1. QUY ĐỊNH BOX EBOOK SƯU TẦM

    Khi các bạn post link eBook sưu tầm nhớ chú ý nguồn edit và Link dẫn về chính chủ

    eBook phải tải File trực tiếp lên forum (có thể thêm file mediafire, dropbox ngay văn án)

    Không được kèm link có tính phí và bài viết, hay quảng cáo phản cảm, nếu có sẽ ban nick

    Cách tải ebook có quảng cáo

Những Đứa Con Của Nửa Đêm - Salman Rushdie (30 Chương)

Thảo luận trong 'Truyện Phương Tây'

  • ^^! Nếu bạn không gửi link bài viết trên Facebook được, hãy sử dụng link trong khung này để chia sẻ bài viết :
    1. banglangtrang123

      banglangtrang123 Well-Known Member Staff Member Super Moderator

      Bài viết:
      26,213
      Được thích:
      47,825
      Chương 19: Mạc khải[1]




      [1] Mạc khải ( cách viết/đọc khác là Mặc khải), nghĩa đen trong tiếng Hán là “vén rèm lên”; còn nghĩa tôn giáo, theo định nghĩa của Linh mục Trần Văn Kiệm là “cho biết điều bí nhiệm”. Người dịch dùng chữ này để dịch chữ Revelation trong nguyên tác, nhằm giữ được màu sắc và dụ tôn giáo của văn bản.

      Om Hare Khusro Have Khusrovand Om





      Hãy biết, hỡi kẻ vô thần, rằng giữa Đêm tối mịt mùng của KHOẢNG VŨ TRỤ giữa buổi hồng hoang từng tồn tại tinh cầu KHUSROVAND thần thánh!!! Ngay cả GIỚI KHOA HỌC ĐẠI giờ đây cũng thừa nhận rằng hàng thế hệ qua họ DỐI TRÁ hòng bưng bít NHÂN LOẠI, những người có quyền được biết về TỒNG ĐÍCH THỰC Bấc Khả Tư Nghì[2] của XỨ SỞ THIÊNG LIÊNG CỦA !!! Các Trí thức hàng đầu TOÀN THẾ GIỚI, kể cả Mỹ quốc, tuyên truyền về MƯU CHỐNG TÔN GIÁO của cộng sản, DO THÁI, v.v…, nhằm giấu giếm THÔNG TIN SỐNG CÒN này! Nay Màn vén lên. ĐỨC KHUSRO thần thánh giáng hạ với Những Bằng Chứng Thể Chối Cãi. Hãy Đọc và Tin!

      [2] Tài liệu này có lẽ do mẹ của Cyrus viết ra nên có nhiều lỗi chính tả rất sơ đẳng.

      Hãy biết rằng hành tinh Khusrovand ĐÍCH THỰC – TỒN là nơi cư ngụ của các Thánh mà Thuần khiết Tinh thần đạt đến Cảnh giới khiến họ, qua TU TẬP THIỀN ĐỊNH &c., có được quyền năng VÌ LỢI ÍCH CHÚNG SINH, những quyền năng Ngoài Sức Tưởng Tượng! Họ NHÌN XUYÊN thép, và có thể BẺ CONG XÀ NHÀ bằng RĂNG!!!

      *** BÂY GIỜ ***


      Lần đầu tiên, quyền năng ấy được sử dụng


      Phục Vụ Các Bạn! ĐỨC KHUSRO


      *** ĐÂY ***


      Hãy nghe về Sụp Đổ của Khusrovand: tên XÍCH QUỶ Bhimutha (HẮC ÁM thay tên !) trút xuống trận Thiên Thạch Vũ ( được các ĐÀI THIÊN VĂN THẾ GIỚI ghi chép kỹ càng, nhưng Giải Thích)… CƠN MƯA ĐÁ kinh hoàng, đến mức Khusrovand tươi đẹp bị HỦY HOẠI và các Thánh bị TIÊU DIỆC.

      Nhưng Juraell cao quý và Khalila kiều diễm rất tỉnh táo. HY SINH BẢN THÂN trong tư thế nhập định của Pháp môn Kundalini[3], họ bảo tồn được LINH HỒN của đứa con chưa đản sinh, ĐỨC KHUSRO. Bước vào cảnh giới Nhất thể Đích thực trong Trạng thái Nhập định Yoga Siêu việt (mà quyền năng ngày nay được CÔNG NHẬN ở KHẮP THẾ GIỚI!), họ chuyển hóa Tinh thần Cao quý của mình thành Tia QUANG TUYẾN NĂNG LƯỢNG SINH LỰC KUNDALINI, mà tia LASER nổi tiếng ngày nay chỉ là bắt chước & Sao chép tầm thường. Thông qua TIA này, Linh hồn Khusro chưa đản sinh phi hành, vượt qua HỐ THẲM ĐÁY của Khoảng Vũ Trụ Vô Tận, đến khi MAY MẮN! mang nó đến Duniya (Thế Giới) của chúng ta & và yên vị trong TỬ CUNG người nữ chủ nhân khiêm nhường của Gia Đình Parsi Tử Tế.

      [3] Tiếng Sanskrit, nghĩa là con rắn. Yaga quan niệm rằng năng lượng tiềm của phụ nữ nằm cuộn tròn như rắn ở gốc xương sống.

      Vậy là Đứa Trẻ ra đời & Nhân phẩm chân chính & TRÍ TUỆ Vô song (ĐẬP TAN luận điệu DỐI TRÁ, rằng mọi người Sinh Ra Đều Bình Đẳng! Tiểu nhân và Thánh nhân có bình đẳng ? TẤT NHIÊN LÀ !!) Nhưng có THỜI GIAN khí chất thực của người bị giấu, cho tới khi vào vai vị Thánh Địa Cầu trong bộ phim TÂM LÝ (được CÁC NHÀ PHÊ BÌNH HÀNG ĐẦU khen ngợi, Thuần Khiết trong Diễn Xuất của Người Thách Thức mọi Tín Nệm), người THỨC TỈNH & biết MÌNH LÀ AI. Nay người lấy lại TÊN của mình,

      ĐỨC


      KHUSRO


      KHUSROVANI


      *BHAGWAN*


      và khiêm nhườngXuất Thế, với Vạch Tro Lông Mày Đấng Khổ Hạnh[4], để chữa lành Bệnh Tật và chấm dứt Hạn Hán & CHIẾN ĐẤU chống những Đạo quân của Bhimutha ở bất cứ đâu chúng TỚI. HÃY BIẾT SỢ! Vì MƯA ĐÁ của Bhimutha CŨNG trút xuống đầu chúng ta! Chớ tin những lời DỐI TRÁ của đám chính khách thi sĩ Cộng sản & vân vân. GỬI TRỌN NIỀM TIN vào Đức Thánh Duy Nhất Đích Thực.

      [4] Thần Shiva thường được minh họa có ba vạch tro màu trắng trán, tượng trưng cho ba vị thần, hoặc ba thế giới. Tro theo quan niệm của đạo Hindu là biểu tượng của cái chết và tái sinh. Các nhà tu khổ hạnh thờ Shiva thường bôi tro lên khắp cơ thể.

      KHUSRO KHUSRO KHUSRO


      KHUSRO KHUSRO KHUSRO


      & gửi tiền Quyên góp đến PO Box 555, Bưu Điện Trung Tâm,


      Bombay-1.


