi giới chứng khoán dễ thương. trìu mến mà chia sẻ cuộc đời. Mike Martin trải qua hai ngày với chỉ huy đội ở Riyadh, trạm giờ đây được bổ sung thêm hai người từ Nhà Thế kỷ. Trạm Riyadh thường hoạt động bên ngoài Đại sứ quán, và từ khi Arập Xêut được xem như là đất nước thân thiện nhất với những lợi ích của , nó bao giờ dược coi là vị trí "nặng nhọc", nên bao giờ phải cầu số lượng nhân viên lớn và những thiết bị phức tạp. Nhưng cuộc khủng hoảng mười ngày trước ở vùng Vịnh thay đổi nhiều thứ. Liên minh mới được thành lập giữa phương Tây và các quốc gia Arập đối lập gay gắt với chiếm đóng kéo dài của Iraq tại Kuwait co hai đồng chỉ huy chính. tướng Norman Schwarzkopf của Mỹ và hoàng thân Khaled bin Sultan bin Abdulaziz, người lính chuyên nghiệp 44 tuổi, được huấn luyện tại Mỹ và ở Sandhurst, , người cháu của đức vua. và là con của hoàng thân Sultan bộ trưởng Quốc phòng. Hoàng thân Khaled, đáp lại cầu của nước , vẫn tỏ ra dễ mến như thường lệ, và với tốc độ đáng kể vi-la riêng biệt được mua ở ngoại ô của thành phố để cho Đại sứ quán thuê. Các chuyên viên kỹ thuật từ London sang để lắp đặt các máy nhận và chuyển với những máy giải mã thể hiểu cho sử dụng khẩn cấp, và địa điểm trở thành đại bản doanh của Cơ quan tình báo . vài nơi quanh thành phố, người Mỹ cũng làm điều tương tự cho CIA, tổ chức ràng có rất nhiều người ở đây. Các lực lượng vũ trang Mỹ vẫn chưa vào cuộc. Mike Martin ở lại trong ngôi nhà tư của chỉ huy trạm. Julian Gray. Hai người đồng ý chẳng hay ho gì nếu Martin bị bất kỳ ai ở Đại sứ quán nhìn thấy. Bà Gray duyên dáng, người phụ nữ có nghiệp, là chủ nhà của và bao nhờ nghĩ đến chuyện hỏi là ai hay làm gì ở Arập Xêut. Martin tiếng A rập với các nhân viên người Xêut, chỉ nhận cà phê họ mang đến với nụ cười và lời cám ơn bằng tiếng . Vào tối ngày thứ hai, Gray đưa cho Martin bản tin mới nhất. Họ thử nhìn nhận mọi việc có thể, ít nhất là từ Riyadh. - bay đến Dhahran vào sáng mai. Chuyến bay dân của Xêut. Họ ngừng bay thẳng đến Khafji, có người đón . Công ty thiết lập người dẫn đường ở Khafji ; ta gặp và đưa lên phía bắc. Sparky Low - có biết ta ? - Tôi biết ta. Martin . ta có tất cả những gì mà cần. Và ta tìm thấy phi công trẻ người Kuwait có lẽ thích . ta chuyển cho chúng ta mọi bức ảnh mới nhất của các vệ tinh Mỹ chỉ ra khu vực biên giới và những trung tâm chính của quân đội Iraq để mà tránh, cộng với tất cả những gì khác mà chúng ta có. Còn bây giờ, cuối cùng, những bức ảnh đó vừa mới được đưa đến từ London. Ông trái rộng tấm, những bức ánh khổ lớn bàn. Saddam có vẻ vẫn chưa chỉ định thống soái người Iraq. Ông ta vẫn còn cố duy trì loại hành chính của người Kuwait và chẳng đến đâu cả. Ngay cả nếu chống trả của người Kuwait làm được gì. Nhưng có vẻ như có có mặt của mật vụ ở đó rồi. Người này ở đó có vẻ là chỉ huy AMAM địa phương. tên là đại tá Sabaawi, khá là giẻ rách, ông chủ của ở Baghdad: người có thể đến thăm, là chỉ huy Amn-al Amn. Omar Khatib. Đây này. Martin nhìn chằm chằm vào khuôn mặt trong bức ánh: nhẵn lỳ, trơ ra, pha trộn giữa bạo tàn và thô kệch kiểu nông dân trong mắt và cái miệng. Danh tiếng của là khá đẫm máu đấy. Cũng thế với tên phụ tá của ở Kuwait. Sabaawi. Khatib khoảng 45 tuổi: đến từ Tikrit, kẻ trong bộ lạc của chính Saddam và là phụ tá đắc lực từ lâu rồi Chúng ta biết nhiều về Sabaawi. nhưng ta cho thấy sớm thôi. Gray chìa ra bức ảnh khác. Ngoài AMAM. Baghdad còn gửi đến đội từ Phản gián của Mukhabarat, có khả năng là để đối đầu với những người nước ngoài và bất kỳ ý dịnh do thám hay phá hoại nào được chỉ huy từ bên ngoài chinh phục mới của họ. Ông chủ CI là người này này - có danh tiếng khôn ngoan và mắc lừa ai bao giờ. có thể là người cần rất cẩn thận dấv. Đó là ngày 8 tháng Tám. Galaxy C-5 khác vượt qua đầu để hạ xuống sân bay quân , phần của bộ máy hậu cần Mỹ khổng lồ bắt đầu khới động và phun ra những thiết bị ngừng cho vương quốc Hồi giáo nóng nảy, hiểu nổi, và hết sức truyền thống. Mike Martin nhìn xuống và chằm chằm nhìn vào khuôn mặt của Hassan Rahmani. Lại là tiếng Steve Laing trong máy điện thoại. - Tôi muốn chuyện, Terry Martin . - Tôi nghĩ chúng ta nên chuyện. tiến sĩ Martin. Xem nào, ông lo lắng cho trai mình, phải ? - Rất nhiều. - cần phải thế đâu, ông cũng biết mà. ấy có tính cách rất mạnh mẽ, rất đủ khả năng tự lo lắng cho mình. ấy muốn , chẳng có vấn đề gì về chuyện đó cả. Chúng tôi cho ta quyền tuyệt đối để lựa chọn. - Tôi nhẽ ra nên im miệng hơn. - Hãy cố nhìn việc khác nào, tiến sĩ. Nếu điều tồi tệ hơn xảy ra, chúng tôi có thể phải gửi nhiều những người trai khác, những người chồng, con trai, những người chú, người khác đến vùng Vịnh. Nếu có cách nào khác mà chúng tôi có thể làm để hạn chế thiệt hại thương vong, liệu chúng tôi có nên thử " - Thôi được rồi. ông muốn gì? - Ồ bữa trưa khác, tôi nghĩ vậy. Như thế dễ dàng để chuyện hơn. Ông có biết khách sạn Montcalm ? giờ nhé. - Ngoài bộ óc ra, ông ta như thể là cái bật lửa đầy xúc cảm ấy, Laing nhận xét với Simon Paxman vào sáng sớm hôm đó. ông lớn tốt tính. Paxman , như là nhà khoa học người vừa mới nới về những giống loài mới được phát dưới tảng đá vậy. làn bụi mềm và nóng của Carolina bay về căn cử quân Seymour Johnson yào cuối buổi chiều 10 tháng Tám. Những người của Đội máy bay chiến đấu chiến thuật số 334 vẫn chưa vào chiến dịch những chiếc F-15E, và những người TFS số 335, những chỉ huy, những người có thể bay đến vùng Vịnh trong tháng Chạp, quan sát. Với đội 336, họ vào Đội máy bay chiến đấu chiến thuật số Bốn của lực thứ chín. Đội 336 di chuyển. Hai ngày bận rộn cuối cùng kết thúc; hai ngày chuẩn bị máy bay, hoạch định con đường, quyết định cần số, và dõi vào những sổ nhật trình bí mật và máy tính của đội - với tất cả những chiến thuật chiến đấu bị khoá lại trong ngân hàng dữ liệu - đến những container để được bên vận tải mang . Di chuyển đội máy bay giống với di chuyển ngôi nhà, dù ngôi nhà là nặng nề lẳm rồi. Nó giống như là di chuyển thành phố . Bên ngoài làn khói 24 con Đại bàng chiến đấu F-15E bay trong im lặng, những con quái vật đáng sợ đợi cho những sinh thể bé như nhện cùng giống loài thiết kế và xây dựng lên chúng để leo ra ngoài với những đầu ngón tay với sức mạnh kinh người. Họ chuẩn bị cho chuyến bay dài qua suốt cả thế giới để đến bản đảo Arập chỉ trong lần cất cánh. Trọng lượng xăng riêng thôi - mười ba tấn rưỡi - là trọng lượng của năm chiếc máy bay thả bom thời Thế chiến thứ Hai. Và Đại bàng là máy bay chiến đấu. Và đồ cá nhân của đội bay được gói vào những gói đường, trước đây là vỏ bom napalm được sửa lại cho sử dụng của con người. những cái can dưới các cánh chứa áo phông, giày. áo ngắn, xà phòng, dao cạo râu, quân phục, túi, và những tạp chí khiêu dâm. Với tất cả những người biết, đó có thể là con đường dài cho đến quán bar gần nhất dành cho các chàng độc thân. Những chiếc máy bay tiếp nhiên liệu KC-10 khổng lồ đồng hành với những phi công khi qua Đại Tây Dương, và vào bán đảo Xêut, mỗi chiếc tiếp nhiên liệu cho sáu con Đại bàng. Chúng bay đợi đại dương. Sau đó, đội vận tải : những chiếc Starlifter và Galaxy mang phần còn lại, quân đội gồm những người sửa súng và thợ máy, những người lo về phần điện tử và nhân viên hỗ trợ, bộ phận điện báo và những cái que, các máy xạc điện và đồ sửa chữa, thiết bị máy móc và súng ống. Mọi thứ được chuẩn bị để giữ hai tá những chiếc máy bay chiến đấu tinh xảo nhất thế giới hoạt động trơn tru và sẵn sàng tác chiến cách đó nửa vòng trái đất. Mỗi con Đại bàng của buổi tối này tương ứng 114 triệu đôla với những hộp đen, nhôm, cômpôsit sợi cácbon, máv tính, và đồ điện, cùng với số thiết bị. Mặc dù được thiết kế từ 30 năm trước. con Đại bàng là máy bay chiến đấu mới, trải qua nghiên cứu và phát triển rất nhiều. Dẫn đầu đoàn dân từ thành phố Goldsboro là ông thị trưởng, Hal L. Plonk, ông công chức hết sức lịch thiệp này vui sướng với cái biệt hiệu do 20 nghìn công dân của thị trấn tặng cho - "Kerplunk": danh hiệu ông nhận được cho khôn ngoan để làm vừa lòng các đoàn khách chính trị từ Washington với cách năng kiểu miền Nam và kho truyện đùa của mình. số người khách từ thủ đô, sau giờ của những trò của ông thị trướng, về Washington để đến tìm kiếm phương pháp trị liệu chống đau đớn. cách tự nhiên, thị trưởng Plonk quay về văn phòng của mình sau mỗi nhiệm kỳ với nổi tiếng thêm lên. Hal Hornburg đứng cạnh chỉ huy đội bay với vẻ tự hào, nhìn những con Đại bàng được kéo đường băng của họ, chui ra từ các hangar và đội bay trèo lên máy bay, phi công chiếc ghế phía của buồng lái cùng với sĩ quan phụ trách các hệ thống vũ khí của mình, gọi là wizzo. Xung quanh mỗi máy bay nhóm những nhân viên mặt đất làm việc để kiểm tra chuẩn bị cất cánh. - Tôi kể cho ông bao giờ chưa nhỉ, ông thị trưởng vui nhộn hói viên sĩ quan rất cao cấp của lực đứng cạnh mình, câu chuyện về ông tướng và người móc câu? Đúng lúc đó. Don Walker cẩn trọng bắt đầu khởi động máy móc và cần lái của hai động cơ Pratt & Whitney FI00-PW-220, làm chìm lấp câu chuyện hài. Chiêc F100 chuỵển xăng thành tiếng động rất to và nóng, với sức đẩy lên tới 211.000 pound. Từng cái , 24 chiếc Đại bàng của đội 336 khởi động và bắt đầu lăn bánh chạy về phía cuối đường băng. Những lá cờ màu đỏ bay phần phật dưới các cánh, để lộ những chiếc hoả tiễn Sparrow và Sidewinder. Chặng đường của họ đến Arập có thể là chuyến bình yên, nhưng thể để chiếc Đại bàng bay mà có phương tiện tự vệ nào. Dọc theo đường băng là những nhóm các vệ sĩ có vũ trang và cảnh sát của lực. số vẫy tay, số giơ tay chào. Ngay trước đường băng, những con Đại bàng dừng lại lần nữa và lại là tâm điểm cho chú ý cuối cùng của dòng người và nhân viên mặt đất. Họ gõ vào lốp: rồi kiểm tra mỗi máy lần lượt, tìm kiếm các chỗ nứt, mở rộng ra, hay panel - tất cả những gì có thể gây ra trục trặc trong khi chạy mặt đất. Cuối cùng, các pin của các tên lửa cũng phụt ra. cách kiên trì, những chiếc Đại bàng đứng đợi, dài 63 feet cao 18 và rộng 40, nặng 40.000 pound cốt và 81.000 tối đa trọng tải, nghĩa là trọng tải lúc này nó chúng chở. Nó có thể bay rất lâu. Cuối cùng, chúng lăn bánh đường băng, quay về ánh sáng đèn, và tăng tốc. Làn khói phụt ra khi các phi công tăng tốc qua "cửa" và những lưỡi lửa dài 30 fit tung ra từ những ống phía đuôi. Bên cạnh đường băng các chỉ huy đội bay, chỉ huy được bảo vệ bởi mũ bảo hiểm từ tiếng động kinh người, chào những đứa con của mình xa cho sứ mệnh ở nước ngoài. Họ có thể bao giờ nhìn lại được chúng cho đến Arập Xêut. Cách đường băng dặm, những cái bánh rời mặt đường và các con Đại bàng ở trung. Bánh gập lên, cuộn lại lửa phụt ra đằng sau với năng lượng lớn. 24 con Đại bàng quay mũi về phía bầu trời, bay chếch lên với tốc độ 5.000 fít mỗi phút, và biến mất vào trong cơn gió bụi. Họ ở cao 25.000 feet, và giờ sau thấy những đèn hướng lối của chiếc tiếp nhiên liệu KC- 10 đầu tiên. đến lúc dừng lại. Hai động cơ FI00 tạo thành tiếng rít rợn người. Với động cơ đốt sau, mỗi máy bay tiêu tốn 40.000 pound xăng mỗi giờ, chính vì vậy động cơ đốt sau hay "phản lực" chỉ được sử dụng cho cất cánh. chiến đấu, hay những động tác thoát khỏi nơi nào đó cách khẩn cấp. Ngay cả với những chế độ năng lượng bình thường, các động cơ cũng cần được cung cấp mỗi cái mỗi nửa giờ . Để đến được Arập Xêut họ rất cần đến những chiếc KC-IO của mình, các trạm khí trời. Đội bay giờ đây ở rất cao, mỗi cái cách nhau khoảng dặm. Don Walker, cùng người wizzo của mình đằng sau, liếc nhìn để xem người cùng mình có giữ đúng vị trí . Bay về phía đông, họ giờ ở trong bóng tối bao quanh Địa Trung Hải. rađa cho thấy vị trí của mỗi máy bay, và những đèn dẫn dường vẫn dẫn họ . Ở đuôi chiếc KC-10 phía và trước mặt , người phi công mở panel bảo vệ, vòi xăng được thả ra chờ khách hàng đầu tiên. Môi nhóm sáu chiếc Đại bàng định vị được chiếc tiếp nhiên liệu dành cho mình, và Walker di chuyển khi đến lượt mình. cái động tay vào cần lái, thế là chiếc Đại bàng đậu dưới chiếc tiếp nhiên liệu. theo đúng hướng. chiếc tiếp nhiên liệu người chỉ huy "thả" vòi xăng của mình rìa ngoài cánh bên trái chiếc máy bay. Khi ta "bật lên", xăng bắt đầu chảy ra, 2000 pound phút. Chiếc Đại bàng uống và uống. Khi đầy xăng, Walker tránh ra để đồng đội vào lấy xăng. bầu trời, ba chiếc tiếp nhiên liệu khác cũng cùng làm như thế cho mỗi nhóm 6 chiếc cần được tiếp xăng. Họ bay qua đêm, đêm rất ngắn vì họ bay về hướng mặt trời với vận tốc 500 dặm môi giờ mặt đất. Sau 6 giờ mặt trời lên, và họ đến bờ biển Tây Ban Nha, bay về phía bắc của bờ biển châu Phi để tránh nước Libya. Lại gần Ai Cập, thành viên của liên quân, đội 336 rẽ quặt sang đông nam, hướng về Biển Đỏ, và bắt được tín hiệu đầu tiên của bãi cát khổng lồ gọi là Sa mạc Arập. Sau 15 tiếng đồng hồ trung, mệt mỏi và căng thẳng, 48 người Mỹ trẻ tuổi hạ cánh xuống Dhahran ở A rập Xêut. Trong nhiều giờ họ hướng thẳng về đích cuối cùng của mình, căn cứ quân của Thumrait ở Sultanate của Oman. Trong 4 tháng, cho đến giữa tháng Chạp. họ sống ở đây trong những điều kiện khiến có thể làm họ nhớ nhà. 700 dặm cách biên giới Iraq và vùng đất nguy hiểm. Họ có thể bay những công vụ tập luyện vùng trời nội địa Oman khi đội hỗ trợ họ đến, bơi trong dòng nước xanh của Ấn Độ Dương, và đợi những gì mà Chúa và Norman Schwarzkopf dự định cho họ. Tháng Chạp họ có thể đổi chỗ đến Arập Xêut. Và trong số họ, dù có thể ta bao giờ biết, có thể ngăn được dòng của cuộc chiến tranh.
CHƯƠNG 5 Sân bay Dhahran chật cứng. Nằm ở trung tâm các giếng dầu vĩ đại Arập Xêut có giàu có đáng nể, Dhahran từ lâu quen với người Mỹ và người Âu - như Taif, Riyadh, Yenbo, và những thành phố khác của vương quốc. Ngay cả cảng nổi tiếng Jeddah cũng thân quen với những gương mặt Anglo-Saxon đường phố đến thế, nhưng vào tuần thứ hai của tháng Tám, Dhahran chao đảo vì cuộc xâm lược. số người cố thoát ra ngoài; nhiều người lái xe qua đường lớn đến Bahrain để bay khỏi từ đó. Những người khác ở sân bay Dhahran, những người vợ và gia đình của những người làm về dầu mỏ là chủ yếu, hướng đến Riyadh và chuyến bay về nhà. Những người khác đến, dòng thác người Mỹ với vũ khí và trang thiết bị. Chuyến bay dân của Martin có bảo vệ của hai chiếc Galaxy G-5, hai phi cơ trang bị vũ khí đến tận chân răng được gửi đến từ và Đức, hứa hẹn biến vùng đông bắc Arập Xêut thành trại lính lớn. Đây chưa phải là Bão Táp Sa Mạc; năm tháng nữa chiến dịch giải vây Kuwait mới diễn ra. Đó là Lá Chắn Sa Mạc. được xây dựng để chặn bước tiến của quân Iraq xuống phía nam, giờ đây lên đến 14 sư đoàn được triển khai dọc theo biên giới và khắp Kuwait. người đứng ở sân bay Dhahran có thể rất ấn tượng về những chiếc máy bay quân , nhưng nhìn kỹ hơn thấy tấm da hộ vệ quá là bé. Quân đội và pháo binh Mỹ vẫn còn chưa đến - đội hải quân sớm nhất mới chỉ vừa khỏi bờ biển nước Mỹ - những chiếc Galaxy, Starlifter, và Hercule được con tàu hàng lớn chở đến. Những chiếc Đại bàng đóng ở Dhahran và những chiếc Hornets của thuỷ quân ở Bahrain, cộng với những Tornado của vừa mới tới Dhahran chưa đủ để tiến hành các chiến dịch. Mặc dù biểu đầy ấn tượng của sức mạnh quân ở số sân bay, đông bắc Arập Xêut vẫn trần trụi dưới mặt trời. Martin nhún vai theo cách của mình về cái sảnh đón tiếp, cái túi to của choàng qua vai, và nhìn thấy khuôn mặt quen trong số đám đông đứng ở barie. Trong lần tuyển đầu tiên vào SAS, khi họ với họ huấn luyện mà thay vào đó là thử giết , họ gần như là thành công. hôm bộ 30 dặm ở Brecons, trong những vùng đất khắc nghiệt nhất của nước , trong cơn mưa tầm tã với 100 pound trong cái túi Bergen. Cũng giống những người khác, kiệt sức, bị nhốt vào thế giới rất xa lạ và tồn tại với với mẩu con con bánh mì. Rồi nhìn thấy cái xe tải, cái xe đẹp đẽ đợi mình. Kết thúc của cuộc bộ, và nhân danh tồn tại của con người, kết thúc của chặng đường. trăm yard. 80. rồi 50; kết thúc của cơn hấp hối tiêu thụ tất cả năng lượng của , đếm từng bước đến chiếc xe. người đàn ông ngồi sau xe, nhìn người dầm mưa, khuôn mặt tai tái thản nhiên nhìn . Khi Martin chỉ còn cách cái xe 10 inch, người đàn ông đạp cần số và cái xe chạy Nó chạy cách xa đó trăm yard, mà là 10 dặm nữa. Sparky Low là người ở xe. - Chào, Mike, rất mừng được gặp lại . Cái loại người kinh khủng để mà tha thứ. - Chào, Sparky. Việc