1. QUY ĐỊNH BOX EBOOK SƯU TẦM

    Khi các bạn post link eBook sưu tầm nhớ chú ý nguồn edit và Link dẫn về chính chủ

    eBook phải tải File trực tiếp lên forum (có thể thêm file mediafire, dropbox ngay văn án)

    Không được kèm link có tính phí và bài viết, hay quảng cáo phản cảm, nếu có sẽ ban nick

    Cách tải ebook có quảng cáo

Những Đứa Con Của Nửa Đêm - Salman Rushdie (30 Chương)

Thảo luận trong 'Truyện Phương Tây'

  • ^^! Nếu bạn không gửi link bài viết trên Facebook được, hãy sử dụng link trong khung này để chia sẻ bài viết :
    1. banglangtrang123

      banglangtrang123 Well-Known Member Staff Member Super Moderator

      Bài viết:
      26,213
      Được thích:
      47,825
      Chương 23: Saleem đạt đến thuần khiết ra sao




      Cái chờ được kể: tái xuất của tiếng tích tắc. Nhưng giờ thời gian đếm ngược đến cái kết, phải ra đời; và cũng cần nhắc tới nỗi uể oải, cơn mệt mỏi rộng khắp sâu sắc đến độ cái kết, khi nó đến, là lối thoát duy nhất, bởi vì con người, cũng như các quốc gia và nhân vật hư cấu, hoàn toàn có thể mất hết động lực, và khi đó chẳng còn gì hơn ngoài việc kết thúc với chúng.

      Vầng trăng rụng mất mảnh còn Saleem đạt đến thuần khiết ra sao… đồng hồ tích tắc; và bởi vì mọi cuộc đếm ngược đều cần số … cho phép tôi thông báo: hồi kết đến vào ngày 22 tháng Chín năm 1965; và thời khắc chính xác khi kim-chạy-về- là, lẽ tất yếu, đúng nửa đêm. Mặc dù chiếc đồng hồ tháp cũ ở nhà bác Alia tôi (vốn chỉ đúng giờ nhưng luôn reo chuông chậm hai phút) hề có cơ hội đổ chuông.



      Bà ngoại tôi Naseem Aziz tới Pakistan vào giữa năm 1964, bỏ lại sau lưng Ấn Độ nơi cái chết của Nehru châm ngòi cuộc chiến giành quyền lực gay gắt. Moraji Desai, Bộ trưởng Tài chính, và Jagjivan Ram, nhân vật thế lực nhất giới tiện dân, đoàn kết nhằm quyết tâm ngăn chặn thành lập vương triều của nhà Nehru[1]; bởi thế Indira Gandhi bị khước từ quyền lãnh đạo. Tân Thủ tướng là Lal Bahdur Shastri, thành viên khác của thế hệ các chính khách có vẻ như được ngâm dung dịch bất tử; tuy nhiên, trong trường hợp của Shastri, đó chỉ là maya, ảo tưởng. Nehru và Shastri đều chứng minh đầy đủ tính tất tử của mình; song vẫn còn đó những kẻ khác, siết chặt Thời gian trong những ngón tay xác ướp và từ chối để nó vận động… tuy nhiên, ở Pakistan, đồng hồ vẫn tiếp tục tích tắc.

      [1] Indira Gradhi là con duy nhất của Nehru, do đó việc Indira có cơ hội lên nắm quyền Thủ tướng được Rushdie ám chỉ là hình thành vương triều của nhà Nehru.

      Ngoài mặt, Mẹ Bề tán thành nghiệp của em tôi; nó có hơi hướng ngôi sao màn bạc quá . “Gia đình ta, cáigìkhôngbiết,” bà thở dài với Pia mumani, “còn khó kiểm soát hơn cả giá xăng.” Tuy nhiên, có thể bà lại ngấm ngầm ấn tượng, vì bà vốn kính nể quyển lực và địa vị và Jamila bây giờ được coi trọng đến mức được chào đón tại những nhà quyền thế và danh vọng nhất xứ này… bà tôi định cư tại Rawalpindi; tuy nhiên, với biểu lạ lùng của tinh thần độc lập, bà quyết định sống ở dinh cơ của Đại tướng Zulfikar. Bà và mợ Pia dọn đến ngôi bungalow khiêm nhường ở khu phố cũ của Karachi; và chung tiền tiết kiệm lại mua thương quyền của cây xăng hằng-mơ-ước.

      Naseem bao giờ nhắc tới Aadam Aziz, cũng thấy bà thương nhớ ông; như thể bà thấy nhõm khi người ông cắm cảu của tôi, người thời trẻ từng khinh miệt phong trào Pakistan và nhiều khả năng là đổ tội cho Liên đoàn Hồi giáo vì cái chết của Mian Abdullah bạn ông, bằng cách chết cho phép bà mình đến Xứ sở của những kẻ Thuần khiết. Quay lưng lại với quá khứ, Mẹ Bề tập trung vào xăng và dầu. Cây xăng có vị trí đắc địa, ở gần đường cao tốc Rawalpindi-Lahore – nó làm ăn rất khá. Pia và Naseem thay phiên ngồi trọn ngày trong buồng kính dành cho quản lý trong khi nhân viên đổ xăng cho ô tô và xe tải Quân đội. Họ chứng tỏ là cặp đôi hoàn hảo. Pia thu hút khách hàng bằng ngọn hải đăng nhất mực từ chối phai mờ của nhan sắc; trong lúc Mẹ Bề , bị niềm đau góa bụa biến thành người đàn bà quan tâm đến đời người khác hơn chính đời mình, bắt đầu mời khách hàng vào buồng kính làm mấy chén hồng trà Kashmir; ban đầu họ nhận lời với đôi chút e dè, nhưng khi nhận ra bà cụ định làm khổ họ bằng trò kể lể chuyện xưa bất tận, họ thư giãn, lỏng cổ áo và lưỡi, và Mẹ Bề có thể đắm mình trong vô danh đầy ơn phước của những cuộc đời người khác. Trạm xăng nhanh chóng nổi tiếng khắp vùng, đám tài xế bắt đầu chệch tuyến đường để tạt vào đây - thường là hai ngày liên tiếp, để vừa mãn nhãn với người mợ thần thánh vừa được dốc bầu tâm với người bà muôn đời kiên nhẫn của tôi, người hình thành đặc tính thấm hút như miếng bọt biển, và luôn đợi đến khi khách hoàn toàn kết thúc mới vắt khỏi môi dăm giọt lời khuyên đơn giản, chắc nịch – trong khi ô tô của họ được nhân viên đổ xăng và đánh bóng, bà tôi nạp lại và đánh bóng đời họ. Bà tọa trong buồng xưng tội bằng kính của mình và giải quyết những ưu phiền của thế gian; gia đình bà, dù vậy, dường như mất quan trọng trong mắt bà.

      Rậm ria, mẫu quyền, kiêu hãnh: Naseem Aziz tìm ra cách riêng để đối diện với thảm kịch; nhưng trong quá trình tìm ra nó bà biến thành nạn nhân đầu tiên của cái tinh thần uể oải lãnh đạm biến kết thúc thành lối thoát khả thi duy nhất. (Tích, tắc.)… Tuy nhiên, bề ngoài, bà thể chút ý định nào là theo chồng vào khu vườn long não[2] dành cho người ngay thẳng; có vẻ bà có nhiều điểm chung hơn với các nhà lãnh đạo Bành tổ của Ấn Độ bị bà từ bỏ. Bà ngày càng to ra, với tốc độ báo động; đến nỗi bà phải gọi thợ đến nới rộng buồng kính. “Làm to to vào,” bà chỉ đạo, với tia hài hước hiếm hoi, “Biết đâu trăm năm nữa ta vẫn ở đây, cáigìkhôngbiết, và có Chúa mới biết lúc ấy ta to bằng ngần nào; ta muốn cứ mươi mười hai năm lại phải phiền đến các .”

      [2] Theo Kinh Quran: người lương thiện được uống trong chiếc cốc ướp trong Suối Long não, nơi những kẻ phụng Chúa thanh tẩy bản thân.

      Pia Aziz, tuy vậy, bằng lòng với cuộc đời “xăng dầu xe cộ.” Mợ bắt đầu chuỗi dan díu với các đại tá vận động viên cricket cầu thủ polo nhà ngoại giao, điều rất dễ giấu diếm Mẹ Bề còn quan tâm đến việc làm của mọi người trừ khách lạ; nhưng mặt khác lại là đề tài đàm tiếu của cả thành phố mà cho cùng khá . Dì Emerald quở trách Pia; mợ đáp, “ muốn tôi suốt đời rền rĩ và bứt tóc? Tôi hãy còn trẻ, người trẻ có quyền vui tìm chút.” Emerald mím môi: “Nhưng phải đứng đắn tí… còn danh giá gia đình…” Pia hất đầu. “Đứng đắn phần , em ,” mợ , “còn tôi, tôi sống.”

      Nhưng tôi thấy như có gì đó trống rỗng trong lập ngôn của Pia; rằng cả mợ cũng cảm thấy cá tính của mình rút kiệt dần theo năm tháng; rằng những cuộc đương cuồng nhiệt là nỗ lực tuyệt vọng cuối cùng của mợ để hành xử “xứng tầm” – theo cách phụ nữ như mợ phải làm. Lòng mợ ở đây; đâu đó bên trong mình, mợ cũng chờ đợi kết thúc… Gia đình tôi luôn dễ tổn thương trước những thứ từ trời rơi xuống, kể từ khi Ahmed Sinai ăn cái tát của bàn tay kền-kền-đánh-rơi; và sét đánh giữa trời là chuyện chỉ còn năm nữa.

      Sau tin ông tôi mất và việc Mẹ Bề đến Pakistan, tôi bắt đầu liên tục mơ về Kashmir; mặc dù tôi chưa từng đặt chân tới Shalimar-bagh, tôi làm điều đó về đêm; tôi bồng bềnh shikara và leo lên đồi Sankara Acharya như ông tôi từng làm; tôi thấy củ sen và dãy núi như hàm răng gầm ghè. Điều này cũng có thể xem như biểu của lập tác động tới tất cả chúng tôi (trừ Jamila, người có Chúa và đất nước giúp em tiếp bước) - nhắc nhở về tách biệt của gia đình tôi với Ấn Độ lẫn Pakistan. Tại Rawalpindi, bà tôi uống hồng trà Kashmir, ở Karachi, cháu bà tắm trong dòng nước hồ gã chưa hề thấy. Chẳng bao lâu nữa giấc mơ Kashmir ngấm vào đầu óc toàn bộ người dân Pakistan; mối-liên-hệ-với-lịch-sử từ chối bỏ rơi tôi, và tôi thấy giấc mơ của mình, vào năm 1965, biến thành tài sản chung của cả dân tộc, thành nhân tố đặc biệt quan trọng của cái kết sắp đến, khi đủ mọi thứ trời rơi xuống, và tôi cuối cùng được thanh tẩy.



      Saleem thể chìm xuống sâu hơn: tôi có thể ngửi thấy, người tôi, xú khí bể-phốt của bất chính. Tôi tới Xứ sở của những kẻ Thuần khiết, và lại tìm vui với điếm – khi đáng lẽ phải khởi đầu cuộc sống mới, ngay thẳng, tôi lại, thay vào đó, cho ra đời tình thể tới (và được đáp lại). Bị ám ảnh bởi những dấu hiệu đầu tiên của tư tưởng định mệnh rồi đây chế ngự tôi, tôi cưỡi con Lambretta chạy khắp thành phố; Jamila và tôi tránh mặt nhau càng nhiều càng tốt, thể, lần đầu tiên trong đời, với người kia lấy lời.

      Thuần khiết – cái lý tưởng cao cả nhất! – cái phẩm chất thiên thần được lấy làm tên cho Pakistan, và rỏ xuống từ từng nốt nhạc trong những bài hát của em tôi! – có vẻ ở rất xa; làm sao tôi biết rằng lịch sử - vốn có thẩm quyền tha thứ cho những kẻ phạm tội - ở thời điểm ấy lại đếm ngược đến giây phút nó , chỉ bằng chiêu, gột rửa tôi từ đầu đến chân?

      Cùng lúc đó, những thế lực khác đều phát huy ảnh hưởng; Alia Aziz bắt đầu trút xuống đòn báo thù khủng khiếp của bà ế chồng.



      Những ngày ở Guru Mandir: mùi trầu, mùi đồ ăn, mùi ngột ngạt từ bóng râm của ngọn tháp, ngón tay dài, chỉ của giáo đường; trong khi niềm căm hận của bác Alia đối với người đàn ông bỏ rơi mình và em lấy ta hóa thành thứ hữu chất, hữu hình, nó lù lù tấm thảm ở phòng khách của bà như con tắc kè vĩ đại, bốc mùi nôn mửa; nhưng xem ra tôi là người duy nhất ngửi thấy, vì kỹ năng che giấu cảm xúc của Alia phát triển nhanh kém gì bộ râu cằm bà cũng như thuần thục của bà trong việc sử dụng thạch cao để, mỗi tối, vặt trụi hàm râu của mình đến tận chân.

      Đóng góp của bác Alia tôi vào vận mệnh các quốc gia – thông qua trường tiểu học và trung học của bà – thể bị coi . Cho phép nỗi bi phẫn già ngấm vào giáo trình, gạch ngói và cả học trò tại cơ sở giáo dục song sinh của mình, bà nuôi dạy nên bộ lạc những trẻ con và thiếu niên luôn cảm thấy mình bị ám ảnh bởi lòng thù hận xa xưa, mà tại sao. Ôi cằn cỗi diện muôn nơi của các trinh nữ già! Nó biến lớp sơn tường nhà bà thành chua chát; bàn ghế nhà bà lồi lên vì bị nhồi nhét quá nhiều cay đắng; nỗi ức chế già được khâu vào các nếp rèm. Như rất lâu trước đây từng được khâu vào những món đồ con nít của nỗi cay đắng, thoát ra từ vết nứt của thế gian.

      Niềm vui của bác Alia: nấu ăn. Thứ bà , qua bao năm tháng thống hận trong độc, nâng lên tầm nghệ thuật: kỹ năng tiêm nhiễm cảm xúc vào thức ăn. Đối thủ cơ bà về thành tựu trong lĩnh vực này: ayah cũ của tôi, Mary Pereira. Kẻ, ngày nay, vượt mặt cả hai đầu bếp kỳ cựu ấy: Saleem Sinai, thợ-cả-ngâm-rau-quả của nhà máy rau quả dầm Braganza… dù gì nữa, trong thời gian chúng tôi sống tại tư gia của bà ở Guru Mandir, bà cho chúng tôi ăn biriani bất hòa và nargisi kofta xích mích; và dần dà từng chút , đến cả hòa hợp của tình tuổi xế chiều ở cha mẹ tôi cũng bắt đầu lạc nhịp.

      Nhưng cũng phải kể đến những ưu điểm của bác tôi. Về chính trị, bà phản đối gay gắt thứ nhà-nước-quân-đội-bảo-sao-làm-vậy; giá thử bà viên Đại tướng làm em rể, hai ngôi trường tiểu học và trung học chắc bị tước khỏi tay bà từ lâu. Tôi xin phép mô tả bà hoàn toàn qua lăng kính tăm tối của tâm trạng chán nản của cá nhân tôi: bà từng lưu giảng tại Liên Xô và Mỹ. Đồng thời, đồ ăn bà nấu rất ngon. (Bất chấp thành phần bí mật của chúng.)

      Nhưng khí và đồ ăn trong ngôi nhà dưới bóng thánh đường ấy bắt đầu gây hậu quả… Saleem, dưới xáo trộn kép của mối tình khốn khổ và thức ăn của Alia, bắt đầu mặt đỏ như gấc mỗi khi hình ảnh em lên trong tâm trí; trong khi Jamila, bị thôi thúc cách vô thức bởi nỗi mong mỏi khí trong lành và thức ăn nêm những cảm xúc đen tối, ngày càng ít ở nhà, mà thay vào đó lưu diễn ngược xuôi khắp đất nước (nhưng bao giờ đến Cánh Đông). Vào những dịp ngày hiếm hoi khi hai em thấy mình ở cùng phòng, cả hai nhảy dựng lên, hoảng hốt, cách đất tấc, rồi đáp xuống, nhìn chằm chặp vào chỗ vừa nhảy khỏi, như thể chỗ đấy đột nhiên nóng giãy như lò bánh mì. Những lần khác, cả hai tự cho phép mình có những hành xử mà ý nghĩa của chúng chắc như ban ngày, nếu phải tâm trí mỗi người trong nhà còn vướng bận những việc khác: chẳng hạn, Jamila bắt đầu đeo tấm mạng đường vàng-trắng cả ở nhà cho đến khi biết chắc mình ra ngoài, cho dù em thấy váng đầu vì nóng; trong khi Saleem – người vẫn tiếp tục, với tác phong nô lệ, lấy bánh mì men nở từ nữ tu viện dòng Santa Ignacia – tránh đưa bánh tận tay em; thỉnh thoảng gã nhờ bà bác độc địa làm trung gian. Alia nhìn gã với vẻ hài hước rồi hỏi, “Sao thế, cậu bé – mắc bệnh truyền nhiễm chứ hả?” Saleem mặt đỏ tưng bừng, sợ rằng bà đoán ra chuyện gã qua lại với ăn sương; và có thể thế , nhưng bà rình con cá to hơn.

      … Gã bắt đầu có thiên hướng chìm trong những cơn lặng lẽ dài, trầm tư, rồi tự mình phá vỡ nó khi đột nhiên bật ra từ vô nghĩa: “!” hay “Nhưng!”, hay thậm chí những tiếng cảm thán bí hiểm hơn, như “Bang!” và “Whaam!” Những lời vô nghĩa giữa những cơn im lặng mờ mịt: như thể Saleem thực cuộc đối thoại nội tâm căng thẳng tột độ đến mức từng mẩu vụn, hoặc là nỗi đau của nó, chốc chốc lại sủi lên bề mặt của môi gã. bất ổn nội tâm này đích thực bị món cà ri bất an mà chúng tôi buộc phải ăn làm trầm trọng hơn; và sau cùng, khi Amina bị đẩy vào tình trạng chuyện với những chiếc tủ giặt vô hình còn Ahmed, trong cảnh khốn khổ sau cú đột quỵ, chẳng còn làm được gì nhiều ngoài nhểu dãi và cười ngây ngô, còn tôi lặng lẽ đăm chiêu trong tình trạng thu mình khép kín, bác Alia chắc rất hả hê với kết quả của đòn báo thù dành cho nhà Sinai; trừ phi, bản thân bà cũng bị rút kiệt bởi khát vọng bà ấp ủ bấy lâu nay hoàn thành; trong trường hợp này, chính bà cũng cạn kiệt hy vọng vào tương lai, và trong tiếng bước chân bà xuất những bội trống rỗng khi bà rình mò lại trong cái bệnh viện tâm thần là nhà bà, với cái cằm phủ kín thạch cao để nhổ râu, trong khi cháu bà nhảy dựng lên khỏi những mảng sàn đột nhiên nóng giãy và cháu trai bà vô cớ rú lên, “Yaa!” và người thời theo đuổi bà chảy dãi xuống cằm và Amina chào hỏi những hồn ma phục sinh từ quá khứ: “Lại là ngươi đấy hả; ừ, sao lại ? Xem ra chả có gì chịu biến cả.”

      Tích, tắc… Vào tháng năm 1965, mẹ tôi Amina Sinai phát ra mình có thai lần nữa, sau mười bảy năm. Khi chắc chắn, bà đem tin vui này kể cho bà chị Alia, qua đó cho bác tôi cơ hội hoàn thiện đòn báo thù của mình. ai biết Alia gì với mẹ tôi; thứ bà khuấy vào món ăn đến nay vẫn còn là suy đoán; nhưng tác động đối với Amina rất mãnh liệt. Bà bị dằn vặt bởi ác mộng về đứa trẻ quái thai có não là củ súp lơ; bà bị bóng ma của Ramram Seth hành hạ, và lời tiên tri cũ về đứa trẻ hai đầu lại làm bà hóa điên lần nữa. Lúc này mẹ tôi bốn mươi hai tuổi; và nỗi sợ (cả tự nhiên lẫn do Alia khơi dậy) mang thai vào tuổi này bào mòn cái hào quang rực rỡ quanh mẹ tôi từ khi bà săn sóc cha tôi hồi sinh trong tình tuổi xế chiều; dưới tác động từ món korma báo thù của bác tôi – với những dự cảm lành và bạch đậu khấu làm gia vị - mẹ tôi đâm ra sợ hãi đứa con của bà. Mỗi tháng qua , cái tuổi bốn mươi hai của bà bắt đầu gây hậu quả ghê gớm; sức nặng của bốn thập niên tăng lên từng ngày, đè bẹp mẹ tôi dưới tuổi tác của bà. Vào tháng thứ hai, tóc bà bạc trắng. Sang tháng thứ ba, mặt bà rúm lại như quả xoài héo nẫu. Đến tháng thứ tư, bà thành bà lão, da dày và nhăn, và lần nữa bị mụn cóc hành hạ, và gặp tượng bất khả kháng là mọc râu khắp mặt; bà dường như lần nữa bị phủ màn sương hổ thẹn, như thể đứa bé là tai tiếng với phụ nữ hiển nhiên là cao tuổi như bà. Khi đứa bé của những ngày tháng hoang mang ấy lớn dần trong bà, tương phản giữa sức trẻ của nó và tuổi già của bà ngày càng tăng; chính vào thời điểm này, bà suy sụp xuống chiếc ghế mây cũ và được những bóng ma quá khứ viếng thăm. tan rã của mẹ tôi choáng váng ở tính đột ngột của nó; Ahmed Sinai, chứng kiến trong bất lực, bỗng nhiên thấy mình cạn kiệt dũng khí, hoang mang, người dẫn lối.

      Tới tận bây giờ, tôi vẫn thấy khó viết về những ngày tháng khi mọi hy vọng về tương lai đều kết thúc, khi cha tôi thấy nhà máy khăn bông sụp đổ trong tay mình. Ảnh hưởng của quỷ thuật bếp núc của Alia (tác động lên cả dạ dày ông, khi ông ăn, lẫn mắt ông, khi ông nhìn vợ mình) với ông giờ đây mồn : ông sao nhãng việc quản lý nhà máy, và cáu kỉnh với công nhân.

      Để tổng kết đổ vỡ của Khăn tắm hiệu Amina: Ahmed Sinai bắt đầu hành xử độc đoán với công nhân như lần, tại Bombay, ông xử tệ với người giúp việc, và cố gắng khắc vào đầu công nhân, thợ dệt lành nghề lẫn thợ đóng gói, những quy tắc vĩnh cửu của quan hệ chủ-tớ. Hậu quả là đội ngũ lao động của ông đàn lũ bỏ , với những giải thích kiểu, “Tôi phải thằng cọ nhà xí của ông, sahib, tôi là thợ dệt chính quy Bậc ,” và chung là từ chối thể lòng biết ơn đúng mức với ông vì rủ lòng thuê họ. Bị bóp nghẹt trong cơn thịnh nộ làm quẫn trí của những hộp cơm trưa do bác tôi chuẩn bị, ông đuổi họ hết, và thuê bọn ăn chực làm biếng chỉ rình tẩu tán bông cuộn và linh kiện máy móc, nhưng sẵn sàng khom lưng quỳ gối theo ý chủ; và tỉ lệ khăn lỗi tăng vọt đáng báo động, nhiều hợp đồng hoàn thành, số khách hàng quay lại giảm đáng báo động. Ahmed Sinai bắt đầu đưa về nhà từng núi – Himalaya! – khăn phế phẩm, bởi vì kho của nhà máy đầy tràn những sản phẩm đạt chuẩn của quản lý yếu kém của ông; ông uống rượu trở lại, và tới hè năm ấy ngôi nhà ở Guru Mandir lại ngập trong những lời lẽ tục tĩu xưa cũ của cuộc chiến giữa ông và các tửu tinh, và chúng tôi phải lách người qua từng ngọn Everest và Nanga Parbat của khăn bông kém phẩm chất xếp dọc cả hành lang lẫn đại sảnh.

      Chúng tôi tự nộp mình cho nỗi oán giận ỉ của bà bác to béo; trừ ngoại lệ duy nhất là Jamila, người ít bị tác động hơn cả vì thường xuyến vắng mặt dài ngày, sụp đổ của tất cả chúng tôi đều được bà hầm như ninh kỹ. Đó là thời kỳ rất đau đớn và hỗn loạn, khi tình của cha mẹ tôi tan rã dưới sức nặng tổng hợp từ đứa con của họ và nỗi uất ức già cỗi của bác tôi; rồi dần dà hỗn loạn và đổ vỡ ngấm qua cửa sổ tòa nhà và chiếm lĩnh từng trái tim và khối óc của dân tộc, thế nên chiến tranh, khi nó nổ ra, được bọc trong chính cái màn sương mê loạn của phi thực mà cuộc sống của chúng tôi bắt đầu lọt vào.

      Cha tôi đến gần cú đột quỵ với tốc độ ổn định; nhưng trước khi quả bom phát nổ trong đầu ông, ngòi nổ khác được đốt: vào tháng Tư năm 1965 chúng tôi nghe tin về những kiện kỳ quái ở Rann xứ Kutch.



      Trong khi chúng tôi giãy giụa như ruồi mắc vào lưới nhện báo thù của bác tôi, cối xay lịch sử tiếp tục xoay vần. Uy tín của Tổng thống Ayub suy giảm: những điều ong tiếng ve về gian lận trong cuộc bầu cử năm 1964 rộ lên, sao dập được. Rồi còn vấn đề của con trai Tổng thống: Gauhar Ayub, người được tập đoàn Gandhara Industries[3] bí hiểm của biến thành siêu siêu giàu sau có đêm. Ôi những chương hồi bất tận về các thế-gia-công-tử lưu manh! Gauhar, với mọi trò bắt nạt và chửi bới của ; sau này, tại Ấn Độ, Sanjay Gandhi với Công ty Ô tô Maruti và Đoàn thanh niên Quốc đại của ; và mới đây nhất, là Kami Lal Desai… những đứa con vĩ nhân hủy tiếng tăm của cha mẹ. Nhưng tôi, cũng có đứa con trai; Aadam Sinai, bay đến đối diện với tiền lệ, đảo ngược xu thế này. Con có thể hơn cha, mà cũng có thể kém… tuy nhiên, vào tháng Tư năm 1965, khí xôn xao về lầm lỗi của những đứa con. Và con ai trèo tường vào Dinh Tổng thống vào ngày 1 tháng Tư – người cha vô danh nào đẻ ra tên thối tha chạy đến gần Tổng thống và nã súng vào bụng ngài? số người cha có hồng ân được vô danh trước lịch sử; dù sao chăng nữa, kẻ ám sát thất bại, do súng của gã bị hóc cách kỳ diệu. Con trai ai đó bị cảnh sát giải và nhổ từng chiếc răng, châm lửa đốt từng móng tay; thuốc lá cháy dở nghi ngờ gì được gí vào đỉnh dương vật gã, vì thế chắc gã sát thủ hụt, vô danh ấy cũng chẳng được an ủi bao nhiêu nếu biết rằng gã chẳng qua bị cuốn theo ngọn thủy triều lịch sử trong đó những đứa con trai (sang cũng như hèn) thường xuyên bị đánh giá là hành xử đặc biệt xấu xa. (, tôi định loại trừ bản thân.)

      [4] Tập đoàn công nghiệp của Pakistan, do tướng Khan Khattak, bố vợ của Gauhar Ayub thành lập năm 1963.

      Cuộc ly dị của tin tức và thực: báo chí trích dẫn các nhà kinh tế nước ngoài – PAKISTAN LÀ HÌNH MẪU CHO CÁC NƯỚC MỚI NỔI – trong khi nông dân ( được lên báo) nguyền rủa cái gọi là “cách mạng xanh”, tố rằng hầu hết các giếng khoan mới đào dùng được, nhiễm độc, và đằng nào cũng sai vị trí; trong khi các bài xã luận ca tụng chính trực của người lãnh đạo đất nước, tin đồn, dày đặc như ruồi, đề cập tới các tài khoản ở ngân hàng Thụy Sĩ và xe ô tô mới của con trai Tổng thống. Tờ Bình Minh của Karachi đến bình minh khác – QUAN HỆ TỐT ĐẸP ẤN-PAK CHẲNG CÒN BAO XA? – nhưng ở Rann xứ Kutch, lại đứa con trai kém cỏi nữa sắp phát câu chuyện khác.

      Ở thành thị: ảo ảnh và dối trá; ở phía Bắc, vùng núi cao: quân Trung Quốc làm đường và lên kế hoạch nổ bom hạt nhân; nhưng đến lúc chuyển từ cái tổng thể sang cái cụ thể; hay, chính xác hơn, là sang con trai ngài Đại tướng, em họ tôi, chàng Zafar Zulfikar đái dầm. Người trở thành, từ tháng Tư đến tháng Bảy, hình mẫu cho tất cả mọi đứa con trai gây thất vọng của xứ sở này; lịch sử, vận động thông qua gã, cũng giơ ngón tay chỉ vào Gauhar, vào Sanjay-của-tương-lai lẫn Kanti-Lal-sắp-tới; và, lẽ tự nhiên, vào tôi.

      Nào – cậu em Zafar. Người có nhiều điểm tương đồng với tôi ở thời điểm ấy… trái tim tôi chất chứa tình cấm kỵ; quần gã, mặc cho mọi nỗ lực của gã, vẫn liên tục chứa đầy thứ khác hữu hình hơn, nhưng cũng cấm kỵ kém. Tôi tưởng đến những cặp tình nhân huyền thoại, cả hạnh phúc và oan trái – Shah Jehan và Mumtaz Mahal, và cả Montague-và-Capulet; gã mơ tới vị hôn thê người Kif, mà chuyện chịu dậy kể cả sau sinh nhật thứ mười sáu chắc hẳn làm trở nên giống như, trong mắt gã, ảo tưởng về tương lai thể đạt đến… tháng Tư năm 1965, Zafar được điều tập trận tại khu vực do Pakistan kiểm soát ở Rann xứ Kutch.

      tàn nhẫn của những kẻ tự chủ tiểu tiện với người yếu bàng quang: Zafar, mặc dù mang hàm Trung úy, trở thành trò cười của cả căn cứ quân Abbottabad. Chuyện kể rằng gã bị bắt đeo thứ quần lót cao su như quả bóng quanh cơ quan sinh dục, để bộ quân phục quang vinh của Quân đội Pakistan bị ô uế; lũ lính trơn, khi gã qua, làm bộ phồng má ra thổi, như thể bơm căng quả bóng lên. (Tất cả những việc này về sau bị công khai, trong bản tường trình gã viết, giữa đầm đìa nước mắt, sau khi bị bắt vì tội giết người.) Có khả năng việc Zafar được điều tới Rann xứ Kutch do sĩ quan cấp cao mưu bày ra, chỉ nhằm giải thoát cho gã khỏi tuyến lửa của những trò đùa ở Abbottabad… Việc tự chủ được tiểu tiện đẩy Zafar Zulfikar đến tội ác ghê tởm kém gì tôi. Tôi em ; còn gã… nhưng hãy để tôi kể câu chuyện cho đúng trình tự.

