1. QUY ĐỊNH BOX EBOOK SƯU TẦM

    Khi các bạn post link eBook sưu tầm nhớ chú ý nguồn edit và Link dẫn về chính chủ

    eBook phải tải File trực tiếp lên forum (có thể thêm file mediafire, dropbox ngay văn án)

    Không được kèm link có tính phí và bài viết, hay quảng cáo phản cảm, nếu có sẽ ban nick

    Cách tải ebook có quảng cáo

Những Đứa Con Của Nửa Đêm - Salman Rushdie (30 Chương)

Thảo luận trong 'Truyện Phương Tây'

  • ^^! Nếu bạn không gửi link bài viết trên Facebook được, hãy sử dụng link trong khung này để chia sẻ bài viết :
    1. banglangtrang123

      banglangtrang123 Well-Known Member Staff Member Super Moderator

      Bài viết:
      26,213
      Được thích:
      47,825
      ! ! Padma: cậu tôi nhầm! Jamila mất tích trong tay Chính quyền; vì đúng vào đêm đó, tôi mơ thấy em, dưới bóng tối của đêm đen và che giấu của tấm khăn bình thường, phải cái áo choàng kim tuyến ai thấy là nhận ra ngay của Bác Puffs, mà tấm burqa đen bình dị, lên máy bay chạy trốn khỏi thủ đô; và đây là em, hạ cánh xuống Karachi, bị xét hỏi bị bắt giữ hoàn toàn tự do, em bắt taxi sâu vào lòng thành phố, và kia là tòa nhà kín cổng cao tường với ô cửa lật mà qua đó, có thời, lâu lắm rồi, tôi nhận bánh mì, thứ bánh mì men nở vốn là điểm yếu của em tôi; em gõ cửa xin vào, các nữ tu mở cửa trong lúc em nài xin tị nạn, phải, kia là em, vào trong an toàn, cửa chốt lại sau lưng em, đánh đổi dạng vô hình lấy dạng vô hình khác, ngày nay Mẹ Bề khác, vì Jamila Ca sĩ người từng, hồi còn là con Khỉ Đồng, dan díu với Thiên Chúa giáo, tìm thấy an toàn nơi nương náu bình yên ở dòng tu kín Santa Ignacia... phải, em ở đó, an toàn, biến mất, rơi vào tay bọn cảnh sát chuyên đấm đá bỏ đói tù nhân, mà an nghỉ, phải dưới nấm mồ vô danh bên bờ sông Ấn, mà vẫn sống, nướng bánh mì, và hát ngọt ngào cho các nữ tu kín; tôi biết, tôi biết, tôi biết. Làm sao tôi biết? người biết; thế thôi.

      Trách nhiệm, lại lần nữa công kích tôi: vì thể phủ nhận - sụp đổ của Jamila, như thường lệ, hoàn toàn là lỗi của tôi.



      Tồi sống tại nhà Mustapha Aziz bốn trăm hai mươi ngày... Saleem bận khóc thương muộn những người khuất; nhưng chớ nghĩ dù chỉ giây rằng tai tôi điếc! Đừng tưởng rằng tôi nghe thấy những điều tiếng quanh mình, những cuộc cãi cọ triền miên của cậu mợ tôi ( điều có lẽ giúp ông đến quyết định gửi bà vào nhà thương điên): Sonia Aziz la thét, “Thằng bhangi[12] - thằng ranh bẩn thỉu đê tiện ấy, nó còn chẳng phải cháu ông, tôi chẳng hiểu ông bị làm sao, ta nên tống thẳng cổ nó ra đường!” Mustapha, , đáp: “Thằng bé tội nghiệp tan nát cõi lòng, làm sao mình nỡ, bà chỉ cần để ý là thấy, đầu óc nó có vấn đề, nó chịu đựng quá nhiều điều tồi tệ.” Đầu óc có vấn đề! điều kinh khủng, khi thốt ra từ miệng họ - gia đình mà, nếu đặt cạnh họ, bộ lạc ăn thịt người lí lố còn có vẻ điềm đạm và văn minh hơn! Tại sao tôi lại chịu nổi điều này? Bởi vì tôi là kẻ ôm giấc mơ. Nhưng trong bốn trăm hai mươi ngày, đó là giấc mơ thành thực.

      [12] Kẻ nghiện hút (bhang nghĩa là thuốc phiện) và thuộc đẳng cấp thấp hèn.

      Ria ủ rũ, cao-nhưng-còng, số hai mãn kiếp: cậu Mustapha tôi phải là cậu Hanif tôi. Ông bây giờ là kẻ đứng đầu gia đình, người duy nhất của thế hệ ông sống sót sau vụ thảm sát 1965; nhưng ông chẳng giúp được gì tôi... Tôi đối mặt ông trong phòng làm việc chất đầy phả hệ của ông vào tối rét căm và giải thích - bằng thái độ nghiêm túc đúng mực và cử chỉ khiêm cung song kiên quyết – về sứ mệnh lịch sử của tôi phải cứu vớt cả dân tộc khỏi định mệnh; nhưng ông thở dài và đáp, “Nghe này, Saleem, cháu muốn ta làm gì? Ta giữ cháu lại đây; cháu ăn cơm nhà ta và làm gì cả như vậy cũng sao, cháu đến từ nhà người chị quá cố của ta, ta phải trông nom cháu - cứ nghỉ ngơi cho khỏe ; từ từ ta tính. Cháu muốn chân thư ký hay gì đấy, chắc ta thu xếp được; nhưng mấy giấc mơ Chúa-mới-biết ấy bỏ . Đất nước ở trong những bàn tay đáng tin cậy. Indiraji thực nhiều cải cách cấp tiến - cải cách ruộng đất, tái cơ cấu thuế, giáo dục, kế hoạch hóa gia đình - cháu có thể tin ở bà và sarkar của bà.” Dạy bảo tôi, Padma! Như thể tôi là thằng ngô ngọng! Ôi hổ thẹn thay, nỗi hổ thẹn ô nhục vì bị những kẻ đần lên mặt dạy đời!

      Ở mỗi ngã rẽ tôi đều vấp phải khó khăn; nhà tiên tri giữa chốn man di, như Maslama, như ibn Sinani! Dù tôi nỗ lực đến đâu, sa mạc vẫn là phần số của tôi. Ôi vô dụng hôi hám của những ông cậu xu nịnh! Ôi tham vọng bị xiềng xích bởi những họ hàng bợ đỡ mãn kiếp về nhì! Việc cậu tôi từ chối cầu khẩn thiết được đề bạt của tôi gây hậu quả nghiêm trọng: ông càng ca tụng Indira của ông tôi càng ghét cay ghét đắng bà ta. Kỳ thực, ông chuẩn bị cho tôi trở về với ghetto của giới ảo thuật, và cho... cho mụ ta… mụ Góa phụ.

      Ghen tị: chính thế đấy. ghen tị lớn lao từ bà mợ điên khùng, như thuốc độc rỉ vào tai cậu tôi, ngăn ông làm bất cứ điều gì để giúp tôi khởi đầu nghiệp mà tôi chọn. Số phận của vĩ nhân vĩnh viễn do lũ tiểu nhân định đoạt. Và còn cả: lũ tiểu phụ nhân điên khùng.

      Ngày thứ bốn trăm mười tám tôi ở đây, bầu khí tại ngôi nhà điên có thay đổi. Có người đến ăn tối: người có cái bụng núng nính, cái đầu thon lại ở đỉnh, phủ những lọn tóc bóng dầu, cái miệng dày thịt như môi hộ đàn bà. Tôi nghĩ mình nhận ra qua những bức ảnh báo. Quay sang trong những đứa em giới tính tuổi tác diện mạo, tôi tò mò hỏi, “Này em, có phải Sanjay Gandhi đấy ?” Nhưng sinh vật bị nghiền mịn ấy bị hủy diệt triệt để đến mức còn năng lực trả lời... có phải nhỉ? Khi ấy, tôi chưa biết điều tôi sắp ghi lại đây: có số nhân vật cao cấp của cái chính phủ kỳ khôi ấy (và số con trai chức danh của thủ tướng) có khả năng tự nhân bản... chỉ vài năm sau, hàng đàn hàng lũ Sanjay lúc nhúc khắp Ấn Độ! Trách nào mà cái vương triều kỳ quái ấy chẳng muốn áp đặt kiểm soát sinh đẻ lên tất cả chúng tôi… có thể như vậy, và cũng có thể ; nhưng ai đó biến mất vào thư phòng cùng Mustapha Aziz; và đêm đó - tôi nhìn lén - xuất cặp tài liệu bìa da đen khóa kín, đó chữ TỐI MẬT và KẾ HOẠCH M.C.C.; và sáng hôm sau ánh mắt cậu Mustapha nhìn tôi có chiều khác lạ, với vẻ gần như sợ hãi, hoặc là cái nhìn đặc biệt chán ghét mà giới Công chức dành riêng cho những kẻ bị thất sủng với chính quyền. Đáng lẽ tôi phải biết ngay điều gì chờ đợi tôi; song khi hồi cố mọi chuyện đều có vẻ đơn giản. Bây giờ hồi cố đến với tôi khi quá muộn, khi tôi bị đày ra vùng ngoại vi của lịch sử, khi các mối liên hệ giữa vận mệnh của tôi và của đất nước này vĩnh viễn bị cắt đứt... để tránh cái nhìn thể giải thích của cậu tôi, tôi ra vườn; và nhìn thấy Parvati-phù-thủy.

      ngồi vỉa hè với cái giỏ tàng hình đặt bên người; vừa thấy tôi ánh mắt liền sáng lên đầy trách cứ. “Cậu bảo quay lại, nhưng chả thấy đâu, nên tớ,” lắp bắp. Tôi cúi gằm mặt. “Tớ bận để tang,” tôi gượng gạo đáp, và , “Nhưng lẽ ra cậu vẫn có thể - lạy Chúa, Saleem, cậu hiểu đâu, ở khu trại tớ thể thổ lộ với ai về ma thuật của tớ, bao giờ, kể cả với Picture Singh người tớ coi như cha, tớ phải nín nhịn và nín nhịn, vì họ tin vào những điều như thế, và tớ tự nhủ, Có Saleem đây rồi, giờ ít ra mình cũng có người bạn, chúng mình có thể trò chuyện, có thể ở bên nhau, chúng mình đều trải qua, đều biết... và, ôi trời, biết sao nhỉ, Saleem, cậu chẳng quan tâm, cậu có được cái cậu cần rồi cậu bỏ thẳng, tớ chẳng là gì với cậu hết, tớ biết...”

      Đêm đó mợ Sonia điên khùng của tôi, chỉ còn vài ngày nữa là bị giam trong chiếc áo tâm thần[13] (chuyện này bị lên báo, mẩu tin ở trang trong; Sở của cậu tôi chắc khá khó chịu), lên cơn kích động dữ dội của chứng điên trầm trọng và xông vào phòng ngủ mà, nửa giờ trước, -người-có-đôi-mắt-to-tròn trèo vào qua ô cửa sổ ở tầng trệt; bà phát ra tôi giường cùng Parvati-phù-thủy, và sau đó cậu Mustapha còn hứng thú với việc chứa chấp tôi nữa, , “Mày là nòi bhangi, mày là quân đê tiện đến hết đời”; vào ngày thứ bốn trăm hai mươi, tôi rời nhà cậu tôi, bị đoạn tuyệt mọi liên hệ gia đình, rốt cuộc trở về với di sản thực của nghèo khổ và bần hàn mà tội ác của Mary Pereira lừa mất của tôi quá lâu. Parvati-phù-thủy chờ tôi vỉa hè; tôi cho biết rằng trong chừng mực nào đó tôi mừng vì bị mợ tôi làm gián đoạn, vì khi hôn trong bóng tối của cái đêm bất chính ấy, tôi thấy mặt biến đổi, trở thành gương mặt của tình cấm kỵ; những đường nét ma quái của Jamila Ca sĩ thay thế nét mặt của phù thủy; Jamila người (tôi biết mà!) an toàn náu trong tu viện tại Karachi đột nhiên cũng ở đây, có điều em trải qua biến hóa đen tối. Em bắt đầu mục rữa, mụn nhọt và lở loét khủng khiếp của tình cấm kỵ lan mặt em; như có lần hồn ma của Joe D’Cosca mục rữa vì bệnh hủi ma quái của cảm giác tội lỗi, giờ đây loài hoa loạn luân ôi rữa nở bộ mặt hồn ma của em tôi, và tôi thể làm điều đó, thể hôn hít vuốt ve nhìn ngắm khuôn mặt quỷ hồn thể nào chịu nổi này, tôi sắp sửa quay ngoắt với tiếng thét của nỗi hổ thẹn và hoài nhớ tuyệt vọng Sonia Aziz xông vào cùng ánh đèn điện và rú lên.

      [13] Loại áo có tay rất dài, dùng để buộc chéo ra sau lưng nhằm kiềm chế bệnh nhân tâm thần.

      Về phần Mustapha, ra, tai tiếng của tôi với Parvati, trong mắt ông, chẳng qua chỉ là cái cớ hữu ích để rũ bỏ tôi; nhưng điều này vẫn là nghi vấn, bởi chiếc cặp màu đen bị khóa tôi chỉ có thể căn cứ vào ánh nhìn trong mắt ông, mùi sợ hãi, ba chữ cái đầu cái nhãn - bởi sau này, khi mọi chuyện kết thúc, người đàn bà thất bại và đứa con trai môi--thần đá khóa cửa phòng trong hai ngày đế đốt tài liệu; và làm sao chúng ta biết được trong số đó có-hay- hồ sơ dán nhãn M.C.C.?

      Dầu sao, tôi cũng chả muốn ở lại. Gia đình: ý niệm bị phóng đại. Chớ nghĩ tôi buồn! Đừng tưởng dù chỉ giây rằng cổ họng tôi nghẹn lại khi bị trục xuất khỏi ngôi nhà ơn phước cuối cùng mở cửa đón tôi! nhé - tinh thần tôi rất phấn khởi khi ra ... có thể ở tôi có gì đó tự nhiên, có chút thiếu hụt căn bản của phản xạ cảm xúc; nhưng tâm trí tôi trước giờ luôn hướng đến những điều cao cả hơn. Cho nên tôi mới bền bỉ. Đánh tôi: tôi bật dậy. (Nhưng phản kháng cũng chẳng ích gì trước những vết nứt).

      Tóm lại: vứt bỏ niềm hy vọng ngây thơ trước kia về việc được đề bạt công chức, tôi quay về khu ổ chuột của giới ảo thuật và chaya của Thánh đường Thứ Sáu. Học theo đức Cồ Đàm, Buddha đầu tiên và chân chính, tôi từ bỏ đời nhung lụa làm kẻ hành khất dấn thân vào cõi thế. Hôm ấy là 23 tháng Hai năm 1973; các mỏ than và thị trường bột mì được quốc hữu hóa, giá dầu bắt đầu tăng phi mã, và gấp bốn sau năm, và trong đảng Cộng sản Ấn Độ, chia rẽ phe Moscow của Dange và C.P.I.(M.) của Namboodiripad đả trở nên thể hàn gắn; và tôi, Saleem Sinai, như Ấn Độ, vừa tròn hai mươi lăm tuổi, sáu tháng, tám ngày.



      Các ảo thuật gia đều là Cộng sản, hầu như có ngoại lệ. Cũng xin luôn rằng đồng thời với việc khám phá ra điều ấy, tôi, người được nuôi dưỡng trong tín ngưỡng chân chính kia của Ấn Độ (mà ta có thể gọi là Thương đạo[14]), người ruồng-bỏ-và-bị-ruồng-bỏ-bởi những ai tu tập đạo này, ngay lập tức thấy mình như cá gặp nước. Là phản đồ của Thương đạo, tôi sốt sắng hóa đỏ, đỏ nữa và đỏ mãi, cũng quả quyết và triệt để như có lần cha tôi từng hóa trắng, khiến giờ đây sứ-mệnh-cứu-nước của tôi có thể được nhìn nhận dưới ánh sáng mới; nhiều phương pháp luận cách mạng nảy sinh trong óc tôi. Đả đảo ách thống trị của những lão cậu bán hàng rong bất hợp tác và những lãnh đạo kính của lão! Đầu tràn ngập tư tưởng về đối-thoại-trực-tiếp-với-quần-chúng, tôi định cư ở khu trại của giới ảo thuật, kiếm sống bằng cách mua vui cho khách du lịch ngoại quỗc lẫn bản xứ bằng tuệ nhãn thần diệu của mũi tôi, thứ cho phép tôi ngửi ra những bí mật giản đơn, kiểu du khách của họ. Picture Singh rủ tôi về ở chung lều với . Tôi ngủ tấm vải bố tả tơi giữa những sọt rắn kêu phì phì; nhưng tôi thấy thoải mái, cũng như tôi thấy mình đủ sức chịu đựng đói rét muỗi và (lúc đầu) cái rét buốt của mùa đông Delhi. Picture Singh, Người Đàn Ông Dụ Hoặc Nhất Thế Gian này, đồng thời cũng là thủ lĩnh tranh cãi của ghetto; mọi khúc mắc và cãi cọ đều được giải quyết dưới bóng cái ô đen khổng lồ đâu có mặt của ; và tôi, người biết đọc biết viết và lại biết ngửi, thành ra kiểu sĩ quan phụ tá cho người đàn ông đồ sộ này, người bao giờ cũng khuyến mại bài giảng về chủ nghĩa xã hội kèm theo mỗi màn xiếc rắn, và người nổi tiếng khắp đường to ngõ của thành phố này chỉ về tài dụ rắn. Tôi có thể , với niềm tin tuyệt đối, rằng Picture Singh là người đàn ông vĩ đại nhất tôi từng biết.

      [14] Thương tức là thương nhân, thương mại; hiểu nôm na là tín ngưỡng của con buôn.

      buổi chiều, trong giờ chaya, ở ghetto xuất bản sao khác của gã thanh niên môi--thần mà tôi gặp ở nhà cậu Mustapha. Đứng bậc thềm thánh đường, giũ tấm băng rôn cho hai gã phụ tá giăng lên. đó có dòng chữ XÓA ĐÓI GIẢM NGHÈO và biểu tượng con-bê-bú-mẹ của đảng Quốc đại của Indira. Mặt trông đặc biệt giống khuôn mặt tròn trịa của con bê, và khi mở miệng phả ta cơn lốc thối mồm. “Hỡi các chị em! Đảng Quốc đại gì với các bạn? Đây: rằng mọi người sinh ra đều bình đẳng! kịp gì thêm; đám đông rụt lại trước hơi thở như phân bò dưới nắng gắt của , và Picture Singh bắt đầu cười hô hố. “Ô ha ha, đội trưởng, quá hay!” Và cặp môi--thần, ngu ngốc hỏi: “Ô kê, , người em, có gì hay kể xem nào?” Picture Singh lắc đầu, ôm bụng: “Bài diễn văn, đội trưởng! Diễn văn tuyệt đỉnh!” Tiếng cười của từ dưới mái ô lăn ra và nhiễm vào đám đông cho đến khi tất cả chúng tôi đều lăn lộn nên mặt đất, cười sằng sặc, nghiền nát kiến, bụi phủ đầy người, và giọng của con bê non[15] Quốc đại la lên thất thanh: “Cái gì thế này? bạn này cho rằng mọi người đều bình đẳng? Tư tưởng thấp kém quá nhỉ...” nhưng giờ Picture Singh, ô--đầu, sải bước về phía lều của . Cặp môi--thần thở phào, tiếp tục diễn thuyết... nhưng được bao lâu, bởi vì Picture quay lại, ôm dưới tay trái cái sọt tròn có nắp và cặp dưới nách phải ống sáo. đặt cái sọt lên bậc thềm dưới chân giai Quốc đại; mở nắp; đặt sáo lên môi. Giữa những tràng cười lại rộ lên, gã chính khách trẻ nhảy bắn bốn mươi bảy xăng ti mét lên khi con hổ mang chúa ngái ngủ lắc lư ngóc đầu dậy từ cái sọt... Cặp môi--thần rú lên: “Làm cái gì thế hả? Định giết tươi người ta à?” Và Picture Singh, phớt lờ , ô xếp gọn lại, tiếp tục chơi, mỗi lúc bốc hơn, và con rắn duỗi thẳng ra, Picture Singh chơi nhanh nhanh nữa đến khi tiếng sáo lan khắp mọi ngóc ngách của khu ổ chuột và đe dọa làm tróc tường thánh đường, và sau cùng con rắn khổng lồ lơ lửng giữa khí, được nâng đỡ chỉ nhờ ma thuật của tiếng sáo, vươn dài ba thước khỏi cái sọt và nhảy múa bằng cái đuôi... Tiếng sáo dịu . Nagaraj[16] thu mình cuộn lại. Người Đàn Ông Dụ Hoặc Nhất Thế Gian đưa cây sáo cho gã trai Quốc đại: “Ô kê, đội trưởng,” Picture Singh hòa nhã , “cậu thử xem.” Nhưng cặp môi--thần: “Hả, thừa biết tôi làm được!” Picture Singh liền kẹp cổ con hổ mang, há miệng to to, phô ra mớ tàn tích hào hùng của răng và lợi; nháy mắt trái với gã trai Quốc đại, đút cái đầu con rắn hổ thò thụt lưỡi vào cái động khẩu gớm ghiếc ngoác rộng của mình! Đúng phút trôi qua trước khi Picture Singh trả con hổ mang vào sọt. Hết sức nhàng, bảo gã trai: “Cậu thấy đấy, đội trưởng, đấy là của vấn đề: ở đời luôn có kẻ hơn người kém. Nhưng nếu cậu nghĩ ngược lại, chì cũng tốt thôi.”

      [15] Ở đây Rushdie chơi chữ: mooncalf trong tiếng nghĩa là thằng ngốc, nhưng về mặt chữ nó nghĩa là con bê (calf), có ý mỉa mai Sanjay Gandhi chỉ như con bê non (logo cũ của đảng Quốc đại thời Indira Gandhi vẽ hình con bò cái và con bê).

      [16] Rắn chúa (Naga = rắn, Raj(a) = vua).

      Chứng kiến cảnh này, Saleem Sinai hiểu ra rằng Picture Singh và các ảo thuật gia là những kẻ nhận thức tuyệt đối chắc chắn về thực; họ nắm bắt nó vững vàng đến nỗi có thể uốn nắn nó ra sao tùy ý để phục vụ nghệ thuật, nhưng bao giờ quên bản chất của nó.




      Vấn đề của ghetto ảo thuật cũng là vấn đề của phong trào Cộng sản Ấn Độ; trong phạm vi khu trại, ta có thể thấy, dưới dạng thu , vô số mâu thuẫn và bất đồng giày xéo nội bộ đảng này cả nước. Picture Singh, tôi phải ngay, đứng tất cả; là người cha tinh thần của ghetto, sở hữu chiếc ô mà bóng râm của nó có khả năng khôi phục hòa khí giữa các phe phái hục hặc; nhưng những mâu thuẫn được đem đến dưới bóng ô của người-dụ-rắn ngày càng gay gắt hơn, bởi trong khi các xảo thuật gia, những người lôi thỏ ra từ mũ, hậu thuẫn đảng C.P.I. chính thống theo đường lối Moscow của Ngài Dange, phe ủng hộ bà Gandhi suốt thời kỳ ban bố Tình trạng khẩn cấp, các nghệ sĩ uốn dẻo bắt đầu ngả hơn về hệ tư tưởng phức tạp ngày càng thiên tả của phe thân Tàu. Những nghệ sĩ ăn lửa và nuốt kiếm hoan nghênh chiến thuật du kích của phong trào Naxalite; trong khi các nhà thôi miên và --than-hồng ủng hộ tuyên ngôn của Namboodiripad ( theo cả Moscow lẫn Bắc Kinh) và căm ghét đường lối bạo động của phái Naxalite[17]. xuất xu hướng Trotskyist trong đám cờ bạc bịp, cũng như phong trào Cộng-sản-thông-qua-bỏ-phiếu trong các thành viên ôn hòa của phe phúc ngữ. Tôi bước vào môi trường nơi, trong khi mọi định kiến tôn giáo và vùng miền vắng bóng hoàn toàn, bản năng thiên phú xa xưa của đất nước này là chia tách tìm thấy nhiều hình thức biểu mới. Picture Singh buồn rầu kể cho tôi rằng hồi tổng tuyển cử năm 1971 xảy ra vụ án mạng kỳ quái nảy sinh từ vụ cãi cọ giữa người nuốt lửa phái Naxalite và thuật sĩ phe Moscow, người, sôi máu vì quan điểm của đối thủ, định lôi từ chiếc mũ ma thuật ra khẩu súng; nhưng món vũ khí chưa kịp rút ra người ủng hộ Hồ Chí Minh thiêu chết đối thủ bằng cách thổi bùng lên lưỡi lửa kinh hồn.

      [17] Naxalite là từ chỉ những nhóm cộng sản theo đường lối vũ trang, tiến hành chiến tranh du kích ở Ấn Độ.

      Dưới bóng ô của mình, Picture Singh về chủ nghĩa xã hội hoàn toàn chịu ảnh hưởng nước ngoài. “Nghe này, đội trưởng,” bảo các nghệ sĩ phúc ngữ và múa rối, “khi về làng các cậu có mang chuyện mấy ông Stalin với Mao ra ? Nông dân Bihar và Tamil quan tâm gì việc Trotsky bị giết?” Chaya của chiếc ô ma thuật của làm nguội những cái đầu nóng nhất trong giới phù thủy; và gây ấn tượng mạnh mẽ với tôi rằng ngày rất gần Picture Singh tiếp bước Mian Abdullah rất nhiều năm trước; và rằng, như con Chim ngân nga huyền thoại, rời ghetto để nhào nặn lịch sử hoàn toàn bằng sức mạnh ý chí của mình; và rằng, như người hùng của ông tôi, gì có thể ngăn bước cho đến khi , và lý tưởng của , giành chiến thắng... nhưng, nhưng. Luôn luôn có nhưng nhưng. Điều gì xảy ra, xảy ra. Chúng ta đều biết vậy.

      Trước khi quay lại với câu chuyện đời tư của mình, tôi muốn tất cả biết rằng chính Picture Singh là người hé lộ cho tôi rằng nền kinh tế “đen”, đồi bại của đất nước này tăng trưởng ngang bằng với trạng thái “trắng” và chính thống của nó, bằng cách cho tôi xem bức ảnh đăng báo của Bà Gandhi. Mái tóc bà ta, rẽ ngôi giữa, bên trắng như tuyết và bên đennhưđêm, thành thử, tùy vào diện mạo bà ta muốn phô diễn, bà ta giống con ermine hoặc con chồn đuôi ngắn[18]. tái của ngôi giữa trong lịch sử; đồng thời, nền kinh tế phản ánh kiểu tóc của Thủ tướng... Những nhận thức quan trọng này đều nhờ Người Đàn Ông Dụ Hoặc Nhất Thế Gian truyền đạt cho tôi. Picture Singh chính là người bảo tôi rằng Mishra, Bộ trưởng Đường sắt, cũng chính là bộ trưởng được chính thức bổ nhiệm của ngành hối lộ, đầu mối phê duyệt những áp phe lớn nhất của nền kinh tế đen, và người môi giới việc đút lót các bộ trưởng và quan chức hữu quan; nhờ Picture Singh, tôi chắc chẳng bao giờ biết đến việc dàn xếp kết quả trong các kỳ bầu cử cấp bang ở Kashmir. Tuy vậy, cũng chẳng phải người say mê dân chủ: “Quỷ tha ma bắt trò bầu cử này , đội trưởng,” bảo tôi, “Mỗi lần như thế, những chuyện tồi tệ lại xảy ra; dân mình lại xử như lũ hề.” Tôi, mê man trong cơn-sốt-làm-cách-mạng, thể phản bác lại thầy.

      [8] Ermine chính là chồn đuôi ngắn. Loài chồn này lưng xám bụng trắng, nếu nó bằng bốn chân, ta chỉ thấy nó màu xám, còn khi nó đứng bằng hai chân sau (khi nhìn từ phiá trước) ta thấy nó trắng hoàn toàn.



      Quy củ ở ghetto, tất nhiên, cũng có vài ngoại lệ: hai ảo thuật gia vẫn theo tín ngưỡng Hindu và, về mặt chính trị, ủng hộ đảng Jana Sangh hệ phái Hindu của những kẻ cực đoan tai tiếng theo chủ thuyết Ananda Marga[19]; có cả cử tri Swatantra[20] trong số những người tung hứng. Bỏ qua vấn đề chính trị, bà lão Resham Bibi là trong ít cư dân của cộng đồng này vẫn là kẻ hoang tưởng vô phương cứu chữa, vẫn mê tín (chẳng hạn) rằng đàn bà cấm được trèo dừa, bởi cây dừa nào chịu sức nặng của đàn bà mãi mãi đậu quả chua... và có fakir kỳ lạ tên là Chishti Khan, người có khuôn mặt láng mịn đến mức ai biết ông ta mới mười chín hay chín mươi, và dựng quanh lều kiến trúc kỳ quái bằng tre và giấy màu vụn khiến nhà ông ta trông như bản sao thu , nhiều màu của Thành Đỏ gần đấy. Chỉ khi qua cánh cổng pháo đài, người ta mới nhận ra rằng đằng sau cái mặt tiền hình cung được chế tác kỳ công gồm dãy lô cốt và công bằng tre và giấy bồi ấy cũng là căn lều xập xệ dựng bằng tôn và bìa như bao căn khác. Chishti Khan mắc sai lầm căn bản khi để chuyên môn nhiễm sang đời ; ông ta bị cả ghetto xa lánh. Giới ảo thuật đều giữ khoảng cách, sợ lây bệnh từ những giấc mơ của ông ta.