thế nào rồi? - Tởm lắm. Sparky lái chiếc Jeep 4 bánh bề ngoài rất bình thường ra khỏi chổ đỗ xe, và trong 30 phút họ ra khỏi Dhahran và về phía bắc. Phải 200 dặm để đến Khafji, chặng đường mất 3 giờ đồng hồ, nhưng sau cảng Jubail nằm trải dài ở bên phải họ, họ ít nhất cũng có được chút riêng tư. Con đường vắng ngắt. ai có thích thú đến thăm Khafji hết cả, cộng đồng sống bằng dầu mỏ bé ở biên giới với Kuwait, giờ đây bị thu hẹp lại thành thành phố. - Người tị nạn vẫn đến à? Martin hỏi. - số. Sparky gật đầu. thành dòng. Đến và . Những người đó xuôi theo đường quốc lộ, chủ yếu là phụ nữ và trẻ con với giấy thông hành - người Iraq để họ qua cho rảnh nợ. Cũng khôn ngoan đấy chứ. Nếu tớ điều hành Kuwait, tớ cũng muốn thoát khỏi những người muốn di. số người Ấn Độ cũng qua được - bọn lraq có vẻ thèm biết đến họ. khôn ngoan lắm. Người ấn Độ có thông tin tốt, và tớ đoán chắc số dò xét và mang thông tin cho người của ta. - Cậu có các thiết bị mà tớ cầu chưa? - Hẳn rồi. Gray rồi. Nó tới trong xe tải biển số Xêut vào hôm qua. Tớ cho vào phòng ngủ rồi. Tối nay bọn ta ăn tối với viên phi công trẻ tuổi người Kuwait tớ rồi đấy. ta có quan hệ ớ trong nước, những người đáng tin có thể hữu dụng. Martin chun mũi. " ta được nhìn thấy mặt tớ Có thể nguy hiểm". Sparky suy nghĩ: "Được thôi". Biệt thự của Sparky Low tệ, Martin nghĩ. Nó thuộc về giám đốc dầu mỏ người Mỹ của hãng Aramco, hãng rút người đó khỏi đây và về Dhahran. Martin thừa biết chẳng việc gì phải nghĩ về công việc của Sparky Low ở chốn này. Hiển nhiên là ta cũng được Nhà Thế kỷ "vay". và nhiệm vụ của ta có vẻ như là tiếp nhận những dòng người tị nạn từ phía nam, và nếu họ có thể , khai thác họ về những gì họ nhìn thấy và nghe thấy. Vẻ ngoài Khafji hoang vắng, ngoài Đội vệ binh quốc gia Xêut, những người ở các vị trí phòng thủ trong và quanh thị trấn. Nhưng ớ đó vẫn còn số người Xêut tuân lệnh vẫn lại, và từ người bán hàng ngoài chợ, người ta tin nổi thời điểm này còn có khách hàng, Martin mua được quần áo cần. Khafji vẫn có điện, nghĩa là máy điều hoà vẫn chạy, nước máy vẫn chảy và vẫn đun được nước. Có nhà tắm mở cửa, nhưng biết là nên sử dụng nó. tắm, cạo râu, hay đánh răng từ ba ngày hôm nay. Bà Gray: chủ nhà của ở Riyadh nhận ra càng ngày càng nặng mùi, nhưng bà rất tế nhị nên ra. Martin chỉ cà răng bằng mẩu gỗ sau bữa ăn. Sparky Low hỏi điều đó, nhưng sau này ta biết được lý do. Viên sĩ quan người Kuwait hoá ra lại là chàng đẹp trai 26 tuổi nóng lòng làm được gì đó cho đất nước, và ràng là người ủng hộ triều dại hoàng gia Al Sabah lưu vong. Ông hoàng giờ đây ở khách sạn sang trọng ở Taif với tư cách khách của vua Fahd của Arập Xêut. ta rất khoái khi biết rằng chủ của mình đúng là người từng dự đoán - sĩ quan người với quần áo dân , còn người thứ ba ớ bữa ăn biến thành người đồng hành A rập, mặc bộ thob trắng với keffiyeh đầu. góc quấn lên phần dưới của khuôn mặt. Low giới thiệu họ với nhau. - có thực là người ? chàng trẻ tuổi hỏi ngạc nhiên. ta được giải thích tại sao Martin ăn mặc theo cách kỳ khôi như thế và tại sao che mặt. Đại uý Khaled Al- Khalifa gật đầu. - Xin lỗi nhẽ, thiếu tá, dĩ nhiên là tôi hiểu mà. Câu chuyện của đại uý rất ràng và thẳng tuột. ta bị gọi từ nhà mình vào buổi tối ngày 1 tháng Tám để lên căn cứ quân Ahmadi, nơi ta đóng quân. Qua đêm: và các sĩ quan đồng đội dã nghe các báo cáo điện đàm về cuộc xâm lược đất nước của mình từ phía bắc. Bình minh, đội Skyhawk máy bay chiến đấu của ta được tiếp nhiên liệu, được trang bị vũ khí, và chuẩn bị để cất cánh. Skyhawk của người Mỹ, dù thế nào nữa cũng là máy bay chiến đấu đại, vẫn có thể chửng tỏ là khá hữu dụng trong cuộc tấn công mặt đất. Nó có thể bao giờ sánh được với MIG 23, 25. hay 29 của lraq hay Mirage của Pháp. nhưng may mắn thay, lần chiến đấu đó ta gặp phải cái nào. ta phát những mục tiêu của mình tại vùng ngoại ô phía bắc của Kuwait City ngay trước khi bình minh lên. - Tôi chơi mấy cái xe tăng của chúng bằng rốckét, ta giải thích rất sôi nổi. Tôi biết, bởi vì tôi nhìn thấy nó tung mấy cái xe tải bên cạnh. Chơi thằng đầu tiên trong đám, rồi tôi quay trở về. Nhưng qua Ahmadi, đài kiểm soát chúng tôi phải về phía nam đến biên giới và giữ gìn máy bay. Tôi có đủ nhiên liệu để đến được Dhahran. Chúng tôi có 60 máy bay thoát ra được, cũng biết đấy. Skyhawk,Mirage và những chiêc huấn luyện Haws của . Cộng thêm Gazelle, trực thăng Puma và Siêu-Puma. Giờ đây tôi chiến đấu từ chỗ này và quay trở lại khi chúng tôi được giải phóng. nghĩ khi nào cuộc tấn công bắt đầu? Sparky Low cười mơ màng, chàng rỏ ràng là vô cùng chắc chắn - Chưa đâu. tôi e là vậy. phải kiên nhẫn chứ. Công việc chuẩn bị xong rồi đấy còn gì. Hãy cho chúng tôi về cha của . Cha của người phi công, có vẻ thế, là nhà buôn hết sức giàu có, người bạn của hoàng gia và thế lực trong nước. -. Liệu ông ấy có giúp cho các đội xâm lược Low hỏi. chàng trẻ tuổi Al-khalifa ngập ngừng. - bao giờ, bao giờ! ông ấy làm tất cả những gì có thể để giúp cho nghiệp giải phóng! ta quay đôi mắt đen lên quần áo. Liệu gặp bố tôi ? có thể tin tưởng vào ông ấy. - Có thể đấy, Martin . - Llệu có thể chuyển lởi nhắn của tôi cho ông ấy ? ta viết vài phút lên mảnh giấy và đưa nó cho Martin. Khi ta lái quay trở lại Dhahran, Martin đốt tờ giấy trong cái gạt tàn. thể mang theo cái gì có dấu tội phạm vào Kuwait City được. Buổi sáng ngày hôm sau. và Low gói ghém đồ đạc cầu trong cái xe jeep. Và họ lái tiếp về phía nam xa đến tận Manifah, rồi quay sang phía tây theo đường Tapline. Cái toả bóng xuống biên giới Iraq mọi con đường ngang qua Arập Xêut. Nó được gọi là Tapline bởi những điểm TAP của đường ống dân dầu xuyên qua Arập Xêut, con đường phục vụ cho đường ống rất nhiều cho Xêut về phía tây. Sau đó, đường Tapline trở thành đường vận tải huyết mạch cho quân đội lớn nhất từng thấy, với 400.000 quân Mỹ. 70.000 quân , 10.000 quân Pháp, và 200.000 quân Xêut và những người lính Arập khác nữa tập hợp lại trước tấn công của Iraq vào Kuwait từ phía nam. Nhưng hôm đó đường vẫn còn vắng lặng. Vài dặm dọc con đường, chiếc xe jeep lại quành sang phía bắc, quay trở về biên giới Saudi- Kuwait nhưng ở địa điểm khác, sâu trong nội địa. Gần cái làng sa mạc xa xôi Hamatiyat ở phía Saudi, biên giới là điểm gần Kuwait City nhất. Hơn nữa, những bức ảnh trinh thám của Mỹ mà Gray có ở Riyadh cho thấy số đông quân lraq được tập hợp ở đường biên giới nhưng gần bờ biển hơn. Càng vào sâu trong nội địa, các vị trí tiền tiêu của Iraq càng mỏng hơn. Họ tập trung quân lực giữa Nuwaisib qua điểm bờ biển và trạm biên giới Al-wafra cách bốn mươi dặm sâu vào nội địa. Làng Hamatiyyat cách 100 dặm trong sa mạc, là điểm đường biên giới, xa Kuwait City lắm. Những con lạc đà mà Martin cầu đợi họ tại trang trại bên ngoài ngôi làng, con lạc đà cái cổ đeo lục lạc. Con nó, con lạc đà màu kem với cái bờm và cặp mắt dễ thương, vẫn bú. Nó có thể lớn lên trở thành con rất khỏe trong dòng giống của nó. nhưng giờ chưa. - Tại sao cần con này? Low hỏi khi họ ngồi xe jeep và nhìn các con vật ăn cỏ. - Vỏ bọc đấy. Nếu có ai hỏi, tôi dẫn nó đến các trang trại lạc đà bên ngoài Sulaibiya để bán. Giá ở đó cao hơn. tụt từ xe xuống và huýt sáo gọi người canh lạc đà ngồi bệt dưới đất. Trong 30 phút hai người ngã giá trong bụi và thoả thuận giá cả của hai con vật. Chưa bao giờ người chăn gặp chuyện này, thoáng nhìn vào khuôn mặt ngăm đen, những cái răng lung lay, và ánh lên trong cát bụi trong bẩn thỉu và mùi hôi: ta chưa từng chuyện với tay thương lái Bedouin đủ tiền mua hai con lạc đà tốt. Khi vụ thoả thuận xong xuôi, Martin trả tiền bằng xâu đồng riyal Saudi mà lấy từ Low và để dưới khuỷu tay. Rồi mỉm cười dắt hai con lạc đà và dừng lại khi nó chống chân giương mắt nhìn bởi những đụn cát. Low ở . ta ngồi cách người bán lạc đà chừng vài trăm yard và quan sát. Dù biết bán đảo Arập khá , ta vẫn bao giờ làm việc được như Martin, và ta rất lấy làm ấn tượng. Người kia hề đóng giả người A rập; khi ta tụt xuống khỏi xe, chỉ đơn giản là ta trở thành tay Bedou trong mọi hành động và cử chỉ. Low hề biết, ngày hôm trước ở Kuwait hai kỹ sư người tìm cách trốn chạy, trong căn hộ của mình ở khu Kuwait mặc thob cùng ghutra trùm đầu. Họ nửa đường đến xe của mình cách đó 50 fít đứa bé gọi giật giọng: "Các ông có thể ăn mặc giống người A rập, nhưng cách các ông lại giống người ". Các kỹ sư bèn quay trớ lại căn hộ và ở lại đó. Rất nóng bức, nhưng lo bị bắt chợt, hai nhân viên SAS chuyển hành lý vào những cái giỏ hàng được treo hai bên con lạc đà cái. Nó khuỵu xuống cả bốn chân nhưng thớ phì phò và ai oán nhìn những người chất đồ lên người nó. 200 pound chất nổ Semtex-H được treo bên, mỗi gói 5 pound được gói lại bằng vải, với những cái túi cà phê Hesie hột cà phê để cho trường hợp có tên lính Iraq nào đòi kiểm tra. Cái giỏ khác mang những khẩu súng máy, thuốc nổ, kíp điện, bút chì đánh dấu và những quả lựu đạn, cùng với những chiếc hộp của Martin nhưng rất có công lực. Hai người chất những bao cà phê lên phía . Khi kết thúc công việc, Low hỏi: - Tôi còn có thể làm gì thêm nữa ? - , xong rồi đấy, cám ơn. Tôi ở lại đây cho đến khi chiều xuống. cần phải đợi đâu. Low chìa tay ra. - Xin lỗi vì chuyện ở Brecons nhé. Martin bắt tay. - có gì đâu. Tôi vẫn sống sót mà. Low cười. tràng cười ngắn. - Ừa, chúng ta thế đấy. Mẹ kiếp chúng ta sống sót. Ớ lại may mắn nhé, Mike. lái xe . Con lạc đà hướng mắt nhìn theo, lúc lắc, và bắt đầu nhai. Con cố cướp lấy nhưng được, và phải nằm xuống bên cạnh nó. Martin chống mình lên con lạc đà. choàng chiếc keffiyeh lên mặt, và nghĩ về những ngày sắp tới. Sa mạc có lẽ thành vấn để: nhưng ở Kuwait City bị chiếm đóng có. Mức độ kiểm soát chặt chẽ đến mức nào, đường lối lại khó khăn đến mức nào, lính gác ở đó nghiêm túc đến mức nào? Nhà Thế kỷ đưa giấy tờ giả, nhưng quẳng nó . Người Iraq có thể đổi thẻ căn cước rồi. tự tin rằng cái vỏ bọc mà chọn là trong những cách thức tốt nhất trong thế giới Arập. Người Bedouin đến và như họ muốn. Họ gây chú ý với mọi đội quân xâm chiếm, vì họ chứng kiến hết cả rồi - Saracen và Thổ Nhĩ Kỳ, Thập tự chinh và Hiệp sĩ, Đức và Pháp, và Ai Cập, Israel và Iraq. Họ sống sót chỉ vì họ ở bên ngoài mọi vấn đề chính trị và quân . Nhiều chế độ cố quản họ, nhưng đều thành công. Vua Fahd của A rập Xêut, quyết định rằng mọi công dân của mình đều phải có nhà, xây ngôi làng xinh đẹp tên là Escan, với những thiết bị đại nhất - bể bơi, nhà vệ sinh, nhà tắm, nước chảy. số người Bedouin được tập hợp lại và đưa vào đó. Họ uống nước bể bơi (nó giống như cái ốc đảo). nhảy lên bệ, chơi với những vòi nước, và sau đó bỏ , lịch giải thích cho ông quốc vương của mình rằng họ thích ngủ ngoài trời hơn. Escan trống và được người Mỹ sử dụng trong cuộc khủng hoảng vùng Vịnh. Martin biết vấn đề thực là chiều cao của . thiếu inch nữa cao 6 fít, trong khi phần lớn người Bedouin lại thấp hơn thế nhiều. Nhiều thế kỷ ốm o và thiếu ăn để lại phần lớn họ nước da sạm đen và nhăn nhúm. Nước trong sa mạc chỉ là để uống, bởi người, dê, hay lạc đà; do đó, Martin tránh tắm rửa. quyến rũ của cuộc sống sa mạc, biết, thường là chỉ đối với người phương Tây mà thôi. có giấy tờ căn cước gì cả, nhưng đó phải là vấn đề. Nhiều chính phủ thử cho người Bedouin giấy tờ. Các thổ dân thường xuyên rất thích thú vì chúng là giấy rất tốt để chùi đít, tốt hơn nắm lá nhiều. Đối với cảnh binh hay lính tráng hỏi thẻ căn cước của người Bedouin là lãng phí thời gian, và tất cả các bên đều biết điều đó. Từ quan điểm các nhà chức trách, vấn đề chính là người Bedouin chẳng gây ra xáo động gì hết cả. Họ chẳng bao giờ mơ đến chuyện dính dáng vào phong trào kháng chiến của Kuwait. Martin biết điều đó; hy vọng người Iraq cùng như thế. đợi cho đến khi mặt trời xuống, rồi leo lên con lạc đà. Khi kêu "hút hút hut", nó nhổm đứng lên. Con của nó lưỡng lự chốc, nép vào sau nó, và chúng thả những bước thong thả như là rất chậm nhưng thực ra được khá đường đất. Con lạc đà cái được ăn no và được uống nước ở trại và có thể đòi hỏi gì trong nhiều ngày. thẳng lên hướng tây bắc của trạm cảnh sát Ruqaifah: nơi con đường mòn từ A rập Xêut vào Kuwait, khi ngang qua biên giới ngay trước 8 giờ. Đêm tối, được bảo vệ từ những ngôi sao. Vùng đất dầu Manageesh của Kuwait ở ngay bên phải và có khả năng có đội Iraq ở đó nhưng sa mạc trước mặt trống . Bản đồ cho biết phải mất 35 dặm để đến các trang trại lạc đà ngay ở miền nam Sulaibiya, quận bên ngoài rìa của Kuwait City nơi có ý định bỏ lại những con vật của mình cho đến khi lại cần đến chúng. Nhưng trước đó, có thể đưa đồ đạc vào sa mạc và đánh dấu chổ. Trừ phi dừng lại hay giảm tốc độ, có thể thực điều đó trong bóng tối trước khi mặt trời lên, nghĩa là còn 9 giờ đồng hồ. Giờ thứ mười có thể đưa đến những trang trại lạc đà. Khi khu dầu mỏ Manageesh ở lại đằng sau, chìa cái la bàn ra để hướng lối. Những người Iraq, như biết, có thể quản lý các con đường. ngay cả các đường mòn, nhưng bao giờ ngó đến sa mạc hiu quạnh. người tị nạn nào cố thoát khỏi theo con đường đó, kẻ thù cũng dám vào. Từ các trang trại lạc đà, sau khi mặt trời lên, biết có thể lên cái xe tải về hướng trung tâm thành phố, cách đó 20 dặm. Tít cao , im lìm trong bầu trời đêm, vệ tinh KH-11 của Cơ quan Do thám Quốc gia vẫn bay ngang bầu trời. Nhiều năm trước, những thế hệ trước của các vệ tinh do thám của Mỹ chụp những bức ánh và thi thoảng đưa ra, để được quan sát kỹ lưỡng và phân tích. Những chiếc KH-11, dài 64 fít và nặng 30.000 pound mỗi cái, thông minh hơn nhiều. Khi nó chụp những hình ảnh mặt đất ở dưới mình, nó tự động giải mã bức ảnh thành những loạt sóng điện tử được đưa lên cho vệ tinh khác. Vệ tinh nhận ớ là trong mạng lưới được đặt ở trong quỹ đạo bình lưu, có nghĩa là nó qua khoảng gian với vận tốc ngang bằng tốc độ quay của trái đất khiến nó ở cùng chỗ phía mặt đất. thực tế, chúng được treo lên. Nhận được các hình ảnh từ KH-11, vệ tinh treo gửi chúng thẳng về Mỹ, hay, nếu đường cong của trái đất cho phép. nhảy qua vũ trụ đến "con chim" lơ lửng khác mà nó gửi những bức ảnh xuống cho các ông chủ người Mỹ của mình. Do đó NRO có thể thu thập những thông tin hình ảnh vào đúng thời điểm, vài giây sau khi những bức ảnh được chụp. Trong chiến tranh lợi thế này to lớn. KH-11 có thể nhìn thấy, chẳng hạn, đoàn xe quân thù di chuyển tiến lên, vào thời gian để gọi đội bay đến ném bom các xe tải ra nát vụn. Những người lính xấu số bên trong chúng có thể bao giờ có thế biết được vì sao những chiếc máy bay thả bom lại tìm ra họ. đối với những chiếc KH-11 có thể làm việc thâu đêm ngày, trong cả sương mù. Biệt hiệu của nó: "Nhìn mọi thứ". KH- 11 đêm nay bay ngoài A rập Xêut và Kuwait. Nhưng nó thấy người thổ dân Bedouin vào vùng lành thổ bị cấm. Nó bay Kuwait và đến lraq. Nó nhìn thấy nhiều toà nhà, những toà nhà to lớn của các thành phố công nghiệp xung quanh Al-Hillah và Tarmiya, Al-Atheer và Tuwaitha, nhưng nhìn thấy cái gì diễn ra trong các toà nhà đó. Nó nhìn thấy những bình khí độc được chuẩn bị, cũng nhìn thấy khí uramum để dành cho những chiếc máy ly tâm chạy gas của nhà máy tách đồng vị. Nó bay về phía bắc, nhìn thấy những sân bay, đường cao tốc và những cây cầu. Nó thậm chí còn nhìn thấy con đường ôtô ở Al-Qubai, nhưng nhận xét gì cả. Nó nhìn thấy những trung tâm công nghiệp của Al Qaim, Jaziram và Al- Shirqat ở tây và bắc Baghdad. nhưng thấy những gì được chuẩn bị ở bên trong. Nó bay ngang qua Jebel al Hamreen. nhưng nhìn thấy Pháo đài được xây dựng bởi kỹ sư Osman Badri. Nó chỉ nhìn thấy ngọn núi giữa những ngọn núi khác, những ngôi làng đồi giữa những ngôi làng đồi khác. Rồi nó bay qua Kurdistan và vào Thổ Nhĩ Kỳ. Mike Martin lạc đà suốt đêm để đến Kuwait City. vô hình trong bộ quần áo dài giặt suốt hai tuần. mỉm cười khi nhớ lại cái giây phút khi quay trở lại chiếc Land-Rover của mình từ chỗ sa mạc bên ngoài Abu Dhabi, bất ngờ khi bị bà người Mỹ bắt chợt chĩa camera vào mình và kêu lên "click click". Chiếc Rolls-Royce chở Ahmed Al-khalifa đến trước toà nhà văn phòng treo biển tiếng và tiếng Arập đại bản doanh của Công ty Thương mại Al-khalifa và dừng lại. Người lái xe, người hầu cận, nửa lái xe nửa vệ sĩ, ra khỏi chỗ lái xe và ra sau để mở cửa cho ông chủ của mình. Có lẽ chẳng có gì