      Từ sau Chia cắt, vùng Rann là “lãnh thổ tranh chấp”; mặc dù, thực tế, chẳng bên nào có lòng dạ tranh chấp. dãy đồi trải dọc vĩ tuyến 23, đường biên giới chính thức, Chính phủ Pakistan thiết lập chuỗi trạm biên phòng, mỗi trạm có vỏn vẹn sáu lính đồn trú và đèn báo hiệu. số trạm, vào ngày 9 tháng Tư năm 1965, bị Ấn Độ chiếm đóng; toán quân Pakistan (trong đó có ông em Zafar của tôi), tập trận tại đây, bước vào cuộc giao tranh tám mươi hai ngày để bảo vệ biên giới. Cuộc chiến ở Rann kéo dài tới tận 1 tháng Bảy. chỉ có bấy nhiêu; mọi thứ còn lại náu dưới bầu khí hai lần mờ mịt của phi thực và ngụy tạo, vốn tác động tới tất cả mọi vụ việc vào thời kỳ ấy, đặc biệt là mọi kiện ở Rann đầy rẫy ảo tượng này… vì thế câu chuyện tôi sắp kể đây (mà về cơ bản chính là những gì Zafar em họ tôi kể) có nhiều khả năng là kém bất kỳ cái gì; tức là, bất kỳ cái gì trừ những cái chúng ta chính thức được nghe.

      … Khi toán lính trẻ Pakistan tiến vào địa hình đầm lầy của Rann, trán họ bỗng toát mồ hôi lạnh và nhớp nháp, và họ bị chất xanh thẳm như đáy biển của ánh sáng ở đây làm khiếp đảm; họ nhớ lại những tích càng làm họ khiếp hãi hơn – truyền kỳ về những chuyện kinh dị xảy ra vùng đất lưỡng thê này, về những quái vật biển có đôi mắt sáng rực, về những nhân ngư nằm vùi phần đầu của cá dưới nước, hít thở, còn phần hạ thể hoàn mỹ và trần truồng của người nằm bờ, cám dỗ những kẻ dạ vào cuộc hoan lạc chết người, vì ai cũng biết kẻ nào có thể sống sót khi người cá… bởi thế nên khi đến được trạm biên phòng và tham chiến, họ thành đám những cậu trai mười bảy ô hợp, sợ sệt, và chắc chắn bị tiêu diệt, nếu như phải quân Ấn còn nhiễm thứ chướng khí màu xanh của Rann lâu hơn họ; bởi thế trong thế giới phù thủy ấy cuộc chiến điên rồ nổ ra trong đó hai bên đều cho rằng mình nhìn thấy thân của ma quỷ chiến đấu bên cạnh kẻ thù; nhưng cuối cùng, quân Ấn chịu thua; nhiều người trong số họ sụp đổ trong nước mắt và òa khóc, Ơn Chúa, kết thúc rồi; họ kể về những thứ bầy nhầy to tướng trườn quanh các trạm gác vào ban đêm, những hồn ma chết đuối dật dờ giữa trung với từng búi rong biển và vỏ sỏ trong lỗ rốn.

      Những gì toán lính Ấn đầu hàng , mà em họ tôi nghe thấy: “Tuy nhiên, các trạm gác có người; chúng tôi thấy trống vào thôi.” Bí về các trạm biên phòng bị bỏ hoang, ban đầu, gây thắc mắc cho toán lính trẻ Pakistan, những người được chỉ thị trấn giữ chúng đến khi lính gác mới được điều đến; ông em họ Trung úy của tôi thấy bàng quang và ruột gã liên tục bài tiết với tần suất khủng bố trong bảy đêm trấn giữ trong các trạm gác với chỉ năm jawan làm đồng đội. Trong những đêm tràn ngập tiếng rú của bầy phù thủy và tiếng sục sạo trườn trượt tên của bóng tối, sáu gã trai rơi vào trạng thái hèn hạ đến nỗi còn ai cười em họ tôi nữa, tất cả còn bận đái ra quần mình. gã jawan khiếp sợ thầm trong khí ma quái của đêm-trước-đêm-cuối “Này, nếu phải đồn trú ở đây để được lĩnh lương, chắc tao cũng chạy mẹ nó luôn!”

      Trong tình trạng suy sụp bèo nhèo như bún nát, toán lính ngồi run rẩy ở Rann; và rồi vào đêm cuối cùng nỗi sợ khủng khiếp nhất của họ thành : họ nhìn thấy đạo quân ma từ bóng tối tiến về phía mình; họ ở trạm gác gần biển nhất, và dưới ánh trăng màu lục họ trông thấy buồm của những con tàu ma, những chiếc dhow quỷ; và đạo quân ma lạnh lùng tiến lại, mặc tiếng gào rú của bọn lính, những bóng ma khiêng rương hòm mọc rêu và những chiếc cáng kỳ quái phủ vải chất đầy những thứ là gì; và khi đội quân ma bước vào cửa đồn, ông em họ tôi bủn rủn ngã xuống chân chúng mà lắp bắp trong cơn khiếp đảm.

      Bóng ma đầu tiên bước vào trạm gác bị mất vài chiếc răng và đeo lưỡi dao cong ở thắt lưng; khi thấy toán lính trong chòi, mắt nó rực lên cơn thịnh nộ đỏ ngầu. “Chúa tha tội!”, hồn ma thủ lĩnh , “Bọn ngủ-với-mẹ chúng mày ở đây làm gì? Chưa được đấm mõm đủ hay sao?”

      phải ma; là buôn lậu. Sáu gã lính trẻ nhận ra mình rơi vào tình thế lố bịch của nỗi khiếp hãi hèn hạ, và mặc dù cố gỡ gạc lại thể diện, ô nhục của họ trọn vẹn cách ê chề… và giờ là mấu chốt câu chuyện. Bọn buôn lậu này hoạt động cho ai? Tên ai buột ra khỏi miệng tên thủ lĩnh, và làm mắt em họ tôi trợn lên kinh hãi? Gia tài của ai, ban đầu được xây cùng khổ của các gia đình Hindu di tản năm 1947, nay tiếp tục sinh sôi nhờ những chuyến hàng lậu dịp xuân-hè qua Rann ai canh gác rồi từ đây vào các thành phố Pakistan? Viên Đại tướng mặt Punch nào, giọng mỏng như dao cạo, chỉ huy đội quân ma này?... Song tôi nên tập trung vào các kiện. Vào tháng Bảy năm 1965, Zafar em họ tôi về phép tại nhà cha gã ở Rawalpindi; buổi sáng, gã chầm chậm đến phòng cha mình, mang vai chỉ ký ức về cả ngàn lần bị nhục mạ và ăn đòn thời thơ ấu; chỉ nỗi nhục của việc đái dầm suốt đời; mà cả rằng cha gã chính là người chịu trách nhiệm về chuyện-xảy-ra-ở-Rann, khi Zafar Zulfikar trở thành mớ bèo nhèo lắp bắp dưới sàn nhà. Em họ tôi thấy cha gã trong bồn tắm cạnh giường, và cắt cổ ông ta bằng lưỡi dao dài, cong của dân buôn lậu.

      sau những bài báo – ĐỢT XÂM PHẠM ĐÊ HÈN CỦA QUÂN ẤN BỊ CÁC CHÀNG TRAI PAKIS OAI HÙNG ĐẨY LÙI – về Đại tướng Zulfikar trở thành việc mù mờ, ràng; bọn lính biên phòng ăn hối lộ trở thành, báo chí, NHỮNG NGƯỜI LÍNH VÔ TỘI BỊ QUÂN ẤN THẢM SÁT; còn ai loan truyền câu chuyện về hành vi buôn lậu quy mô lớn của chú tôi? Có vị Tướng nào, có chính trị gia nào sở hữu những chiếc đài bán dẫn từ hành vi bất hợp pháp của chú tôi, điều hòa nhiệt độ và đồng hồ ngoại nhập từ tội lỗi của ông? Đại tướng Zulfikar chết; em họ Zafar vào tù và được miễn kết hôn với quận chúa đất Kif, người ngoan cố chịu hành kinh chính là để được miễn kết hôn với gã; và những vụ việc ở Rann xứ Kutch trở thành, tạm gọi là, mồi lửa, của ngọn lửa lớn bốc lên vào tháng Tám, ngọn lửa của kết thúc, mà ở đó Saleem, cuối cùng và mặc cho gã phản kháng, đạt đến thuần khiết hằng lẩn tránh gã.

      Về phần dì Emerald tôi: dì được phép di cư; dì chuẩn bị ra , dự định sang Suffolk ở , nơi dì ở cùng thượng cấp cũ của chồng dì, Chuẩn tướng Dodson, người bắt đầu, khi về già, sống trong bầu bạn và chăm sóc của những bàn tay Ấn Độ cùng lứa với ông, xem những bộ phim cũ về Delhi Durbar và vua George V tới Cổng vòm Ấn Độ… dì mong ngóng ngày được đến với cơn trầm mê trống rỗng của niềm hoài cổ và mùa đông nước khi chiến tranh bùng nổ và giải quyết mọi vấn đề của chúng tôi.



      Vào ngày đầu tiên của thời kỳ “hòa bình giả tạo” kéo dài vỏn vẹn ba mươi bảy ngày, cơn đột quỵ giáng xuống Ahmed Sinai. Nó làm ông bị liệt hẳn nửa người trái, trả ông về thời sơ sinh cười ê a và dãi lòng thòng; ông cũng lảm nhảm những lời vô nghĩa, và đặc biệt thích những chữ đùa bỡn hồi con nít chỉ chất bài tiết. Khúc khích “Xì cục!” hay “Su-su!”, cha tôi đến cuối nghiệp lên voi xuống chó của mình, và, lần nữa, cũng là lần cuối, lạc đường và thất bại trong cuộc chiến với các tửu tinh. Ông ngồi đó, đờ dại và cười sằng sặc, giữa núi khăn tắm lỗi của đời ông; giữa núi khăn tắm lỗi, mẹ tôi, bẹp gí dưới sức nặng của cái thai khủng, ảm đạm gục đầu khi bà đón nhận cuộc viếng thăm của cây đàn pianola của Lila Sabarmati, hoặc hồn ma Hanif em bà, hoặc đôi bàn tay nhảy múa, như thiêu-thân-quanh-ngọn-lửa, lượn lờ, lượn lờ quanh tay bà… Trung tá Sabarmati đến thăm bà với cây dùi cui kỳ quái trong tay, và Nussie-vịt-bầu thào, “Kết thúc rồi, chị Amina, thế giới này kết thúc rồi!” vào đôi tai khô héo của mẹ tôi… và giờ, sau khi vật lộn vượt qua cái thực bệnh hoạn của những năm ở Pakistan, sau khi nỗ lực lý giải đôi chút về những việc dường như là (qua màn sương trả hận của bác Alia) chuỗi báo ứng vì chúng tôi rứt bỏ nguồn cội Bombay của mình, tôi đến được thời điểm phải kể cho quý vị về những kết thúc.

      Tôi điều này cách minh bạch: tôi khẳng định rất chắc chắn rằng mục tiêu bí mật của cuộc chiến tranh Ấn Độ-Pakistan năm 1965 gì khác hơn là xóa sổ gia đình chìm trong bóng tối của tôi khỏi mặt đất này. Để hiểu được giai đoạn lịch sử mới đây của thời đại chúng ta, quý vị chỉ cần nghiên cứu kế hoạch ném bom của cuộc chiến này với con mắt phân tích và định kiến.

      Ngay cả kết thúc cũng có bắt đầu; mọi thứ phải được kể theo trình tự. ( cho cùng, tôi luôn có Padma làm nhiệm vụ đè bẹp mọi mưu toan thắng xe trước bò của tôi.) Đến tháng Tám năm 1965, lịch sử gia đình tôi đến tình trạng mà điều-mà-kế-hoạch-ném-bom-đạt-được đem lại giải thoát ân huệ. : hãy để tôi dùng cái từ quan trọng ấy: nếu chúng tôi muốn được thanh tẩy, có lẽ kiện tầm cỡ như tôi sắp kể đây là cần thiết.

      Alia Aziz, thỏa mãn với đòn báo thù tàn độc; dì Emerald, góa bụa và đợi kiếp lưu đày, cuộc phóng đãng vô nghĩa của mợ Pia và đời dật trong-buồng-kính của bà tôi Naseem Aziz; em họ tôi Zafar, cùng nàng quận chúa vĩnh viễn dậy của gã và viễn cảnh đái dầm ra nệm của xà lim; thu mình về thời con nít của cha tôi và lão hóa chóng mặt và ám ảnh của bà bầu Amina Sinai… tất cả những tình cảnh thê thảm này được tiêu giải nhờ việc Chính phủ theo đuổi giấc mơ về thăm Kashmir của tôi. Trong thời gian ấy, việc em tôi sắt đá cự tuyệt đáp lại tình của tôi đẩy tôi chìm sâu vào tâm thức phó mặc số mệnh; tư tưởng bất cần tương lai mới này xui khiến tôi với Bác Puffs rằng tôi sẵn sàng cưới bất kỳ Puffia nào bác chọn cho tôi. (Khi làm vậy, tôi kết án tất cả; bất kỳ ai định thiết lập quan hệ với nhà tôi đều chịu chung số phận với chúng tôi.)

      Tôi cố thôi làm ra vẻ bí hiểm. Quan trọng là tập trung vào những kiện cụ thể. Nhưng kiện nào? tuần trước sinh nhật thứ mười tám của tôi, vào ngày 8 tháng Tám, quân Pakistan mặc giả dân thường vượt qua giới tuyến ngừng bắn tại Kashmir và xâm nhập vào địa phận Ấn Độ, hay là ? Tại Delhi, Thủ tướng Shastri thông báo về “đợt xâm nhập quy mô lớn… nhằm lật đổ chính quyền”; song đây là Zulfikar Ali Bhutto, Ngoại trường Pakistan, phản pháo: “Chúng tôi tuyệt đối phủ nhận mọi liên hệ với cuộc nổi dậy chống bạo quyền của thổ dân Kashmir.”

      Nếu việc này có , động cơ là gì? lần nữa, loạt giả thiết được nêu ra: mối hằn thù dai dẳng bị vụ Rann xứ Kutch khơi dậy; tham vọng giải quyết, -lần-cho-mãi-mãi, mâu thuẫn lâu năm về việc ai-có-quyền-sở-hữu-Thung-lũng-Hoàn-mỹ… Hay là cái động cơ xuất mặt báo: áp lực từ những khó khăn chính trị nội bộ của Pakistan – chính phủ Ayub lung lay, cuộc chiến tranh ở thời điểm này là liều thuốc hoàn hảo. Là lý do này hay đấy hay kia? Để đơn giản hóa vấn đề, tôi đưa ra hai lý do của riêng tôi: chiến tranh nổ ra bởi vì tôi mơ Kashmir vào trong ảo tưởng của giới cầm quyền; hơn nữa, tôi vẫn chưa thuần khiết và chiến tranh là để tách tôi khỏi tội lỗi của mình.

      Jihad, Padma! Thánh chiến.

      Nhưng ai tấn công? Ai phòng thủ? Ngày sinh nhật thứ mười tám của tôi, thực lại có thêm biến động khủng khiếp nữa. Từ thành lũy của Pháo đài Đỏ tại Delhi, Thủ tướng Ấn Độ ( phải ông ngày xưa viết thư cho tôi) gửi cho tôi lời chúc sinh nhật này: “Chúng ta hứa rằng, vũ lực được đáp trả bằng vũ lực, và mọi hành động thù địch bao giờ được phép thành công!” Trong khi đó, xe jeep gắn loa phóng thanh chào đón tôi tại Guru Mandir, trấn an tôi rằng “Bọn khiêu khích Ấn Độ bị đánh bại hoàn toàn! Chúng ta là dòng dõi chiến binh! người Pathan; người Hồi Punjab bằng mười tên babu-có-vũ-trang!”[5]

      [5] Patthan, hay còn gọi là Pashtun, tộc người nổi tiếng Pashto ở Pakistan. Babu tức là người Ấn Độ.

      Jamila Ca sĩ được triệu lên phương Bắc, để hát cho những người lính đáng-giá-bằng-mười của chúng ta. Ở nhà tôi, người hầu sơn đen các cửa sổ; về đêm, cha tôi, trong cơn ngô ngẫn của thời thơ ấu thứ hai, mở cửa sổ và bật đèn lên. Gạch đá bay vèo vèo qua các ô cửa: quà sinh nhật mười tám tuổi của tôi. Thế nhưng tình hình ngày phức tạp hơn: vào ngày 30 tháng Tám, quân Ấn có vượt giới tuyến ngừng bắn gần Uri để “đánh đuổi bè lũ Pakistan xâm lược” – hay là bắt đầu đợt tấn công? Khi, vào ngày 1 tháng Chín, những chiến sĩ mười-lần-dũng-mãnh-hơn của chúng ta vượt giới tuyến ở Chhamb, họ là kẻ khiêu khích hay là phải?

      Có điều chắc chắn là: Jamila Ca sĩ hát cho quân Pakistan vào cõi chết; và các muezzin từ tháp thánh đường – phải, kể cả đường Clayton – cam đoan với chúng tôi rằng bất cứ ai tử chiến sa trường được vào thẳng Vườn Long não. Triết lý mujahid của Syed Ahmed Barilwi ngự trị bầu khí; chúng tôi được mời gọi hy sinh “như chưa bao giờ hy sinh”.

      sóng phát thanh, xiết bao hủy diệt, xiết bao hỗn loạn! Trong năm ngày đầu chiến tranh, Đài tiếng Pakistan đưa tin tiêu diệt nhiều máy bay hơn toàn bộ số Ấn Độ từng sở hữu; trong tám ngày, Đài phát thanh Toàn Ấn Độ thảm sát Quân đội Pakistan đến tận, và vượt đáng kể, người cuối cùng. Rối trí tột độ vì điên rồ kép của chiến tranh và cuộc sống riêng, tôi bắt đầu có những tư tưởng tuyệt vọng…

      Những hy sinh vĩ đại: ví dụ, ở trận Lahore? – Vào ngày 6 tháng Chín, quân Ấn vượt biên giới ở Wagah, bởi vậy mở rộng ghê gớm phạm vi của cuộc chiến, giờ đây còn giới hạn tại Kashmir nữa; và những hy sinh vĩ đại có xảy ra, hay ? Có là thành phố hầu như được phòng thủ, vì cả Bộ binh và quân Pakistan tập trung cả ở Kashmir? Tiếng Pakistan : Ôi ngày đáng nhớ! Ôi bài học nhớ đời về cái giá chết người của khinh địch! Quân Ấn, tin chắc chiếm được thành phố, dừng lại ăn sáng. Đài phát thanh Toàn Ấn (A.I.R.) loan tin Lahore thất thủ; đồng thời, máy bay tư nhân phát những kẻ xâm lược ăn sáng. Trong khi B.B.C. đưa lại tin của A.I.R., dân quân Lahore được điều động. Lắng nghe Tiếng Pakistan! – người lớn, trẻ con, ông già, bà cả đều chiến đấu với quân Ấn Độ; họ bảo vệ từng cây cầu, bằng mọi vũ khí trong tay! Người tàn tật nhét lựu đạn đầy túi, giật chốt, lao mình cản bước tiến xe tăng Ấn; các cụ bà móm mém cầm đinh ba đâm lòi ruột quân Ấn! Người lớn, trẻ con, họ ngã xuống đến người cuối cùng: nhưng họ cứu được thành phố, kìm chân quân Ấn đến khi có quân chi viện! Các liệt sĩ, Padma! Các hùng, đường tới vườn Hương! Nơi đàn ông được nhận bốn houri, chưa hề bị người hay tinh chạm tới; còn đàn bà, bốn mỹ nam kém phần cường tráng. Hồng ân nào của Chúa ngươi chối từ? Cuộc thánh chiến này kỳ dị: chỉ bằng hy sinh tột bậc, con người có thể chuộc lại mọi tội lỗi của mình! Chẳng có gì ngạc nhiên khi Lahore đứng vững; quân Ấn có gì để trông đợi? Chỉ có cửa đầu thai – thành gián, có thể lắm, hoặc bọ cạp, hoặc lang băm – thực khó mà so sánh được.

      Nhưng là thế hay phải thế? Có chuyện xảy ra như vậy ? Hay Đài phát thanh Toàn Ấn – trận đấu xe tăng lớn, Pakistan thiệt hại nặng nề, 450 xe bị tiêu diệt – mới ?

      có gì là ; có gì là chắc chắn. Bác Puffs đến chơi ngôi nhà đường Clayton, và miệng bác còn chiếc răng nào. (Trong chiến tranh của Ấn Độ với Trung Quốc, khi lòng trung thành của chúng tôi còn khác bây giờ, mẹ tôi hiến vòng vàng và khuyên tai đá quý cho phong trào “Kim khí làm Vũ khí”; nhưng cái đó có là gì nếu so với hy sinh cả miệng vàng?)” “Đất nước này,” bác lúng búng , qua hàm lợi răng, “ thể, mẹ kiếp, thiếu tiền vì phù phiếm của cá nhân!” Nhưng bác có làm thế hay ? Có thực hàm răng được hy sinh nhân danh cuộc thánh chiến, hay nằm trong tủ nhà bác? “Ta e rằng,” bác Puffs móm mém, “cháu phải chờ để được nhận món hồi môn ta hứa.” Tinh thần dân tộc hay bủn xỉn? Hàm lợi trống trơn của bác có phải là bằng chứng tuyệt đối của lòng nước, hay thủ đoạn trơn tuột để tránh phải gắn đầy vàng vào cái miệng Puffia?

      Và có lính dù hay là ? “…được thả xuống tất cả các thành phố lớn,” Đài tiếng Pakistan thông báo. “Mọi công dân khỏe mạnh sẵn sàng vũ khí; bắn ngay khi thấy mục tiêu sau giờ giới nghiêm chiều.” Nhưng ở Ấn Độ, “bất chấp trò khiêu khích bằng kích của Pakistan,” đài này khẳng định, “chúng ta đáp trả!” Biết tin ai? Có các máy bay oanh tạc của Pakistan thực “đợt kích táo tợn” đúng lúc phần ba lực Ấn Độ bất lực đậu đường băng? Có hay là ? Và những điệu dạ vũ trung, Mirage và Mystère của Pakistan đấu với những chiếc MiG có cái tên kém lãng mạn của Ấn Độ[6]: những ảo ảnh và bí đạo Hồi có giao chiến với những kẻ xâm lược Hindu, hay tất cả chỉ là thứ ảo tượng kinh hồn? Bom có rơi? Đạn có nổ? Thậm chí có thiệt hại nào về nhân mạng thực tế?

      [1] Mirage (ảo ảnh) và Mystère (bí ) là hai loại máy bay chiến đấu của Pháp sản xuất.

      Còn Saleeem? Gã làm gì trong lúc chiến tranh?

      Đây: trong khi chờ gọi nhập ngũ, tôi tìm những quả bom thân thiện, tiêu trừ tất cả, đem lại giấc ngủ và mang đến Thiên Đường.

      Tư tưởng phó mặc số mệnh mới xâm chiếm tôi gần đây phát triển lên hình thái đáng sợ hơn; chìm trong tan rã của gia đình, của cả hai đất nước mà tôi thuộc về, của mọi thứ mà tâm trí tỉnh táo có thể gọi là , lạc lối trong nỗi đau của tình ô uế, được đáp lại, tôi tìm kiếm lãng quên của – tôi làm nó nghe có vẻ quá cao xa; thể sử dụng bất kỳ từ ngữ khoa trương nào. Nào, thẳng thắn: tôi lang thang đường đêm thành phố, kiếm tìm cái chết.

      Ai chết trong cuộc thánh chiến này? Ai, trong lúc tôi khoác kurta và pajama trắng, phóng Lambretta phố xá giới nghiêm, tìm được điều tôi tìm kiếm? Ai, bị chiến tranh biến thành liệt sĩ, thẳng tiến tới vườn Hương? Hãy nghiên cứu sơ đồ ném bom; hãy tìm hiểu bí mật của những phát súng trường.

      Đêm 22 tháng Chín, từng đợt kích đánh xuống mọi thành phố Pakistan. (Mặc dù Đài phát thanh Toàn Ấn…) Máy bay, hoặc hư cấu, rải những trái bom thực hoặc huyền thoại. Theo đó, có thực tế, hoặc ngụy tạo của trí tưởng tượng bệnh hoạn, là chỉ có ba quả bom đánh trúng Rawalpindi và phát nổ, quả thứ nhất giáng xuống ngôi bungalow nơi bà tôi Naseem Aziz và mợ Pia núp dưới gầm bàn; quả thứ hai xé nát chái của nhà tù thành phố, và giải thoát cho em họ tôi Zafar khỏi kiếp sống tù đày; quả thứ ba phá hủy dinh thự lớn tối tăm, xung quanh là tường bao có lính canh; lính canh vẫn đứng gác, nhưng ngăn được Emerald Zilfikar bị tống tiễn tới nơi xa hơn Suffolk. Đêm đó, dì lại có khách là Nawab xứ Kif và con lì lợm chịu lớn; người cũng được giải thoát khỏi tất yếu phải trở thành phụ nữ trưởng thành. Ở Karachi, ba quả bom cũng là đủ. Máy bay Ấn Độ, e ngại việc phải bay thấp, thả bom từ rất cao; phần lớn đều rơi xuống biển cách vô hại. quả bom, tuy nhiên, tiêu diệt Thiếu tá ( giải ngũ) Alauddin Latif và bảy Puffia của ông, nhờ vậy giải phóng tôi khỏi lời hứa hôn vĩnh viễn; và còn có hai quả bom cuối cùng. Trong khi đó, ngoài mặt trận, Mutasim tuấn chui ra khỏi lều để tiểu tiện; thanh như muỗi vo ve (hay vo ve) lao về phía cậu, và cậu chết với cái bàng quang đầy nước, dưới tác động của viên đạn bắn tỉa.

      Và tôi vẫn phải kể cho quý vị về hai-quả-bom-cuối-cùng.

      Ai sống sót? Jamila Ca sĩ, người mà bom thể tìm ra; tại Ấn Độ, gia đình cậu Mustapha tôi, những người mà bom chẳng buồn động đến; nhưng em họ xa Zohra bị lãng quên của cha tôi chuyển cùng chồng đến Amritsar, và quả bom tìm thấy họ.

      Và hai-quả-bom-nữa đòi được kể.

      … Trong khi tôi, hề biết mối liên hệ sâu xa giữa cuộc chiến và bản thân mình, vẫn khờ khạo tìm bom; cứ tới giờ giới nghiêm tôi lại , nhưng chẳng viên đạn dân phòng nào tìm thấy tôi… và từng tấm lửa bốc lên ngôi bungalow tại Rawalpindi, những tấm lửa khoét lỗ, chính giữa có lỗ tròn tối màu bí hiểm, lớn dần thành hình hài nghi ngút khói của bà già to béo mặt đầy nốt ruồi… thế là lần lượt từng người , cuộc chiến xóa sổ gia đình bị rút kiệt, tuyệt vọng của tôi khỏi trái đất này.

      Nhưng giờ đồng hồ đếm ngược về .

      Cuối cùng, tôi lái chiếc Lambretta trở về nhà, và đến bùng binh Guru Mandir với tiếng phi cơ gầm rú đầu, những ảo ảnh và bí , trong lúc cha tôi trong cơn ngô ngốc vì đột quỵ bật đèn và mở cửa sổ khắp nhà, mặc dù sĩ quan Dân phòng vừa ghé qua để đảm bảo lệnh tắt đèn được thực thi triệt để; khi Amina bảo bóng ma của cái tủ giặt trắng cũ, “Cút – ta nhìn thấy mày thế đủ rồi,” tôi phóng vụt qua những chiếc jeep Dân phòng mà từ đó những nắm đấm giận dữ giơ lên chào đón tôi; và trước khi gạch đá kịp dập tắt ánh đèn trong nhà bác Alia, tiếng tru ấy vang lên, và đáng lẽ tôi phải biết rằng muốn tìm chết chẳng cần đâu xa, nhưng tôi hãy còn đứng ngoài phố dưới cái bóng nửa đêm của thánh đường khi nó đến, vùn vụt lao về phía những cửa sổ sáng đèn của si ngốc của cha tôi, cái chết tru lên như chó hoang, hóa thân thành cơn mưa gạch đá vôi vữa và những tấm lửa và cơn sóng chấn lực dữ dội đến mức nó hất văng tôi khỏi chiếc Lambretta, trong khi bên trong ngôi nhà của cay nghiệt tột cùng của bác tôi cha tôi mẹ tôi dì tôi và đứa em trai hoặc chưa ra đời người chỉ còn tuần nữa bắt đầu cuộc sống, tất cả họ tất cả họ tất cả bị đè bẹp hơn cả bánh đa, ngôi nhà sập xuống đầu họ như khuôn bánh quế, trong khi đường Korangi, quả bom cuối cùng, lẽ ra dành cho nhà máy lọc dầu, lại rơi xuống ngôi nhà lệch tầng kiểu Mỹ mà dây rốn vẫn còn chưa kịp hoàn thành; nhưng tại Guru Mandir, nhiều câu chuyện đến hồi kết thúc, chuyện của Amina và người chồng dưới lòng đất nhiều năm trước và đức cần mẫn của bà và lời tuyên bố công khai và đứa-con-trai--phải-là-con-bà và vận may của bà với ngựa và mụn cóc và những bàn tay nhảy múa tại quán cà phê Pioneer và thất bại cuối cùng trước chị bà, chuyện của Ahmed người luôn lạc đường và môi dưới trề ra và cái bụng nhão xệ và trắng bệch ra trong vụ đóng băng và rơi vào tình trạng trầm mê và làm chó ộc máu giữa đường và vợ quá muộn và chết vì dễ tổn thương trước những-thứ--trời-rơi-xuống; giờ đây tất cả bẹt hơn cả bánh đa, và xung quanh họ ngôi nhà nổ tung đổ sụp, khoảnh khắc hủy diệt dữ dội đến mức những gì bị chôn sâu trong những thùng tôn bị lãng quên cũng bắn tung lên trời trong khi những đồ vật con người ký ức khác bị vùi dưới đống đổ nát còn hy vọng gì cứu vãn; từng ngón tay của vụ nổ vục xuống sâu sâu tận đáy chiếc almirah và mở tung chiếc thùng tôn xanh, bàn tay siết lại của vụ nổ lẳng các thứ trong thùng lên , và giờ vật náu mình lộ diện suốt nhiều năm xoay tròn trong đêm tối như mảnh trăng quay tít, vật hắt ánh sáng từ mặt trăng và giờ rơi rơi xuống khi tôi choáng váng đứng dậy sau vụ nổ, vật xoắn xoay quay cuồng nhào lộn lao xuống, loáng bạc như ánh trăng, cái ống nhổ bằng bạc khảm thanh kim thạch được chế tác tinh xảo, quá khứ lao thẳng về phía tôi như bàn tay bị kền kền đánh rơi để trở thành thứ-thanh-tẩy-và-giải-phóng-tôi, vì lúc này khi ngước mắt lên tôi bỗng thấy cảm giác nhói lên sau gáy rồi sau đó là chỉ sát na ngắn ngủi nhưng vô hạn của thấu triệt tuyệt đối khi tôi ngã nhào ra trước và nằm sóng soài trước giàn thiêu của cha mẹ tôi, khoảnh khắc vi tế nhưng bất tận của minh triết, trước khi tôi bị tước sạch quá khứ tại ký ức thời gian liêm sỉ và tình , vụ nổ trong chớp mắt nhưng cũng vĩnh hằng trong đó tôi cúi đầu đúng tôi thuận tòng đúng trước cần thiết của đòn đánh ấy, và rồi tôi trống rỗng và tự do, bởi vì mọi Saleem trào ra khỏi tôi, từ em bé trong bức-hình-em-bé trang-nhất-cỡ-đại đến gã trai mười tám với tình ô uế nhớp nhơ, cứ thế tuôn trào hổ thẹn và tội lỗi và muốn-làm-vừa-lòng-người-khác và cần-được- và quyết-tâm-tìm-kiếm--vai-trò-lịch-sử và lớn-lên-quá-nhanh, tôi được giải thoát khỏi Thò Lò và Mặt Nhọ và Hói và Cả Khịt và Mặt Bản Đồ và tủ giặt và Evie Burns và đoàn diễu hành ngôn ngữ, được giải phóng khỏi Thằng nhóc Kolynos và bộ ngực của Pia mumani và Alpha-và-Omega, được xá tội sát hại Homi Catrack và Hanif và Aadam Aziz và Thủ tướng Jawallharhal Nehru, tôi trút bỏ những ả điếm năm trăm tuổi và những lời thú nhận tình vào nửa đêm tăm tối, tự do rồi, khỏi lo nghĩ rồi, ngã nhào xuống mặt đường, được phục hồi trong sạch và thuần khiết nhờ mảnh trăng trời rơi xuống, sạch trơn như hộp gỗ đựng bút mực, bị tẩy não (cũng như được tiên đoán) bởi cái ống nhổ bạc của mẹ tôi.