      PHÚC LÀNH! CÁI ĐẸP! !!!


      Om Hare Khusro Have Khusrovand Om


      Cyrus-đại-đế có nhà vật lý nguyên tử ở cương vị người cha và, trong vai trò người mẹ, giáo đồ cuồng tín mà đức tin trong bà ta lên men do bị đè nén nhiều năm dưới tư duy lý tính độc đoán của ông Dubash; và khi bố của Cyrus chết hóc vì quả cam mà mẹ nó quên gỡ hột, Bà Dubash tận lực xóa bỏ dấu ấn của người chồng quá cố khỏi tính cách của con trai – và nhào nặn lại Cyrus theo hình mẫu kỳ quái của chính bà ta, Cyrus-hôi-hám, đẻ trong nồi cám, vào năm bốn tám – Cyrus thằng thần đồng ở lớp – Cyrus vào vai Thánh Joan trong vở kịch của Shaw – tất cả những thằng Cyrus này, mà chúng tôi trở nên thân thuộc, mà chúng tôi lớn lên cùng, nay biến mất; và ở chỗ chúng mọc lên hình ảnh khoa trương, bình thản tựa cừu của Đức Khusro Khusrovand. Ở tuổi lên mười, Cyrus biến mất khỏi trường Cathedral và nổi lên như sao băng của vị guru giàu nhất Ấn Độ bắt đầu. (Có bao nhiêu người Ấn có bấy nhiêu Ấn Độ; và, khi đặt cạnh Ấn Độ của Cyrus, Ấn Độ của tôi xem ra quá đỗi trần phàm.)

      Tại sao nó để điều đó xảy ra? Tại sao poster chăng khắp thành phố, và quảng cáo rải kín báo chí, mà có lấy lời càu nhàu từ cậu bé thần đồng?... Bởi vì Cyrus (mặc dù nó thường lên lớp bọn tôi, cách phải là tinh quái, về các Bộ Phận Cơ Thể Phụ Nữ) kỳ thực là thằng nhóc thuộc loại dễ bảo nhất, và bao giờ nghĩ đến chuyện bật lại mẹ nó. Vì mẹ, nó mặc thứ váy kim tuyến và đội khăn xếp; để trọn đạo làm con, nó cho phép hàng triệu tín đồ hôn ngón tay út của mình. Nhân danh lòng hiếu thảo, nó hết lòng vào vai Đức Khurso, đức thánh hài đồng thành công nhất trong lịch sử; chẳng bao lâu nó được những đám đông nửa triệu người tung hô, rồi gán cho mọi điều kỳ diệu; những tay guitar người Mỹ đến ngồi dưới chân nó, tất cả đều mang theo sổ séc. Đức Khusrovand sở hữu đội kế toán, các thiên đường thuế[5], du thuyền sang trọng đặt tên là Khusrovand Starship, chiếc máy bay – Chuyên cơ Ngàn sao của Đức Khusro. Và đâu đó trong thằng bé với nụ cười yếu ớt, ngừng rắc rải hồng ân ấy… ở nơi vĩnh viễn bị giấu dưới cái bóng có uy lực đáng sợ của mẹ nó (bà ta, xét cho cùng, từng sống dưới mái nhà với đám phụ nữ nhà Narlikar; ai biết bà ta thân cận với họ thế nào? Ai biết cái oai phong ghê gớm của họ rỉ sang bà ta tới đâu?), phảng phất bóng ma của thằng bé từng là bạn tôi.

      [5] Những quốc gia/vùng lãnh thổ có thuế thu nhập thấp. Giới nhà giàu thường chuyển tài sản đến hoặc định cư ở đây để tránh phải đóng nhiều thuế.

      “Là Đức Khusro ấy à?” Padma hỏi, vẻ kinh ngạc. “Ông định về vị mahaguru[6] vừa chết đuối ở biển năm ngoái?” Phải, Padma; ông ta thể mặt nước; và rất ít người từng tiếp xúc với tôi lại được an hưởng cái chết tự nhiên… hãy cho phép tôi thú nhận rằng tôi có phần cay cú trước việc Cyrus được tôn sùng như thánh sống. “Lẽ ra đó phải là mình,” tôi nghĩ vậy. “Mình mới là đứa trẻ thần kỳ; thế mà chỉ vị thế độc tôn trong nhà, mà kể cả phẩm chất đích thực, sâu thẳm trong tôi, nay cũng bị nẫng mất.”

      [6] Maha + guru. Maha tiếng Hindi nghĩa là lớn, vĩ đại.

      Padma: tôi chưa từng trở thành “mahaguru”; hàng triệu người chưa từng ngồi dưới chân tôi; và đó là lỗi của tôi, bởi vì ngày, nhiều năm trước, tôi nghe bài giảng của Cyrus về các Bộ Phận Cơ Thể Phụ Nữ.

      “Hả?” Padma lắc đầu, khó hiểu. “Lại gì nữa đây?”

      Nhà vật lý nguyên tử Dubash sở hữu bức tượng tuyệt mỹ bằng cẩm thạch – thiếu nữ khỏa thân – và với trợ giúp của pho tượng, con trai ông thuyết trình những bài giảng chuyên môn về giải phẫu sinh lý phụ nữ cho khán giả là bọn nhóc cười rúc rích. cho ; Cyrus-đại-đế có tính phí. Đổi lấy bài học giải phẫu, nó đòi truyện tranh – và tôi, quá đỗi ngây thơ, nộp cho nó tập quý giá nhất trong bộ Supermam, tập giới thiệu cốt truyện, về vụ nổ ở Hành tinh Krypton và chiếc phi thuyền-tên lửa mà Jor-El cha cậu bé gửi cậu vượt gian, hạ cánh xuống trái đất và được vợ chồng nhà Kent hiền lành, trung hậu nuôi nấng… chẳng lẽ ai nhìn ra? Suốt ngần ấy năm, chẳng lẽ ai hiểu rằng điều Bà Dubash làm là cải biên rồi tái chế huyền thoại có tầm ảnh hưởng nhất trong số các huyền thoại đại – truyền thuyết về xuất của Siêu nhân? Tôi nhìn những biển quảng cáo thổi kèn giong trống về giáng hạ của Đức Khusro Khusrovand Bhagwan; và thấy mình, lần nữa, buộc phải nhận trách nhiệm về những kiện của cái thế giới hỗn độn, hoang đường của tôi.



      Tôi ngưỡng mộ cơ chân của Padma chăm chú của tôi biết mấy! ngồi xổm ở đó, cách tôi vài bước, sari xắn lên kiểu dân chài. Cơ bắp chân có dấu hiệu gì là căng cứng; cơ đùi, hằn lên những nếp dưới lớp sari, bộc lộ dẻo dai đáng khen ngợi. Đủ khỏe để ngồi xổm mãi, đồng thời thách thức cả trọng lực và cơn chuột rút, Padma của tôi nhẩn nha lắng nghe câu chuyện dài dòng tôi kể; Ôi nữ cường nhân rau quả dầm! Yên lòng biết bao vẻ chắc nịch, vỗ về biết mấy cảm giác vững chãi toát ra từ bắp tay … vì niềm ngưỡng mộ của tôi còn lan sang cánh tay , đôi tay có thể vật tay tôi xuống trong tích tắc, và, khi siết lấy tôi hàng đêm trong những cái ôm vô ích, cho tôi cơ hội trốn thoát. Giờ qua cơn khủng hoảng, chúng tôi sống trong hòa hợp tuyệt đối: tôi kể, nghe tôi kể; chăm sóc, và tôi vui lòng đón nhận chăm sóc của . Tôi, thực tế, hoàn toàn mãn nguyện với chất cơ bắp phàn nàn ở Padma Mangroli, người, hiểu vì đâu, lại hứng thú với tôi hơn là câu chuyện của tôi.