đáng ngạc nhiên khi Rolls-Royce, nhưng các triệu phú người Kuwait thường tự che giấu bằng cách xe Volvo vì sợ gặp lính lraq tại những chổ chặn đường. - Cứ để chúng thối rữa trong địa nguc , ông đă càu nhàu trong bữa sáng. Quả thực, chuyến từ ngôi nhà tráng lệ của ông với khu vườn đẹp đẽ tại ngoại ô sang trọng Andalus tới toà nhà văn phòng ở Shamiya hề dễ dàng. Trong 10 ngày kể từ cuộc tấn công, những người lính mộ và lính chuyên nghiệp của Đội Vệ binh Cộng hoà Iraq rút khỏi Kuwait City, thay chỗ là Quân đội Nhân dân. Ông ghét bọn đầu tiên và khinh bỉ bọn thứ hai. Trong những ngày đầu tiên, những lính vệ binh tràn ngập thành phố, nhưng rất hệ thống và có tổ chức. Ông trông thấy chúng vào trong ngân hàng quốc gia và mang những thỏi vàng trị giá 5 tỷ đôla trong ngân quỹ quốc gia. Nhưng đó phải là chiếm hữu cho riêng cá nhân nào. Những thỏi vàng được đặt trong container, được niêm phong những chiếc xe tải, và được chở về Baghdad. Những Soukh vàng trị giá hàng tỷ đôla nữa, và cũng bị đối xử theo cùng môt cách. Những điểm chốt đường của lính vệ binh. những người được phân biệt bởi mũ beret của mình và quần áo thông thường, rất gắt gao và chuyên nghiệp. Rồi, khá đột ngột, họ được điều xa hơn về phía nam. đến đóng ở biên giới phía nam tiếp giáp Arập Xêut. Thế chỗ của những người này là Quân đội Nhân dân, rách rưới râu ria cạo, và rất vô kỷ luật, và vì lý do đó, khó đoán biết trước và cũng nguy hiểm hơn. Việc giết chết bất thường người Kuwait từ chối chịu đưa đồng hồ tay hay xe ôtô xảy ra như cơm bữa. Vào quãng giữa tháng Tám, nóng bửc bao trùm. Những người lính lraq, tìm chỗ nấp, đào đường lên và dựng những cái lều dưới đường phố nơi họ đóng, và dồn vào bên trong. Trong mát mẻ của bình minh và của buổi tối họ trở lại thành lính tráng. Rồi họ trấn lột dân thường và vơ vét thực phẩm và những đồ có giá trị dưới hình thức kiểm tra xe cộ để chống buôn lậu. ông Al-Khalifa bình thường thích được làm vào 7 giờ sáng nhưng vì tình hình, phải lùi lại đến 10 giờ, khi mặt trời nung nóng, ông qua những nơi Quân đội Nhân dân trong đó và lần nào bị chặn lại. Hai tay lính, rách rưới và mũ mão, uể oải giơ tay lên chào chiếc Rolls- Royce. nghĩ rằng chắc nó chở sĩ quan cao cấp của mình. Ông dừng chân hè phố trong chiếc thob trắng đẹp, quấn chiếc ghutra bằng cotton sáng màu quanh dầu với hai cái dây màu đen thả xuống khuôn mặt ông. Người lái xe đóng cửa lái nó đến gara của công ty. - Xin hãy bố thí, sayidi, xin hãy bố thí. Hãy cho người chưa được ăn từ ba ngày hôm nay. Ông chỉ thoáng trông thấy người đàn ông quỳ gối lối vào rất gần cửa, có vẻ như ngủ gà gật trong ánh nắng mặt trời, dấu hiệu chung trong mọi thành phố Trung Đông. Giờ đây người đàn ông ở bên cạnh ông, người Bedouin trong bộ quần áo dài rách nát, tay chìa ra. Người lái xe của ông vòng qua xe Rolls-Royce để đuổi người ãn mày với tràng nguyền rủa. Ahmed Al-Khalifa chặn tay ta lại. Ông là tín đồ Hồi giáo luôn làm theo những lời dạy của Kinh Koran, là người nên hào phóng giúp đở người khác trong chừng mực mình có thể. - Hãy đỗ xe , ông ra lệnh. Từ túi bên của chiêc áo dài. ông rút ra cái ví và rút ra tờ 10 dinar. Người Bedouin cầm lấy đồng tiền bằng cả hai tay, cử chi cho thấy món quà của người hảo tâm nặng đến nỗi phải cả hai tay mới đở nối. - Shukran, sayidi, shukran. Rồi đổi giọng người đàn ông thêm- khi nào ông vào văn phòng, xin hãy gọi tôi vào Tôi có tin tức từ con trai ông ớ miền nam đâỵ. Người lái buôn ngỡ mình nghe nhầm. Người đàn ông lại ngồi hệt xuống vỉa hè, đút vào túi đồng tiền. Al-Khalifa vào trong toà nhà văn phòng, gật đầu chào người tiếp đón, và lên văn phòng của mình ở tầng cao nhất như là trong cơn mơ. Khi ông ngồi vào bàn, ông nghĩ lúc, rồi ấn nút điện thoại nội bộ. - Có người thổ dân Bedouin vĩa hè ở ngoài phố. Tôi muốn chuyện với ta. Hãy mang ta lên đâỵ. Nếu thư ký của ông nghĩ ông chủ mình phát điên. cũng biểu lộ dấu hiệu nào. Chỉ nhăn mũi lại. khi thấy người Bedouin vào khí mát lạnh của văn phòng 5 phút sau đó, cho thấy ngửi thấy cái mùi người ta, người khách mấy đáng ưa của ông chủ. Khi ta ra, ông thương gia chỉ cái ghế. - gặp con trai tôi à? ông hỏi ngắn gọn. Ông nghĩ chắc người đàn ông này muốn xin xỏ món tiền lớn hơn . - Phải. ông Al-Khalifa ạ. Tôi gặp ta hai ngàỵ trước đây ớ Khafji. Trál tim của người Kuwait nảy lên. hai tuần nay ông có tin tức gì hết cả. Ông chỉ lờ mờ biết đứa con trai độc nhất của óng cất cánh buổi sáng hôm đó từ căn cứ quân Ahmadi, và sau đó - gì cả. hề có liên lạc nào của . Chẳng nhẽ có nhiều biến động như thế ư? Trong cái ngày 2 tháng Tám đó? - có thông điệp từ nó chứ? - Có, sayidi. Al-Khalifa chìa tay ra. - Thế hãy đưa cho tôi. Tôi trả công hậu. - Nó ở trong đầu tôi. Tôi thể mang theo giấy trong người: nên tôi học thuộc nó. - Tốt lắm. Thế hãy cho tôi biết nó gì nào. Mike Martin đọc bức thư mặt giấy mà người phi công lái chiếc Skyhawk viết, từng từ . - Bố thân mến của con. mặc dù vẻ bên ngoài của mình. người đàn ông đứng trước mặt bố là sĩ quan người ... Al-Khahfa nhảy dựng lên ghế và nhìn chằm chằm vào Martin. khó tin vào mắt hay tai mình. .. ấy vào Kuwait bằng cách cải trang. Bây giờ bố biết điều đó, bố nắm cuộc sống của ấy trong tay rồi. Con xin bố tin tưởng ta, như ta phải tin tưởng bố, vì ta cần đến giúp đỡ của bố. Con an toàn và rất tốt và đóng ở căn cứ quân Xêut ở Dhahran. Con bay phi vụ chống quân Iraq, phá hoại xe tăng của chúng và xe tải. Con bay với lực Hoàng gia Xêut cho đến ngày đất nước chúng ta được giải phóng. Hàng ngày con đều cầu nguyện Thánh Allah rằng những giờ khắc trôi qua nhanh cho đến khi con có thể trở về và ôm hôn bố. Con trai thân thiết của bố. Khaled Martin dừng lại. Ahmed Al-Khalifa nhổm lên, bộ đến cửa sổ, và nhìn chằm chăm ra ngoài. Ông đứng đó lúc lâu, hít thở sâu. Khi ông xong. ông quay lại ghế của mình. - Cám ơn . cám ơn . Bây giờ muốn gì? - Cuộc chiếm đóng Kuwait chỉ kéo dài vài giờ đồng hồ hay vài ngày. mất hàng tháng. trừ khi Saddam Hussein có thể bị thuyết phục rút quân. - Người Mỹ đến nhanh được à? - Người Mỹ người và người Pháp và những nước còn lại trong Liên quân cần có thời gian để xây dựng lực lượng. Saddam có quân đội đứng thứ tư thế giới, hơn triệu người. con số kinh khủng. Lực lượng chiếm đóng này thể bị nhóm lính tráng đánh bại đâu. - Rất tốt. Tôi hiểu. - Cùng lúc, quân lính và vũ khí được sử dụng ở Kuwait thể đến biên giới được. về kháng chiến, kháng chiến có vũ trang. phản công, Al-Khalifa . số chàng trai hoang dã cố gắng. Họ bắn vào các đội quân Iraq. Họ bị bắn hạ như chó ấy. - Đúng, tôi cũng cho là như thế. Họ rất gan dạ nhưng ngờ nghệch quá. Có nhiều cách để giải quyết vấn đề chứ. Vấn đề phải là giết hàng trăm người, hay là bị giết. Vấn đề là làm cho quân đội chiếm đóng của Iraq trớ nên thường xuyên lo sợ, cần phải có hộ tống mọi sĩ quan mỗi khi đâu đó, bao giờ có thể ngủ yên được. - Xem nào, ông bạn người . tôi biết hay đấy, nhưng tôi ngờ là người quen với những cái đó và được huấn luyện cho những cái đó. Còn tôi . Người Iraq tàn bạo và man dã. Chúng tôi biết họ quá mà. Nếu chúng tôi làm điều , có những cuộc trả đũa. - Cũng giống như hiếp đáp vậy, ông Al-Khalifa ạ. - Hiếp? Khi người đàn bà bị hiếp, ta có thể chống cự lại hoặc thúc thủ. Nếu ta ngoan ngoãn, ta bị xâm phạm, có thể là còn bị đánh, thậm chí là bị giết. Nếu ta chống lại, ta bị hiếp, chắc chắn bị đánh, có thể bị giết. - Kuwait là người phụ nữ, còn Iraq là tên hiếp dâm. Tôi biết rồi nhé. Thế tại sao lại phải đánh lại nào? - Bởi vì còn có tương lai nữa chứ. Trong tương lai Kuwait nhìn vào tấm gương. Trong gương con trai ông nhìn thấy khuôn mặt của quân nhân. Ahmed Al-Khalifa nhìn chằm chằm khuôn mặt tối đen, cái người đầy râu trong lúc lâu, rồi ông : - Bố của nó cũng vậy. Hãy để Thánh Allah thương xót dân tộc chúng tôi. Ông muốn gì nào? Tiền à? - Cám ơn ông, . Tôi có tiền. Thực thế có 10.000 dinar Kuwait, được rút ra từ ông đại sứ ở London, người rút nó từ Ngân hàng Kuwait, ở góc đường Baker và George. - Tôi cần nhiều nhà để ở lại. Sáu cái. - vấn đề gì cả. có đến hàng nghìn căn hộ bị bỏ lại - phải căn hộ. Những biệt thự biệt lập. có hàng xóm. ai khám xét người đàn ông nghèo khổ vào ở nhờ trong biệt thự bỏ . - Tôi tìm cho . - Còn giấy tờ nữa. Những giấy tờ của Kuwait. Tổng cộng ba cái. Cái thứ nhất mang tên bác sĩ người Kuwait, cái thứ hai kế toán viên người Ấn Độ, và cái thứ ba cho người làm vườn đến thành phố để bán hàng. - Được thôi. Tôi có bạn bè ở Bộ Nội vụ. Tôi nghĩ họ vẫn còn kiểm soát dấu má để làm thẻ căn cước. Thế còn ảnh đó sao? - Đối với người làm vườn, hãy tìm người đàn ông già ngoài phố. Trả tiền cho ông ta. Với bác sĩ và kế toán viên. hãy chọn những người trong số nhân viên của ông trông hơi giống tôi nhưng cạo râu. Những bức hình này phải là cũ vào. Cuối cùng là xe. Ba cái. xe có thùng màu trắng, xe jeep bốn bánh, và cái xe tái kéo moóc. Tất cả ở trong các gara có kiểm soát, với biển số mới. - Rất tốt. làm ngay thôi. Những tấm thẻ căn cước và chìa khoá xe: gara và nhà - đến lấy chúng vào lúc nào? - Ông có biết nghĩa trang cho người Công giáo ? Al-Khalifa nhăn trán. - Tôi nghe đến nó. Tôi chưa từng bao giờ đến đó. Tại sao lại ở đó? - Nó nằm đường Jahra ở Sulaibikhat, gần nghĩa trang Hồi giáo chính. cái cửa rất tối với chữ đề: Cho người Công giáo. Phần lớn những tấm bia mộ là cho người Liban và Syria, với số người Philippin và người Trung Quốc ở góc tận cùng bên phải là mộ của lái buôn, tên là Shepton. Tấm bia rất to. Dưới đó tôi đào cái lỗ. Hãy để chúng lại ở đó. Nêu ông có thông tin cho tôi, hãy cùng làm như thế. Hãy kiểm tra ngôi mộ tuần lần để tìm tin nhắn của tôi. Al-Khalifa gật đâu to vẻ đồng ý. - Tôi quên đâu. Mike Martin biến mất vào dòng người qua những đường phố chật hẹp và những ngõ của quận Bneid-al-Qar. Năm ngày sau, dưới tấm bia mộ của Able Seaman Shepton tìm thấy ba tấm thẻ căn cước, ba bộ chìa khoá gara với địa điểm, ba bộ chìa khoá ôtô, và sáu bộ chìa khoá nhà với địa chỉ gắn nó. Hai ngày sau đó, chiếc xe tải Iraq quay trớ vào thành phố từ vùng mỏ dầu Umm Gudayr bị nổ tung thành từng mảnh bởi cái gì mà nó vừa cán lên. Chip Barber, chỉ huy Ban Trung Đông của CIA. ở Tel Aviv từ hai ngày nay khi điện thoại văn phòng ở sứ quán Mỹ reo. Chỉ huy trạm CIA ớ đầu dây. - Chip, tốt rồi. Ông ta về thành phố. Tôi hẹn cuộc gặp vào lúc bốn giờ, đủ thời gian cho bay chuyến cuối khỏi Ben-Gurion đến Stateside. có người đón chúng ta ở văn phòng. Chỉ huy trạm gọi từ bên ngoài sứ quán, nên ta chỉ những điều chung chung đề phòng trường hợp điện thoại bị nghe trộm. Nó bị nghe trộm, tất nhiên, bởi người Israel: họ biêt thừa. "Ông ta" ở đây là tướng Yaacov "Kobi" Dror. chỉ huy Mossad; văn phòng là sứ quán, và những người đến đón ở đây là hai người trong số nhân viên của Dror. Họ đến trong cái xe vẻ ngoài bình thường vào lúc 3 giờ 10. Barber nghĩ 50 phút là quá đủ để ra khỏi sứ quán để đến đại bản doanh của Mossad, toà nhà văn phòng cao ngất ngưởng tên là Hadar Dafna ở đại lộ vua Saul. Nhưng đó phải là nơi cuộc họp diễn ra. Chiếc xe tăng tốc về phía bắc ra khỏi ngoài thành phố, ngang qua sân bay quân Sde Dov, cho đến khi nó đón vào đường cao tốc ven biển để Haifa. Ngay bên ngoài Herzlia có địa điểm giống căn hộ và khách sạn có tên đơn giản là Câu lạc bộ Đồng quê. Đó là địa điểm nơi số người Israel nhưng chủ yếu là Do Thái có tuổi từ nước ngoài đến để nghỉ ngơi, tận hưởng những thiết bị sức khoẻ và giải trí nhiều vô số. Những con người sung sướng đó hiếm khi nhìn lên ngọn đồi ngay khu nghỉ mát. Nếu họ nhìn lên, họ có thể nhìn thấy, nghiêng nghiêng đỉnh, toà nhà khá là tuyệt diệu nhìn xuống khu nhà nghỉ, vùng đồng quê xung quanh và biển. Nếu họ hỏi đó là cái gì, họ có thể được biết đó là nhà nghỉ mùa hè của thủ tướng. Thủ tướng Israel thực tế được phép đến nơi đó, với rất ít người, vì đó là trường huấn luyện của Mossad, được biết đến trong nội bộ Mossad là Midrasha. Yaacov Dror đón tiếp hai người Mỹ ở văn phòng tầng cùng, căn phòng sáng sủa, rộng rãi có điều hoà nhiệt độ bật nấc cao. người đàn ông thấp đậm, mặc áo quần Israel, cổ áo phông mở trễ và hút thuốc đều đặn 60 điếu ngày. Barber rất thích vì đây có điều hoà. Giám đốc tình báo Israel đứng lên từ bàn của mình và quay ra. - Chip, bạn của tôi, giờ ra sao? Ông ta ôm chầm lấy người Mỹ cao lòng khòng. sung sướng cho ông ta được đối xử như diễn viên người Do Thái và chơi trò bạn bè. Mọi cái chỉ là diễn kịch. Trong những phi vụ trước với tư cách chỉ huy tối cao, hay katsa, ông từng chứng tỏ là mình rất thông minh và đặc biệt nguy hiểm. Chip Barber chào lại ông ta. Những nụ cười thường trực, cũng như trí nhớ vẫn rất . Vừa mới đây toà án Mỹ vừa mới kết án Jonathan Pollard của Tình báo Hải quân án tù rất dài vì làm gián điệp cho lsrael, chiến dịch chắc chắn là để chống lại nước Mỹ của tướng Kobi Dror. Sau mười phút họ đến vấn đề chính yếu: lraq. - Hãy để tôi cho . Chip ạ, tôi nghĩ chơi rất chính xác đấy, Dror , đưa người khách tách cà phê nữa có thể khiến ta mất ngủ vài ngày. Ông dụi điếu thuốc thứ ba vào cái gạt tàn thuỷ tinh. Barber thử thở nữa nhưng phải bỏ ý định đó. - "Nếu chúng ta phải vào đó", ông . "nếu ta chịu rút khỏi Kuwait và chúng ta phải vào, chúng ta bắt đầu bằng quân." - Tất nhiên rồi. - Và chúng ta phải đối đầu với những vũ khí nguy hiểm. Đó cũng là quyền lợi của các ông đấy, Kobi ạ. Chúng ta cần hợp tác. - Chip, chúng ta xem xét WMD hàng năm nay rồi. Mẹ nó chứ, chúng tôi cảnh báo rồi mà. Các có thể nghĩ mọi thứ khí độc, những thứ vi trùng và bom khí, được dành cho ai nào Chúng tôi đấy. Chúng tôi cảnh báo và cảnh báo, và ai thèm để tâm đến hết cả. Chín năm trước chúng tôi san bằng những lò hạt nhân ở Osirak, buộc lùi lại mất mười năm sản xuất. Thế mà cả thế giới kết tội chúng tôi. Nước Mỹ cũng thế. - Đó chẳng qua chỉ là hình thức thôi. Chúng tôi biết chứ. - Tốt thôi, Chip. thế bây giờ người Mỹ phải ở chiến tuyến. đó phải là "hình thức" đâu nhỉ. Những người Mỹ phải chết. - Kobi. cái trò doạ nạt của ông lại bắt đầu rồi đấy. - Chó thế. Xem nào, chúng tôi có thể san bằng mọi loại nhà máy, và những phòng thí nghiệm và cái trò nghiên cứu bom nguyên tử của . Với chúng tôi chẳng làm sao hết cả. Thế rồi chúng tôi bị gạt ra ngoài vì chú Sam có đồng minh người A rập rồi đấy thôi. Thế ai kêu ca nào? phải là Israel rồi. Chúng tôi đưa các ông mọi thứ về các kế hoạch vũ khí bí mật của . Mọi thứ chúng tôi có. hề giữ lại cái gì hết. - Chúng tôi cần nhiều hơn thế nữa. Kobi ạ. Đồng ý, có thể là chúng tôi lơ là lraq chút trong những năm vừa qua. Chúng tôi có cuộc chiến tranh lạnh để mà giải quyết. Giờ đây đó là Iraq, và chúng tôi có ít thứ. Chúng tôi cần thông tin – phải những thứ rác rưới, mà là thực, trả giá cao. Vì thế tôi hỏi thẳng ông nhé: ông có của chìm nào làm việc cho ông ? quan chức của chế độ lraq ấy? Chúng tôi có những câu hỏi. và chúng tôi cần câu trả lời. Và chúng tôi trả tiền - chúng ta đều biết luật chơi cả mà. thoáng im lặng. Kobi Dror quan sát đầu điếu thuốc lá của mình. Hai sĩ quan cao cấp nhìn vào cái bàn trước mặt mình. - Chip này, Dror chậm rãi . Tôi cho câu trả lời của tôi. Nếu chúng tôi điều hành bất kỳ điệp viên nào bên trong các hội đồng của Baghdad: tôi với . Tôi hết. Hãy tin tôi, tôi giấu đâu. Sau đó tướng Dror giải thích cho vị thủ tướng của mình. người rất hay nổi giận, Itzhak Shamir. rằng vào lúc ông ông dối. Nhưng ông đến Jericho.