      Sáng 23 tháng Chín, Liên Hiệp Quốc tuyên bố Ấn Độ và Pakistan chấm dứt những hành động thù địch. Ấn Độ chiếm đóng gần 1.300 km2 lãnh thổ Pakistan; còn Pakistan mới chinh phục được 880 km2 giấc mơ Kashmir của mình. Người ta sở dĩ hai bên ngừng bắn vì cạn kiệt đạn dược, gần như cùng lúc; vậy là những kêu gọi khẩn thiết của giới ngoại giao quốc tế, và việc vận động vì động cơ chính trị đối với giới lái súng, ngăn chặn diệt vong triệt để của gia đình tôi. vài người trong chúng tôi sống sót, bởi vì ai bán cho những kẻ sát nhân tiềm năng bom đạn máy bay cần thiết để hoàn tất việc hủy diệt chúng tôi. Tuy nhiên, sáu năm sau, lại có cuộc chiến khác.



    2. banglangtrang123

      banglangtrang123 Well-Known Member Staff Member Super Moderator

      Bài viết:
      26,213
      Được thích:
      47,825
      QUYỂN BA

      Chương 24: Gã buddha




      điều khá ràng (bởi nếu tôi phải đưa ra vào thời điểm này cách lý giải hoang đường nào đó cho tiếp tục tồn tại của tôi trong “hồng trần gió bụi” này) là quý vị có thể liệt tôi vào danh sách những kẻ cuộc chiến năm 65 tận diệt được. Bị ống nhổ tẩy não, Saleem chỉ hứng chịu tẩy xóa phần, chỉ bị xóa sạch, trong khi những kẻ khác, kém may mắn hơn, bị xóa sổ; nằm bất tỉnh dưới cái bóng buổi đêm của thánh đường đạo Hồi, tôi sống sót nhờ cạn kiệt của trận mưa rác thải bom đạn.

      Nước mắt – thứ mà thiếu vắng cái lạnh Kashmir, tuyệt đối có cơ hội đông cứng thành kim cương - lăn dài gò má đầy đặn như bầu ngực của Padma. “Ôi, ông ơi, cái cuộc chiến tamasha này, người tốt giết thằng dốt lại tha!” Gương mặt như có đàn sên vừa bò xuống từ đôi mắt đỏ hoe, để lại những vệt dinh dính bóng nhẫy, Padma khóc thương gia tộc bị bom ép bẹp của tôi. Mắt ráo hỏanh như thường lệ, tôi độ lượng phản ứng trước hàm ý lăng mạ vô tình trong câu cảm thán đẫm lệ của Padma.

      “Hãy khóc cho người sống,” tôi nhàng quở trách , “Người chết có vườn long não.” Hãy xót cho Saleem! Người, bị chặn lại trước thảm cỏ Thiên Đường bởi trái tim vẫn tiếp tục đập, lần nữa tỉnh giấc trong mùi kim loại lành lạnh cùa phòng bệnh; người được các houri, chưa hề bị người hoặc tinh chạm đến, chiêu đãi an ủi vĩnh hằng như hứa - tôi có may mắn được nhận chăm sóc hậm hực, khua bô xủng xoảng của nam hộ lý đô con, tay này, trong lúc băng bó đầu cho tôi, cay cú làu bàu rằng, chiến tranh mặc chiến tranh, các sahib bác sĩ muốn Chủ nhật phải được nghỉ nhà mát ven biển. “Chú mày chết giấc thêm ngày nữa có phải tốt ,” lầm bầm, trước khi tiếp cho đến cuối phòng để nhân rộng màn khích lệ tinh thần ấy.

      Hãy xót cho Saleem - người, mồ côi và được thanh tẩy, bị tước đoạt cả trăm lần cảm xúc ngày ngày tấm tức như kim chích của cuộc sống gia đình, cảm xúc mà riêng nó cũng đủ xì hơi quả khinh khí cầu hoang đường của lịch sử và thu nó lại kích cỡ con người dễ kiểm soát hơn, bị giật đứt rễ và ném thương tiếc xuyên năm tháng, bị trời định phải lao -ký-ức đến tuổi trưởng thành mà mọi khía cạnh của nó mỗi ngày trở nện dị hợm.

      Những vệt sên bò còn ướt má Padma. Buộc phải thử chiêu dỗ dành kiểu “Coi kia, coi kìa”, tôi bèn bắt chước trailer phim. (Ngày xưa ở Metro Cub Club tôi mới mê chúng làm sao! Ôi những tiếng chép môi trước hình ảnh dòng chữ BOM TẤN KỲ SAU in nền nhung xanh lượn sóng! Ôi cơn dãi háo hức trước khi màn ảnh loan tin SẮP RA MẮT! - Bởi triển vọng về tương lai huyền bí dường như luôn luôn là, với tâm thức tôi, thuốc giải hoàn hảo cho nỗi thất vọng của tại.) “Thôi nào, thôi nào,” tôi vỗ về khán giả ngồi xổm khóc thương của tôi, “tôi kể hết đâu! Còn vụ điện giật, khu rừng mưa nhiệt đới, kim tự tháp đầu người giữa cánh đồng thấm đẫm dịch tủy xương; những vụ hút chết, ngọn tháp thánh đường gào rú! Padma, còn nhiều chuyện đáng kể lắm: những thử thách sau này của tôi, trong cái giỏ tàng hình, và dưới bóng thánh đường khác; hãy chờ đón linh cảm của Resham Bibi và cái bĩu môi của Parvati-phù-thủy! Tình phụ tử và phản bội nữa, và tất nhiên cả mụ Góa phụ vô phương tránh thoát ấy, kẻ bổ sung vào lịch sử bị hút-kiệt-ở- của tôi nỗi nhục nhã cuối cùng là trống-rỗng-ở-dưới... tóm lại, vẫn còn vô số những bom-tấn-kỳ-sau và sắp-ra-mắt; chương này kết thúc khi có người mất cha mẹ, nhưng chương mới cũng bắt đầu.”

      Phần nào nguôi ngoai trước hứa hẹn của tôi về câu chuyện kỳ thú, Padma của tôi khịt mũi; chùi chất nhớt của động vật thân mềm, lau khô mắt; hít vào sâu... và, với chàng bị ống nhổ tẩy não ta vừa gặp lần trước giường bệnh, độ năm năm trôi qua trước khi đóa sen-phân của tôi thở ra.

      (Trong khi Padma, để tự trấn tĩnh, nín thở, tôi tự cho phép mình chen vào cận cảnh theo phong-cách-chớp-bóng-Bombay - cuốn lịch bị gió thốc vào, từng tờ nối nhau vèo vèo bay - biểu thị năm tháng trôi qua; tôi chèn lên tới tấp những toàn cảnh về bạo loạn đường phố, những trung cảnh về xe buýt bốc cháy và những thư viện ngữ thuộc sở hữu của Hội đồng và Trung tâm Thông tin Hoa Kỳ rừng rực lửa; qua cuốn lịch lật trang vùn vụt chúng ta nhìn thấy sụp đổ của Ayub Khan, Đại tướng Yahya nhậm chức tổng thống, vì lời hứa tuyển cử... nhưng giờ đôi môi Padma hé ra, và còn thời gian để lấn quấn với hình ảnh đối lập dữ dội của Z.A. Bhutto và Sheikh Mujib-ur-Rahman; khí hít vào bắt đầu được thở ra trong vô hình từ miệng , và những gương mặt trong mơ của lãnh đạo Đảng Nhân dân Pakistan và Liên đoàn Awami mờ dần rồi nhòa ; luồng hơi từ phổi phả ra, nghịch lý thay, làm cơn gió lật từng tờ lịch của tôi lắng xuống, và dừng lại ở ngày cuối năm 1970, trước cuộc bầu cử chia đôi đất nước, trước cuộc chiến tranh giữa Cánh Tây với Cánh Đông, P.P.P. với Liên đoàn Awami, Bhutto với Mujib... trước cuộc bầu cử 1970, và cách xa sân khấu đại chúng, ba lính trẻ đường đến doanh trại bí ở Đồi Murree.)

      Padma lấy lại tự chủ; “Được rồi, được rồi,” bất bình ra mặt, vung tay xua những giọt nước mắt, “Ông còn chờ gì hử? Bắt đầu ,” bông sen uy nghi ra lệnh cho tôi, “Bắt đầu lại từ đầu.”



      Doanh trại đồi này thể tìm thấy bản đồ; nó nằm cách đường Murree quá xa để tiếng sủa của lũ chó trong trại có thể đến tai người qua đường, kể cả những tay lái mô tô thính tai nhất. Hàng rào thép gai bao quanh trại được ngụy trang rất kỹ; cổng vào có tên hay ký hiệu. Nhưng nó tồn tại; mặc dù tồn tại của nó bị phủ nhận kịch liệt - chẳng hạn, khi Dacca thất thủ, khi viên tướng Pakistan bại trận Tiger Niazi bị bạn chí cốt và người chiến thắng, Tướng Sam Manekshaw của Ấn Độ, chất vấn về chuyện này, con Cọp cười khẩy: “Biệt đội Liệp Khuyển chuyên Săn lùng và Hoạt động tình báo? Chưa nghe bao giờ; ông bị bịp rồi, ông bạn già. ông bỏ quá, ý tưởng lố bịch hết sức.” Bất chấp những gì Cọp với Sam, tối nhấn mạnh: doanh trại này vẫn luôn ở đó...

      ... “Mạnh mẽ lên!” Chuẩn tướng Iskandar hét ba tay lính mới, Ayooba Baloch, Farooq Rashid và Shaheed Dar. “Các cậu giờ đội CUTIA[1] rồi!” Gõ cây dùi cui vào đùi, ông ta xoay gót và bỏ họ lại giữa bãi tập, đồng thời bị nướng dưới mặt trời vùng núi và đóng băng vì khí lạnh vùng núi. Ngực ưỡn, vai ngang, người cứng đờ với ý thức phục tùng, ba gã thanh niên nghe thấy tiếng cười khùng khục của tay cần vụ của Chuẩn tướng, Lala Moin: “Ra các cậu là mấy thằng hãm phải nhận con chó-người ấy à!”

      [1] Viết tắt của Canine Unit for Tracking and Intelligence Activities, Biệt đội Liệp Khuyển chuyên Săn lùng và Hoạt động tình báo.

      giường cá nhân đêm đó: “Săn lùng và tình báo!”, Ayooba Baloch thào, vẻ tự hào. “Gián điệp, bọn mày ạ! Kiểu O.S.S. 117! Cứ cho bọn mình gặp tụi Hindu ấy xem - có gì là ta làm! Binh! Bốốp! lũ èo uột, bọn Hindu ấy! Toàn thằng ăn rau! Rau,” Ayooba dè bỉu, “bao giờ cũng thua thịt.” Người gã đồ sộ như xe tăng. Mái tóc húi cua cắt sát lông mày.

      Và Farooq, “Mày có chiến tranh ?” Ayooba khịt mũi. ‘‘Chứ sao? Làm sao mà được? Sahib Bhutto chẳng hứa cho mỗi nông dân hecta đất? Mà đất ấy ở đâu ra? Để có ngần ấy đất, phải chiếm Punjab và Bengal! Mày cứ chờ xem; bầu cử xong, khi đảng Nhân dân thắng - tha hồ Binh! Bốốp!”

      Farooq vẫn băn khoăn: “Bọn Ấn nó có quân Sikh, mày ơi. Tóc dài râu rậm, khi trời nóng nó ngứa rồ lên, làm chúng hóa điên và chiến đấu điên cuồng...!”

      Ayooba cười sằng sặc. “ lũ ăn chay, tao thề, ờ... làm sao chiến nổi bọn trâu bò như tụi mình?” Nhưng Farooq lại cao và người dây.

      Shaheed Dar thào, “Nhưng thế là sao nhỉ: chó người?”

      ... Sáng hôm sau. Trong căn lều treo bảng đen, Chuẩn tướng Iskandar chà các khớp ngón tay lên ve áo trong khi tay thượng sĩ Niajmuddin lên lớp cho các tân binh. Theo công thức hỏi - đáp; Najmuddin đưa ra cả câu hỏi và trả lời. ai được phép ngắt lời. Trong lúc bên tấm bảng hai bức chân dung quàng hoa của Tổng thống Yahya và Liệt sĩ Mutasim dòm xuống đầy nghiêm khắc. Và qua những cánh cửa (đóng kín), tiếng chó sủa dai dẳng... Từng câu hỏi và trả lời của Najmud-din cũng được sủa thành tiếng. Các cậu đến đây làm gì? - Luyện tập. Lĩnh vực gì? - Truy-lùng-và-bắt-giữ. Hoạt động ra sao? - Theo từng đội liệp khuyển ba người và chó. Có điểm gì đặc biệt? - có sĩ quan chỉ huy, phải tự mình quyết định, đồng thời đòi hỏi ý thức kỷ luật và tinh thần trách nhiệm đạo Hồi cao độ. Mục tiêu của đơn vị? – Nhổ tận gốc những phần tử phản động. Đặc điểm của những phần tử này? - Lén lút, khéo ngụy trang, có-thể-là-bất-cứ-ai. Những mục đích của chúng? - Đáng thống hận: hủy hoại cuộc sống gia đình, giết Chúa, cướp của địa chủ, thủ tiêu cơ chế kiểm duyệt phim. Gây hậu quả ra sao? - Diệt vong Nhà nước, vô chính phủ, ngoại bang đô hộ. Những nguy cơ nổi bật? - Kỳ bầu cử sắp tới; và tiếp đến là chính quyền dân . (Tù chính trị được thả. Đủ loại côn đồ hoành hành.) Nhiệm vụ cụ thể của đội? - Chấp hành mệnh lệnh thắc mắc; săn lùng mệt mỏi; bắt giữ thương xót. Phương thức hoạt động? - thầm, hiệu quả, nhanh gọn. Cơ sở pháp lý của việc bắt giữ? - Luật Phòng vệ Pakistan, cho phép bắt giữ những phần tử phản động, và có thể bị cấm cố trong sáu tháng. Ghi chú: có thể gia hạn thêm sáu tháng. Hỏi gì nữa ? - . Tốt. Các cậu là Biệt đội CUTLA 22. Phù hiệu mẫu khuyển được khâu lên ve áo mọi người. Chữ CUTIA, dĩ nhiên, có nghĩa là chó cái. Còn con chó người?

      Khoanh chân, mắt xanh, lừ lừ nhìn về phía trước, nó ngồi dưới gốc cây. Bồ đề mọc ở độ cao này; nó đành bằng lòng với gốc chinar[2]. Mũi nó: phồng to, như quả dưa chuột, chỏm mũi tím tái vì lạnh. Đầu nó có vạt hói từng bị tay lão Zagallo tóm lấy. Và ngón tay cụt mà phần bị đứt rơi xuống chân Masha Miovic sau khi Keith Nội tiết sập cửa. Và mặt nhọ như bản đồ... “Hăắt xìì” (Nó nhổ.)

      [2] loài cây hình dáng như cây phong, mọc ở vùng núi phía Bắc Ấn Độ.

      Răng nó ố bẩn; lợi đỏ màu nước cốt trầu. tia nước trầu đỏ phún xuất khỏi môi nó, rơi trúng, với độ chính xác đáng khen ngợi, cái ống nhổ bằng bạc được gò rất tinh xảo, đặt trước mặt nó. Ayooba Shaheed Farooq nhìn trân trối với vẻ kinh ngạc. “Chớ có lấy cái ấy của nó,” Thượng sĩ Najmuddin chỉ cái ống nhổ, “ làm nó điên lên.” Ayooba lên tiếng, “Dạ thưa sếp em tưởng sếp bảo ba người và ...” nhưng Najmuddin sủa, “Miễn hỏi! Phục tùng thắc mắc! Đây là chó săn của các cậu; thế thôi. Giải tán.”

      Lúc đó, Ayooba và Farooq mười sáu tuổi rưỡi. Shaheed (người dối tuổi) có lẽ ít hơn tuổi. Bởi vì họ còn quá trẻ, chưa có thời gian để có được dạng ký ức giúp con người nắm bắt chắc chắn về thực, như ký ức về tình hay nạn đói, những lính trẻ đặc biệt dễ bị tác động bởi những truyền thuyết và chuyện ngồi lê đôi mách. Trong vòng hai mươi bốn giờ, qua những câu chuyện tại phòng ăn tập thể với các đội CUTIA khác, con chó-người được thần thoại hóa triệt để... “Xuất thân từ thế gia!” - “Đứa con đần độn, họ tống nó vào Quân đội để rèn giũa nó nên người!” - “Bị tai nạn hồi chiến tranh ‘65, chả nhớ được gì sất!” - “Mà này, nghe nó là trai của...” - “, mày ơi, điên à, ấy tốt lắm, mày biết đấy, giản dị và sùng đạo, sao có thể bỏ mặc trai?” - “Với cả nó dứt khoát nhắc đến chuyện đó.” - “Tao nghe được chuyện kinh khủng, ấy ghét nó, mày ạ, vì thế ấy mới!” - “ trí nhớ, để ý tới người khác, sống như con chó!” - “Nhưng vụ đánh hơi là hoàn toàn đấy! Mày thấy mũi nó ?” - “Ờ, mẹ ơi, nó có thể theo dấu mọi thứ đời!” - “Qua nước, baba, xuyên đá! con chó săn kinh khủng, chưa thấy bao giờ!” - “Mà nó cảm thấy gì hết! đấy! Tê liệt, tao thề; tê liệt từ-đầu-đến-chân! Mày chạm vào nó, nó cũng biết - chỉ nhờ mùi mà nó biết mày ở đó!” - “Chắc tại vết thương chiến tranh!” - “Nhưng còn cái ống nhổ, mày ạ, chẳng ai biết vì sao? Lúc nào cũng kè kè như kỷ vật tình !” - “ , tao mừng là rơi vào ba thằng mày; nó cứ làm tao rờn rợn, ờ, hai con mắt xanh ấy.” - “Mày biết tại sao người ta phát ra cái mũi nó ? Nó vào bãi mìn, mày ạ, tao thề, rồi thản nhiên ra, cứ như nó ngửi thấy đống mìn vậy!” - “Ôi, , mày gì thế, chuyện đấy cũ rồi, đấy là chuyện về con chó đầu tiên của cả chương trình CUTIA, con Bonzo, ông ạ, đừng lộn xộn chứ!” - “Mà này, Ayooba, coi chừng đấy, người ta bảo có số V.I.P. để mắt đến nó đấy!” - “Ờ, tao bảo mà, Jamila Ca sĩ...” - “Dào, câm , bọn tao nghe ba chuyện cổ tích của mày đủ rồi!”

      Khi Ayooba, Farooq và Shaheed làm quen với chuyên gia săn lùng kỳ quái, vô cảm của họ (ấy là sau kiện trong nhà xí), họ đặt cho cái biệt hiệu buddha, “ông già”; chỉ vì chắc phải hơn họ bảy tuổi, và từng tham gia cuộc chiến ’65 sáu năm trước, khi ba lính trẻ còn chưa mặc quần dài, mà còn vì từ tỏa ra khí hết sức cổ xưa. Buddha là kẻ già trước thời đại.

      Ôi mơ hồ may mắn trong cách phiên ! Chữ “buddha” trong tiếng Urdu, nghĩa là ông già, được phát ậm với hai chữ D nặng và bật hơi. Nhưng cũng có Buddha, với hai chữ D đọc mềm hơn, có nghĩa là người-giác-ngộ-dưới-gốc-bồ-đề... Ngày xửa ngày xưa, có hoàng tử, chịu đựng nổi những khổ đau của thế gian, có khả năng vừa xuất thế lại vừa nhập thế; vừa hữu, nhưng lại hữu; thân ở nơi, nhưng tâm lại ở nơi khác. Tại Ấn Độ cổ đại, Đức Phật Cồ Đàm giác ngộ dưới gốc bồ đề ở Gaya; tại vườn Lộc Uyển Người dạy đệ tử cách thoát ly những ưu phiền thế tục và đắc đạo; và nhiều thế kỷ sau, Saleem gã buddha ngồi dưới gốc cây khác, nhớ được khổ đau, tê dại như băng, bị xóa sạch như tấm bảng đá... Với chút bối rối, tôi buộc phải công nhận rằng mất trí nhớ là thứ thủ thuật thường được các nhà làm phim giật gân của chúng ta sử dụng. Khẽ cúi đầu chào, tôi thừa nhận rằng cuộc đời mình, lần nữa, lại mang màu sắc của phim chớp bóng Bombay; nhưng cho cùng (gạt vấn đề đầu thai nhiều tranh cãi sang bên) chỉ có số giới hạn những phương thức để tái sinh. Vì thế, tuy lấy làm tiếc về tình tiết cải lương ấy, tôi vẫn phải kiên trì nhấn mạnh rằng, tôi, , trùng sinh; rằng, sau nhiều năm khát khao được là người quan trọng, mọi nỗ lực của tôi bị tẩy sạch hoàn toàn; rằng, sau trả thù bằng cách bỏ rơi tôi của Jamila Ca sĩ, người tống tôi vào Quân đội để cho khuất mắt, tôi (hay ) chấp nhận số phận mà tôi coi như cái giá phải trả cho tình , và ngồi oán trách dưới mộc gốc chinar; rằng, bị xóa sạch lịch sử, buddha học được nghệ thuật phục tùng, và chỉ làm những gì được cầu. Tóm lại: tôi trở thành công dân Pakistan.



      điều có lẽ tránh khỏi là, sau thời gian tập luyện gã buddha bắt đầu làm Ayooba Baloch khó chịu. Có lẽ vì cố tình sống tách khỏi những người lính khác, trong chòi rơm khổ hạnh ở cuối dãy chuồng chó; hoặc vì người ta rất hay thấy ngồi xếp bằng dưới gốc cây của , tay ôm cái ống nhổ, ánh mắt ngơ ngẩn và nụ cười ngô ngốc môi - như thể lấy làm mừng vì mất não! Thêm vào đó, Ayooba, tín đồ trung thành của thịt, có lẽ thấy con chó săn của đơn vị đủ nam tính. “Chả khác gì brinjal[3]” tôi cho phép Ayooba cằn nhằn, “tao thề - củ rau chính hiệu.”

      [3] Cà tím.

      (Ta cũng có thể, từ góc nhìn bao quát hơn, kết luận rằng cảm giác khó chịu lây lan trong khí vào thời điểm cuối năm. Chẳng phải cả Tướng Yahya và Ngài Bhutto cũng khó chịu và nóng máu trước việc Sheik Mujib nằng nặc đòi được quyền thành lập chính phủ mới? Cái đảng Liên đoàn Awami đáng ghét ấy của dân Bengal thắng 160 162 ghế tối đa ở Cánh Đông; đảng P.P.P. của Ngài Bhutto chỉ giành được 81 khu bầu cử phía Tây. Phải, cuộc bầu cử rất khó chịu. khó hình dung ra cả Yahya lẫn Bhutto, đều dân Cánh Tây, bực bội đến mức nào! Và khi những nhân vật quyền uy còn phát cáu, làm sao trách được lính trơn? khó chịu của Ayooba Baloch, ta hãy tạm kết luận, đặt gã ngang hàng với những nhân vật ưu tú, nếu muốn là danh giá.)

      Trong quá trình thao diễn, lúc Ayooba Shaheed Farooq trầy trật leo trèo theo buddha khi lần theo từng dấu vết mờ nhạt nhất qua bờ bụi núi non sông suối, ba cậu trai buộc phải thừa nhận khả năng của ; nhưng Ayooba, lùi lũi như cỗ xe tăng, vẫn chất vấn: “Mày nhớ gì à? gì cả? Allah, mày thấy buồn à? Mày cũng phải có cha mẹ chị em ở đâu đó chứ,” nhưng buddha nhàng ngắt lời gã: “Đừng có nhồi vào đầu tao cái lịch sử này. Tao là tao, thế thôi.” Giọng cực kỳ thuần khiết, “Tiếng Urdu chính gốc Lucknow, chà, chà!” Farooq đầy ngưỡng mộ, đến nỗi Ayooba Baloch, người ăn thô hào như thổ dân, im bặt; và ba cậu trai bắt đầu tin còn nhiệt thành hơn vào những lời đồn. Cả ba tự chủ được bị hấp dẫn bởi gã đàn ông có cái mũi dưa chuột và cái đầu chối bỏ mọi ký ức gia đình lịch sử, và tuyệt đối chứa đựng gì ngoài mùi này... “như quả trứng ung bị người ta hút kiệt,” Ayooba làu bàu với đồng đội, và rồi, trở lại chủ đề trung tâm của gã, thêm, “Allah, đến cái mũi cũng giống củ rau.”

      Cảm giác bất an vẫn đeo đẳng họ. Họ có cảm thấy, trong trống rỗng tê liệt của buddha, dấu vết của “phản động”? - Vì chối bỏ quá-khứ-và-gia-đình của há chẳng phải là dạng hành vi phá hoại mà họ dốc lòng “nhổ tận gốc” hay sao? Tuy nhiên, các sĩ quan trong trại giả điếc trước những thỉnh cầu của Ayooba “Báo cáo sếp, tụi em có thể đổi con chó ?”... thế nên Farooq, kẻ theo đuôi bẩm sinh, người kịp tôn Ayooba làm đàn và người hùng của gã, than, “Biết làm sao được? Nhà quan hệ rộng thế, chắc là số sếp lớn bảo ngài Chuẩn tướng phải chịu đựng , có vậy thôi.”




      Và (mặc dù ai trong bộ ba này diễn đạt được tư tưởng ấy) tôi cho rằng sâu dưới nền móng của bất an của họ là nỗi sợ của chứng tâm thần phân liệt, của chia rẽ, thứ được chôn chặt như sợi dây rốn trong mỗi trái tim Pakistan. Ngày ấy, hai cánh Đông và Tây của đất nước này bị ngăn cách bởi khối đất Ấn Độ thể bắc cầu; trong khi quá khứ với tại cũng bị chia cắt bởi vực sâu thể bắc cầu. Tôn giáo là chất keo của Pakistan, gắn kết hai nửa đất nước với nhau; giống như ý thức - nhận biết bản thân như thực thể đồng nhất trong thời gian, hòa trộn của quá khứ và tại - là chất keo của nhân cách, gắn kết cái ta trước kia và cái ta bây giờ. Triết lý thế đủ rồi: điều tôi muốn là: bằng cách từ bỏ ý thức, đoạn tuyệt với lịch sử, gã buddha tạo ra tấm gương xấu nhất trong mọi tấm gương - và nhân vật bắt chước tấm gương ấy ai khác ngoài Sheikh Mujib, khi ông ta lãnh đạo Cánh Đông ly khai và tuyên bố độc lập dưới cái tên “Bangladesh”! Phải, Ayooba Shaheed Farooq có lý khi cảm thấy bất an - bởi vì ngay trong sâu thẳm của rút lui khỏi mọi trách nhiệm, tôi vẫn phải chịu trách nhiệm, thông qua vận hành của chế độ liên kết theo nghĩa bóng, về những kiện thù địch trong năm 1971.

      Nhưng tôi phải trở lại với ba đồng đội mới của mình, để có thể kể về tai nạn trong nhà xí: có Ayooba, cỗ xe tăng, người chỉ huy cả đội, và Farooq, người vui vẻ nghe theo. Gã trai thứ ba, tuy vậy, thuộc mẫu người âu sầu hơn, kín đáo hơn, và do đó đồng cảm với tôi nhất. Vào ngày sinh nhật thứ mười lăm Shaheed Dar dối tuổi của mình để nhập ngũ. Hôm ấy, ông bố nông dân cấy rễ quê Punjab của gã dắt Shaheed ra đồng và khóc ướt đẫm bộ quân phục mới của thằng bé. Ông lão Dar giải thích cho con về tên gã, nghĩa là “kẻ tuẫn đạo”, và bày tỏ hy vọng gã chứng tỏ mình xứng đáng với nó, và có lẽ trở thành người đầu tiên trong nhà được vào vườn hương, bỏ lại sau thế giới khốn khổ này, nơi người bố dám mong vừa trả được nợ vừa nuôi nổi mười chín đứa con. Quyền năng áp đảo từ những cái tên, cùng hệ quả là viễn cảnh tuẫn đạo đến gần, bắt đầu giày vò ghê gớm tâm trí Shaheed; trong mơ, gã bắt đầu thấy cái chết của mình, ra dưới hình hài quả lựu sáng rực rỡ, lơ lửng trong khí sau lưng gã, bám theo gã khắp nơi, chờ đợi thời cơ. Viễn tượng ám ảnh và phần nào kém hào hùng về cái chết với quả lựu biến Shaheed thành chàng hướng nội, cười.

      Hướng nội, cười, Shaheed lặng lẽ quan sát từng đội CUTIA được điều từ trại ra mặt trận; và ngày tin rằng thời khắc của gã, và của quả lựu, tới rất gần. Từ cuộc ra của những biệt đội ba người--chó xe jeep ngụy trang, gã suy ra cuộc khủng hoảng chính trị lên cao; là tháng Hai, và nỗi bực bội của những nhân vật danh giá ngày rệt hơn. Tuy nhiên Ayooba-xe-tăng vẫn giữ cái nhìn cục bộ. Cơn bực bội của gã cũng tích tụ, song đối tượng của nó là gã buddha.