      Vì sao tôi lại quyết định diễn giải về hệ thống cơ bắp của Padma: những ngày này, bởi, vì chính những cơ bắp ấy, kém bất cứ điều gì hay người nào (chẳng hạn con trai tôi, hãy còn chưa biết đọc), mà tôi kể câu chuyện này. Bởi tôi lao về phía trước với tốc độ chóng mặt; sai sót là khó tránh, và cường điệu, và những biến đổi xung đột nhau về giọng điệu; tôi chạy đua với những vết nứt, nhưng tôi vẫn ý thức được rằng có những sai sót, và rằng, khi quá trình phân rã của tôi tăng tốc (tốc độ viết của tôi phải chật vật mới theo kịp), nguy cơ về tính bất khả tín tăng lên… trong hoàn cảnh ấy, tôi học cách lấy cơ bắp của Padma làm chỉ dấu cho mình. Khi chán, tôi phát trong thớ thịt những nếp nhăn hờ hững; khi thấy thiếu thuyết phục, má bắt đầu giật khẽ. Vũ điệu của hệ thống cơ bắp của giúp tôi chệch đường ray; bởi vì trong tự truyện, cũng như trong mọi loại hình văn học, điều thực diễn ra quan trọng bằng điều tác giả thuyết phục được độc giả tin vào… Padma, với việc chấp nhận câu chuyện về Cyrus-đại-đế, cho tôi dũng khí đẩy nhanh tiến độ, bước vào thời kỳ thê thảm nhất trong năm thứ mười của đời tôi (những điều tồi tệ hơn còn, còn, ở phía trước) – vào tháng Tám-và-Chín, khi mạc khải trào ra nhanh hơn máu.




      Mấy tấm biển gật gù được hạ xuống chưa bao lâu đội giải phóng mặt bằng của đám đàn bà nhà Narlikar tiến vào; Biệt thự Buckingham bị bao trùm trong cơn bão bụi ầm ào từ những cung điện chết của William Methwold. Được bụi che khuất tầm nhìn từ đường Warden phía dưới, chúng tôi mặc dù vậy vẫn bị tổn thương qua đường điện thoại; và chính điện thoại báo tin, qua giọng run rẩy của mợ Pia, về việc chú Hanif thân của tôi tự tử. Mất khoản thu nhập từ Homi Catrack, cậu tôi đem theo giọng rền vang và nỗi ám ảnh về những con cơ và về thực lên nóc tòa nhà ở Marine Drive; cậu bước ra giữa làn gió biển buổi tối, và (khi rơi xuống) làm cho đám ăn mày kinh hãi tới mức họ thôi giả mù mà vừa la hét vừa chạy tán loạn… lúc chết cũng như lúc sống, Hanif Aziz giương cao ngọn cờ và khiến giả tạo phải tháo chạy. Cậu mới gần ba mươi tư tuổi. Án mạng sản sinh ra cái chết; khi giết Homi Catrack, tôi đồng thời giết cậu mình. Đó là lỗi của tôi; và chết chóc vẫn chưa dừng ở đó.

      Cả đại gia đình họp mặt tại Biệt thự Buckingham: từ Agra, Aadam Aziz và Mẹ Bề ; từ Delhi, cậu Mustapha, người Công Chức trau chuốt kỹ năng tán đồng ý kiến của cấp đến độ họ buồn lắng nghe cậu nữa, nguyên do khiến cậu chẳng bao giờ được đề bạt; cùng vợ Sonia nửa Iran và mấy đứa con bị đánh nhừ tử đến đần đụt cả người , khiến tôi nhớ nổi là có bao nhiều đứa; và từ Pakistan, bác Alia cay đắng, cả Đại tướng Zulfikar và dì Emerald, mang theo hai mươi bảy kiện hành lý với hai người hầu, và ngừng xem đồng hồ và hỏi hôm nay ngày mấy. Thằng Zafar con họ cũng tới. Và, để cho đủ mặt, mẹ tôi đưa mợ Pia đến ở nhà chúng tôi, “ít ra là trong bốn mươi ngày tang kỳ, em dâu ạ.”

      Suốt bốn mươi ngày, chúng tôi bị vây hãm trong bụi; bụi luồn vào dưới những tấm khăn bông ướt chẹn quanh mọi cửa sổ, bụi ranh mãnh lẻn vào theo mỗi người đến viếng, bụi ngấm qua tường rồi lơ lửng như vòng hoa tang hình thù trong khí, bụi nhấn chìm những tiếng khóc than theo nghi thức và những lời rỉa rói cay nghiệt của đám họ hàng đau khổ; tàn dư của Điền trang Methwold lắng xuống người bà tôi và kích động bà nổi cơn cuồng nộ; chúng làm lỗ mũi bị bóp hẹp của Đại tướng Zulfikar mặt Punchinello ngứa ngáy và khiến ông ta hắt xì vào cằm mình. Giữa màn sương bụi ma quái, đôi khi chúng tôi dường như có thể nhận thấy những hình hài của quá khứ, ảo ảnh chiếc pianola bị nghiền nát vụn của Lila Sabarmati hay song sắt nhà tù cửa sổ xà lim của Toxy Catrack; bức tượng khỏa thân của ông Dubash nhảy múa dưới dạng bụi qua các phòng, và đám poster đầu bò của Sonny Ibrahim viếng thăm chúng tôi như những đám mây. Đám đàn bà nhà Narlikar dọn trong lúc xe ủi làm việc; chỉ còn lại mình chúng tôi giữa cơn bão bụi, khiến tất cả mọi người có vẻ ngoài của đồ đạc bị bỏ quên, như thể chúng tôi là những bàn ghế bị vứt bỏ hàng thập niên ga phủ; tất cả nhìn như hồn ma của chính mình. Chúng tôi là vương triều sinh ra từ cái mũi – con quái vật mỏ khoằm mặt Aadam Aziz, và bụi, xâm nhập vào lỗ mũi chúng tôi trong thời kỳ tang trở, phá vỡ kiềm chế của mọi người, bào mòn các khuôn khổ cho phép mỗi gia đình tồn tại; trong cơn bão bụi của những cung điện chết, tất cả và thấy và làm những điều mà từ đó chúng tôi vĩnh viễn thể phục hồi.