CHƯƠNG 6 Mike Martin nhìn thấy đứa trẻ trước, nếu cậu bé Kuwait chết ngày hôm đó. lái chiếc xe tải kéo moóc cũ kĩ, xấu xí của mình, chở đầy dưa hấu mà mua tại trong những trang trại nằm ngoài rìa Jahra, khi nhìn thấy cái đầu nổi lên quấn vải trắng nhấp nhô bên lề đường. cũng bắt được cái nòng khẩu súng trường cậu bé ôm trước ngực trước khi nó biến mất sau đám cây. Cái xe tải rất hợp với mục đích này. cầu nó bởi vì cho rằng, mà cũng đúng, rằng sớm hay muộn - có thể là sớm - lính Iraq bắt đầu tịch thu những cái xe ngon mắt để sử dụng. nhìn thoáng gương chiếu hậu, và lái ra khỏi đường Jahra. ngay sau là chiếc xe tải đầy lính của Quân đội Nhân dân. Cậu bé Kuwait nhắm theo tốc độ của chiếc xe trong hướng súng của mình khi bàn tay bịt ngang mồm nó và bàn tay khác tước súng của nó. - Tôi nghĩ em thực muốn chết vào hôm nay, có phải nào? giọng thầm vào tai nó. Chiếc xe lăn bánh qua. và vào lúc lướt qua và biến mất. Cậu bé sợ đủ bởi những hành động của chính mình; giờ nó kinh hãi. Khi chiếc xe tải biến mất, vòng tay quanh mặt và đầu nó giảm xuống. Nó cựa mình thoát ra và nhảy lùi về phía sau. Đứng sừng sững trước mặt nó là người Bedouin cao lớn, rậm râu, khó nhìn mặt. - Ông là ai, nó thầm. - Ai đó biết hơn cách giết thằng Iraq khi chúng có 20 đứa khác cùng xe. Em để xe ở đâu rồi? - Ngay kia thôi, cậu bé , nó vào chừng 20 tuổi, nuôi bộ râu đầu tiên của mình. Đó là chiếc xe máy, được dựng cách đó 20 yard gần những cái cây. Người Bedouin nháy mắt. hạ khẩu súng trường xuống, khẩu Lee Enfield 303 cũ mà cậu bé chắc là thó từ cửa hàng đồ cổ và dẫn cậu bé đến cái ôtô. lái ra xa khỏi đám đá chút; khẩu súng trường được giấu dưới những quả dưa hấu. Rồi nổ máy chiếc xe máy, dắt nó lên đống hoa quả. Nhiều quả dưa hấu bị vỡ. - Lên , . lái đến địa điểm yên ắng gần cảng Shuwaikh và dừng xe - Thế chính xác cậu nghĩ cậu làm gì? người Bedouin hỏi. Cậu bé nhìn chằm chằm qua tấm chắn gió. Đôi mắt cậu ươn ướt, và môi rung lên nhè . - Chúng hiếp chị tôi. y tá - Ở bệnh viện Al Adan. Bốn thằng trong xe. Chị ấy bị giết rồi. Người Bedouin gât đẩu. - Có nhiều chuyện như thế , . Thế là cậu muốn giết bọn Iraq à? - Phải, càng nhiều càng tốt. Trước khi tôi chết. - Vấn đề là chết ấy chứ. Nếu mà đó là điều cậu muốn, tôi nghĩ tốt hơn là tôi huấn luyện cậu. Cậu bé ngơ ngác. - Người Bedouin đánh nhau cơ mà. - Đă nghe thấy Quân lê dương Arập chưa? Đứa trẻ im lặng. Và trước đó, hoàng thân Faisal và cuộc nổi dậy của người Arập? Đều Bedouin cả đấy. Có ai nữa cũng giống như cậu " Cậu bé hoá ra là sinh viên luật, học ở Đại học Tổng hợp Kuwait trước cuộc xâm lược. - Có năm người trong số chúng tôi. Tất cả chúng tôi đều muốn. Tôi thử đầu tiên. Hãy ghi nhớ địa chỉ này, người Bedouin . đưa nó ra - biệt thự ở phố vắng vẻ ở Yarmuk. Cậu bé đọc hai lần sai, rồi đọc đúng được. Martin bắt nó nhắc lại 20 lần. - 7 giờ tối nhé. tối lắm đấy. Nhưng thế mới an toàn. Hãy đến từng người . Đỗ xe cách đó ít nhất 200 yard và bộ vào. Hăy vào cách nhau 2 phút . Cửa ngõ và cửa nhà mở. nhìn cậu bé lái xe xa chiếc xe máy của mình và nháy mắt. Chất liệu khá là thô đây, nghĩ, nhưng lúc này đó là tất cả nhưng gì ta có thể có được. Những người trẻ tuổi đến rất đúng giờ. dựa lưng vào tường căn hộ bên kia đường và nhìn ngắm họ. Họ bồn chồn và chắc chắn, nhìn qua vai họ, dõi vào đường cổng, rồi lại ra ngoài. Giống phim của Bogart. Khi tất cả vào trong, cho họ thêm 10 phút nữa. nhân viên an ninh Iraq nào xuất . trượt xuống từ mái nhà, ngang qua đường, và vào nhà từ cửa sau. Họ ngồi trong căn phòng chính với những ngọn đèn bật và rèm buông xuống. Bốn chàng trai trẻ và . da ngăm đen và có vẻ căng thẳng. Họ nhìn về phía trước về cánh cửa dẫn ra sảnh khi vào từ bếp. phút còn chưa ở đó, đến phút sau ớ đó. Những người trẻ tuổi nhìn thoáng vào trước khi đến và tắt đèn . - Hãy kéo rèm lại, bình tĩnh . làm. Công việc phụ nữ mà. Rồi bật đèn lại. - bao giờ được ngồi trong căn phòng sáng đèn mà rèm còn mở- -Các cậu muốn bị nhìn thấy cả đám chứ. chia sáu ngôi nhà của mình ra làm hai nhóm. sống trong bốn cái: chuyển từ hết nhà này sang nhà khác theo quy luật nào cả. Mỗi lần, để lại những dấu hiệu cho mình - mẩu giấy ở bệ cửa, cái lon thiếc ở lối lên. Nếu chúng biến mất, có thể biết được là ngôi nhà bị viếng thăm. Trong hai căn nhà còn lại trữ nửa số vũ khí mang theo từ cái hố trong sa mạc-. Địa điểm chọn để gặp các sinh viên là nơi ít quan trọng nhất trong số những chỗ ở của , và giờ đây có thể ai thấy đến đây ngủ nữa. Họ đều là sinh viên, trừ người làm việc trong ngân hàng. để họ tự giới thiệu. - Bây giờ các bạn cần có tên mới. cho mỗi người trong số họ cái tên mới. Các bạn đừng cho ai khác nhé - cả bạn bè, bố mẹ, em, ai hết - những cái tên này. - Thế chúng tôi gọi là gì? hỏi, người mới trở thành Rana xong. - Bedou nhé, . bạn - nhắc lại địa chỉ xem nào? Chàng trai trẻ mà chỉ chìa ra mảnh giấy. Martin cầm lấy nó từ tay cậu ta. - được dùng mẩu giấy nào hết- Ghi nhớ tất cả. Quân đội Nhân dân có thể là ngu ngốc nhưng Cảnh sát mật đâu. Nếu các bạn bị tóm, các bạn giải thích thế nào? bảo người viết địa chỉ ra đốt những mẩu giấy của mình . - Các bạn biết thành phố của mình như thế nào? - Khá . Người nhiều tuổi nhất trong số họ đáp, ta vào khoảng 25 tuổi. - Chưa tốt đủ đâu. Mai phải mua bản đồ, bản đồ đường phố. Hãy nghiên cứu như là thi kỳ thi tốt nghiệp ấy. Hãy học thuộc mọi phố mọi ngõ, mọi quảng trường và vườn tược, mọi đại lộ và ngõ ngách, mọi ngôi nhà công cộng chính, mọi nhà thờ và nhà tu. Các bạn có biết dấu hiệu đường phố? Họ gật đầu. Trong 15 ngày của cuộc tấn công, sau khi hồi lại được từ cú sốc: người Kuwait bắt đầu dạng của kháng chiến thụ động, của bất tuân lệnh dân . Đó là tự phát và có phối hợp với nhau. trong những phong trào là hạ những biển đường. Kuwait là thành phố phức tạp: có biển chỉ đường, nó trở thành mê cung các đội lính lraq rất hay lạc đường. Đối với cảnh sát mật, tìm kiếm địa chỉ khả nghi là cả cơn ác mộng. Đêm đầu tiên đó, Martin giảng cho họ những vấn đề cơ bản trong hai giờ. Luôn có câu chuyện dự phòng làm vỏ bọc để đưa ra, cho mọi chuyến và cuộc hẹn. bao giờ mang những giấy tờ làm lộ mình. Luôn lừa lính lraq với nhã nhặn vâng lời. tin tưởng vào ai hết cả. - Từ giờ trở trong các bạn có hai con người. là chính bạn, người mà bạn biết rất , là sinh viên. là công chức. Con người đó rất lịch , chu đáo, tuân thủ pháp luật, vô tội vô hại. Người Iraq để ta thoải mái bởi vì ta đe doạ gì chúng. ta bao giờ chửi rủa đất nước của chúng, cờ của chúng, hay lãnh đạo của chúng. ta bao giờ rơi vào chú ý của AMAM. ta sống sót được và tự do. Chỉ vào trường hợp đặc biệt, trong điệp vụ, con người khác kia mới xuất . ta có kỹ năng và nguy hiểm và luôn sống. dạy họ về an toàn. Để đến cuộc họp ở cuộc hẹn, phải sớm, đỗ xe lại từ xa. trong bóng tối. Nhìn ngó 20 phút. Nhìn vào những ngôi nhà xung quanh, tìm kiếm những cái đầu thập thò, những kẻ đón lõng. Cẩn trọng với lính tráng, mẩu thuốc lá, tiếng kim loại đập vào nhau. Rồi họ còn có thời gian để về nhà trước khi thiết quân luật, cho họ . Họ thất vọng. - Thế còn bọn xâm chiếm? Bao giờ chúng tôi mới được bắt đầu giết họ - Khi nào các bạn biết được. - Chúng tôi thể làm được việc gì sao? - Khi người Iraq lại. chúng sẻ làm gì? Chúng bộ chắc? - , chúng sử dụng xe tải, xe van, Jeeps, những xe ăn cắp được, cậu học sinh luật . - Chúng phải chạy bằng xăng, Bedou . Cho đường vào - 20 viên đường thùng xăng. Nó hoà tan vào trong xăng, chuyển lên cácburator. và biến thành caramel trong bộ máy. Nó phá huỷ máy móc. Hãy cẩn thận để bị tóm. Hãy làm việc thành nhóm và khi trời tối ấy. người quan sát. người kia thả đường vào. Hãy mở nắp bình xăng. Mất 10 giây đấy. mẩu gỗ, 4 inch, với 4 móc sắt. Thả chúng xuống dưới thob của các bạn, để nó tuột xuống chân các bạn. Dùng dầu ngón chân cắm nó vào bánh xe. Có chuột cống ở Kuwait, do đó có nhiều cửa hàng bán thuốc diệt chuột. Hãy mua loại màu trắng, mùi. Mua bánh từ hiệu bánh. Trộn lẫn thuốc độc, sử dụng găng tay, rồi huỷ găng . Hơ bánh lên bếp. nhưng chỉ khi nào các bạn ớ nhà mình thôi nhé. Các sinh viên há hốc mồm lắng nghe. - Chúng tôi phải đưa nó cho bọn Iraq à? - , các bạn hãy chở bánh trong giỏ trần để xe máy, hay xe tải hay ôtô. Chúng chặn các bạn lại ở các trạm và cướp lấy chúng. Chúng ta gặp lại tại đây trong 6 ngày nữa. Bốn ngày sau, các xe tải Iraq bắt đầu hỏng. số được sửa lại còn số khác bị vứt bỏ, 6 xe tải và 4 xe jeep. Các thợ máy kiểm tra nhưng thể phát tại sao, khi nào hay tại ai. Lốp xe bắt đầu nổ và các quảng trường được chỉ cho Cảnh sát mật, những người vây bắt và bắt giữ hú hoạ người Kuwait gặp đường. Các trạm xá bắt đầu đông đặc lính ốm, tất cả đều nôn mửa và đau dạ dày. Vì họ hiếm khi được phát lương thực và sống lay lắt ở các chốt chặn xe và trong những lán trại bằng đá đường, giả thiết cho rằng họ uống phải nước nhiễm bẩn. Rồi ở bệnh viện Amiri ở Dasman, kỹ thuật viên phòng thí nghiệm người Kuwait phân tích mẫu nôn mửa từ trong số những người Iraq đó. ta lại gần trưởng khoa của mình rất lúng túng. - Chúng ăn phải thuốc diệt chuột rồi, giáo sư ạ. Nhưng chỉ ăn bánh trong suốt 3 ngày, và số hoa qủa. Giáo sư bối rối. - Bánh mỳ của quân đội Iraq à? - , chúng được chuyển đến trong vài ngày. ta lấy nó từ thằng bé bán bánh người Kuwait qua. - Các mẩu của để đâu rồi? - ghế băng, trong phòng thí nghiệm. Tôi nghĩ tốt hơn hết là đến gặp ông trước . - Tốt đấy. làm tốt- Hãy huỷ chúng . thấy cái gì, có hiểu ? Giáo sư lui lại vào văn phòng của mình và ôm lấy đầu. Thuốc chuột. biết tay quái quỷ nào nghĩ ra trò đó vậy? Nhóm thanh niên trong sa mạc yên lặng nằm ngắm nhìn bình minh ghi dấu ấn lên khắp các đụn cát. Khi đến nhà Bedou tối hôm trước họ biết mình phải ở sa mạc cả đêm. Họ nghĩ có bài giảng khác. Họ mặc quần áo ấm: và đêm sa mạc lạnh thấu xương, ngay cả vào cuối tháng Tám. Họ co ro và tự hỏi bằng cách nào họ có thể giải thích vắng mặt của mình cho những ông bố bà mẹ khó tính của mình. Dính thiết quân luật? Rồi tại sao gọi diện? Vô tổ chức... có thể là như thế đấy. Ba trong số năm người tự hỏi liệu họ lựa chọn đúng , nhưng dù sao quá muộn để quay trở về rồi. Bedou chỉ với họ đến lúc họ phải học hành động và dắt họ ra khỏi nhà đến chiếc xe bốn bánh cũ kỹ đỗ cách đó hai phố. Họ ở bên ngoài thành phố trước giờ thiết quân luật. Từ khi vào sa mạc. họ nhìn thấy ai hết cả. Họ lái xe về phía nam trong 20 dặm ngang qua cát cho đến khi họ cắt con đường hẹp mà họ ngờ là chạy từ vùng dầu Manageesh sang phía Tây đến Outer đường môto trong phía Đông. Tất cả các vùng dầu, họ biết, đều được người lraq gác và những đường lộ chính đều có quân canh. Ở vài nơi phía Nam họ, 16 sư đoàn Quân đội và Vệ binh Cộng hoà xâm nhập, để đề phòng A rập Xêut và làn sóng dâng lên của người Mỹ tràn vào. Họ cảm thấy bồn chồn. Ba người trong nhóm nằm cát gần Bedou: nhìn con đường trong ánh sáng lên. Nó khá là hẹp. Xe cộ phải rất khó khăn mới lại gần được . Từng cái . Nằm giữa đường là tấm ván cắm đinh tua tủa. Bedou lấy nó từ xe tải của mình và đặt nó ở đấy, phủ lên nó cái chăn làm từ những cái túi Hessian cũ kỹ. phủ cát lên cái chăn để biến nó giống với đống cát trong sa mạc bị gió vun lên. Hai người khác, nhân viên nhà băng và sinh viên luật, nhấp nhổm. Mỗi người dựa vào đụn cát trăm yard phía và nhìn xuống đường để tìm kiếm xe cộ. Họ được lệnh nếu có xe tải lraq lớn hoặc thành đoàn phải vẫy tay theo cách thức nhất định. Quá 6 giờ, sinh viên luật vẫy tay. Dấu hiệu của cậu ta có nghĩa: "Quá nhiều". Bedou kéo cái dây lại. Đống cát lùi lại khỏi con đường. 30 giây sau, hai xe tải đầy nhóc lính Iraq đến. Bedou chạy ra đường và chuyển chỗ cái tấm, các túi, và cát. Nhiều phút sau, nhân viên nhà băng vẫy tay. Đó là dấu hiệu đúng. Từ hướng của con đường xe chở đồ bò xuống con đường dẫn đến vùng đất dầu. Người lái xe bao giờ nghĩ là cần cẩn thận tránh đống cát. Lốp trước chạm vào đó. Thế là đủ. Lốp xe nổ tung, cái chăn quấn quanh lốp và xe rung lên dữ dội. Chiếc xe đứng khựng lại. chệch nửa ra khỏi đường. Bụi tung mù lên. Người lái xe nhảy ra từ phía trước và hai sĩ quan nhổm lên từ phía sau, thiếu tá và thiếu uý. Họ kêu lên với người lái xe: ta nhún vai và lắc người, chỉ vào cái lốp. Cái kích thể giúp được gì - cái xe ở vào vị trí kỳ khôi. Người Bedou thầm với các học sinh mặt tái nhợt, "ở lại đây", rồi nhổm lên và ra đường. ta có cái chăn lạc đà của người Bedouin vai phải, trùm lên tay bên phải. ta cười rạng rỡ và chào kính cẩn viên thiếu tá. - Salaam aleikhem. Sayid thiếu tá. Tôi thấy ông gặp vấn đề rồi đấy Có thể là tôi giúp được. Người của tôi chỉ ở cách đây xa đâu. Viên thiếu tá nắm lấy báng súng lục. rồi thoải mái trở lại. nhìn quanh và gật đầu. - Aleikhem salaam, Bedou. Cái của nợ này làm xe của tôi bật khỏi dường. - phải kéo nó lên thôi. sayidi. Tôi có nhiều em. Khoảng cách được rút ngắn chỉ còn 8 fít khi cánh tay người Bedou giơ lên. ta bắn theo cách của SAS, hai phát liền, ngừng lát, hai phát, ngừng... Thiếu tá bị bắn trúng tim ở khoảng cách 8 fít. cử động của khẩu AK sang phía phải bắn trúng viên thiếu uý vào ngực. làm ta ngã nhào lên tay lái xe, người làm ngồm bò ra từ dưới bánh xe. Khi người đàn ông đứng thẳng lên được, ta chỉ còn đủ thời gian để chết với cặp đạn thứ ba vào ngực. Tiếng ồn của tiếng súng có vẻ như vang vọng trong các cồn cát, nhưng sa mạc và con đường vẫn vắng teo. gọi ba người sợ sệt từ những chỗ trốn của họ. - Hãy đẩy những xác chết lại vào trong xe - tên lái xe ở dưới bánh xe, các sĩ quan ở đằng sau, với hai người đàn ông. Với đưa cho cái tuốcnơvít ngắn chỉ vào chỗ. - Đâm vàn thùng xăng ba phát. nhìn những người cảnh giới. Họ báo hiệu có gì bất ổn. cầm lấy khăn tay, quấn nó bọc xung quanh hòn đá, buộc lại, và ném vào thùng xăng. Khi ba xác chết được đưa vào trong xe, đẩy cái khăn tay nặng và nhét nó vào trong thùng dầu. - Giờ thôi. Họ chần chừ gì, chạy qua những đụn cát đến nơi họ đỗ chiếc ôtô. Chỉ có người Bedou nghĩ đến chuyện cầm thanh gổ và mang theo. Khi quay trở lại những đụn cát, phần dầu trong cái xe cháy bắt lửa và bùng lên. Cái xe chở lính biến mất trong lửa. Họ lái xe trở lại Kuwait trong im lặng sợ hãi. Hai trong số hai người ngồi với ở băng ghế , những người khác ngồi ở đằng sau. - Cậu thấy chưa? Cuối cùng Martin hỏi. Cậu có nhìn ? - Có Bedou ạ. - Thế cậu nghĩ gì? - là nhanh quá, Rana cuối cùng lên tiếng. - Tôi nghĩ đó là quãng thời gian dài quá thể, nhân viên nhà băng . - Nó rất nhanh, và rất tàn bạo, Martin . Các bạn nghĩ chúng ta ở đường bao nhiêu thời gian? - Nửa tiếng. - Sáu phút thôi. Các bạn có bị sốc ? - Có Bedou ạ. - Tốt. Chỉ bác sĩ tâm lý mới bị sốc lần đầu. Có ông tướng Mỹ, tên là Patton. nghe tên ông ta chưa? - Chưa. Bedou. - Ông ta việc của ông phải là đảm bảo lính của ông chết vì đất nước, mà là chắc chắn bọn bên kia phải chết cho đất nước của chúng. Hiểu ? Triết lý của George Patton được dịch chuẩn sang tiếng Arập, nhưng nó cũng có tác dụng. - Khi các bạn trong chiến tranh, đến điểm nào đó các bạn còn có thể trốn được, qua đó rồi các bạn có lựa chọn của mình. Bạn chết hay chết. Hãy lựa chọn bây giờ , tất cả các bạn. Các bạn có quay trở về với học tập hay là chiến dấu. Họ nghĩ ngợi trong nhiều phút. Rana là người trước tiên. - Tôi vào chiến tranh, nếu có thể chỉ cho tôi cách, Bedou ạ. Sau đó các thanh niên trẻ bắt đầu đồng ý. - Rất tốt, nhưng trước hết tôi dạy các bạn cách phá hoại, giết người, và cách tồn tại sống sót. Nhà tôi, trong khoảng thời gian hai ngày nữa. vào lúc bình minh, khi giờ thiết quân luật hết. Hãy mang theo giấy bút học, tất cả các bạn. cả nữa, nhân viên nhà băng ạ. Nếu bị chặn lại. hãy tỏ ra tự nhiên, các bạn chỉ là sinh viên học thôi mà. Đúng thế, theo nghĩa nào đó, nhưng là những môn khác lắm. Các bạn phải khỏi đây. Mỗi người hãy tìm cách ra khỏi thành phố trong những chiếc xe tải khác nhau. Họ gặp lại những con đường đông người và đến được đường môto Ring số 5. Martin chỉ cái gara nơi những chiếc xe tải có thể dừng lại và những người lái xe có thể sửa sang. Khi họ , quay lại sa mạc, lôi chiếc đài của mình lên, cách xa ba dặm vùng cháy, mở đĩa vệ tinh, và bắt đầu bằng chiếc Motorola mật mã để đến ngôi nhà được chỉ định trước ở Riỵadh. giờ sau cái xe bị cháy nổ được đội tuần tra tiếp sau tìm thấy. Các xác chết được đưa đến bệnh viện gần nhất. Al Adan. Nhà pháp y sau khi khám nghiệm dưới con mắt săm soi của đại tá của AMAM chỉ ra những lỗ đạn - những lỗ còn mới. Ông ta là người đàn ông của gia đình, với các con của mình. ông biết y tá trẻ bị hiếp. Ông rút mấu giấy từ cái xác chết thứ ba và bắt đầu cởi găng tay ra. - Tôi e rằng họ bị ngạt hơi khi xe bị cháy sau vụ đâm va, ông . Cầu thánh Allah che chở. Viên đại tá lắc đầu và bỏ . Ở cuộc gặp thứ ba với đội tình nguyện của mình: người Bedou lái xe đưa họ xa vào trong sa mạc, đến điểm nằm ở phía tây Kuwait City và phía nam Jahra nơi họ có thể được yên tĩnh. Ngồi bên bữa tiệc ngoài trời, năm người trẻ tuổi xem thầy giáo của mình lấy ra cái túi và trùm lên cái chăn lạc đà loạt những thiết bị lạ mắt. chỉ đích danh từng cái . - Ngòi nổ dẻo. Dễ vận hành, rất chắc chắn. Họ thử nhiều dạng rồi quấn cái đó lại trong tay giống như cái vòi. trong số những người thanh niên, mà bố là chủ cửa hiệu thuốc lá, mang theo như được cầu số vỏ bao thuốc lá cũ. - Cái này- Bedou - là cái bút chì ghi thời gian, kíp nổ có kèm đồng hồ. Khi quấn cái con bướm này ở đầu. dòng axit chảy ra. Axit hắt đầu cháy theo cái đường của nó từ biểu đồ. Nó như thế trong phút. Sau đó, thủy ngân trào ra và làm nổ ngòi. Nhìn này. bảo họ chú ý đặc hiệt. Cầm mẩu Semtex-H cỡ gói thuốc lá, đặt nó vào trong hộp thuốc lá và nhét vào ngòi nổ vào giữa đống đó. - Bây giờ khi các bạn quấn con bướm lại như thế này, các bạn gắn nó vào cái hộp và quấn xung quanh bằng dây cao su... thế này này... để giữ chặt. Các bạn chỉ làm thế vào lúc cuối cùng đặt cái hộp lên cát ở trung tâm vòng tròn. - Tuy nhiên, phút là đủ dài hơn là các bạn nghĩ dấy. Các bạn có thời gian đến cái xe tải, xe bungker của lraq, đặt cái hộp vào, và bỏ . Hãy bộ - đừng bao giờ chạy. người chạy ngay lập tức làm báo đông. Hãy để đủ thời gian để lại quanh góc nào dấy. Tiếp tục bộ. chạy, ngay cả sau khi bạn nghe tiếng nổ. hé mắt nhìn vào cái đồng hồ cổ tay mình. 30 giây. - Bedou này, nhân viên nhà băng . - Gì hả? - Đó phải là đấy chứ ? - Cái gì? - Quả bom vừa làm ấy. Giả phải ? 