      Ayooba trở nên say mê người đàn bà duy nhất trong trại, đứa cọ nhà xí gầy gò chắc thể quá mười bốn và đầu vú mới bắt đầu nhú lên dưới manh áo tả tơi: loại thấp hèn, rồi, nhưng ở đây chỉ có thế, và so với đứa cọ nhà xí con có hàm răng khá đẹp và thân hình khơ khớ dưới con mắt hấp háy của đám lính tráng… Ayooba bắt đầu theo con , và bởi thế mới phát thấy nó chui vào chòi rơm của buddha, và bởi thế gã mới dựa cái xe đạp vào tường rồi đứng lên yên, và bởi thế gã mới bị ngã, vì gã thích điều gã thấy. Sau đó gã chuyện với con , thô bạo tóm lấy tay nó: “Tại sao lại làm chuyện đó với thằng khùng ấy - tại sao, trong khi , Ayooba, có thể...?” và con em thích con chó-người, rất ngộ, chẳng cảm thấy gì, nắc cái vòi nước của bên trong em mà vẫn chả cảm thấy gì, nhưng em thích, và hẳn khoái mùi của em. thà của con cầu bơ, thành thực của đứa cọ nhà xí, làm Ayooba ghê tởm; gã chửi con là đồ có linh hồn bằng cứt lợn, và lưỡi cũng đóng đầy phân; và trong khi máu ghen nổi lên gã nghĩ ra trò chơi khăm bằng điện cực, cái bẫy hố xí dẫn điện. Địa điểm ấy hấp dẫn gã; nó chứa đựng thứ công lý đầy chất thơ.

      cảm thấy, hử?” Ayooba cười khẩy với Farooq và Shaheed, “Chờ đấy: tao cho nhảy dựng lên.”

      Vào hôm 10 tháng Hai (khi Vahya, Bhutto và Mujib từ chối hội đàm cấp cao), buddha cảm thấy thiên nhiên vẫy gọi. Shaheed có phần âu lo và Farooq hớn hở lảng vảng quanh nhà xí; trong Ayooba, sau khi dùng kẹp điện cực nối hai tấm để chân kim loại của hố xí với ắc quy chiếc jeep, đứng tít đằng xa, sau nhà xí, cạnh chiếc xe nổ máy. Buddha xuất , mắt nở to như phê thuốc, và dáng điệu như -trong-mây, và khi bồng bềnh trôi vào nhà xí, Farooq reo lên, “Ohe! Ayooba, yara!” và cười khúc khích. Ba tên lính con nít chờ đợi tiếng tru đau đớn ê chề báo hiệu con chó săn ngô ngốc của họ bắt đầu đái, khiến dòng điện theo dòng nước màu vàng chạy lên, chích vào cái vòi nước tê dại và nắc--cầu-bơ của .

      Nhưng chẳng có tiếng rú nào; Farooq, ngơ ngác và cảm thấy bị lừa, nhíu mày; và lúc sau Shaheed đâm lo liền hét gọi Ayooba Baloch, “Bớ Ayooba! Mày làm gì thế?” Ayooba-xe-tăng đáp; “Mày nghĩ sao hả, tao bật điện năm phút trước rồi!”... Và giờ Shaheed chạy - HẾT TỐC LỰC! - vào nhà xí, để thấy buddha vẫn đái với vẻ mặt thỏa mãn đờ đẫn, tiếp tục xả cái bàng quang tích nước có dễ hai tuần liền, trong khi dòng điện chạy vào người qua quả dưa chuột dưới hạ thể (và hiển nhiên hề hay biết), khiến người tích đầy điện và có những tia lửa điện xanh lè nổ lách tách ở đầu cái mũi ngoại cỡ của ; và Shaheed, đủ can đảm sờ vào sinh vật hoang đường có thể hấp thụ điện qua vòi nước của , hét lên, “Ngắt điện, trời ơi, kẻo biến thành hành phi mất!” Buddha từ nhà xí bước ra, hờ hững, tay phải cài khuy quần còn tay trái cầm ống nhổ bạc; và ba tên lính con nít hiểu ra điều này là , Allah, tê cứng như băng, gây tê trước cảm xúc cũng như ký ức... tuần liền sau vụ này, ai có thể động vào buddha mà bị điện giật, và kể cả con dọn nhà xí cũng thể mò đến với ở chòi.

      Điều kỳ lạ là, sau vụ điện cực, Ayooba Baloch thôi căm ghét buddha nữa, thậm chí bắt đầu tôn trọng ; nhóm liệp khuyển nhờ giây phút kỳ quặc này mà được hun đúc thành đội thực thụ, sẵn sàng xông pha chiến đấu với những kẻ tác ác trái đất.



      Ayooba-xe-tăng thể làm buddha bị sốc; nhưng nơi mà lính trơn thất bại, kẻ quyền lực lại thành công. (Khi Yahya và Bhutco quyết định làm Sheikh Mujib nhảy dựng lên, họ phạm sai lầm nào.)

      Ngày 15 tháng Ba năm 1971, hai mươi biệt đội của CUTIA tập trung tại căn lán treo bảng đen. Tấm hình quàng hoa của Tổng thống nhìn xuống sáu mươi mốt người và mười chín chó; Yahya Khan vừa chuyển đến Mujib cành ôliu đề xuất đối thoại trực tiếp với chính ông ta và Bhutto, để giải quyết mọi nỗi bực bội: nhưng bức chân dung ông ta vẫn duy trì vẻ mặt lạnh lùng tuyệt hảo, lộ bất kỳ manh mối gì về ý định , gây sốc của mình... trong khi Chuẩn tướng Iskandar chà xát các khớp ngón tay lên ve áo, Thượng sĩ Najmuddin truyền đạt mệnh lệnh: sáu mươi mốt người cùng mười chín chó được cầu cởi bỏ quân phục. cơn sột soạt nhốn nháo nổi lên trong lán: phục tùng thắc mắc, mười chín người tháo vòng nhận dạng khỏi cổ chó. Bầy chó, được huấn luyện hoàn hảo, có nhướng mày song kiềm chế phát ra tiếng; và buddha, nghiêm chỉnh chấp hành, bắt đầu cởi đồ. Sáu chục con người theo sau ; sáu chục con người quay về tư thế nghiêm trong nháy mắt, lạnh run lẩy bẩy, cạnh từng chồng mũ nồi giày quần và áo chui đầu màu xanh khuỷu tay đáp da xếp ngay ngắn. Sáu mươi mốt người, mặc gì ngoài đồ lót lành lặn, được phân phát: (từ Lala Moin tay cần vụ) quần áo dân thường được Quân đội chuẩn y. Najmuddin sủa lệnh; lúc sau tất cả lại chỉnh tề đứng đó, người bận lungi và kurta, người đội khăn xếp Pashtun. Có người mặc quần vải rayon rẻ tiền, người vận sơ mi kẻ sọc. Buddha mặc dohti và kameez; thoải mái, nhưng xung quanh nhiều người ngọ nguậy vì mặc vừa. Đây, dù vậy, là quân vụ; lời phản đối, của người lẫn chó, được thốt ra.

      Ngày 15 tháng Ba, sau khi tuân thủ những chỉ thị về trang phục, hai mươi đội CUTIA bay đến Dacca, qua đường đảo Ceylon; trong số đó có Shaheed Dar, Farooq Rashid, Ayooba Baloch và buddha của họ. Cũng sang Cánh Đông theo đường vòng này là sáu mươi ngàn quân thiện chiến nhất của Cánh Tây: sáu mươi ngàn, như sáu mươi mốt người này, đều mặc thường phục. Viên Tổng chỉ huy (mặc com lê xanh hai hàng cúc rất sành điệu) là Tikka Khan; sĩ quan chịu trách nhiệm về Dacca, vỗ thần phục và rốt cuộc là đầu hàng của nó, tên gọi Tiger Niazi. Ông ta mặc bush-shirt với quần vải, đầu đội chiếc mũ nỉ khá chơi.

      Qua đảo Ceylon chúng tôi bay, sáu mươi nghìn và sáu mươi mốt hành khách lương thiện, tránh bay qua phận Ấn Độ, và do đó mất cơ hội chứng kiến, từ độ cao bảy ngàn mét, cảnh ăn mừng của đảng Tân Quốc đại của Indira Gandhi, vì vừa giành thắng lợi áp đảo - 350 515 ghế tối đa ở Lok Sabha - cũng trong cuộc bầu cử mới diễn ra. Chẳng-biết-đến-Indira, được thấy khẩu hiệu tranh cử của bà, GARIBI HATAO, Xóa Bỏ Đói Nghèo, được tuyên truyền rầm rộ ở tường và băng rôn khắp viên kim cương Ấn Độ vĩ đại, chúng tôi hạ cánh ở Dacca vào đầu xuân, và được chở đến trại lính những chiếc xe buýt dân được đặc biệt trưng thu vì mục đích này. Tuy nhiên, ở chặng cuối này của hành trình, chúng tôi tránh khỏi nghe thấy dăm câu hát, phát ra từ chiếc máy hát ai nhìn thấy. Bài hát tên là “Amar Sonar Bangla” (“Bengal Hoàng Kim Của Chúng Ta, tác giả: R. Tagore) và có đoạn: “Mỗi độ xuân về, hương xoài của Người làm tim con mê cuồng nỗi hân hoan[4].” Tuy nhiên, chúng tôi ai biết tiếng Bengal, và nhờ thế được bảo vệ trước tư tưởng băng hoại hiểm trong lời hát, tuy rằng chân chúng tôi có vô tình đánh nhịp (phải thừa nhận như vậy) theo điệu nhạc.

      [4] câu trong bài Quốc ca của Bangladesh.

      Ban đầu, Ayooba Shaheed Farooq và buddha được cho biết tên thành phố họ vừa đặt chân đến. Ayooba, mường tượng ra cảnh tiêu diệt bọn ăn chay, thầm: “Tao bảo mà! Giờ ta cho chúng biết tay! Tuyệt chiêu gián điệp! Thường phục và các thứ! Biệt đội 22, xung phooong! Binh! Chát! Hự!”

      Nhưng chúng tôi ở Ấn Độ; mục tiêu của chúng tôi phải là những kẻ ăn chay; và sau nhiều ngày chờ dài cổ, quân phục được trả lại cho chúng tôi. Lần thay hình đổi dạng thứ hai này diễn ra vào ngày 25 tháng Ba.

      Ngày 25 tháng Ba, Yahya và Bhutto đột ngột cắt đứt hội đàm với Mujib và quay về Cánh Tây. Đêm xuống; Chuẩn tướng Iskandar, theo sau là Najmuddin và Lala Moin, khệ nệ dưới sức nặng của sáu mươi mốt bộ quân phục và mười chín cái vòng cổ, xộc vào trại của CUTIA. Lúc này Najmuddin: “A lê hấp! Chỉ làm cấm hỏi! Cấp cấp như luật lệnh!” Các hành khách máy bay mặc quân phục và cầm vũ khí; trong khi Chuẩn tướng Iskandar rốt cuộc thông báo mục đích chuyến . “Thằng cha Mujib ấy,” ông tiết lộ, “chúng ta cho nếm mùi. Chắc chắn ta làm nhảy dựng lên!”

      (Hôm đó là 25 tháng Ba, sau khi hội đàm với Bhutto và Yahya đổ vỡ, Sheikh Mujib-ur-Rahman liền tuyên bố thành lập nước Cộng Hòa Bangladesh.)

      Các biệt đội CUTIA từ trại chui ra, leo lên xe jeep chờ sẵn; trong khi qua loa phong thanh trong căn cứ, tiếng hát thu của Jamila Ca sĩ cất lên những bài ca nước. (Còn Ayooba, huých buddha: “Nghe kìa, coi nào, chẳng lẽ mày nhận ra - thử nghĩ xem, đấy chả phải là người thân của mày à - Allah, thằng này ngoài trò đánh hơi ra vô dụng!”)

      Vào nửa đêm – chẳng lẽ còn có thể vào thời điểm nào khác? - sáu mươi ngàn quân tinh nhuệ rời doanh trại; các hành-khách-bay-với- tư-cách-dân-thường lúc này bấm nút khởi động xe tăng. Tuy nhiên, riêng Ayooba Shaheed Farooq cùng buddha được chọn tháp tùng Chuẩn tướng Iskandar trong sứ mệnh trọng đại nhất của đêm hôm đó. Phải, Padma: lúc Mujib bị bắt, chính tôi là người đánh hơi thấy ông ta. (Họ đưa cho tôi chiếc áo cũ của ông ấy; có mùi rồi chuyện đơn giản thôi.)



      Padma gần như quẫn trí vì đau đớn. “Nhưng thưa ông, phải là ông, thể là ông, sao ông có thể làm việc như thế...?” Padma: là tôi đấy. Tôi thề kể hết; giấu giếm mẩu nào. (Nhưng mặt có những vết sên bò, và hẳn là phải có lý do.)

      Thế nên - tin tôi hay tùy, nhưng chuyện là thế đó! - tôi phải nhấn mạnh rằng tất cả kết thúc, tất cả lại bắt đầu, khi cái ống nhổ đập vào gáy tôi. Saleem, với mòn mỏi khát khao ý nghĩa, khát khao mục đích xứng đáng, khát khao thiên-tài-như--tấm-khăn-san, ra ; và trở lại cho đến khi con rắn rừng nhiệt đới... - tuy nhiên, vào lúc này, chỉ còn lại budhha; kẻ nhận ra giọng hát người thân; kẻ nhớ cả cha lẫn mẹ; kẻ mà với nửa đêm chẳng có ý nghĩa gì; kẻ, ít lâu sau tai nạn thanh tẩy , tỉnh dậy giường bệnh quân y, và chấp nhận Quân ngũ là số phận của mình; kẻ tuân theo cuộc sống mà rơi vào, và làm tròn nhiệm vụ; kẻ phục tùng mệnh lệnh, kẻ sống cả trong-thế-giới-này và -trong-thế-giới-này; kẻ cúi đầu quy phục; kẻ có thể truy ra cả người lẫn thú giữa phố xá hoặc dưới dòng sông; kẻ biết và cũng chẳng quan tâm đến việc làm thế nào, dưới bảo trợ của ai, là ân huệ dành cho ai, và do ai xúi bẩy vì lòng thù hận mà bị nhét vào bộ quân phục này; người, tóm lại, chỉ là chó săn chính thức của Biệt đội CUTIA số 22 hơn kém.

      Nhưng bệnh mất trí nhớ này tiện biết mấy, nó bào chữa được nhiều việc biết bao! Vậy nên hãy cho phép tôi tự phê bình: triết lý chấp nhận mà buddha tuân thủ cũng có hậu quả hơn và cũng chẳng kém phần bất hạnh so với nỗi-khát-thèm-vai-trò-trung-tâm trước kia của ; và ở đây, tại Dacca, những hậu quả này sắp được phơi bày.

      , đúng,” Padma của tôi nấc lên; hầu hết những gì xảy ra đêm hôm đó cũng bị phủ nhận như thế.

      Nửa đêm, 25 tháng Ba năm 1971, qua trường Đại học, nơi bị pháo kích, buddha dẫn quân lính vào sào huyệt của Sheikh Mujib. Sinh viên và giảng viên từ ký túc xá chạy ra; những loạt đạn chào đón họ, và Mercurochrome đỏ loang mặt cỏ. Sheikh Mujib, dù vậy, bị bắn; chịu xiềng xích và xô đẩy, ông ta được Ayooba dẫn ra chiếc xe hòm chờ sẵn. (Như lần trước, sau cuộc cách mạng của các lọ gia vị... nhưng Mujib trần truồng; ông ta mặc bộ pajama sọc xanh vàng.) Và khi xe chúng tôi chạy đường phố, Shaheed ngó qua cửa sổ thấy những cảnh tượng -phải--thể-nào là : quân lính vào nhà phụ nữ hề gõ cửa; phụ nữ, bị lôi ra giữa đường, cũng bị vào, và cũng lại ai buồn gõ cửa. Và các tòa báo, cháy bốc lên thứ khói vàng đen bẩn thỉu của những tờ lá cải rẻ tiển, và trụ sở các nghiệp đoàn, bị đập nát thành gạch vụn, và cống rãnh lề đường đầy ứ những người đơn giản là ngủ - họ nằm phơi ngực trần, với những nốt mụn rỗng của lỗ đạn. Ayooba Shaheed Farooq im lặng quan sát qua cửa sổ xe chạy, trong khi các chàng trai của chúng ta, những chiến-sĩ-của-Allah, những jawan đáng-mười-tên-babu gìn giữ thống nhất của Pakistan bằng cách chĩa súng phun lửa súng máy lựu đạn vào khu ổ chuột của thành phố. Khi chúng tôi áp giải Sheikh Mujib đến sân bay, nơi Ayooba gí súng vào mông rồi đẩy ông ta lên chiếc máy bay đưa ông ta tới nơi giam cầm ở Cánh Tây, buddha nhắm mắt lại. (“Đừng nhổi vào đầu tao cái lịch sử này,” có lần với Ayooba-xe-tăng, “Tao là tao, thế thôi.”)

      Và Chuẩn tướng Iskandar củng cố tinh thần binh sĩ: “Vẫn còn những phần tử phản động cần phải tróc nã tận gốc.”

      Khi suy nghĩ trở nên quá đỗi đau đớn, hành động là liều thuốc công hiệu nhất... các chiến binh chó giằng căng dây xích, thế rồi, khi được thả, sung sướng lao vào nhiệm vụ. Ôi những cuộc săn lùng phản động của bầy mãnh cẩu! Ôi những vụ truy bắt tràn lan giáo sư và thi sĩ! Ôỉ những vụ bắt giữ may biến thành bị-bắn-vì-chống-cự của các thành viên Liên đoàn Awami và phóng viên thời trang! Bầy chiến khuyển gieo rắc tang thương khắp thành phố; có điều chó săn tuy mệt, binh sĩ lại yếu hơn: Farooq Shaheed Ayooba thay nhau nôn mửa khi mùi hôi thối từ khu ổ chuột bốc cháy ào ạt xộc vào mũi họ. Buddha, bị mùi hôi thối khơi dậy trong mũi những hình ảnh sống động rát bỏng, vẫn cứ tiếp tục nhiệm vụ của mình. Ngửi ra chúng: phần còn lại dành cho đám lính cậu. Những biệt đội CUTIA sục sạo đống đổ nát ỉ khói của thành phố. Đêm nay tên phản động nào được yên thân, chỗ náu nào là bất khả xâm phạm. Chó săn St. Hubert săn đuổi những kẻ thù trốn chạy của quốc gia thống nhất; chó săn Ireland, kém cạnh, cắm ngập hàm răng dữ tợn vào con mồi.

      Bao nhiêu vụ bắt giữ - mười, bốn-trăm-hai-mươi, -nghìn-lẻ-? - được Biệt đội 22 thực đêm đó? Bao nhiêu tên trí thức Dacca èo uột trốn sau sari đàn bà và phải bị túm cổ lôi ra đường? Bao nhiêu lần Chuẩn tướng Iskandar - “Ngửi ! Mùi phản loạn đấy!” - thả lũ chiến khuyển của thống nhất xổ ra? Có những điều xảy ra vào cái đêm 25 tháng Ba ấy phải vĩnh viễn nằm lại trong mập mờ.



      vô nghĩa của các số liệu thống kê: trong năm 1971, mười triệu người tị nạn vượt qua biên giới Đông Pakistan (Bangladesh) sang Ấn Độ - nhưng mười triệu (cũng như mọi con số lớn hơn ngàn lẻ ) vượt quá giới hạn hiểu biết của con người. Phép so sánh cũng chẳng ích gì: “làn sóng di cư lớn nhất lịch sử nhân loại” - vô nghĩa. To hơn cuộc Xuất hành[5], lớn hơn đám đông thời kỳ chia cắt, con quái vật nhiều đầu ấy tràn sang Ấn Độ. Ở biên giới, quân Ấn Độ huấn luyện các nhóm du kích lấy tên là Mukti Bahini; tại Dacca, Tiger Niazi toàn quyền kiểm soát thành phố.

      [5] Nguyên văn: Exodus, cuộc di cư của dân Do Thái do Moses dẫn đầu rời khỏi Ai Cập (Kinh Thánh).

      Còn Ayooba Shahecd Farooq? Các chàng trai áo xanh? Họ làm quen với việc chiến đấu chống lại những đồng bào ăn thịt ra sao? Họ có làm binh biến? Và các sĩ quan - Iskandar, Najmuddin, và thậm chí Lala Moin - có bị những viên đạn của ghê tởm xuyên thủng lỗ chỗ? Họ sao hết. trong sạch mất ; nhưng bất chấp vẻ tàn nhẫn mới xuất trong mắt, bất chấp tín nhiệm mất thể vãn hồi, bất chấp những giá trị tuyệt đối về đạo đức bị xói mòn, cả đội tiếp tục thi hành nhiệm vụ. Buddha phải là người duy nhất phục tùng mệnh lệnh... trong khi đâu đó phía cuộc giao tranh, tiếng hát của Jamila Ca sĩ tranh đấu với các giọng ca vô danh hát ca từ của R. Tagore: “Đời con trôi giữa làng quê rợp bóng, đầy ấp thóc từ đồng lúa của Người; chúng làm tim con mê cuồng nỗi hân hoan.”

      Trái tim điên cuồng, nhưng phải vì nỗi hân hoan, Ayooba và đồng đội theo lệnh hành ; buddha theo dấu mùi. Biệt đội số 22 tiến về trung tâm thành phố nơi trở nên bạo lực điên cuồng đẫm máu khi binh sĩ Cánh Tây phản ứng tồi tệ trước nhận-thức-về-điều-sai-trái của bản thân; xuyên qua phố xá tối tăm, buddha chỉ chuyên tâm vào đánh hơi dấu vết mặt đất, mặc kệ hỗn loạn ở bề mặt của mùi thuốc lá phân bò xe đạp đổ giày vứt ; và sau đó là vào những nhiệm vụ khác: ở nông thôn, nơi những ngôi làng bị đốt trụi vì trách nhiệm tập thể trong việc chứa chấp Mukti Bahini, buddha và ba gã trai tiếp tục tróc nã những cán bộ cấp thấp của Liên đoàn Awami và các phần tử Cộng sản tiếng tăm. Vượt qua từng đoàn lưu dân gánh gồng chạy nạn, những đoạn đường sắt bị xé toang và rặng cây bị cháy trụi, và ngừng, như thể có sức mạnh vô hình dẫn dắt từng bước chân, lôi họ vào hố thẳm đen tối hơn của cơn cuồng dại này, nhiệm vụ dẫn họ mải miết xuôi về phía Nam Nam Nam, mỗi lúc gần biển hơn, đến nơi sông Hằng đổ ra biển.

      Rốt cuộc - họ đuổi theo ai? Tên tuổi có còn quan trọng nữa ? - hẳn là hẳn họ gặp phải con mồi sở hữu những kỹ năng đáng mặt kỳ phùng địch thủ của buddha, tại sao mãi mà họ chưa bắt được ? Sau cùng - thể thoát khỏi những gì họ được huấn luyện - săn-lùng--mệt-mỏi-bắt-giữ--thương-xót, họ ở vào lưng chừng của nhiệm vụ hồi kết, săn đuổi địch thủ ngừng cao chạy xa bay, nhưng chẳng thể tay trắng quay về căn cứ, thế là họ mãi, về Nam Nam Nam, bị hút theo dấu mùi liên tục thoái lui và có lẽ còn theo điều khác nữa: bởi vì, trong đời tôi, vận mệnh chưa bao giờ ngần ngại chìa tay giúp đỡ.



      Họ trưng dụng chiếc thuyền, vì buddha rằng dấu vết dẫn đến dòng sông; đói khát thiếu ngủ kiệt sức giữa thế giới của những đồng lúa bỏ hoang, họ chèo đuổi theo con mồi chưa thấy mặt; họ xuôi dòng sông nâu vĩ đại, tới khi cuộc chiến ở quá xa ai nhớ nổi, nhưng cái mùi ấy vẫn kéo họ tiếp. Nơi đây dòng sông có cái tên quen thuộc: Padma. Nhưng cái tên này là lừa dối địa phương; thực tế con sông vẫn là Người, là mẹ-nước, là nữ thần Ganga, chảy xuống trái đất qua mái tóc thần Shiva. nhiều ngày buddha hé răng; chỉ chỉ, đấy, hướng đó, thế là họ , về phía Nam Nam Nam để ra biển.

      buổi sáng tên. Ayooba Shaheed Farooq tỉnh dậy con thuyền của cuộc săn đuổi lố bịch của họ, được neo lại bên bờ Padma-Ganga - và thấy biến mất. “Allah-Allah,” Farooq rên lên, “Bịt tai lại và cầu Chúa rủ lòng thương , lừa tụi mình đến xứ ngập lụt này rồi bỏ trốn, tất cả tại mày hết, Ayooba, chính mày nghĩ ra trò điện cực và đây là đòn thù của !”... Mặt trời lên cao dần. Những loài chim lạ bay lượn . Cái đói và nỗi sợ như chuột sục sạo trong dạ dày họ: ngộnhỡ, ngộnhỡ quân Mukti Bahini... các bậc cha mẹ được kêu gọi hết lời. Shaheed vừa mơ giấc mơ quả lựu của gã. Nỗi tuyệt vọng dập dềnh quanh mạn thuyền. Và đằng xa, gần với chân trời, bức tường xanh khổng lồ bất tận tưởng, trải dài hai bên đến tận cùng trái đất! Nỗi sợ thành lời: có thể nào, có thể nào những gì chúng ta thấy là , ai lại xây tường vắt ngang thế giới?... Thế rồi Ayooba, “Kìa, kìa, Allah!” Bởi tiến lại gần họ qua ruộng lúa là cảnh đuổi bắt quay chậm kỳ dị: đầu tiên là buddha với cái mũi dưa chuột, mà quý vị có thể nhận ra từ xa dặm; và đuổi theo , bì bõm chạy giữa ruộng, là bác nông dân hoa chân múa tay lăm lăm lưỡi hái, Đức Cha Thời gian[6] nổi giận, trong khi chạy dọc con mương là người đàn bà sari xắn cao giữa hai chân, tóc rối bù, ngớt la hét van vỉ, trong khi kẻ báo thù cầm hái vấp ngã dúi dụi giữa ruộng lúa ngập nước, từ đầu đến chân nhoe nhoét nước và bùn. Ayooba gầm lên đầy nhõm: “Thằng dê xồm! nhịn nổi cái thói táy máy quê! Mau lên, buddha, đừng để bị tóm, lão ta xẻo hai quả dưa chuột của mày đấy!” Và Farooq, “Nhưng sau đó sao? Nếu buddha bị xẻo, sao?” Lúc này Ayooba-xe-tăng rút súng khỏi bao. Ayooba ngắm: hai tay giơ ra trước, cố giữ rung, Ayooba bóp cò: lưỡi hái vẽ đường cong trong khí. Và, chầm chậm, chầm chậm, đôi tay nông dân giơ lên như cầu nguyện; cặp đầu gối quỳ xuống nước ruộng; khuôn mặt cắm xuống nước và vập trán vào đất. bờ mương tiếng phụ nữ rú lên. Và Ayooba bảo buddha: “Lần sau, người ăn đạn là mày.” Ayooba-xe-tăng run bần bật như chiếc lá. Và Thời gian nằm chết ruộng lúa.

      [6] Trong báo chí phương Tây, thời gian thường được nhân cách hóa thành Đức Cha Thời gian (Father Time), ông già râu bạc, mặc áo choáng đen, tay cầm lưỡi hái và chiếc đồng hồ cát.

      Nhưng vẫn còn đó cuộc săn đuổi vô nghĩa, và kẻ thù chẳng bao giờ thấy mặt; và buddha, “ đường kia,” thế là bốn người lại tiếp tục chèo, về Nam Nam Nam, họ vừa giết chết giờ và quên mất ngày, họ còn biết mình truy đuổi hay trốn chạy, nhưng dù điều gì thúc đẩy họ nó cũng đem họ đến gần hơn gần nữa bức tường màu xanh tưởng kia, “Đường đó,” buddha quả quyết, và thế là họ ở trong nó, khu rừng rậm rạp đến mức lịch sử hầu như chẳng bao giờ tìm thấy đường vào. Rừng Sundarbans: nó nuốt chửng họ.

    3. banglangtrang123

      banglangtrang123 Well-Known Member Staff Member Super Moderator

      Bài viết:
      26,213
      Được thích:
      47,825
      Chương 25: Trong rừng Sundarbans




      Tôi thú nhận: chẳng có con mồi sau cùng, khó tróc nã, thôi thúc chúng tôi về Nam Nam Nam nào hết. Trước tất cả độc giả, tôi muốn đưa ra lời khai nhận trần trụi này: trong khi Ayooba Shaheed Farooq có khả năng phân biệt giữa truy đuổi và trốn chạy, buddha biết làm gì. Mặc dù ý thức rất mình tiếp thêm đạn dược - thông qua việc thừa-nhận-tội-lỗi, tiết-lộ--suy-đồi-đạo-đức, bằng-chứng-của--hèn-nhát - cho bất cứ bình luận viên tương lai hay cây bút phê bình tẩm độc nào (xin nhắn họ rằng: hai lần tôi trúng độc nọc rắn; và cả hai lần, tôi đầu chứng tỏ mình mạnh hơn nọc độc), tôi vẫn buộc phải rằng , buddha, rốt cuộc thế tiếp tục ngoan ngoãn chấp hành nhiệm vụ được nữa, ba chân bốn cẳng bỏ chạy. Bị nhiễm loài dòi gặm nhấm linh hồn của bi quan vô nghĩa hổ thẹn, đào ngũ, chạy đến chốn vô danh lịch sử của rừng mưa, tha theo ba cậu bé con. Điều tôi muốn vĩnh viễn bảo tồn trong lọ ngâm cũng như giấy: trạng thái của tâm hồn khi ta thể chối bỏ những hệ quả của cam chịu, khi toa thuốc thực quá liều sinh ra khát khao bức bối muốn vượt thoát đến thế giới an toàn của những giấc mơ... Nhưng, rừng già, như mọi chốn nương thần, hoàn toàn khác - ít hơn mà cũng nhiều hơn - với những gì chờ đợi.

      “Em vui,” Padma của tôi bảo, “Em mừng là ông chạy.” Nhưng tôi nhấn mạnh: phải tôi. . , buddha. Kẻ, cho tới khi con rắn xuất , vẫn là -phải-Saleem; kẻ, dù trốn chạy, vẫn bị cách biệt với quá khứ; dù luôn giữ chặt, trong bàn tay như có giác hút[1], chiếc ống nhổ bằng bạc.

      [1] Nguyên văn: limpet fist. Limpet là loài động vật thân mềm hình dáng như con ngao nhưng chỉ có mặt vỏ cứng, mặt kia bám vào đá bằng phần chân có cấu trúc như giác hút.