      Tất cả bắt đầu từ Mẹ Bề , có lẽ vì năm tháng làm bà lên cân cho đến khi trông bà giống ngọn núi Sankara Acharya tại Srinagar quê bà, nên bà phơi bày diện tích bề mặt lớn nhất cho bụi tấn công. Từ cơ thể như núi của bà sầm sập đổ xuống thanh như tuyết lở, mà, khi biến thành lời, trở thành trận công kích dữ dội nhắm vào mợ Pia, người góa phụ đau khổ. Chúng tôi đều nhận thấy mumani của tôi xử bất thường. Có cảm giác ai ra, rằng diễn viên với vị thế như mợ lẽ ra phải đáp ứng thách thức cho vai trò quả phụ cách xứng tầm; trong vô thức chúng tôi háo hức được thấy mợ đau khổ, chờ đợi được xem đào thương tài sắc biên diễn thảm kịch của bản thân, mong ngóng vở raga[7] bốn mươi ngày trong đó tài hoa và nhuần nhị, đau thương thảm thiết và tuyệt vọng thầm hòa quyện trong tỷ lệ chuẩn mực của nghệ thuật; nhưng Pia vẫn câm lặng, mắt khô, và trấn tĩnh đến mức làm ai nấy đều cụt hứng. Amina Sinai và Emeralad Zulfikar gào khóc rồi bứt tóc, gắng khơi dậy ngọn lửa tài năng trong Pia; nhưng cuối cùng, khi có vẻ như gì lay chuyển nổi Pia, Mẹ Bề mất kiên nhẫn. Bụi ngấm vào cơn thịnh nộ vì thất vọng ở bà gia tăng độ cay nghiệt của nó. “Con đàn bà ấy, cáigìkhôngbiết,” Mẹ Bề gầm lên, “tao bảo mà? Con trai tao, Allah, đáng lẽ nó phải thành đạt lắm, nhưng , cáigìkhôngbiết, nó buộc thằng bé hủy hoại đời mình; nó phải nhảy khỏi mái nhà, cáigìkhôngbiết, để thoát được ả.”

      [7] Tiếng Phạn nghĩa là màu sắc, sắc thái. Đây là loại hình nhạc cổ truyền của Ấn Độ, thường dùng để biểu đạt những sắc thái cảm xúc tôn giáo.

      Lời thốt ra; thể thu lại. Pia như hóa đá; nội tâm tôi lẩy bẩy như bánh bột ngô. Mẹ Bề hầm hầm tiếp tục; bà thề độc từng sợi tóc đầu đứa con trai chết. “Chừng nào nó chưa tỏ lòng thương xót con tao, cáigìkhôngbiết, chừng nào nó chưa rỏ nước mắt cho đáng mặt làm vợ, đừng hòng tao ăn lấy miếng. Xấu xa ô nhục thay, cáigìkhôngbiết, cái cách nó ngồi đó với antimony mặt thay vì nước mắt!” Ngôi nhà rung động với tiếng vọng này của cuộc chiến cũ giữa bà và Aadam Aziz. Và đến ngày thứ hai mươi trong bốn mươi ngày, ai nấy đều sợ bà tôi chết vì đói và bốn mươi ngày này phải bắt đầu lại từ đầu. Bà nằm cát bụi phủ đầy giường; chúng tôi chờ đợi và lo sợ.

      Tôi phá vỡ thế bế tắc giữa bà và mợ tôi; do vậy ít ra tôi có thể chính đáng tự nhận là cứu mạng người. Vào ngày thứ hai mươi, tôi tìm Pia lúc ấy ngồi đờ đẫn như người mù trong căn phòng ở tầng trệt; để kiếm cớ cho cuộc viếng thăm, tôi vụng về xin lỗi về những hành vi nông nổi của mình ở căn hộ Marine Drive. Pia lên tiếng, sau lúc im lặng xa vắng, “Bao giờ cũng kịch,” mợ , bình thản, “Cả ở người thân, cả trong công việc. ấy chết vỉ căm ghét những gì kịch; vì thế ta khóc.” Lúc đó tôi hiểu; nhưng giờ tôi biết Pia Aziz hoàn toàn đúng. Bị tước sinh kế vì vứt bỏ phong thái giật gân rẻ tiền của điện ảnh Bombay, cậu tôi sải bước ra khỏi mái nhà; kịch khơi cảm cảm hứng cho (và, có lẽ, làm hoen ố) cú nhảy trở lại mặt đất[8] sau cùng của cậu. Pia nhất định khóc là để tỏ lòng tưởng nhớ cậu… song nỗ lực thừa nhận điều này khoan thủng bức tường tự chủ của mợ. Bụi khiến mợ hắt xì; cơn hắt xì khiến nước mắt trào dâng; và giờ nước mắt chảy khôn dừng, và cuối cùng chúng tôi đều được chứng kiến màn trình diễn tất cả kỳ vọng, bởi khi chảy chúng thảy như Đài phun nước Flora, và chính mợ cũng cưỡng lại được tài năng của mình; mợ định hình cơn lũ bằng bản năng của người nghệ sĩ, triển khai từng chủ đề xuyên suốt và các mô típ phụ trợ, rồi đấm bộ ngực kỳ vĩ theo cách khiến người ta nhìn mà đau lòng, khi vò bóp, khi đập liên hồi… mợ xé quần áo và bứt tóc. Đấy là cơn trào dâng của nước mắt, và nó thuyết phục được Mẹ Bề ăn uống. Dal và hạt dẻ cười chạy vào bà tôi trong khi nước muối từ mợ tôi trào ra như lũ. Lúc này Naseem Aziz sụp xuống cạnh Pia, ôm lấy mợ, biến màn độc diễn thành song tấu, pha trộn điệu nhạc chị em giảng hòa với những hòa đẹp đẽ khó cầm lòng nỗi đau thương. Tay chúng tôi ngứa ngáy niềm tán thưởng khó bề diễn tả. Và cao trào hãy còn ở phía trước, vì Pia, người nghệ sĩ, đưa nỗ lực bi tráng của mình đến hồi kết tuyệt đích. Gục đầu trong lòng mẹ chồng, mợ bằng giọng phục tùng và trống rỗng, “Mẹ, con bất hiếu cuối cùng xin nghe lời mẹ; mẹ bảo con làm gì, con làm nấy.” Và Mẹ Bề , giàn giụa nước mắt: “Con ơi, Aziz cha con và ta sắp Rawalpindi; chúng ta an hưởng tuổi già ở gần đứa con út, Emerald. Con cùng, ta mua cho con trạm xăng.” Và thế là giấc mơ của Mẹ Bề bắt đầu thành , và Pia Aziz bằng lòng từ bỏ thế giới phim ảnh đổi lấy thế giới xăng dầu. Cậu Hanif tôi chắc hẳn tán thành, tôi nghĩ vậy.

      [8] Nguyên văn dive to earth (nhảy xuống đất) đọc gần giống down to earth nghĩa là viễn vông, thực tế.

      Bụi tác động tới tất cả chúng tôi trong bốn mươi ngày ấy; nó làm Ahmed Sinai cáu bẳn và gắt gỏng, nên ông nhất định bồi tiếp các ông em đồng hao và bắt Alice Pereira chuyển thông điệp đến mọi người than khóc, những thông điệp được chính ông gào lên từ văn phòng: “Bé cái mồm lại! Tôi phải làm việc giữa lúc om sòm ầm ĩ này đây!” Điều này khiến Đại tướng Zulfikar và Emerald liên tục xem lịch ngày và lịch chuyến bay, trong khi thằng Zafar con họ bắt đầu bốc phét với con Khỉ Đồng rằng nó bảo bố nó sắp xếp cho hai đứa lấy nhau. “Mày thế là may mắn lắm đấy,” thằng em họ hợm hĩnh này bảo em tôi, “Bố tao là đại gia ở Pakistan.” Nhưng mặc dù Zafar thừa kế ngoại hình của bố nó, bụi đè nén khí phách của con Khỉ Đồng, nên nó chẳng lòng dạ nào choảng nhau với thằng kia. Trong khi đó, bác Alia phát tán nỗi thất vọng xa xưa, bụi bặm của mình trong khí, và những người họ hàng kỳ dị nhất của tôi, gia đình cậu Mustapha, ngồi lầm lì ở góc nhà và bị lãng quên như thường lệ; bộ ria của Mustapha Aziz, được vuốt sáp và hai đầu vểnh lên cách kiêu hãnh khi cậu mới tới, từ lâu rủ xuống dưới tác động đầy trầm uất của bụi.