45 giây. tiến lên và nhặt nó. - Ồ đâu. Nó là đấy. Tôi chỉ muốn chỉ cho các bạn 60 giây thực ra dài đến thế nào thôi- Đừng bao giờ hoảng sợ với những điều thế này. Hoảng sợ giết chết bạn, làm cho bạn bị bắn. Chỉ cần bình tĩnh vào mọi lúc thôi. Với cái xoắn cổ tay ném cái hộp ra xa những đụn cát. Nó rơi xuống đụn và nổ tung. Tiếng nổ làm rung đám người ngồi, và cát bay cuốn lên trong gió. cao phía bắc Vịnh, máy bay AWACS Mỹ nhận ra vụ nổ qua những cảm ửng nhiệt của nó. Người lái bắt đầu chú ý người kiểm soát bay, người dán mắt vào màn hình. Nhưng tiếng nổ lắng xuống. - Mạnh ? - Đủ để làm tung chiếc xe tăng, tôi nghĩ thế, thưa ngài. - Tốt. Bỏ . có hành động nào hơn. - Có thể làm việc này vào cuối ngày. Cầm những ngòi nổ và bút đánh dấu thời gian này . người Bedou . cầm cái tuýp thuốc lá bằng nhôm. cuốn ngòi nổ trong vỏ vải, và nhét nó vào trong ống, rồi đẩy nó lùi trở lại - Các bạn cũng làm vậy với chất dẻo. cầm cái hộp được cuộn lại của thanh xà phòng, lăn 4 ounce thuốc nổ vào trong thanh, và quấn nó lại gắn nó bằng inch băng dính. - Cần có những chiếc hộp xì gà. phải loại lớn như Havans - loại cheroot thôi. Luôn giữ xì gà trong hộp, để đề phòng trường hợp các bạn bị bắt và bị khám. Ngay cả người Iraq cũng có thể muốn lấy tuýp xì gà hay cái hộp hay xà phòng cứ để cho lấy. cho họ thực hành dưới mặt trời cho đến khi họ làm cứng được "xà phòng", làm rỗng được xì gà, chuẩn bị được bom. và quấn được cái hộp trong 30 giây. - Các bạn có thể nhét nó vào sau cái xe ôto, căn phòng có người hay quán cà phê ở cửa ra vào, hay ban đêm sau cái cây, bảo họ. Trước hết hãy đặt ra các mục tiêu. Hãy chắc rằng ở đó có lính canh, để mà còn sống sót được chứ. Rồi quấn con bướm, đóng cái hộp, cho băng vào, , nhét quả bom, và xa. Từ lúc các bạn quấn con bướm, hãy đếm từ từ cho đến 50. Nếu ở giây 50 có gì xảy ra, hãy gỡ nó nếu có thể Còn bây giờ, các bạn chủ yếu phải làm trong bóng tối, đó là cách chúng ta làm bây giờ đây. bảo cả nhóm từng người đứng riêng ra, rồi xem từng người thao tác. Vào cuối buổi chiều, họ thực hành được. Sáng sớm đưa cho họ phần còn lại trong cái túi, đủ cho mỗi sinh viên làm được 6 thanh xà phòng và 8 bút chì. Con trai người bán thuốc lá đồng ý cung cấp mọi họp và ống nhôm. Họ có thể tự mua túi vải, xà phòng, và dây cao su cho chính mình. Rồi chở họ về thành phố. Qua tháng chín, đại bán doanh AMAM ở khách sạn Hilton nhận được cả đợt thác báo cáo của mức độ tấn công ngày càng gia tăng vào lính lraq và các trang thiết bị quân . Đại tá Sabaawi ngày càng trở nên điên tiết và ngày càng rối tung lên. Đó phải là điều được dự định. Người Kuwait, như ông ta được biết, là dân tộc hiền lành thể gây ra xáo động nào. Nhưng thế. thực tế có những phong trào kháng chiến tồn tại, phần lớn trong đó là tự phát và có liên lạc với nhau. Tại quận Shi'a của Rumaithiya, lính Iraq biến mất. Những người Hồi giáo của Shi'a có lý do đặc biệt để xử lý quân lraq, vì lý do tôn giáo, quân Shi'a của Iran, bị tàn sát hàng trăm nghìn người trong chiến tranh Iran-lraq. Lính lraq lang thang vào quận Rumaithiya bị cắt cổ, và xác của họ nổi lên mặt cống. được nhận dạng. Giữa những người Sunnis, kháng chiến được tập trung ở các nhà thờ Hồi giáo, nơi mà người lraq hiếm khi khám đến. Ở đó những thông tin được truyền nhau, vũ khí được che giấu. và các vụ tấn công được lên kế hoạch. Phần lớn cuộc kháng chiến có tổ chức đến từ các lãnh đạo của những người quý tộc Kuwait, những người có giáo dục và tài sản. Ông La-Khalifa trở thành chủ nhà băng, dùng tiền của mình cung cấp lương thực cho người Kuwait, và những hàng hoá khác được giấu dưới lương thực được đưa vào từ bên ngoài. Tổ chức nhắm đến sáu mục tiêu, năm trong số đó là kháng chiến thụ động, và mỗi cái lại có nhánh riêng. là thu thập tài liệu: mỗi người kháng chiến được cung cấp tài liệu hoàn hảo do những người kháng chiến trong Bộ Nội vụ cung cấp. Nhánh thứ hai là cho tình báo - giữ đường dây thông tin về hành tung của người Iraq đến chỉ đạo của Liên quân ở đại bán doanh Riyadh, nhất là về nhân lực và sức mạnh vũ khí của quân lraq: phòng thủ bờ biển: và tiềm năng tên lửa. Nhánh thứ ba chịu trách nhiệm vận hành -nước, điện, các đội cứu hoả. và y tế. Khi lraq thất bại, rời khỏi những vòi dầu và bắt đầu tàn phá biển: các kỹ sư dầu hoả Kuwait chỉ lối cho máy bay ném bom của Mỹ chính xác phải đánh vào đâu. Những Hội đồng đoàn kết cộng đồng cũng hoạt động tại mọi quận, thường là liên lạc với người châu âu và những người dân của thế giới thứ nhất thường xuyên chú ý và theo dõi cách của quân lraq. hệ thống điện thoại vệ tinh được đưa lậu từ Arập Xêut trong bình xăng của chiếc xe jeep. Nó được mã hoá giống cách của Martin, nhưng giữ nó liên tục hoạt động kháng chiến Kuwait có thể tránh theo dõi của Iraq và liên lạc được với Riyadh mọi lúc có gì đó xảy ra. trạm phát thanh cổ lỗ làm việc dưới chiếm đóng. gửi 7.000 thông điệp đến trạm khác ở Colorado, những thứ được đưa ngay đến Bộ Ngoại giao. Và có cuộc kháng chiến tấn công: chủ yếu dưới lãnh đạo của đại tá người Kuwait thoát ly Bộ quốc phòng xây dựng từ ngày đầu tiên. Bởi vì ông có con trai tên là Fouad, nên tên bí danh của ông là Abu Fouad, hay cha của Fouad. Saddam Hussein cuối cùng cũng phải từ bỏ việc thử thành lập chính phủ mới và chỉ định em mình Ali Hassan Majid trở thành thống đốc. Kháng chiến phải chỉ là trò chơi. cuộc chiến tranh nhưng hết sức bẩn thỉu được phát triển cách ngấm ngầm. AMAM trả lời bằng cách dựng lên những trung tâm tra hỏi ở trung tâm thể thao Kathma và sân vận động Qadisiỵad. Tại đó các phương pháp của giám đốc AMAM, Omar Khatib được nhập khẩu từ nhà tù Abu Ghraib bên ngoài Baghdad và sử dụng với cường độ cao. Trước ngày giải phóng. 500 người Kuwait chết, trong số đó 250 người bị hành quyết. nhiều người bị tra tấn kéo dài. Giám đốc cục phản gián Hassan Rahmani ngồi ở bàn mình trong khách sạn Hilton và đọc những bản báo cáo do nhân viên tại chỗ viết. làm chuyến viếng thăm ngắn từ những công việc Baghdad của mình ngày 15 tháng Chín. Các bản báo cáo phải được đọc kỹ. Có tăng lên đều đều những cuộc tấn công vào các điểm của người Iraq ở những con đường vắng vẻ, những lều canh, xe cộ, và các điểm dừng xe. Đó chủ yếu là vấn đề của AMAM - kháng chiến địa phương do họ quản lý và - được báo trước theo cách nhìn của Rahmani - cái trò tàn bạo Khatib tiến hành chỉ là trò dẫn đến đâu. Rahmani có ít thời gian cho tra tấn mà địch thủ của trong cấu trúc tình báo Iraq rất thích thú. thích dựa vào những điều tra tỉ mỉ hơn, suy luận, và phán đoán, ngay cả nếu phải thừa nhận rằng ở Iraq có bạo lực và phải thế mới giữ được Rais ở lại quyền lực trong suốt ba năm nay. phải chấp nhận, với tất cả nền giáo dục mình được hưởng, rằng những người khôn ngoan đường phố, nhà tâm bệnh học say mê từ những lối của Tikrit đe doạ . cố thuyết phục vị tổng thống của mình cho quyền chịu trách nhiệm về tình báo trong Kuwait. Nhưng câu trả lời luôn như đinh đóng cột là . Đó là vấn đề chủ chốt. Bộ trưởng Ngoại giao Tarig Aziz giải thích cho . , Rahmani, được giao trách nhiệm bảo vệ nhà nước khỏi do thám và phá hoại từ nước ngoài. Rais muốn nhân nhượng rằng Kuwait là nước ngoài - đó là tỉnh thứ mười chín của lraq. Do đó Omar Khatib phụ trách địa bàn này.
Nhìn đống báo cáo buổi sáng hôm nay trong khách sạn Hilton, Rahmani có cảm giác mình hoàn thành nhiệm vụ Đó là cơn ác mộng, và như dự tính trước. Saddam Hussein chơi những quân bài của mình cách sai lầm hoàn toàn. Việc bắt giữ những con tin phương Tây như lá chắn người chống lại tấn công tỏ ra thảm hoạ, hoàn toàn phản tác dụng. Ông ta để mất cơ may xuống phía nam và chiếm lấy các vùng dầu của Xêut, buộc vua Fahd phải vào bàn thương lượng. và giờ đây người Mỹ tràn lên sân khấu. Mọi cố gắng để quản Kuwait thất bại, và trong vòng tháng, có thể còn ít hơn, A rập Xêut có thể cùng với lá chắn người Mỹ của mình tiến lên biên giới phía bắc. Saddam Hussein, tin vậy, vẫn có thể rút khỏi Kuwait mà nhục nhã tẹo nào, ở lại đây để tấn công hơn nữa. Nhưng Rais vẫn rất tự tin, như là ông ta tin có thể điều gì đó biến chuyển được. Ông ta chờ đợi cái quái gì? Rahmani tự hỏi. Thánh Allah từ thiên đường xuống hạ giới và nghiền nát kẻ thù trước mặt ông ta chăng ? Rahmani nhổm dậy từ bàn của mình và ra cửa sổ. thích lại khi nghĩ ngợi, nó làm đầu óc đở căng. nhìn xuống từ cửa sổ. Có cái gì đó trong những báo cáo bàn làm xáo trộn. quay trở lại và nhìn vào chúng thêm nữa. Phải. có cái gì đó trục trặc. vài vụ tấn công vào quân Iraq có súng ngắn và súng trường; những cái khác với bom tự tạo với thuốc nổ TNT. Nhưng ở đây có những cái khác, ràng có sử dụng ngòi nổ dẻo. Kuwait chưa từng bao giờ có thứ đó, ít nhất là hề có Semtex-H. Tại sao lại có chúng ở đây, bằng con đường nào? Rồi lại còn những báo cáo về máy phát mã hoá ở đâu đó trong sa mạc luôn di động, chuyển trung vào những thời gian khác nhau, phát khoảng mươi mười lăm phút rồi lại im lặng, và luôn luôn với tần số khác. Rồi lại còn những bản báo cáo về người Bedou lạ thường có vẻ như dạo chơi khắp nơi, xuất , rồi biến mất. và lại xuất , và luôn là dấu hiệu phá hoại ở đâu ta qua. Trước khi họ chết vì bị thương, hai người lính bị thương nặng báo cáo nhìn thấy người đàn ông đó, cao lớn và tự tin trong cái keffiyeh đỏ trắng, cái khăn che ngang qua mặt. Hai người Kuwait bị tra tấn khai ra huyền thoại về người Bedou vô hình nhưng họ chưa bao giờ gặp ông ta hết cả Những người của Sabaawi cố công thuyết phục những người tù với nhiều đau đớn hơn để chấp nhận là họ gặp. Ngu thế cơ chứ, bọn họ thừa sức bịa ra mọi thứ để khỏi bị đánh tiếp. Hassan Rahmani càng nghĩ về điều đó, càng bị thuyết phục rằng phải đối mặt với đường dây nước ngoài, hẳn là phần trong trách nhiệm của . thấy là khó để tin mà có người Bedou nào đó lại biết về thuốc nổ dẻo và biết chuyển tin mã hoá - nếu chúng đều từ người đàn ông đó. có thể huấn luyện số tay đặt bom, nhưng cũng có thể chính tay mình thực số cuộc tấn công. Đúng là có thể bắt mọi tên Bedou lang thang trong thành phố và sa mạc - đó là cách của AMAM nhưng họ di chuyển suốt và chẳng ở đâu nhất định hết cả. Với Rahmani, bài toán được giải quyết bằng ba lựa chọn: bắt người đàn ông trong cuộc tấn công của - Bắt trong số những tên Kuwait liên kết với và tìm dấu vết tên đó theo dấu hiệu. Hay tóm phục đâu đó chuyển tin ở trong sa mạc. Rahmani quyết định chọn cách cuối cùng. có thể mang đến từ Iraq hai hay ba trong số đội dò radio tốt nhất của mình. đặt họ ở các điểm khác nhau, và cố tìm ra chỗ phát sóng. cũng có thể cần máy bay trực thăng quân luôn túc trực, với đội lực đặc biệt luôn sẵn sàng. Ngay khi về đến Baghdad, có thể bắt đầu tiến hành được. Hassan Rahmani phải người duy nhất ở Kuwait hôm nay quan tâm đến người Bedou. Trong biệt thự ngoại ô hàng dặm cách Hilton, đại tá quân đội Kuwait trẻ tuổi đẹp trai có ria trong cái thob màu trắng ngồi trong cái ghế bành và nghe người bạn vừa đến chỗ với tin đáng chú ý. Tôi ngồi ngay trong xe của mình ở chỗ đèn đỏ, thấy có gì đặc biệt cả, đúng lúc tôi nhận ra cái xe tải của quân đội Iraq ở bên kia ngã tư. Nó đỗ ở đó: với nhóm lính quanh đó, ăn và hút thuốc. Rồi người đàn ông trẻ, trong số người của ta, từ quán cà phê ra, cầm cái hộp . Nó rất . Tôi chẳng nghĩ gì về nó cho đến khi tôi thấy ta luồn tay dưới cái xe. Rồi taquay ra góc phố và biến mất. Đèn chuyển sang xanh, nhưng tôi vẫn ở yên tại chỗ. Trong 5 giây cái xe tan thành từng mảnh. Tôi thế đấy. đúng là nó bùng lên. Bọn lính nằm la liệt mặt đất chân cẳng gẫy hết cả. Tôi chưa bao giờ thấy gói lại gây ra thiệt hại lớn đến thế. Tôi với , tôi vòng xe lại và khỏi đó trước khi bọn AMAM đến. - Thuốc dẻo, người sĩ quan quân đội say mê. Tôi có nó. Tôi sẻ phải gặp ai đó trong số những người của Bedou mới được. Nhưng dù sao ta là ai chứ? Tôi thích được gặp ta lắm. Vấn đề là ở chỗ đó. Tôi có thể nhận ra cậu bé. - Gì cơ? viên đại tá trẻ tuổi hướng về trước, khuôn mặt sáng bừng tia sáng thích thú. - Tôi bỏ ra chặng đường dài đến thế để chỉ với tôi nghe ngóng được gì đâu. Abu Fouad, tôi mua thuốc lá từ cửa hàng của bố cậu ta trong suốt nhiều năm. CHƯƠNG 7 Con trai người bán thuốc lá rất sợ, và bố cậu cũng thế. - Vì lòng thương hại. hãy cho chúng ta những gì con biết , con trai. ông cầu xin con mình. Hai người đến từ Hội đồng Kháng chiến Kuwait vô cùng lịch khi tự giới thiệu với ông bán thuốc lá, họ khẩn khoản muốn con trai ông thẳng thắn và tin tưởng họ. Người bán hàng, dù biết thừa những người đến thăm mang tên giả thay cho tên , cũng đủ khôn ngoan để nhận ra ông chuyện với những thành viên có thế lực và ảnh hưởng của dân tộc mình. Nhưng tệ khi ông bất ngờ biết con trai mình dính líu vào cuộc kháng chiến chủ động. Tồi tệ nhất, ông vừa mới được biết thằng con nối dõi ở cùng với cuộc kháng chiến chính thức của Kuwait. mà bị nhìn thấy thả bom dưới cái xe tải Iraq ở ngay giữa bọn lạ mặt nào đó mà ông chưa từng nghe đến. Thế là đủ để bất kỳ người cha nào lên cơn đau tim rồi. Bốn người họ ngồi trong căn phòng kín của ngôi nhà tiện nghi của người bán thuốc lá ớ Keifan trong lúc trong số những người khác giải thích họ có gì chống lại người Bedou nhưng chỉ đơn giản là muốn liên lạc với ta để có thể hợp tác với nhau. Cậu con trai giải thích điều gì xảy ra kể từ khi cậu bạn của mình bị tóm cổ sau đống gỗ vào lúc- chuẩn bị bắn vào cái xe tài lraq chạy nhanh. Những người đàn ông im lặng ngồi nghe, chỉ có người đôi khi chèn vào câu hỏi nào đó. Người gì cả, người đeo cặp kính đen, chính là Abu Fouad. Người hỏi đặc biệt quan tâm đến ngôi nhà mà nhóm gặp gỡ với người Bedou. Cậu con trai cho địa chỉ. rồi thêm: - Tôi nghĩ đến đó là ý hay đâu, ấy cẩn trọng lắm. người trong số chúng tôi lần thử liên lạc với ấy, nhưng chỗ đó bị khoá. Chúng tôi nghĩ ấy sống ở đó, nhưng ấy biết chúng tôi ở đó. ấy chúng tôi bao giờ được làm thế nữa. Nếu có điều gì xảy ra, ấy . ấy có thể bắt liên lạc, và chúng tôi bao giờ gặp ấy được nữa. Ngồi trong góc phòng, Abu Fouad gật đầu đồng tình. giống những người khác, ông là người lính được đào tạo cẩn thận, và ông nghĩ nhận ra bàn tay của người khác cũng được đào tạo chuyên nghiệp như thế. - Khi nào cậu gặp ta nữa? từ từ hỏi. - lâu đâu, ấy liên lạc người trong số chúng tôi. Người được liên lạc báo cho những người khác- Có thể mất thời gian. Hai người Kuwait . Họ có miêu tả của hai chiếc xe: xe tải vẻ ngoài giả trang làm người làm vườn mang rau quả của mình vào thành phố từ thôn quê, và chiếc 4 bánh rất khoẻ để xa vào trong sa mạc. Abu Fouad đưa các số của hai chiếc xe cho người bạn làm ở Bộ Giao thông, nhưng dấu vết bị xoá. Cả hai số đều được đăng ký. Cái duy nhất là thông qua các thẻ căn cước mà người đàn ông có thể mang để vượt qua những chỗ dừng xe hà khắc của quân Iraq. Qua Hội đồng của mình ông liên hệ được với công chức tại Bộ Nội vụ, ông gặp may. Người đàn ông nhớ có cái thẻ căn cước qua điện thoại cho người làm vườn mang ra chợ bán từ Jahra. Đó là ân huệ ta có thể làm cho nhà triệu phú Ahmed Al-Khahra 6 tuần trước. Abu Fouad