      Rừng già khép lại sau lưng họ như nấm mồ, và sau hàng giờ chèo thuyền trong cơn kiệt sức và hoảng loạn ngày lớn dần, giữa mạng kênh đào nước mặn chằng chịt như mê cung nằm dưới những rặng cây đổ bóng cao ngất như vòm giáo đường, Ayooba Shaheed Farooq hoàn toàn lạc lối; hết lần này đến lần khác họ quay sang buddha, kẻ chỉ hết “Đường kia” đến “Lối đó”; nhưng mặc dầu họ chèo cật lực, bất chấp cơn mệt mỏi, cơ hội thoát khỏi chốn này dường như cứ biến mất trứơc mắt họ như ngọn đèn ma; cho tới sau cùng, họ vây quanh chuyên gia truy lùng vốn dĩ thể sai lầm của họ, và có lẽ nhìn thấy tia hổ thẹn hay nhõm lóe lên trong đồi mắt bình thường vẫn xanh-mờ-đục của ta; và giờ Farooq lầm bầm giữa màu xanh như mộ địa của cánh rừng: “Mày biết. Mày chỉ bừa thôi.” Buddha im lặng, nhưng trong im lặng của họ đọc thấy số phận của mình, và giờ khi biết chắc mình bao giờ thấy mặt trời nữa, Ayooba Baloch, chính gã Ayooba-xe-tăng, òa khóc nức nở như trận mưa rừng. Cái cảnh tượng tréo ngoe khi gã trai lực lưỡng tóc húi cua này khóc oa oa như đứa bé góp phần khiến Farooq và Shaheed mất tự chủ; đến nỗi Farooq suýt nữa làm lật thuyền khi lao vào tấn công buddha, người bình thản chịu đựng những cú đấm như mưa trút lên ngực vai tay , đến khi Shaheed phải kéo Farooq ra cho an toàn. Ayooba Baloch khóc nghỉ suốt ba giờ hoặc ngày hoặc tuần liền, cho đến khi trời bắt đầu mưa và làm nước mắt của gã trở nên cần thiết; và Shaheed Dar nghe thấy mình , “Khóc cho lắm vào, nhìn xem mày mở đầu cái gì,” chứng tỏ rằng họ bắt đầu lây nhiễm thứ logic của rừng già, và rằng đó chỉ mới là bắt đầu, bởi vì khi bí hiểm của đêm tối khiến vẻ phi thực của rừng cây thêm nồng đậm, Sundarbans bắt đầu sinh sôi nảy nở trong mưa.

      Ban đầu họ còn mải múc nước ra khỏi thuyền nên chưa ai nhận ra; nước lại lên, hẳn làm họ rối trí; nhưng dưới ánh sáng cuối ngày, nghi ngờ gì nữa: khu rừng gia tăng về kích cỡ, sức mạnh và độ hung bạo; từng chiếc rễ cà kheo khổng lồ của những cây đước cổ thụ đồ sộ ngoằn ngoèo đói khát trườn trong ánh chiều chạng vạng, hút nước mưa và phình to hơn cả vòi voi, trong khi bản thân những cây đước vươn cao đến mức, như sau này Shaheed Dar miêu tả, lũ chim ngọn cây chắc có thể hót cho Chúa nghe. Vòm lá cao của những cây dừa nước vĩ đại bắt đầu tỏa rộng như những bàn tay khum khum to tướng màu xanh lục, cứ thế căng phồng lên dưới mưa đêm cho tới khi cả khu rừng như được lợp mái tranh; và rồi những trái dừa nước bắt đầu rụng, chúng to hơn bất kỳ loại dừa nào đất và đạt tốc độ đáng báo động khi từ độ cao chóng mặt lao xuống và nổ tung như bom mặt nước. Mưa ngập cả lòng thuyền; họ chỉ có bốn chiếc mũ vải xanh và hộp thiếc cũ đựng bơ để tát nước; đến khi đêm xuống và trận mưa bom dừa nước từ trút xuống, Shaheed Dar bảo, “Hết cách rồi - phải lên bờ thôi,” mặc dù tâm trí gã tràn ngập giấc mơ về quả lựu và gã thoáng nghĩ có thể đây là nơi nó trở thành , mặc dù ở đây là loại quả khác.

      Trong khi Ayooba ngồi khiếp sợ mắt đỏ ngầu và Farooq cơ hồ tan nát vì thần tượng sụp đổ; trong khi buddha vẫn im lặng gục đầu, Shaheed là người duy nhất còn khả năng suy nghĩ, bởi mặc dù ướt đẫm và mệt lả và rừng đêm rú rít xung quanh, đầu gã phần nào trở nên tỉnh táo mỗi khi gã nghĩ đến quả lựu tử vong của mình; thế nên chính Shaheed là người ra lệnh cho chúng tôi, cho họ, chèo con thuyền sắp chìm của chúng tôi, của họ, vào bờ.

      trái dừa nước rơi chệch con thuyền chỉ hơn tấc, gây ra cơn thủy chấn lớn đến mức làm lật thuyền; họ chật vật bò lên bờ trong bóng tối, ôm theo đầu nào súng vải dầu hộp thiếc, sau đó kéo thuyền lên, và khi dứt nỗi lo về mưa bom dừa nước và bầy rắn rễ đước, lăn ra ngủ giữa con thuyền sũng nước. Khi họ tỉnh dậy, ướt-sũng-và-run-lẩy-bẩy bất chấp cái nóng, trời chuyển mưa phùn dày hạt. Họ thấy người phủ lớp đỉa dài hai tấc gần như hoàn toàn màu vì thiếu ánh sáng mặt trời, nhưng lúc này chuyển màu đỏ nhạt vì mọng máu và lần lượt nổ tung cơ thể bốn người vì quá tham lam nên thể dừng hút dù no căng. Máu ròng ròng chảy dọc chân họ xuống nền rừng; khu rừng hút ngay lấy, và biết mùi vị của nó chế nào.

      Khi những trái dừa nước giáng xuống nền rừng, chúng cũng trào ra chất lỏng màu máu, thứ sữa đỏ ngay lập tức bị hàng triệu con côn trùng bu vào, có cả những con ruồi khổng lồ cũng trong suốt như lũ đỉa. Lũ ruồi cũng ngả đỏ khi bú no thứ sữa từ những trái dừa… suốt đêm ấy, Sundarbans dường như ngừng lớn lên. Cao hơn hết là những cây sundri, loài cây đem đến cái tên cho khu rừng; cao đến nỗi đủ sức ngăn cản tia hy vọng nhoi nhất của mặt trời. Bốn người bọn tôi, họ, trèo ra khỏi thuyền; và chỉ sau khi đặt chân lên nền đất cứng trống trải lổm ngổm bọ cạp màu hồng nhợt và lúc nhúc từng đống giun đất nâu xám, họ mới cảm thấy đói và khát. Nước mưa đọng lá cây xuống quanh họ, và họ ngửa mặt lên mái rừng mà uống; nhưng có lẽ vì nước này chảy qua lá sundri và cành đước và tàu dừa trước khi đến chỗ họ, nên từ hành trình ấy, nó hấp thụ phần nào đó điên dại của rừng già, cho nên khi uống vào họ lún sâu thêm sâu nữa vào ách áp chế của thế giới màu xanh thẫm ấy hơi tiếng chim nghe như gỗ kêu cót két và tất cả rắn đều mù. Trong trạng thái tâm thần mê loạn, hôn ám do cánh rừng gây ra, họ chuẩn bị bữa ăn đầu tiên, hỗn hợp của dừa nước và giun nghiền, thứ giáng xuống đầu tất cả bọn họ trận ỉa chảy dữ dội đến nỗi họ phải nghiến răng kiểm tra phân xem ruột gan mình có xổ ra cùng mớ hổ lốn ấy .

      Farooq , “Ta chết ở đây mất.” Nhưng ở Shaheed có khát khao sinh tồn mãnh liệt; bởi vì, sau khi hồi tỉnh khỏi cơn hoang mang đêm trước, gã trở nên tự tin rằng đây phải là cái kết dành cho gã.

      Lạc trong rừng mưa, và biết ngớt mưa chỉ là chuyện tạm thời, Shaheed quyết định rằng chẳng có lý do gì họ phải cố gắng tìm đường thoát khi cơn mưa trở lại có thể đánh đắm con thuyền tạm bợ của họ bất cứ lúc nào; dưới chỉ đạo của gã, chỗ trú được dựng lên từ vải dầu và lá cọ; Shaheed bảo, “Chỉ cần kiên trì ăn quả, ta sống sót.” Tất cả quên từ lâu mục đích hành trình của họ; cuộc săn đuổi, được bắt đầu từ rất xa trong thế giới , dưới ánh sáng biến dạng của rừng Sundarbans nảy sinh đặc tính của ảo tưởng lố bịch, cho phép họ rũ bỏ nó vĩnh viễn.

      Và thế là Ayooba Shaheed Farooq cùng buddha tự nộp mình cho những ảo tượng khủng khiếp của cánh rừng mê. Từng ngày trôi qua, tan lẫn vào nhau dưới sức mạnh của cơn mưa vừa trở lại, và bất chấp buốt giá sốt cao ỉa chảy họ vẫn sống sót, hoàn thiện chỗ trú bằng cách bẻ thêm những cành sundri và đước mọc thấp, uống sữa đỏ của dừa nước, tích lũy các kỹ năng sinh tồn, như khi năng siết cổ rắn và phóng những cây gậy mài sắc chính xác tới mức chúng đâm xuyên diều những con chim nhiều màu. Nhưng lần Ayooba tỉnh đậy trong đêm tối và trông thấy hình thù mờ ảo của người nông dân với vết đạn giữa tim và lưỡi hái tay sầu thảm nhìn xuống gã, và khi gã lập bập trèo ra khỏi thuyền (họ kéo nó vào căn lán nguyên thủy của mình), thứ chất lỏng màu rỉ ra từ cái lỗ ở tim người nông dân và chảy sang cánh tay cầm súng của Ayooba. Sáng hôm sau, cánh tay phải của Ayooba nhất định chịu cử động; nó cứng đờ và lủng lẳng bên người gã như bị bó bột. giúp đỡ và cảm thông của Farooq Rashid cũng chả ích gì; cánh tay vẫn treo bất động trong thứ chất lỏng vô hình của hồn ma.

      Sau lần ma hồn này, họ rơi vào tâm lý tin rằng khu rừng có khả năng làm bất cứ điều gì; mỗi đêm nó lại gửi đến họ những hình phạt mới, ánh mắt ai oán của những người vợ có chồng bị họ săn lùng và bắt giữ, tiếng gào khóc chí chóe của những đứa trẻ mất cha dưới tay họ... và trong lần đầu tiên này, lần của trừng phạt, ngay cả gã buddha lãnh đạm có chất giọng thành thị cũng buộc phải thú nhận bắt đầu tỉnh giấc về đêm và thấy rừng dồn về vây quanh như chiếc bàn kẹp, làm thể thở được.

      Khi trừng phạt họ đủ - khi họ chỉ còn là cái bóng run rẩy của những con người trước kia họ từng là - rừng già cho phép họ hưởng thụ cảm giác xa xỉ hai lưỡi của nỗi hoài nhớ. đêm, Ayooba, người quay về thời thơ ấu nhanh hơn bất kỳ ai trong số họ, và bắt đầu mút ngón tay cái còn cử động được, trông thấy mẹ nhìn gã và chìa cho gã món kẹo bột gạo mịn màng của tình thương; song đúng lúc gã vươn tay về phía món laddoo, bà líu ríu bỏ chạy; và gã thấy bà leo lên cây sundri vĩ đại và đánh đu cành cao bằng cái đuôi vắt vẻo: con khỉ trắng như hồn ma mang khuôn mặt mẹ gã đến thăm Ayooba hằng đêm, khiến sau thời gian, gã buộc phải hồi tưởng lại nhiều chuyện khác về bà ngoài món kẹo: bà thích ngồi giữa những hộp hồi môn, như thể bà chẳng qua cũng chỉ là món đổ, cũng chỉ là trong những lễ vật cha bà đem tặng chồng bà ra sao; giữa rừng Sundarbans, Ayooba Baloch lần đầu tiên hiểu mẹ mình, và mút tay nữa. Cả Farooq Rashid cũng nhận được ảo ảnh. hôm vào lúc nhá nhem gã cứ ngỡ mình vừa thấy đứa em trai chạy hộc tốc giữa rừng, và tin rằng cha gã vừa mất. Gã nhớ lại ngày bị lãng quên, khi người cha nông dân với gã và đứa em ba chân bốn cẳng rằng lão chúa đất trong vùng, kẻ cho vay nặng lãi 300 phần trăm, đồng ý mua lại linh hồn ông cụ để đổi lấy món nợ mới nhất. “Bao giờ bố chết,” ông lão Rashid dặn em trai Farooq, “con nhớ há miệng để linh hồn bố bay vào; rồi chạy chạy chạy ngay, bởi zamindar đuổi theo con!” Farooq, người cũng bắt đầu hoàn đồng với tốc độ đáng báo động, tìm thấy trong cái chết của cha gã và cuộc đào tẩu của em trai gã sức mạnh để từ bỏ những thói quen con nít mà rừng già ban đầu tái lập ở gã; gã thôi khóc khi đói và hỏi Tại sao. Shaheed Dar cũng được con khỉ có khuôn mặt tổ tiên đến thăm; nhưng tất cả những gì gã thấy là người cha từng dạy gã phải làm sao cho xứng với tên mình. Điều này, tuy vậy, cũng giúp khôi phục ở gã ý thức trách nhiệm bị xói mòn bởi đòi hỏi nhắm-mắt-phục-tùng của chiến tranh; vậy là dường như cánh rừng thần bí, sau khi hành hạ họ vì những tội ác họ gây ra, dẫn dắt họ đến tuổi trưởng thành mới. Và bay biến giữa rừng đêm là bóng ma của những hy vọng của họ; tuy nhiên, riêng những hình ảnh ấy, họ lại thể nhìn , hoặc nắm bắt được.

      Buddha, tuy vậy, được nhận nỗi hoài nhớ ngay từ đầu. quen với việc ngồi xếp bằng dưới gốc sundri, mắt và tâm trí dường như trống rỗng, và về đêm, bị tỉnh giấc nữa. Nhưng sau cùng, rừng già cũng tìm ra cách đến với gã; buổi chiều, khi mưa dội xuống rừng cây và bốc hơi tức , Ayooba Shaheed Farooq thấy gã buddha ngồi dưới gốc cây của khi con độc xà mù, trong mờ cắn và tiết nọc độc vào gót chân . Shakeed Dar cầm gậy đập nát đầu con rắn; trong khi buddha, bấy giờ tê liệt từ đầu đến chân, hình như nhận thấy gì. Mắt nhắm nghiền. Sau đó, ba gã lính trẻ chờ đợi cái chết của con chó-người; nhưng tôi khỏe hơn nọc rắn. Trong vòng hai ngày, cứng đơ như tượng gỗ, và mắt bị lác , khiến gã nhìn thế giới như qua tấm gương, bên trái thành bên phải. Tôi được tái hợp với quá khứ, được dồn vào nhất thể nhờ nọc rắn; và quá khứ bắt đầu tuôn trào từ môi buddha. Khi mắt trở lại bình thường, lời lẽ của chảy dào dạt đến nỗi có cảm giác nó là phần của mùa mưa. Ba chú lính-trẻ-con lắng nghe, mê mẩn, những câu chuyện từ miệng , bắt đầu với ra đời vào nửa đêm, rồi tiếp diễn ngừng nghỉ, vì giành lại hết thảy, tất cả mọi thứ, tất cả lịch sử bị thất lạc, tất cả muôn vàn quá trình phức tạp tạo nên con người. Mồm há hốc, sao rứt ra được, ba lính-trẻ-con uống từng giọt đời như nước đọng lá, khi kể về những đứa em họ đái dầm, về những lọ gia vị làm cách mạng, về giọng ca tuyệt mỹ của người em ... Ayooba Shaheed Farooq (nếu là ngày xưa) hẳn đánh đổi bất cứ thứ gì để biết rằng những đồn đại ấy là ; nhưng giữa rừng Sundarbans, họ thậm chí kêu lên tiếng.

      tăng tốc: đến câu chuyện tình nở muộn, chuyện Jamila trong căn phòng ngủ dưới vệt ánh trăng. Lúc này Shaheed nhịn nổi rì rầm, “Ra là thế, sau khi thú nhận, ta thể chịu nổi có ở gần...” Nhưng buddha vẫn tiếp tục, và cả ba thấy rằng vật vã, cố nhớ lại điều gì đấy, điều dứt khoát chịu trở lại, điều ngoan cố lẩn tránh , khiến buộc phải đến cái kết khi chưa tìm ra nó, và vẫn tiếp tục nhíu mày thỏa mãn ngay cả sau khi kể đến đoạn cuộc thánh chiến, và tiết lộ về thứ từ trời rơi xuống.

      Im lặng mất lúc; rồi Farooq Rashid , “Quá nhiều thứ, yaar, trong con người; quá nhiều chuyện đau thương, trách nào chả câm như hến!”

      thấy , Padma: chuyện này tôi kể lần rồi. Nhưng thứ gì dứt khoát trở lại? Thứ gì, bất chấp nọc độc giải phóng ký ức của con độc xà màu, chịu xuất môi tôi? Padma: gã buddha quên mất tên mình. (Chính xác hơn: tên riêng của gã.)



      Trờỉ vẫn tiếp tục mưa. Mực nước dâng lên hàng ngày, tới khi họ thấy rằng buộc phải sâu hơn vào rừng, để tìm chỗ đất cao hơn. Mưa to đến mức thể dùng thuyền; thế nên, vẫn dưới chỉ đạo của Shaheed, Ayooba Farooq và buddha kéo nó xa khỏi bờ sông ăn sâu vào đất, buộc dây neo quanh gốc sundri rồi phủ lá lên; sau đó, chẳng còn lựa chọn nào khác, họ tiến sâu hơn vào thế giới bất trắc rậm rạp của rừng già.




      Giờ đây, lần nữa, Sundarbans lại thay đổi tâm tính; lần nữa, Ayooba Shaheed Farooq thấy bên tai tràn ngập tiếng khóc than của những gia đình từng bị họ giằng khỏi vòng tay thương những thành viên mà, hàng thế kỷ trước, được họ gọi là “những phần tử phản động”; họ điên cuồng chạy thẳng vào rừng để thoát khỏi tiếng khóc đầy đau đớn và oán hận từ các nạn nhân của họ; và khi đêm xuống, bầy khỉ hồn ma tụ tập cây hát bài “Bengal Hoàng Kim Của Chúng Ta”: “… Ơi Đất Mẹ, con dẫu nghèo, nhưng những gì con có, xin đặt dưới chân Người. Điều ấy làm tim con mê cuồng nỗi hân hoan.” thể trốn thoát cực hình khôn bề chịu đựng của những giọng người ngừng tra tấn họ, chẳng thể chịu đựng thêm phút nào nữa gánh nặng của hổ thẹn, bây giờ tăng lên ghê gớm bởi ý thức trách nhiệm vừa-giác-ngộ-trong-rừng, ba lính cậu, cuối cùng, bị đẩy đến chỗ có những phản ứng tuyệt vọng, Shaheed Dar cúi xuống vốc nắm bùn rừng đẫm nước mưa; quằn quại trong ảo giác kinh khủng ấy, gã nhét nắm bùn phản trắc của rừng mưa vào tai. Và bắt chước gã, Ayooba Baloch và Farooq Rashid cũng bịt tai bằng bùn. Chỉ có buddha là làm gì với đôi tai ( bên tốt, bên điếc) của gã; như thể riêng gã sẵn sàng hứng chịu trừng phạt của rừng già, như thể gã cúi đầu trước quả báo cho tội lỗi của mình... Thứ bùn của rừng-mê, chắc chắn có chứa những xác trong mờ của côn trùng bị lẫn trong bùn, và ma tính của thứ phân chim màu cam tươi, làm tai ba gã lính cậu nhiễm độc và trở nên điếc đặc; bởi thế mặc dù thoát khỏi những lời kết tội ngân nga của rừng già, giờ đây họ buộc phải trò chuyện bằng kiểu ngôn ngữ ký hiệu hết sức sơ khai. Dù vậy, dường như họ thà bị điếc còn hơn phải nghe những bí mật hề dễ chịu mà lá sundri thầm vào tai họ.

      Sau cùng, những giọng dừng lại, mặc dù lúc này chỉ có mình buddha (với bên tai lành) nghe thấy; sau cùng, khi bốn kẻ lữ hành tiến đến ngưỡng hoảng loạn, rừng già dắt họ qua tấm màn địa y[2] rồi mở ra trước mắt họ cảnh tượng huy hoàng đến nỗi làm họ nghẹn lời. Buddha dường như cũng siết chặt hơn chiếc ống nhổ. Bốn người với cái tai lành duy nhất, họ tiến vào khoảnh đất trống rộn ràng tiếng chim hót du dương, ở chính giữa là ngôi đền Hindu hùng vĩ, được tạc, trong những thế kỷ bị lãng quên, lên vách đá khổng lồ độc nhất; tường dập dìu từng dãy phù điêu nam nữ, được miêu tả giao hoan trong những tư thế với độ dẻo dai tột đỉnh và đôi khi, với vẻ kỳ quặc đầy hài hước. Bộ tứ tiến lại kỳ quan này với những bước chân ngỡ ngàng tột độ. Vào bên trong, họ, sau cùng, tìm thấy chỗ nghỉ ngơi dưới cơn mưa bất tận, và pho tượng màu đen cao ngất tạc nữ thần nhảy múa, mà ba gã lính-trẻ-con từ Pakistan nhận ra; nhưng buddha biết: nàng là Kali, phồn thực và đáng sợ, hàm răng còn tàn tích của sơn vàng. Bốn lữ khách nằm xuống dưới chân nàng và chìm vào giấc-ngủ--mưa kéo dài có lẽ phải đến nửa đêm, khi họ đồng thời tỉnh dậy và thấy trước mắt là nụ cười của bốn thiếu nữ diễm lệ bút nào tả xiết. Shaheed, liên tưởng đến bốn houri đợi gã ờ vườn long não, đầu tiên tưởng rằng gã chết trong đêm; nhưng các houri nhìn khá , và sari của họ (họ hề mặc gì bên dưới) bị rừng già làm rách và ố bẩn. Bây giờ tám đôi mắt nhìn nhau, sari được cởi ra, gấp ngay ngắn, và đặt xuống đất; thế rồi những người con khỏa thân và giống nhau như tạc của rừng già đến bên họ, tám tay quấn lấy tám tay, tám chân liền với tám chân; dưới pho tượng Kali nhiều chi, bốn lữ khách đắm mình trong những vuốt ve dường như khá , những nụ hôn và cắn nhàng mà đau đớn, những nhát cào để lại dấu vết, và họ nhận ra rằng đây đây đây chính là thứ họ cần, thứ họ hằng khao khát mà biết, rằng sau khi trải qua tượng hoàn đồng và những nỗi buồn thời thơ ấu của những ngày lạc rừng đầu tiên, sau khi sống sót trước đợt công kích của ký ức và trách nhiệm và nỗi đau lớn hơn của những lời tái kết tội, họ vĩnh viễn bỏ lại tuổi thơ; thế rồi, quên lý trí và hậu quả và bệnh điếc, quên hết thảy, họ lao vào bốn mỹ nữ giống hệt nhau với tâm trí hoàn toàn trống rỗng.

      [2] Nguyên văn: treebeard, danh pháp khoa học là Usnea barbata, dạng địa y, có hính dáng như bộ râu (treebeard nghĩa đen là râu của cây).

      Sau đêm đó, họ thể bứt mình ra khỏi ngôi đền, trừ lúc lùng thức ăn, và hằng đêm những ôn nhu từ giấc mơ thỏa mãn nhất của họ trở lại trong im lặng, lời, luôn gấp sari ngay ngắn, chỉn chu, và lần nào cũng đem bộ tứ lạc lối này đến tột đỉnh phi thường của hợp hoan. ai trong họ biết thời kỳ này kéo dài bao lâu, bởi vì trong rừng Sundarbans thời gian tuân theo những quy luật bí , nhưng cuối cùng cũng đến ngày họ nhìn nhau và nhận ra mình trở nên trong suốt, rằng cơ thể họ có thể nhìn xuyên qua, mặc dù chưa , song lờ mờ, như nhìn vào cốc nước xoài. Trong nỗi kinh hoàng, họ nhận rằng đây chính là trò lừa gạt tối hậu và hiểm độc nhất của rừng già, rằng bằng cách thỏa mãn khát vọng tự đáy lòng họ, nó lừa họ vắt kiệt những giấc mơ của mình, bởi vậy khi cuộc-sống-trong-mơ của họ rỉ ra ngoài, họ trở nên trống rỗng và trong mờ như thủy tinh. Giờ đây buddha nhận ra rằng màu ở côn trùng và đỉa và rắn nhiều khả năng liên quan đến việc bị rừng già tước đoạt những mộng tưởng côn trùng, đỉa và rắn của chúng hơn là bởi thiếu ánh mặt trời... bừng tỉnh, như thể lần đầu tiên trong đời, trước cú sốc của cơ thể trong mờ, họ nhìn ngôi đền bằng con mắt mới, và thấy những vết nứt rộng hoác vách đá, nhận ra những khối đá lớn có thể rời ra và giáng xuống đầu họ bất cứ lúc nào; và rồi, trong góc tối của điện thờ bỏ hoang, họ thấy tàn tích của thứ có lã từng là bốn đống lửa - tàn tro cổ xưa, vết cháy sém đá - mà cũng có thể là bốn giàn thiêu; và giữa mỗi chỗ lại có đống xương , ám đen, bị lửa thiêu nhưng chưa nát vụn.

      Buddha thoát khỏi Sundarbans ra sao: khi họ bỏ chạy khỏi ngôi đền đến chỗ con thuyền, khu rừng ảo ảnh giáng xuống họ ngón đòn sau cùng và khủng khiếp nhất; họ vừa tới chỗ con thuyền nó đến, đầu tiên là tiếng ì ầm ở xa, rồi mau chóng trở thành tiếng gầm đủ sức xuyên thấu cả những đôi tai điếc đặc vì bùn, họ chỉ kịp cởi dây buộc rồi cuống quýt nhảy lên thuyền khi cơn sóng ập đến, và giờ họ hoàn toàn nằm dưới quyền sinh sát của nước, thứ có thể quật họ nát bét vào rặng sundri hay đước hay dừa, nhưng thay vì làm thế, thủy triều cuốn họ xuôi theo những con kênh nâu dậy sóng, bỏ lại sau khu rừng tra tấn họ nhòa thành bức tường xanh khổng lồ; cứ như thể rừng già, chán ngán bốn món đồ chơi, bèn tống chúng thương tiếc ra khỏi lãnh địa của mình; được nước chở , đẩy về phía trước và tiếp tục về phía trước dưới sức mạnh kinh hồn của con sóng, họ nhấp nhô cách tội nghiệp giữa những cành cây gãy và xác rắn lột, để rồi cuối cùng bị hất văng khỏi thuyền khi con sóng rút quật nó vào gốc cây cụt; bị vứt lại khi nước lui giữa ruộng lúa ngập đến thắt lưng, nhưng sống sót; bị quẳng từ trung tâm khu rừng của những giấc mơ, nơi tôi đào tẩu đến với hy vọng tìm thấy bình yên và thấy vừa ít hơn vừa nhiều hơn, trở lại lẫn nữa với thế giới của những đạo quân và ngày tháng.

      Khi họ từ rừng trôi ra, là tháng Mười năm 1971. Tôi buộc phải thừa nhận rằng (nhưng, theo quan điểm của tôi, thông tin này chỉ càng củng cố nghi ngờ của tôi về ma thuật dịch chuyển thời gian của khu rừng) có tài liệu nào ghi chép xuất của cơn sóng thủy triểu trong tháng này, mặc dù, năm trước, lũ lụt quả tàn phá vùng này.



      Trong cơn dư chấn hậu Sundarbans, cuộc đời cũ chờ tái chiếm tôi. Lẽ ra tôi phải sớm biết: đừng hòng trốn tránh những người quen cũ. Ta mãi mãi là ta của quá khứ.

      Trong vòng bảy tháng của năm 1971, ba người lính và con chó săn của họ biến mất khỏi bề mặt cuộc chiến tranh. Tuy nhiên, sang tháng Mười, khi mùa mưa chấm dứt và các toán du kích Mukti Bahini bắt đầu khủng bố các tiền đồn của quân Pakistan; khi các tay súng bắn tỉa của Mukti Bahini bắn hạ cả lính lẫn sĩ quan cấp thấp, bộ tứ chúng tôi xuất từ hư vô và, do có nhiều lựa chọn, cố gắng tái hợp với quân chủ lực của Cánh Tây chiếm đóng Miền Đông. Sau này, khi bị thẩm vấn, buddha luôn giải thích về biến mất của gã với trợ giúp của câu chuyện được cắt xén về việc bị lạc trong khu rừng nơi rễ cây quấn lấy gã như bầy rắn. Có lẽ gã gặp may khi chưa bao giờ bị thẩm vấn chính thức bởi những sĩ quan của đội quân mà gã là thành viên. Ayooba Baloch, Farooq Rashid và Shaheed Dar cũng phải chịu những cuộc thẩm vấn như vậy; nhưng, về phần họ, đó là vì ai sống sót được đến lúc phải trả lời các câu hỏi.

      ... Giữa ngôi làng hoàn toàn bỏ hoang gồm những túp lều tranh, vách trát bùn trộn phân bò - giữa khu dân cư bị ruồng rẫy, đến cả lũ gà cũng bỏ - Ayooba Shaheed Farooq ngồi than thân trách phận. Bị điếc vì thứ bùn độc của rừng mưa, tàn tật lúc này bắt đầu làm họ ức chế đáng kể khi những giọng cay độc của rừng già còn lởn vởn trong khí, họ thở ra những lời than vãn, tất cả tranh nhau , chẳng ai nghe ai; buddha, tuy vậy, buộc phải lắng nghe tất cả: nghe Ayooba, người đứng úp mặt vào góc gian phòng trống trơn, tóc bám đầy mạng nhện, rền rĩ “Tai tôi tai tôi, như có ong vo ve ở trong ấy,” nghe Farooq, người dằn dỗi hét lên, “Rốt cuộc, tại ai? - Ai, có cái mũi cái đếch gì cũng đánh hơi được? Ai bảo Đường kia, và đường kia? – Và rồi ai, ai tin? – về khu rừng và ngôi đền và lũ rắn trong suốt? - Chuyện thế kia mà, Allah, buddha, bọn tao nên bắn mày luôn-và-ngay!” Trong khi Shaheed, yếu ớt, “Tao đói.” lần nữa quay về thế giới thực, họ quên mất những bài học của rừng già, và Ayooba, “Tay tao! Allah, trời, cánh tay khô quắt của tao! Con ma ấy, rỉ nước vào...!” Và Shaheed, “Bọn đào ngũ, họ bảo thế - tay trắng, tù binh, sau ngần ấy tháng! - Allah, khéo có tòa án binh, nghĩ sao, buddha?” Và Farooq, “Đồ chó đẻ, nhìn xem mày đẩy bọn tao đến đâu! Ôi Chúa ơi, quân phục của bọn tao! Mày nhìn , buddha - lôi-thôi-rách-rưới như lũ ăn mày! Thử nghĩ xem ngài Chuẩn tướng - và tay Najmuddin ấy - tao thề đầu mẹ tao là tao - tao phải là đồ hèn! !’’ Và Shaheed, người giết kiến rồi giơ tay lên liếm, “Nhưng mà, làm thế nào để quay lại? Ai biết họ ở đâu, mà chắc gì còn ở đây? Rồi còn bọn Mukti Bahani nữa - pằng!pằng! bọn nó từ chỗ nấp bắn ra, thế là mày chết! Chết, như con kiến!” Nhưng Farooq tiếp tục, “Mà chỉ quân phục, trời ơi, còn tóc nữa! Đây có còn là đầu nhà binh nữa ? Đây, dài kinh người, rủ xuống tai như búi giun? Cái đầu đàn bà này? Allah, họ xử tử bọn mình - bắt đứng dựa tường rồi pằng!pằng! - mày cứ chờ xem!” Nhưng giờ Ayooba-xe- tăng trấn tĩnh lại; Ayooba lấy tay bưng mặt; Ayooba lầm rầm với chính mình, “Hỡi ôi, hỡi ôi. Tao đến đây để chiến đấu với bọn Hindu ăn chay khốn kiếp. Còn đây, là chuyện hoàn toàn khác. chuyện quá sức tồi tệ.”