      Và rồi, vào ngày thứ hai mươi hai của tang kỳ, ông tôi, Aadam Aziz, nhìn thấy Chúa.



      Năm ấy ông tôi sáu mươi tám tuổi – vẫn già hơn thế kỷ này mười tuổi. Nhưng mười sáu năm thiếu vắng lạc quan để lại hậu quả nặng nề; mắt ông vẫn xanh, nhưng lưng còng. Lê bước quanh Biệt thự Buckingham trong chiếc mũ chỏm thêu và chiếc áo chugah dài – cũng bị phủ lớp bụi mỏng – ông trệu trạo nhai cà rốt sống, ứa từng sợi nước bọt xuống bờ cằm màu trắng với hàm râu muối tiêu. Và trong khi ông tàn tạ, Mẹ Bề ngày càng to hơn và khỏe hơn; bà, người từng mếu máo cách tội nghiệp khi trông thấy Mercurochrome, nay dường như lại lớn mạnh suy yếu của ông, như thể cuộc hôn nhân của họ là thứ phối ngẫu huyền bí, trong đó ả hồ ly đội lốt nàng khuê nữ ngây thơ thân trước mắt người đàn ông, và, sau khi dẫn dụ họ đến cuộc động phòng hoa chúc, liền khôi phục bản chất , đáng sợ của mình và bắt đầu hút cạn linh hồn họ… bà tôi, hồi ấy, mọc ra bộ ria tươi tốt kém hàng ria trĩu bụi môi đứa con trai duy nhất còn sống là mấy. Bà ngồi khoanh chân giường, phết lên môi chất lỏng bí hiểm đóng cứng lại quanh bộ ria rồi bị bàn tay mạnh mẽ, quả quyết, giật ra; nhưng bài thuốc ấy chỉ càng làm quái chứng này trầm trọng thêm.

      “Ông ấy thành ra như đứa trẻ, cáigìkhôngbiết,” Mẹ Bề bảo các con của ông tôi, “và Hanif kết liễu ông ấy,” Bà cảnh báo chúng tôi rằng ông bắt đầu nhìn thấy nhiều thứ. “Ông ấy chuyện với người vô hình,” bà lớn tiếng thầm trong khí ông vừa tha thẩn trong phòng vừa mút răng, “Ông ấy gọi tướng lên, cáigìkhôngbiết! Giữa canh khuya!” Và bà nhại ông: “Hô, Tai? Bác đấy à?” Bà kể cho lũ trẻ bọn tôi nghe về người lái đò, về con Chim ngân nga, và về Quận chúa xứ Cooch Naheen. “Ông lão tội nghiệp sống quá lâu, cáigìkhôngbiết; người làm cha nên nhìn thấy con mình chết trước.”… Và Amina, lắng nghe, lắc đầu thông cảm, hề biết rằng Aadam Aziz để lại cho bà di sản này – rằng cả bà, trong những ngày cuối đời, được những thứ chẳng có lý do gì để quay lại viếng thăm.

      Chúng tôi thể dùng quạt trần vì bụi; mồ hôi chảy xuống mặt người ông quỵ ngã của tôi và lưu lại những vệt bùn má ông. Thỉnh thoảng ông lại túm lấy bất cứ ai ở gần, rồi hết sức tỉnh táo: “Chừng nào chưa tự lập làm vua cha truyền con nối cái nhà Nehru[9] này chưa vừa lòng đâu!” Hoặc, nhểu dãi vào mặt Tướng Zulfikar đương rúm ró: “À, Pakistan bất hạnh! Giới cầm quyền phụng đất nước chả ra gì!” Nhưng những lúc khác dường như ông tưởng tượng ra mình ở trong hiệu đá quý, và lẩm bẩm, “… Ừ: có ngọc lục bảo và hồng ngọc…” Con Khỉ thầm với tôi, “Ông sắp chết à?”

      [9] Jawaharial Nehru là Thủ tướng đầu tiên của Ấn Độ. Con ông, Indira Gandhi, và cháu ngoại ông, Rajiv Gandhi, đều là Thủ tướng nước này.

      Điều rỉ từ Aadam Aziz sang tôi: tính dễ tổn thương trước phụ nữ, và cả căn nguyên của nó, nghĩa là cái lỗ ở trung tâm của ông, hệ quả của thất bại của ông (mà cũng là của tôi) trong việc tin hoặc tin ở Chúa. Và điều nữa – điều mà, ở tuổi mười , tôi nhận ra trước tất cả mọi người. Ông tôi bắt đầu rạn nứt.

      “Ở đầu à?” Padma hỏi, “Ý ông là não có vấn đề?”

      Lão lái đò Tai bảo: “Băng giá luôn rình rập, Aadam baba, ngay dưới mặt nước thôi.” Tôi nhìn thấy vết rạn trong mắt ông – đường gân màu, mỏng mảnh nền xanh; tôi thấy mạng lưới những đường nứt lan tỏa dưới làn da sần sùi của ông; và tôi trả lời câu hỏi của con Khỉ: “ nghĩ vậy.” Khi bốn mươi ngày tang kỳ chưa kết thúc, da ông bắt đầu nứt và rụng và tróc; ông gần như há miệng ăn được bởi vì khóe môi nứt nẻ; còn răng ông bắt đầu rụng lả tả như ruồi dính Flit[10]. Nhưng cái chết rạn nứt có thể rất chậm; và khá lâu sau chúng tôi mới biết về những vết nứt khác, về chứng bệnh gặm nhấm xương ông, khiến cuối cùng xương cốt ông rã tan thành bột trong cái bao dãi dầu mưa nắng từng là bộ da của ông.

      [10] nhãn hiệu thuốc diệt côn trùng của Mỹ phổ biến trong thời kỳ 1930-1960.