sung sướng và bối rối, ông thương gia là nhân vật có ảnh hưởng và được kính trọng trong phong trào. Nhưng ông ta chỉ lo về hoạt động tài chính, những thứ bạo lực. Cái quái quỷ gì khiến ông trở nên ông chủ của người Bedou bí và đầy nguy hiểm đó? Phía nam biên giới Kuwait, dòng thác quân Mỹ vẫn chảy vào. Khi tuần đầu tháng Chín trôi qua, tướng Norman Schwarzkopf, ngập trong công việc tại văn phòng phản gián hai tầng của Bộ Quốc phòng Xêut ở đường Sân bay cũ ở Riyadh. cuối cùng cũng nhận ra ông có đủ lực lượng để có thể tuyên bố Arập an toàn lo bị Iraq tấn công nữa. , tướng Charles "Chuck" Horner xây dựng tấm ô chắn bằng thép chắc, loại lưới di động rất nhanh và rất có lực, những máy bay chiến đấu thả bom có khả năng ném bom. những máy bay tiếp nhiên liệu , bom nặng, và máy bay chống tăng Thunderbolt, đủ để phá huỷ những quân Iraq cả gan đến đất liền và . Ông có công nghệ trung đủ bao phủ ra đa mọi inch vuông của lraq, có thể cảm thấy mọi cử động của kim loại nặng mặt đường, chuyển qua sa mạc, mỗi lần cất cánh, có thể nghe mọi cuộc đàm thoại của lraq bằng sóng trung và phát mọi vụ nổ. mặt đất, Norman Schwarzkopf biết ông giờ đây có đủ các đơn vị, vũ khí nặng cũng như , pháo binh, và bộ binh để đón tiếp mọi đơn vị quân lraq, cầm cự, bao vây, và tiêu diệt chúng. Vào tuần cuối của tháng Chín, trong những điều kiện bí mật tuyệt đối mà người nào trong Liên minh được biết, nước Mỹ lên những kế hoạch để chuyển từ phòng ngự sang tấn công. Cuộc tấn công lraq được hoạch định. ngay cả khi Liên Hợp Quốc chỉ cho phép hạn chế quân đội để giữ an toàn cho Arập Xêut và những nước vùng Vịnh. Nhưng ông cũng có những vấn đề riêng. trong số đó là số lượng quân đội, súng ống, xe tăng của Iraq bày ra để chống lại ông tăng gấp đôi kể từ khi ông đến Riyadh vào sáu tuần trước. vấn đề khác là ông có thể cần tăng gấp đôi lực lượng Liên quân để giải phóng Kuwait hơn là để đảm bảo cho Arập Xêut. Norman Schwarzkopf là người xem rất trọng câu của George Patton: người lính hay phi công Mỹ hay người hay người Pháp hay bất kỳ người nào trong liên quân hy sinh là quá nhiều. Trước khi vào cuộc chiến, ông muốn hai điều: nâng gấp đôi số lượng quân lực ông có và cuộc tấn công đảm bảo "giảm" 50% sức mạnh của các lực lượng lraq ở phía bắc biên giới. Điều đó có nghĩa là cần nhiều thời gian, trang thiết bị, dự trữ, súng, xe tăng, quân, máy bay, nhiên liệu, thực phẩm. và nhiều tiền hơn. Rồi ông với các Napoleon trong ghế bành ở đồi Capitol rằng nếu họ muốn có chiến thắng, tốt hơn hết là hãy để ông có được tất cả. Ngài chủ tịch lịch thiệp phụ trách vấn đề nhân , Colin Powell, thông qua bản cầu này, nhưng làm bớt lời lẽ chút Các nhà chính trị thích chơi trò lính tráng, nhưng họ lại ghét sử dụng ngôn ngữ lính tráng. Do đó việc lên kế hoạch của tuần cuối của tháng Chín là tuyệt đối bí mật. Liên Hợp Quốc, những kế hoạch hoà bình yếu ớt có thể chờ đợi đến ngày 29 tháng Mười trước khi cho Liên quân sử dụng lực lượng cẩn thiết để tấn công vào Iraq từ Kuwait trừ khi ông ta chịu rời vào 15 tháng Giêng. Việc lên kế hoạch bắt đầu vào cuối tháng Mười , nó có thể thể hoàn thành đúng lúc được. Ahmed La-Khalifa vô cùng bối rối, ông biết Abu Fouad, dĩ nhiên, là người như thế nào. Hơn thế nữa, ông rất hiểu cầu của ông ta. Nhưng ông đưa ra lời hứa, ông giải thích, và ông thể làm trái được. thể cho người bạn kháng chiến này biết Bedou thực tế là sĩ quan người . Nhưng ông cũng đồng ý chuyển thông diệp cho Bedou tại nơi mà ông biết người đàn ông sớm hay muộn nhận được. Sáng tiếp sau ông để lại bức thư, với lời khuyên cá nhân của ông gợi ý Bedou đồng ý gặp Abu Fouad, dưới tấm bia mộ của Able Seaman Shepton tại nghĩa địa Công giáo. Có sáu người lính trong đội tuần tra, do trung sĩ chỉ huy, và khi người Bedou đến góc phố, cả hai bên đều bị bất ngờ. Mike Martin đỗ chiếc xe tải của mình trong chiếc gara bí mật và bộ qua thành phố đến ngôi biệt thự mà chọn cho đêm nay. mệt, và giống thường lệ, cảnh giác của bị cùn di. Khi trông thấy những tên lraq và biết chúng nhìn thấy , tự nguyền rủa mình. Trong nghề của mình, người ta có thể chết vì giây lơ là cảnh giác. là sau giờ thiết quân luật, và dù thường xuyên di chuyển trong thành phố khi nó trống trơn những người công dân tuân thủ luật pháp và chỉ có các đội tuần tra Iraq còn lại. luôn men vào trong phố, qua những lối tối đen đất mềm, và vào những ngõ tối om, như những người Iraq các đường cao tốc và tới những chỗ rẽ. Cách đó, bao giờ làm động đến ai cả. Nhưng sau khi Hassan Rahmani quay trở lại Iraq và báo cáo đầy cảnh báo của ta về vô dụng của Quân đội Nhân dân, số thay đổi được thực . Lính Mũ xanh của lực lượng đặc biệt Iraq bắt đầu xuất . Dù được xếp ngang hàng với Vệ binh Cộng hoà, các lính Mũ xanh vẫn ít nhất có kỷ luật hơn những tên lính có tên Quân đội Nhân dân. Có sáu người trong số đó đứng yên lặng cạnh chiếc xe tải của mình tại góc phố thường bao giờ có người Iraq hết cả. Martin chỉ còn đủ thời gian để tì người vào cái gậy vẫn mang theo và lấy dáng điệu của ông già. Đó là dáng vẻ tốt, trong văn hoá A rập người già được kính trọng hay ít nhất là thông cảm. - Này ông kia, viên trung sĩ kêu lên. Lại đây nào. Bốn khẩu súng trường chĩa vào keffiyeh của người bị giữ lại. Ông già dừng lại, rồi chậm chạp tiến lại. - Ông làm gì vào cái giờ này bên ngoài hả Bedou? - Chỉ là ông già về nhà trước giờ thiết quân luật thôi mà. sayidi, người đàn ông trả lời. - quá giờ thiết quân luật rồi, điên à! Quá hai tiếng rồi. Người đàn ông lắc lắc tay lo lắng. - Tôi có biết đâu. sayidi. Tôi có đồng hồ mà. Ớ Trung Đông đồng hồ phải thứ cần thiết lắm. chỉ là dấu hiệu cho giàu có mà thôi. Lính Iraq đến Kuwait đổ xô mua đồng hồ. Nhưng từ Bedouin. bidun, nghĩa là có gì. Trung sĩ nhăn mũi. Lời xin lỗi có thể hiểu được. - Giấy tờ. ta . Ông già lấy tay lục lọi trong áo của mình. - Có vẻ như tôi làm mất rồi: ông than vãn. - Khám lão ta. trung sĩ . trong số những người lính tiến lên trước. Quả lựu đạn nằm bên đùi trái tạo cảm giác như quả dưa xe . - Đừng có chạm vào mấy hòn của tôi, ông lão Bedou nhanh. Tên lính ngừng lại. tên ở phía sau đưa lên tiếng cười khùng khục. Viên trung sĩ cố giữ vẻ mặt bình thường. - Nào tiếp . Zuhair. Khám lão ta . Tên lính trẻ Zuhair ngần ngừ: bối rối. ta biết lời đùa hướng vào mình. - Chỉ vợ tôi mới dược phép chạm vào hòn của tôi thôi. người Bedou . Hai tên lính phá lên cười và hạ súng trường xuống. Những tên còn lại cũng làm như thế. Zuhair vẫn chần chừ. - Nhớ đấy. làm bà ấy thích dâu. Tôi trải qua những việc như thế rồi. ông già . Thế là quá nhiều. Cả đội tuần tra lăn ra cười. Ngay cả viên trung sĩ cũng nhếch mép. - Thôi được rồi. bố già. . Và đừng có ra ngoài khi trời tối nữa dấy nhé. Người Bedou khỏi góc phố, lần mò dưới bộ quần áo, ông ta rẽ ở góc phố. Quả lựu đạn, được để lại ở bên, lăn đến những tên lính và dừng ngay trước mũi ngón chân của Zuhair. Tất cả sáu người nhìn chằm chằm vào đó. Đó là kết cục của 6 tên lính. Và cũng hết tháng Chín. Đêm hôm đó, rất xa Tel Aviv. tướng Kobi Dror của Mossad ngồi tại văn phòng của mình ở toà nhà Hadar Dafna, uống chút gì trong đêm khuya sau khi làm việc với người bạn cũ và đồng nghiệp, Shlomo Gershon. thường được biết đến với cái tên Sami. Sami Gershon là chỉ huy các lính chiến của Mossad, hay Sư đoàn Komemiute, chịu trách nhiệm điều khiển những nhân viên bất hợp pháp, tức là phần rất quan trọng và nguy hiểm của nghề gián điệp. Ông là trong số hai người ở đây khi sếp của ông hứa với Chip Barber. - Ông nghĩ là chúng ta có thể với họ à? Gershon hỏi, bởi vì chủ đề quay trớ lại. Dror quay bia trong chai và nhún vai." Hãy xoáy họ lại", ông gầm gừ. "Để cho họ tự thuê lấy người của họ." Là người lính trẻ trong mùa xuân năm 1967, Dror dã nằm dưới xe tăng của Patton trong sa mạc và chờ đợi trong khi bốn quốc gia Arập chuẩn bị có những thương thảo với lsrael lần duy nhất. Phần những người còn lại trong đội của mình, được chỉ huy bởi người hai mươi tuổi, ông từng là trong số những người dưới quyền Israel Tal, người chọc thủng Mitla Pass và dẫn quân đội Ai Cập quay trở lại kênh đào Suez. Và ông cũng nhớ là bằng cách nào, khi lsrael phá huỷ bốn quân đội và bốn lực trong vòng 6 ngày, vẫn những báo chí phương Tây đó mó tay vào vào những việc của nước ông trong tháng Năm tố cáo Israel là thực những chiến dịch bẩn thỉu. Từ lúc đó. triết lý của Kobi Dror được hình thành: xoắy chúng lại. Ông là thanh kiếm, được sinh ra và lớn lên ở lsrael. và hề có tầm nhìn hay bất cứ gì chung với những người như là David Ben Gurion. trung thành về chính trị của ông với đảng cực hữu Likud, với Menachem Begin. người từng ở Irgun. và Itzhak Shamir. lần, ngồi ở cuối lớp, nghe trong số những giảng viên của mình giảng cho những lính mới, ông nghe người đó sử dụng câu "các cơ quan tình báo thân thiện '. ông đứng lên và ra khỏi lớp. - Chẳng có ai là bạn của Israel, trừ người Do Thái ở nước ngoài mà thôi. ông với họ. Thế giới bị chia thành hai: kẻ thù chúng ta và những người trung lập. Kẻ thù của chúng ta chúng ta biết phải xử trí thế nào. Còn những người trung lập. hãy lấy mọi thứ, trao lại thứ gì. Hãy mỉm cười với họ, xử họ sau lưng, uống với họ, nịnh nọt họ, cám ơn họ tốt bụng. và gì với họ hết cả. - Tốt, Kobi, chúng ta hãy hy vọng họ bao giờ tìm ra cả. Gershon . - Làm thế quái nào được? Chỉ có 8 người trong số chúng ta biết thôi. Và tất cả đều ở trong Văn phòng. Đó hẳn là do bia. Ông đâ lột mặt nạ ai đó. Vào mùa xuân năm 1988 doanh nhân người tên là Stuart Harris tham dự hội chợ công nghiệp ở Baghdad. Ông là giám đốc bán hàng của công ty ở Nottingham làm và bán các thiết bị làm đường. Hội chợ được tổ chức bởi Bộ Giao thông Iraq. Giống như phần lớn những người phương Tây. Ông ớ tại khách sạn Rashid ở phố Yafa, được xây dựng chủ yếu cho người nước ngoài và thường xuyên được theo dõi cẩn mật. Vào ngày thứ ba của cuộc triển lãm. Harris quaỵ trở lại căn phòng của mình để tìm cái phong bì để dưới cửa. có tên đó, chỉ có số phòng, và số là đúng. Bên trong chỉ có trang giấy và cái phong bì cùng kiểu phong bì bưu điện bình thường. Mẩu giấy viết bằng tiếng và bằng chữ hoa: "Khi trở về London hãy chuyển phong bì này cho Norman ở Đại sứ quán lsrael." Đó là tất cả. Stuart Harris sợ điếng người, hoảng loạn. Ông biết tiếng tăm của lraq, của Cảnh sát mật đáng sợ của nước này. Dù sao nữa trong phong bì có cái có thể làm ông bị bắt, thậm chí bị giết. Ông cố trấn tĩnh, ngồi xuống. và cố nghĩ ra cái gì đó. Tại sao lại là ông? Có hàng đống người ở Baghdad cơ mà. Tại sao lại chọn Stuart Harris? Họ biết ông là người Do Thái, rằng cha ông đến nước vào năm 1935 từ nước Đức với cái tên Samuel Horowitz, liệu họ có biết được ? Dù ông bao giờ tìm ra câu trả lời, có cuộc chuyện hai ngày trước đó tại căng tin của hội chợ giữa hai công chức của Bộ Giao thông Iraq. người với người khác về chuyến thăm của mình đến nhà máy Nottingham mùa thu trước: về chuyện Harris là chủ nhà của ông ta vào ngày thứ nhất và thứ hai, rồi biến mất trong ngày, rồi trở lại. Ông ta - người Iraq - hỏi liệu Harris có bị ốm . đồng nghiệp cười và với ông ta Harris rời Yom Kippur. Hai công chức người Iraq nghĩ gì hơn về chuyện đó, nhưng ai đó ở buồng bên cạnh có. ta ghi băng lại cuộc trò chuvện để chuyển lên cho cấp của mình. Người đó tỏ ra quan tâm đến chuyện này nhưng sau đó khá là suy tư và điều tra về ông Stuart Harris của Nottingham, ghi số phòng của ông ở Rashid. Harris ngồi và nghĩ ngợi phải làm điều gì bây giờ. Ngay cả nếu, ông suy luận, người gửi vô danh của cái thư phát ông là người Do Thái, chỉ có điều họ có thể biết. cách nào hết cả. Bởi tình cờ hết sức lạ lùng, Stuart Harris là sayan. Viện tình báo và các chiến dịch đặc biệt của Israel, được thành lập năm 1951 theo lệnh của đích thân Ben-Gurion, được nước ngoài biết đến dưới cái tên Mossad, tiếng Hebrew có nghĩa là "Viện". Trong những bức tường bao giờ, bao giờ nó được gọi là như thế. mà luôn là "Văn phòng". Giữa các cơ quan tình báo hàng đầu thế giới. nó là cái nhất. Xét theo số lượng người, nó là tí hon. Trụ sở CIA ở Langley, Virginia, có khoáng 25.000 nhân viên, chưa kể các điệp viên cắm ở nước ngoài. Ở đỉnh cao của mình thời KGB đầu tiên, chịu trách nhiệm như CIA và Mossad đối với thu thập thông tin tình báo nước ngoài, có 15.000 nhân viên tạm thời khắp thế giới, khoảng 3.000 người ở trụ sở Yazanevo. Mossad chỉ có khoảng từ 1.200 đến 1.500 nhân viên thường trực và đến 40 nhân viên tạm thời, được gọi là katsa . Nó hoạt động với ngân sách khá hạn hẹp, nhân viên ít và đảm bảo "sản phẩm" mà nó phụ thuộc vào hai yếu tố. Thứ nhất là khả năng của nó can thiệp tới người Israel - dân tộc ở khắp nơi thế giới và chứa đựng đa dạng đến ngạc nhiên tài năng, ngôn ngữ, và những nguồn gốc địa lý. Yếu tố nữa là mạng lưới quốc tế các cộng tác viên hay trợ lý, trong tiếng Hebrew là sayanim. Đó là những người Do Thái sống ở nước ngoài ( họ bắt buộc phải hoàn toàn mang dòng máu Do Thái pha tạp) những người, mặc dù có khả năng trung thành với đất nước mình sống, rất sẵn lòng hỗ trợ quốc gia lsrael. Riêng ở London có tới 2.000 sayanim, 5.000 ở phần còn lại của nước , và 10 lần hơn thế ở Mỹ. Họ bao giờ được đưa vào các chiến dịch, mà chỉ được cầu giúp đỡ. Và họ phải được thuyết phục rằng giúp đỡ mà họ được đòi hỏi phải cho chiến dịch chống lại đất nước họ sinh ra hay được tiếp nhận. được phép đối đầu với trung thành. Chẳng hạn: đội Mossad đến London để thực chiếc dịch chống đội Palestine nào đó. Họ cần chiếc ôtô. sayan được cầu để lại cái xe qua sử dụng ở chỗ nào đó với chìa khoá dưới đó. Nó được đưa trở lại đó, sau chiến dịch. Sayan bao giờ biết được nó được sử dụng để làm gì. Cùng đội đó cần "mặt trận". sayan giàu có cho mượn cái cửa hiệu để , và sayan cung cấp kẹo và sôcôla. Họ cần hòm thư: sayan buôn bất động sản cho họ mượn chìa khoá hộp thư văn phòng để . Stuart Harris nghỉ ở trại của Israel ở Eilat, tại quán bar Red Rock, ông rơi vào cuộc tranh luận với người Israel trẻ tuổi dễ mến tiếng rất thạo. Ở trong cuộc tranh luận tiếp sau, người Israel dẫn đến người bạn, người nhiều tuổi hơn, người bình tĩnh chấn chỉnh Harris vốn rất có cảm tình với đất nước Israel. Cuối kỳ nghỉ hè, Harris đồng ý rằng, nếu bao giờ có việc gì đó cần làm... Cuối kỳ nghỉ Harris trở về nhà chuyện với vợ và được vợ đồng ý. Trong hai năm ông đợi cú điện thoại, nhưng hề có. Tuy nhiên, người khách thân thiện thường xuyên định kỳ đến - trong số những công việc nhàm chán của các katsa ở trạm nước ngoài để giữ liên lạc liên tục với sayanim trong danh sách của mình. Thế là Stuart Harris ngồi trong phòng khách sạn ở Baghdad, đợt sóng lo sợ dâng lên và tự hỏi biết phải làm gì đây. Bức thư có thể là khiêu khích - ông có thể bị can thiệp ớ sân bay khi cố đưa lậu cái gì đó ra. Luồn nó vào túi người nào đó? ông thể nào làm được chuyện đó. Và bằng cách nào ông có thể lấy lại được ở London? Cuối cùng, ông tỉnh lại, bày ra kế hoạch, và thực nó hoàn hảo. Ông đốt phong bì bên ngoài và chữ viết trong cái gạt tàn, vứt tàn , và vứt nó vào trong bồn cầu. Rồi ông giấu cái phong bì dưới vỏ chăn kệ tủ quần áo. Nếu căn phòng bị khám xét, ông có thể chỉ đơn giản thề là ông bao giờ dùng đến chăn, bao giờ trèo lên nóc tủ, và bức thư có thể là do người khách trước đây để lại Tại cửa hàng ngoài phố ông mua về cái phong bì khác, cái nhãn, và băng dính; ông mua tem ở bưu điện. thế là đủ để gửi tạp chí từ Baghdad về London. Ông mua tạp chí có hình ảnh Iraq từ hội chợ thương mại và dán tem cho cái phong bì cùng logo của cuộc triển lãm. Vào ngày cuối cùng, ngay trước khi rời khỏi để đến sân bay với hai đồng nghiệp của mình, ông lui vào phòng riêng. Ông luồn bức thư vào cuốn tạp chí và nhét nó vào trong phong bì. Ông ghi địa chỉ người chú ở Long Eaton và dán nhãn cùng cái tem. Ông biết có hòm thư, và bốn giờ nữa có chuyến lấy thư. Ngay cả nếu phong bì bị mở ra, ông vẫn có thể trước qua dãy Alps trong máy bay . May mắn dành cho người can đảm và người điên rồ. Ông bị người của AMAM theo dõi, để canh xem có người nước ngoài nào ra được tiếp cận hởi người Iraq cố tuồn cho ông ta thứ gì đó. Harris để cái phong bì của mình dưới áo jacket. người ở sau tờ báo trong góc nhà theo dõi ông, nhưng cái xe hàng qua giữa họ khi Harris tuồn phong