      Khi ấy vào độ tháng Mười ; họ khá chậm, ngược lên phía Bắc Bắc Bắc, qua những trang báo phất phơ in thứ văn tự vòng vèo kỳ quái, qua những đồng nhà trống, thỉnh thoảng lại qua bà cụ gùi bó củi vai, hoặc nhóm con nít tám tuổi với cái đói láo liên trong mắt và đe dọa của dao găm trong túi, và được nghe chuyện Mukti Bahini thầm di chuyển vùng đất mờ mịt khói này ra sao, những viên đạn vo ve bay đến như ong- từ--trời-rơi-xuống... giờ đến thời điểm bước ngoặt, và Farooq, “Nếu phải tại mày, buddha, Allah, đồ quái thai mắt xanh như ngoại quốc, Chúa ơi, yaar, mày hôi quá!"

      Chúng tôi đều hôi: Shaheed, người (bằng cái gót ủng xơ xác) con bọ cạp dưới nền đất bẩn thỉu của túp lều bỏ hoang; Farooq, lùng tìm cách lố bịch con dao để cắt tóc; Ayooba, gục đầu vào góc lều trong khi con nhện bò dọc đỉnh đầu gã; và cả buddha nữa: buddha, kẻ tỏa mùi hôi ngất giời, nắm chặt cái ống nhổ xỉn màu trong tay phải, và cố gắng nhớ lại tên mình. Và chỉ gọi ra được các biệt danh: Thò Lò, Mặt Nhọ, Hói, Cả Khịt, Mảnh Trăng.



      ... Gã ngồi xếp bằng giữa cơn bão khóc than của nỗi sợ hãi trong lòng đồng bạn, cố ép mình nhớ lại; nhưng , ăn thua. Và cuối cùng buddha, quật cái ống nhổ xuống nền đất, hét lên với những đôi tai điếc: “ - - CÔNG BẰNG!”

      Giữa đống đổ nát của chiến tranh, tôi khám phá ra công-bằng-và-bất-công. Bất công có mùi như hành tây; mùi hăng của nó làm tôi trào nước mắt. Nghẹt trong hương vị cay đắng của bất công, tôi nhớ lại Jamila Ca sĩ cúi xuống bên giường bệnh - của ai? tên gì? - ra sao, đám mề-đay-và-sao cũng có mặt thế nào - em tôi - , phải em tôi! ta - ta , “ ơi, em phải xa hát phục vụ tổ quốc; bây giờ Quân đội trông nom - vì em, mọi người chăm sóc rất, rất chu đáo.” ta đeo mạng; từ sau lớp gấm thêu kim tuyến vàng-và-trắng tôi ngửi thấy nụ cười phản bội của ta; qua tấm sa che mặt ta đặt lên lông mày tôi nụ hôn phục hận; thế rồi ta, người luôn giáng đòn báo thù khủng khiếp lên đầu những kẻ ta nhất, vứt tôi lại trong vòng tay thương hại của đám mề-đay-và-sao... và sau phản bội của Jamila, tôi nhớ đến tẩy chay tôi phải chịu dưới tay Evie Burns; rồi hai cuộc lưu đày, rồi cú lừa dã ngoại; và cả núi đồ sộ những kiện phi lý giày vò đời tôi; và giờ, tôi khóc hận mũi-dưa-chuột, mặt nhọ, chân vòng kiềng, sừng-thái-dương, đầu sư cọ, ngón-tay-cụt, -tai-điếc, và cái ống nhổ làm tê liệt, tẩy não; giờ tôi khóc như mưa, nhưng cái tên vẫn lẩn tránh tôi, và tôi lại thét to - “ công bằng; công bằng, CÔNG BẰNG!” Và, bất ngờ, Ayooba-xe-tăng từ góc nhà bước ra; Ayooba, có lẽ nhớ lại chính lần suy sụp của gã trong rừng Sundarbarns, ngồi xuống trước mặt và quàng cánh tay lành lặn của gã lên cổ tôi. Tôi chấp nhận vỗ về của gã; tôi khóc lên áo gã; nhưng rồi con ong xuất , vo ve bay đến; trong khi gã ngồi quay lưng vào ô cửa sổ kính của ngôi nhà, có gì đó rít lên trong khí oi nồng; trong khi gã bảo, “Coi nào, buddha - thôi mà, buddha - nào, nào!” và trong khi đàn ong khác, đàn ong của bệnh điếc, vo ve trong tai gã, có gì đó chích vào cổ gã. Gã ọc lên tiếng sâu trong cổ họng rồi gục lên người tôi. Viên đạn bắn tỉa giết chết Ayooba Baloch lẽ ra xuyên qua đầu tôi, nếu gã ngồi đó. Bằng cái chết, gã cứu mạng tôi.

      Quên những nhục nhã trong quá khứ; gạt sang bên công-bằng-với-bất-công, và thứ-gì-chữa--được--phải-chịu, tôi bò ra từ bên dưới xác Ayooba-xe-tăng; trong khi Farooq, “Ôi Chúa Ôi Chúa Ôi!” còn Shaheed, “Allah, biết súng của tao có còn...” Và Farooq lại “Ôi Chúa Ôi! Ôi Chúa, làm sao biết thằng chó đẻ ấy nấp ở đâu...!” Riêng Shaheed, y như trong phim, đứng áp sát bức tường cạnh cửa sổ. Tại ba vị trí: tôi ở dưới sàn, Farooq co rúm trong góc nhà, Shaheed dựa lưng vào lớp vữa trộn phân bò: chúng tôi chờ đợi, trong bất lực, xem điều gì xảy ra.

      có phát súng thứ hai; có lẽ tên bắn tỉa, nắm được quân số kẻ thù nấp trong ngôi nhà vách bùn, chỉ bắn phát rồi chuồn. Ba chúng tôi tiếp tục nấp trong ngôi nhà suốt ngày đêm, cho đến khi xác Ayooba Baloch bắt đầu đòi được xử lý. Trước khi , chúng tôi tìm cuốc chim, rồi chôn cất gã... Và sau này, khi quân Ấn đến, chẳng còn Ayooba Baloch để chào đón họ với lý thuyết vì ưu việt của thịt so với rau; chẳng còn Ayooba xông ra đấm đá, miệng hô, “Binh! Bốp! Hự!!”

      Có lẽ như vậy cũng tốt.



      ... Và vào khoảng tháng Mười hai, ba người bọn tôi, cưỡi xe đạp ăn cắp, qua cánh đồng nơi từ đó có thể nhìn thấy thành phố Dacca ở phía chân trời; cánh đồng trồng những hoa màu hết sức kỳ quái, bốc ra mùi hết sức buồn nôn, đến nỗi chúng tôi thể ngồi vững xe. Tụt xuống trước khi ngã khỏi xe, chúng tôi tiến vào cánh đồng khủng khiếp ấy.

      người nông dân tha thẩn mót đồng nát, vừa sục sạo vừa huýt sáo, lưng đeo cái bị cói ngoại cỡ. Các khớp ngón tay trắng bệch nắm chặt cái bị thể tâm trí kiên định, tiếng huýt sáo, chói tai nhưng réo rắt, cho thấy bác giữ tinh thần lạc quan. Tiếng huýt sáo vang vọng cánh đồng, nảy lên từ những chiếc mũ sắt rơi rụng, dội lại trống rỗng từ những nòng súng tắc bùn, chìm lỉm vào những chiếc giày rơi rụng của cánh đồng hoa màu rất rất kỳ quái, với thứ mùi, như mùi của bất công, có khả năng làm buddha trào nước mắt. Hoa màu đều chết, bị bệnh dịch lạ tấn công... và hầu hết, nhưng phải tất cả, mặc quân phục Tây Pakistan. Ngoại trừ tiếng huýt sáo, thanh duy nhất là tiếng các đồ vật rơi vào tay nải báu vật của bác nông dân: thắt lưng, đồng hồ, răng vàng, gọng kính, cặp lồng, bi đông, giày bốt. Bác ta nhìn thấy họ và chạy về phía họ, cười cầu tài, liến thoắng bằng giọng phỉnh phò mà chỉ mình buddha phải nghe. Farooq và Shaheed đờ đẫn nhìn cánh đồng trong khi bác nông dân bắt đầu giải thích.

      “Bắn nhau dữ lắm! Pằng!Pằng!”Bác giơ tay làm bộ bắn súng. Bác thứ tiếng Hindi bập bẹ và cứng nhắc. “Bẩm các ngài! Quân Ấn đến! Bẩm vâng! Bẩm vâng.” - Khắp cánh đồng, loại hoa màu nọ rỉ thứ tủy xương giàu dinh dưỡng vào lòng đất trong khi bác ta, “Đừng bắn con, hỡi các ngài. Bẩm đừng. Con có tin - bẩm, tin nóng hổi! Quân Ấn đến! Jessore thất thủ rồi, thưa các ngài; chỉ -bốn ngày nữa, Dacca, có-hay-?” Buddha lắng nghe; đôi mắt buddha nhìn qua bác nông dân ra cánh đồng. “Khủng khiếp lắm, thưa ngài! Quân Ấn! Chúng có tên lính dũng mãnh, giết chết sáu người lúc, bẻ cổ kẻ thù khựcc-khựcc bằng đầu gối, thưa ngài? Đầu gối - đúng chữ ấy chứ ạ?” Bác vỗ đầu gối. “Con thấy, thưa ngài. Tận mắt, bẩm vâng! chiến đấu bằng súng, hay gươm. Bằng đầu gối, và sáu cái cổ gãy khựcc-khựcc. Ôi Chúa.” Shaheed nôn mửa ra giữa đồng. Farooq Rashid lững thững đến đằng kia cánh đồng và đứng nhìn xác cây xoài. “Chỉ -hai tuần nữa chiến tranh kết thúc, thưa các ngài! Tất cả quay về. Giờ hết rồi, riêng con , thưa các ngài. Quân lính truy lùng Bahini và giết nhiều rất nhiều, cả con trai con. Bẩm vâng, thưa ngài, bẩm quả có vậy.” Ánh mắt buddha trở nên mờ đục. nghe thấy tiếng rền của trọng pháo ở xa xa. Từng cột khói bốc lên nền trời tháng Mười hai màu. Cánh đồng hoa màu kỳ quái vẫn nằm yên, bị gió làm xao động... “Con ở lại, thưa các ngài. Nơi đây con thuộc tên chim muông cây cối. Bẩm vâng. Con tên Deshmukh; chuyên kinh doanh ý tưởng. Con bán nhiều đồ rất xịn. Ngài cần chứ? Thuốc táo bón, cực tốt, bẩm vâng. Con có. Đồng hồ phát quang trong bóng tối, ngài cần? Con cũng có. Rồi sách, bẩm vâng, rồi đồ chơi khăm. Trước con rất nổi tiếng ở Dacca. Bẩm vâng, thực đấy - Đừng bắn.”

      Nhà buôn ý tưởng tiếp tục huyên thuyên, mời chào hết thứ này đến thứ khác, tỉ như chiếc thắt lưng thần kỳ cho phép người đeo tiếng Hindi - “Con đeo đây, thưa ngài, quá ngon, phỏng ạ? Quân Ấn nhiều mua lắm, họ đủ các thử tiếng khác nhau, đây là vật Trời ban!” - và rồi bác ta đế ý thấy vật buddha cầm tay. “Bẩm ngài! Quả là tuyệt tác! Bằng bạc ạ? Đá quý ạ? Ngài đưa; con đưa đài phát thanh, máy ảnh, gần như hoạt động tốt, thưa ngài! Giá vậy quá hời, thưa ngài. Đổi lấy mỗi cái ổng nhổ, quá tốt. Bẩm vâng. Bẩm vâng, thưa ngài, ta vẫn phải sống; vẫn phải buôn bán, thưa ngài, phỏng ạ?”

      “Hãy kể thêm,” buddha , “ về tên lính đánh nhau bằng đầu gối.”

      Nhưng giờ, lần nữa, tiếng ong vo ve; ở đằng xa, đầu kia cánh đồng, có người quỵ xuống, trán người gục xuống đất như thể cầu nguyện; và ở giữa cánh đồng, cây hoa màu, mới đây vẫn còn sống đủ để bắn, cũng trở nên hoàn toàn bất động. Shaheed Dar hét lên cái tên:

      “Farooq! Bớ Farooq!”

      Nhưng Farooq nhất định trả lời.

      Sau này, khi hồi tưởng về cuộc chiến với chú Mustapha, buddha kể lại gã chạy vấp lên vấp xuống cánh đồng ứa rỉ tủy xương tới chỗ người đồng đội gục ngã ra sao; và, còn cách rất xa cái xác cầu nguyện của Farooq, gã bị chặn lại bởi bí mật khủng khiếp nhất của cánh đồng thế nào.

      Ở giữa cánh đồng, có kim tự tháp . Kiến bò đó, nhưng đó phải là tổ kiến. Kim tự tháp có sáu chân và ba đầu và, ở giữa, khối bùng nhùng tạo thành bởi những mẩu thân người, những mảnh quân phục, những đoạn ruột và lấp ló những xương vỡ. Kim tự tháp vẫn còn sống. trong ba cái đầu bị chột mắt trái, di sản của vụ cãi vã hồi bé. cái khác có mái tóc dính bết dầu bóng. Cái đầu thứ ba kỳ quái nhất: nó có hai hốc lõm sâu ở chỗ đáng ra là thái dương, hai hốc lõm hẳn là do kẹp forcep cùa bác sĩ phụ khoa gây ra vì kẹp cái đầu quá chặt khi đỡ đẻ... chính cái đầu thứ ba này chuyện với buddha:

      “Ê mày,” nó , “Mày làm cái quái gì ở đây thế?”

      Shaheed Dar thấy kim tự tháp của quân địch trò chuyện với buddha; Shaheed, bỗng nhiên bị sức mạnh phi lý thôi thúc, nhào lên người tôi và đè tôi ngã ngửa ra, quát, “Mày là ai? Gián điệp? Phản động? Hả? – Tại sao chúng lại biết mày là…?” Trong lúc Deshmukh, nhà buôn ý tưởng, xoắn xuýt cách tội nghiệp quanh chúng tôi, “Bẩm các ngài! Đánh nhau như vậy là đủ lắm rồi. Bình tĩnh , thưa các ngài. Tôi xin đấy. Lạy Chúa.”

      Kể cả Shaheed có tỉnh táo để lắng nghe, tôi khi đó cũng thể cho gã biết điều sau này tôi tin là : rằng động cơ của cuộc chiến tranh này nhằm tái hợp tôi với cuộc đời cũ, nhằm đưa tôi gặp lại cố nhân. Sam Manekshaw hành quân đến Dacca để gặp người bạn cũ – con Cọp; và các chế độ liên kết tiếp tục hoạt động, bởi vì cánh đồng ứa rỉ tủy xương, tôi được nghe kể về cặp đầu gối sát thủ và được chào đón bởi mộ kim tự tháp ba đầu chết; và tại Dacca tôi sắp được gặp Parvati-phù-thủy.

      Khi Shaheed bình tâm lại và buông tôi ra, kim tự tháp còn chuyện được nữa. Cuối chiều hôm đó, chúng tôi tiếp tục hành trình về thủ đô. Deshmukh, nhà buôn ý tưởng, hoan hỉ gọi với theo: “Bẩm các ngài! Bẩm các ngài tội nghiệp! Ai biết được bao giờ người chết? Ai, thưa các ngài, biết được vì sao?”

    4. banglangtrang123

      banglangtrang123 Well-Known Member Staff Member Super Moderator

      Bài viết:
      26,213
      Được thích:
      47,825
      Chương 26: Sam và con Cọp




      Đôi khi, núi non phải đổi dời để cố nhân được tái ngộ. Ngày 15 tháng Chín năm 1971, tại thủ đô của nước Bangladesh vừa giải phóng, Tiger (Cọp) Niazi đầu hàng ông bạn cố tri Sam Manekshaw; trong khi tôi, về phần mình, tự nộp mình vào vòng tay có cặp mắt tròn xoe, mái tóc đuôi ngựa như sợi thừng đen bóng, và đôi môi ngày ấy còn chưa có cái dáng bĩu ra đặc trưng của sau này. Hai cuộc tái ngộ này đến cách dễ dàng; và để tỏ lòng kính trọng đến tất cả những ai biến chúng thành , tôi tạm dừng câu chuyện, trong giây lát, nhằm làm những tại sao và những vì đâu.

      Vậy , hãy cho phép tôi được tuyệt đối minh xác: nếu Yahya Khan và Z.A. Bhutto đồng mưu thực cuộc chính biến ngày 25 tháng Ba, tôi được mặc thường phục bay tới Dacca; và, trong mọi tình huống, Tướng Tiger Niazi cũng có mặt tại đây vào tháng Mười hai. Để tiếp tục: việc Ấn Độ can thiệp vào xung đột ở Bangladesh cũng là kết quả của tương tác giữa những thế lực lớn lao. Có lẽ, nếu mười triệu người vượt biên sang Ấn Độ, buộc nhà cầm quyền Delhi phải chi phí 200.000.000$ tháng cho các trại tị nạn - cuộc chiến năm 1965, mà mục đích bí mật là tận diệt gia đình tôi, chỉ tiêu tốn của họ 70.000.000$! - các binh sĩ Ấn Độ, dưới chỉ huy của Tướng Sam, chẳng bao giờ vượt qua biên giới theo chiều ngược lại. Nhưng Ấn Độ đến còn vì nhiều động cơ khác: bởi tôi sắp được biết, từ các ảo thuật gia Cộng sản sinh sống dưới bóng Thánh đường Thứ Sáu ở Delhi, giới sarkar[1] tại Delhi hết sức quan ngại về ảnh hưởng suy giảm của Liên đoàn Awami của Mujib cũng như việc phong trào Mukti Bahini ngày càng lan rộng; Sam và con Cọp gặp nhau ở Dacca là để ngăn chặn Bahini gia tăng quyền lực. Vì thế nên, nếu nhờ Mukti Bahini, có lẽ Parvati-phù-thủy cũng chẳng bao giờ tháp tùng quân Ấn trong chiến dịch “giải phóng” của họ... Nhưng đấy cũng chưa phải là lời giải thích đầy đủ. nguyên nhân thứ ba buộc Ấn Độ phải can thiệp là do lo sợ tình trạng hỗn loạn ở Bangladesh, nếu được khống chế kịp thời, lan rộng qua biên giới sang Tây Bengal; cho nên Sam và con Cọp, cũng như Parvati và tôi, phải mang ơn, ít ra là phần, những yếu tố bất ổn của tình hình chính trị Tây Bengal về cuộc hội ngộ của chúng tôi: thất bại của con Cọp chỉ là mở đầu của chiến dịch chống lại cánh Tả ở Calcutta và căn cứ địa của phe này.

      [1] Tiếng Urdu, có nghĩa là người có quyền lực, địa vị.

      Dù sao nữa, Ấn Độ đến; và thần tốc của cuộc hành quân này - bởi vì chỉ trong có ba tuần Pakistan mất nửa hải quân, phần ba lục quân, phần tư quân, và cuối cùng, sau khi con Cọp đầu hàng, hơn nửa dân số của mình - lần nữa lại có phần công sức của Mukti Bahini; bởi vì, có lẽ do ngây thơ, nhận ra rằng việc Ấn Độ xuất quân vừa nhằm tấn công lực lượng chiếm đóng của Cánh Tây vừa là nước cờ chiến thuật chống lại chính họ, quân Bahini mách nước cho Tướng Manekshaw về cách hành binh của quân Pakistan, về các điểm mạnh và điểm yếu của con Cọp; và cả đóng góp của Ngài Chu Ân Lai, người từ chối (bất chấp van nài của Bhutto) cung cấp bất kỳ khoản viện trợ vật chất nào cho Pakistan trong cuộc chiến. Bị khước từ vũ khí Trung Quốc, Pakistan chiến đấu bằng súng Mỹ, xe tăng và máy bay Mỹ; Tổng thống Hoa Kỳ, mình cả thế giới, quyết tâm “ngả” về phía Pakistan. Trong khi Henry A. Kissinger tranh cãi về trường hợp của Yahya Khan, chính ngài Yahya này bí mật thu xếp chuyến thăm nhà nước nổi tiếng của Tổng thống Hoa Kỳ đến Trung Quốc... thế nghĩa là có những thế lực ghê gớm vận động chống lại cuộc tái hợp của tôi với Parvati và Sam với con Cọp; nhưng bất chấp ngài Tổng thống ngả nghiêng, chỉ còn vỏn vẹn ba tuần nữa thôi tất cả kết thúc.

      Vào đêm 14 tháng Mười hai, Shaheed Dar và buddha vòng quanh khu vực ngoại vi của thành Dacca bị vây hãm; nhưng cái mũi của buddha (quý vị chắc vẫn chưa quên) có khả năng đánh hơi vượt trội. Dưới chỉ dẫn của cái mũi có thể ngửi thấy an toàn và nguy hiểm, họ tìm được đường xuyên qua vòng vây của quân Ấn và tiến vào thành phố dưới yểm trợ của bóng tối. Trong khi họ lẩn lút qua những con phố bóng người ngoại trừ vài kẻ ăn xin chết đói, con Cọp thề chiến đấu đến người cuối cùng; nhưng hôm sau, ông ta lại đầu hàng. Điều chẳng ai biết: người cuối cùng này có cảm cái ơn tha mạng hay lại hậm hực vì lỡ mất cơ hội được vào vườn long não.

      Thế là tôi trở lại cái thành phố nơi, trong những giờ phút cuối cùng trước những cuộc hội ngộ, Shaheed và tôi chứng kiến những điều phải là , thể là , vì các chàng trai của chúng ta thể nào chẳng thể nào hành động đồi bại đến thế; chúng tôi nhìn thấy những người đàn ông đeo kính, đầu hình trứng[2] bị bắn trong các ngõ phố, chúng tôi chứng kiến giới trí thức của thành phổ bị thảm sát hàng trăm người , nhưng chuyện ấy bởi vì nó thể là , con Cọp, cho cùng, là tay quân tử, trong khi các jawan của chúng ta đều đáng mười tên babu, chúng tôi giữa ảo cảnh hoang đường này của đêm, nấp sau những ô cửa khi lửa nở bừng như những vườn hoa, làm tôi nhớ lại cái cách con Khỉ Đồng thường châm lửa đốt giày để tìm kiếm chú ý, có những người bị cắt cổ và vùi dưới những nấm mồ bia, và Shaheed bắt đầu, “, buddha - kinh khủng quá, Allah, em thế tin vào mắt mình - , phải thế, làm sao có thể - buddha, , cái gì lọt vào mắt em thế này?” Và sau cùng buddha lên tiếng, biết rằng Shaheed nghe được: “Ôi, Shaheeda,” gã , thể chán ghét sâu xa, “con người đôi khi phải chọn cái mình thấy và cái mình thấy; quay mặt , quay mặt đừng nhìn nữa.” Nhưng giờ Shaheed trân trối nhìn maidan[3] nơi các nữ bác sĩ bị đâm bằng lưỡi lê trước khi bị hiếp, rồi bị hiếp lần nữa trước khi bị bắn. đầu họ và sau lưng họ, ngọn tháp trắng lạnh củạ thánh đường mù lòa nhìn xuống cảnh tượng ấy.

      [2] Egghead (đầu trứng) là từ lóng chỉ giới tri thức. Rushdie rất thích dùng chữ này (xem thêm Haroun và Biển truyện, Nhã Nam và NXB Văn học liên kết xuất bản năm 2010).

      [3] Tiếng Urdu, nghĩa là quảng trường.

      Như thể cự với mình, buddha lẩm bẩm, “Cái cần nhất lúc này là tìm cách bảo toàn tính mạng; Chúa mới biết vì sao chúng ta quay lại.” Gã bước qua ngưỡng cửa ngôi nhà bỏ hoang – lớp vỏ vỡ nát, bong tróc của kiến trúc đồ sộ từng chứa quán trà, tiệm sửa xe đạp, nhà chứa và chiếu nghỉ bé tí chắc hẳn từng là chỗ ngồi của công chứng viên, vì vẫn còn đó chiếc bàn thấp nơi bác ta vứt lại cặp kính nửa tròng, còn đó những con dấu và xấp tem thời cho phép bác chỉ là ông già vô danh - tem và dấu biến bác thành trọng tài phân định cái gì là và cái gì . Người công chứng viên vắng mặt, vì thế tôi thể cầu bác chứng thực những gì xảy ra, tôi thể đưa ra lời khai có tuyên thệ; nhưng manh chiếu phía sau cái bàn của bác là chiếc áo rộng và suôn như tấm djellabah, và chần chừ gì nữa tôi trút bỏ quân phục, kể cả phù hiệu chó cái của đội CUTIA, và biến thành người vô danh, kẻ đào ngũ, giữa thành phố mà ngôn ngữ của nó tôi hề biết.

      Shaheed Dar, tuy vậy, vẫn đứng ngoài phố; dưới tia sáng ban mai đầu tiên, gã chứng kiến quân lính lẩn lút rút khỏi những-điều-chưa-hề-xảy-ra; và rồi quả lựu đạn bay đến. Tôi, buddha, vẫn ở trong ngôi nhà trống; nhưng Shaheed có được bảo vệ của những bức tường.

      Khó mà biết tại sao thế nào do ai; nhưng có điều chắc chắn là quả lựu đạn được ném ra. Vào khoảnh khắc sau cùng của sinh mệnh chưa-bị-xẻ-đôi của gã, Shaheed đột nhiên thể cưỡng nổi cơn thôi thúc phải nhìn lên... sau đó, ở chuồng bồ câu của người muezzin, gã bảo buddha, “Lạ lắm, Allah - quả lựu ấy - trong đầu em, cứ như thế, chưa bao giờ nó to và sáng thế - biết đấy, buddha, như cái bóng đèn - Allah, em biết làm gì, chỉ biết nhìn thôi!” - Và đúng thế, nó đấy, lơ lửng đầu gã, quả lựu đạn trong giấc mơ của gã, lơ lửng ngay đầu gã, rồi rơi rơi, phát nổ ngang lưng gã, thổi bay đôi chân gã đốn phần nào đó của thành phố.

      Khi tôi chạy đến, Shaheed vẫn còn tỉnh, dù bị cắt đôi người, và chỉ tay, “Đưa em lên đó, buddha, em muốn lên em muốn,” thế nên tôi mang thứ giờ đây chỉ còn là nửa gã trai (và do vậy khá ) theo cây cầu thang xoắn ốc hẹp leo lên đỉnh ngọn tháp trắng lạnh, nơi Shaheed lảm nhảm về những bóng đèn trong lúc hai đàn kiến đen và kiến đỏ đánh nhau giành con gián chết, giao tranh dữ dội dọc theo những rãnh sàn bê tông trát dối bằng bay. Bên dưới, giữa những ngôi nhà cháy đen, kính vỡ và khói mù, những con người như kiến ló ra, chuẩn bị cho hòa bình; tuy nhiên, bầy kiến, phớt lờ những kẻ-giống-kiến, tiếp tục chiến đấu. Và buddha: gã đứng yên ánh mắt mờ đục nhìn xuống chung quanh, đặt mình vào vị trí giữa nửa người của Shaheed và món đồ vật duy nhất trong cái tổ chim này: cái bàn thấp ở đặt chiếc máy quay đĩa nối với loa phóng thanh. Buddha, đứng chắn cho người bạn đồng hành còn nửa khỏi vỡ mộng vì nhìn thấy vị muezzin cơ khí hóa này (chủ nhân của tiếng gọi cầu nguyện luôn bị vấp ở những chỗ giống nhau), rút trong vạt áo choàng lùng thùng ra vật lấp lánh, rồi hướng ánh nhìn mờ đục của gã vào cái ống nhổ bạc. Chìm trong dòng suy tưởng, gã giật mình khi tiếng thét vang lên; ngẩng nhìn và thấy con gián bị vứt bỏ. (Máu rỉ theo những rãnh bê tông; bầy kiến, lần theo vệt sẫm màu sền sệt này, tìm đến nguồn chất lỏng ứa ra, và Shaheed bày tỏ phẫn nộ khi trở thành nạn nhân của chỉ , mà hai cuộc chiến tranh.)

      Chạy đến giải cứu, đôi chân nhảy múa bầy kiến, buddha vô tình huých khuỷu tay vào cái công tắc; hệ thống loa được bật lên, và kể từ đó người dân Dacca bao giờ quên chuyện thánh đường rú lên nỗi đau đớn hãi hùng của chiến tranh.

      Sau lúc, im lặng. Đầu Shaheed gục về phía trước. Còn buddha, sợ bị phát , liền giấu cái ống nhổ và leo xuống thành phố khi Quân đội Ấn Độ tiến vào; bỏ lại Shaheed, người còn lấy thế làm phiền, để giúp vui cho bữa tiệc hòa giải của loài kiến, tôi hòa mình vào phố phường buổi sớm để chào đón Tướng Sam.

      Lúc ở tháp, tôi nhìn cái ống nhổ bằng ánh mắt mờ đục; nhưng tâm trí của buddha khi đấy trống rỗng. Nó chứa đựng ba chữ, mà nửa của Shaheed cũng liên tục nhắc lại, cho tới khi bầy kiến: chính ba chữ từng, sặc sụa mùi hành, làm tôi nức nở vai Ayooba Baloch - cho đến khi con ong, vo ve... “ công bằng,” buddha nghĩ, và rồi, như đứa trẻ, nhắc nhắc lại, “ công bằng,” hết lần này đến lần khác.

      Shaheed, bằng việc hoàn thành tâm nguyện thiết tha của người cha, cuối cùng xứng với tên gã; nhưng buddha vẫn thể nhớ nổi tên mình.