      [19] Jana Sangh là chính đảng lớn ở Ấn Độ, tồn tại trong giai đoạn 1951-1980, chủ trương truyền bá đạo Hindu, tiếng Hindi và bảo vệ bò thiêng. Ananda Marga là chủ thuyết xã hội và tin ngưỡng ở Ấn Độ, có nguồn gốc tư tưởng xuất phát từ các triết lý Vệ Đà và Tantra.

      [20] chính đảng theo tư tưởng tự do cổ điển ở Ấn Độ.

      Có vậy quý vị mới hiểu tại sao Parvati-phù-thủy, người sở hữu ma thuật thần kỳ đích thực, phải giữ kín chuyện đó suốt đời; bí mật về biệt tài được nửa đêm ban tặng của dễ dàng nhận được tha thứ của cộng đồng vẫn hằng phủ nhận khả năng tồn tại của những điều như thế.



      Ở góc khuất của Thánh đường Thứ Sáu, nơi vắng bóng các ảo thuật gia, còn nguy cơ duy nhất là từ những người mót-đồng-nát, kiếm-thùng-gỗ-vứt- hay săn-sắt-vụn... đó là nơi Parvati-phù-thủy, hăm hở như mù tạc, cho tôi thấy làm được những gì. Mặc tấm shalwar-kameez khiêm nhường may từ vải vụn của cả chục tấm khác, nữ pháp sư của nửa đêm biểu diễn cho tôi với niềm nhiệt tình và háo hức của đứa trẻ. Mắt tròn xoe, tóc đuôi ngựa vặn thừng, môi đỏ căng mọng... tôi chẳng bao giờ cưỡng lại lâu đến thế nếu vì gương mặt ấy, cặp mắt cái mũi đôi môi thối rữa ghê rợn của... Ban đầu năng lực của Parvati dường như có giới hạn. (Nhưng có đấy.) À, thế : tinh có được triệu đến? Thần Đèn có lên, hứa cho chúng tôi giàu có và chu du thế giới thảm bay? Ếch có hóa thành hoàng tử, và đá có biến thành ngọc quý? Có chuyện bán-rẻ-linh-hồn, và gọi người chết sống dậy? Chẳng có gì hết; ma thuật mà Parvati-phù-thủy biểu diễn cho tôi - thứ ma thuật duy nhất bằng lòng biểu diễn - là loại ma thuật “trắng”. Như thể cuốn Kỳ Thư của Bà la môn, Atharva Veda[21], tiết lộ mọi bí mật của mình cho ; có thể chữa bệnh và giải độc (để chứng minh, cho rắn cắn mình rồi chống lại nọc độc bằng nghi lẽ kỳ lạ, gồm có cầu thần rắn Takshasa, uống nước hòa với tinh chất của cây Krimuka và sức mạnh của quần áo cũ luộc chín, và niệm câu thần chú: Garudamand, thần ưng, phục thuốc độc, nhưng vô hiệu; tương tự như thế ta chuyển hướng độc lực của nó, như chuyển hướng mũi tên) - có thể chữa lành những chỗ đau và luyện bùa - biết luyện bùa sraktya và Nghi thức Lễ Cây[22]. Và tất cả những điều này tiết lộ với tôi, trong chuỗi màn trình diễn về đêm phi thường, dưới những bức tường của Thánh đường - nhưng vẫn kém vui.

      [21] Cuốn thứ tư trong bộ sách thiêng của đạo Hindu (thường gọi chung là kinh Vệ Đà), nội dung chủ yếu là y thuật và pháp thuật.

      [22] Sraktya là loại gỗ quý chuyên dùng để luyện bùa. Câu thần chú của Parvati và nghi thức Lễ Cây đều xuất xứ từ cuốn Atharva Veda.

      Như mọi lần, tôi buộc phải nhận trách nhiệm: mùi hương sầu muộn vây quanh Parvati-phù-thủy là tác phẩm của tôi. Bởi vì hai mươi lăm, và cái muốn ở tôi chỉ là sẵn sàng làm khán giả của ; Chúa mới hiểu vì sao, nhưng muốn tôi vào giường với - hay, chính xác hơn, nằm cùng tấm vải bao tải là giường của trong túp lều xập xệ được chia sẻ với gia đình ba nghệ sĩ uốn dẻo đến từ Kerala, ba cũng mồ côi như - và như tôi.

      Những gì làm cho tôi: dưới sức mạnh ma thuật của , tóc bắt đầu mọc ở nơi chúng chưa hề mọc lại từ khi lão Zagallo kéo quá mạnh; pháp lực của làm hai vết bớt mặt tôi nhạt sau khi xức thuốc thảo dược chữa thương; thậm chí chân tôi cũng bớt vòng kiềng dưới chăm sóc của . (Tuy nhiên, hoàn toàn bất lực trước bên tai điếc của tôi; phép thuật nào trái đất đủ mạnh để tẩy sạch những di sản của cha mẹ để lại.) Nhưng dẫu làm cho tôi bao nhiêu, tôi vẫn thể làm cho cái điều khao khát nhất; bởi mặc dù chúng tôi nằm xuống bên nhau dưới lối ở mặt khuất của Thánh đường, ánh trăng vẫn soi tỏ gương mặt ban đêm của , hóa thành, luôn luôn hóa thành gương mặt người em xa cách, mất tích của tôi... , phải em tôi... thành gương mặt thối rữa, biến dạng gớm ghiếc của Jamila Ca sĩ. Parvati xức lên người loại dầu cao tẩm bùa , chải tóc hàng ngàn lần bằng chiếc lược làm từ thứ xương hươu kích tình; và (tôi hề nghi ngờ) sau lưng tôi chắc hẳn thử nghiệm đủ loại huyền thuật ái tình; nhưng tôi mắc phải bùa chú cũ hơn, và, dường như, thể bị phá giải; định mệnh buộc tôi phải thấy khuôn mặt những phụ nữ tôi biến thành đường nét của... nhưng quý vị biết những đường nét rữa nát, xộc vào mũi tôi mùi hôi thối kinh hoàng ấy là của ai rồi.

      bé tội nghiệp,” Padma thở dài, và tôi đồng ý; nhưng cho đến khi mụ Góa phụ hút kiệt quá khứ tại tương lai khỏi tôi, tôi vẫn phải chịu đựng lời nguyền của con Khỉ.

      Khi Parvati-phù-thủy rốt cuộc phải thừa nhận thất bại, gương mặt phát sinh, sau đêm, nét dằn dỗi nổi bật và đáng lo ngại. thiếp trong túp lều của ba chị em uốn dẻo mồ côi và tỉnh dậy với cặp môi đầy đặn bĩu hẳn ra trong vẻ hờn dỗi tràn trề nhục cảm. Ba chị em mồ côi cho biết, và lo lắng bảo nhau hiểu mặt bị làm sao; nỗ lực hết sức để đưa nét mặt mình trở lại như cũ, nhưng chẳng cơ bắp hay ma thuật nào có thể giúp phục hồi nguyên trạng; cuối cùng, đành lòng chấp nhận bi kịch này, Parvati chịu thua, thế là Resham Bibi bảo bất kỳ ai chịu lắng nghe: “Con bé tội nghiệp - nó bị thần phạt khi làm mặt dỗi.”

      ( tình cờ, năm ấy, chị em phụ nữ thành thị sành điệu đều làm vẻ mặt tương tự nhằm tỏ ra gợi tình; đám người mẫu kiêu kỳ ở show thời trang Eleganza năm 73 đều bĩu môi khi sải bước sàn catwalk. Trong cảnh bần hàn cơ cực của khu ổ chuột của giới ảo thuật, nàng Parvati-phù-thủy bĩu môi là đỉnh cao của gương mặt thời trang.)

      Các ảo thuật gia dốc rất nhiều tâm sức để làm Parvati cười trở lại. Bỏ bê cả công việc lẫn nhiệm vụ nhàm chán hơn là dựng lại những túp lều tôn-và-bìa bị gió to giật đổ, hay diệt chuột, họ biểu diễn những tiết mục khó khăn nhất hòng làm đẹp ý; nhưng đôi môi vẫn suy suyển. Resham Bibi pha trà xanh ướp long não và ép uống hết. Tác dụng của trà gây ra cơn táo bón nghiêm trọng đến nỗi ai thấy đại tiện ở sau lều suốt chín tuần liền. Hai nghệ sĩ tung hứng trẻ nảy ra suy đoán rằng có lẽ bắt đầu thương khóc người cha quá cố lần nữa, và đặt ra cho mình nhiệm vụ vẽ chân dung của ông mảnh vải dầu cũ rồi đem treo nó bên manh chiếu bao tải của . Ba chị em pha trò, còn Picture Singh, hết sức buồn phiền, bắt rắn hổ mang tự thắt nút; nhưng tất cả đều ăn thua, bởi vì nếu mối tình trắc trở của Parvati nằm ngoài khả năng chữa trị của chính , người khác hy vọng gì? Áp lực từ cặp môi của Parvati gây ra, ở ghetto, tâm lý bất an thể gọi tên, mà lòng thù ghét của toàn bộ giới ảo thuật đối mặt với những điều thần bí cũng thể xua tan hoàn toàn.

      Thế rồi Resham Bibi nảy ra ý. “Chúng ta dốt quá,” bà lão bảo Picture Singh, “chuyện ngay trước mũi mà chẳng nhìn ra. Con bé tội nghiệp hăm lăm, baba - quá lứa nhỡ đến nơi rồi! Nó ao ước tấm chồng!” Picture Singh kinh ngạc. “Resham Bibi,” gật gù tán thành, “não bà chưa chết hẳn đâu.”

      Từ đó, Picture Singh tự lãnh trách nhiệm tìm cho Parvati chàng trai thích hợp; khá nhiều thanh niên trong ghetto nếm mùi dụ dỗ nạt nộ dọa dẫm. số ứng cử viên được chọn ra; nhưng đều bị Parvati từ chối. Vào cái đêm bảo Bishmillah Khan, người nuốt lửa triển vọng nhất của khu trại, biến với hơi thở cay mùi ớt của gã, đến cả Picture Singh cũng tuyệt vọng. Đêm đó, bảo tôi, “Đội trưởng, con bé này làm vừa bế tắc vừa đau lòng; nó là bạn thân của chú, chú có ý tưởng gì ?” Rồi ý tưởng nảy ra trong đầu , ý tưởng phải đợi đến khi tuyệt vọng bởi vì ngay cả Picture Singh cũng chịu ảnh hưởng của tư tưởng đẳng cấp - tự động xem tôi là “quá tốt” đối với Parvati, vì xuất thân được cho là “cao quý hơn’’ của tôi, người Cộng sản lớn tuổi cho đến lúc này chưa từng nghĩ rằng tôi có thể... “Chú xem, đội trưởng,” Picture Singh ngần ngại hỏi, “chú định ngày nào đó lập gia đình chứ?”

      Saleem Sinai nghe nỗi sợ hãi dâng lên trong lòng.

      “Nghe này, đội trưởng, cậu thích con bé, đúng hỉ?” - và tôi, thể phủ nhận, “Tất nhiên.’’ Và giờ Picture Singh, cười toét miệng đến mang tai, trong khi rắn phì phì trong sọt: “Thích lắm , đội trưởng. Lắm lắm ?” Nhưng tôi nghĩ đến ra khuôn mặt trong đêm của Jamila; và đến quyết định tuyệt tình “Pictureji, em thể lấy ấy được.” Và giờ , nhíu mày: “ lẽ cậu có gia đình, đội trưởng? Có vợ bìu con ríu ở đâu rồi?” Giờ hết cách; tôi, khẽ khàng, hổ thẹn, đáp: “Em lấy ai được, Pictureji. Em thể có con.”

      im lặng trong lều chỉ bị gián đoạn bởi tiếng rắn phì phì và tiếng chó hoang gọi nhau trong đêm.

      “Cậu chứ, đội trưởng? Bất lực à?”

      “Vâng.”

      “Bởi vì được dối về những cái - như thế, đội trưởng. dối về năng lực đàn ông là rất, rất gở. Điều gì cũng có thể xảy ra, đội trưởng.”

      Và tôi, tự gieo xuống đầu mình lời nguyền của Nadir Khan, mà cũng là của cậu tôi Hanif Aziz và của, trong vụ đóng băng và suốt thời gian dài sau đó, cha tôi Ahmed Sinai, bị dồn đến chỗ phải dối cách càng giận dữ hơn: “Em rồi,” Saleem kêu lên, “ đấy, có thế thôi!”

      “Vậy , đội trưởng,” Pictureji, đập tay lên trán, bi thảm , “Chúa mới biết phải làm gì với con bé tội nghiệp ấy.”

    2. banglangtrang123

      banglangtrang123 Well-Known Member Staff Member Super Moderator

      Bài viết:
      26,213
      Được thích:
      47,825
      Chương 28: Đám cưới




      Tôi kết hôn với Parvati-phù-thủy vào 23 tháng Hai năm 1975, đúng vào dịp kỷ niệm hai năm ngày tôi, kẻ bị ruồng bỏ, trở lại ghetto của giới ảo thuật.

      Người Padma đờ ra: căng như dây phơi, bông sen-phân của tôi chất vấn: “Kết hôn? Nhưng mới đêm qua ông còn bảo, mình - mà sao bao ngày bao tuần bao tháng qua ông cho em biết...?” Tôi buồn bã nhìn , và nhắc rằng tôi từng đề cập đến cái chết của Parvati tội nghiệp, cái chết phi tự nhiên... Padma từ từ xẹp xuống, khi tôi tiếp tục: “Đàn bà tạo ra tôi; và cũng hủy hoại tôi. Từ Mẹ Bề đến mụ Góa phụ, và thậm chí cả sau này, vận mệnh của tôi luôn do những đối tượng được gọi ( cách sai lầm, theo ý tôi) là phái yếu định đoạt. Đây, có lẽ, cũng là câu chuyện về liên kết: Mẹ Ấn Độ, Bharat-Mata, chẳng phải vẫn thường được nhân cách hóa thành phụ nữ đấy sao? Và, quý vị đều biết, thể nào trốn thoát khỏi Người.”

      Có ba mươi hai năm, trong câu chuyện này, là lúc tôi chưa ra đời; chẳng bao lâu nữa, tôi có thể hoàn thành năm thứ ba mươi mốt của đời tôi. Trong sáu mươi ba năm ấy, trước và sau Nửa đêm, đàn bà đem đến những điều tốt đẹp nhất; và cả, tôi buộc phải rằng, tồi tệ nhất.

      Trong ngôi nhà bên hồ của lão chúa đất mù xứ Kashmir, Naseem Aziz kết án tôi phải chung thân gắn bó với những tấm vải khoét lỗ; và cũng mặt hồ ấy, Ilse Lubin đả rỉ vào lịch sử, và tôi vẫn chưa quên di nguyện của ;

      Trước khi Nadir Khan trốn xuống thế giới ngầm, bà tôi , bằng việc trở thành Mẹ Bề , mở đầu chuỗi những người đàn bà thay tên đổi họ, điều tiếp tục đến tận ngày nay - và thậm chí rỉ sang cả Nadir, người biến thành Qasim, và ngồi trong quán café Pioneer với đôi bàn tay nhảy múa; và sau khi Nadir bỏ , mẹ tôi Mumtaz Aziz trở thành Amina Sinai;

      Và Alia, với niềm cay đắng của tuổi tác, người bọc tôi trong những quần áo trẻ em thấm đẫm lòng oán hận già; và Emerald, người bày bàn ăn cho tôi thực cuộc hành quân của lọ gia vị;

      Và Quận chúa xứ Cooch Naheen; người, bằng việc tài trợ cho người đàn ông ngân nga, khai sinh ra dịch bệnh lạc quan, căn bệnh, từ đó, cứ cách thời gian lại bùng phát; và, ở khu đạo Hồi của Delhi Cũ, họ xa tên gọi Zohra, mà nết lả lơi gieo mầm, trong cha tôi, cho điểm yếu sau này của ông với những ả Fernanda và Flory;

      Rồi đến Bombay. Nơi Vanita của Winkie thể cưỡng lại cái ngôi giữa của William Methwold, còn Nussie-vịt-bầu thất bại trong cuộc-đua-đẻ; trong khi Mary Pereira, nhân danh tình , tráo hai chiếc thẻ tên của lịch sử và trở thành người mẹ thứ hai của tôi...

      Đàn bà và đàn bà và đàn bà: Toxy Catrack, người đẩy hé cánh cửa sau này rộng mở đón lũ trẻ của nửa đêm; Bi-Appah bà bảo mẫu đáng sợ của con ; cuộc tranh giành thương giữa Amina và Mary, và thứ mẹ tôi phô ra trước mắt tôi khi tôi nấp trong tủ giặt; phải, Trái Xoài Đen, thứ buộc tôi khịt mạnh, và giải phóng thứ--phải-Tổng-Thiên-thần!... Và Evelyn Lilith Burns, căn nguyên của vụ tai nạn xe đạp, người đẩy tôi từ ngọn đồi hai tầng lao xuống vòng xoáy của lịch sử.

      Và con Khỉ. Tôi được phép quên con Khỉ.

      Và còn nữa, còn nữa, còn Masha Miovic, người khích tôi đến chỗ cụt-ngón-tay, và mợ Pia, làm tim tôi tràn ngập dục-vọng-báo-thù; và Lila Sabarmati, mà thiếu đoan chính cho tôi cơ hội thực đòn báo thù khủng khiếp, thao túng kẻ khác, cắt-từ-báo-ra của mình;

      Và Bà Dubash, người tìm thấy món quà truyện tranh Siêu nhân của tôi và xây nó, với hỗ trợ của con trai, thành Đức Khusro Khusrovand;

      Và Mary, nhìn thấy hồn ma.

      Tại Pakistan, xứ sở của phục tùng, quê hương của thuần khiết, tôi chứng kiến quá trình hóa thân của Khỉ-thành-Ca-sĩ, và mua bánh mì, và đem lòng ; cũng là người đàn bà, Tai Bibi, cho tôi biết về bản thân mình. Trong sâu thẳm của bóng tối nội tâm, tôi quay sang các Puffia, và thoát khỏi hiểm họa dâu có bộ răng vàng chỉ trong gang tấc.

      Tái sinh thành buddha, tôi ngủ với con dọn nhà xí và kết quả là nếm mùi hố xí dẫn điện; ở Cánh Đồng, chị nông dân quyến rũ tôi, và hệ quả là Thời Gian bị sát hại; rổi xuất các houri trong ngôi đền, và chúng tôi thoát thân vừa kịp lúc.

      Dưới bóng thánh đường, Resham Bibi đưa ra lời cảnh báo.

      Và tôi kết hôn với Parvati-phù-thủy.

      “Ôi, ông ơi,” Padma cảm thán, “nhiều đàn bà quá thể!”

      Tôi phản đối; vì tôi còn chưa tính cả , chủ nhân của những giấc mơ về hôn nhân và Kashmir bắt đầu rỉ sang tôi và làm tôi ao ước, giá như, giá như, khiến tôi, từng xuôi tay cam phận trước những vết nứt, giờ đây lại bị những cơn đau nhói của bất mãn, giận dữ, sợ hãi và nuối tiếc giày vò.

      Nhưng hết, là mụ Góa phụ.

      “Em xin thề!” Padma vỗ đùi, “Quá nhiều, ông ạ; quá nhiều.”

      Chúng ta nên hiểu về quá-nhiều-đàn-bà của tôi ra sao? Như nhiều gương mặt của Bharat-Mata? Hay còn hơn như thế... như trạng thái động của maya, như năng lượng vũ trụ, tượng trưng là cơ quan sinh dục nữ?

      Maya, ở trạng thái động, được gọi là Shakti; có lẽ phải ngẫu nhiên mà, trong thê giới thần linh Hindu, năng lượng hoạt động của vị thần được tích tụ trong vợ của vị thần ấy! Maya-Shakti sinh ra, đồng thời “bao bọc ý thức trong lưới-mộng củỉ mình”. Quá-nhiều-đàn-bà: phải chăng họ đều là hình tượng của Devi, vị Nữ thần - cũng là Shakti, người hạ sát con trâu quái, người đánh bại quái vật Mahisha[1], và đồng thời là Kali Durga Chandi Chamunda Uma Sati và Parvati[2]... và người, ở trạng thái động, được tô màu đỏ?

      [1] Mahisha là ác thần (atula) có thể hóa thành người hay trâu tùy ý. Theo truyền thuyết, nữ thần Durga chiến đấu với Mahisha và giết chết y sau mười ngày giao tranh.

      [2] Devi là Đại nữ thần, đại diện cho giống cái của thần. Mỗi nam thần trong Ấn Độ giáo có nữ thần tương ứng (tức Shakti). Ví dụ Shakti của Vishnu là Lakshmi, Shakti của Shiva là Parvati. Ở đây Kali, Durga Chandi, Chamunda, Uma, Sati và Parvati đều là Shakti, tức là các hình tướng khác nhau của Devi.

      “Em chả biết mấy cái đó” Padma kéo tôi trở lại mặt đất, “Ai cũng là đàn bà cả, thế thôi.”

      Hạ xuống từ đôi cánh của trí tưởng tượng, tôi được nhắc nhở về quan trọng của tốc độ; bị cấp bách của những rách nứt rạn thôi thúc, tôi chấm dứt mọi suy tưởng; và bắt đầu.



      Chuyện xảy ra như thế này: Parvati tự mình định đoạt số phận; lời dối, thốt ra từ môi tôi, đẩy vào chỗ tuyệt vọng. Trong tâm trạng ấy, đêm, rút trong manh áo tả tơi ra lọn tóc hùng, và bắt đầu lầm rầm niệm chú.

      Bị Saleem ruồng rẫy, Parvati nhớ tới kẻ thù đội trời chung thời của gã; và, tay cầm que tre bảy đốt, đầu gắn chiếc móc sắt tự chế, ngồi xổm trong lều và niệm chú; Móc câu của Indra tay phải, lọn tóc tay trái, triệu đến bên . Parvati gọi Shiva; tin hay tùy, nhưng Shiva đến.

      Ngay từ đầu luôn có đầu gối và mũi, mũi và đầu gối; nhưng suốt quá trình kể chuyện, tôi ngừng đẩy , kẻ kia, vào hậu trường (như lần, tôi cấm cửa tại các phiên họp của Lũ Trẻ). Tuy nhiên, tôi thể bưng bít thêm nữa; bởi vì vào buổi sáng tháng Năm năm 1974 - có phải vì trí nhớ rạn nứt của tôi, hay tôi vẫn nhớ đúng khi cho rằng hôm đó là ngày 18, có lẽ đúng vào thời điểm sa mạc Rajasthan chấn động bởi vụ thử bom hạt nhân đầu tiên của Ấn Độ? Có phải việc Shiva bùng nổ vào đời tôi xảy ra đồng thời với kiện Ấn Độ đặt chân, hề báo trước, vào kỷ nguyên hạt nhân? - đến ổ chuột của giới ảo thuật. Vận quân phục, mề-đay-và-sao chỉnh tề, lên lon Thiếu tá, Shiva bước xuống từ chiếc mô tô Quân đội; mặc dù có lớp kaki bình dị của chiếc quần Nhà binh, người ta vẫn dễ dàng nhận thấy hai chỗ phồng lên mồn của cặp đầu gối sát thủ... người hùng thời chiến được tôn vinh nhất Ấn Độ, nhưng thời từng cầm đầu băng du côn ở Bombay; thời, trước khi khám phá ra thứ bạo lực hợp pháp của chiến tranh, điếm bị siết cổ chết ở cống rãnh (tôi biết, tôi biết - có bằng chứng); giờ là Thiếu tá Shiva, nhưng cũng là con trai của Wee Willie Winkie, người vẫn nhớ ca từ của những bài hát tắt từ lâu: “Chúc Ngủ Ngon, Các Quý Bà” thỉnh thoảng vẫn vang bên tai .

      Ở đây có những trớ trêu, mà ta nên bỏ qua; bởi chẳng phải Shiva vươn lên khi Saleem chìm xuống? Giờ đây ai là kẻ đầu đường xó chợ, và ai là người ngạo nghễ cao ngó xuống? Chả có gì bằng chiến tranh trong việc tái tạo những cuộc đời... Dù gì nữa, vào cái ngày chắc có lẽ là 18 tháng Năm, Thiếu tá Shiva đến ghetto của giới ảo thuật và sải bước qua những con phố khắc nghiệt của khu ổ chuột với vẻ mặt kỳ quái, kết hợp giữa vẻ khinh miệt bất tận của kẻ vừa thăng tiến đối với nghèo đói với điều gì khác bí hiểm hơn: bởi vì Thiếu tá Shiva, bị tràng thần chú của Parvad-phù-thủy triệu đến nơi trú ngụ khiêm nhường của chúng tôi, thể hiểu nổi sức mạnh nào thối thúc .

      Sau đây là phần tái đường công danh của Thiếu tá Shiva; tôi chắp nhặt lại từ lời kể của Parvari, mà tôi nghe được từ sau đám cưới. Hình như kình địch của tôi thích ba hoa với về những chiến tích của , do đó quý vị cũng nên chiếu cố những chỗ bóp méo vỗ ngực huênh hoang kiểu đó sinh ra; tuy nhiên, dường như có lý do gì để tin rằng những gì kể với Parvati và nhắc lại với tôi khác xa những gì xảy-ra--thực-tế.

      Cuối cuộc chiến tranh ở Đông Pakistan, truyền kỳ về những chiến tích kinh dị của Shiva râm ran khắp phố phường, nhảy lên mặt báo và tạp chí, và nhờ vậy luồn vào phòng khách của giới thượng lưu, tụ lại thành từng đám mây dày như ruồi vo ve bên màng nhĩ các nữ chủ nhân cả nước, do vậy Shiva bỗng thấy mình thăng tiến cả về địa vị xã hội lẫn hàm cấp quân đội, và được mời đến dự ngàn lẻ cuộc giao tế khác nhau - dạ tiệc, nhạc hội, câu lạc bộ bài bridge, tiếp tân ngoại giao, hội nghị chính đảng, các lễ hội từ lớn chí , hội chợ từ thiện, thi đấu thể thao cấp trường và trình diễn thời trang – để được tung hô và độc chiếm chú ý của những nhân vật quý phái nhất và mỹ lệ nhất nước, đám người mà truyền kỳ về các chiến tích của bu quanh họ như ruồi, chúng bò qua cầu mắt khiến họ nhìn gã trai qua làn sương truyền kỳ của , bậu kín đầu ngón tay khiến họ chạm vào qua lớp màng huyền thoại kỳ bí mà tạo ra, đậu lên lưỡi khiến họ thể chuyện với như với nguơi bình thường. Quân đội Ấn Độ, thời điểm này đối diện với trận chiến chính trị trước các đề xuất cắt giảm ngân sách, hiểu giá trị của đại sứ có khí chất đặc biệt như thế, nên cho phép người hùng giao thiệp với những người hâm mộ giàu thế lực của ; Shiva đón nhận cuộc đời mới cách đầy hăm hở.

      để bộ ria dày rậm mà mỗi ngày lính cần vụ riêng của lại xức liều sáp dầu lanh ướp lá mùi; luôn phong nhã xuất ở phòng khách của những nhân vật quyền quý, tham gia những cuộc tán gẫu chính trị, và tuyên bố mình là người hâm mộ nhiệt thành của Thủ tướng Gandhi, chủ yếu xuất phát từ lòng thù ghét đối thủ của bà, Morarji Desai, lão già cổ hủ thể mê được, uống nước tiểu của chính mình, da kêu loạt soạt như bánh đa, và, hồi làm Thủ hiến Delhi, từng chủ trương cấm rượu và đàn áp lũ goonda trẻ, nghĩa là lũ du thủ du thực, hay, cách khác, đàn áp chính thằng nhãi Shiva... nhưng những chuyện tầm phào này chỉ chiếm phần rất suy nghĩ của , phần còn lại hoàn toàn bị đàn bà chiếm trọn. Shiva, giống tôi, mụ mị vì quá-nhiều-đàn-bà, và trong những ngày tháng ngất ngây sau chiến thắng quân ấy thu được tiếng tăm thầm kín ( bốc với Parvati) và nó tăng nhanh đến mức có thể sánh với danh vọng chính thức, công khai của - huyền thoại “đen” bên cạnh huyền thoại “trắng”. Điều gì được thầm ở những bữa tiệc phụ nữ và những tối chơi bài canasta cả nước? Điều gì được khúc khích xì xào ở bất cứ đâu có dăm ba quý bà lộng lẫy tụ tập? Điều này: Thiếu tá Shiva bắt đầu trở thành tay quyến rũ khét tiếng; gã sở khanh; kẻ cắm sừng giới nhà giàu; tóm lại, con ngựa giống.