      Padma đột nhiên có vẻ hoảng hốt. “Ông gì vậy? Này ông: có phải ý ông là ông cũng… thứ quái quỷ gì lại ăn mòn được cả xương người? Có phải…”

      có thời gian để dừng lại lúc này; có thời gian để thông cảm hay sợ hãi; tôi xa hơn mức cần thiết. Lùi lại đôi chút về thời gian, tôi phải rằng cũng thứ từ tôi rỉ sang Aadam Aziz; bởi vì vào ngày thứ hai mươi ba của tang kỳ, ông cầu toàn gia đình tập hợp trong chính căn phòng của bình pha lê (khỏi cần giấu chúng vì cậu tôi nữa) và nệm gối, và quạt trần bất động, chính căn phòng nơi tôi từng thông báo về những huyễn tưởng của mình… Mẹ Bề từng , “Ông ấy thành như đứa trẻ”; như đứa trẻ, ông tôi thông báo rằng, ba tuần sau khi biết tin về cái chết của đứa con trai mà ông ngỡ sống yên vui, ông tận mắt nhìn thấy Chúa, đức Chúa với cái chết mà ông cố gắng cả đời để tin vào. Và, như với đứa trẻ, chẳng ai tin ông. Trừ người… “Phải, nghe đây,” ông , lời ông là mô phỏng yếu ớt của giọng rền vang ngày xưa, “Ừ, Quận chúa? Ngài có đây ? Và Abdullah? Lại ngồi , Nadir, có tin mới đây – Ahmed đâu? Alia muốn nó có mặt… Chúa, các con ạ; Chúa, người ta đối kháng suốt cuộc đời. Oskar? Ilse? – , dĩ nhiên. Ta biết họ chết rồi. Các con nghĩ ta già rồi, khéo còn lẩn thẩn nữa; nhưng ta gặp Chúa.” Và câu chuyện, dù dông dài và ngắt quãng, nhưng từ từ hé lộ: lúc nửa đêm, ông tỉnh giấc trong căn phòng tối. Có ai đó ở đây – ai đó, phải vợ ông. Mẹ Bề , vẫn ngáy giường. Nhưng có ai đó. Ai đó với lớp bụi phát sáng người, phản quang từ vầng trăng sắp lặn. Và Aadam Aziz, “Hô, Tai? Bác đấy à?” Và Mẹ Bề , ú ớ trong giấc ngủ, “Ối, ngủ , ông nó, quên chuyện đó …” Nhưng cái người nọ, cái vật nọ, lại kêu lên (làm ông) thảng thốt, “Đức Jesus Christ Toàn năng!” (Giữa đám bình pha lê mài, ông tôi cười hê hê với vẻ ăn năn, vì trót nhắc đến cái tên dị giáo.) “Đức Jesus Christ Toàn năng!” và ông tôi nhìn, và thấy, phải, hai bàn tay thủng lỗ chỗ, hai bàn chân rỗ liu riu, như ông từng thấy ở … Nhưng ông dụi mắt, lắc lắc đầu, cất tiếng: “Ai? Tên gì? gì thế?” Và nhân ảnh nọ, thảng thốt, và làm ông cũng thảng thốt, “Chúa! Chúa!” Và sau khắc im lặng, “Ta nghĩ là ông nhìn thấy ta.”

      “Nhưng ta nhìn thấy Ông ta,” ông dưới những cánh quạt trần bất động. “Phải, ta thể phủ nhận, chắc chắn ta thấy”… Và nhân ảnh: “Ông là người có đứa con trai mới chết”; và ông tôi, cơn đau dậy lên trong ngực: “Tại sao? Tại sao lại thế?” Sinh vật nọ, sở dĩ hình vì bụi phủ lên, đáp lời: “Chúa có lý do của mình, ông lão ạ; đời là thế mà, phải ?”

      Mẹ Bề cho chúng tôi giải tán. “Ông lão hiểu mình gì đâu, cáigìkhôngbiết. Đúng là, đầu hai thứ tóc rồi đâm ra báng bổ!” Nhưng Mary Pereira ra với gương mặt trắng bệch như ga trải giường; Mary biết Aadam Aziz nhìn thấy ai – người, mục rữa vì gánh chịu trách nhiệm về tội lỗi của , cả chân tay đều thủng lỗ chỗ; người bị rắn cắn xuyên gót chân; người chết trong ngọn tháp đồng hồ gần đó, và bị nhận nhầm là Chúa.

      Tôi có thể kết thúc câu chuyện của ông tôi ngay ở đây, lúc này; tôi kể đến tận đây, và chưa chắc sau này còn cơ hội nữa… đâu đó thẳm sâu trong tình trạng lão suy của ông, cái tình trạng khiến tôi khỏi nhớ đến điên rồ của giáo sư Schaapsteker ở tầng , bắt rễ ý niệm cay đắng rằng Chúa, với thái độ hờ hững trước việc Hanif tự sát, chứng tỏ ông ta có tội trong việc này; Aadam nắm chặt ve áo nhà binh của Đại tướng Zulfikar và thào: “Vì ta chưa bao giờ tin, cướp con trai ta!” Và Zulfikar: “, , Sahib Bác sĩ, ông đừng nên tự làm khổ mình…” Nhưng Aadam Aziz bao giờ quên những gì ông thấy, dù chi tiết về vị thần linh cụ thể mà ông gặp cứ nhòa dần trong tâm trí ông, chỉ để lại cơn thèm khát mãnh liệt và dãi là được báo thù ( nỗi khao khát quen thuộc với cả hai chúng tôi)… khi kết thúc bốn mươi ngày tang kỳ, ông từ chối Pakistan (theo kế hoạch của Mẹ Bề ) bởi đó là đất nước được xây nên dành riêng cho Chúa; và trong những năm cuối đời ông thường gây tai tiếng khi lập cập chống gậy bước vào các thánh đường và đền thờ, buông lời chửi rủa và quật bất kỳ tín đồ hay giáo sĩ nào ở trong tầm gậy. Ở Agra, mọi người chịu đựng ông vì kính trọng đức độ của ông ngày trước; mấy ông già ở hàng trầu Đường Conrwallis chơi trò phụt-ống-nhổ và hồi tưởng trong niềm thương cảm về quá khứ của Sahib Bác sĩ. Mẹ Bề đành nhượng bộ ông, nếu vì lý do nào khác chính là lý do này – tính đả phá tín ngưỡng trong hành vi lẩm cẩm của ông chắc chắn gây tai tiếng tại đất nước nơi chẳng ai biết về ông.

      Bên dưới những lẩn thẩn và giận dữ của ông, những vết nứt tiếp tục lan rộng; căn bệnh này gặm sồn sột xương ông, trong khi thù hằn ăn nốt những phần còn lại. Tuy nhiên, mãi đến 1964, ông mới qua đời. Chuyện xảy ra như sau: ngày thứ Tư, 25 tháng Mười hai năm 1963 – vào đúng Giáng sinh! – Mẹ Bề thức giấc, và thấy chồng đâu. Chạy bổ ra sân nhà, giữa bầy ngỗng kêu phì phì và ánh hừng đông nhàn nhạt, bà gọi người giúp việc; và được báo rằng Sahib Bác sĩ bắt xe kéo chạy ra ga. Khi bà ra tới ga, tàu khởi hành; và cứ như thế ông tôi, nghe theo niềm thôi thúc tên, bắt đầu hành trình cuối cùng của mình, để ông có thể kết thúc câu chuyện của ông ở nơi đó (và chuyện của tôi) khởi đầu, tại thành phố có núi non bao quanh và nằm mặt hồ.

      Thung lũng náu mình trong chiếc vỏ trứng bằng băng, núi non tiến lại gần, như hàm răng giận dữ ngoác miệng ngoạm lấy thành phố hồ… mùa đông ở Srinagar; mùa đông ở Kashmir. Vào thứ Sáu, ngày 27 tháng Mười hai, người ta trông thấy người đàn ông trùng khớp về nhân dạng với ông tôi, khoác chugha, mồm chảy dãi, ở gần Thánh đường Hazratbal. Vào bốn giờ bốn mươi lăm phút sáng thứ Bảy, Haji Muhammad Khakil Ghanai phát ra, ở nội điện của Thánh đường, vụ đánh cắp thánh tích trân quý nhất của thung lũng; sợi tóc thiêng của Đấng Tiên tri Muhammad.