bì vào hòm thư. Khi người theo dõi nhìn lại được ông. Harris ra quầy thanh toán trả chìa khóa phòng. Quyền tạp chí đến nhà ông chú của ông tuần sau đó Harris biết ông chú mình nghỉ, và ông có chìa khoá dự phòng cho trường hợp hoả hoạn hay ăn cắp, ông sử dụng nó để vào nhà và lấy bưu kiện. Rồi ông mang nó theo đến Đại sứ quán Israel ở London và đề nghị gặp người đó. Ông được dẫn vào căn phòng và được bảo ngồi chờ. người đàn ông trung niên vào và hỏi tên ông, hỏi vì sao ông muốn gặp "Norman". Harris giải thích, cầm chiếc phong bì gửi qua đường máy bay từ túi áo, và để nó lên bàn. Nhà ngoại giao lsrael trở nên tái nhợt, cầu ông ngồi đợi tiếp, và ra khỏi phòng. Toà nhà Đại sứ quán ở số 2 Palace Green là cấu trúc đẹp nhưng những đường nét cổ điển của nó để lộ những công nghệ quốc phòng mà nó có để quan hệ tới trạm Mossad London. Từ pháo đài ngầm dưới đất mà người đàn ông trẻ hơn được triệu tập khẩn cấp. Harris đợi và đợi. Mặc dù ông biết, nhưng ông bị nhìn từ cái gương chiều khi ngồi với cái bì thư bàn trước mặt ông. Ông cũng bị chụp ảnh, trong khi những người làm công tác lưu trữ kiểm tra để chắc chắn thực ông là sayan và phải là tên khủng bố người Palestine. Khi bức ảnh Stuart Harris của Nottingham từ các tài liệu được kiểm tra với người đằng sau chiếc gương chiều. người katsa trẻ tuổi cuối cùng cũng bước vào trong phòng. ta mỉm cười. tự giới thiệu mình là Rafi, và mời Harris bắt đầu câu chuyện của mình từ đầu, từ Eilat. Harris kể cho ta mọi chuyện. Rafi biết. mọi điều về Eilat ( ta vừa đọc bản tài liệu đầy đủ), nên cần kiểm tra lại. Khi câu chuyện đến Baghdad, ta trở nên chú ý hơn. ta hỏi vài câu đầu tiên: cho phép Harris kể lại vào thời điểm của mình. Rồi các câu hỏi, rất nhiều, cho đến khi Harris kể nhiều lần mọi việc ông làm ớ Baghdad. Rafi ghi chép gì hết cả; mọi điều được ghi lại rồi. Cuối cùng ta sử dụng chiếc máy điện thoại tường để có cuộc chuyện thầm bằng tiếng Hebrew với đồng nghiệp cao cấp hơn ở phòng bên cạnh. Hành động cuối cùng của ta là cảm ơn Stuart Harris cách chân tình, chúc mừng ông về dũng cảm và cái đầu lạnh, nhắn ông đừng bao giờ để lộ việc cho bất kỳ ai. và chúc ông có chuyến an toàn về nhà. Rồi Harris về. người đàn ông với chiếc mũ bảo hiểm, áo jacket dày, và găng tay cầm lá thư . Nó được chụp ảnh và chiếu tia X- quang. Đại sứ quán Israel mất người vì bom thư, và có ý định mất thêm người nữa. Cuối cùng lá thư được mở ra. Nó chứa hai mặt của giấy viết thư bằng vỏ hành được viết bằng mật mã. Bằng tiếng A rập. Rafi được tiếng Arập. Cũng ai khác tại trạm London đủ trình độ đọc tiếng Arập viết tay. Rafi gửi bản sao và được mã hoá phức tạp bằng đài về Tel Aviv. rồi viết báo cáo chính thức theo mẫu mà Mossad gọi là NAKA. Bức thư và bản báo cáo được chuyển đến vali ngoại giao và chuyến bay tối bởi El Al từ Heathrow về Ben-Gurion. chiếc xe có bảo vệ và đoàn hộ tống gặp người cầm thư ngay bên ngoài máy bay và đưa chiếc túi về cho ngôi nhà lớn ở đại lộ Vua Saul, nơi, ngay sau bữa sáng, nằm trước mặt vị hỉ huy bàn Iraq, người katsa rất trẻ có năng lực tên là David Sharon. ta có thể và viết tiếng A-rập, và điều ta đọc được trong hai tờ giấy vỏ hành đó của bức thư khiến ta thấy lại cảm giác từng có khi thả mình vào trung trong chuyến huấn luyện với các Para. Sử dụng chính máy chữ của mình, tránh cả thư ký lẫn máy tính, ta gõ bản dịch thô bức thư ra tiếng Hebrew. Rồi ta mang cả hai cái, kèm với bản báo cáo của Rafi rồi mang đến cho thượng cấp của mình, Giám đốc bộ phận Trung Đông. Bức thư cho biết người viết là quan chức cao cấp trong các hội đồng cao nhất của chế độ Iraq và sẵn sàng làm việc cho Israel vì tiền - chỉ vì tiền mà thôi. Có chút ít hơn thế, địa chỉ hòm thư bưu điện ở bưu điện trung tâm tại Baghdad để chờ trả lời. và đó là tất cả.
Tối hôm đó, có cuộc gặp cấp cao trong văn phòng riêng của Kobi Dror. Tại đó có ông và Sami Gershon, chỉ huy lính chiến. Cùng có cả Eitan Hadar, thượng cấp của David Sharon với tư cách giám đốc bộ phận Trung Đông, người nhận lá thư từ Baghdad buổi sáng hôm nay. Cả Sharon cũng được triệu tập. Từ chỗ choáng váng, Gershon trớ nên khoái trá. - là hài hước, ông . Tôi chưa bao giờ thấy cung cách tùy tiện, dở hơi đến thế. Kobi, tôi thể gửi ai trong số người của tôi để kiểm tra lại chuyện đó. Rất có thể là gửi người đó đến chỗ chết. Tôi thậm chí chưa từng gửi oter nào đến Baghdad để tìm liên lạc hết cả. Oter nghĩa là người Arập do Mossad sứ dụng để thiết lập liên lạc cơ sở với người Arập quen biết khác, nhân viên cấp thấp và đắt tiền hơn rất nhiều so với katsa thực thụ người Israel. Gershon coi lá thư là vi phạm nguyên tắc. Bức thư là điên rồ, xem qua ràng là chủ đích lừa đảo katsa cấp cao đến Baghdad để bắt giữ. tra tấn, ra toà công khai, và bị hành quyết công khai. Cuối cũng, Dror quay sang David Sharon. - Tốt thôi. David, cũng có lưỡi chứ. nghĩ gì nào? Sharon gật đầu tỏ vẻ tiếc. - Tôi nghĩ chắc Sami đúng. Gửi người tốt vào đó có thể là điên rồ lắm. Eitan Hadar chiếu vào ta cái nhìn cảnh cáo. Giữa các bộ phận, có đối nghịch thường xuyên. cần phải trao vinh quang cho bộ phận lính chiến của Gershon như hế - 99% cơ may cho thấy có cái bẫy. Sharon . - Chỉ 99% thôi ư? Dror hỏi tức tối. Thế còn 1% sao, hả bạn trẻ? - Ôi, đúng là ý tưởng điên rồi. Sharon . Nó chỉ xảy đến với tôi, cái phần trăm có thể là thứ dở hơi, chúng ta có Penkovsky mới đây. im lặng chết chóc bao trùm. Từ ngữ treo trong khí như thách thức. Gershon thở hắt ra. Kobi Dror nhìn chằm chằm vào người phụ trách ban lraq. Sharon nhìn vào các đầu ngón tay của mình. Trong tình báo chỉ có bốn cách thức tuyển nhân viên cắm sâu vào các hội đồng cao cấp của đất nước. Thứ nhất là cách ít nguy hiểm nhất: sử dụng trong số những người mang quốc tịch của chính nước bạn, người được đào tạo mức độ đặc biệt để sang quốc tịch của quốc gia kia. Việc này gần như thể thực được, trừ khi người xâm nhậm được sinh ra và lớn lên tại nước được nhắm đến và có thể dễ dàng quay trở lại nước đó, với câu chuyện nguỵ trang để giải thích cho vắng mặt của mình. Ngay cả khi đó ta phải chờ nhiều năm để leo lên và trở nên hữu dụng với xâm nhập các bí mật của văn phòng - nhân viên ngủ hàng chục năm trời. lsrael là bậc thầy của kỹ thuật này. Đó là bởi vì. Khi Israel mới thành lập, người Do Thái ở đó lớn lên ở khắp thế giới Có những người Do Thái có thể trở thành người Maroc, người Algerie, người Libie, Ai Cập, Syrie, lraq, và Yemen. Đó là còn chưa đến tất cả những người từ Nga, Ba Lan, Tây âu, và Nam Bắc Mỹ. Thành công nhất trong số đó là Elie Cohen, sinh ra và lớn lên ở Syrie. ông tuồn được vào Damas với tư cách người dân Syrie xa vài năm và bây giờ trở lại. Với cái tên Syrie mới của mình. Cohen trở thành người thân cận của các chính trị gia cao cấp, các công chức nhà nước, và giới tướng lĩnh thường thoải mái bô bô mọi thứ chuyện cho người chủ nhà bao dung của mình ở những bữa tiệc sang trọng ông tổ chức. Mọi điều họ , bao gồm cả chiến dịch toàn bộ của chiến trận của Syrie, đều đến được Tel Aviv vào đúng thời điểm cho Cuộc chiến Sáu ngày. Cohen bị phát , bị tra tấn, và bị treo cổ công khai tại quảng trường Cách mạnh ở Damas. Những đầu mối như thế là cực kỳ hiếm có và cực kỳ nguy hiểm. Nhưng nhiều năm trôi qua, những người Israel nhập cư độc đáo trở nên già cả; những con cháu sabra của họ còn học tiếng Arập nữa và cũng chẳng mấy quan tâm đến những gì Cohen làm. Đó là bởi vì, vào năm 1990, Mossad có ít người tiếng Arập xuất sắc hơn ai đó có thể tưởng tượng. Nhưng còn có nguyên do thứ hai. xâm nhập các bí mật của người Arập dễ thực hơn ở châu Âu hay Mỹ. Nếu quốc gia Arập mua máy bay Mỹ, các chi tiết có thể lấy cắp dễ dàng hơn, và ít hiểm nguy hơn là ở Mỹ. Nếu tay cao cấp của Arập có vẻ dễ tiếp cận, tại sao làm thế để do thám ở châu Âu? Đó là tại sao, vào năm 1990. số lượng lớn các chiến dịch của Mossad hướng vào châu Âu và Mỹ với ít nguy cơ hơn là ở các quốc gia Arập có độ nguy hiểm cao. Ông vua của những đầu mối đó, là Marcus Wolf, người trong nhiều năm thống lĩnh mạng lưới tình báo ở Đông Đức. ông có được lợi thế rất lớn - người Đông Đức có thể dễ dàng trở thành người Tây Đức. Thời của mình "Mischa" Wolf tuồn được nhiều nhân viên của mình vào Tây Đức. trong số họ trở thành thư ký riêng của chính thủ tướng Willy Brandt. đặc biệt của Wolf là ở chỗ người thư ký lạ đời đó trở nên thể thiếu đối với vị bộ trưởng Tây Đức - người có thể sao chụp mọi tài liệu qua bàn của mình để chuyển về cho Đông Berlin. Phương pháp thứ hai là sử dụng người của quốc tịch của cơ quan đối đầu, như là ai đó đến từ quốc gia thứ ba. Nước được hướng tới biết rằng tay này là người nước ngoài nhưng được thuyết phục ta là người nước ngoài thân thiện, dễ mến. Mossad cũng từng làm việc này cách chói sáng với người đàn ông tên là Ze'ev Gur Arieh. Tên khai sinh của ông là Wolfgang Lotz. sinh ở Mannheim, Đức, năm 1921. Wolfgang cao 6 fít, tóc vàng, mắt xanh, và còn là người Do Thái. Ông đến Israel như là đứa trẻ, được lớn lên ở đây, mang tên Do Thái, chiến đấu với đội quân ngầm dưới đất Haganah. và trở thành thiếu tá trong quân đội lsrael. Rồi Mossad sử dụng ông. Ông được gửi trở lại về Đức trong hai năm để hoàn thiện tiếng Đức mẹ đẻ của mình và để "hợp thức hoá" với tiền của Mossad. Rồi, với người vợ Đức dễ mến mới, ông nhập cư vào Cairo và mớ trường dạy đua ngựa. Đó là thành công lớn. Các sĩ quan Ai Cập thích giải trí với ngụa của mình, cộng thêm rượu sâm-panh do Wolfgang phục vụ, người theo cánh hữu tốt tính, người Đức bài Do Thái mà họ có thể tin cậy được. Và họ tin cậy. Mọi điều họ đều được chuyển về Tel Aviv. Cuối cùng Lotz bị bắt, may mắn bị treo cổ, và sau cuộc chiến Sáu Ngày được trao đổi lấy các tù binh người Ai Cập. Nhưng thành công hơn cả là người Đức thế hệ trước. Trước Thế chiến 2. Richard Sorge từng là thông tín viên ở Tokyo, tiếng Nhật và có liên lạc trong chính phủ của Hideki Tojo. Chính phủ này ủng hộ Hitler và coi Sorge là Nazi trung thành - chắc chắn ông ông là như thế. Chưa bao giờ Tokyo nghĩ được Sorge phải là người Đức Quốc xã. thực tế, ông là đảng viên Cộng sản Đức phục vụ cho Matxcơva. Trong nhiều năm ông chuyển các kế hoạch chiến tranh của chế độ Tojo về thẳng Matxcơva để nghiên cứu. Đòn lớn nhất của ông là lần cuối. Năm 1941, các đội quân của Hitler tập trung trước Matxcơva. Stalin cần biết khẩn cấp: nước Nhật liệu có tập trung tấn công Liên Xô từ các căn cứ Mãn Châu của mình ? Sorge tìm ra câu trả lời, câu trả lời là . Stalin có thể chuyển 40.000 quân Mông Cổ từ phía đông sang Matxcơva. Khẩu đại bác châu Á đập tan quân Đức trong vài tuần, cho đến khi mùa đông ập đến và Matxcơva được cứu thoát. Nhưng Sorge ; ông bị lột mặt nạ và bị treo cổ. Nhưng trước khi ông chết, các thông tin của ông thay đổi cả lịch sử. Phương pháp chung nhất trong việc đảm bảo an toàn cho điệp viên trong nước được nhắm đến là cách thứ ba: rất đơn giản tuyển người có "địa vị". Việc tuyển chọn có thể dễ dàng chậm rãi hay nhanh đến bất ngờ. Với mục đích này, những người dò tìm nhân tài phải lục tung giới ngoại giao để tìm kiếm công chức cao cấp của phía bên kia tỏ ta chán chường, thiết tha, hài lòng, cay đắng, hay là dù thế nào nữa đủ để có thể tuyển. Các đoàn đại biểu thăm các nước ngoài được nghiên cứu để thử xem liệu có thể lấy được ai đó, thử thách thời gian rồi tiếp cận và trả tiền. Khi người dò tìm thông báo là "có thể". những người tuyển vào cuộc, thường là với tình bạn bình thường trở nên sâu sắc hơn và nồng ấm hơn. Cuối cùng, "người bạn" gợi ý bạn mình có thể cho mình ân huệ ; phần nhoi và đáng gì về thông tin được cầu. khi cái bẫy sập, thể bước lùi được nữa, và chế độ mà người mới được tuyển phục vụ càng hà khắc họ càng kém mặn mà. Các nguyên do để tuyển phục vụ cho nước khác thay đổi rất đa dạng. Người được tuyển có thể là mắc nợ, trong cuộc hôn nhân hạnh phúc, được thăng chức, bị chế độ của mình xử tệ, hay chỉ đơn giản là muốn cuộc sống mới nhiều tiền. ta có thể được tuyển thông qua những điểm yếu của chính mình, về tình dục cũng như đồng tính, hay chỉ đơn giản là chuyện ngọt ngào và phỉnh nịnh. Giống như số người Xôviết, như là Penkovsky và Gordievsky, thay đổi chiến tuyến do những nguyên do ý thức hệ dễ hiểu, nhưng phần lớn các điệp viên phản lại đất nước mình là do bởi họ chia sẻ chút gì đó phù phiếm, khuynh hướng mà họ thực là quan trọng. Nhưng phổ biến nhất trong số các tuyển dụng được gọi là " vào ". Như ý của từ này, người được tuyển chỉ đơn thuần vào được báo trước và được dự báo. và tự đề nghị được làm. Quan hệ của cơ quan được tiếp cận như thế thường xuyên là trong những nghi ngờ lớn - đây rất dễ là cái bẫy của phía bên kia. Do đó khi: vào năm 1960 , người Nga cao lớn tiếp cận những người Mỹ ở Matxcơva. cho biết ta là đại tá của bên tình báo quân GRU, và đề nghị làm điệp viên cho phương Tây, ta bị từ chối. Chán nản, người đàn ông tiếp cận người : những người cho ta thử. Oleg Penkovsky dần trở thành trong những điệp viên đáng giá nhất của mọi thời đại. Trong nghiệp 30 tháng ngắn ngủi của mình dã chuyển 5.500 tài liệu cho chiến dịch -mỹ thuê , và tất cả trong đó đều là thuộc hạng bí mật hoặc tuyệt mật. Trong vụ khủng hoảng tên lửa Cu ba, cả thế giới bao giờ nhận ra rằng tổng thống Kennedy biết toàn bộ các quân bài mà Nikita Khrushchev có để chơi, giống như tay chơi gian với cái gương ở sau lưng địch thủ của mình. Cái gương là Penkovsky. chàng người Nga chịu những nguy cơ rất lớn, từ chối sang phương Tây sống khi có cơ hội. Sau cuộc khủng hoảng tên lửa ta bị lột mặt nạ bởi cơ quan phản gián Xô viết. bị tù, rồi bị xử bắn. ai trong số ba người ở trong căn phòng của Kobi Dror tối đó ở Tel Aviv cần phải thêm điều gì về Oleg Penkovsky. Trong thế giới của họ, ông là phần trong các huyền thoại. Giấc mơ treo lơ lửng trong tâm trí mọi người sau khi Sharon nêu cái tên. người phản bội thực , sống: được ém tốt, 24 carat ở Baghdad? Liệu điều đó có thể là được chăng - liêu nó có khả năng trở thành được ? Kobi Dror ném vào Sharon cái nhìn dài, nghiêm khắc. - Trong đầu có gì đấy, bạn trẻ? - Tôi chỉ nghĩ thôi mà, Sharon với vờ vịt che giấu. lá thư... nguy hiểm nào cho bất kỳ ai - chỉ bức thư... đặt vài câu hỏi, nhưng câu hỏi khó, những cái chúng ta muốn biết... ta chợt đến hoặc . Dror liếc sang Gershon. Người đàn ông điều hành các nhân viên bất hợp pháp nhún vai. - Tốt rồi, bạn trẻ David ạ. Chúng ta viết bức thư trả lời ta. Chúng ta hỏi ta số câu hỏi. Rồi ta xem. Eitan, cùng David làm việc đó nhé. Cho tôi xem thư trước khi gửi nó . Eitan Hadar và David Sharon cùng ra. - Tôi hy vọng biết làm cái quỷ quái gì. chỉ huy Trung Đông thầm với người thuộc hạ. Bức thư được soạn thảo với cẩn thận tối đa. Nhiều chuyên gia giấu mặt làm việc trong đó - ít nhất là với bản tiếng Hebrew. Việc dịch lại có thể để sau. Trong thư, David Sharon tự giới thiệu với tên thường gọi. cảm ơn người viết vì cố gắng và đảm bảo với ta bức thư đến được địa chỉ cách an toàn. thêm vào là bức thư gây ra rất nhiều ngạc nhiên về nội dung và có hơi bị nghi ngờ về cách thức lạ lùng của nó David biết, rằng người viết ràng hề điên rồ và do đó có thể nhận ra rằng "người của tôi" có thể cần thiết lập số lợi thế. Bức thư hoàn chỉnh dài hơn và phức tạp hơn, nhưng đó là ý chính. Sharon kết thúc với việc cho người viết địa chỉ thư tín ở Rome để trả lời. Địa chỉ thực tế là ngôi nhà an toàn mà trạm Rome cung cấp theo cầu khẩn cấp của Tel Aviv. Từ đó. trạm Rome có thể để mắt vào cái địa chỉ bị bỏ rơi. Nếu các nhân viên an ninh Iraq phát ra, các nhân viên Israel biết và dừng ngay việc này. Danh sách 20 câu hỏi được lựa chọn kỹ càng và sau nhiều tìm tòi. Với tám trong số câu hỏi Mossad biết câu trả lời nhưng làm ra vẻ muốn biết. Đó cũng là cách để vờ rằng Tel Aviv làm việc chẳng hiệu quả tí nào cả. Tám câu hỏi nữa liên quan đến những việc có thể được kiểm tra. Bốn câu liên quan đến những điều Tel Aviv thực muốn biết. nhất là về những dự định của chính Saddam Hussein. - Hãy xem thằng con hoang này có thể thực leo cao đến đâu Kobi Dror khi ông đọc danh sách các câu hỏi. Cuối cùng giáo sư ở khoa Arập của trường đại học tổng hợp Tel Aviv được gọi đến để thêm mắm muối cho có văn phong. Sharon ký tên bằng tiếng Arập, Daoud. Bản viết còn có điểm khác nữa. David muốn cho người