      Nơi nào đến - bảo Parvati - nơi đấy có đàn bà: những thân hình mềm mại uốn lượn của họ run rẩy dưới sức nặng của trang sức và dục vọng, mắt họ mờ trước huyền thoại về ; khó cho để từ chối họ kể cả khi có muốn vậy. Nhưng Thiếu tá Shiva có ý định từ chối. lắng nghe đầy cảm thông những bi kịch nho của họ - những ông chồng bất lực, bạo hành, kém quan tâm - bất cứ lời bào chữa nào những sinh vật xinh xắn ấy muốn đưa ra. Giống hệt bà tôi ở cây xăng (nhưng với động cơ gian xảo hơn) kiên nhẫn lắng nghe họ than thở; nhấp whisky trong những đại sảnh lộng lẫy ánh đèn chùm, xem họ chớp chớp mắt và thở hổn hển đầy ngụ ý; và bao giờ cũng vậy, cuối cùng, họ chủ tâm đánh rơi ví, hay làm đổ nước, hay va phải cây gậy nhà binh tay , khiến phải cúi xuống nhặt bất-cứ-gì-vừa-rơi-xuống, và thấy mẩu giấy nhét trong xăng đan của họ, duyên dáng thò ra dưới những ngón chân sơn móng. Dạo ấy (nếu lời ngài Thiếu tá đáng tin) các begum xinh tươi nhiều tai tiếng của Ấn Độ trở nên cực kỳ vụng về, và những đôi chappal của họ về những cuộc-hò-hẹn-lúc-nửa-đêm, những dàn hoa giấy ngoài cửa sổ phòng ngủ, những ông chồng vừa khéo vắng nhà để hạ thủy tàu biển hay xuất khẩu chè hay mua vòng bi từ đối tác Thụy Điển. Trong khi những kẻ kém may mắn này vắng, viên Thiếu tá ghé thăm nhà họ và đánh cắp tài sản quý báu nhất của họ: đàn bà của họ ngã vào vòng tay . Có khả năng là (tôi bớt phân nửa con số của viên Thiếu tá) vào thời điểm đỉnh cao của thói trăng hoa ở dưới mười nghìn phụ nữ đem lòng say mê .

      Và chắc chắn có những đứa trẻ. đàn em bé xinh xắn nhún nhảy an toàn trong cũi của các nhà giàu. Gieo rắc con hoang khắp Ấn Độ, người hùng thời chiến thích gì làm nấy; nhưng (và, cả điều này, cũng là bảo Parvati) mắc phải cái tật kỳ lạ là cạn hứng thú với bất kỳ người nào có bầu; cho dù họ có xinh đẹp quyến rũ kiều đến mấy, vẫn từ bỏ phòng ngủ của những ai có thai với ; và các thiếu phụ xinh tươi vành mắt đỏ hoe lại phải thuyết phục các ông chồng mọc sừng rằng mà, dĩ nhiên là con , , cuộc-sống-của-em, nó giống thế còn gì, và dĩ nhiên là em buồn, có gì mà buồn, là nước mắt vui sướng đấy thôi.

      bà mẹ bị ruồng rẫy như vậy là Roshanara, vợ bé con của đại gia ngành sắt S.P. Shetty; và tại Trường đua ngựa Mahalaxmi ở Bombay, chọc thủng quả bóng bay kiêu hãnh cỡ bự của . thả bộ quanh mã trường, được vài mét lại cúi xuống nhặt trả khăn san và dù cho các quý bà, những vật dường như sống dậy và giãy ra khỏi tay chủ nhân khi qua; Roshanara Shetty đối mặt ở đây, đứng chắn lối của gã và nhất định nhường bước, đôi mắt mười bảy của chất chứa niềm óan hận dữ dội của trẻ thơ. lạnh nhạt chào , chạm tay lên vành mũ nhà binh, rồi toan bỏ ; nhưng bấu những móng tay nhọn hoắt vào tay gã, nở nụ cười nguy hiểm như băng, và sóng bước bên gã. Vừa bé vừa rót vào tai gã liều thuốc độc thơ dại của mình, và lòng căm ghét và oán giận đối với người tình cũ dạy cho phương pháp buộc phải tin. cách tàn nhẫn thầm rằng chết cười, Chúa ơi, cái cách gã vênh váo lại trong giới thượng lưu như gã gà trống, trong khi sau lưng chị em luôn luôn cười nhạo gã, ồ phải rồi, Sahib Thiếu tá, đừng tự đánh lừa mình nữa, đàn bà thượng lưu vốn luôn thích ngủ với bọn thú vật nông dân cục súc, nhưng chúng tôi nghĩ về như vậy đấy, Chúa ơi chỉ nhìn ăn thôi cũng phát tởm, rau quả dầm nhoe nhoét đầy cằm, nghĩ bọn tôi để ý thấy chẳng bao giờ cầm chén vào quai, tưởng bọn tôi nghe được ợ hơi hay đánh rắm hả, chỉ là con khỉ chúng tôi nuôi làm cảnh thôi, Sahib Thiếu tá, hữu dụng đấy, nhưng bản chất chỉ là thằng hề.

      Sau cơn cuồng kích của Roshanara Shctty, cách nhìn thế gian của người hùng thời chiến trẻ bắt đầu thay đổi. Giờ đây, cảm giác đàn bà che quạt cười rúc rích ở bất cứ đâu đến; nhận thấy những cái liếc nhìn cười cợt mà trước kia chưa bao giờ để ý; và mặc dù cố gắng cải thiện cách ứng xử, vẫn chẳng ăn thua gì, dường như càng cố càng trở nên vụng về, đến nỗi thức ăn văng khỏi đĩa của lên những tấm thảm Kelim vô giá và cổ họng phát ra tiếng ợ như tiếng gầm của tàu hỏa chui ra từ đường ngầm và đánh rắm như cuồng phong thịnh nộ. Cuộc sống mới đầy hào nhoáng trở nên, với , sỉ nhục hằng ngày; giờ lý giải tấn công của các phụ nữ xinh đẹp theo cách khác, cho rằng bằng cách nhét tin nhắn gạ tình vào dưới chân họ buộc phải hạ mình quỳ dưới chân họ... khi nhận ra rằng người đàn ông có thể sở hữu mọi phẩm chất nam nhi nhưng vẫn bị khinh rẻ vì biết cách cầm thìa, cảm thấy cơn hung bạo cũ trỗi dậy trong mình, niềm căm ghét những kẻ cao sang và quyền thế của chúng, và đây là lý do khiến tôi chắc chắn - tôi biết - rằng khi Tình trạng Khẩn cấp cho Shiva-đầu-gối-bự cơ hội giành lấy phần quyền lực cho bản thân, chờ được hỏi đến lần thứ hai.

      Ngày 15 tháng Năm năm 1974, Thiếu tá Shiva quay về trung đoàn của tại Delhi; khẳng định rằng, ba ngày sau đó, đột nhiên bị bóp nghẹt trong niềm ham muốn gặp lại lần nữa mỹ nhân mắt to tròn mà gặp lần đầu lâu lắm rồi trong Hội nghị Những đứa trẻ Nửa đêm; nhan sắc tóc đuôi ngựa từng hỏi xin , tại Dacca, lọn tóc duy nhất. Thiếu tá Shiva tuyên bố với Parvati rằng động cơ của việc đến ghetto của giới ảo thuật là khát khao đoạn tuyệt với những ả nhà giàu của giới thượng lưu Ấn Độ; rằng bị đôi môi bĩu ra của mê hoặc từ phút đầu tiên chúng chạm vào mắt ; rằng đây là những lý do duy nhất để rủ ra cùng . Nhưng tôi quá hào phóng với Thiếu tá Shiva - trong câu chuyện này, phiên bản lịch sử của riêng cá nhân tôi, tôi cho chiếm chỗ quá nhiều; thế nên tôi nhấn mạnh rằng, bất kể viên Thiếu tá đầu-gối-gõ-nhau có nghĩ gì, lý do kéo đến ghetto, hết sức đơn giản và ràng, là ma thuật của Parvati-phù-thủy.

      Saleem có mặt ở ghetto khi Thiếu tá Shiva cưỡi mô tô đến; trong khi vụ nổ hạt nhân rung chuyển vùng đất hoang Rajasthani xảy ra ngoài tầm mắt, dưới bề mặt sa mạc, vụ nổ thay đổi đời tôi cũng diễn ra khuất mắt tôi. Khi Shiva nắm cổ tay Parvatiỉ, tôi ở cùng Picture Singh tại hội nghị khẩn cấp của rất nhiều chi bộ Cộng sản của thành phố, thảo luận chi tiết về cuộc đình công toàn quốc trong ngành đường sắt; khi Parvati, chút đắn đo, ngồi lên yên sau chiếc Honda của người hùng, tôi bận rộn lên án việc chính quyền bắt giữ các thủ lĩnh công đoàn. Tóm lại, trong khi tôi mải mê với chính trị và giấc mơ cứu nước, quyền năng phù thủy của Parvati khởi động cái kế hoạch rồi kết thúc với đôi tay vẽ henna, và hát hò, và bản hợp đồng.

      cách tất yếu, tôi buộc phải dựa vào lời kể của những người khác: chỉ có Shiva mới biết điều gì xảy ra với ; chính Resham Bibi là người thuật lại việc Parvati bỏ khi tôi quay về, bảo, “Con bé tội nghiệp, hãy để nó , nó phiền muộn suốt bấy lâu nay, sao mà trách nó được?”; và chỉ Parvati là có thể cho tôi biết những gì xảy đến với khi vắng mặt.

      Nhờ địa vị tầm cỡ quốc gia của người hùng thời chiến, viên Thiếu tá được hưởng mức độ tự do nhất định về nội quy quân đội; do vậy ai phê bình khi mang người đàn bà vào nơi, cho cùng, phải khu nhà của các sĩ quan có vợ; vì , điều gì đưa đến thay đổi lớn lao này trong đời mình, ngồi xuống chiếc ghế mây theo lời , trong khi cởi giày, bóp chân cho , mang cho nước chanh tươi, cho người cần vụ lui, xức dầu bộ ria, vuốt ve cặp đầu gối và sau cùng bày ra bữa tối là món biriani ngon lành đến nỗi thôi băn khoăn điều gì diễn ra nữa, và bắt đầu chuyển sang hưởng thụ. Parvati-phù-thủy biến căn lán Nhà binh đơn sơ thành cung điện, Kailasa xứng tầm với Shiva-vị-thần; và Thiếu tá Shiva, chìm trong sóng mắt ám ảnh của bị cái dáng bĩu ra đầy gợi cảm của môi khơi dậy cơn hứng tình quá sức chịu đựng, dành trọn niềm sủng ái chuyên nhất của cho trong suốt bốn tháng tròn: hay, chính xác hơn, trong trăm mười bảy đêm. Tuy nhiên, ngày 12 tháng Chín, mọi chuyện thay đổi: bởi Parvati, quỳ dưới chân , và biết quan điểm của về vấn đề này, cho biết rằng sắp có con với .

      Cuộc dan díu giữa Shiva với Parvati giờ đây trở nên bão táp, đầy những cái tát và bát đĩa vỡ: mô phỏng trần tục của cuộc-chiến-thần-thánh bất tận giữa vợ chồng hai vị thần cùng tên với họ mà người ta kể rằng diễn ra đỉnh Kailasa của dãy Himalaya hùng vĩ... Thiếu tá Shiva, dạo ấy, bắt đầu rượu chè; và chơi . Dấu vết chơi mà người hùng thời chiến lưu lại khắp thủ đô Ấn Độ đặc biệt giống với những cuộc du hành Lambretta của Saleem Sinai theo dấu mùi của những con phố Karachi; Thiếu tá Shiva, bị lời tiết lộ của Roshanara Shetty tước sạch phẩm giá nam nhi khi giao du với giới giàu sang, chuyển sang ăn bánh trả tiền. Và sở hữu năng lực truyền giống rất ấn tượng ( đảm bảo với Parvati khi đánh ) đến nỗi hủy hoại nghiệp của nhiều phụ nữ phóng đãng bằng cách cho họ những đứa con mà họ nỡ vứt bỏ vì quá thương; gieo giống khắp thành phố đội quân trẻ con đường phố đối xứng với trung đoàn con hoang có với các begum của những phòng khách lộng lẫy ánh đèn.

      Mây đen cũng vần vũ bầu trời chính trị: ở Bihar, nơi lạm phát tham nhũng nạn đói mù chữ mất đất hoành hành, Jaya-Prakash Narayan chủ xướng phong trào sinh viên và công nhân phản đối đảng Quốc đại cầm quyền của Indira; ở Gujarat, bạo loạn nổ ra, đường ray và xe lửa bị đốt phá, và Moraji Desai tiến hành tuyệt-thực-đến-chết để lật đổ chính quyền Quốc đại thối nát (do Chimanbhai Patel lãnh đạo); ở cái bang khổ sở vì hạn hán này... chả cần cũng biết ông ta thành công mà cần phải chết; tóm lại, trong khi giận dữ sục sôi trong tâm trí Shiva, đất nước này cũng nổi giận; và cái gì sắp ra đời trong khi có thứ lớn dần trong bụng Parvati? Quý vị đều biết câu trả lời: cuối năm 1974, J.P. Narayan và Morarji Desai thành lập đảng đối lập Janata Morcha: Mặt trận Nhân dân. Trong khi Thiếu tá Shiva ngả nghiêng từ ả điếm này sang ả điếm khác, đảng Quốc đại Indira cũng nghiêng ngả.

      Và cuối cùng, Parvati giải thoát khỏi bùa phép của . (Chẳng có cách giải thích nào khác; nếu bị phù phép, vì sao tống khứ ngay khi biết có bầu? Còn nếu phải gỡ bỏ nó, làm sao tự mình làm nổi?) Lắc đầu như thể vừa tỉnh mộng, Thiếu tá Shiva bỗng thấy mình bên cạnh ổ chuột bụng căng tròn, người dường như đối với lúc này đại diện cho tất cả những gì khiếp sợ nhất - thân của khu ổ chuột thời thơ ấu của , nơi mà chạy trốn, và giờ đây, thông qua , qua đứa con đáng nguyền rủa của , cố kéo xuống xuống xuống lần nữa... túm tóc lôi xềnh xệch, ném lên xe máy, và chỉ trong chốc lát , bị vứt bỏ, đúng ở rìa khu ghetto của giới ảo thuật, bị trả về nơi từ đó đến, mang theo duy nhất thứ mà sở hữu lúc ra : thứ trong như người tàng hình trong cái giỏ liễu gai, thứ lớn dần lớn dần lớn dần, đúng như dự kiến.

      Vì sao tôi vậy? - Bởi vì chỉ có thể là như thế; bởi vì điều gì đến, đến; bởi vì niềm tin của tôi là Parvati-phù-thủy có thai để vô hiệu hóa lý do duy nhất của tôi khi chịu cưới . Nhưng tôi chỉ tường thuật, và dành việc phân tích lại cho hậu thế.

      ngày tháng lạnh giá, khi tiếng gọi của muezzin từ đỉnh tháp cao nhất Thánh đường Thứ Sáu vừa rời môi đóng băng rồi rơi xuống thành phố như thứ tuyết thiêng, Parvati trở lại. đợi đến khi ai có thể nghi ngờ về tình trạng của nữa; cái giỏ bên trong phồng lên dưới lớp áo mới của niềm say mê giờ tiêu tan của Shiva. Đôi môi , tự tin về thắng lợi sắp đến, mất nét bĩu thời trang trước kia; trong cặp mắt to tròn, khi đứng bậc thềm Thánh đường Thứ Sáu để đảm bảo càng nhiều người trông thấy ngoại hình thay đổi của mình càng tốt, ánh ngân quang của thỏa mãn. Tôi thấy trong tình trạng này khi trở về dưới chaya của thánh đường cùng Picture Singh. Tôi cảm thấy chán nản, và cảnh Parvati-phù-thủy đứng thềm, tay bình thản ấp lên cái bụng căng tròn, mái tóc tết vặn thừng phắt phơ giữa bầu khí trong veo, chẳng làm tôi vui lên được tẹo nào.

      Pictureji và tôi đến những phố định cư càng vào hàng hẹp sau Bưu điện Trung Tâm, nơi ký ức về thầy bói chàng hộp vạn hoa thầy lang bó xương lơ lửng theo gió; và tại đây Picture Singh thực màn trình diễn ngày càng chính trị hơn. Tài nghệ huyền thoại của thu hút những đám đông tử tế; và điều khiển lũ rắn truyền đạt thông điệp của mình dưới khống chế của tiếng sáo dặt dìu. Trong khi tôi, đóng vai học việc, đọc to bài diễn thuyết chuẩn bị trước, độc xà chuyển thể diễn văn của tôi thành kịch. Tôi đến bất bình đẳng trắng trợn trong phân phối của cải xã hội; hai con hổ mang diễn vở kịch câm lão nhà giàu chịu bố thí cho ăn mày. Cảnh sát lạm quyền, đói khổ bệnh tật mù chữ cũng được tôi đến và độc xà khắc họa bằng vũ kịch; thế rồi Picture Singh, khép lại màn trình diễn, bắt đầu đến bản chất của cách mạng đỏ, và khí bắt đầu ngập tràn những lời hứa hẹn, thành thử, từ trước khi cảnh sát xuất từ cổng hậu tòa bưu điện để giải tán đám đông bằng dùi cui và hơi cay, có vài gã khán giả ngứa mồm phá đám Người Đàn Ông Dụ Hoặc Nhất Thế Gian. Có lẽ, thấy thuyết phục trước màn kịch câm khó hiểu của bầy rắn, mà nội dung rất kịch tôi phải thừa nhận là hơi tối nghĩa, gã trai hét to. “Ê này, Pictureji, phải vào Chính quyền mới đúng, đến Indiramata cũng chả hứa hẹn được oách như !”

      Thế rồi hơi cay xuất và chúng tôi phải bỏ chạy như tội phạm, ho khạc nôn ọe mù lòa, khỏi cảnh sát chống bạo động, vừa chạy vừa khóc cách giả tạo; (như từng xảy ra, ở Jallianwalabagh - nhưng ít ra lần này có đạn). Nhưng, mặc dù nước mắt này là nước mắt hơi cay, Picture Singh quả tình chìm vào cơn trầm uất đấng sợ vì lời chế nhạo của kẻ ném đá hội nghị bởi nó nghi ngờ nhận thức của về thực, điều tự hào hơn cả; và kết thúc trận mưa hơi cay với dùi cui, cả tôi cũng thấy chán nản, đột nhiên phát thấy con ngài của nỗi bất an trong bụng, và nhận ra rằng, có gì đó trong tôi phản đối cách Picture dùng vũ điệu rắn để khắc họa đồi bại vô phương cứu chữa của người giàu; tôi thấy mình nghĩ, “Cái gì chẳng có mặt tốt mặt xấu - và họ nuôi nấng em, chăm sóc em, Pictureji!” Sau đấy tôi bất đầu hiểu ra rằng tội ác của Mary Pereira chia cắt tôi khỏi hai thế giới, chứ chỉ ; rằng dẫu bị trục xuất khỏi nhà cậu, tôi cũng bao giờ thực gia nhập được cái thế-giới-theo-lời-Picture-Singh; rằng, kỳ thực, giấc mộng cứu quốc của tôi chỉ là thứ hư yên huyễn ảnh, phi thực, những lời lèm bèm của thằng ngốc.

      Và còn kia là Parvati, với ngoại hình thay đổi, trong khí rỡ ràng chói gắt của ngày đông.

      Hôm ấy là - hay tôi nhầm? Tôi phải nhanh lên; mọi thứ liên tục tuột khỏi tay tôi - ngày của những kinh hoàng. Ngay sau đó - trừ phi đó là ngày khác - chúng tôi tìm thấy bà lão Resham Bibi nằm chết cóng trong túp lều xây bằng vỏ thùng Dalda Vanaspati[3]. Bà cụ ngả màu xanh dương, xanh Krishna, xanh tựa Jesus, màu xanh của bầu trời Kashmir, đôi khi rỉ sang những đôi mắt; chúng tôi hỏa táng bà bờ sông Jamuna, giữa bãi bồi và đàn trâu, và thế là bà hụt đám cưới của tôi, điều đáng buồn, bởi vì như mọi bà già Resham thích đám cưới, và từng tham dự những lễ henna lúc ăn hỏi với niềm háo hức nhiệt thành, lĩnh xướng màn hát đổi đáp trong đó các chị em bạn của dâu thóa mạ chú rể và gia đình. Có lần những lời thóa mạ của bà ngọt và bài bản đến nỗi chú rể nổi khùng hủy luôn đám cưới; song Resham vì thế mà e ngại, bảo rằng chẳng phải lỗi của bà nếu thanh niên bây giờ yếu tim và dễ đổi ý như gà.

      [3] nhãn hiệu dầu ăn gốc thực vật của Ấn Độ.

      Tôi vắng khi Parvati bỏ ; tôi có mặt khi trở về; và có tình tiết kỳ lạ nữa... trừ phi tôi quên, trừ phi nó xảy ra vào ngày khác... nhưng dù gì nữa, tôi vẫn cảm thấy, rằng cái ngày Parvati trở lại, Bộ trưởng Nội các Ấn Độ ngồi trong toa xe của mình, tại Samastipur, khi vụ nổ thổi bay ông ta vào sách lịch sử; rằng Parvati, người bỏ giữa những vụ nổ bom nguyên tử, và trở lại với chúng tôi khi Ngài L.N. Mishra, Bộ trưởng Đường sắt và hối lộ, vĩnh viễn chia tay thế giới này. Hết điềm này đến điềm báo khác... có lẽ, ở Bombay, cá chim chết trương bụng và dạt vào bờ.



      26 tháng , Ngày Cộng hòa, là dịp tốt cho giới ảo thuật. Khi từng đám đông khổng lồ tụ tập để xem voi và pháo hoa, các thuật sĩ của thành phố lên đường kiếm ăn. Tuy nhiên, với tôi, ngày này mang ý nghĩa khác; chính vào Ngày Cộng hòa, số phận hôn nhân của tôi được định đoạt.

      Sau khi Parvati trở về, đám đàn bà có tuổi ở ghetto hình thành thói quen bưng tai hổ thẹn mỗi khi qua mặt ; , người mang trong bụng đứa trẻ vô thừa nhận mà chằng có vẻ gì ăn năn, cười ngây thơ và tiếp. Nhưng sáng Ngày Cộng hòa, khi ngủ dậy thấy sợi thừng buộc mấy chiếc giày rách treo trước cửa, liền bật khóc ai dỗ nổi, bình thản của sụp đổ trước sức mạnh của lăng nhục ghê gớm bậc nhất này. Picture Singh và tôi, vừa rời lều với những sọt rắn trĩu nặng, qua trong tình trạng đau khổ (có tính toán? chân thực?) này, và Picture Singh nghiến răng lại với thái độ đầy cương quyết. “Quay về lều, đội trưởng,” Người Đàn Ông Dụ Hoặc Nhất bảo tôi, “Ta cần chuyện.”

      Khi về đến lều, “Bỏ quá cho , đội trưởng, nhưng phải . nghĩ là sống đời mà có con là chuyện khủng khiếp đối với đàn ông. thể có con, đội trưởng: đáng buồn, phải ?” Và tôi, kẹt trong lời dối về chuyện bất lực, đành im lặng trong khi Pictureji gợi ý về cuộc hôn nhân bảo toàn danh tiết cho Parvati và đồng thời giải quyết vấn đề vô sinh tự-thú-nhận của tôi; và bất chấp nỗi khiếp sợ khuôn mặt của Jamila Ca sĩ, thứ, khi trùng mặt Parvati, có sức mạnh làm tôi muốn hóa điên, tôi thể ép nổi mình từ chối.

      Parvati - đúng như toan tính, tôi cầm chắc như thế - chấp nhận tôi ngay tức khắc, có dễ dàng và thường xuyên như trước kia ; và từ đây các lễ hội của Ngày Cộng hòa bắt đầu có khí như được đặc biệt dàn dựng riêng cho chúng tôi, nhưng trong đầu tôi nghĩ rằng lần nữa số phận, tất yếu, phản đề của lựa chọn, lại xuất ngự trị đời tôi, lần nữa, đứa trẻ ra đời với người cha phải cha mình, mặc dù với oái oăm khủng khiếp nó vẫn là đứa cháu đích thực của bố mẹ của cha nó; mắc kẹt trong mạng nhện chằng chịt của các phả hệ, có lẽ trong đầu tôi nảy ra nỗi băn khoăn rằng cái gì bắt đầu, cái gì kết thúc, liệu tiến trình đếm ngược bí mật khác có diễn ra, và thứ gì ra đời cùng với con tôi?



      Bất chấp việc thiếu vắng Resham Bibi, đám cưới diễn ra khá suôn sẻ. Lễ cải đạo Hồi cho Parvati (điều làm Picture Singh khó chịu, nhưng là điều tôi thấy mình đòi bằng được, trong nỗ lực nữa tìm về cuộc đởi cũ) được thực bởi vị Haji râu đỏ, người tỏ ra thấp thỏm trước diện của quá nhiều thành viên bỡn cợt, khiêu khích của đám vô thần; dưới cái nhìn dáo dác của ông già trông như củ hành lớn có râu này, tụng niệm niềm tin rằng có Chúa nào ngoài Chúa và Muhammad là Đấng Tiên tri của Người; nhận cái tên do tôi chọn cho từ kho tàng các giấc mơ của tôi, trở thành Laylah, đêm, và bởi thế cũng bị cuốn vào những vòng lặp lịch sử của đời tôi, trở thành tái của tất cả những người từng buộc phải đổi tên... như Mẹ tôi, Amina Sinai, Parvati-phù-thủy trở chành con người mới để có thể có con.

      Trong lễ henna, phân nửa giới ảo thuật nhận tôi làm người thân, đóng vai “gia đình” của tôi; nửa kia về phe Parvati, và màn hát đối mạ lị nhau vui vẻ kéo dài đến khuya trong khi những họa tiết henna cầu kỳ khô dần vào lòng bàn tay bàn chân ; và nếu việc vắng Resham Bibi có làm cuộc thóa mạ thiếu màn trình diễn đỉnh cao, chúng tôi cũng quá buồn lòng về điều đó. Sang nikah, lễ cưới thực , tân lang tân nương được đặt ngồi cái bục dựng vội bằng những thùng Dalda từ túp lều bị phá sập của Resham, và các ảo thuật gia long trọng xếp hàng diễu qua chúng tôi, thả những đồng xu mệnh giá vào lòng hai vợ chồng; và khi nàng Laylah Sinai mới ngất xỉu, ai nấy đều cười mãn nguyện, vì mọi dâu tốt đều phải ngất xỉu ở đám cưới, và ai nhắc đến cái khả năng làm tất cả bối rối là có thể ngất xỉu vì buồn nôn hoặc vì cơn đau-đạp do đứa trẻ trong giỏ của gây ra. Tối hôm đó các nhà ảo thuật có màn trình diễn tuyệt vời đến mức tiếng đồn về nó lan khắp Thành phố Cũ, và mọi người chen chúc kéo đến xem, từ các thương gia đạo Hồi ở muhalla gần đó, nơi lời tuyên bố công khai từng được thực , rồi những người thợ bạc và bán sữa chua hoa quả từ Chandni Chowk, những kẻ lang thang về đêm và du khách Nhật Bản, những người (trong dịp này) đều đeo khẩu trang vì lịch , muốn lây vi trùng từ hơi thở của họ sang chúng tôi; và những người Âu da hồng tán chuyện ống kính máy ảnh với người Nhật, tiếng màn trập lách tách và đèn flash lạch xạch, và trong những du khách bảo tôi rằng Ấn Độ quả đất nước tuyệt vời với nhiều truyền thống đặc sắc, và cực kỳ chuẩn và hoàn hảo nếu ta phải suốt ngày ăn đồ ăn Ấn. Và tới valima, lễ hợp cẩn (mà, trong trường hợp này, có tấm ga dính máu nào, dù có hay có lỗ thủng, được chăng lên, bởi vì tôi trải qua đêm tân hôn với đôi mắt nhắm chặt và lưng quay lại vợ tôi, sợ bị khuôn mặt kinh dị của Jamila Ca sĩ đến ám ảnh tôi trong khí hoang mang của bóng tối), các nhà ảo thuật còn trình diễn hay hơn chính họ trong đêm lễ cưới.

      Nhưng khi mọi phấn khích lắng xuống, tôi nghe thấy (với bên tai lành và bên kia điếc) thanh lạnh lùng của tương lai rình rập chúng tôi: tích, tắc, to dần và to nữa, cho đến khi ra đời của Saleem Sinai - cũng như của bố đứa trẻ - được tái trong những kiện của đêm 25 tháng Sáu.



      Trong khi những sát thủ bí ám sát các quan chức chính phủ, và chút nữa trừ bỏ được Chánh án Tối cao do Bà Gandhi đích thân bổ nhiệm, A.N. Ray, ghetto tập trung chú ý vào khác: cái giỏ căng phồng của Parvati-phù-thủy.

      Trong khi Janata Morcha phát triển theo đủ mọi đường lối kỳ quái, cho tới khi nó theo chủ nghĩa Cộng sản Maoist (như chính các nghệ sĩ uốn dẻo ở khu trại, kể cả ba chị em chân-tay-cao-su từng sống cùng Parvati trước khi chúng tôi thành hôn - sau hôn lễ, chúng tôi dọn đến căn lều riêng, mà cả trại xây cho hai đứa làm quà cưới nền túp lều mục nát của Resham) và đón nhận những thành viên cực hữu của Ananda Marg; cho tới khi các thành viên Xã hội cánh Tả và Swatantra bảo thủ đều gia nhập hàng ngũ của nó... trong khi mặt trận nhân dân phình to cách dị hợm như thế, tôi, Saleem, ngừng băn khoăn xem thứ gì lớn dần đằng sau cái mặt tiền phình to của vợ tôi.