      Là ông? phải ông? Nếu là ông, vì sao ông vào Thánh đường, gậy trong tay, và nện các tín đồ như ông quen làm? Nếu phải ông, tại sao? Có tin đồn về mưu của Chính quyền Trung ương “làm nhụt ý chí của cộng đồng Hồi giáo Kashmir”, bằng cách đánh cắp sợi tóc thiêng của họ; và cả những tin đồn trái chiều về các agent provocateur[11]của Pakistan, những kẻ chắc hẳn ăn trộm thánh tích nhằm châm ngòi bạo loạn… phải ? Hay phải? Tai biến kỳ lạ này kỳ thực là mưu chính trị, hay là nỗ lực tối hậu nhằm trả thù Đức Chúa của người cha mất con? Trong mười ngày, gian bếp đạo Hồi nào đỏ lửa; dân tình bạo động và đốt xe cộ; nhưng ông tôi nay đứng chính trị, và ai thấy ông gia nhập đoàn biểu tình nào. Ông là người mang sứ mệnh đơn độc; và người ta chỉ biết rằng vào ngày 1 tháng năm 1964 (nghĩa là thứ Tư, chỉ tuần sau khi ông rời Agra), ông hướng về quả đồi được các tín đồ đạo Hồi gọi cách sai lầm là Takht-e-Sulaiman, ngai vàng của Solomon, đỉnh sừng sững cột phát thanh, và nốt rộp đen hình ngôi đền của Acharya[12] Sankara. Bỏ lại sau cơn hoang mang của cả thành phố, ông trèo lên; trong khi chứng rạn nứt bên trong cần mẫn gặm mòn xương ông. ai nhận ra ông.

      [11] Những đối tượng được thuê để kích động người khác có hành vi phạm pháp.

      [12] Người có đạo hạnh, đóng vai trò hướng dẫn tín đồ tụ tập tôn giáo. (Adi) Shankara là bậc thầy có tầm ảnh hưởng rộng lớn của Ấn Độ giáo (sinh/mất vào khoảng 788-820 Công nguyên).

      Bác sĩ Aadam Aziz ( về lại Heidelberg) chết năm ngày trước khi Chính quyền thông báo cuộc truy tìm quy mô lớn sợi tóc độc nhất của Nhà Tiên tri thắng lợi. Khi các bậc rất thánh của Quốc gia tề tựu để xác minh sợi tóc, ông tôi chẳng thể cho họ biết được nữa. (Nếu họ nhầm… nhưng tôi thể giải đáp câu hỏi tôi vừa đặt ra.) Bị bắt – và sau đó được phóng thích do sức khỏe yếu – là gã Abdul Rahim Bande nào đó; nhưng có lẽ ông tôi, ví thử ông còn sống, rọi ánh sáng kỳ lạ hơn vào vụ này… giữa trưa ngày 1 tháng , Aadam Aziz lên đến ngoài đền Sankara Acharya. Người ta thấy ông vung cây can lên; trong đền, những người đàn bà làm lễ puja trước bệ Shiva-linga[13] rụt lại – như đàn bà từng rụt lại trước cơn thịnh nộ của bác sĩ khác, bị ám ảnh về tetrapod; vừa lúc đó rạn nứt chiếm lĩnh ông, chân ông rũ xuống trong khi xương ông tan rã, và chấn động của cú ngã khiến bộ xương ông vỡ nát thể nào cứu vãn. Người ta nhận ra ông nhờ những giấy tờ trong túi áo chugha: bức ảnh đứa con trai, và lá thư viết dở (và may thay, đề đúng địa chỉ) gửi vợ mình. Thi hài ông, vận chuyển được vì quá dễ vỡ, được chôn cất tại thung lũng nơi ông sinh ra.

      [13] Bệ thờ hình linga, tượng trưng cho thần Shiva.

      Tôi quan sát Padma; cơ bắp của có dấu hiệu co giật cách lơ đãng. “Thử nghĩ xem,” tôi , “chuyện xảy ra với ông tôi chẳng phải rất kỳ quái hay sao? Thử so sánh nó với riêng về những om sòm rất thánh quanh vụ trộm sợi tóc; bởi từng chi tiết của nó đều là , và nếu đem so sánh, cái chết của mọi ông già khác chắc chắn là hết sức bình thường.” Padma có vẻ thư giãn; cơ bắp phát ra tín hiệu cho tôi tiếp tục. Bởi vì tôi dừng lại ở Aadam Aziz quá lâu; có lẽ vì tôi sợ hãi điều tiếp theo tôi phải kể; nhưng mạc khải là điều thể tránh khỏi.

      thông tin cuối cùng: sau cái chết của ông tôi, Thủ tướng Jawaharhal Nehru lâm bệnh và bao giờ hồi phục. Căn bệnh hiểm nghèo này rốt cuộc giết chết ông vào ngày 27 tháng Năm năm 1964.



      Nếu lúc trước tôi định làm hùng, Zagallo chẳng giật tóc tôi. Nếu tóc tôi vẫn còn nguyên vẹn, Keith Nội tiết với Perce Béo chẳng trêu tôi; Masha Miovic dụ tôi đến chỗ mất ngón tay. Và từ ngón tay tôi trào ra dòng máu -phải-Alpha-cũng-như-Omega, và đẩy tôi vào cảnh lưu đày; và ở nơi lưu đày trong tôi trỗi dậy niềm khao khát báo thù dẫn đến vụ sát hại Homi Catrack; và nếu Homi chết, có lẽ cậu tôi bước từ mái nhà ra giữa làn gió biển; và rồi ông tôi tới Kashmir và bị vỡ vụn vì gắng sức leo lên đồi Sankara Acharya. Mà ông tôi lại là người sáng lập ra gia đình tôi, và số phận của tôi lại gắn liền, qua ngày sinh của tôi, với vận mệnh của đất nước tôi, mà người cha của đất nước này là Nehru. Cái chết cùa Nehru: liệu tôi có thể né tránh cái kết luận rằng, kể cả điều này, cũng là lỗi của tôi?



      Nhưng giờ chúng ta trở lại với năm 1958; bởi vì vào ngày thứ ba mươi bảy của tang kỳ, , vốn hằng rình rập Mary Pereira – và do đó rình rập tôi – trong hơn mười năm, cuối cùng được phơi bày; , trong hình hài người đàn ông già, rất già, người mà mùi hôi thối của Địa ngục xộc thẳng vào cả hai lỗ mũi bị nghẹt của tôi, người bị rụng ngón tay ngón chân còn cơ thể tứ tung mụn nhọt và lỗ thủng, leo lên ngọn đồi hai tầng nhà chúng tôi, và từ vùng mây bụi ra trước mắt Mary Pereira lau chùi những tấm mành sáo ở hiên nhà.