      Buddha tìm lại tên gã ra sao: Ngày xưa, lâu rồi, vào ngày độc lập khác, cả thế giới mang màu xanh và nghệ. Sớm nay, ba màu chủ đạo là xanh, đỏ và vàng. Và các thành phố reo vang “Jai Bangla!” Và phụ nữ cất lên tiếng hát “Bengal Hoàng Kim Của Chúng Ta”, làm tim họ mê cuồng nỗi hân hoan... tại trung tâm thành phố, bục dành cho kẻ chiến bại, tướng Tiger Niazi chờ đợi Tướng Manekshaw. (Lý lịch trích ngang: Sam là người Parsee. Ông ta quê ở Bombay. Dân Bombay hôm ấy được bữa vui ra trò.) Giữa biển màu xanh và đỏ và vàng, buddha trong tấm áo choàng vô danh lùng thùng bị đám đông xô đẩy; thế rồi, Ấn Độ đến. Ấn Độ, dẫn đầu là Sam.

      Đây có phải là ý tưởng của Sam? Thậm chí của Indira? - Né tránh những câu hỏi vô ích này, tôi chỉ ghi nhận rằng cuộc hành quân của Ấn Độ vào Dacca vượt xa cuộc diễu binh thuần túy; để xứng đáng với chiến thắng, nó được tô điểm bằng những màn tạp kỹ. chiếc quân vận cơ đặc biệt của I.A.F. bay tới Dacca mang theo trăm lẻ nghệ nhân tạp kỹ và thuật sĩ xuất sắc nhất mà Ấn Độ có thể sản sinh ra. Từ ghetto lừng danh của giới ảo thuật Delhi họ đến đây, nhiều người, nhân dịp này, khoác lên bộ đồng phục có sức gợi mạnh mẽ của các fauj Ấn Độ, khiến nhiểu người dân Dacca nảy sinh suy nghĩ thắng lợi của Ấn Độ từ đầu là tất yếu, bởi ngay các jawan mặc đồng phục của họ cũng là các pháp sư cao tay ấn nhất. Các nhà ảo thuật và các nghệ nhân khác diễu hành cạnh đoàn quân, mua vui cho đám đông; có các diễn viên nhào lộn xếp hình kim tự tháp những cỗ xe do bò thiến trắng kéo; những nữ nghệ sĩ uốn dẻo phi thường có thể nuốt chân mình đến tận đầu gối; những nghệ sĩ tung hứng biểu diễn vượt khỏi quy luật của trọng lực, khiến đám đông phấn khích mắt chữ o mồm chữ a khi họ tung hứng lựu đạn đồ chơi, và giữ bốn trăm hai mươi quả cùng lúc; những tay thần bài có thể rút quân bài nữ hoàng của chiriya (chúa tể của muôn chim, vương hậu của chất nhép[4]) ra từ sau tai phụ nữ; có vũ công lừng danh Anarkali, cái tên nghĩa là “hoa lựu”, biểu diễn những màn bật nhảy uốn éo xoay vòng cỗ xe lừa với chiếc khuyên bạc khổng lồ, kêu leng keng lỗ mũi bên phải; có Đại sư Vikram, nghệ nhân sitar, cây đàn có quyền năng hưởng ứng và phóng đại những cảm xúc mơ hồ nhất trong tim khán giả, đến nỗi có lần (người ta đồn thế) ông từng chơi đàn trước nhóm khán giả rất bực bội, và kích thích tâm trạng ức chế ở họ mãnh liệt đến nỗi, nếu người chơi tabla[5] ngăn khúc raga của ông lại giữa chừng súc mạnh từ tiếng đàn của ông hẳn xui khiến tất cả rút dao đâm nhau và phá sập cả khán phòng... hôm nay, tiếng đàn của Đại sư Vikram khơi dậy niềm hoan hỉ ăn mừng của người dân tới đỉnh điểm; nó làm tim họ, ta hãy rằng, mê cuồng nỗi hân hoan.

      [4] Ở đây tức là con Q nhép. Ở miền Bắc Ấn Độ, chất nhép tượng trưng cho loài chim (chiriya).

      [5] loại trống trong nhạc dân gian Ấn Độ.

      Và có cả Picture Singh bằng xương bằng thịt, người khổng lồ cao hai mét và nặng tạ, nổi tiếng là Người Đàn Ông Dụ Hoặc Nhất Thế Gian nhờ thuật mê hoặc rắn độc nhất vô nhị. Tài năng của ngay cả những tubriwaliah huyền thoại của Bengal cũng thể vượt qua; sải bước, giữa đám đông rú lên hớn hở, từ đầu đến chân quấn đầy rắn hổ mang, rắn lục, rắn cạp nong chết người, tất cả vẫn còn nguyên túi nọc... Picture Singh, nhân vật sau cùng trong danh sách những người sẵn lòng trở thành cha tôi... và ngay sau là Parvati-phù-thủy.

      Parvati-phù-thùy mua vui cho đáp đông với đạo cụ là cái giỏ lớn có nắp, đan bằng liễu gai; những khán giả tình nguyện hớn hở chui vào giỏ, và Parvati làm họ biến mất triệt để đến nỗi họ chỉ có thể quay lại khi muốn; Parvati, người được nửa đêm ban tặng ma thuật chân chính, sử dụng nó để phục vụ cái nghề nghiệp tầm thường của ảo thuật gia; đâm ra ai cũng hỏi , “Mà em làm thế nào vậy?” Và, “Thôi nào, em xinh đẹp, tiết lộ , việc gì mà ngại?” - Parvati, tươi cười rạng rỡ lăn lăn cái giỏ ma thuật của , tiến về phía tôi cùng đoàn quân giải phóng.

      Quân đội Ấn Độ tiến vào thị trấn, những người hùng cùa nó theo chân các ảo thuật gia; trong số đó, về sau tôi được biết, có cả gã chiến thần nọ, tên Thiếu tá mặt chuột với cặp đầu gối sát thủ... nhưng lúc này các ảo thuật gia xuất ngày nhiều, bởi những thuật sĩ sống sót của thành phố chui ra từ chỗ trốn, và bắt đầu cuộc đua tài tuyệt vời, tìm cách vượt mặt mỗi và mọi màn biểu diễn của các ảo thuật gia phương xa; nỗi đau của thành phố được gột rửa và nguôi ngoai dưới trận phun trào tươi tắn của ma thuật mà họ đem lại. Thế rồi Parvati-phù-thủy nhìn thấy tôi, và trả lại tên cho tôi.

      “Saleem! Ôi trời ơi Saleem, Saleem Sinai, có phải cậu Saleem?”

      Buddha giật mình, ngơ ngác như con rối. Mắt đám đông nhìn chòng chọc. Parvati sấn lại gần gã. “Này, đích thị là cậu rồi!” Đôi mắt tròn xoe tìm kiếm trong vùng xanh mờ đục. “Lạy Chúa, cái mũi này, tớ có ý gì đâu, nhưng đích thị rồi! Này, tớ đây, Parvati đây! Ôi Saleem, đừng có ngớ ra thế, coi nào coi nào...!”

      “Đúng rồi,” buddha . “Saleem: đúng rồi.”

      “Ôi Chúa ơi, vui quá là vui!” kêu lên, “Arre baap, Saleem, cậu nhớ - Lũ Trẻ, yaar, Ôi, hay quá mất! Mà sao mặt cậu nghiêm trọng thế, trong khi tớ chỉ muốn ôm cậu đến vỡ vụn ra? Bao nhiêu năm tớ chỉ nhìn thấy cậu ở đây,” gõ vào trán, “và giờ cậu đứng đây, mặt nghệt ra như cá. Nào, Saleem! Coi kìa, ít nhất cũng chào nhau câu chứ.”



      Ngày 15 tháng Mười hai năm 1971, Tiger Niazi đầu hàng Sam Manekshaw; con Cọp với chín mươi ba nghìn quân Pakistan trở thành tù binh chiến tranh. Tôi, trong khi đó, trở thành tù nhân tự nguyện của các ảo thuật gia Ấn Độ, bởi Parvati lôi tuột tôi vào đoàn diễu hành và bảo, “Giờ tìm thấy đây rồi đừng hòng tớ thả cậu .”

      Đêm đó, Sam và con Cọp uống bằng chota-peg[6] và hồi tưởng về thời trong Quân đội . “ , Cọp ạ,” Sam Mankeshaw , “ông đầu hàng như thế rất có phong độ.” Và con Cọp, “Sam, ông đánh trận ác chiến đấy.” vầng mây lướt qua gương mặt của Tướng Sam, “Nghe này, chiến hữu: có những lời đơm đặt khủng khiếp. Về thảm sát, ông bạn ạ, mộ tập thể, các biệt đội tên là CUTIA hay quái quỷ gì đó, được đào tạo nhằm mục đích nhổ tận gốc những phần tử đối lập... chuyện này chứ hả?” Và con Cọp, “Biệt đội Liệp Khuyển chuyên Săn lùng và Hoạt động tình báo? Chưa nghe bao giờ; ông bị lỡm rồi, ông bạn già. Tình báo hai bên làm ăn lởm quá. , lố bịch, lố bịch hết sức, ông bỏ quá!” “Đây cũng nghĩ thế,” Tướng Sam đáp, “tôi , Cọp ạ, gặp lại ông quá hay, lão quỷ già!” Và con Cọp “Bao nhiêu năm rồi, nhỉ, Sam? Lâu lắm rồi.”

      [6] loại ly để uống rượu, đặc trưng ở Ấn Độ thời kỳ thuộc địa.

      “... Trong khi những người bạn cũ hát “Auld Lang Syne” trong nhà ăn của sĩ quan, tôi thực cuộc đào tẩu khỏi Bangladesh, khỏi những năm tháng Pakistan của tôi. “Tớ giúp cậu trốn,” Parvati bảo sau khi tôi giải thích. “Cậu muốn cực kỳ bí mật hả?’

      Tôi gật đầu. “Cực kỳ bí mật."

      Đâu đó trong thành phố, chín mươi ba nghìn lính Pakistan chuẩn bị lên xe đến trại P.O.W.[7]; nhưng Parati-phù-thủy bắt tôi trèo vào cái giỏ liễu gai có nắp đậy khít. Sam Manekshaw buộc phải ra lệnh quản thúc bảo vệ đối với con Cọp; nhưng Parvati-phù-thủy trấn an tôi, “Thế này họ đời nào tóm được cậu.”

      [7] Prisoners of War (tù binh chiến tranh).

      Đằng sau trại lính, nơi các ảo thuật gia chờ lên máy bay để quay về Delhi, Picture Singh, Người Đàn Ông Dụ Hoặc Nhất Thế Gian, đứng cảnh giới cho tôi, tối hôm đó, trèo vào chiếc giỏ tàng hình. Chúng tôi đứng tha thẩn, hút biris, và đợi đến khi thấy bóng người lính nào, trong khi Picture Singh kể tôi nghe về tên mình. Hai mươi năm trước, nhiếp ảnh gia của Eastman-Kodak chụp ảnh – bức ảnh, ngập trong nụ cười và bầy rắn, về sau xuất phân nửa số áp phích quảng cáo và quầy trưng bày của Kodak tại Ấn Độ; kể từ đó, người dụ rắn lấy cái biệt danh tại. “Chú nghĩ sao hỉ, đội trưởng?” gầm gừ thân thiện. “Tên hay đấy chứ, hỉ? Biết làm sao, đội trưởng, chịu chả nhớ nổi cái tên cũ, hồi xưa, tên cha mẹ đặt cho ấy! Đần hỉ, đội trưởng?” Nhưng Picture Singh đần; và tài mê hoặc mới chỉ là phần . Bỗng nhiên, vẻ thân thiện ngái ngủ, suồng sã trong giọng biến mất; thầm, “Mau! Mau, đội trưởng, ek dum, cực nhanh !” Parvati nhấc nắp ra; tôi cắm đầu lao vào cái giỏ bí hiểm của . Cái nắp đậy xuống, che khuất nốt chút ánh sáng cuối ngày.

      Picture Singh thầm, “Ô kê, đội trưởng - ngon rồi!” Parvati cúi xuống gần tôi; môi hẳn là áp sát mặt ngoài cái giỏ. Những gì Parvati-phù-thủy thào qua lớp liễu gai:

      “Này, Saleem: nghĩ mà xem, bạn! Cậu và tớ - những đứa con của nửa đêm, yaar! Oách đấy chứ, hả?”

      Oách đấy chứ... Saleem, bị bao trùm trong bóng tối của liễu gai, hồi tưởng về những nửa đêm của nhiều năm trước, về những cuộc vật lộn tuổi thơ với mục đích và ý nghĩa; lòng tràn ngập nỗi hoài nhớ, tôi vẫn thể cắt nghĩa nổi cái oách ấy là gì. Rồi Parvati lầm rầm gì đó, và, bên trong chiếc giỏ tàng hình, tôi, Saleem Sinai, cùng tấm áo choàng vô danh lùng thùng, biến mất vào hư .

      “Biến mất? Biến mất thế nào, biến mất là sao?” đầu Padma giật nảy lên; mắt Padma ngơ ngác nhìn tôi chằm chằm. Tôi, nhún vai, thản nhiên nhắc lại: Biến mất, thế thôi. Tan biến. Tiêu biến. Như tinh ấy: bụp, xong.

      “Thế,” Padma cật vấn tôi, “ ấy đích thực quả là phù thủy à?”

      Đích thực quả . Tôi ở trong giỏ, nhưng cũng ở trong giỏ; Picture Singh nhấc nó lên bằng tay và tống nó lên thùng chiếc xe tải Quân đội chở và Parvati và chín mươi chín người khác ra chiếc chuyên cơ chờ ngoài sân bay quân ; tôi bị ném lên cùng cái giỏ, nhưng cũng bị ném lên. Về sau, Picture , “, đội trưởng, cảm thấy sức nặng của chú”; trong khi tôi cũng chẳng cảm thấy chút thịch uỵch bịch nào. trăm lẻ nghệ sĩ đến đây, bằng quân vận cơ của I.A.F., từ thủ đô của Ấn Độ; trăm lẻ hai người trở lại, mặc dầu người trong số họ vừa ở đó vừa ở đó. Phải, thần chú thỉnh thoảng cũng linh nghiệm. Nhưng cũng có khi : cha tôi, Ahmed Sinai, chưa lần thành công trong việc nguyền rủa Sherri, con chó cái lai.

      hộ chiếu hay giấy phép, tôi quay lại, dưới tấm áo choàng tàng hình, xứ sở nơi tôi sinh ra; tin hay tùy quý vị, nhưng ngay cả người hoài nghi cũng phải đưa ra cách giải thích khác cho việc tôi có mặt tại đây. Chẳng phải Caliph Haroun al-Rashid (ở thiên truyền kỳ ra đời sớm hơn) cũng từng lang thang, vô danh vô hình vô tướng, khắp phố phường Baghdad trong lớp áo choàng? Điếu Haroun làm được phố phường Baghdad, Parvati-phù-thủy biến thành thực với tôi khi chúng tôi bay xuyên những tuyến hàng của tiểu lục địa. làm được; tôi trở nên vô hình; bas. Chấm hết.

      Hồi ức về vô hình: ở trong giỏ, tôi được biết cảm giác chết là như thế nào, như thế nào. Tôi có được đặc tính của bóng ma! Tồn tại, nhưng phi vật chất; hữu, nhưng có thực thể và trọng lượng... tôi khám phá ra, từ trong giỏ, cách hồn ma nhìn thế giới. Mập mờ nhòa nhạt mơ hồ... nó tổn tại quanh tôi, nhưng chỉ hơi thôi; tôi lơ lửng trong khối cầu của --diện, và tại rìa của nó, tôi có thể thấy, như những hình ảnh phản chiếu mờ mờ, bóng ma của lớp liễu gai. Người chết chết , và dần bị lãng quên, thời gian hàn gắn vết thương, và họ nhạt nhòa - nhưng trong cái giỏ của Parvati tôi nhận ra rằng điều ngược lại cũng đúng; rằng cả hồn ma cũng bắt đầu quên; rằng người chết cũng mất dần hồi ức về người sống, và sau cùng, sau khi bị tách khỏi sống, họ mờ nhạt – rằng chết, tóm lại, vẫn tiếp diễn thời gian dài sau cái chết. Sau này, Parvati bảo, “Tớ muốn với cậu - ai nên tàng hình lâu như thế - nguy hiểm lắm, nhưng biết làm thế nào được?”

      Dưới pháp thuật của Parvati, tôi cảm thấy thế giới trôi tuột khỏi nắm bắt của bản thân - và dễ dàng, bình yên biết mấy, nếu bao giờ phải trở lại! – nếu có thể trôi nổi giữa vùng mây mù vô định ấy, phiêu dạt xa hơn xa nữa xa mãi, như bào tử bị gió thổi bay - tóm lại, tôi đứng giữa sống và cái chết.

      Thứ mà tôi bấu víu vào trong -gian-và-thời-gian ma mị ấy: cái ống nhổ bằng bạc. Thứ, cũng trở thành vô hình như tôi dưới lời thầm của Parvati, nhưng vẫn cảnh tỉnh tôi về thế giới bên ngoài... siết chặt món đồ bạc được gò tinh xảo ấy, thứ vẫn lấp lấnh kể cả trong bóng tối tên, tôi sống sót. Bất chấp tê liệt từ-đầu-đến-chân, tôi được cứu thoát, có lẽ, nhờ ánh lấp lánh phát ra từ kỷ vật quý giá của tôi.

      - thuần túy là nhờ ống nhổ; vì, như chúng ta đều biết, nhân vật chính của chúng ta chịu ảnh hưởng đặc biệt sâu sắc của việc bị giam hãm trong gian hẹp. Mọi biến đổi đều xảy ra với gã trong bóng tối khép kín. Từ chỗ chỉ là phôi trong gian bí mật của tử cung ( phải của mẹ gã), chẳng phải gã lớn lên thành thân của truyền thuyết mới về ngày 15 tháng Tám, thành đứa trẻ của tiếng tích tắc - chẳng phải gã xuất như Mubarak, Đứa Trẻ được Ban Phước? Trong phòng tắm chật chội, chẳng phải hai thẻ tên bị tráo? mình trong chiếc tủ giặt với sợi dải rút thọt lên mũi, gã chẳng phải liếc thấy Trái Xoài Đen và khịt quá mạnh, biến bản thân và quả dưa chuột mặt gã thành đài phát thanh nghiệp dư siêu nhiên? Bị bác sĩ, y tá và mặt nạ gây mê giữ chặt, chẳng phải gã đầu hàng những con số và, sau khi bị hút-kiệt-ở-, chuyển sang giai đoạn hai, thời kỳ của triết gia khứu giác và (sau này) cao thủ săn lùng? Bị đè bẹp, trong ngôi nhà bỏ hoang, dưới cái xác của Ayooba Baloch, chẳng phải gã nhận thức được ý nghĩa của công-bằng-và-bất-công? À, thế - bị giam hãm trong nguy hiểm của chiếc giỏ vô hình, tôi được cứu thoát, chỉ bởi ánh lấp lánh của cái ống nhổ, mà còn nhờ biến đổi khác: trong vòng cương tỏa của nỗi đơn thoát ly thể xác kinh khủng ấy, nỗi đơn có mùi nghĩa địa, tôi khám phá ra giận dữ.

      Bên trong Saleem, có gì đó phai nhạt và có gì đó ra đời. Phai nhạt: niềm tự hào cũ vế tấm-hình-em-bé và lá thư lồng khung kính của Nehru; quyết tâm cũ sẵn sàng nhận lãnh vai trò lịch sử được tiên đoán; và sẵn lòng tha thứ, sẵn lòng thông cảm cho việc cha mẹ hay người lạ có quyền lưu đày hay khinh bỉ gã chỉ vì gã xấu; ngón tay cụt và đầu sư cọ xem ra còn là những lý do đủ thuyết phục cho cách mọi người đối xử với gã, với tôi. Đối tượng của phẫn nộ trong tôi, thực tế, là tất cả những gì tôi , cho tới lúc đó, chấp nhận cách mù quáng: việc cha mẹ mong mỏi tôi đền đáp đầu tư của họ vào tôi, bằng cách trở nên vĩ đại; thiên-tài-rủ-xuống-tựa-khăn-san; và chính các chế độ liên kết khơi dậy trong tôi cơn giận đột ngột, mù quáng. Sao lại là tôi? Tại sao, vì những ngẫu nhiên của lời tiên đoán lúc chào đời và vân vân, tôi lại phải chịu trách nhiệm về những vụ bạo loạn ngôn ngữ và người-kế- tục-Nehru, về cách mạng của lọ gia vị, và về những quả bom tiêu diệt gia đình tôi? Tại sao, tôi, Saleem Thò Lò, Cả Khịt, Mặt Bản Đồ, Mảnh Trăng, lại bị quy kết về những gì quân lính Pakistan -gây-ra tại Dacca?... Tại sao, duy nhất trong tất cả hơn-năm-trăm-triệu-con-người, mình tôi phải mang gánh nặng của lịch sử?

      Cảm xúc được khám phá của tôi về bất công (có mùi hành) khởi đầu, cơn giận vô hình của tôi hoàn thiện. Phẫn nộ giúp tôi sống sót trước quyến rũ êm ái mê mị của tàng hình; giận dữ làm tôi quyết tâm (sau khi được giải phóng khỏi tình trạng tiêu biến, dưới bóng Thánh đường Thứ Sáu) bắt đầu, kể từ giây phút ấy, tự chọn cho mình tương lai riêng, phi-tiền-định. Và ở đó, trong tĩnh lặng của cảm giác biệt lập sực mùi nghĩa địa, tôi nghe thấy giọng hát xa xưa của Mary Pereira đồng trinh:

      Bất cứ gì con muốn thành, con sễ[8] được,


      Con sễ được thành, bất cứ gì con muốn.


      [8] Mary phát chuẩn, đọc chữ you can be (con có thể) thành you kin be.



      Đêm nay, hồi tưởng về cơn giận cũ, tôi vẫn hoàn toàn bình thản, mụ Góa phụ hút kiệt giận dữ khỏi tôi cùng với mọi thứ khác. Nhớ lại cuộc nổi loạn phát sinh trong giỏ, cưỡng lại vận mệnh, tôi thậm chí tự cho phép mình nở nụ cười giễu cợt, thấu hiểu. “Con trai,” tôi lẩm bẩm cách độ lượng xuyên qua năm tháng tới Saleem-ở-tuổi-hai-tư, “ mãi là con trai.” Tại Quán trọ Góa phụ, tôi nhận được bài học khắc nghiệt và nhớ đời của Thể Thoát; giờ đây, gò lưng giấy dưới quầng sáng Anglepoise, tôi còn muốn là gì khác ngoài chính bản thân mình. Tôi là ai, cái gì? Trả lời: tôi là tổng hợp mọi thứ diễn ra trước tôi, mọi thứ tôi thấy làm, mọi thứ được-làm-với-tôi. Tôi là tất cả mọi người mọi vật mà -tồn-tại--thế-giới-này tác động đến tôi bị tôi tác động, tôi là bất kỳ thứ gì xảy ra sau khi tôi ra nhưng xảy ra nếu tôi xuất . Tôi cũng phải là ngoại lệ cá biệt trong vấn đề này; mỗi “Tôi”, mỗi cá nhân trong số này-là-hơn-sáu-trăm-triệu-con-người chúng ta, đều chứa đựng đa dạng tương tự. Tôi nhắc lại lần cuối: để hiểu tôi, quý vị phải nuốt cả thế giới.




      Mặc dù lúc này, khi quá-trình-trào-ra của những-gì-ở-trong-tôi gần tới hồi kết; khi những vết nứt toác ra từ bên trong - tôi có thể nghe và cảm thấy tiếng nhay xé gặm - tôi bắt đầu mỏng dần , gần như trong mờ; chẳng còn bao nhiêu tôi nữa, và bao lâu nữa chẳng còn gì. Sáu trăm triệu hạt bụi, tất cả trong suốt, vô hình như thủy tinh...

      Nhưng lúc ấy tôi rất giận dữ. tượng cường vận động nội tiết trong cái bình liễu gai hai quai: mồ hôi và mùi hôi trào ra từ tuyến eccrine và apocrine, như thể tôi cố gắng bài tiết số phận qua các lỗ chân lông; và, để công bằng với cơn phẫn nộ của mình, tôi phải ghi nhận rằng, nó giành được thành tựu tức thời - rằng khi từ giỏ tàng hình lăn ra dưới bóng thánh đường, tôi được, nhờ có cuộc nổi dậy, giải thoát khỏi tình trạng trầm mê của tê liệt; khi bổ nhào xuống nền đất khu ghetto của giới ảo thuật, tay khư khư cái ống nhổ bạc, tôi nhận ra mình bắt đầu, lần nữa, có cảm giác.

      Có những nỗi đau, ít ra, vẫn có khả năng bị chế ngự.

    5. banglangtrang123

      banglangtrang123 Well-Known Member Staff Member Super Moderator

      Bài viết:
      26,213
      Được thích:
      47,825
      Chương 27: Dưới bóng Thánh đường




      nghi ngờ gì nữa: tăng tốc. Rắc roạc rộp - trong khi mặt đường nứt toác dưới cái nóng ghê người, tôi cũng bị đẩy nhanh tới chỗ tan rã. Thứ-gặm-mòn-xương ( thứ, như tôi thường xuyên phải giải thích với quá nhiều đàn bà ở quanh mình, vượt xa khả năng nhận biết, chưa đến cứu chữa, của các thầy thuốc) chẳng thể bị kìm hãm bao lâu nữa; mà chuyện chưa kể còn quá nhiều... Cậu Mustapha lớn dần bên trong tôi, và cái bĩu môi của Parvati-phù-thủy; lọn tóc của người hùng chờ đợi sau cánh gà; và cơn trở dạ kéo dài mười ba ngày, và lịch sử đồng dạng với kiểu tóc của thủ tướng; sắp có phản bội, và trốn vé, và mùi (phảng phất theo những cơn gió trĩu nặng tiếng rên rỉ của những góa phụ) thứ gì đó bị rán chảo sắt... thế nên, tôi cũng buộc phải tăng tốc, phải bứt phá về đích; trước khi ký ức của tôi vỡ vụn, mong gì sắp xếp lại được, tôi phải ưỡn ngực chạm đích. (Mặc dù có, có những chỗ mơ hồ, khiếm khuyết; và đôi khi cần phải ứng tác.)

      Hai mươi sáu lọ ngâm ảm đạm xếp hàng giá; hai mươi sáu công thức pha trộn đặc biệt, mối lọ có nhãn định danh riêng, được viết ngay ngắn với những hàng chữ quen thuộc: chẳng hạn “Cuộc Hành Quân Của Lọ Gia Vị”, hay “Alpha và Omega”, hay “Cây dùi cui của Trung tá Sabarmati”. Hai mươi sáu cái lọ lanh canh rất hùng hồn mỗi khi đoàn tàu hỏa vàng-và-nâu chạy qua; bàn tôi, năm cái lọ rỗng leng keng đầy khẩn thiết, nhắc nhở tôi về nhiệm vụ chưa hoàn thành. Nhưng giờ tôi thể lần lữa bên những chiếc lọ rỗng ; đêm là thời khắc của ngôn từ, và chutney xanh phải đợi đến lượt mình.

      ... Padma tư lự: “Ôi, ông này, Kashmir tháng Tám chắc là đẹp lắm, trong lúc ở đây nóng như thiêu!” Tôi buộc phải quở trách bạn đồng hành phúng-phính-nhưng-cơ-bắp này vì để tâm trí vơ vẩn tận đâu; và buộc phải thừa nhận Padma Bibi của chúng ta, con người nhẫn nại khoan dung khéo vỗ về, bắt đầu cư xử giống bà vợ Ấn Độ đích thực. (Còn tôi, với nết xa cách và chỉ mải việc mình, giống ông chồng?) Gần đây, bất chấp thái độ lãnh đạm phó mặc số mệnh của tôi trước các vết nứt lan rộng, tôi ngửi thấy, trong hơi thở của Padma, giấc mơ về kịch bản tương lai khác (nhưng bất khả); phớt lờ cái kết cục bất khả tiêu trừ của những rạn nứt trong nội thể tôi, bắt đầu tỏa ra mùi hương ngọt đắng của hy-vọng-hôn-nhân. Bông sen-phân của tôi, người lâu nay vẫn vững vàng trước những cái nhếch môi dè bỉu của đội ngũ lao động nữ bắp tay phủ lông tơ; người đặt việc chung sống với tôi ra ngoài và lên mọi chuẩn mực xã hội, có vẻ quy hàng khát vọng được chính danh... tóm lại, dù đả động gì đến chủ đề này, vẫn chờ đợi tôi biến thành người đàn bà đoan chính. Mùi hương hy vọng u sầu ngấm vào những lời lẽ quan hoài vô tư nhất của - chậm chí ngay lúc này, khi , “Ông này, sao kết thúc vụ viết lách này rồi nghỉ ngơi; về Kashmir, cho thanh tĩnh thời gian - và ông có thể đem Padma của ông theo, để ta có thể chăm nom...?” Đằng sau giấc mơ chớm nở về kỳ nghỉ Kashmir ấy (cũng từng là giấc mơ của Jehangir, Đại đế Mughal; của Ilse Lubin tội nghiệp bị lãng quên; và có lẽ của chính Jesus Christ), tôi đánh hơi thấy diện của giấc mơ khác; có điều cả hai đều thể thành thực. Bởi vì giờ đây những vết nứt, những vết nứt và luôn là những vết nứt, thu hẹp tương lai của tôi tới dấu chấm hết duy nhất và tất yếu; và cả Padma cũng phải ngồi ghế sau để tôi cố thế kết thúc câu chuyện của mình.



      Ngày nay, báo chí bàn tán về khả năng tái xuất chính trường của Indira Gandhi; nhưng lúc tôi quay về Ấn Độ, náu mình trong chiếc giỏ liễu gai, “Quý Bà” đắm mình trong tột đỉnh vinh quang. Ngày nay, có thể chúng ta đều quên, tự nguyện chìm đắm trong vùng mây mù nguy hại của bệnh mất trí nhớ; nhưng tôi vẫn nhớ, và ghi chép lại, tôi - bà ta - chuyện xảy ra như thế nào mà... - , tôi được ra, tôi phải kể tất cả theo trình tự, đến khi còn lựa chọn nào khác ngoài việc tiết lộ... Ngày 16 tháng Mười hai năm 1971, tôi bổ nhào ra giữa đất nước Ấn Độ nơi đảng Tân Quốc đại của bà Gandhi nắm hơn hai phần ba số ghế trong Quốc hội.

      Trong chiếc giỏ tàng hình, nhận thức về bất công biến thành giận dữ, và số thứ khác nữa - chỉ biến đổi vì cơn thịnh nộ, trong tôi còn trào dâng cảm giác đau xót của nỗi cảm thông với đất nước chỉ là chị em song sinh mà còn dính liền với tôi ( cách hình tượng) ở hông, khiến điều gì xảy ra với người này, cũng xảy đến với người kia. Nếu tôi, mũi thò lò mặt nhọ vân vân, vì thế mà gặp lắm gian truân, em cũng vậy, người em tiểu lục địa sinh đôi của tôi; và giờ đây khi tự cho mình quyền lựa chọn tương lai tốt đẹp hơn, tôi quyết rằng đất nước này phải được chia sẻ điều đó. Tôi nghĩ rằng khi bổ nhào ra giữa bụi bặm, bóng thánh đường và tiếng reo hò thích thú, tôi mang sẵn trong lòng quyết tâm cứu nước.