      Trong khi dư luận bất mãn với đảng Quốc đại Indira đe dọa nghiền nát chính quyền như con ruồi, bà Laylah Sinai mới toanh, với đôi mắt to hơn bao giờ hết, ngồi im như đá trong lúc sức nặng của đứa trẻ tiếp cục gia tăng cho đến khi đe dọa nghiền nát xương thành cám; và Picture Singh, ngây thơ lặp lại lời nhận xét xa xưa, , “Này, đội trưởng! Nó chắc to phải biết: cu cỡ bự mười đồng hẳn hoi!”

      Và rồi đến ngày mười hai tháng Sáu.

      Sử sách báo chí đài phát thanh đều bảo rằng đúng hai giờ chiều ngày 12 tháng Sáu, Thủ tướng Indira Gandhi bị phán quyết là có tội, theo chánh án Jag Mohan Lal Sinha của Tòa án Tối cao Allahabad, với hai tội danh vận động bất hợp pháp trong chiến dịch tranh cử năm 1971; điều trước đây chưa bao giờ được tiết lộ là vào đúng hai giờ chiều, Parvati-phù-thủy (nay là Laylah Sinai) cầm chắc mình trở dạ.

      Cuộc trở dạ của Parvati-Laylah kéo dài mười ba ngày. Ngày đầu tiên, khi Thủ tướng bác bỏ khả năng từ chức, mặc dù bản án kèm theo hình phạt bắt buộc cấm bà tham gia chính quyền trong sáu năm, cổ tử cung của Parvati-phù-thủy, mặc những cơn co thắt đau như ngựa đá, vẫn ngoan cố chịu mở; Saleem Sinai và Picture Singh, bị ba chị em uốn dẻo, những người lãnh trách nhiệm bà đỡ, cấm cửa khỏi túp lều quằn quại của em, chỉ biết nghe tiếng rên la vô vọng của em cho tới khi đoàn nghệ sĩ nuốt-lửa bạc-bịp --than-hồng lũ lượt kéo đến, vỗ lưng họ và kể chuyện tục tĩu; và chỉ có trong tai tôi là vẫn dội lên tiếng tích tắc... đếm ngược đến điều Chúa-mới-biết, cho đến khi tôi bị nỗi sợ xâm chiếm, và bảo Picture Singh, “Em biết cái gì chui ra, nhưng nó chẳng tốt lành gì đâu...” Và Pictureji, trấn an: “Đừng có lo, đội trưởng! Tất cả ổn thôi! thằng cu cỡ bự mười đồng, đảm bảo!” Và Parvati, kêu gào la hét, và đêm qua ngày đến, và bước sang ngày thứ hai, khi ở Gujarat các ứng cử viên bầu cử của bà Gandhi thảm bại trước Janata Morcha, Parvati của tôi phải chịu những cơn đau dữ dội đến nỗi người em cứng đờ như sắt, và tôi chịu ăn uống gì cho tới khi đứa trẻ ra đời hoặc là điều gì phải đến đến, tôi ngồi xếp bằng ngoài túp lều thống khổ của em, khiếp sợ run bần bật dưới cái nóng, cầu xin đừng bắt em phải chết đừng bắt em phải chết, mặc dầu chưa lần tôi làm tình với em trong suốt ngần ấy tháng cưới nhau; bất chấp nỗi khiếp sợ bóng ma của Jamila Ca sĩ, tôi cầu nguyện và nhịn ăn; mặc cho Picture Singh can ngăn, “Đừng như vậy mà, đội trưởng,” tôi vẫn tiếp tục, và đến ngày thứ chín cả ghetto chìm vào im lặng đáng sợ, tĩnh lặng tuyệt đối đến mức kể cả tiếng gọi cầu nguyện của muezzin từ thánh đường cũng xuyên thủng nổi, vô thanh có uy lực mãnh liệt đến mức làm câm bặt tiếng gào rống của đoàn biểu tình do Janata Morcha phát động ngoài Rashtrapati Bhavan, Dinh Tổng thống; câm lặng kinh hoàng cũng xuất phát từ thứ ma thuật đáng sợ, bao trùm hết thảy như im lặng vĩ đại từng phủ xuống ngôi nhà của ông bà tôi ở Agra, bởi vậy vào ngày thứ chín ấy chúng tôi nghe được Morarji Desai kêu gọi Tổng thống Ahmad bãi miễn bà Thủ tướng ô danh, và thanh duy nhất của cả thế giới này là tiếng thoi thóp kiệt quệ của Parvati-Laylah, khi từng cơn co thắt đổ dồn lên em như núi, và tiếng em nghe như réo gọi chúng tôi dọc đường hầm dài rỗng của đớn đau, trong khi tôi, ngồi xếp bằng, như bị thống khổ của em chặt thành từng khúc, với tiếng tích tắc vô thanh trong đầu; và trong lều ba chị em uốn dẻo rót nước lên người Parvati để bù lại lượng hơi nước như phun trào ra khỏi người em, nhét que gỗ vào giữa hai hàm răng để phòng em cắn đứt lưỡi, và cố ép mí mắt em nhắm lại đôi mắt lồi ra đáng sợ đến nỗi họ sợ chúng rơi ra ngoài mà bị vấy bẩn mặt đất, và sang ngày thứ mười hai tôi lả vì đói trong khi đâu đó trong thành phố Tòa án Tối cao thông báo với Bà Gandhi rằng bà chưa phải từ chức trong thời gian kháng án, nhưng có quyền bỏ phiếu trong Lok Sabha cũng như lĩnh lương, và trong lúc Thủ tướng cơn hả hê trước chiến thắng phần này bắt đầu thóa mạ địch thủ bằng thứ ngôn ngữ dư sức làm mụ hàng cá Koli phải tự hào, cơn trở dạ của Parvati bước sang giai đoạn mà trong đó, dù hoàn toàn kiệt quệ, em vẫn tìm được hơi sức để tuôn ra tràng chửi rủa tục tằn từ cặp môi còn huyết sắc, đến nỗi mùi xú uế từ những lời lẽ tục tĩu của em xộc vào mũi làm chúng tôi ói mửa, và ba chị em uốn dẻo từ trong lều chạy ra bảo rằng người em căng ra và nhợt nhạt đến nỗi gần như nhìn xuyên qua được, và em cầm chắc chết nếu đứa bé chui ra lúc này, và trong tai tôi tôi tiếng tích tắc dồn dập tích tắc cho đến khi tôi biết chắc, đây rồi, sớm sớm sớm thôi, và khi ba chị em trở lại bên giường em vào tối ngày thứ mười ba họ thét lên Rồi rồi ấy bắt đầu rặn rồi, cố lên Parvati, rặn rặn rặn , và trong khi Parvati rặn đẻ ở ghetto, J.P. Narayan và Morarji Desai khiêu khích Indira Gandhi, trong khi ba chị em thét rặn rặn rặn lãnh đạo đảng Janata Morcha thúc giục Cảnh sát và Quân đội bất tuân những mệnh lệnh phi pháp của Thủ tướng bị bãi miễn, bởi vậy về nghĩa nào đó họ cũng ép Bà Gandhi rặn, và khi đêm tối dần đến nửa đêm, bởi vì có gì là xảy ra vào thời điểm này, ba chị em bắt đầu réo lên nó ra ra ra, và đâu đó Thủ tướng cũng cho ra đời đứa con của mình... ở ghetto, trong túp lều nơi tôi ngồi xếp bằng bên ngoài và chết dần vì đói, con trai tôi ra ra ra, cái đầu ra rồi, ba chị em réo lên, trong khi lực lượng Cảnh sát Trung ương Dự bị bắt giữ các thủ lĩnh của Janata Morcha, bao gồm hai nhân vật già nua đến tưởng và gần như thành truyền kỳ là Morarji Desai và J.P. Narayan, rặn rặn rặn, và vào chính giữa cái nửa đêm khủng khiếp ấy khi tiếng tích tắc vang dội trong tai tôi, cu cỡ bự mười đồng chính hiệu, sau cùng phọt ra cách dễ dàng đến nỗi chẳng ai hiểu nổi bao nhiêu khổ sở vừa qua để làm gì. Parvati rên lên tiếng yếu ớt cuối cùng, thế là thằng bé phọt ra, trong khi khắp Ấn Độ cảnh sát bắt bớ tất cả lãnh tụ đối lập trừ các đảng viên Cộng sản thân Moscow, cả giáo viên luật sư thi sĩ nhà báo công đoàn viên, kỳ thực là bất cứ ai phạm sai lầm hắt hơi khi Madam diễn thuyết, và khi ba chị em uốn dẻo tắm cho đứa bé và bọc nó vào mảnh sari cũ rồi bế ra cho bố xem mặt, chính xác vào thời điểm ấy, lần đầu tiên người ta nghe thấy từ Tình trạng Khẩn cấp, và đình-chỉ-quyền-công-dân, và kiểm-duyệt-báo-chí, và các-đơn-vị-thiết-giáp-sẵn-sàng-cao-độ, và bắt-giữ-các-phần-tử-phản-động; có gì đó chấm dứt, có gì khác ra đời, và chính xác vào thời khắc khai sinh của nước Ấn Độ mới và khởi đầu của nửa đêm đằng đẵng kéo dài suốt hai năm, con trai tôi, đứa trẻ của tiếng tích tắc tái xuất, bước ra thế giới.

      Và còn nữa: bởi vì khi, trong cảnh tối tăm tranh tối tranh sáng của cái nửa đêm kéo dài vô tận ấy, Saleem Sinai lần đầu nhìn thấy đứa bé, gã bắt đầu phá lên cười nín được, tâm trí gã tê liệt vì cơn đói, phải, nhưng cũng vì nhận ra rằng định mệnh tàn nhẫn lại dành cho gã thêm trò chơi khăm dị hợm nữa, nên dù Picture Singh, kinh hoảng trước tiếng cười của tôi, trong tình trạng suy kiệt nghe như tiếng khúc khích của nữ sinh, nhắc nhắc lại, “Thôi nào, đội trưởng! Đừng điên thế hỉ! Là con trai rồi, đội trưởng, vui lên hỉ!” Saleem Sinai tiếp tục đón nhận ra đời của đứa trẻ bằng cách rúc rích cười điên loạn trước số phận, bởi thằng bé, thằng bé sơ sinh, thằng-bé-con-trai-tôi Aadam, Aadam Sinai có hình dáng hết sức hoàn hảo - trừ, chỉ trừ, có đôi tai. Hai bên đầu nó phấp phới cặp cơ quan thính giác xòe ra như hai cánh buồm, đôi tai lớn vĩ đại đến mức sau này ba chị em tiết lộ rằng khi cái đầu chui ra họ nghĩ, trong khắc hoang mang, đây là đầu chú voi con.

      … “Đội trưởng, Saleem đội trưởng,” Picture Singh van nài, “bình tĩnh nào! Tai chứ gì đâu mà phải phát diên lên!”



      Nó ra đời ở Delhi cũ... ngày xửa ngày xưa. , như thế được, thể né tránh ngày tháng được: Aadam Sinai chào đời ở khu ổ chuột chìm trong bóng đêm vào ngày 25 tháng Sáu năm 1975. Thế còn giờ? Giờ cũng quan trọng chứ. Như tôi : về đêm. , nhất thiết phải hơn... Thực tế là, đúng nửa đêm. Kim đồng hồ chắp tay. Ôi dào, toẹt ra , toẹt ra : chính vào thời khắc Ấn Độ bước vào Tình trạng Khẩn cấp, nó xuất . Trong tiếng hổn hển; và, khắp đất nước, câm lặng và sợ hãi. Và dưới ách áp chế ma quái của thời khắc đêm tối ấy, nó bị còng tay cách bí hiểm vào lịch sử, và vận mệnh của nó bị xiềng xích thể chia lìa với của đất nước nó. được tiên đoán, chẳng được tung hô, nó đến; chẳng thủ tướng nào viết thư cho nó; nhưng, dù gì nữa, khi thời gian của mối liên hệ của tôi sắp chấm dứt, đến lượt nó bắt đầu. Nó, tất nhiên, chẳng có tiếng gì trong chuyện này sất; cho cùng, lúc ấy, đến tự chùi mũi nó còn chưa làm nổi.

      Nó là con của người cha phải là cha nó; nhưng cũng là con của thời kỳ hủy hoại thực cách nghiêm trọng đến nỗi ai còn có thể tái tạo được nữa;

      Nó là chắt đích thực của cụ nội nó, nhưng hội chứng chân voi nhắm vào tai nó thay vì vào mũi - bởi vì nó cũng là đứa con đích thực của Shiva-và-Parvati; nó là thần Ganesh đầu voi;

      Nó được sinh ra với đôi tai phấp phới cao và rộng đến nỗi chắc chúng nghe được tiếng nổ súng ở Bihar và tiếng gào thét của công nhân cảng biển bị dùi cui tấn công ở Bombay... đứa trẻ nghe thấy quá nhiều, và hệ quả là bao giờ, bị câm vì dư thừa thanh, thành thử từ bấy đến giờ, từ ổ chuột đến nhà máy rau quả dầm, chưa bao giờ tôi nghe nó thốt ra lấy lời;

      Nó là người sở hữu cái rốn lồi ra thay vì thụt vào, làm Picture Singh kinh ngạc thốt lên, “Bimbi của nó, đội trưởng! Trông bimbi của nó kìa!”, và nó trở thành, ngay từ buổi đầu, người tiếp nhận đầy ơn phước niềm kinh sợ của chúng tôi;

      Đứa trẻ nghiêm trang tốt nết đến nỗi việc nó tuyệt đối khóc và mè nheo hoàn toàn chiếm được cảm tình của cha nuôi, người thôi cười như ma làm trước đôi tai dị dạng và bắt đầu trìu mến ru đứa bé lặng lẽ tay;

      Đứa trẻ được nghe bài hát khi đu đưa tay cha, bài hát được hát bằng chất giọng mang màu lịch sử của người ayah bị ô danh: “Bất cứ gì con muốn thành, con sễ được; con sễ được thành, bất cứ gì con muốn.”

      Nhưng giờ khi tôi cho ra đời đứa con trai im lặng, tai phấp phới có những câu hỏi cần được trả lời vì ra đời đồng thời kia. Những nghi vấn khó và khó nuốt: Phải chăng, giấc mơ cứu nước của Saleem , qua các mô thẩm thấu của lịch sử, ngấm vào suy nghĩ của chính Thủ tướng? Phải chăng tín niệm cả đời của tôi vào đồng nhất giữa Quốc gia và bản thân tôi chuyển hóa, trong tâm thức Madam, thành câu nổi-tiếng-hồi-ấy: Ấn Độ là Indira và lndira là Ấn Độ? Phải chăng chúng tôi là đối thủ cạnh tranh nhau vai trò trung tâm - phải chăng bà cũng bị ám ảnh sâu sắc bởi thèm khát ý nghĩa như tôi - và có phải, có phải vì thế mà...?

      Ảnh hưởng của kiểu tóc đến tiến trình lịch sử: lại thêm chuyện đáng cười nữa. Nếu William Methwold có ngôi giữa, chắc tôi chẳng ở đây hôm nay; và nếu Người Mẹ của Dân tộc có mái đầu đồng nhất về sắc tố, Tình trạng Khẩn cấp do bà sinh ra nhiều khả năng thiếu khía cạnh đen tối hơn. Nhưng tóc bà lại nửa trắng nửa đen; Tình trạng Khẩn cấp cũng thế, có nửa trắng - công khai, ràng, được ghi chép, vấn đề dành cho giới sử học - và nửa đen, bí mật, rùng rợn, ai nhắc đến, là vấn đề của chúng tôi.

      Indira Gandhi sinh ngày 19 tháng Mười năm 1917, con của Kamala và Jawaharlal Nehru. Tên đệm là Priyadarshini. Bà có họ hàng với “Mahatma” M.K. Gandhi; họ của bà là di sản từ cuộc hôn nhân, năm 1942; với ông Feroze Gandhi, người được cả nước coi như “phò mã”. Họ có hai con trai, Rajiv và Sanjay, nhưng năm 1949 bà dọn về nhà cha mình và trở thành “nữ chủ nhân” ở đây. Feroze cũng thử sống ở đó lần, nhưng thành công, ông trở thành người phê phán gay gắt Chính quyền Nehru và phanh phui vụ tai tiếng Mundhra, buộc chính Bộ trưởng Tài chính hồi đấy, T.T. Krishnamachari - tức T.T.K. phải từ chức. Feroze Gandhi mất vì nhồi máu cơ tim năm 1960, thọ bốn mươi bảy tuổi. Sanjay Gandhi và vợ, cựu người mẫu Meneka, là hai nhân vật nổi bật trong Thời kỳ Khẩn cấp. Phong trào Thanh niên Sanjay đặc biệt phát huy hiệu quả trong chiến dịch triệt sản.

      Tôi đưa vào bản tiểu sử có phần sơ lược này để phòng khi quý vị chưa nhận ra Thủ tướng Ấn Độ, đến năm 1975, mười lăm năm là góa phụ. Hay (bởi ở đây chữ hoa có tác dụng): Góa phụ.

      Phải, Padma, Mẹ Indira thực có mưu đồ hãm hại tôi.

    3. banglangtrang123

      banglangtrang123 Well-Known Member Staff Member Super Moderator

      Bài viết:
      26,213
      Được thích:
      47,825
      Chương 29: Nửa đêm




      ! - Nhưng tôi phải.

      Tồi muốn kể! - Nhưng tôi thề kể hết - , tôi rút lại, chuyện này , chắc chắn là có những chuyện kể tốt hơn...? - Vớ vẩn; cái gì chữa được phải chịu! - Nhưng chắc là phải chuyện những bức tường thầm, và phản bội, và xoẹt xoẹt, và những người đàn bà ngực bầm chứ? - Đặc biệt là những chuyện đó. - Nhưng sao tôi có thể, nhìn tôi , tôi giằng xé, thể nhất trí với bản thân, độc thoại, lý luận như thằng điên, suy sụp, ký ức tiêu vong, phải, ký ức lao xuống vực thẳm và bị bóng tối nuốt chửng, chỉ còn lại những mảnh vụn, chẳng đâu vào đâu nữa cả! - Nhưng tôi được tự cho mình quyền phán xét; mà phải cứ thế tiếp tục (sau khi bắt đầu) đến hết; có-nghĩa-hay-vô-nghĩa còn (có lẽ chưa bao giờ) thuộc quyền đánh giá của tôi. - Nhưng nỗi kinh hoàng của điều đó, tôi thể muốn được đành chịu ! - Thôi ngay; bắt đầu . - ! - Có.

      Thôi , về giấc mơ? Tôi có thể kể nó như giấc mơ. Phải, có lẽ như ác mộng: xanh và đen và tóc mụ Góa phụ và bàn tay siết lại và lũ trẻ ú ớ và những trái bóng và từng-đứa- và xé-làm-đôi và những trái bóng bay lên bay lên xanh và đen tay mụ xanh móng tay mụ đen đen. - mơ mộng gì cả. Giờ phải nơi phải lúc. , nhớ sao kể vậy. Cố gắng hết khả nảng. Đúng như thực tế: Bắt đầu . - có lựa chọn hả? - ; bao giờ có đâu? Mệnh lệnh có; những hệ quả logic, những tất yếu, những tái diễn chì có; những điều-họ-gây-ra-cho-ta, những tai biến, những cưỡng-bách-của-số-phận có; nhưng bao giờ có lựa chọn? Có cái để cân nhắc? Có quyền tự do quyết định, trở thành cái này hay cái kia hay cái khác? có đâu; bắt đầu . - Vâng.

      Nghe đây:

      Những đêm ngày tuần tháng bất tận vắng bóng mặt trời, hay đúng hơn (bởi vì chính xác là quan trọng) dưới bóng mặt trời lạnh giá như đĩa ngâm trong lòng suối, phủ lên chúng tôi thứ ánh sáng nửa đêm điên loạn[1]; tôi tới mùa đông 1975-76. Cùng với mùa đông, là bóng tối; và bệnh lao.

      [1] Nguyên văn: lunatic, có nghĩa là điên loạn, nhưng cũng có thể hiểu là thuộc về mặt trăng.

      Có lần, trong căn phòng xanh dương nhìn ra biển, dưới ngón tay chỉ của ngư phủ, tôi chiến đấu chống bệnh thương hàn, và được nọc rắn cứu mạng; giờ đây, bị mắc vào mạng nhện hoàng tộc của tái diễn do tôi nhận nó làm con trai, Aadam Sinai của chúng tôi cũng phải chiến đấu suốt những tháng đầu đời với đàn rắn vô hình của căn bệnh. Bầy độc xà của lao phổi quấn quanh cổ thằng bé và làm nó thở rất khó nhọc... nhưng nó là đứa trẻ của tai và lặng lẽ, khi nó khục khặc, thanh; khi nó hổn hển, tiếng khò khử nào phát ra từ cổ họng. Tóm lại, con trai tôi ngã bệnh, và mặc dù mẹ nó, Parvati tức Laylah, bổ tìm những thảo dược thần kỳ bí truyền của em - mặc dù chúng tôi sắc thuốc và cho nó uống liên tục; bầy sâu quỷ hồn của bệnh lao nhất định bị xua . Tôi nghi ngờ, ngay từ đầu, có dụ đen tối ở căn bệnh này - tôi tin rằng, trong những tháng nửa đêm ấy, khi thời kỳ của mối-liên-hệ-với-lịch-sử của tôi giao thoa với của nó, tình trạng khẩn cấp của riêng cha con tôi phải liên quan đến căn bệnh lớn hơn, của thế giới vĩ mô, làm mặt trời cũng xanh xao, ốm yếu như con trai chúng tôi. Parvati-hồi-đó (cũng như Padma-bây-giờ) bác bỏ những phán đoán trừu tượng này, quy kết tôi là hoàn toàn điên rồ khi ngày càng bị ám ảnh với ánh sáng, đến nỗi bắt đầu đốt những đĩa đèn dia trong túp lều bệnh tật của con tôi, thắp sáng căn lều bằng ánh nến khi chính ngọ... nhưng tôi vẫn tin rằng chẩn đoán của mình là chính xác; “ bảo ,” tối quả quyết, “chừng nào Tình trạng Khẩn cấp chưa kết thúc, nó bao giờ khỏe lại.”




      Quẫn trí vì bất lực trong việc chữa bệnh cho đứa trẻ lầm lì bao giờ khóc ấy, Parvati-Laylah nhất định tin giả thiết bi quan này của tôi; nhưng em lại dễ lung lạc trước mọi ý tưởng kỳ cục khác. Khi trong mấy bà già trong trại bảo em – điều Resham Bibi chắc cũng làm – rằng bệnh lui chừng nào thằng bé còn câm, Parvati hình như cũng thấy hợp lý. “Bệnh tật là nỗi đau về thể xác,” em lên lớp tôi, “nó phải được rũ bỏ bằng cách khóc than.” Đêm đó, em trở về lều mang theo nắm bột màu xanh, gói trong giấy báo và buộc sợi dây hồng nhạt, rồi bảo tôi rằng đây là phương thuốc công hiệu đến mức đá cũng phải hét lên. Khi uống thuốc vào, má thằng bé bắt đầu phồng lên, như thể mồm nó đầy thức ăn; những thanh bị đè nén bấy lâu của thời thơ ấu trào lên sau môi nó, và nó ngậm chặt miệng trong niềm phẫn nộ. Tôi thấy là đứa bé gần như bị nghẹn khi cố nuốt ngược trở vào dòng thác nôn mửa của những thanh bị dồn nén mà thứ bột xanh khuấy lên; và đây là lúc hai chúng tôi nhận ra, mình đối diện với trong những ý chí bất khuất nhất thế gian. Sau giờ đồng hồ con trai tôi hết ngả sang màu nghệ đến nghệ-và-xanh, và cuối cùng là màu cỏ, tôi thể chịu đựng thêm nữa liền gầm lên, “Đồ đàn bà, nếu thằng bé muốn im lặng đến thế, ta thể vì vậy mà hại chết nó!” Tôi bồng Aadam lên để ru nó, và cảm thấy thân hình bé ấy cứng đờ ra, đầu gối khuỷu tay cổ nó đầy ứ cơn lũ bị kìm nén của những thanh được diễn đạt thành lời, và cuối cùng Parvati phải mủi lòng liền chuẩn bị thuốc giải bằng cách nghiền củ hoàng tinh và cam cúc trong bát nhôm, đồng thời khe khẽ lầm rầm những lời nguyền kỳ quái. Sau lần đó, ai cố ép Aadam Sinai làm bất cứ điều gì nó muốn nữa; chúng tôi nhìn nó chiến đấu chống lại bệnh lao vì cố tự trấn an mình bằng suy nghĩ rằng ý chí sắt đá dường ấy quyết chịu thua bất kỳ căn bệnh tầm thường nào.

      Trong những ngày sau cùng ấy nội tâm của Laylah hay Parvati vợ tôi còn bị lũ ngài của niềm tuyệt vọng gặm nhấm, vì khi em đến bên tôi để tìm an ủi hoặc hơi ấm trong riêng tư của giấc ngủ ban đêm, tôi vẫn thấy diện mạo bị ăn mòn khủng khiếp của Jamila Ca sĩ chồng lên gương mặt em; và mặc dù tôi thú nhận với em bí mật về hồn ma này, an ủi em rằng với tốc độ thối rữa thời bao lâu nữa nó hoàn toàn tiêu tan, em chỉ buồn thảm bảo tôi rằng ống nhổ và chiến tranh làm tôi nhũn não, và làm em tuyệt vọng bằng cuộc hôn nhân mà với trạng này bao giờ có đêm động phòng; dần dà, dần dà môi em ra cái bĩu bất tường của niềm đau khổ... nhưng tôi làm được gì? Tôi có gì để an ủi em? - tôi, Saleem Thò lò, kẻ rơi vào cảnh khốn cùng sau khi mất bảo trợ của gia đình, kẻ chọn (nếu đây được coi là lựa chọn) sinh nhai bằng tài năng khứu giác, kiếm vài paisa ngày bằng cách đánh hơi xem người khác ăn gì tối qua và ai trong số họ ; tôi biết vỗ vễ em bằng gì, khi bản thân tôi nằm trong nắm tay buốt giá của nửa đêm dằng dặc ấy, và ngửi thấy trong khí mùi của cáo chung?

      Mũi của Saleem (chắc quý vị chưa quên) có thể ngửi thấy nhiều thứ kỳ lạ hơn là cứt ngựa. Hương của cảm xúc và ý tưởng, mùi của -vật-như-thế-nào: tất cả được tôi đánh hơi cách dễ dàng. Khi Hiến pháp được sửa đổi nhằm dành cho Thủ tướng quyền lực gần-như-tuyệt-đối, tôi ngửi thấy hồn ma của các đế quốc cổ đại trong khí... ở thành phố lúc nhúc bóng ma của các Vua Nô lệ, các Mughal, của bạo chúa Aurangzeb và của những kẻ chinh phục cuối cùng, da hồng, tôi lần nữa hít vào mùi gay gắt của tư tưởng độc tài. Nó có mùi giống giẻ rách dính dầu cháy.

      Nhưng ngay cả những người kém về khứu giác cũng có thể nhận ra rằng, mùa đông 1975-76, có gì đó bốc mùi thối rữa ở thủ đô; điều làm tôi lo sợ là mùi hôi khác, riêng tư hơn: hơi hướm của nguy hiểm cá nhân, mà trong đấy tôi nhận ra bóng dáng cặp đầu gối phản phúc, báo thù... dự cảm đầu tiên của tôi rằng mâu thuẫn xa xưa, bắt đầu từ khi đồng trinh điên tình đánh tráo thẻ tên, sắp sửa kết thúc trong cơn hoảng loạn của phản bội và cắt xoẹt.

      Đáng lẽ, khi cảnh báo như vậy nhói lên trong mũi, tôi nên bỏ chạy - được cái mũi phím trước, tôi có thể đào tẩu. Nhưng thực tế lại đặt ra số trở ngại: tôi đâu? Rồi, vợ bìu con ríu, làm sao tôi nhanh được? Và chớ nên quên rằng tôi từng bỏ chạy lần, và thử xem tôi lạc đến đâu: Sundarbans, cánh rừng của hồn ma và báo ứng, nơi tôi thoát nạn chỉ trong gang tấc!... Dầu gì nữa, tôi chạy.

      Chạy hay có lẽ cũng thế thôi; Shiva - khoan dung, phản phúc, kẻ thù của tôi từ khi ra đời - cuối cùng cũng tìm ra tôi. Bởi mặc dù cái mũi có công dụng vô song là đánh-hơi-ra-mọi-thứ, đến khi lâm trận ai phủ nhận được ưu thế của cặp đầu gối có thể siết chặt và bóp nghẹt.

      Tôi cho phép mình đưa ra nhận xét cuối cùng, tự mâu thuẫn về vấn đề này: nếu, như tôi vẫn hằng tin, ngôi nhà của những phụ nữ khóc than là nơi tôi biết được đáp án cho câu hỏi về mục đích dằn vặt tôi suốt đời, nếu tự cứu mình thoát khỏi cung điện của diệt vong ấy, tôi cũng tự tước bỏ cơ hội thực khám phá quý báu bậc nhất này. cách hơi triết lý: trong cái rủi có cái may.