viết cái tên, và nếu người viết ở Baghdad phản đối, ta có thể vui lòng được gọi là Jericho? Bức thư được gửi từ nước Arập duy nhất nơi lsrael có đại sư quán - Ai Cập. Sau khi nó , David Sharon tiếp tục công việc của mình và chờ đợi. Càng nghĩ càng thấy vụ này ngu ngốc. hòm thư, trong nước nơi mạng lưới phản gián dược điều hành bởi kẻ cáo già như Hassan Rahmani, quả là cực kỳ nguy hiểm. Do đó viết các thông tin tuyệt mật " cách ràng", và có chỉ dẫn nào mà Jericho biết bất cứ gì về kỹ thuật viết chữ bí mật. Tiếp tục sử dụng thư thông thường cũng phải cách thức, nếu nó tiếp tục được. Tuy nhiên. lập luận, chắc là chẳng được gì đâu. Thế mà lại được. Bốn tuần sau, trả lời của Jencho đến Rome và được đưa thẳng về trong cái hòm được dán kín đến Tel Aviv. Mối quan tâm cao độ. Phong bì dược dò bom và dò chất độc. Khi các nhà nghiên cứu cuối cùng phán rằng nó an toàn, nó được mở ra. Trong ngạc nhiên tột cùng của họ, Jericho làm được việc Cả tám câu hỏi mà Mossad biết câu trả lời đều chính xác hoàn toàn. Tám câu nữa - về di chuyển các đội quân, lính tráng, các chuyến nước ngoài - cần được kiểm chứng khi nó thực diễn ra. Bốn câu cuối cùng Tel Aviv cũng thể kiểm tra lại, nhưng tất cả dường như đều rất khả dĩ. David Sharon viết lá thư nhanh trả lời, trong văn bản mà gây ra vấn đề an ninh nào nếu nó bị tóm. "Chú thân mến: rất cảm ơn chú về bức thư đến tay cháu. tuyệt được nghe rằng chú vẫn khoẻ. số trong số những điểm chú nêu ra mất thời gian đấy, nhưng tất cả tốt thôi. cháu viết sớm tiếp cho chú. Đứa cháu của chú. Daoud." Tâm trạng lên rất cao trong toà nhà Hadar Dafna, người đàn ông tên Jericho này dù sao nữa cũng có thể rất nghiêm túc Nếu là thế, cần có hành động khẩn cấp. Trao đổi hai lá thư là việc; điều hành điệp viên sâu trong chế độ độc tài lại là chuyện khác. có cách liên lạc nào có thể tiếp tục cơ sở cách viết ràng, những lá thư công cộng, và các hòm thư. Chúng dẫn tới thảm hoạ trong tương lai. sĩ quan tình thế có thể là cần thiết để xâm nhập Baghdad, sống ở đó, và dạy Jericho sử dụng mọi thứ thủ đoạn thông thường - chữ viết bí mật, mật mã, hòm thư chết, và các phương tiện can thiệp để có được sản phẩm, ra khỏi Baghdad và quay trở về lsrael. - Tôi đồng ý đâu. Gershon nhắc lại. tôi đưa katsa cao cấp lsrael vào Baghdad trong phi vụ đen tối trong khoảng thời gian dài. Đó là chuyện của bên ngoại giao lo, hoặc là có. - Tốt thôi, Sami. Dror . Có vỏ bọc ngoại giao chứ. Xem chúng ta có gì nào. Vỏ bọc ngoại giao có nghĩa là điệp viên đen có thể bị bắt: bị tra tấn. treo cổ - cái gì cũng được. nhà ngoại giao được công nhận , ngay cả ở Baghdad, có thể tránh được những thứ phiền phức đó; nếu bị tóm trong khi làm gián điệp, ta cũng chỉ bị tuyên bố persona non grata và bị trục xuất mà thôi. Từ lâu nay như thế rồi. Mùa hè đó nhiều đơn vị chính của Mossad có việc. Gershon với họ rằng ông có điệp viên nào trong người của mình ở bất kỳ sứ quán nào ở Baghdad. và do đó ông đứng ra ngoài liên minh. Vì vậy người ta bắt đầu tìm kiếm nhà ngoại giao thích hợp. Tất cả các đại sứ quán nước ngoài tại Baghdad đều được định vị. Từ thủ đô mỗi nước, danh sách nhân viên ở Baghdad được chuyển đến. bỏ sót ai; có ai từng làm việc cho Mossad trước đó, người có thể được kích hoạt lại có sayan nào trong những danh sách đó hết- Rồi nhân viên vụt đến với ý tưởng: Liên Hợp Quốc. Tổ chức quốc tế này có văn phòng đóng ở Baghdad từ năm 1988. Hội đồng Kinh tế LHQ vùng Trung Á. Mossad có nhiều nguồn tại Liên Hợp Quốc ở New York. Và danh sách nhân viên liền được lập. cái tên nổi lên: nhà ngoại giao trẻ người Chile gốc Do thái tên là Alfonso Benz Moncada. ta được đào tạo để trở thành điệp viên. nhưng ta là sayan và do đó có thể được đào tạo để trở nên hữu dụng. Dần dần các thông tin của Jericho trở thành . Tiến trình kiểm tra cho thấy rằng các đội quân ông ta có thể di chuyển di chuyển; các cuộc hành quân ông ta trước diễn ra đúng thế, và các cuộc từ chức cũng thế. Hoặc chính Saddam đứng đằng sau vụ này, hoặc Jericho phản bội Tố quốc của từ chân đến đầu, đó là lời phán xét của Kobi Dror. David Sharon gửi bức thư thứ ba, cũng có vẻ ngoài hết sức vô tội Lần thứ hai và lần thứ ba, ta cần đến vị giáo sư nữa- Thư thứ ba dưới hình thức khách hàng tại Baghdad cầu mua kính mỏng và đồ sứ. ràng là, David . ít kiên nhẫn là cần thiết để phương tiện chuyển tin có thể được hình thành có thể đảm bảo cho hàng hoá khỏi tổn thất đáng có. katsa tiếng Tây Ban Nha đóng ở Nam Mỹ được gửi khẩn cấp đến Santiago và thuyết phục cha mẹ của ngài Benz thúc giục con trai mình ngay lập tức về nghỉ vì lý do mẹ của ốm nặng. Chính cha gọi điện cho con trai ở Baghdad. Người con đầy lo lắng ngay lập tức xin nghỉ ba tuần và bay về Chile. gặp phải người mẹ ốm yếu mà toàn thể đội sĩ quan huấn luyện của Mossad những người xin ta đáp ứng cầu của mình. trao đổi về vấn đề với cha mẹ mình và đồng ý. Tình cảm, mối xúc động dành cho những cầu của mảnh đất Israel, mà chưa ai trong số họ từng đến, mạnh mẽ. sayan khác ở Santiago, biết tại sao, rời khỏi căn biệt thự mùa hè của mình, đến sống ở ngôi vườn có tường bao bọc bên ngoài thành phố gần biển, và đội huấn luyện bắt tay vào việc. Mất hai năm để huấn luyện katsa để điều hành điệp viên chìm trong mảnh đất thù địch, và đó là tối thiểu. Đội có ba tuần. Họ làm việc 16 giờ mỗi ngày. Họ dạy chàng Chilê 30 tuổi kỹ thuật viết chữ bí mật và những mật mã cơ bản, ảnh siêu và chuyển ảnh thành microdot. Họ mang ra phố và dạy làm thế nào để cắt cái đuôi. Họ cảnh báo bao giờ dứt đuôi trừ trường hợp cực kỳ khẩn cấp, nếu liên quan đến cái gì đó rất quan trọng. Họ bảo rằng nếu nghĩ bị theo dõi hãy huỷ bỏ cuộc gặp hay hoãn và thử lại vào lần khác. Họ dạy sử dụng các chất hoá học được cất trong cái bút bi giả dể phá huỷ bằng chứng phạm tội trong vài giây trong lúc giấu được mọi dòm ngó của người khác hoặc chỉ đơn giản là dể đánh lạc hướng. Họ mang lên những chiếc xe để chỉ cho cách cắt đuôi là cái xe., người đóng vai người bị theo dõi và những người còn lại trong nhóm là "kẻ thù". Họ dạy cho đến khi hai tai ung ung, mắt đau nhức và phải xin được ngũ. Rồi họ dạy về các hòm thư chết - những nơi cất giấu bí mật ở đó bức thông điệp có thể được để lại hoặc cái khác được lấy . Họ chỉ cho làm thế nào để tạo ra hộp thư đằng sau viên gạch rỗng bức tường. hoặc dưới tấm bia mộ. trong hốc thân cây già, hay giữa cái cán cờ. Sau ba tuần. Alfonso Benz Moncada đă lời tạm biệt với cha mẹ khóc thút thít và bay trở lại Baghdad qua London. Người dạy học dựa lưng vào chiếc ghế bành của mình ở biệt thự. giơ bàn tay kiệt sức lên trán. và với đội: - Nếu cái con rận này sống được và thoát về, tôi hành hương đến Mecca. Cả đội cười ồ, chỉ huy của họ là người Do Thái theo chính giáo. Toàn bộ thời gian dạy Moncada: ai trong số họ được biết ta làm gì khi quay trở lại Baghdad. phải việc của họ để mà biết. Cả người Chilê nữa. Khi máy bay dừng ở London được mang đến khách sạn Heathrow Penta. Ớ đó gặp Sami Gershon và David Sharon, và họ với . - Đừng cố nhận diện ông ta. Gershon cảnh báo người đàn ông trẻ. Hãy để việc đó cho chúng tôi. Chỉ cần thiết lập quan hệ và phục vụ ông ta thôi. Chúng tôi gửi các danh sách những việc chúng tôi cần được trả lời. hiểu chúng đâu - chúng được viết bằng tiếng Arập. Chúng tôi nghĩ Jericho được nhiều tiếng , đấy là chưa biết tí gì cả Đừng cố dịch những thứ chúng tôi gửi . Chl cần chuyển nó vào trong các hòm thư giữa hai người và làm thế nào đánh dấu để ta có thể đến được nơi và dùng hòm thư đó. - Khi nào nhìn thấy dấu hiệu của ta, hãy và tìm ở trong hòm thư hai người. và gửi câu trả lời về cho chúng tôi. Trong buồng ngủ riêng biệt Alfonso Benz Moncada được đưa cho hành lý mới. Đó là chiếc máy quay phim trông như chiếc Pentax của khách du lịch nhưng có hộp quay cận cảnh với hơn 100 cuộn phim, cộng với cái khung nhôm rất bình thường giữ chiếc máy quay ở khoảng cách thích hợp với tờ giấy Chiếc máy quay được chuẩn bị trước. Những đồ lặt vặt cá nhân của gồm có các chất hoá hoc nổ được trông như là bọt cạo râu, và nhiều loại mực vô hình khác nhau. Cái ví viết chữ mang tất cả giấy tờ được xử lý cho viết thư bí mật. Cuối cùng. họ với các phương cách để liên lạc với họ, phương pháp họ từng sử dụng khi được đào tạo ở Chilê. có thể viết những bức thư liên quan đến tình môn cờ vua của mình - từng là người rất say mê cờ - cho người bạn của mình Justin Bokomo ở Uganda. người làm việc trong văn phòng của tổng thư ký Liên Hợp Quốc ở New York. Những bức thư của có thể luôn ra khỏi Baghdad đến hòm thư ngoại giao Liên Hợp Quốc để đến New York. Những trả lời cũng đến từ Bokomo ở New York. Benz Moncada biết quả có người Uganda tên là Bokomo ở New York. Đó cũng là katsa của Mossad trong căn phòng nhận thư để xử lý. Những bức thư của Bokomo có mặt thứ hai. Khi được xử lý ra thông điệp của Mossad. Nó cần được sao chụp khi ai nhìn thấy và chuyển cho Jericho trong hòm thư thoả thuận. trả lời của Jericho có thể là ở dạng tiếng Arập loằng ngoằng. Mỗi trang phải được sao chụp lại mười lần, đề phòng trường hợp mất, và phải chuyển phim cho Bokomo. Quay trở lại Baghdad chàng trai trẻ người Chilê, với trái tim hồi hộp, lập ra sáu hòm thư, chủ yếu sau những viên gạch rỗng những bức tường cũ hoặc những ngôl nhà đổ, dưới những cán cờ trong những lối tối, và cái dưới viên đá cửa sổ của cửa hàng. Mỗi lần đến đó nghĩ có thể bị bao vây bởi những tên AMAM đầy chết chóc, nhưng những công dân của Baghdad tỏ ra vẫn lịch thiệp như mọi khi và ai nhận ra khi làm việc, vẻ như người du lịch nước ngoài tò mò, lên xuống các con đường và phố xá của khu cổ, khu Armenie, chợ trái cây và rau ở Kasra. và những nghĩa địa cũ - mọi nơi có thể tìm thấy những bức tường cũ kỹ xiêu vẹo và những hòn đá rỗng nơi có ai nghĩ đến chuyện tìm kiếm hết cả. viết những địa điểm của sáu hòm thư đó, ba để chứa các thông tin từ đến Jericho và ba cho những trả lời của Jericho. cũng chia ra làm sáu địa điểm - những bức tường, cổng, công - ba cái trong số đó là phấn đánh dấu trông vô hại và báo cho Jericho khi có thông điệp cho ông ta: và ba cái khác nơi Jericho có thể thông báo ông ta có trả lời và ngồi đợi thư trả lời. Mỗi phấn đánh dấu tương ứng với hòm thư. viết các địa điểm các hòm thư này và các chỗ có đánh dấu rất chính xác để mà Jericho có thể tìm thấy chỉ cần qua miêu tả mà thôi. Toàn bộ thời gian lo xem có cái đuôi nào theo mình , dù là lái xe hay là bộ. Chỉ lần nhận thấy bị theo dõi: nhưng đó chỉ là vớ vẩn và thông thường. khi AMAM có vẻ như có những ngày bất thường tự dưng theo dõi những nhà ngoại giao bất kỳ. Ngày sau đó có cái đuôi nào, thế là được thở phào. Khi làm xong tất cả: dùng máy chữ viết chúng ra. sau khi ghi nhớ mọi chi tiết. huỷ giấy than, sao chụp lại các tờ giấy, huỷ giấv, và gửi film cho ông Bokomo. Qua phòng thư của toà nhà Liên Hợp Quốc Bờ Đông thành phố New York, gói bưu kiện trở về với David Sharon ở Tel Aviv. Phần nguy hiểm là chuyển thông tin đến được taỵ Jericho. Có nghĩa là phải chuyển bức thư cuối cùng cho cái hòm thư bưu điện đáng nguyền rủa ở Baghdad. Sharon viết cho "người bạn" của mình rằng giấy tờ ta cần có thể được chuyển chính xác vào buổi trưa trong mười bốn ngày nữa. vào ngày 18 tháng tám 1988, và nên chuyển sau đó quá giờ. Các chỉ dẫn chính xác, bằng tiếng Arập đến được Moncada vào ngày 16. Vào 12 giờ trưa kém 5 phút, vào bưu điện, thẳng đến hòm thư, và đẩy cái bưu kiện vào. ai chặn hay bắt hết cả. giờ sau đó Jericho mở hộp và lôi ra cái gói. Cả ông ta cũng bị chặn hay bắt gì cả. Với liên lạc đảm bảo giờ đây được thiết lập, đường dây bắt đầu hoạt động. Jericho nhấn mạnh ông ta định giá mỗi thông tin mà Tel Aviv muốn, và nếu tiền được chuyển vào tài khoản, thông tin được chuyển . Ông ta nêu tên ngân hàng hết sức kín đáo ở Vienna. Ngân hàng Winkler ở Ballgasse, ngay bên ngoài Franziskanerplatz, và cho số tài khoản. Tel Aviv đồng ý và kiểm tra ngân hàng. Nó rất , tuyệt đối kín đáo, và có vẻ như là vô cùng vô tội. ràng nó có số tài khoản được nêu tên, bởi vì lần chuyển tiền đầu tiên 20.000 đola bởi Tel Aviv vào đó, hề có câu hỏi nào quay trở lại ngân hàng chuyển tiền. Mossad khuyên rằng Jericho có thể phải cẩn thận để tránh lộ mình cho chính an toàn của ông, trong mọi trường hợp xấu xảy ra những người bạn của ông ta có thể đến giúp . Jericho từ chối; ông ta còn xa hơn nữa. Nếu có bất kỳ hành động kiểm tra các hòm thư hay tìm cách biết ông ta là ai, hay nếu tiền được chuyển, ông ta có thể ngay lập tức im tiếng liền. Mossad đồng ý, nhưng cố thử những cách khác. Các chân dung tâm lý được dựng, chữ viết của ta được nghiên cứu. các danh sách người Iraq có chức có quyền được lập và nghiên cứu Mọi thứ mà những người của phòng thí nghiệm có thể hứa hẹn là Jericho khoảng chừng trung niên, có giáo dục trung bình, có khả năng nới ít tiếng thông thạo, và có tiền sử về quân hay gần như thế. - Cái đó khiến tôi phải để ý đến nửa những tên chỉ huy cao cấp Iraq, 50 thằng cha cao nhất trong đảng Ba'ath, và ông họ Fred của John Doe. Kobi Dror lầu bầu. Alfonso Benz Moncada điều hành Jericho trong vòng hai năm, và sản phẩm quả thực là vàng ròng. Nó liên quan đến chính trị, các vũ khí tối hậu, tiến bộ về quân , thay đổi chỉ huy, xử lý vũ khí, tên lửa, khí, chiến tranh vi trùng, và hai đòn đảo chính chống Saddam Hussein. Chỉ về tiến bộ của nguyên tử Iraq là Jericho còn e ngại. Dĩ nhiên ông ta được cầu điều đó. Nó nằm dưới bí mật tuyệt đối và chỉ được người Iraq tầm cỡ ngang với Robert Oppenheimer, nhà vật lý tiến sĩ Jaafar Al- Jaafar. biết đến. Khó lắm, ông ta cho biết. Mùa thu năm 1989 Jericho với Tel Aviv rằng Gerry Bull nằm dưới nghi ngờ và theo dõi ở Brussels bởi đội từ Mukhabarat của Iraq. Mossad, khi đó sử dụng Bull như là nguồn thông tin khác về tiến triển của chương trình hoả tiễn Iraq, cố cảnh báo ông bằng cách tế nhị nhất có thể được. có cách nào thẳng với ông những điều họ biết -quá mạo hiểm khi họ có gián điệp chìm ở Baghdad. và cơ quan gián điệp nào lại hy sinh của ngầm như thế. Do đó người katsa kiểm soát trạm ở Brussels cho người của mình đột nhập căn hộ của Bull nhiều lần trong mùa thu và mùa đông, để lại những thông điệp ngầm bằng cách tua lại băng video, đổi chỗ các chai rượu, đóng cửa sổ, thậm chí còn thả lại sợi tóc dài của phụ nữ gối của ông. Nhà khoa học về súng tất nhiên trở nên lo lắng, nhưng đủ. Khi thông điệp của Jericho liên quan đến ý định trừ khử Bull đến được quá chậm trễ. Vụ khử diễn ra. Thông tin của Jericho cung cấp cho Mossad bức tranh khá toàn cảnh về Iraq về triển khai kế hoạch xâm lấn Kuwait vào năm 1990. Những điều ông ta về các vũ khí huỷ diệt hàng loạt của Saddam khẳng định và mở rộng những gì Mossad biết qua Jonathan Pollard, người qua đó bị kết án tù chung thân. Nghĩ rằng nước Mỹ cái gì cũng biết. Mossad chờ đợi Mỹ phản ứng. Nhưng trong khi các chuẩn bị về hoá học, nguyên tử, và sinh học ở Iraq tiến triển, bối rối của phương Tây vẫn tiếp tục, nên Tel Aviv quyết định im lặng. Hai triệu đôla chuyển từ Mossad đến cho tài khoản được định danh của Jericho ớ Vienna vào tháng tám năm l990. quả là đắt, nhưng rất tốt. và Tel Aviv quyết định rằng ông ta xứng đáng được hưởng như thế. Rồi cuộc tấn công Kuwait bắt đầu và cái chưa được nhìn thấy trước diễn ra. Liên Hợp Quốc. thông qua Nghị quyết ngày Hai tháng Tám kêu gọi lraq rút quân ngay lập tức, cảm thấy thể tiếp tục ủng hộ Saddam bằng cách duy trì có mặt của mình ớ Baghdad được nữa. Vào ngày 7 tháng Tám, Hội đồng Kinh tê Tây Á đột ngột đóng cửa, và các nhà ngoại giao được gọi về. Benz Moncada có khả năng làm được việc cuối cùng trước khi . ta để lại thông điệp tại hòm thư cho Jencho rằng ta bị trục xuất và giờ đây liên lạc bị cắt đứt . Tuy nhiên. có thể quay trở lại, và Jericho nên tiếp tục dạo qua các chỗ nơi có phấn đánh dấu. Rồi ra . chàng Chilê trẻ tuổi thắng về London báo cáo toàn bộ những gì mình biết cho David Sharon. Do đó Kohi Dror có thể dối Chip Barber với bộ mặt hết sức ngây thơ. Lúc đó, quả ông điều hành cá chìm nào ở Baghdad. Có thể là quá mức bối rối để mà chấp nhận rằng ông chưa từng bao giờ phát cái tên kẻ phản bội và rằng giờ đây ông mất liên lạc mất rồi. Vẫn thế. như Sami Gershon thẳng ra, nếu người Mỹ có bao giờ tìm ra... ý, có lẽ ông ta nên nêu ra Jericho.