      (Nhưng còn những vết rạn nứt... liệu tôi, khi ấy, kịp nhận ra rằng tình tôi dành cho Jamila Ca sĩ , theo nghĩa nào đó, sai lầm? Liệu tôi kịp hiểu ra mình cứ thế trút lên vai sùng bái mà giờ đây tôi nhận chức tình hướng thượng, quảng đại dành cho đất nước? Tới lúc nào tôi mới nhận ra, rằng những tình cảm loạn luân đích thực của tôi là dành cho người em song sinh , cho chính Ấn Độ, chứ phải cho ngữ xướng ca vô loài nhẫn tâm trút bỏ tôi, như bộ da rắn dùng rồi, và vứt tôi vào cái thùng rác dụ là đời lính? Lúc nào lúc nào lúc nào?... Thừa nhận thất bại, tôi buộc phải ghi lại rằng, tôi thể nhớ chính xác.)

      ... Saleem ngồi hấp háy mắt giữa đám bụi, dưới bóng thánh đường. người khổng lồ đứng bên gã, cười toét miệng, hỏi, “À há, đội trưởng, chuyến ổn hỉ?“ Còn Parvati, mắt mở to đầy phấn khích, rót nước từ chiếc lotah[1] vào đôi môi nứt nẻ mặn chát của gã... Cảm giác! Cái buốt giá của nước giữ lạnh trong surahi[2] bằng đất nung, cái nứt nẻ bỏng rát của đôi môi khô héo, chất bạc và thanh kim thạch siết trong lòng tay... “Tôi cảm thấy rồi!” Saleem reo lên với đám đông thân thiện vây quanh.

      [1] kiểu ca nước, thường làm bằng đồng

      [2] Bình đựng nước cổ cao.

      Lúc ấy là thời điểm buổi chiều được gọi là chaya[3], khi bóng của Thánh đường Thứ Sáu cao chót vót bằng gạch đỏ và cẩm thạch vắt ngang những căn lều hỗn loạn của khu ổ chuột chen chúc dưới chân nó, với những mái tôn xiêu vẹo tạo thành khí nóng hầm hập, đến mức thể ở nổi trong những túp lều xập xệ này trừ lúc chaya và ban đêm… nhưng lúc này các nghệ sĩ ảo thuật và uốn dẻo và tung hứng và các fakir đều tập hợp dưới bóng râm quanh cột ống khói khổng lồ đơn độc nọ để chào đón người mới đến. “Tôi cảm thấy rồi!” tôi reo lên, và rồi Picture Singh, “Tốt rồi, đội trưởng - xem, chú cảm thấy sao hỉ? - khi được sinh ra lần nữa, như đứa trẻ sơ sinh, lăn ra từ giỏ của Parvati?” Tôi có thể ngửi thấy mùi kinh ngạc ở Picture Singh; ràng là sửng sốt trước xảo thuật của Parvati, có điều, là dân trong nghề thực thụ, tưởng đến chuyện hỏi xem làm điều đó như thế nào. Nhờ vậy mà Parvati-phù-thủy, người sử dụng pháp lực vô biên của mình đưa tôi đến nơi an toàn, thoát khỏi bị phát ; và cũng còn vì, như về sau tôi khám phá ra, ghetto của giới ảo thuật tin, với quả quyết tuyệt đối của những kẻ sống-bằng-nghề-ảo-thuật, tồn tại của pháp thuật. Thế nên Picture Singh bảo tôi, với vẻ kinh ngạc, “ thề, đội trưởng - ở trong giỏ chú rất , như trẻ sơ sinh!” - Nhưng bao giờ hình dung ra được, tình trạng trọng lượng của tôi tuyệt hề là xảo thuật.

      [3] Nghĩa là bóng râm.

      “Ê này, sahib cu tí,” Picture Singh kêu lên, “Chú thấy sao hỉ, đội trưởng cu tí? Hay là kiệu chú lên vai cho chú ợ hơi nhé?” - Và giờ Parvati, khoan dung: “Cái này, baba, hơn tí là đùa nhảm.” cười rạng rỡ với tất cả mọi người có mặt... nhưng ngay lúc đó, việc bất tường xảy ra. giọng đàn bà rít lên từ phía sau nhóm ảo thuật gia: “Ai-o-ai-o! Ai-o-o!” Đám đông ngạc nhiên tách ra và bà già vọt qua lao thẳng vào Saleem; làm tôi buộc phải tự vệ trước màn múa chảo, cho đến khi Picture Singh, kinh hãi, túm lấy cánh tay múa chảo của bà già, rồi gầm gừ, “Này, đội trưởng , làm nhộn cái gì thế?” Và bà già, dai dẳng: “Ai-o-ai-o!”

      “Resham Bibi,” Parvati , khó chịu, “Kiến bò trong não bà à?” Và Picture Singh, “Chúng ta có khách, đội trưởng ạ - cậu ấy biết làm thế nào khi bà cứ rầm rĩ lên? Arre, im nào, Resham, đội trưởng đây là chỗ bạn bè với Parvati của chúng ta đấy! Đừng gào rú trước mặt cậu ấy nữa!”

      “Ai-o-ai-o! Điềm gở đến rồi! Ngươi sang xứ lạ và đem nó về đây! Ai-oooo!”

      Nét mặt hoang mang của các nhà ảo thuật nhìn từ Resham Bibi sang tôi - bởi mặc dù là cộng đồng phủ nhận siêu nhiên, họ là nghệ sĩ, và, như mọi người hành nghề biểu diễn, họ ngấm ngầm tin vào vận số, vào may rủi... “Chính ông vừa bảo,” Resham Bibi rít lên, “ được sinh ra hai lần, và thậm chí phải từ đàn bà! Giờ hoang tàn, bệnh dịch và chết chóc giáng xuống. Ta ngần này tuổi rồi, ta biết. Arre baba,” bà ta sầu thảm quay sang tôi, “Hãy rủ lòng thương; - mau !” Tiếng xì xầm nổi lên - “Phải rồi, Resham Bibi biết những chuyện ngày xưa” - nhưng Picture Singh nổi cáu. “Đội trưởng đây là thượng khách của ta,” quát, “Cậu ấy ở lại nhà ta bao lâu tùy thích. Các người xì xào cái gì? Đây phải là chỗ kể chuyện hoang đường.”

      Lần đầu tiên lưu lại ghetto của giới ảo thuật của Saleem Sinai chỉ kéo dài vài ngày; nhưng trong quãng thời gian ngắn ngủi ấy, số chuyện xảy ra làm dịu nỗi sợ mà ai-o-ai-o khơi lên. trần trụi, màu mè là, hồi ấy, các ảo thuật gia và nghệ sĩ trong ghetto bắt đầu đạt những đỉnh cao mới - các nghệ sĩ tung hứng giữ được ngàn lẻ trái bóng cùng lúc; đệ tử nhập môn của fakir lạc bước vào thảm than hồng, rồi thản nhiên bước qua, như thể học được bản tính của sư phụ bằng cách thẩm thấu; và tôi nghe trò ảo thuật dây thừng[4] thành công. Đồng thời, cảnh sát thực được đợt càn quét hằng tháng vào ghetto, điều trong ký ức của mọi người chưa từng xảy ra; và khu trại liên tục có khách viếng thăm, người hầu của các nhà giàu, đặt hàng phục vụ của hay nhiều nghệ sĩ trong chương trình văn nghệ của đêm gala này nọ... thực tế, có vẻ như Resham Bibi lần này đoán nhầm, và tôi nhanh chóng trở nên nổi tiếng tại ghetto. Tôi được đặt tên là Saleem Kismeti, Saleem May mắn; Parvati được chúc mừng, vì mang tôi về khu ổ chuột. Và cuối cùng, Picture Singh đưa Resham Bibi đến xin lỗi.

      [4] tiết mục ảo thuật kinh điển của Ấn Độ, trong đó nhà ảo thuật phù phép cho sợi dây thừng vươn thẳng lên trời, sau đó cậu bé phụ tá leo lên rồi biến mất.

      “Sin ỗi,” Resham móm mém rồi bỏ chạy; Picture Singh thêm, “Già rồi khổ thế đấy; não xơ và trí nhớ lộn tùng phèo hết cả. Đội trưởng, đây ai cũng bảo chú là vận may của chúng tôi; nhưng chú có định ra sớm ?” - Và Parvati, đôi mắt tròn xoe nín lặng nhìn tôi như van nài đừng đừng đừng; nhưng tôi buộc phải trả lời bằng câu khẳng định.

      Saleem, ngày nay, tin chắc rằng gã trả lời, “Có”; rằng cũng vào buổi sáng hôm ấy, vẫn mặc tấm áo choàng lùng thùng, vẫn rời cái ống nhổ bạc, gã cất bước ra , mà nhìn lại dõi theo gã với ánh mắt rớm ướt những trách móc; rằng, vội vàng sải bước qua các nghệ sĩ tung hứng tập luyện, qua những hàng bánh kẹo phả vào mũi gã thứ mùi quyến rũ của rasgulla, qua các bác thợ cạo lấy mười paisa lần cạo mặt, qua bước chân tha thẩn vật vờ của những bà cụ và tiếng léo nhéo giọng Mỹ của lũ nhóc đánh giày bu lấy từng đoàn xe du khách Nhật mặc đồng phục xanh giống hệt nhau và đội khăn xếp màu nghệ nhìn chả ăn nhập gì do những gã hướng dẫn viên xun xoe cách tinh quái vấn cho, qua những dãy bậc thang cao ngất dẫn lên Thánh đường Thứ Sáu, qua những lái buôn ý tưởng và tinh dầu và mô hình của Qutb Minar[5] bằng thạch-cao-Ba-lê và ngựa đồ chơi phết sơn và gà chưa cắt tiết cánh vỗ phành phạch, qua những lời mời chọi gà và chơi bài, gã bước ra khỏi ghetto của giới ảo thuật và thấy mình đứng tại Faiz Bazar, đối diện bức tường trải dài bất tận của Thành Đỏ, nơi từ thành lũy của nó Thủ tướng từng tuyên bố độc lập, và dưới bóng của nó người đàn bà gặp người chủ hộp vạn hoa, chàng Dilli-dekho người dẫn bà vào những ngõ hẹp để nghe tiên đoán về tương lai của con trai bà, giữa bầy chồn và kền kền và các bệnh nhân gãy xương tay bó lá; rằng, ngắn gọn, gã rẽ phải và khỏi Thành Cổ hướng về những cung điện màu hường do những kẻ chinh phục da hồng xây dựng lâu: từ bỏ những cứu tinh của mình, tôi bộ đến New Delhi.

      [5] Ngọn tháp thánh đường (minaret) cao nhất Ấn Độ, được UNESCO trao danh hiệu Di sản Thế giới.

      Tại sao? Tại sao, sau khi hắt hủi cách vô ơn nỗi buồn nhớ quá khứ của Parvati-phù-thủy, tôi ngoảnh mặt với cái cũ và lên đường đến với cái mới? Tại sao, sau suốt nhiều năm tìm thấy nơi đồng minh trung thành nhất ở các hội nghị về đêm trong tâm trí tôi, tôi lại rời bỏ tênh đến thế vào buổi sáng? Đấu tranh với những khoảng trống rạn nứt về quá khứ, tôi chỉ có thể nhớ nổi hai lý do; nhưng dám chắc cái nào là chủ yếu, hay là còn cái thứ ba... trước hết, dù sao nữa, tôi đánh giá toàn diện tình hình. Saleem sau khi phân tích cơ hội của mình, thể tự thừa nhận rằng chẳng có gì tốt đẹp hết. Tôi có hộ chiếu; xét về pháp lý là dân nhập cư bất hợp pháp ( từng là người di cư hợp pháp); trại P.O.W. chờ tôi ở khắp nơi. Và cho dù có gác tình trạng bại-binh-chạy-trốn của tôi sang bên, danh sách những bất lợi của tôi vẫn rất ghê gớm: tôi có tiền hay quần áo; bằng cấp - chưa hoàn tất bậc học và cũng chẳng nổi trội gì trong những học phần tôi trải qua; tôi làm sao để theo đuổi kế hoạch tham vọng là cứu quốc khi có lấy mái nhà đầu hay gia đình để bảo vệ ủng hộ hỗ trợ... tôi bỗng nhận ra, như sét đánh bên tai, rằng mình nhầm; rằng ở đây, chính tại thành phố này, tôi có họ hàng - và chỉ họ hàng bình thường, mà họ hàng có thế lực! Cậu tôi Mustapha Aziz, Công Chức cấp cao, người lần cuối tôi nghe nhắc đến là nhân vật số hai ở Sở của cậu; còn có người bảo hộ nào phù hợp hơn cho tham vọng Cứu thế của tôi? Dưới mái nhà cậu, tôi có thế tạo dựng quan hệ và có quần áo mới; có bảo trợ của cậu, tôi được bổ dụng vào Chính quyền, và, trong quá trình tìm hiểu nội tình chính phủ, chắc chắn tôi tìm thấy chìa khóa cho nghiệp cứu quốc; và tôi được các Bộ trưởng lắng nghe, có thể tôi còn xưng hô bằng tên[6] với con người vĩ đại...! Chính vào lúc bị viễn cảnh huy hoàng ấy chế ngự tôi bảo Parvati-phù-thủy, “Tớ phải ; nhiều đại diễn ra!” Và, nhìn thấy tổn thương hai gò má đột nhiên bừng đỏ, bèn an ủi : “Tớ đến thăm cậu thường xuyên. Thường xuyên thường xuyên.” Nhưng thấy được an ủi... lý tưởng cao đẹp, như vậy, là động cơ khiến tôi ruồng bỏ những người giúp đỡ tôi; nhưng chẳng phải còn động cơ khác mọn hơn, thấp kèm hơn, riêng tư hơn sao? Có đấy. Parvati bí mật dắt tôi ra góc sau căn lán dựng bằng tôn-và-gỗ-phế-thải; nơi gián đẻ trứng, nợi chuột làm tình, nơi ruồi ngốn ngấu phân chó, siết chặt cổ tay tôi và trở nên bừng sáng ở mắt và xuýt xoa ở lưỡi; nấp trong đoạn ruột già thối rữa của ghetto, thú nhận rằng tôi phải đứa trẻ nửa đêm đầu tiên tao ngộ với ! Và giờ là câu chuyện về đoàn diễu hành ở Dacca, khi các ảo thuật gia sánh bước bên các hùng; kia là Parvati nhìn lên chiếc xe tăng, kia là mắt-Parvati bắt gặp cặp đầu gối khủng bố, linh hoạt như tay... cặp đầu gối kiêu hãnh gồ lên dưới bộ quân phục hồ cứng; kia là Parvati kêu lên, “Ơ này! Ơ này...” và rồi cái tên thế ra, cái tên của tội lỗi của tôi, của kẻ đáng lẽ sống cuộc đời của tôi nếu tội ác trong nhà hộ sinh; Parvati và Shiva, Shiva và Parvati, mà vận mệnh thần thánh của hai cái tên định cho họ gặp nhau, được hội ngộ đúng vào thời khắc chiến thắng. “ hùng đấy!” xuýt xoa tự hào đằng sau căn lán. “Họ cho cậu ấy làm quan to này kia!” Và bây giờ, thứ gì được rút ra từ nếp y phục xác xơ của ? Thứ gì từng kiêu hãnh mọc đầu hùng và nay nép vào bầu ngực nàng pháp sư? “Tớ xin và cậu ấy cho,” Parvati-phù-thủy , đoạn chìa cho tôi lọn tóc của .

      [6] Trong tiếng , khi giao tiếp lịch , người ta gọi nhau là ông/bà + họ. Còn nếu là chỗ bạn bè thân mật gọi nhau bằng tên.

      Tôi có bỏ chạy khỏi lọn tóc định mệnh ấy? Saleem, sợ phải tái ngộ với bản thể đối lập của mình, kẻ bị gã từ-rất-lâu cấm cửa ở những cuộc họp nửa đêm, có đào tẩu vào vòng tay của cái gia đình mà cuộc sống tiện nghi bị tước mất khỏi tay người hùng thời chiến? Vậy là vì lý tưởng hay tội lỗi ? Tôi chắc chắn nữa; tôi chỉ ghi lại những gì nhớ được, ấy là việc Parvati-phù-thủy thầm, “Biết đâu cậu ấy trở lại khi rảnh rỗi; lúc ấy ta có ba người!” Và cả câu nữa, lặp lặp lại: “Những đứa trẻ của nửa đêm, yaar... oách đấy chứ, hả?” Parvati-phù-thủy khiến tôi nhớ lại những điều tôi cố gạt bỏ khỏi tâm trí; và tôi rời bỏ , đến nhà Mustapha Aziz.



      Lần tiếp xúc cuối cùng thê thảm của tôi với thân mật tàn nhẫn của cuộc sống gia đình chỉ để lại những mảnh vụn; tuy nhiên, do tất cả phải được ghi chép để rồi ngâm ủ, tôi cố gắng chắp nối thành câu chuyện... vậy , để bắt đầu, tôi xin báo cáo rằng, cậu Mustapha tôi sống tại bungalow kiểu Công chức tiện nghi cách nhạt nhẽo mảnh vườn chỉn chu kiểu Công chức ở ngay đường Rajpath giữa trung tâm thành phố của Lutyens[7]; tôi dọc con-đường-từng-là-Đại-lộ-Hoàng-đế, hít thở vô vàn mùi vị của phố phường, phả ra từ Khu Bách hóa Thủ công và ống xả xe tuktuk; hương bồ đề và tuyết tùng trộn với mùi ma quái của mồ ma các toàn quyền và memsahib[8] găng tay, với cả mùi hơi người khen khét của các begum giàu xổi và dân vô gia cư. Đây là tấm bảng tỉ số bầu cử, nơi (trong trận-chiến-quyền-lực đầu tiên giữa Indira và Morarji Desai) người dân bu quanh, chờ đợi kết quả, háo hức hỏi nhau: “Con trai hay con ?” ... giữa cổ và kim, giữa Cổng Ấn Độ và Văn phòng Chính phủ, tâm trí tôi chen chúc suy nghĩ về hai đế chế (Mughal và ) tiêu vong và về lịch sử của chính tôi - bởi vì đây là thành phố của lời tuyên bố công khai, của quái vật nhiều đầu, và của bàn tay trời rơi xuống - tôi quyết tâm dấn bước, người bốc mùi, như mọi thứ xung quanh, lên tận trời xanh. Và cuối cùng, sau khi rẽ trái về phía đường Dupleix, tôi dừng lại trước khu vườn vô danh có tường thấp và hàng rào ô rô bao quanh; ở góc vưòn tôi thấy tấm biển đu đưa trong gió, như lần những tấm biến từng nở hoa trong các khu vườn ở Điền trang Methwold; nhưng tiếng vọng này của quá khứ lại kể câu chuyện khác. phải BÁN NHÀ, với hai nguyên bất tường cùng bốn phụ định mệnh; bông hoa gỗ trong vườn của cậu tôi nở ra thông báo kỳ quái: Ngài Mustapha Aziz và Ruồi.

      [7] Edwin Lutyens, kiến trúc sư người , người thiết kế hầu hết các kiến trúc quan trọng của New Delhi trong thời kỳ thuộc vào những năm 1920-1930. Nhà của Mustapha có lẽ nằm ở Khu Bungalow Lutyens, quần thể rộng gồm những dãy nhà xây kiểu bungalow dành cho viên chức của chính quyền. Rajpath là Đại lộ Hoàng gia ở Delhi, nơi tổ chức các cuộc diễu hành quan trọng của thành phố.

      [8] Cách xưng hô kính trọng của thời kỳ thuộc , dành cho những phụ nữ da trắng lập gia đình.

      hề biết chữ cuối cùng là lối viết tắt khô khan, quen thuộc của cậu tôi đối với danh từ gây xúc động rộn ràng “gia đình”[9], tôi rơi vào tình trạng hoang mang vì tấm biển gật gù; tuy nhiên, sau khi ở nhà cậu thời gian rất ngắn, tôi bắt đầu thấy nó hoàn hoàn hợp lý, vì gia đình của Mustapha Aziz, quả , cũng bị đập bẹp, tầm thường, giống-côn-trùng như con Ruồi bị rút gọn cách bí hiếm nọ.

      [9] Gia đình trong tiếng Family, nếu cắt bỏ ba chữ ami còn Fly nghĩa là con ruồi.

      Những lời lẽ nào chào đón tôi khi, có chút hồi hộp, tối ấn chuông, lòng tràn trề hy vọng bắt đầu nghiệp mới? Bộ mặt nào xuất sau cánh cổng bịt lưới thép và cau lại trong cơn ngạc nhiên giận dữ? Padma: tôi nhận được chào đón của vợ cậu Mustapha, từ bà mợ điên Sonia, với câu cảm thán: “Ptui! Allah! Thằng này hôi khiếp!”

      Và cho dù tôi, ra sức lấy lòng, “Xin chào, Mợ Sonia quý,” và toét miệng cười bẽn lẽn trước hình thù khuất-sau-lưới-thép của nhan sắc Iran bắt đầu nhăn nheo ở mợ tôi, bà tiếp tục, “Saleem, phải ? Rồi, tao nhớ mày rồi. Thằng ranh con hỗn xược. Lúc nào cũng nghĩ lớn lên mày thành Chúa này kia. Mà tại sao? bức thư ngu xuẩn chắc hẳn do trợ lý thứ mười lăm của phủ Thủ tướng gửi cho.” Từ buổi gặp đầu tiên ấy lẽ ra tôi phải dự báo được các kế hoạch của mình tiêu ma; lẽ ra tôi phải đánh hơi thấy, từ bà mợ điên khùng, mùi sặc sụa nguôi của lòng đố kỵ Công chức, điều phá hoại mọi nỗ lực của tôi nhằm xác lập vị thế đời. Tôi được nhận lá thư, bà ta ; điều đó làm chúng tôi thành kẻ thù truyền kiếp. Nhưng có cánh cửa, rộng mở; thoang thoảng mùi quần áo sạch và nhà tắm vòi sen; và tôi, cảm kích trước những ân huệ nhặt, xét thấy những mùi hương chết người từ mợ tôi.

      Cậu tôi Mustapha Aziz, mà bộ ria -thời-vuốt-sáp-đầy-kiêu-hãnh bao giờ hồi phục sau cơn bão bụi gây tê liệt của việc phá hủy Điền trang Methwold, bị bỏ qua khi xét để bạt Giám đốc Sở dưới bốn mươi bảy lần, và cuối cùng tìm thấy niềm an ủi cho thiếu năng lực của mình trong việc đánh đập lũ con, và lèm bèm hằng đêm về việc mình ràng là nạn nhân của định kiến bài-Hồi-giáo, trong lòng trung thành đầy mâu thuẫn nhưng tuyệt đối với Chính phủ đương thời, và trong nỗi ám ảnh về khoa phả hệ, sở thích duy nhất của cậu, mà máu đam mê còn lớn hơn khát vọng chứng minh mình là hậu duệ của các Đại đế Mughal của cha tôi năm xưa. Trong niềm an ủi đầu tiên ông nhận được nhiệt tình hưởng ứng của vợ, bà Sonia (tên thời con Khosrovani) nửa Iran và khao-khát-làm-phụ-nữ-thượng-lưu, người xác thực hóa điên vì cuộc sống trong đó bà buộc phải sắm vai “che tàn bợ đít” cho bốn mươi bảy bà vợ khác nhau và nối tiếp nhau của những nhân vật số , những người trước đó bị bà rẻ rúng với thái độ khệnh khạng bề khi họ còn là vợ nhân vật số ba; dưới hội đồng tẩm quất của cậu mợ tôi, đám em họ tôi giờ bị tẩn tơi bời thành đống nhão nhoét đến nỗi tôi chịu nhớ nổi số lượng, giới tính, tầm vóc hay đường nét của chúng nữa; nhân cách của chúng, tất nhiên, từ lâu còn tồn tại. Tại nhà cậu Mustapha, tôi ngồi im lặng giữa lũ em bị tán nhuyễn, nghe màn độc thoại hằng đêm và ngừng tự mâu thuẫn của ông, quay ngoắt từ cay cú vì được đề bạt sang trung thành mù quáng kiểu chó cưng với mỗi hành động của Thủ tướng. Nếu Indira Gandhi đề nghị cậu tự sát, Mustapha Aziz chắc quy việc này cho thành kiến với người đạo Hồi nhưng lại bênh vực nhãn quan lãnh đạo của đề nghị ấy, và, tất nhiên, thực nhiệm vụ mà chẳng dám (thậm chí tưởng đến) phản kháng.

      Về phả hệ: cậu Mustapha dành tất cả thờỉ gian rỗi để lấp đầy những cuốn sổ ghi chép dày khự bằng những cây gia tộc hình nhện, ngừng đào sâu nghiên cứu và lưu danh sử sách hậu duệ kỳ dị của các đại gia tộc cả nước; nhưng hôm, trong thời gian tôi ở đây, mợ Sonia được biết về rishi[10] từ Hardwar, người nghe đồn ba trăm chín mươi lăm tuổi, và thuộc lòng phả hệ của mọi gia tộc Bà la môn cả nước. “Đến cả cái đấy cũng chỉ về nhì!” bà rít lên với cậu tôi. tồn tại của vị rishi từ Hardwar dã hoàn tất quá trình rơi vào điên loạn của bà, khiến bạo hành của bà với lũ con gia tăng đến mức cả nhà phải sống thường trực trong nỗi lo xảy ra án mạng, và cuối cùng cậu Mustapha buộc phải cho nhốt bà lại, bởi quá đáng của bà làm ông khó xử trong công việc.

      [10] giả Hindu.

      Đấy, như vậy, là gia đình mà tôi tìm đến. diện của họ ở Delhi trở nên, trong mắt tôi, như báng bổ với quá khứ của tôi; tại thành phố mà, với tôi, hồn ma Ahmed và Amina thời trẻ ngự trị vĩnh hằng, con Ruồi gớm ghiếc ấy bò lên đất thiêng.

      Nhưng điều bao giờ có thế xác minh được là, những năm sau này, nỗi ám ảnh về phả hệ của cậu tôi được tuyển mộ phục vụ chính quyền bên bờ, vực sụp đổ dưới bùa phép song hành của quyền lực và thuật chiêm tinh; bởi vậy điều xảy ra ở Quán trọ Góa phụ có lẽ bao giờ xảy ra nếu giúp đỡ của ông... nhưng , tôi cũng là tên phản bội; tôi kết tội; tôi chỉ muốn rằng có lần tôi nhìn thấy, trong đống sổ phả hệ của ông, cặp tài liệu màu đen bằng da dán nhãn TỐI MẬT, đề tên KẾ HOẠCH M.C.C.

      Cái kết đến gần, và chẳng thể bị né tránh bao lâu nữa; nhưng trong lúc sarkar của Indira, như chính quyền của cha bà, ngày ngày đều tham vấn những kẻ bàng môn tà đạo; trong lúc lũ thầy bói Benarsi[11] góp phần viết nên lịch sử Ấn Độ, tôi phải lạc đề sang những hồi ức riêng tư, đau đớn; bởi chính tại nhà cậu Mustapha mà tôi biết tin, xác thực, về cái chết của gia đình tôi trong cuộc chiến năm 65; và còn về mất tích, chỉ vài ngày trước khi tôi xuất , của giọng hát Pakistan nổi tiếng Jamila Ca sĩ.

      [11] thành phố thuộc bang Uttar Pradesh bên bờ sông Hằng.

      Khi bà mợ điên khùng biết tôi chiến đấu trong hàng ngũ phe địch, bà nhất định cho tôi ăn nữa (cả nhà ăn tối), và rít lên, “Chúa ơi, mày là gan cùng mình, biết hả? Mày có não để nghĩ à? Mày mò đến nhà Cán bộ Nhà nước Cấp cao - tên tội phạm chiến tranh sổng chuồng, Allah! Mày tính làm cậu mày mất việc à? Mày muốn đẩy cả nhà tao ra đường à? Mày phải biết nhục chứ! - , cút , hay tốt hơn là để tao kêu cảnh sát đến gô cổ mày lại! mà làm tù binh chiến tranh, việc gì đến chúng tao, mày còn chẳng phải con đẻ của bà chị quá cố của chúng tao...”

      Hai tiếng sét, nối nhau giáng xuống: Saleem lo sợ cho an toàn của mình, đồng thời biết thể trốn tránh về cái chết của mẹ gã, biết rằng gã ở vào thế yếu hơn là gã tưởng, bởi việc công nhận gã chưa được thực ở phần này của gia đình gã; Sonia, biết lời thú tội của Mary Pereira, có thể làm bất cứ điều gì!... Và tôi, lẩy bẩy, “Mẹ cháu? Quá cố?” Và giờ cậu Mustapha, có lẽ cảm thấy vợ mình quá lời, gượng gạo , “ sao cả, Saleem, tất nhiên cháu phải ở lại - nó phải ở lại, mình ạ, còn cách nào khác đâu? - thằng bé tội nghiệp còn chẳng biết...”

      Rồi họ ra.

      Tôi bỗng nhận ra, giữa lòng con Ruồi điên dại này, rằng tôi nợ những người khuất cơ số tang kỳ; sau khi biết về kết cục của cha và mẹ tôi và bác Alia và mợ Pia và dì Emerald, của ông em họ Zafar với quận chúa xứ Kif của gã, của Mẹ Bề và vợ chồng bà họ xa Zohra, tôi quyết định dành bốn trăm ngày tiếp theo để thương khóc họ, cho đúng phép và phải đạo: mười tang kỳ, mỗi kỳ bốn mươi ngày. Và rồi, và rồi, còn chuyện về Jamila Ca Sĩ…

      Em biết tin tôi mất tích trong chiến loạn ở Bangladesh; em người luôn thể tình khi quá muộn, có lẽ hơi phát điên vì cái tin này. Jamila, Giọng hát của Pakistan, Họa mi của Đức tin, đả ra mặt phản đối giới cầm quyền mới của Pakistan bị cắt xén, nhậy ăn và chiến tranh chia cắt; trong khi Ngài Bhutto tuyên bố trước Hội đồng Bảo an, “Chúng tôi xây dựng Pakistan mới! Pakistan tốt đẹp hơn! Đất nước tôi lắng nghe tôi!” em tôi công khai lên án ông ta; em, thuần khiết nhất trong những kẻ thuần khiết, nước nhất trong những người nước, nổi loạn khi nghe tin tôi chết. (Đó, ít ra, là cách nhìn của tôi; tất cả những gì tôi nghe được từ cậu tôi thuần túy là thông tin; ông thu thập chúng qua đường ngoại giao, kênh tin tức vào phán đoán tâm lý.) Hai ngày sau bài phê phán những kẻ châm ngòi chiến tranh, em tôi biến mất khỏi mặt đất. Cậu Mustapha cố gắng vỗ về tôi: “Nhiều chuyện rất tồi tệ xảy ra ngoài đó, Saleem; lúc nào cũng có người mất tích; ta phải tính đến tình huống xấu nhất.”

    6. ^^! Nếu bạn không gửi link bài viết trên Facebook được, hãy sử dụng link trong khung này để chia sẻ bài viết :