      Saleem-và-Shiva, mũi-và-đầu-gối... chúng tôi chỉ có ba điểm chung: thời khắc (và hệ quả của việc) chúng tôi ra đời; tội phản bội; và đứa con trai, Aadam, hợp thể của chúng tôi, lầm lì, cười, có đôi tai nghe khắp mười phương. Aadam Sinai, nhiều khía cạnh, chính là bản thể đối lập của Saleem. Tôi, buổi ban đầu, lớn lên với tốc độ chóng mặt; Aadam, vật lộn với đàn rắn của bệnh tật, hầu như chẳng lớn được chút nào. Saleem ngay từ đầu nở nụ cười cầu tài; Aadam tự trọng hơn, giữ nụ cười lại cho chính mình. Trong khi Saleem khuất phục ý chí của mình dưới ách đồng thống trị của gia đình và vận mệnh, Aadam chiến đấu dũng mãnh, kiên quyết lùi bước, kể cả trước ách áp bức của thứ bột xanh. Và trong khi Saleem quyết tâm tiếp nhận cả vũ trụ đến nỗi, có thời kỳ, nó thế chớp mất, Aadam lại muốn nhắm chặt mắt lại... mặc dù, thi thoảng, khi nó hạ cố mở mắt ra, tôi mới thấy màu của chúng, màu xanh. Xanh-như-băng, sắc xanh của tái diễn, sắc xanh định mệnh của bầu trời Kashmir... nhưng cần diễn giải thêm nữa.

      Chúng tôi, những đứa trẻ của Độc lập, điên cuồng và quá vội vã lao đến tương lai; nó, sinh giữa thời Khẩn cấp, thận trọng hơn, kiên nhẫn đợi thời; nhưng khi nó hành động, ai cưỡng lại được. Ngay bây giờ, nó khỏe hơn, cứng rắn hơn và cương quyết hơn tôi: khi ngủ, cầu mắt nó bất động dưới mí mắt. Aadam Sinai, đứa con của đầu-gối-và-mũi, (theo như tôi biết) đầu hàng trước những giấc mơ.

      Bao nhiêu chuyện lọt vào đôi tai phấp phới, có những lúc như thể rực lên vì sức nóng của thông tin chúng thu nhận được ấy? Nếu được, liệu nó có cảnh báo tôi về phản bội và xe ủi đất? Ở đất nước bị vô vàn thanh và mùi vị đồng ngự trị, chúng tôi có thể là cặp đôi hoàn hảo; nhưng con tôi từ chối chuyện, còn tôi tuân theo mệnh lệnh của mũi mình.

      “Arre baap,” Padma kêu lên, “ ông cứ kể xem có chuyện gì xảy ra nào! Con nít chuyện có gì lạ đâu?”

      lần nữa giằng xé trong tôi: Tôi thể. - Cậu phải. - Vâng.



      Tháng Tư năm 1976 đến, và tôi vẫn sống ở khu trại hay ghetto của giới ảo thuật; con trai tôi Aadam vẫn mắc chứng lao mạn tính dường như phản ứng trước bất kỳ hình thức điều trị nào. Đầu tôi đầy rẫy những dự cảm lành (và ý nghĩ chạy trốn); nhưng nếu có người là lý do tôi ở lại ghetto, người đó là Picture Singh.

      Padma, Saleem quyết định cùng chung số phận với các ảo thuật gia Delhi phần vì cảm thấy gã thuộc về nơi này - niềm tin tự hành xác về chính đáng của việc gã trở nên nghèo khó cách muộn màng (tôi mang theo, từ nhà cậu tôi, đúng hai tấm sơ mi, trắng, hai cái quần, cũng trắng, áo phông, in hình đàn guitar màu hồng, và giày, đôi, đen); tôi đến đây, phần, bởi lòng trung thành, bị ràng buộc bởi những nút thắt của lòng biết ơn người giải cứu tôi, Parvati-phù-thủy; nhưng, tôi ở lại - trong khi, là thanh niên có học vấn, ít ra tôi có thể làm thư ký ngân hàng hay thầy giáo trường đêm dạy đọc và viết - bởi vì, suốt đời mình, chủ ý hay vô thức, tôi luôn tìm kiếm những người cha. Ahmed Sinai, Hanif Aziz, Sharp-sticker sahib, Đại tướng Zulfikar, tất cả đều buộc phải đóng thế vai trò của William Methwold; Picture Singh là người cuối cùng trong danh sách cao quý này. Và có lẽ, trong khao khát song hành: tìm cha và cứu nước, tôi phóng đại Picture Singh (cũng như bóp méo lần nữa những trang viết này) thành ảo-tượng-trong-mơ của trí tưởng tượng của tôi... thực tế là, mỗi khi tôi hỏi, “Chừng nào lãnh đạo chúng em, Pictureji - chừng nào ngày trọng đại ấy đến?”, gượng gạo thoái thác, , “Cậu bỏ ý nghĩ ấy , đội trưởng; chỉ là gã nghèo quê ở Rajasthan, và Người Đàn Ông Dụ Hoặc Nhất Thế Gian; đừng bắt làm gì khác.” Nhưng tôi, thúc giục , “Nhưng từng có tiền lệ - có Mian Abdullah, con Chim ngân nga...” Nghe vậy Picture, “Đội trưởng, cậu có những ý nghĩ kỳ khôi .”

      Những tháng đầu ban hành Tình trạng Khẩn cấp, Picture Singh tiếp tục chìm trong im lặng u ám gợi nhớ ( lần nữa) đến Vô thanh vĩ đại của Mẹ Bề (điều cũng rỉ sang con trai tôi...), chẳng buồn diễn thuyết cho khán giả đường to phố của cả thành phố Cũ lẫn Mới, như trước đây nhất quyết làm bằng được; nhưng mặc dù , “Đây là lúc cần im lặng, đội trưởng,” tôi vẫn tin rằng ngày nào đó, buổi bình minh của thiên niên kỷ khi nửa đêm kết thúc, dẫn đầu jooloo hay đoàn diễu hành khổng lồ của những người cùng khổ, và có lẽ vẫn thổi sáo và quấn rắn độc quanh người, chính Picture Singh dẫn dắt chúng tôi tới con đường sáng… nhưng có lẽ luôn chỉ là người dụ rắn hơn; tôi phủ nhận khả năng ấy. Tôi chỉ rằng, với tôi, người cha cuối cùng này, cao gầy râu rậm, tóc buộc thành búi sau gáy, dường như chính là hóa thân của Mian Abdullah; nhưng có lẽ tất cả chỉ là ảo tưởng, hình thành từ nỗ lực gắn với mạch truyện lịch sử của tôi hoàn toàn bằng sức mạnh của ý chí. Ảo tưởng đeo đuổi tôi suốt đời; đừng tưởng tôi biết điều này. Tuy nhiên, trước mắt chúng ta là thời điểm vượt ra ngoài mọi ảo tưởng; chẳng còn lựa chọn nào khác, rốt cuộc tôi phải ghi lại, giấy trắng mực đen, đoạn cao trào mà tôi né tránh cả tối nay.

      Những mảnh ký ức: đấy phải là cách viết xứng đáng với đoạn cao trào. Cao trào phải trào dâng tận đỉnh Hy Mã Lạp Sơn; nhưng trong tay tôi chỉ còn những mẩu vụn, buộc tôi phải cà nhắc dẫn đến bi kịch của mình như con rối đứt dây. Việc này nằm ngoài kế hoạch của tôi; nhưng có lẽ câu chuyện ta kết thúc bao giờ là câu chuyện ta bắt đầu. (Có lần, trong căn phòng màu xanh, Ahmed Sinai ứng tác ra đoạn kết cho những câu chuyện cổ tích mà cái kết nguyên bản ông quên mất từ lâu; con Khỉ Đồng và tôi, qua năm tháng, được nghe đủ loại phiên bản về những cuộc hải hành của Sinbad, những chuyến phiêu lưu của Hatim Tai... nếu tôi lại bắt đầu, liệu tôi, cũng như ông, có kết thúc ở chỗ khác?) Vậy : tôi phải tự bằng lòng với những mẩu vụn: như hàng thế kỷ trước tôi viết, bí quyết là lấp đầy những chỗ trống, dựa vài manh mối có sẵn. Hầu hết những điều trọng đại trong đời ta đều xảy ra vắng mặt ta; tôi đành bám vào ký ức về cặp hồ sơ có ba chữ cái đầu tiết-lộ-bí-mật, mà tôi chỉ thoáng thấy lần; và vào những mảnh vụn quá khứ còn sót lại, vạ vật trong các ngăn ký ức bị sục sạo của tôi như những chai thủy tinh vỡ bãi biển... Giống như những vụn ký ức, những mảnh báo vẫn lăn lóc khắp khu trại của giới ảo thuật trong làn gió nửa đêm lặng lẽ.

      Những mảnh báo gió bay tìm tới lều của tôi để báo tin rằng cậu tôi, Mustapha Aziz, là nạn nhân của nhóm sát thủ giấu mặt; tôi buồn rơi nước mắt. Nhưng còn những mẩu thông tin khác; và từ đây, tôi phải dựng nên thực.

      mảnh báo (có mùi củ cải) tôi đọc thấy tin Thủ tướng Ấn Độ đâu mà có nhà chiêm tinh riêng của bà. Từ mảnh giấy ấy, tôi chỉ phát ra mùi củ cải; cách bí hiểm, mũi tôi nhận thấy, lần nữa, mùi của hiểm nguy cá nhân. Điều tôi buộc phải suy ra từ mùi hương cảnh báo này: thầy bói từng tiên tri về tôi; phải chăng cuối cùng chính thầy bói hủy hoại tôi? Phải chăng mụ Góa phụ, bị ám ảnh về tinh tú, được giới chiêm tinh mách bảo về tiềm năng bí của bất kỳ đứa trẻ nào ra đời vào nửa đêm nhiều năm trước? Và phải chăng đây là lý do khiến Công chức, chuyên gia về phả hệ, được cầu truy tìm... lý do khiến ông ta nhìn tôi với ánh mắt khác lạ vào buổi sáng? Đấy, quý vị thấy chưa, các mảnh vụn bắt đầu khớp với nhau! Padma, chuyện ràng chưa? Indira là Ấn Độ và Độ là Indira... nhưng có lẽ nào bà ta chưa đọc bức thư của chính cha mình gửi cho đứa trẻ nửa đêm, trong đó vị thế trung tâm được nâng tầm thành khẩu hiệu của bà ta bị phủ nhận; trong đó vai trò tấm-gương-của-đất-nước được gửi gắm lên tôi? Quý vị thấy chưa? Thấy chưa?... Còn nữa, còn những cứ chứng ràng hơn: mẩu báo khác của tờ Thời báo Độ, trong đó hãng thông tấn của mụ Góa phụ trích dẫn mụ ta khẳng định “quyết tâm chiến đấu với mưu chống đối ăn sâu lan rộng và ngày càng lớn mạnh”. Xin thưa: mụ ta về Janata Morcha! , bên cạnh nửa trắng, Tình trạng Khẩn cấp còn có nửa đen, và đây là bí mật bị che giấu quá lâu dưới lớp mặt nạ của những ngày nghẹt thở ấy: động cơ thực thụ nhất, sâu xa nhất đằng sau việc ban bố Tình trạng Khẩn cấp là gieo tang loạn đến mức đập tan, nghiền nát, bất khả vãn hồi lên đầu lũ trẻ nửa đêm. (Những chủ nhân của Hội nghị , tất nhiên, giải thể nhiều năm trước; nhưng riêng khả năng tái hợp của chúng tôi cũng đủ để gây ra báo động đỏ.)

      Các nhà chiêm tinh - tôi tin chắc là vậy - là người đưa ra cảnh báo; trong cặp tài liệu màu đen dán nhãn M.C.C., những cái tên được thu thập từ những hồ sơ tồn; nhưng chỉ có vậy. Có cả những phản bội và những lời thú tội; có đầu gối và mũi - mũi, và cả đầu gối.



      Những mẩu, những mảnh, những vụn: có vẻ như, ngay trước khi tỉnh dậy, với mùi nguy hiểm trong cánh mũi, tôi mơ thấy mình ngủ. Tôi tỉnh dậy, trong giấc mơ lạnh gáy bậc nhất ấy, và thấy người lạ trong lều: gã bộ dạng thi sĩ có mái tóc suôn dài trùm kín tai (nhưng rất thưa ở đỉnh). Phải: trong giấc ngủ cuối cùng trước -kiện-tôi-sắp-phải-miêu-tả, cái bóng của Nadir Khan đến thăm tôi, nhìn cái ống nhổ bạc khảm thanh kim thạch với vẻ khó hiểu, và hỏi hết sức kỳ quái, “Cậu ăn cắp cái này đúng ? - Bởi vì nếu , tức là cậu - có nhẽ đâu thế? - là con của Mumtaz?” Và khi tôi thừa nhận, “Đúng, phải ai khác, chính là tôi đây...” bóng-ma-trong-mơ của Nadir-Qasim liền đưa ra lời cảnh báo: “Trốn . Gấp lắm rồi. Trốn mau khi còn kịp.”

      Nadir, người trốn dưới thảm ở nhà ông tôi, đến khuyên tôi làm điều tương tự; nhưng quá muộn, quá muộn rồi, bởi giờ tôi tỉnh hẳn, và ngửi thấy mùi hiểm nguy như kèn trumpet om sòm trong mũi... sợ mà biết vì sao, tôi nhổm dậy; và do tôi tưởng tượng ra hay quả Aadam Sinai mở to đôi mắt xanh mà nhìn vào mắt tôi đầy nghiêm trọng? Phải chăng mắt con tôi cũng ngập tràn lo lắng? Phải chăng đôi tai phấp phới cũng nghe thấy thứ cái mũi đánh hơi ra? Phải chảng cha và con giao tiếp lời, vào thời điểm trước khi tất cả bắt đầu? Tôi đành phải để những câu hỏi ấy lơ lửng, lời đáp; nhưng điều chắc chắn là vợ tôi Parvati, tức Laylah Sinai, cũng thức giấc mà hỏi, “Gì thế, mình? bồn chồn gì thế?” - Và tôi, dù hiểu vì sao: “Trốn ; ở đây và đừng ra ngoài.”

      Rồi tôi bước ra ngoài.

      Lúc ấy có lẽ là buổi sáng, cho dù cái u ám của nửa đêm bất tận như sương mù bao trùm khắp ghetto... trong ánh sáng u của thời kỳ Khẩn cấp, tôi thấy lũ nhóc chơi ném tháp, và Picture Singh, ô xếp lại cặp dưới nách trái, tiểu vào tường Thánh đường Thứ Sáu; nhà ảo thuật hói đầu tập cắm dao xuyên cổ thằng bé học việc lên mười, và ảo thuật gia khác tìm thấy khán giả, và phù phép cho những trái bóng len to rơi ra từ nách người xem; trong khi ở góc khác của ghetto, Chand Sahib người nhạc công luyện trumpet, đặt búp kèn cũ kỹ của chiếc trumpet móp méo vào cổ và chơi bằng cách vận động các cơ cổ họng... còn kia, kia là ba chị em uốn dẻo, đầu đội surahi đựng nước, trở về lều từ vòi nước độc nhất của khu trại... tóm lại, tất cả đều có vẻ bình thường. Tôi mắng thầm mình vì những giấc mơ và báo động của khứu giác; nhưng rồi nó bắt đầu.

      Xe hòm và xe ủi tiến trước, rầm rập trục đường chính; chúng dừng lại đối diện ghetto của giới ảo thuật. Tiếng loa oang oang: “Chương trình làm đẹp đô thị... chiến dịch được chuẩn y của Trung ương đoàn Thanh niên Sanjay... chuẩn bị sơ tán ngay lập tức đến địa điểm mới... khu ổ chuột này là vết nhơ bộ mặt thành phố, thể được dung dưỡng lâu hơn nữa... tất cả phải tuyệt đối phục tùng.” Và trong khi loa gọi om sòm, nhiều người từ xe hòm bước xuống: mái lều sáng màu vội vã được dựng lên, có giường dã chiến và dụng cụ phẫu thuật... và lúc này từ xe trào xuống dòng những nữ tú xuất thân quyền quý và du học nước ngoài ăn mặc sang trọng, và rồi dòng sông thứ hai các nam thanh ăn mặc cũng bảnh chọe kém: các tình nguyện viên, tình nguyện viên của Đoàn thanh niên Sanjay, đóng góp chút sức mọn cho xã hội... nhưng tôi chợt nhận ra: , phải tình nguyện viên, bởi vì tất cả đám thanh niên đều có mái tóc lượn sóng và đôi môi -thần-đàn-bà, còn phụ nữ cũng giống hệt nhau, đường nét mặt họ hoàn toàn trùng khớp với Menaka vợ của Sanjay, người được những mẩu báo miêu tả là “mỹ nhân mảnh mai”, và từng làm người mẫu váy ngủ cho công ty đệm... trong cảnh hỗn loạn của chương trình giải tỏa khu ổ chuột, lần nữa tôi lại được chứng kiến vương triều cai trị Ấn Độ học được cách tự sao chép bản thân; nhưng khi ấy làm gì có thời gian để nghĩ, đội quân vô số môi--thần và mỹ-nhân-mảnh-mai tóm lấy các ảo thuậc gia và ăn mày già, mọi người bị lôi xềnh xệch đến chỗ xe hòm, và giờ tin đồn lan khắp khu trại của giới ảo thuật: “Bọn chúng thực nasbandi - tiến hành triệt sản!” - tiếng kêu thứ hai: “Hãy cứu lấy đàn bà và trẻ con!” - Và cuộc bạo động nổ ra, lũ trẻ vừa chơi ném tháp chuyển sang ném đá vào những kẻ xâm lăng thanh lịch, và đây là Picture Singh tập hợp các nhà ảo thuật về phía mình, múa tít cây dù thịnh nộ, từng là vật tạo lập hòa bình nhưng nay biến thành vũ khí, ngọn thương đông ki sốt xập xòe, và các ảo thuật gia thành phòng tuyến, bom xăng được hô biến ra và ném , gạch được rút ra từ túi các thuật sĩ, khí đặc quánh lại với tiếng gào thét và phi đạn và đội quân môi--thần và mỹ-nhân-mảnh-mai buộc phải rút lui trước cơn thịnh nộ khốc liệt của các huyễn giả; còn kia là Picture Singh, dẫn đầu đợt xung phong về túp lều cắt ống dẫn tinh... Parvati tức Laylah, nghe lời tôi, lúc này bên cạnh tôi , “Lạy Chúa, họ làm cái gì...”; và đúng lúc này đợt công kích mới, dữ dội hơn được phát động về phía khu ổ chuột: quân đội được điều động đến đàn áp ảo thuật gia, đàn bà và trẻ con.

      lần, ảo thuật gia nghệ nhân múa rối thần bài và thuật sĩ thôi miên kiêu hãnh diễu hành cùng đoàn quân chinh phục; nhưng giờ đây tất cả bị lãng quên, và những khẩu súng Nga được chĩa vào cư dân của ghetto. Cơ hội nào cho các phù thủy Cộng sản trước họng súng xã hội chủ nghĩa? Bọn họ, chúng tôi, bỏ chạy, tứ tung, Parvati và tôi lạc nhau khi bọn lính xung phong, tôi mất dấu Picture Singh, báng súng giáng xuống liên hồi, tôi thấy trong ba chị em uốn dẻo ngã gục dưới cơn cuồng bạo của súng, mọi người bị túm tóc lôi về những cỗ xe hòm ngoác miệng chờ đợi; và tôi cũng bỏ chạy, nhưng quá muộn, vừa chạy vừa ngoái cổ nhìn, vấp vào chai Dalda thùng rỗng và bao tải bị các ảo thuật gia kinh hoàng vứt lại, và khi ngoái đầu lại giữa đêm tối Khẩn cấp mịt mù tôi bỗng thấy tất cả những thứ này chỉ là màn khói hỏa mù, chuyện bên lề, bởi vì vùn vụt lao đến, xuyên qua cảnh hỗn loạn của cuộc bạo động, là nhân vật thần thoại, hóa thân của vận mệnh và hủy diệt: Thiếu tá Shiva gia nhập vòng chiến, và chỉ lùng tìm tôi. Sau lưng, khi tôi bỏ chạy, đôi đầu gối báo hiệu diệt vong của tôi đuổi đến.

      ... Trong óc tôi lóe lên hình ảnh về túp lều: con trai tôi! Và, chỉ con trai tôi: cái ống nhổ bạc, khảm thanh kim thạch! Đâu đó trong cơn hỗn loạn của ghetto, đứa bẻ bị bỏ lại mình... đâu đó tấm bùa hộ mệnh, được giữ gìn cẩn thận bấy lâu bị bỏ quên. Thánh đường Thứ sáu bàng quan nhìn tôi chạy hụp rẽ ngoặt giữa những căn lều nghiêng ngả, đôi chân tôi đưa tôi đến chỗ đứa con tai phấp phới và chiếc ống nhổ... nhưng tôi có cơ hội nào trước cặp đầu gối ấy? Cặp đầu gối của người hùng thời chiến đuổi tới gần rất gần, đôi khớp gối của vị thần báo ứng sầm sập về phía tôi, và nhảy vọt đến, đôi chân người hùng thời chiến bay vút qua trung, như hàm răng nghiến quanh cổ tôi, vắt hơi thở khỏi họng tôi, tôi đổ xuống quằn quại nhưng đôi đầu gối vẫn siết chặt, và giờ giọng - giọng của bội bạc phản phúc thù hận! - vang lên, khi đầu gối đè lên ngực tôi và ghim chặt tôi xuống nền đất của khu ổ chuột: “Chà, công tử bột: ta lại gặp nhau rồi. Salaam.” Tôi khò khè; Shiva mỉm cười.

      Ôi hàng khuy bóng nhoáng quân phục kẻ phản bội! Lấp lánh nhấp nhánh như bạc... tại sao làm vậy? Tại sao , kẻ từng cầm đầu đám du côn vô chính phủ ở khu ổ chuột Bombay, lại biến thành chiến tướng của bạo quyền? Tại sao đứa trẻ của nửa đêm lại phản bội những đứa trẻ nửa đêm khác, và ném tôi vào tay định mệnh? Vì thích bạo lực, vì ánh lấp lánh chính danh của hàng khuy quân phục? Vì nỗi ác cảm xa xưa đối với tôi? Hay - tôi thấy điều này hợp lý hơn cả - để đổi lấy việc được miễn xá mọi hình phạt mà tất cả chúng tôi phải chịu... phải, hẳn thế rồi; Ôi người hùng thời chiến bị tước đoạt mọi quyền vị lúc chào đời! Ôi địch thủ bị tha hóa vì bát cháo đậu[2]... Nhưng , tôi được dông dài nữa, và phải kể câu chuyện càng đơn giản càng tốt: khi quân lính lùng sục bắt bớ lôi kéo các nhà ảo thuật ra khỏi ghetto, Thiếu tá Shiva chỉ tập trung vào tôi. Tôi cũng bị thô bạo lôi về phía chiếc xe hòm; trong khi xe ủi đất tiến vào khu ổ chuột, cánh cửa đóng sập lại... trong bóng tối tôi gào lên, “Còn con tôi! - Còn Parvati, em đâu rồi, Laylah của tôi? – Picture Singh! Cứu em, Pictureji!” - Nhưng xe ủi lăn bánh, và chẳng ai nghe thấy tôi gào thét.

      [2] Theo Thánh kinh của người Do Thái, Esau và Jacob là con của Isaac. lần vì quá đói, Esau bán quyền trưởng nam cho Jacob để đổi lấy bát cháo đậu.

      Parvati-phù-thủy, sau khi cưới tôi, trở thành nạn nhân của lời nguyền chết thảm hằng đeo đuổi tất cả người thân của tôi... Tôi Shiva, sau khi nhốt tôi lên chiếc xe hòm tối tăm bít bùng, có tìm em , hay bỏ mặc em cho xe ủi đất... bởi lúc này những cỗ máy hủy diệt như cá gặp nước, và những túp lều tồi tàn bé của khu dân cư xập xệ điên cuồng chui tọt trôi tuột vào dưới bước tiến vũ bão của những sinh vật bất khả kháng cự ấy, chòi lán gãy rắc như cành khô, hộp các tông của nghệ nhân múa rối và giỏ thần kỳ của ảo thuật gia bị nghiền nát thành mớ hổ lốn; thành phố được làm đẹp, và nếu dăm người chết, nếu với cặp mắt to tròn và đôi môi bĩu ra vì đau khổ có ngã dưới bánh xe của những cỗ cự xa, hà, sao, vết nhơ được xóa bỏ khỏi bộ mặt của thủ đô ngàn năm văn hiến... và có tin đồn rằng, trong cơn giẫy chết của ghetto của giới ảo thuật, người khổng lồ râu rậm, người quấn đầy rắn (nhưng điểm này có thể là phóng đại) lao - HẾT TỐC LỰC - giữa đống đổ nát, chạy điên cuồng trước mũi những cỗ xe ủi đất, tay nắm chặt cán cái ô tơi tả đến nỗi thể sửa chữa, tìm kiếm và tìm kiếm, như thể tính mạng mình phụ thuộc vào điều đó.

      Tới cuối ngày hôm đó, cả khu ổ chuột chen chúc dưới bóng Thánh đường Thứ Sáu biến mất khỏi mặt đất; nhưng phải tất cả các nhà ảo thuật đều bị bắt; phải ai cũng bị lùa lên xe chở đến khu trại rào thép gai tên là Khichripur, trại thập cẩm, ở bờ bên kia Sông Jamuna; chúng bao giờ tóm được Picture Singh, và người ta kể rằng ngày sau khi ghetto của giới ảo thuật bị san bằng, khu ổ chuột mới nghe mọc lên ở trung tâm thành phố, ngay sát nhà ga xe lửa của Delhi Mới. Xe ủi được điều động đến trường; nhưng chẳng thấy gì. Từ đấy trở , tồn tại của khu ổ chuột di động của các nhà ảo thuật lưu vong trở thành người dân thủ đô ai cũng biết, nhưng đội quân phá nhà bao giờ tìm thấy nó. Có tin báo nó ở Mehrauli; nhưng khi đội cắt ống dẫn tinh và quân lính kéo đến, họ thấy Qutb Minar chẳng hề bị lều lán của bần cùng xâm hại. Lũ chỉ điểm báo rằng nó xuất trong khuôn viên của Jantar Mantar, đài chiêm tinh do Jai Singh xây dựng theo lệnh đại đế Mughal; nhưng những cỗ máy hủy diệt, khi đổ xô đến trường, chỉ thấy vẹt và đồng hồ mặt trời. Mãi đến khi Tình trạng Khẩn cấp kết thúc khu ổ chuột di động mới thôi di chuyển; nhưng chuyện đó phải để sau, bởi vì sau rất nhiều trì hoãn, tới lúc phải kể, và được mất tự chủ, về thời gian tôi bị cắm tù tại Khách sạn Góa phụ ở Benares.

      Resham Bibi từng rú lên, “Ai-o-ai-o!” - và bà đúng: tôi gieo họa hủy diệt cho ghetto của các ân nhân của tôi; Thiếu tá Shiva, nhất định là hành động theo chỉ thị trực tiếp của mụ Góa phụ, đến khu trại để bắt tôi; trong khi con trai mụ Góa phụ bố trí chương trình làm đẹp đô thị và cắt ống dẫn tinh như chiêu đánh lạc hướng đối phương. Phải, dĩ nhiên tất cả được mưu đồ như thế; và (nếu tôi được phép nhận xét) hết sức hiệu quả. Điều chúng đạt được trong cuộc bạo loạn của giới ảo thuật: kỳ tích đích thực khi thầm bắt được người duy nhất đời nắm giữ chìa khóa xác định vị trí của từng đứa trẻ của nửa đêm - bởi chẳng phải tôi , đêm này sang đêm khác, bắt sóng với từng người trong số chúng? Chẳng phải tôi , suốt bấy lâu, lưu giữ tên họ địa chỉ diện mạo của chúng trong đầu? Tôi trả lởi câu hỏi ấy: đúng vậy. Và tôi bị bắt.

      Phải, dĩ nhiên tất cả được mưu đồ như thế. Parvati-phù-thủy kể hết cho tôi về kình địch của tôi; có thể nào em lại đề cập đến tôi với ? Tôi cũng trả lời câu hỏi này: thể nào. Nghĩa là người hùng của chúng ta biết nơi nào, ở thủ đô, kẻ mà chủ nhân của thèm muốn nhất nấp (kể cả cậu Mustapha tôi cũng biết tôi đâu sau khi rời nhà ông; nhưng Shiva biết!) - và, khi phản bội, và, tôi đoán chắc, được hối lộ mọi thứ từ hứa hẹn được thăng cấp đến đảm bảo an toàn cá nhân, quá dễ dàng để giao nộp tôi vào tay nữ chủ nhân của mình, tức Madam, mụ Góa phụ với mái tóc hai màu.

      Shiva và Saleem, người chiến thắng và nạn nhân; hiểu được mối thù địch giữa chúng tôi quý vị hiểu được thời đại mà mình sống. (Nếu đảo ngược lại, tuyên bố này vẫn đúng.)

      Ngày hôm ấy, ngoài tự do, tôi còn mất thứ khác: xe ủi nuốt mất cái ống nhổ bạc. Bị tước mất đồ vật cuối cùng gắn bó tôi với quá khứ hữu hình hơn, dễ xác minh hơn về mặt lịch sử, tôi bị đem đến Benares để đối diện với kết cục của phần đời nội tâm, được nửa đêm ban tặng của mình.



      Phải, đó là nơi điều ấy xảy ra, ở cung điện của các góa phụ bờ sông Hằng, tại thành phố cổ xưa nhất thế giới còn tồn tại, thành phố già khi Buddha còn trẻ, Kasi Benares Varanasi, Thành phố của Ánh sáng Thiêng, quê hương của Cuốn sách Tiên tri, tử vi của mọi tử vi, trong đó mọi cuộc đời, quá khứ tại tương lai, đều được ghi lại. Nữ thần Ganga chảy xuống Trái đất trong mái tóc Shiva... Benares, đền thờ của Shiva-vị-thần, là nơi tôi được Shiva-người-hùng mang đến để đối diện định mệnh của mình. Tại xứ sở của tử vi, tôi tiến đến thời điểm từng được Ramram Seth tiên đoán gác thượng: “Lính tráng kết án nó... bạo chúa rán nó!”, người thầy bói phán vậy; thực tế có bản án chính thức nào cả - đầu gối Shiva kẹp quanh cổ tôi, vậy thôi - nhưng tôi có ngửi thấy, vào ngày đông, mùi thứ gì đó bị rán chảo sắt...

    4. banglangtrang123

      banglangtrang123 Well-Known Member Staff Member Super Moderator

      Bài viết:
      26,213
      Được thích:
      47,825
      Xuôi theo dòng sông, qua Scindia-ghat nơi các vận động viên thể dục quấn vải trắng quanh hông tập chống đẩy bằng tay, qua Manikarnika-ghat, nơi cử hành lễ tang, nơi ta có thể mua lửa thiêng từ những người giữ đuốc, qua xác chết trôi của chó và bò - những sinh linh bất hạnh có ai mua lửa cho, qua những tu sĩ Bà la môn ngôi dưới ô rơm ở Dasashwamedh-ghat, vận đồ màu nghệ, phân phát những lời ban phước... và giờ nó trở nên ràng: thanh kỳ quái, như tiếng chó tru từ xa vọng lại.. theo theo theo thanh ấy, và nó thành hình, và ta hiểu ra đó là tiếng rên thảm thiết bất tận, phát ra từ những cửa sổ buông mành của cung điện bên sông: Khách sạn Góa phụ! Ngày xửa ngày xưa, nó là tư dinh của maharajah; nhưng Ấn Độ ngày nay là quốc gia đại, và những chỗ như thế đều bị sung công. Ngày nay tòa cung điện là nhà của cácvị vong nhân; họ, hiểu rằng cuộc đời của mình kết thúc cùng cái chết của chồng, nhưng được phép tìm giải thoát bằng sati[3] nữa, tìm đến thành phố linh thiêng này để sống nốt những ngày vô nghĩa trong niềm khóc than thống thiết. Cung điện góa phụ là nơi cư trú của bộ lạc gồm toàn những người đàn bà có bộ ngực bầm tím vô phương cứu chữa, hệ quả của việc đấm ngực thùm thụp liên hồi, có mái tóc bị rứt tả tơi thể phục hồi, và có giọng bị cắt vụn vì liên tục giãi bày đầy ai oán niềm tiếc thương của họ. Đó là tòa nhà đồ sộ, mê cung của những căn phòng tí hin ở các tầng để nhường chỗ cho các đại sảnh khóc than ở tầng dưới; và phải, đây là nơi điều ấy xảy ra, mụ Góa phụ hút tôi vào trung tâm bí mật của đế chế khủng khiếp của mụ, tôi bị nhốt vào căn phòng tầng tí và ăn cơm tù do đám quả phụ mang đến. Nhưng tôi còn có những vị khách khác: người hùng thời chiến mời hai đồng của tới, nhằm mục đích đối thoại. cách khác: tôi được khuyến khích trò chuyện. Bởi bộ đôi cọc cạch, béo, gầy, được tôi đặt tên là Abbott-và-Costello[4] vì chưa lần chúng làm tôi thấy buồn cười.

      [3] Thủ tục của người Hindu theo đó người vợ góa tự thiêu chết theo chồng bằng cách gieo mình vào giàn thiêu xác chồng.

      [4] William “Bud” Abbott và Lou Costello, bộ đôi diễn viên hài nổi tiếng ở Mỹ những năm 1940, 1950.

      Ở đây tôi ghi nhận khoảng trắng ân huệ trong ký ức. gì có thể khơi dậy trong tôi ký ức về những kỹ năng đối thoại của bộ đôi kém hài hước, mặc đồng phục ấy; chutney hay rau quả dầm gì có khả năng mở khóa những cánh cửa mà tôi khóa kín những ngày ấy phía sau! , tôi quên, tôi thể, định bằng cách nào chúng dụ được tôi phun ra hết - nhưng tôi thể lẩn tránh cốt lõi đáng hổ thẹn của vấn đề, ấy là bất chấp việc thiếu-vắng-những-trò-đùa-cợt và thái độ nhìn chung là thiếu cảm thông của thẩm tra viên hai đầu của tôi, tôi cầm chắc là . Và chỉ : dưới tác động của những thủ đoạn gây áp lực thể kể tên - bị lãng quên - của chúng, tôi trở nên ba hoa tột độ. Cái gì trào ra, dào dạt, từ môi tôi (nhưng giờ ): tên tuổi địa chỉ ngoại hình. Phải, tôi khai hết, tôi tiết lộ cả năm trăm bảy mươi tám cái tên (bởi vì Parvati, chúng lịch báo cho tôi, chết, còn Shiva đào ngũ sang phe địch, còn năm trăm tám mươi mốt đứa kia đều khai...) - buộc phải bội tín vì phản bạn của kẻ khác, tôi phản bội lũ trẻ nửa đêm. Tôi, Người sáng lập Hội nghị, chủ trì kết thúc của nó, trong khi Abbott-và-Costello, hề cười, thỉnh thoảng lại ngắt lời:

      “Aha! Tốt lắm! Chưa biết về con bé này!” hoặc, “ bạn hợp tác rất tốt, gã đó tụi này mới nghe lần đầu!”

      Những chuyện kiểu này là thường. Số liệu thống kê có thể làm bối cảnh tôi bị bắt giam; mặc dù có bất đồng đáng kể về con số tù “chính trị” bị bắt giữ trong thời kỳ Khẩn cấp: là ba mươi nghìn, hay phần tư triệu người mất tự do? Mụ Góa phụ tuyên bố: “Đó chỉ là phần rất của dân số Ấn Độ,” Đủ thứ chuyện xảy ra trong thời kỳ Khẩn cấp: tàu hỏa chạy đúng giờ, bọn đầu cơ tiền bẩn cum cúp nộp thuế, đến thời tiết cũng được kiểm soát, và mùa màng bội thu; bao giờ cũng có, tôi nhắc lại, nửa trắng và nửa đen. Nhưng ở nửa đen, tôi bị xiềng xích trong căn phòng tí hin, tấm thảm rơm là vật dụng duy nhất tôi được phép sở hữu, và chia sẻ bát cơm hằng ngày với gián và kiến. Còn về phần lũ trẻ nửa đêm – cái mưu đồ đáng sợ phải bị đập tan bằng mọi giá ấy - cái bè lũ cùng đồ giết người cắt cổ làm bà Thủ tướng bị ám ảnh chiêm tinh học run lên vì sợ hãi ấy - lũ quái vật bất thường dị dạng của thời điểm Độc lập, những kẻ mà quốc gia-dân tộc đại thể phung phí cả thời gian lẫn lòng trắc ấy - giờ đây, ở tuổi hai mươi chín, thêm bớt độ hai tháng, chúng bị bắt đến Khách sạn Góa phụ; từ tháng Tư tới tháng Mười hai chúng bị lùa bắt lại, và tiếng rì rầm của chúng bắt đầu tràn ngập những bức tường. Tường xà lim của tôi (mỏng tang, thạch cao bong tróc, trần trụi) bắt đầu rì rầm, vào tai lành và tai điếc, về hậu quả của khai báo ô nhục của tôi. tên tù mũi dưa chuột, trang sức bằng mớ vòng và nhẫn sắt khiến nhiều hoạt động thông thường trở thành bất khả thi - đứng, sử dụng cái bô nhôm, ngồi xổm, ngủ - nằm co ro sát lớp thạch cao bong tróc và thầm với bức tường.

      Tất cả kết thúc; Saleem đầu hàng nỗi đau của gã. Suốt đời tôi, và cả trong phần lớn những dòng hồi tưởng này, tôi cố gắng giữ những đau khổ của mình trong tầm kiểm soát, ngăn chúng làm hoen ố những câu viết của tôi bằng dòng chất lỏng mằn mặn, sướt mướt của chúng; nhưng hết rồi. ai cho tôi biết lý do (cho đến khi Bàn tay Mụ Góa phụ...) tại sao tôi bị giam cầm: nhưng ai, trong ba mươi nghìn hay nửa triệu tù nhân, được biết tại sao hay vì đâu? Ai cần được biết? Trong những bức tường, tôi nghe thấy giọng lầm rầm của những đứa trẻ nửa đêm: cần giải thích gì thêm, tôi nức nở qua lần thạch cao bong tróc.

      Những gì Saleem thầm với bức tường từ tháng Tám đến tháng Mười hai năm 1976:

      … Hỡi những đứa trẻ. Tôi biết thế nào đây? Mà có gì để ? Tội của tôi lỗi tại tôi. Mặc dầu có thể viện dẫn nhiều lý do: tôi có lỗi gì trong chuyện Shiva. Đủ mọi loại người đều bị giam, sao ta lại ? Mà tội lỗi là vấn đề phức tạp, bởi chẳng phải tất cả chúng ta, mỗi cá nhân trong chúng ta, theo cách nào đấy, đều có phần trách nhiệm - há chẳng phải tập thể nào lãnh đạo nấy sao? Nhưng lời bào chữa nào được đưa ra. Lỗi tại tôi. Tôi. Hỡi những đứa trẻ: Parvati của tôi chết rồi. Và Jamila của tôi, biến mất. Và mọi người. Biến mất dường như cũng là trong những đặc điểm lặp lặp lại suốt lịch sử của tôi: Nadiar Khan biến mất khỏi thế giới ngầm, lưu lại tin nhắn; Aadam Aziz cũng biến mất, trước khi bà tôi dậy cho ngỗng ăn; và Mary Pereira, đâu? Tôi, nằm trong giỏ, biến mất; nhưng Laylah hay Parvati biến mất cái phụt cần trợ giúp của thần chú. Giờ đến lượt chúng ta, biến-mất-khỏi-mặt-đất. Lời nguyền biến mất, những đứa trẻ thân mến, ràng rỉ sang các cậu. , đối với câu hỏi về tội lỗi, tôi dứt khoát chọn cách nhìn rộng; chúng ta ở quá gần cái--xảy-ra, cái nhìn toàn cảnh là điều bất khả, sau này có thể các nhà phân tích lý giải tại sao và vì đâu, truy nguyên các xu thế kinh tế và diễn biến chính trị liên quan, nhưng lúc này, chúng ta ở quá gần màn hình, hình ảnh vỡ vụn thành từng điểm , và chỉ có thể đưa ra phán xét chủ quan. Vậy , cách chủ quan, tôi cúi gằm mặt đầy hổ thẹn. Hỡi những đứa trẻ: hãy tha thứ.

      , tôi chờ được tha thứ. Chính trị, hỡi những đúa trẻ: khi đẹp trời nhất vẫn là điều bẩn thỉu. Đáng lẽ ta nên tránh xa nó, đáng lẽ tôi bao giờ nên mơ tưởng về mục đích; tôi đến kết luận rằng riêng tư, cuộc sống cá nhân bé của mỗi con người, quan trọng hơn tất cả cái hoạt động vĩ mô bị thổi phồng này. Nhưng muộn rồi. Hết thuốc chữa rồi. Mà thứ gì chữa được phải chịu.

      Câu hỏi hay, hỡi những đứa trẻ: phải chịu đựng cái gì? Tại sao chúng ta bị lùa vào đây, từng người như thế này; tại sao gông cùm đeo quanh cổ chúng ta? Và những cách thức giam cầm kỳ lạ (nếu lời thầm của bức tường đáng tin): người-có-khả-năng-phi-thăng bị xích cổ chân xuống sàn, còn người sói bị bắt đeo rọ mõm; người-có-thể-tẩu-thoát-qua-gương phải uống nước qua lỗ cái bình có nắp, để cậu ấy thể biến mất qua bề mặt phản xạ của nước; và --có-ánh-mắt-giết-người bị trùm đầu bằng bao tải, hai nhan sắc mê hồn xứ Baud cũng chung số phận. người trong chúng ta có thể ăn kim loại; đầu cậu ấy bị ngàm chặt, đến bữa ăn mới tháo ra... điều gì được chuẩn bị cho chúng ta? điều tồi tệ, hỡi những đứa trẻ. Tôi chưa biết là gì, nhưng nó sắp đến. Hỡi những đứa trẻ; chúng ta, cũng phải chuẩn bị.

      Hãy truyền tin này : số trong chúng ta trốn thoát. Tôi đánh hơi thấy, qua tường, số vắng mặt. Tin vui, hỡi những đứa trẻ! Chúng bắt được hết chúng ta. Soumitra, người du hành thời gian, chẳng hạn - Ôi sợ điên rồ tuổi trẻ! Ôi lũ ngốc bọn ta, cứ chịu tin cậu ấy! - có ở đây; ngao du có lẽ, ở miền thời gian khác hạnh phúc hơn, trốn thoát những kẻ săn đuổi mãi mãi. , đừng ghen với cậu ấy; mặc dù tôi cũng thèm muốn cơ hội đào thoát về quá khứ, có lẽ về thời khắc khi tôi, niềm kiêu hãnh của vũ trụ, thực cuộc diễu hành chiến thắng trong vai đứa trẻ sơ sinh quanh các cung điện của William Methwold - Ôi cơn hoài vọng ỉ về những thời kỳ của nhiều triển vọng hơn, trước khi lịch sử, như con phố phía sau Bưu điện Trung tâm tại Delhi, bóp hẹp dần lại đến dấu chấm hết cuối cùng này! - nhưng chúng ta ở đây rồi; hồi tưởng kiểu này chỉ càng nhụt chí; hãy lấy làm mừng, rằng trong chúng ta có người vẫn tự do!

      Và có cả những người chết. Chúng cho tôi biết về Parvati của tôi. Người mà mặt, tới phút cuối, vẫn lên diện mạo hồn ma rữa nát của... , chúng ta còn là năm trăm tám mươi mốt nữa. Run rẩy trong cái rét tháng Mười hai, bao nhiêu trong chúng ta ngồi sau bốn bức tường và chờ đợi? Tôi hỏi cái mũi; nó trả lời, bốn trăm hai mươi, con số của lừa đảo và gian dối. Bốn trăm hai mươi, bị đám góa phụ cầm tù; và còn kẻ nữa, sải bước trong đôi ủng quanh Khách sạn - tôi ngửi thấy xú khí của đến gần xa, mùi hôi thối của phản bội! - Thiếu tá Shiva, người hùng thời chiến, Shiva-đầu-gối-bự, trong vai trò cai ngục. Liệu chúng có bằng lòng với bốn trăm hai mươi? Những đứa trẻ: tôi biết chúng còn chờ bao lâu nữa.

      ... , các cậu giễu tôi, thôi , đừng đùa nữa. Vì sao từ đâu thế quái nào lại có cái lối thân thiện, cái kiểu hữu hảo này trong những lời xì xầm truyền tai nhau của các cậu? , các cậu phải kết tội tôi, thẳng thừng và miễn kháng án - đừng dằn vặt tôi bằng những lời chào hỏi hân hoan khi từng người trong các cậu bị nhốt trong xà lim; đây là lúc nào ở đâu mà còn salaam, namaskar với cậu-dạo-này-thế-nào? - Những đứa trẻ, các cậu hiểu à, chúng có thể làm bất cứ thứ gì với chúng ta, bất cứ thứ gì - , sao các cậu có thể thế, sao lại chúng--có-thể-làm-gì? Tôi các cậu nghe: cùm sắt kẹp vào mắt cá chân rất đau; báng súng để lại trán những vết bầm tím. Chúng làm được gì hả? Gí điện vào hậu môn, các cậu ạ; và đấy chưa phải trò duy nhất, còn treo ngược đầu xuống đất, và ngọn nến - chà, ánh nến lung linh ngọt ngào lãng mạn! - chẳng hề dễ chịu khi gí, cháy, vào da! Thôi ngay , bỏ cái trò bạn bè này , các cậu sợ à? Chẳng lẽ các cậu muốn đấm đá giẫm đạp tôi thành nghìn mảnh? Sao cứ mãi rì rầm hồi tưởng, cứ hoài niệm về những vụ cãi cọ ngày trước, về cuộc chiến giữa vật chất và ý thức, sao các cậu cứ cười cợt tôi bằng vẻ thản nhiên, lãnh đạm, bằng sức mạnh vượt--khủng-hoảng của mình? , tôi chịu đấy, hỡi những đứa trẻ: làm sao các cậu có thể, ở tuổi hai chín, ngồi trong xà lim thầm nhả nhớt với nhau? Mẹ kiếp, đây đâu phải cuộc hội ngộ bạn bè!

      Hỡi những đứa trẻ, những đứa trẻ, tôi xin lỗi. Tôi công nhận rằng dạo gần đây tôi còn là chính mình nữa. Tôi buddha, con ma trong giỏ, cứu-tinh-hụt của đất nước... Saleem cắm đầu chạy vào ngó cụt, gặp những vấn đề nghiêm trọng với thực, từ khi cái ống nhổ rơi xuống như mảnh... hãy thương xót tôi: tôi thậm chí đánh mất cái ống nhổ. Mà tôi lại linh tinh rồi, tôi định cầu xin thương hại, tôi muốn rằng có lẽ tôi biết - chính tôi, chứ phải các cậu, hiểu điều gì xảy ra. phi thường, hỡi những đứa trẻ: chúng ta, những người thể chuyện quá năm phút mà bất đồng; chúng ta, những người hồi bé từng cãi cọ xung đột chia rẽ ngờ vực tan rã, nay bỗng lại đoàn kết thành khối! Ôi trớ trêu kỳ diệu: mụ Góa phụ, khi nhốt chúng ta vào đây, hòng đập tan chúng ta, kỳ thực mang chúng ta đến với nhau! Ôi cơn cuồng vọng tự thân ứng nghiệm của bạo chúa... bởi vì bọn chúng có thể làm được gì, khi giờ chúng ta cùng trận tuyến, còn mâu thuẫn ngôn ngữ, còn định kiến tôn giáo: cho cùng, chúng ta hai mươi chín tuổi rồi, tôi nên gọi mọi người là những đứa trẻ nữa...! Phải, đây là niềm lạc quan, như bệnh dịch: ngày kia mụ ta phải thả chúng ta ra và khi đó, khi đó, cứ chờ xem, có thể chúng ta nên thành lập, tôi biết, chính đảng mới, phải, đảng Nửa đêm, chính trị có cơ hội gì trước những người có thể nhân con cá thành nhiều và hóa sắt thành vàng? Hỡi những đứa trẻ, có thứ sắp ra đời ở đây, vào thời khắc đen tối của tù đày; hãy cứ để lũ Góa phụ giở trò tồi tệ nhất; đoàn kết là vô địch! Hỡi những đứa trẻ: chúng ta thắng!



      Quá đau đớn. lạc quan, nảy nở như hoa hồng gặp phân: nó làm tôi đau xót khi hồi tưởng lại. Đủ rồi! Sau đó thế nào tôi quên rồi. - ! - , thôi được, tôi vẫn nhớ... Thứ gì đáng sợ hơn gông cùm xiềng xích nến-cháy-gí-vào-da? Thứ gì ăn đứt nhổ móng tay và bỏ mặc cho chết đói? Tôi xin tiết lộ trò đùa ma mãnh nhất, tinh vi nhất của mụ Góa phụ: thay vì tra tấn chúng tôi, mụ cho chúng tôi hy vọng. Nghĩa là mụ có thứ - , chỉ thứ: mà là thứ quý giá hơn hết thảy! - đế lấy . Và giờ, rất sớm thôi, tôi phải miêu lả mụ cắt đứt nó ra sao.

      Ectomy (khởi nguồn từ tiếng Hy Lạp, chắc vậy): cắt bỏ. Từ đây, y học bổ sung nhiều tiền tố: appendectomy tonsillectomy mastectomy tubectomy vasectomy testectomy hysterectomy[5]. Saleem xin đóng góp thêm mục từ nữa, miễn phí và cho , vào danh mục các phẫu thuật cắt bỏ này; đây, tuy vậy, là thuật ngữ đúng ra phải thuộc về lịch sử, mặc dù y học cũng có, có phần đóng góp:

      Sperectomy: hút kiệt hy vọng.

      [5] Các thuật ngữ y khoa có nghĩa là: cắt bỏ ruột thừa, cắt bỏ amiđan, cắt bỏ ngực, cắt bỏ ống dẫn trứng, cắt bỏ ống dẫn tinh, cắt bỏ tinh hoàn, cắt bò tử cung.



      Ngày đầu năm mới, tôi có khách. Tiếng kẹt cửa, tiếng loạt soạt của vải chiffon đắt tiền. Tông màu: xanh đen. Kính ả, xanh, giày ả đen đen... Báo chí miêu tả ả là “ quyến rũ, với cặp hông đầy đặn, đong đưa... quản lý tiệm kim hoàn trước khi làm công tác xã hội... Thời kỳ Khẩn cấp, phụ trách, cách bán chính thức, chương trình triệt sản.” Nhưng tôi có tên riêng cho ả: ả là Bàn tay của mụ Góa phụ. Chộp từng đứa và lũ trẻ ú ớ và xé và xé những trái bóng lăn lóc... vừa xanh vừa đen, mụ đột kích xà lim của tôi. Hỡi những đứa trẻ: bắt đầu rồi. Hãy sẵn sàng. Đoàn kết là sức mạnh. Mặc kệ Bàn Tay mụ Góa phụ làm việc của mụ Góa phụ, rồi ta , ta ... hãy nghĩ đến sau này. Giờ gắng đừng nghĩ đến... và ả, ngọt ngào, điềm đạm, “Về căn bản, cậu biết đấy, đây hoàn toàn là câu hỏi về Chúa.”

      (Những đứa trẻ, các cậu có nghe ? Truyền tai nhau .)

      “Người dân Ấn Độ,” Bàn Tay của mụ Góa phụ giải thích, “tôn thờ Đức bà như vị thần. Ấn Độ chỉ có thể tôn thờ Chúa.”

      Nhưng tôi lớn lên ở Bombay, nơi Shiva Vishnu Ganesh Ahuramazda Allah và vô vàn thần linh khác đều có bầy chiên của mình... “Vậy còn bách thần điện,” tôi lý luận, “với ba trăm ba mươi triệu vị thần của riêng đạo Hindu? Và Hồi giáo, và Phật giáo...?” Và đây là câu trả lời: “Phải rồi! Lạy Chúa, hàng triệu vị thần, cậu đúng! Nhưng tất cả đều là hóa thân của OM. Cậu theo đạo Hồi: cậu biết OM là gì chứ hả? Tốt lắm. Với quần chúng, Đức bà chính là thân của OM.”

      Chúng tôi có bốn trăm hai mươi người; vỏn vẹn 0,00007 phần trăm của dân số lên đến sáu trăm triệu người của Ấn Độ. đáng kể về mặt thống kê; thậm chí, nếu tính ba mươi (hay hai trăm năm mươi nghìn) người bị bắt, chúng tôi cũng chỉ chiếm 1,4 (hay 0,168-) phần trăm! Nhưng tôi học được từ Bàn tay của mụ Góa phụ rằng, những kẻ muốn làm thần sợ gì bằng các thần linh tiềm năng khác; và rằng, chính vì vậy và chỉ bởi vậy, nên chúng tôi, những đứa trẻ thần kỳ của nửa đêm, mới phải hứng chịu căm ghét khiếp sợ hủy diệt của mụ Góa phụ, kẻ chỉ là Thủ tướng Ấn Độ mà còn thèm khát trở thành Devi, hình tướng khủng khiếp nhất của Mẫu-thần, người sở hữu shakti của các nam thần, linh thần nhiều tay có mái tóc rẽ ngôi giữa và phân liệt... Và tôi giác ngộ ý nghĩa của mình tại cung điện đổ nát của những người đàn bà ngực bầm như thế đó.

      Tôi là ai? Chúng tôi là ai? Chúng tôi là, là, những vị thần quý vị bao giờ có. Và còn là thứ khác; và để giải thích điều ấy, tôi phải kể đoạn khó khăn cuối cùng.



      Nào, tăng tốc, nếu chẳng bao giờ đến được đoạn đó. Tôi xin kể với quý vị rằng vào ngày đầu năm mới, 1977, tôi được quyến rũ với cặp hông đong đưa cho biết rằng phải, bọn chúng bằng lòng với bốn trăm hai mươi, chúng xác minh được trăm ba mươi chín chết, chỉ vài trốn thoát, thế nên, việc đó sắp bắt đầu, xoẹt xoẹt, có thuốc gây mê và đếm-đến-mười, những con số diễu hành hai ba, và tôi, thầm với bức tường, Cứ mặc cứ mặc chúng, chừng nào chúng ta còn sống và đoàn kết kẻ nào có thể chống lại chúng ta?... Và ai dẫn chúng tôi, từng-người-, xuống căn phòng dưới hầm nơi (vì chúng ta phải dân man rợ, thưa ngài) có điều hòa nhiệt độ, và chiếc bàn bên lơ lửng ngọn đèn treo, và bác sĩ y tá màu xanh và đen, áo choàng màu xanh mắt màu đen... ai , với cặp đầu gối lồi bất bại, áp giải tôi đến căn phòng hủy hoại tôi? Nhưng quý vị biết mà, quý vị có thể đoán ra, câu chuyện này có duy nhất người hùng thời chiến; thể tranh cãi với nọc độc của đôi đầu gối ấy, tôi đành theo lệnh đến bất cứ đâu... và rồi tôi đến nơi, và quyến rũ với cặp hông đong đưa đầy đặn bảo, “ cho cùng, cậu thể phàn nàn, cậu phủ nhận cậu từng khẳng định mình có Năng lực tiên tri chứ hả?” bởi vì chúng biết tất cả, Padma, tất cả tất cả, chúng đặt tôi lên bàn và chiếc mặt nạ chụp xuống mặt tôi và đếm-đến-mười và những con số thình thịch bảy tám chín...

      Mười.

      Và “Lạy Chúa ta vẫn còn tỉnh, ngoan nào, tiếp tục đến hai mươi ...”

      ... Mười tám mười chín hai



      Họ là những bác sĩ giỏi: họ cho may rủi cơ hội nào. Loại tiểu phẫu, cắt ống dẫn tinh và dẫn trứng, của đám đông dành cho chúng tôi; bởi những phẫu thuật kiểu này vẫn có cơ may, chỉ là cơ may, phục hồi... chúng tôi cũng được phẫu thuật cắt bỏ, nhưng thể phục hồi: tinh hoàn bị cắt khỏi bìu, và tử cung biến mất vĩnh viễn.

      Bị cắt bỏ tinh hoàn và tử cung, lũ trẻ của nửa đêm bị tước bỏ khả năng sinh sản... nhưng đó chỉ là hệ quả phụ, bởi vì đó là những bác sĩ thực xuất sắc, và họ hút kiệt ở chúng tôi nhiều hơn thế: hy vọng cũng bị cắt đứt, và tôi biết nó được thực ra sao, bởi vì những con số sầm sập tiến đến, tôi bị nốc ao, và tất cả những gì tôi nhớ được là kết thúc mười tám ngày của những ca phẫu thuật tê liệt tâm trí được thực với tốc độ trung bình 23,33 ca mỗi ngày, chúng tôi chỉ mất những hòn bi và túi nội thể, mà cả những thứ khác nữa: về phương diện này, kết cục của tôi khả dĩ hơn đa số, việc hút-kiệt-ở- cướp của tôi khả năng ngoại cảm được nửa đêm ban tặng, tôi còn gì để mất, cái mũi nhạy cảm là thứ thể bị hút ... nhưng về phần những người còn lại, những người mà năng lực thần kỳ còn nguyên vẹn khi bị bắt đến cung điện của các góa phụ khóc than, giây phút hồi tỉnh khi tan thuốc mê thực tàn nhẫn, và những bức tường thầm phát ra câu chuyện về hủy hoại của họ, và tiếng khóc ai oán của những đứa trẻ mất pháp thuật: ả cắt bỏ nó khỏi chúng tôi, cách quyến rũ với cặp hông nảy nở đong đưa, ả thiết kế chiến dịch hủy diệt chúng tôi, và giờ chúng tôi chẳng là gì hết, chúng tôi là gì chứ, chỉ vỏn vẹn 0,00007 phần trăm, giờ cá chẳng thể được nhân lên và sắt cũng chẳng thể hóa vàng; kết thúc vĩnh viễn rồi, khả năng phi thăng và hóa sói cùng nguyên-thủy--ngàn-lẻ- điều ước thần kỳ của nửa đêm thần thánh.

      Hút kiệt ở dưới: đó là phẫu thuật thể phục hồi.

      Chúng tôi là ai ? Những hứa hẹn bất thành; hứa để mà thất hứa.

      Và giờ tôi phải kể cho quý vị chuyện cái mùi.




      Phải, quý vị phải được nghe hết: dù phóng đại đến đâu, dù gay cấn kiểu chớp-bóng-Bombay đến đầu, quý vị cũng phải thấu hiểu, cũng phải thấy! Cái mà Saleem đánh hơi thấy vào tối 18 tháng năm 1977: có gì đó được rán chảo sắt, thứ gì đó mềm và thể ra được ướp nghệ mùi là và cỏ cà ri... mùi cay nồng lẫn đâu được của những-thứ-vừa-bị-cắt-bỏ, nấu lửa , liu riu.

      Trong khi bốn trăm hai mươi con người chịu đựng phẫu thuật cắt bỏ, Nữ thần báo thù đảm bảo rằng những bộ phận bị cắt bỏ này được nấu cà ri với hành và ớt xanh và đem cho đàn chó hoang ở Benares. (Có bốn trăm hai mươi mốt ca cắt bỏ: bởi vì người trong chúng tôi, mà chúng tôi gọi là Narada, hoặc Markandaya, có khả năng chuyển đổi giới tính; cậu ấy, hoặc ấy, phải phẫu thuật hai lần.)



      , tôi chứng minh được, chút gì. Chứng cứ đều bốc hơi: số bị chó ăn; và sau này, vào ngày 20 tháng Ba, hồ sơ bị bà mẹ với mái tóc hai màu và đứa con trai dấu đốt sạch.

      Nhưng Padma biết điều tôi làm được nữa; Padma, người lần, trong cơn giận dữ, hét lên: “ được tích gì, lạy Chúa, như người ?” Riêng chuyện này, ít nhất, có thể kiểm chứng: trong lều của Picture Singh, tôi tự nguyền rủa bản thân khi dối mình bất lực; tôi thể bảo có ai cảnh báo tôi, vì : “Điều gì cũng có thể xảy ra.” Nó xảy ra .

      Đôi khi tôi cảm thấy mình nghìn tuổi: hay (bởi vì tôi chẳng thể, đến tận bây giờ, từ bỏ hình thái), chính xác hơn, nghìn lẻ .



      Bàn tay của mụ Góa phụ có cặp hông đong đưa, và từng sở hữu tiệm kim hoàn. Tôi cũng bắt đầu giữa kim hoàn: ở Kashmir, năm 1915, có kim cương và ngọc bích. Các cụ tôi có tiệm buôn đá quý. Hình thái! - lần nữa, tái diễn và định hình! - thể thoát được nó.



      Trong những bức tường, vọng ra tiếng thầm tuyệt vọng của bốn trăm mười chín nạn nhân tê liệt; trong khi kẻ thứ bốn trăm hai mươi trút cơn phẫn nộ - chúng cho phép tôi lần, khoảnh khắc quát tháo duy nhất - vào câu hỏi ấm ức sau đây... to đến lạc giọng, tôi thét lên: “Còn sao? Thiếu tá Shiva, tên phản bội? Các người quan tâm đến à?” Câu trả lời, từ ả quyến-rũ-có-cặp-hông-đong-đưa: “Ngài Thiếu tá tình nguyện cắt ống dẫn tinh.”

      Và giờ, trong buồng giam cửa sổ, Saleem bắt đầu cười, lòng, hết cỡ: , tôi cười cay độc kình địch của mình, mà tôi cũng suy diễn cách châm biếm chữ “tình nguyện” thành chữ khác; , tôi nhớ đến những chuyện Parvati tức Laylah kể cho tôi, những huyền thoại về thói phong lưu của người hùng thời chiến, về những binh đoàn con hoang căng phồng trong những cái bụng bị phẫu thuật của các mệnh phụ phu nhân và điếm; tôi cười bởi vì Shiva, kẻ hủy diệt những đứa trẻ nửa đêm, đồng thời hoàn thành vai trò còn lại được giấu trong tên , chức năng của Shiva-linga, của Shiva-đấng-sinh-thành, thành thử đúng thời điếm ấy, ở các khuê phòng và ổ chuột cả nước, thế hệ những đứa trẻ mới, hậu duệ của đứa trẻ hắc ám nhất của nửa đêm, được nuôi lớn đến tương lai. Các mụ Góa phụ kiểu gì cũng quên mất điều quan trọng.



      Cuối tháng Ba năm 1977, tôi bất ngờ được phóng thích khỏi cung điện của các góa phụ gào khóc, đứng hấp háy mắt như chim cú dưới ánh mặt trời, hiểu vì đâu tại sao thế nào. Sau đó, khi nhớ ra cách đặt câu hỏi, tôi phát ra rằng vào ngày 18 tháng (đúng ngày xoẹt-xoẹt kết thúc, ngày số thứ bị rán chảo sắt: quý vị còn cần bằng chứng gì nữa để khẳng định chúng tôi, bốn trăm hai mươi đứa trẻ, là đối tượng mụ Góa phụ khiếp sợ hơn hết thảy?) ngài Thủ tướng , trước kinh ngạc của tất cả, kêu gọi tổng tuyển cử. (Nhưng giờ khi biết về chúng tôi, chắc quý vị cũng dễ hiểu tại sao mụ tự tin đến thế.) Nhưng ngày hôm ấy, tôi hay biết gì về thất bại liểng xiểng của mụ, lẫn chuyện mụ đốt hồ sơ; mãi sau này tôi mới biết niềm hy vọng tả tơi của đất nước này được gửi gắm vào tay lão già lẫn cẫn chuyên ăn hạt điều và hạt dẻ cười và mỗi ngày đều uống cốc “nước tự có” ra sao. Những kẻ uống nước tiểu lên nắm quyền. Trong mắt tôi, đảng Janata, với trong số các lãnh đạo bị nhốt trong máy chạy thận, có vẻ phải là (khi tôi nghe tin này) đại diện của bình minh tươi sáng; nhưng có thể tôi rốt cuộc tự chữa khỏi virus lạc quan - có thể những người khác, bệnh vẫn còn trong máu, lại cảm thấy điều ngược lại. Dù sao nữa, tôi nếm - vừa mới nếm, vào cái ngày tháng Ba ấy - mùi chính trị như thế là đủ, quá đủ rồi.

      Bốn trăm hai mươi đứa trẻ đứng hấp háy mắt trong ánh mặt trời và khí om sòm của những ngõ phố ở Benares; bốn trăm hai mươi người nhìn nhau và thấy trong mắt nhau ký ức về việc mình bị thiến, và rồi, sao chịu nổi hình ảnh ấy, lúng búng những lời tạm biệt, rồi giải tán, lần cuối cùng, vào riêng tư chữa lành vết thương của đám đông.

      Thế còn Shiva? Thiếu tá Shiva bị chính quyền mới ra lệnh quản thúc trong nhà tù quân đội; nhưng ở đây lâu, bởi vì được phép đón người vào thăm: Roshanara Shetty hối lộ ve vãn luồn lọt để vào được xà lim của , chính bé Roshanara rót thuốc độc vào tai ở Trường đua Mahalaxmi và từ đó phát điên vì đứa con hoang kiên quyết chịu chịu làm điều gì nó thích. Vợ của nhà tài phiệt thép rút trong xắc tay ra khẩu súng lục Đức cỡ đại của chồng mình, bắn xuyên tim người hùng thời chiến. Cái chết, như họ , đến ngay tức khắc.



      Viên Thiếu tá chết mà biết rằng khi xưa, tại nhà hộ sinh màu nghệ-và-xanh giữa cái hỗn loạn thần bí của nửa đêm thể nào quên, người đàn bà bé bấn loạn tráo thẻ tên, và cướp mất của quyền vị lúc chào đời, nghĩa là cái thế giới bọc trong tiền đỉnh đồi với những bộ quần áo hồ trắng, và vật chất vật chất vật chất - thế giới mà khoái được sở hữu biết mấy.



      Còn Saleem? còn gắn kết với lịch sử, bị hút kiệt cả ở--và-ở-dưới, tôi tìm đường về thủ đô, ý thức rằng thời đại, khởi đầu từ cái nửa đêm xa xưa ấy, xem ra đến hồi kết thúc. Tôi bằng cách nào: tôi đứng sân ga Benares hoặc Varanasi với nhõn tấm vé vào sân ga tay, và nhảy tót lên khoang hạng nhất khi chuyến tàu thư chuyển bánh về Tây. Giờ đây, rốt cuộc, tôi biết thế nào là cảm giác phải cố sống cố chết bám chặt, trong khi bụi bồ hóng đất tro bám đầy mắt, và phải đập cửa kêu nài, “Ohe, mahaji! Mở cửa ! Cho con vào với, hỡi ngài tôn kính, mahaji!” Trong khi ở trong, giọng thốt ra những lời quen thuộc: “Dù thế nào cũng ai được mở. Dân lậu vé ấy mà.”

      Ở Delhi: Saleem hỏi han khắp nơi. có thấy ở đâu? Chị có biết liệu các nhà ảo thuật? Bác có quen Picture Singh? người đưa thư với ký ức về người dụ rắn nhạt dần trong mắt chỉ về phía Bắc. Và, sau đó, người bán trầu lưỡi thâm sì trả tôi về đường cũ. Rồi, cuối cùng, tung tích cũng hết luẩn quẩn; các nghệ sĩ tạp kỹ giúp tôi bắt được mùi. người đàn ông Dill-dekho với cái máy vạn hoa, người luyện chồn-và-rắn đầu đội chiếc mũ giấy như thuyền buồm đồ chơi của trẻ con, bán vé ở rạp phim vẫn giữ những hoài niệm về tuổi thơ học việc với nhà ảo thuật… như những ngư phủ, hỏ chỉ bằng ngón tay. Về phía Tây Tây Tây, cho đến khi, cuối cùng, Saleem tìm tới bến xe buýt Shadipur ở ngoại ô phía Tây thành phố. Đói khát kiệt quệ ốm yếu, lẩy bẩy nhảy lò cò khỏi đường của đám xe buýt gầm rú ra vào bãi đậu - những chiếc xe sơn màu hớn hở, nắp capô viết dòng chữ như Ý Chúa! và những tuyên ngôn khác, chẳng hạn như Ơn Chúa! ở hông xe - gã đến chỗ dúm lều bạt rách nát chen chúc dưới gầm cây cầu đường sắt bằng bê tông, và thấy, dưới bóng bê tông, người khổng lổ dụ rắn ngoác miệng nở nụ cười sâu răng vĩ đại, và, tay , mặc tấm áo phông in những cây guitar hồng, là thằng bé trạc hai mươi mốt tháng, với đôi tai voi, cặp mắt to tròn như hai cái đĩa, vi nét mặt nghiêm nghị như nấm mồ[6].

      [6] Rushdie chơi chữ, chữ grave trong tiếng vừa có nghĩa là nghiêm nghị, vừa có nghĩa là ngôi mộ.

    5. banglangtrang123

      banglangtrang123 Well-Known Member Staff Member Super Moderator

      Bài viết:
      26,213
      Được thích:
      47,825
      Chương 30: Abracadabra[1]




      [1] Câu thần chú mà các ảo thuật gia Ấn Độ thường sử dụng khi diễn trò, tương tự như Úm ba la xì bùa.

      là, tôi dối về cái chết của Shiva. dối trá thẳng thừng đầu tiên của tôi - mặc dù phần tường thuật của tôi về thời kỳ Khẩn cấp dưới dạng nửa đêm kéo dài sáu trăm ba mươi lăm ngày có lẽ là lãng mạn quá mức, và chắc chắn mâu thuẫn với hồ sơ dữ liệu về khí tượng. Mặc dầu vậy, và cho dù người khác nghĩ gì nữa, dối trá hề là việc dễ dàng với Saleem, và tôi cúi gằm mặt xấu hổ khi thú nhận chuyện này... Vậy , vì sao, lời dối trắng trợn duy nhất này? (Bởi vì, thực tế, tôi hề biết địch thủ của/đứa trẻ bị đánh tráo với tôi về đâu sau tai biến tại Khách sạn Góa phụ; ở hỏa ngục hay nhà thổ cuối đường tôi cũng chẳng phân biệt được.) Padma, gắng hiểu cho tôi: tôi vẫn khiếp sợ . Nợ nần giữa tôi và chưa thanh toán hết, và mỗi ngày trôi qua tôi vẫn run rẩy trước ý nghĩ rằng biết đâu người hùng thời chiến khám phá ra bí mật lúc chào đời của - có bao giờ được cho xem cặp hồ sơ có ba chữ cái đầu bật-mí-bí-mật? - và rằng, bị mất mát thể vãn hồi của quá khứ thổi bùng lên cơn thịnh nộ, biết đâu đến tìm tôi để giáng xuống đòn báo thù ngạt thở... lẽ nào tất cả kết thúc như thế, sinh mệnh bị bóp nghẹt khỏi tôi bởi cặp đầu gối siêu nhân, tàn ác?

      Thế nên tôi mới bịa đặt; lần đầu tiên, tôi trở thành nạn nhân của cám dỗ mà mọi người viết tự truyện đều gặp phải, của ảo tưởng rằng bởi vì quá khứ chỉ tồn tại trrong những ký úc của con người và những từ ngữ cố gắng cách vô ích để biểu đạt chúng nên có thể tạo ra những kiện trong quá khứ đơn giản bằng cách viết rằng chúng xảy ra. Nỗi sợ tại của tôi đặt khẩu súng vào tay Roshanara Shetty; với hồn ma của Trung tá Sabarmati đứng sau nhòm qua vai tôi, tôi cho hối lộ ve vãn luồn lọt để vào được xà lim của ... tóm lại, ký ức về trong những tội ác đầu tiên tạo nên tình huống (giả tưởng) cho tội ác cuối cùng của tôi.

      Kết thúc màn thú tội: bây giờ tôi đến gần cách nguy hiểm cái kết cho những hồi tưởng của tôi. Đêm về; Padma vào vị trí; ở bức tường đầu tôi, con thằn lằn vừa nhai rau ráu con ruồi; cái nóng nung nấu của tháng Tám, dư sức ngâm cả não người, hân hoan sủi bọt giữa hai tai tôi; và mới năm phút trước chuyến tàu nội hạt cuối cùng vạch đường vàng-và-nâu về phía Nam đến Ga Churchgate, thành thử tôi nghe thấy điều Padma vừa , với vẻ thẹn thùng che giấu quyết tâm mãnh liệt như dầu hỏa. Tôi đành bảo nhắc lại, và những cơ thịt của ngỡ ngàng bắt đầu co giật ở bắp chân . Tôi phải lập tức ghi lại rằng đóa sen-phân của chúng ta lời cầu hôn, “để em có thể săn sóc ông mà phải hổ hẹn với bàn dân chiên hạ.”

      Đúng như tôi sợ! Nhưng giờ lời ra, và Padma (tôi có thể đoán được) chấp nhận câu trả lời “”, tôi phản đối, như trinh nữ mặt đỏ bừng: “Như vậy đường đột quá - rồi còn vụ phẫu thuật, rồi thứ bị vứt cho chó ăn: em ngại ư? - và Padma, Padma, còn cả thứ-ăn-mòn-xương, nó biến em thành quả phụ! - và em mà nghĩ xem, còn lời nguyền chết thảm nữa, hãy nghĩ cái Parvati - em có chắc , có chắc có chắc hả...?” Nhưng Padma, hàm răng siết chặt thành khối bê tông của quyết tâm hùng hồn gì lay chuyển nổi, trả lời: “Ông nghe em đây - với em có nhưng nhị gì sất! bàn đến mấy chuyện hoang đường ấy nữa. Còn có tương lai để nghĩ tới.” Tuần trăng mật diễn ra ở Kashmir.

      Dưới cái nóng hừng hực từ quyết tâm của Padma, lòng tôi nhói lên ý nghĩ điên cuồng rằng biết đâu, sau tất cả, em là người có thể thay đổi kết cục câu chuyện của tôi, bằng sức mạnh ý chí phi thường của em, rằng những vết nứt - và bản thân cái chết - có thể phải lùi bước trước quyền năng của niềm quan thiết khôn nguôi em dành cho tôi... “Còn có tương lai để nghĩ tới,” em nhắc tôi - và biết đâu (tôi cho phép mình nghĩ lần đầu tiên từ khi bắt đầu câu chuyện này) - biết đâu còn có ! Hằng hà sa số những cái kết mới chen chúc quanh đầu tôi, vo ve như bầy côn trùng của cái nóng... “Mình cưới nhau , ông.” em cầu hôn, và đàn bướm đêm của niềm phấn khích loạn động trong ruột tôi, như thể em vừa đọc chú ngữ thần bí, câu abracadabra siêu phàm, giải phóng tôi khỏi định mệnh - nhưng thực đeo đuổi tôi. Tình chinh phục tất cả, trừ trong phim chớp bóng Bombay; rách nứt rạn bị đánh bại chỉ bởi nghi lễ; và lạc quan là căn bệnh.

      “Vào sinh nhật ông, có được ?” em gợi ý. “Tam thập nhi lập, đàn ông ba mốt lấy vợ là phải rồi.”

      Tôi biết thế nào với em? Làm sao tôi được, rằng còn có những kế hoạch khác cho ngày hôm đó, tồi luôn bị bóp nghẹt trong định mệnh điên-cuồng-với-hình-thái, vốn thích gieo rắc tai ương vào những ngày linh thiêng... tóm lại, làm sao tôi được với em về cái chết? Tôi thể; thay vào đó, với vẻ nhu mì và muôn phần cảm kích, tôi nhận lời cầu hôn của em. Tôi, đêm hôm nay, là tân lang; hãy đừng ai nghĩ khắt khe về tôi vì tự cho phép mình - và bông sen kết tóc se tơ của tôi – niềm hoan lạc cuối cùng, tầm thường, vô nghĩa này.

      Padma, qua việc cầu hôn, cho tháy, em sẵn lòng xem mọi thứ tôi kể cho em chỉ là những “chuyện hoang đường” hơn kém; khi tôi trở lại Delhi và thấy Picture Singh cười ngoác miệng dưới bóng chiếc cầu đường sắt, tôi mau chóng hiểu ra rằng cả các nhà ảo thuật cũng mất dần ký ức. Đâu đó trong những lần di chuyển của khu ổ chuột lưu động, họ làm thất lạc năng lực ghi nhớ của mình, thành thử giờ đây họ mất khả năng phán đoán, vì họ quên mọi thứ có thể sử dụng để tham chiếu với những việc xảy ra. Ngay cả thời kỳ Khẩn cấp cũng nhanh chóng rơi vào mai của quá khứ, và các nhà ảo thuật chú tâm vào tại với chuyên nhất của loài sên. Họ cũng nhận ra rằng mình thay đổi; họ quên rằng mình từng khác bây giờ, chủ nghĩa Cộng sản rỉ ra khỏi họ và bị mặt đất khát nước, nhanh như thằn lằn, nuốt sạch; họ bắt đầu quên những kỹ năng nghề nghiệp trong cơn hỗn loạn của đói khát, bệnh tật và bạo hành của cảnh sát - những yếu tố cấu thành (như thường lệ) tại. Tuy nhiên, với tôi, thay đổi ở những bằng hữu cũ này khác gì cú sốc. Saleem biết thế nào là mất trí nhớ, và được thấy mức độ phi đạo đức của nó; trong đầu gã, quá khứ mỗi ngày trở nên rực rỡ hơn trong khi tại ( bị những lưỡi dao cắt đứt khỏi gã mãi mãi) có vẻ màu, rối rắm, thứ chẳng có gì quan trọng; tôi, kẻ nhớ từng sợi tóc đầu bọn cai ngục và bác sĩ phẫu thuật, choáng váng sâu xa trước thái độ ngần ngại nhìn lại sau lưng của các nhà ảo thuật. “Người chả khác gì mèo, tôi bảo con trai, “chẳng dạy được cái gì hết.” Mặt thằng bé có vẻ nghiêm nghị rất hợp cảnh, nhưng nó nín thinh.

      Con trai tôi Aadam Sinai , khi tôi tái phát khu trại bóng ma của các nhà ảo thuật, mất hẳn mọi dấu tích của chứng lao phổi từng hành hạ nó hồi mới sinh. Tôi, lẽ dĩ nhiên, tin chắc chắn rằng căn bệnh tiêu tan cùng với sụp đổ của mụ Góa phụ; Picture Singh, mặc dù vậy, bảo tôi rằng công lao chữa bệnh phải được quy cho mụ thợ giặt nào đó, tên gọi Durga, người nuôi vú thằng bé suốt thời gian nó ốm, cho nó ngày ngày hưởng dụng hai bầu sữa đồ sộ và bất tận của mụ. “Cái mụ Durga ấy, đội trưởng,” người dụ rắn già , giọng tố cáo rằng, khi về già, trúng bùa xà ngải rắn của mụ dhoban nọ, “ người đàn bà!”

      Mụ là người đàn bà có bắp tay cuồn cuộn; có cặp vú siêu nhiên đổ ra dòng sữa có khả năng nuôi dưỡng hàng trung đoàn; và, người ta đồn kín với nhau rằng (mặc dù tôi ngờ rằng tin đồn này do chính mụ tung ra), có hai tử cung. Vú mụ nhiều sữa bao nhiêu đầu mụ cũng nhiều chuyện tấm phào với ngồi lê đôi mách bấy nhiêu: mỗi ngày cả tá chuyện mới tuôn ra từ mồm mụ. Mụ sở hữu nguồn năng lượng vô tận phổ biến trong tất cả đám chị em bạn nghề; khi mụ quật những sơ mi và sari lên phiến đá giặt đến phọt hết sinh khí ra ngoài, mụ dường như gia tăng sức mạnh, như thể mụ hút cạn sinh lực của quần áo, những món đồ có chung kết cục là phẳng lì, đứt hết khuy và bị nện nhừ tử. Mụ là con quái vật sống hết ngày nào quên ngay ngày ấy. Tôi phải hết sức miễn cưỡng bản thân khi đồng ý làm quen với mụ; và cũng hết sức miễn cưỡng tôi mới để mụ bước vào những trang viết này. Tên mụ, từ trước khi tôi gặp mụ, có mùi của cái mới; mụ đại diện cho tân kỳ, những khởi đầu, xuất của những câu chuyện kiện điều phức tạp mới, mà tôi còn hứng thú với bất cứ thứ gì mới nữa. Tuy nhiên, khi Pictureji cho tôi biết định lấy mụ, tôi chẳng còn lựa chọn nào khác; mặc dù vậy, tôi đề cập đến mụ vắn tắt nhất mà vẫn bảo đảm tính xác thực.

      Nào vắn tắt: mụ Durga thợ giặt là con hồ ly tinh! con thằn lằn hút máu đội lốt người! Và ảnh hưởng của mụ lên Picture Singh chỉ có thể so với uy lực của mụ đối với những chiếc áo bị quật vào đá: tóm lại, mụ đè bẹp . Gặp mụ lần, tôi hiểu tại sao nhìn Picture Singh lại già và sầu thảm như thế; nay bị tước chiếc ô hòa hợp mà nam phụ lão ấu từng tụ tập ở dưới để được nhận lời khuyên và bóng mát, như ngày héo hon ; khả năng trở thành con Chim ngân nga thứ hai tan biến ngay trước mắt tôi. Durga, trong khi đó, ngày vượng hơn: những chuyện ngồi lê đôi mách của mụ ngày càng tục tĩu, giọng mụ ngày to và khàn, đến khi rốt cuộc mụ làm tôi nhớ đến Mẹ Bề những năm cuối đời, khi bà phình ra còn ông tôi co lại. tái đầy hoài niệm hình ảnh ông bà tôi là điều duy nhất làm tôi hứng thú ở tính cách của mụ thợ giặt mồm loa mép giải này.

      Nhưng thể nào phủ nhận hào phóng của tuyến sữa của mụ: Aadam, ở tháng thứ hai mươi mốt, vẫn đầy thỏa mãn bú vú mụ. Đầu tiên tôi nghĩ đến việc cho thằng bé cai sữa, nhưng rồi nhớ ra con trai tôi chỉ làm duy nhất điều nó muốn, nên tôi thôi ép nó nữa. (Và, hóa ra, tôi đúng khi làm thế.) Vì cái tử cung nghe-đồn-là-kép của mụ, tôi có khao khát biết chuyện đấy hay giả, nên sâu tìm hiểu.

      Tôi đề cập đến Durga mụ dhoban, chủ yếu vì chính mụ là người đầu tiên, buổi tối khi chúng tôi dùng bữa với hai mươi bảy hạt cơm mỗi suất, tiên đoán về cái chết của tôi. Tôi, phát bực với dòng tin tức và tán nhảm bất tận của mụ, phàn nàn, “Durga Bibi, chả ai quan tâm đến mấy chuyện chị kể đâu!” Nghe vậy mụ, bình thản, “Saleem Baba, tôi tử tế với cậu vì Pictureji bảo rằng sau khi bị bắt chắc cậu tan vỡ ghê gớm lắm; nhưng, , tôi thấy độ này cậu chả quan tâm đến cái gì ngoài việc vật vờ lại. Cậu nên biết rằng khi người mất hứng thú với cái mới, ta mở cánh cửa đón Hắc thần.”

      Và mặc dù Picture Singh mềm mỏng, “Coi nào, đội trưởng , đừng khắt khe với cậu bé,” mũi tên của Durga mụ dhoban trúng đích.

      Trong tình trạng kiệt quệ của ngày trở về sau khi bị hút kiệt, tôi tìm thấy ngày tháng trống rỗng bao bọc lấy tôi như lớp thạch dày: và mặc dù Durga đề nghị, vào sáng hôm sau, và có lẽ do chật lòng áy náy về những lời lẽ cay nghiệt của mình, giúp tôi hồi phục sức khỏe bằng cách cho tôi bú vú trái trong khi con trai tôi bú bên phải, “và sau đó biết đâu cậu suy nghĩ bình thường trở lại,” những điềm báo của tử vong bắt đầu chiếm lĩnh phần lớn tâm trí tôi; thế rồi tôi khám phá ra tấm gương của hèn mọn ở bến xe Shadipur, và bắt đầu tin rằng tử kỳ của tôi đến.

      Đó là tấm gương treo nghiêng phía lối vào ga ra xe buýt; tôi, lang thang vô định trong sân trước của bến xe, bị thu hút bởi ánh mặt trời nhấp nháy mà nó phản chiếu ra. Tôi nhận ra nhiều tháng, thậm chí nhiều năm, tôi chưa nhìn thấy mình trong gương, và qua đứng bên dưới nó. Nhìn lên tấm gương, tôi thấy mình biến dạng thành người lùn đầu to, thân nặng nề; trong hình ảnh bị thu ngắn lại cách hèn mọn ấy của bản thân, tôi thấy tóc mình nay xám xịt như mây trời; thằng lùn trong gương, với khuôn mặt nhăn nheo và đôi mắt mỏi mệt, gợi nhớ sâu sắc cho tôi về ông tôi Aadam Aziz vào cái ngày ông chuyện nhìn thấy Chúa với chúng tôi. Khi ấy những khổ não được Parvati-phù-thủy chữa khỏi đều (hệ quả của việc bị hút kiệt) trở lại hành hạ tôi; tay chín ngón, sừng thái dương, đầu sư cọ, mặt nhọ, chân vòng kiềng, mũi dưa chuột, bị thiến, và nay lại già trước tuổi, tôi thấy trong tấm gương của hèn mọn ấy con người mà lịch sử còn gì để làm nữa, sinh vật dị hợm vừa được phóng thích khỏi cái số kiếp tiền định đánh đập gã tơi bời cho đến khi gã chỉ còn nửa điên nửa tỉnh; với tai lành và tai điếc tôi nghe thấy tiếng chân vị Hắc thần của cái chết.

      Khuôn mặt trẻ-già của thằng lùn trong gương biểu lộ nhõm sâu sắc.



      Tồi trở nên rầu rĩ; ta hãy đổi đề tài... Đúng hai mươi bốn tiếng trước khi lời chế nhạo của hàng trầu khiêu khích Picture Singh đến chỗ lên đường Bombay, Aadam Sinai con tôi đến quyết định cho phép chúng tôi đồng hành với người dụ rắn: sau đêm, chẳng hề báo trước, và trước bần thần của người vú nuôi thợ giặt, người buộc phải vắt sữa thừa vào những thùng vanaspati năm lít, thằng bé Aadam tai quạt cự cai sữa, lẳng lặng từ chối bầu vú và cầu ( lời) được ăn dặm: cơm nhão đậu nhừ bích quy. Như thể nó quyết định cho phép tôi tiến đến cái đích riêng tư và nay--rất-gần của mình.

      Tính tự chủ câm lặng của đứa trẻ chưa đầy hai tuổi: Aadam hề khi nào nó đói hay buồn ngủ hay nóng lòng thực các nhu cầu tự nhiên. Nó đòi hỏi chúng tôi phải tự biết. quan tâm liên tục mà nó cầu có lẽ là trong số những nguyên nhân khiến tôi tiếp tục, bất chấp mọi chỉ dấu về điều ngược lại, sống được… chẳng làm được gì khác trong những ngày mới thoát kiếp giam cầm, tôi tập trung vào trông nom con trai tôi. “ thực, đội trưởng, may mà cậu quay về,” Picture Singh đùa, “ thằng bé này biến mọi người thành ayah hết.” Tôi lần nữa hiểu rằng Aadam là thành viên của thế hệ thứ hai của những đứa trẻ thần kỳ lớn lên kiên cường hơn nhiều thế hệ trước, tìm kiếm vận mệnh của mình trong những lời tiên tri hay chiêm tinh, mà tôi luyện ra nó trong lò lửa bất khuất của ý chí của chúng. Nhìn vào đôi mắt đứa trẻ vừa phải con tôi, đồng thời là hậu duệ của tôi hơn bất kỳ đứa con máu thịt nào, tôi thấy trong đôi đồng tử trống rỗng, trong veo ấy tấm gương thứ hai của hèn mọn, cho tôi thấy rằng, từ giờ trở , tôi chỉ còn đóng vai trò ngoại vi như bất cứ ông già vô dụng nào: chức năng truyền thống, có thể, của người hồi tưởng, người kể chuyện... Tôi cứ băn khoăn biết cả nước đàn con trai hoang của Shiva có , áp đặt ách bạo quyền tương tự lên những bậc cha mẹ bất hạnh, và lần thứ hai mường tượng ra bầy nhóc con có sức mạnh đáng sợ này, lớn lên đợi chờ nghe ngóng, tập dượt cho thời khắc cả thế giới biến thành đồ chơi của chúng. (Làm thế nào để, trong tương lai, nhận diện những đứa trẻ này: rốn chúng lồi ra thay vì thụt vào).

      Nhưng đến lúc kể tiếp câu chuyện: lời chế nhạo, đoàn tàu sau chót chạy về phương Nam Nam Nam, trận chiến tối hậu... ngay sau cái ngày Aadam cai sữa, Saleem theo Picture Singh đến Connaught Place để phụ trong màn xiếc rắn. Durga mụ dhoban bằng lòng dắt con trai tôi theo đến dhobi-ghat: Aadam dành cả ngày quan sát sức mạnh bị nện phọt ra khỏi quần áo của người giàu và được mụ hồ ly ấy hấp nạp ra sao. Vào cái ngày định mệnh ấy, khi tiết trời ấm áp trở lại thành phố như đàn ong, tôi bị gặm nhấm trong niềm hoài nhớ chiếc ống nhổ bị xe ủi đè bẹp. Picture Singh cho tôi vật-thay-thế-ống-nhổ, can dầu Dalda Vanaspati rỗng, nhưng mặc dù tôi vẫn dùng nó mua vui cho con tôi bằng thành thạo trong môn nghệ thuật đầy tinh tế phụt-ống-nhổ, phun những tia nước trầu dài trong khí bụi bặm ở khu trại của giới ảo thuật, tôi vẫn nguôi nỗi nhớ. Câu hỏi: việc gì phải đau khổ chỉ vì cái hứng bã trầu? Câu trả lời của tôi là quý vị đừng bao giờ đánh giá thấp cái ổng nhổ. Tao nhã trong salon của Quận chúa xứ Cooch Naheen, nó cho phép giới trí thức rèn luyện hình thức nghệ thuật đại chúng; lấp lánh dưới hầm, nó biến thế giới ngầm của Nadir Khan trở thành Taj Mahal thứ hai; nằm phủ bụi trong cái rương tôn cũ, nhưng nó luôn diện trong suốt lịch sử của tôi, ngấm ngầm hấp thụ những tai biến trong tủ giặt, hồn ma, đóng băng - tan băng, hút kiệt, lưu đày; từ trời rơi xuống như mảnh trăng, nó kích phát biến đổi. Ôi chiếc ống nhổ bùa thiêng! Ôi vật thu nhận ký ức cũng như bã trầu mỹ lệ nay thất lạc! Có con người nhạy cảm nào lại thông cảm với nỗi xót xa hoài niệm của tôi trước thất lạc của nó?

      ... Bên cạnh tôi ở cuối cỗ xe buýt căng phồng nhân loại, Picture Singh ngồi với những sọt rắn cuộn tròn ngây thơ lòng . Suốt dọc đường xóc lên nảy xuống chạy xuyên cái thành phố đầy rẫy cả những hồn ma sống dậy của những thành Delhi xa xưa và thần thoại, Người Đàn Ông Dụ Hoặc Nhất Thế Gian toát ra vẻ ngã lòng uể oải, như thể trận chiến trong căn buồng tối xa xăm kết thúc... cho đến khi tôi quay về, ai hiểu được nỗi sợ đích thực và ra của Pictureji là thấy mình già , sức mạnh của lịm dần, sớm trôi dạt và bất lực trong thế giới mà hiểu: như tôi, Picture Singh bấu víu vào diện của Bé Aadam như thể thằng bé là ánh đuốc trong đường hầm dài tăm tối. “ thằng bé ngoan, đội trưởng,” bảo tôi, “ chằng bé đầy tự trọng: ta hầu như để ý đến tai nó.”

      Tuy nhiên, ngày hôm đó con trai tôi cùng chúng tôi.

      Mùi của New Delhi xộc vào mũi tôi Connaught Place - hương bích quy từ quảng cáo của J.B. Mangharam, mùi phấn bảng sầu thảm của thạch cao bong tróc; và hơi bi kịch của các tài xế xe lam, do xăng tăng giá mà đói đến nỗi buông xuôi tất cả; và hương-cỏ-xanh của vòng tròn tiểu cảnh nằm giữa bùng binh giao thông, trộn lẫn với mùi những tên lừa đảo thuyết phục khách nước ngoài đổi ngoại tệ chợ đen dưới những mái vòm rợp bóng. Từ Quán cà phê Ấn Độ, nơi dưới mái lều bạt ngớt rộn lên tiếng lao xao tán gẫu tỏa ra mùi hương kém dễ chịu của những câu chuyện mới bắt đầu: tình ái hôn nhân cãi cọ, tất cả đều bị trộn lẫn với mùi trà và pakora cay. Thứ tôi ngửi thấy ở Connaught Place: có mặt ăn xin quanh đó của mặt sẹo năm xưa từng là Sundari-mỹ-nhân-tuyệt-sắc; và ký-ức-thất-lạc, và hướng-tới-tương-lai, và chẳng-có-gì---thay-đổi… quay lưng lại những dự cảm khứu giác ấy, tôi tập trung vào những mùi nồng nặc và đơn thuần hơn của nước đái (người) và phân động vật.

      Dưới hàng cột của Nhà F tại Connaught Place, cạnh mẹt sách vỉa hè, là chỗ ăn nên làm ra của hàng trầu. ngồi khoanh chân phía sau cái quầy kính xanh như tiểu thần của chốn này: tôi đưa vào những trang cuối cùng này bởi vì, mặc dù bốc ra mùi nghèo đói, kỳ thực, là người có của, chủ nhân của chiếc Lincoln Continental, mà đậu khuất tầm mắt ngoài Bùng binh Connaught, được mua bằng gia tài kiếm được từ bán thuốc lá nhập lậu và đài bán dẫn; mỗi năm vào tù nghỉ mát hai tuần, và thời gian còn lại trả cho vài viên cảnh sát mức lương hậu hĩnh. Trong tù được biệt đãi như ông hoàng, nhưng đứng đằng sau cái quầy kính xanh, trông rất bình thường, vô hại, thành thử dễ (nếu cái mũi nhạy bén cỡ Saleem) nhìn ra đây là người biết tất cả mọi thứ về tất cả mọi thứ, người có mạng lưới quan hệ bất tận cho phép nắm được những thông tin bí mật... với tôi gợi nhớ bổ sung và phải là dễ chịu về nhân vật tương tự mà tôi biết ở Karachi trong những ngày rong ruổi chiếc Lambretta; tôi mải hít thở mùi hương quen thuộc của hoài niệm đến nỗi, khi lên tiếng, làm tôi giật mình.

      Chúng tôi dựng rạp biểu diễn ngay cạnh quầy của ; trong khi Pictureji mải đánh bóng sáo và đội lên đầu cái khăn xếp khổng lồ màu nghệ, tôi thực vai trò hoạt náo viên. “Lại đây lại đây - cơ hội cả đời có đây - ladees ladah, lại xem lại xem lại xem ! Đây là ai ? phải hạng bhangi tầm thường; chẳng phải loại bịp bợm đầu đường; đây, hỡi các công dân, các ông các bà, là Người Đàn Ông Dụ Hoặc Nhất Thế Gian! Phải, lại xem lại xem : ảnh của do chính Công ty Eastman-Kodak chụp! Lại đây mau đừng sợ - PICTURE SINGH ở đây!”... Và đủ thứ ba hoa rác rưởi khác; nhưng rồi hàng trầu lên tiếng:

      “Tôi biết màn oách hơn. chàng này đâu phải là số ; Ồ , chắc chắn là . Ở Bombay có người còn oách hơn.”

      Đấy là cách Picture Singh biết đến tồn tại của kình địch cũng là lý do vì sao , vứt bỏ mọi kế hoạch trình diễn, thẳng tiến đến hàng trầu cười hờ, và sục xuống sâu trong để tìm lại giọng quyền uy khi xưa, rồi , “Cậu cho tôi biết về tên bịp bợm này, đội trưởng, nếu tôi tống răng cậu chui vào họng cho đến khi chúng cắn vào dạ dày cậu.” Và hàng trầu, tỉnh khô, thừa biết ba viên cảnh sát lảng vảng gần đó mau mắn can thiệp để bảo vệ đồng lương của họ nếu cần thiết, thầm với chúng tôi bí mật về tài vạn thông của , cho chúng tôi biết ai bao giờ ở đâu, tới khi Picture Singh bằng giọng mà vẻ quả quyết che lấp nỗi sợ của : “Tôi tìm và cho gã Bombay này biết ai là số . đời này, các đội trưởng, có chỗ cho hai Người Dụ Hoặc Nhất.”

      Người bán các thức trầu trân phẩm, nhún vai cách tế nhị, phún xuất dưới chân chúng tôi.



      Như câu thần chú, lời giễu cợt của người bán trầu mở ra cánh cửa cho Saleem trở về thành phố chôn nhau cắt rốn, nơi trú ngụ của nỗi hoài nhớ sâu sắc nhất trong gã. Phải, đó là câu “vừng ơi mở ra,” và khi chúng tôi quay về dãy lều nát dưới gầm cầu đường sắt, Picture Singh bới đất rồi moi lên chiếc khăn mùi soa buộc túm đựng đồ bảo mệnh của , mảnh vải bạc màu bụi đất nơi tích cóp những đồng xu cho lúc tuổi già; và khi Durga mụ thợ giặt từ chối cùng , “Ông nghĩ sao vậy, Pictureji, tôi là loại đàn bà triệu phú hay sao mà có thời gian nghỉ mát kiểu đấy?”, quay sang tôi với điều gì đó rất gần với van nài trong ánh mắt và ngỏ lời muốn tôi cùng, để phải bước vào trận chiến ác liệt nhất, thử thách với tuổi tác của , mà người bạn... phải, và Aadam cũng nghe thấy - với đôi tai phấp phới nó nghe thấy nhịp điệu của câu thần chú, tôi thấy mắt nó sáng lên khi tôi đồng ý, và thế là chúng tôi ngồi trong khoang tàu hạng ba chạy về phía Nam Nam Nam, và trong đơn điệu năm tiết của những bánh xe, tôi nghe thấy mật ngữ ấy: abracadabra abracadabra abracadabra, tiếng hát của bánh xe khi chúng đưa chúng tôi bay-về-Bom.

      Phải, tôi bỏ khu trại của giới ảo thuật lại sau mãi mãi, tôi abracadabra abracadabra hướng đến trái tim của nỗi hoài nhớ giữ tôi sống đủ lâu để viết những dòng này (và tạo ra số tương ứng những lọ ngâm); Aadam cùng Saleem và Picture Singh nhồi nhét trong toa hạng ba, đem theo cơ số sọt buộc dây, những chiếc sọt làm phần nhân loại bị nhồi-như-thịt-hộp trong toa kinh hãi vì kêu phì phì liên tục, khiến đám đông dồn ra sau sau sau, tránh xa hiểm họa bầy rắn, nhường cho chúng tôi thoải mái và rộng rãi nhất định; trong khi những bánh xe hát bài abracadabra cho đôi tai phấp phới của Aadam.




      Càng gần đến Bombay, vẻ bi quan ở Picture Singh càng lớn dần lên cho tới khi dường nó như trở thành thực thể vật chất chỉ có bề ngoài là giống người dụ rắn ngày xưa. Đến ga Mathura, gã trai người Mỹ cằm đầy mụn và đầu cạo trọc như quả trứng lên toa chúng tôi cùng đội quân hàng rong nhộn nhạo bán con giống đất sét và chaloo-chai[2] theo cốc; gã phe phẩy cái quạt lông công, và vận đen từ mớ lông công càng làm Picture Singh trầm uất ngoài sức tưởng tượng. Trong khi bằng phẳng bất tận của bình nguyên Ấn-Hằng trải rộng ngoài cửa sổ, phả hơi nóng điên dại của gió sa mạc[3] về chiều vào hành hạ chúng tôi, tay Mỹ trọc giảng giải cho hành khách trong toa về tính phức tạp của đạo Hindu và bắt đầu dạy họ chân ngôn trong khi tay chìa ra cái bát ăn xin bằng gỗ hồ đào; Picture Singh như mù trước cảnh tượng kỳ thú này và như điếc trước điệp khúc abracadabra của đoàn bánh xe. “Chẳng ích gì đâu, đội trưởng,” buồn thảm giãi bày, “tay Bombay này trẻ và khỏe, và từ nay chỉ còn là người đàn ông dụ hoặc thứ hai.” Khi chúng tôi tới ga Kotah, mùi đen đủi bốc ra từ cây quạt lông công hoàn toàn chiếm lĩnh Picture Singh, ăn mòn cách đáng báo động đến nỗi mặc dù mọi người toa đều xuống tàu ở phía bên kia so với sân ga để tiểu tiện lên thành tàu, có dấu hiệu gì là cần cả. Đến Giao lộ Ratlam, trong khi cơn phấn khích của tôi dâng cao, chìm vào cơn hôn mê phải là ngủ mà là tê liệt lớn dần của tâm lý bi quan. “Cứ cái đà này,” tôi nghĩ, “khéo ấy còn chẳng thách đấu được.” Qua Baroda: vẫn thế. Tại Surat, cảng tập kết của John Company ngày xưa[4], tôi nhận ra rằng mình cần phải hành động ngay, bởi vì mỗi phút abracadabra lại đem chúng tôi đến gần Bombay hơn, thế là cuối cùng tôi nhặt cây sáo gỗ cũ của Picture Singh lên, và bằng cách thổi nó cách vụng về tệ hại đến nỗi tất cả lũ rắn rít lên đau đớn và làm gã trai người Mỹ nín bặt vì khiếp đảm, bằng cách phát ra thanh ma tru quỷ khóc đến nỗi ai nhận ra tàu chạy qua đường Bassein, Kurla, Mahim, tôi phá vỡ màn khí của lông công; sau cùng Picture Singh rùng mình tỉnh dậy từ cơn tuyệt vọng với cái nhệch cười yếu ớt và , “Tốt hơn là cậu thôi , đội trưởng, và đưa tôi thổi cho; có người chắc chết vì đau đớn mất.”

      [2] Trà sữa pha đường.

      [3] Nguyên văn: loo-wind, thứ gió mùa mang hơi nóng của sa mạc vào lục địa Ấn Độ.

      [4] John Company: tên gọi khác của Công ty Đông Ấn thuộc .

      Bầy rắn nguôi dần trong sọt; thế rồi bánh xe thôi hát, và chúng tôi đến nơi:

      Bombay! Tôi ôm ghì lấy Aadam, và cưỡng được bật ra tiếng reo xa xưa: “Bay-về-Bom!” Tôi reo mừng, trước vẻ ngơ ngác của gã trai người Mỹ, kẻ chưa bao giờ biết đến câu chân ngôn ấy; và nhắc , và nhắc lại, nhắc , nhắc lại: Bay-về-Bom! Về-Bom!”

      Bắt xe buýt xuôi đường Bellasis, tới vòng cua Tardeo, chúng tôi qua những người Parsee mắt trũng sâu, qua những tiệm sửa xe đạp và quán café Iran; rồi đến Hornby Vellard bên phải chúng tôi - nơi khách bộ hành chứng kiến cảnh Sherri con chó lai bị vứt bỏ cho ộc máu ra chết! Nơi hình nộm bằng bìa của các đồ vật vẫn ngất ngưởng các lối vào ở sân vận động Vallabhbhai Patel! - chúng tôi xóc nảy tưng tưng qua những cảnh sát giao thông dưới ô che nắng, qua đền Mahalaxmi – rồi đến đường Warden! Bể bơi Breach Candy! Và kia, nhìn kìa, các cửa hàng... nhưng tất cả đổi tên: còn đâu nữa Thiên Đường của Độc giả với hàng chồng truyện tranh Siêu nhân? Còn đâu, Tiệm giặt Band Box và hàng bánh kẹo Bombelli’s, với những thanh Sô La Dài Cả Mét? Và, lạy Chúa, nhìn kia, đỉnh quả đồi hai tầng nơi những biệt thự của William Methwold từng đứng dưới vòm hoa giấy và kiêu hãnh nhìn ra biển... nhìn nó , con quái vật khổng lồ da hồng hình tòa nhà, ngọn tháp chọc trời sắc đào của đám đàn bà nhà Narlikar, lừng lững đứng đó và xóa sổ hoàn toàn vòng xuyến của tuổi thơ… phải, đây là Bombay của tôi, mà cũng -phải-của-tôi, bởi vì khi đến Kemp’s Corner, chúng tôi thấy biển quảng cáo cậu bé rajah của Air- India với Thằng nhóc Kolynos biến mất, biến mất mãi mãi, và bản thân Thomas Kemp and Co. cũng tan biến vào hư ... cầu vượt chằng chịt mọc lên ở nơi, ngày xửa ngày xưa, thuốc được bán theo đơn và tiểu tinh linh đội mũ diệp lục nở nụ cười sáng bóng với xe cộ qua lại. Rất đỗi bi thương, tôi lầm rầm trong hơi thở: “Giữ Răng Shạch và Giữ Răng Sháng! Giữ Răng Kolynos Cực Bóng Loáng!” Nhưng mặc cho tôi niệm chú, quá khứ vẫn tái ; chúng tôi lạch xạch xuống đường Gibbs và xuống xe gần Chowpatty Beach.

      Ít ra, còn có Chowpatty là chưa thay đổi mấy: dải cát bẩn thỉu nhan nhản bọn móc túi, và ma cà bông, và những người bán rong channa-nóng-đây, hoặc kulfi và bhel-puri và chutter-mutter[5]; nhưng phải xuôi xuống Marine Drive tôi mới được thấy chiến tích của đội quân tetrapod. vùng đất mà liên doanh Narlikar lấn được của biển, bầy quái vật khổng lổ vươn thẳng lên bầu trời, mang những cái tên ngoại lai kỳ quái: OBEROI - SHERATON hét vào mặt tôi từ xa. Và còn đâu tấm biển neon Jeep?... “ thôi, Pictureji,” tôi sau hồi lâu, ấp Aadam vào ngực, “Hãy đến nơi chúng ta cần đến và giải quyết cho xong ; thành phố này bị thay đổi rồi.”

      [5] Những đồ ăn vặt phổ thông ở Bombay: kulfi lã loại kem nhiều sữa; bheh-puri là món ăn gồm bỏng gạo, mì xào giòn, hành tây và khoai tây; chutter-muttor là kiểu xa lát rau của Ấn Độ.



      Tôi biết gì về Câu lạc bộ Nửa đêm-Riêng tư? Rằng nó nằm dưới lòng đất, ở địa điểm bí mật (song bí mật với những bán trầu vạn thông); cửa ra vào, ký hiệu; khách hàng, giới tinh hoa của thành Bombay. Còn gì nữa? À, phải rồi: chịu quản lý của tay Anand “Andy” Shroff, doanh nhân và playboy, người hầu như ngày nào ta cũng thấy phơi nắng tại Khách sạn Sun ’n’ Sand Bãi biển Juhu giữa các minh tinh màn bạc và những bà hoàng bị truất ngôi. Xin hỏi quý vị: người Ấn, tắm nắng? Nhưng hiển nhiên đây là chuyện rất bình thường, những quy tắc quốc tế của giới playboy phải được tuân thủ nghiêm ngặt, trong đó có điều khoản về việc phải sùng bái mặt trời mỗi ngày, tôi cho là vậy.

      Tôi mới ngây thơ làm sao (vậy mà tôi từng nghĩ Sonny, đầu bẹp forcep, mới là thằng đơn giản!) - tôi chưa bao giờ nghĩ rằng đời có những chỗ như Nửa đêm-Riêng tư! Nhưng tất nhiên là có; tay nắm chặt những cây sáo và những sọt rắn, ba chúng tôi gõ cửa.

      Có bóng người thấp thoáng, sau tấm lưới sắt ở ngang tầm mắt: giọng nữ ngọt ngào khe khẽ cầu chúng tôi cho biết mục đích cuộc viếng thăm. Picture Singh tuyên bố: “Tôi là Người Đàn Ông Dụ Hoặc Nhất Thế Gian. Quý vị thuê người dụ rắn khác biểu diễn tạp kỹ ở đây; tôi thách đấu với ta để chứng tỏ mình xuất sắc hơn. Tôi đòi trả tiền cho việc này. Đó là, đội trưởng ạ, vấn đề danh dự.”

      Lúc đó là buổi tối; Ngài Anand “Andy” Shroff, may mắn thay, có mặt. Và, để khỏi rườm lời: lời khiêu chiến của Picture Singh được chấp thuận, chúng tôi tiến vào nơi mà cái tên chưa gì làm tôi ít nhiều mất can đảm, bởi vì nó chứa chữ nửa đêm, và bởi vì những chữ viết tắt của nó từng hàm chứa thế giới bí mật của riêng tôi: M.C.C., có nghĩa là Metro Cub Club, và cũng từng chỉ Hội nghị Những đứa trẻ Nửa đêm[6], nhưng nay bị hộp đêm bí mật này tiếm đoạt. tóm lại: tôi cảm thấy bị xâm phạm.

      [6] Tên tiếng của câu lạc bộ này là Midnite-Confidential Club.

      Hai vấn đề song hành của giới trẻ thành thị sành điệu: làm thế nào để tiêu thụ đồ uống có cồn ở quốc gia cấm rượu; và làm sao để cua theo đúng kiểu Tây xịn nhất, nghĩa là bằng cách đưa các em ăn chơi đập phá, trong khi vẫn bảo đảm tuyệt đối bí mật, nhằm tránh nỗi ô nhục rất Á Đông của vụ tai tiếng? Nửa đêm Riêng tư là giải pháp của Ngài Shroff cho những khó khăn day dứt này của giới trẻ lá ngọc cành vàng của thành phố. Dưới gian ngầm của phóng đãng ấy, gã tạo ra thế giới tối tăm như chốn u minh, đen như địa ngục; giữa gian bí mật của bóng tối nửa đêm, các tình nhân của thành phố gặp nhau, uống rượu, và đương; được bao bọc trong màn đêm cách biệt, nhân tạo, họ mơn trớn nhau mà bị trừng phạt. Địa ngục là huyễn tưởng của nhân loại: mọi truyền thuyết đòi hỏi ít nhất kẻ phải sa xuống Jahannum, và tôi theo sau Picture Singh vào đêm đen như mực của Câu lạc bộ, ôm đứa con trai bé bỏng tay.

      Chúng tôi được dẫn xuống tấm thảm đen thăm thẳm - đen-của-đêm, đen như lời dối, đen-của-quạ, đen-của-thịnh-nộ, đen trong “ê này, thằng đen!”; tóm lại, tấm thảm tối sẫm - bởi nữ nhân viên với vẻ hấp dẫn nhục cảm mê hồn, với tấm sari gợi tình vấn trễ ngang hông, đóa hoa nhài cài rốn; nhưng khi tiến sâu vào bóng tối, quay sang chúng tôi và nở nụ cười trấn an, tôi nhận ra rằng nhắm mắt; đôi mắt long lanh kỳ dị được vẽ lên mí mắt . Tồi nhịn nổi phải hỏi, “Vì sao...” đáp lại, đơn giản: “Tôi bị mù; và hơn nữa, ai đến đây muốn bị nhìn thấy. Ở đây là thế giới diện mạo hay tên tuổi; ở đây con người có ký ức, gia đình, hay quá khứ; nơi đây là cho tại, và chỉ tại mà thôi.”

      Và bóng tối vây phủ chúng tôi; dẫn chúng tôi qua hố thẳm ác mộng ấy, nơi ánh sáng bị gông cùm và xiềng xích, cái nơi nằm ngoài thời gian, cái chốn phủ nhận lịch sử ấy... “Ngồi đây,’’ , “Người dụ rắn kia sớm có mặt. Khi đến lúc, ngọn đèn rọi vào các ; lúc đó hãy bắt đầu cuộc đấu.”

      Chúng tôi ngồi đó trong - bao lâu? vài phút, vài giờ, vài tuần? - và trong đêm lóng lánh ánh mắt của những mù dẫn những vị khách vô hình vào chỗ ngồi; và dần dà, trong bóng tối, tôi bắt đầu ý thức được: vây quanh mình là những xì xầm se , đê mê như thể đàn chuột nhung giao phối; tôi nghe tiếng leng keng của ly tách những cánh tay xoắn xuýt vào nhau, tiếng cọ xát dịu dàng từ những đôi môi; với tai lành và tai điếc, tôi nghe thấy thanh của dục tình cấm kỵ tràn ngập bầu khí nửa đêm... nhưng , tôi muốn biết điều gì xảy ra; mặc dù mũi tôi có thể ngửi thấy, trong cái lặng lẽ xì xầm của hộp đêm, đủ thể loại câu chuyện và khởi đầu mới, đủ loại ái tình lạ lẫm và cấm kỵ, và những mâu thuẫn vụn vặt vô hình và kẻ-nào---quá-xa, nghĩa là đủ thứ chuyện ngồi lê đôi mách sốt dẻo, tôi quyết định phớt lờ tất cả, bởi vì đây là thế giới mới, và tôi có chỗ đây. Tuy nhiên, con trai tôi. Aadam, ngồi cạnh tôi với đôi tai nóng rực lên vì hứng thú; mắt nó sáng lên trong bóng tối trong khi nó lắng nghe, và ghi nhớ, và học hỏi… thế rồi ánh sáng bừng lên.

      luồng sáng duy nhất đổ xuống thành quầng sáng sân Câu lạc bộ Nửa đêm-Riêng tư. Từ bóng đêm nằm ngoài phạm vi vùng ánh sáng, Aadam và tôi trông thấy Picture Singh ngồi cứng đờ, chân khoanh lại, cạnh thanh niên đẹp trai đầu vuốt Brylcreem[7]; xung quanh mỗi người là nhạc cụ và những chiếc sọt đậy kín của môn nghệ thuật họ sắp trình diễn. Có tiếng loa thông báo: trận đấu huyền thoại giành danh hiệu Người Đàn Ông Dụ Hoặc Nhất Thế Gian sắp bắt đầu; nhưng có ai lắng nghe? Thậm chí, có ai buồn chú ý đến họ, hay tất cả đều mê mải với môi lưỡi tay? Đây là tên đối thủ của Pictureji: Tiểu vương xứ Cooch Naheen.

      [7] loại dầu bóng vuốt tóc xuất xứ từ .

      (Tôi biết: tự đặt danh hiệu là việc chẳng khó khăn gì. Nhưng có lẽ, có lẽ ta đích thực là cháu nội của vị Quận chúa từng thời, lâu lắm rồi, là bạn của Bác sĩ Aziz; có lẽ hậu nhân của người-ủng-hộ-con-Chim-ngân-nga được cử ra thi đấu, trớ trêu thay, với người lẽ ra có thể trở thành Mian Abdullah thứ hai! loại trừ khả năng này: ít tiểu vương lâm cảnh bần hàn từ khi mụ Góa phụ xóa tên họ trong danh sách được chính phủ trả lương.)

      Họ quyết đấu bao lâu, dưới lòng hang ánh mặt trời ấy ? Hàng tháng, hàng năm, hàng thế kỷ? Tôi biết nữa: tôi chứng kiến, như bị thôi miên, cảnh họ nỗ lực vượt lên đối thủ, mê hoặc đủ mọi loại rắn con người có thể hình dung ra, cầu mang đến những loài rắn hiếm từ trại rắn Bombay (nơi Bác sĩ Schaapsteker từng...); và chàng tiểu vương ngang tài với Picture Singh ở từng loại rắn, thậm chí dụ được cả trăn, điều từ trước đến giờ chỉ có Picture làm nổi. Dưới cái Hộp đêm hỏa ngục ấy, nơi bóng tối là khía cạnh trong nỗi ám ảnh của chủ nhân với màu đen (nguyên nhân khiến gã tắm nắng ở Sun ’n’ Sand cho da ngày đen hơn), hai nghệ sĩ bậc thầy thúc bách lũ rắn thực những màn trình diễn tưởng, bắt chúng tự thắt nút, cúi đầu chào, thuyết phục chúng uống nước từ ly đựng rượu, và nhảy qua vòng lửa... thách đố mệt mỏi, cái đói và tuổi tác, Picture Singh thi thố màn trình diễn của đời (nhưng liệu có ai xem? Bất cứ ai?) - và sau cùng ràng người trẻ hơn xuống sức trước; rắn của ta còn nhảy múa nhịp nhàng theo tiếng sáo; và cuối cùng, bằng tuyệt chiêu nhanh đến mức tôi kịp hiểu điều gì vừa diễn ra, Picture thắt con hổ mang chúa quanh cổ chàng tiểu vương.

    6. ^^! Nếu bạn không gửi link bài viết trên Facebook được, hãy sử dụng link trong khung này để chia sẻ bài viết :