      Tại đây, lúc này, ác mộng của Mary thành thực; tại đây, hình sau màn bụi, là hồn ma của Joe D’Costa, đến văn phòng ở tầng trệt của Ahmed Sinai! Như thể việc thân trước Aadam Aziz là chưa đủ… “Arre, Joseph,” Mary rú lên, đánh rơi mảnh giẻ lau, “ ngay ! Đừng có đến đây! Đừng đem những khổ sở của đến làm phiền các sahib! Chúa ơi, Joseph, , mau, định giết tôi hôm này à!” Nhưng hồn ma đến con đường vào nhà.

      Mary Pereira, bỏ mặc đám mành sáo, để kệ chúng treo xiên xẹo, lao vào trung tâm ngôi nhà, phủ phục dưới chân mẹ tôi – đôi tay múp míp chắp lại cầu xin – “Begum Sahiba! Begum Sahiba, tha thứ cho con!” Và mẹ tôi, ngỡ ngàng: “Cái gì thế này, Mary? Ai làm gì nào?” Nhưng Mary còn tâm trí để đối thoại, khóc lóc điên cuồng, nức nở: “Lạy Chúa giờ của con điểm, Bà kính mến, chỉ xin bà cho con ra yên ổn, đừng bắt con vào jailkhana[14]!” Rồi , “Mười năm, thưa Bà, bà xem con có lòng quý nhà ta , hở Bà, cả cậu bé mặt như trăng rằm kia nữa; nhưng giờ con xong rồi, con là đồ đàn bà xấu xa, con chết cháy dưới hỏa ngục! Funtoosh!” Mary rền rĩ, và lần nữa, “Hết cả rồi; funtoosh!”

      [14] Jail trong tiếng nghĩa là nhà tù. Đây là từ được Ấn hóa (jail + khana) và vẫn mang nghĩa này.

      Tôi vẫn chưa đoán ra điều gì sắp đến; ngay cả khi Mary ôm choàng lấy tôi (giờ tôi cao hơn ; nước mắt thấm ướt cổ tôi): “Ôi, baba, baba; hôm nay con phải biết việc, việc ghê gớm ta làm; nhưng giờ hãy theo ta…” và người đàn bà bé ấy thẳng người đứng dậy với khí phách phi thường,”… tôi ra tất cả trước tên Joseph ấy. Begum, các cháu, tất cả các ông các bà, xin mọi người vào văn phòng của sahib, và tôi .”

      Đời tôi được đánh dấu bằng những lời tuyên bố công khai; Amina tại con hẻm Delhi, còn Mary ở văn phòng ánh mặt trời… cả đại gia đình lũ lượt theo sau với vẻ ngỡ ngàng, tôi xuống lầu cùng Mary Pereira, người ngừng nắm chặt tay tôi.

      Thứ gì ở trong phòng với Ahmed Sinai? Thứ gì đem đến cho cha tôi nét mặt đó tửu tinh và tiền bạc bị xua và thay thế bởi cái nhìn của nỗi thống khổ cùng cực? Thứ gì ngồi rúm ró ở góc phòng, phả đầy mùi trứng thối vào khí? Thứ gì, hình dáng tựa như người, mất ngón tay và ngón chân, gương mặt sùi bong bóng như suối nước nóng ở New Zeland (mà tôi thấy trong Cuốn sách Kỳ diệu về Những kỳ quan)?... còn thời gian giải thích nữa, vì Mary bắt đầu , líu ríu tiết lộ bí mật được che giấu hơn mười năm, lôi tất cả chúng tôi ra khỏi cõi mộng mà tạo nên khi tráo thẻ tên, đẩy chúng tôi vào nỗi kinh hoàng của . Và suốt khoảng thời gian ấy, ấp ủ tôi; như người mẹ bảo vệ đứa con, che chắn tôi trước gia đình tôi. (Những người sắp sửa biết… cũng như tôi… rằng họ phải là…)

      … Lúc ấy vừa quá nửa đêm và ở ngoài đường họ bắn pháo hoa và tụ tập, con quái vật nhiều đầu gầm rú, tôi làm thế vì Joseph của tôi, sahib, nhưng xin đừng bắt tôi vào tù, thằng bé là đứa trẻ ngoan, sahib, tôi là người đàn bà khốn khổ, sahib, chỉ sai lầm, chỉ phút trong bấy nhiêu năm, đừng jailkhana mà sahib, tôi , mười năm tôi cống hiến nhưng tôi ngay, sahib, chỉ có điều đây là thằng bé ngoan, sahib, ngài được đuổi nó , sahib, sau mười năm nó là con trai ngài… Ôi, bé con có gương mặt như mặt trời mới mọc. Ôi bé Saleem mảnh trăng của ta, con phải biết rằng cha con là Winkie còn mẹ con qua đời…

      Mary Pereira chạy ra khỏi phòng.

      Ahmed Sinai lên tiếng, với giọng xa xăm như tiếng chim: “Kia, trong góc nhà, là lão đầy tớ già Musa, kẻ từng lần ăn cắp của ta.”

      (Có câu chuyện nào chịu nổi nhiều thế từ sớm thế ? Tôi liếc sang Padma; xem ra bị choáng, như con cá.)

      Ngày xửa ngày xưa, có người hầu, kẻ ăn cắp của cha tôi; kẻ thề rằng vô tội; kẻ tự nguyện rằng bệnh hủi giáng xuống đầu nếu là tên dối trá; kẻ bị chứng minh là dối. bỏ trong ô nhục; nhưng từ hồi đó tôi bảo trái bom hẹn giờ, và quay về để phát nổ. Quả , Musa mắc chứng hủi; và vượt qua im lặng suốt ngần ấy năm quay về xin cha tôi tha thứ, để lão được giải thoát khỏi lời nguyền tự gieo này.

      kẻ được gọi là Chúa dù phải Chúa; kẻ khác bị nhầm là ma, nhưng phải ma; và người thứ ba phát ra rằng mặc dù tên là Saleem Sinai, phải là con của cha mẹ

      “Ta tha thứ cho ngươi,” Ahmed Sinai bảo lão hủi. Kể từ hôm đó, ông được chữa khỏi trong các chứng ám ảnh của mình; ông bao giờ cố gắng khám phá lời nguyền (hoàn toàn hư cấu) của dòng họ nữa.



      “Tôi chẳng biết kể theo cách nào khác,” tôi bảo Padma. “Quá đau đớn; tôi đành huỵch toẹt ra, cách nghe điên rồ, như vậy thôi.”

      “Ôi, thưa ông,” Padma òa khóc nức nở, “Ôi, thưa ông, thưa ông!”

      “Thôi nào,” tôi , “Chuyện qua lâu rồi.”

      Nhưng nước mắt của dành cho tôi, lúc này đây, quên mất thứ-gặm-mòn-xương-dưới-lớp-da; khóc vì Mary Pereira, người mà, như tôi , trở nên đặc biệt có cảm tình.

      “Thế rồi ấy ra sao?” hỏi, mắt đỏ hoe. “ Mary ấy?”

      cơn giận vô cớ bỗng siết chặt tôi. Tôi hét: “ mà hỏi ta!”

      Hỏi ta về quê ở thành phố Panjim thuộc bang Goa ra sao, hỏi ta kể cho người mẹ già nua về câu chuyện nhục nhã của mình thế nào! Hỏi ta xem bà mẹ nổi điên khi biết về vụ tai tiếng ấy ra sao! (vừa khéo thay: đó là thời kỳ người già dễ mất óc minh mẫn)! Hỏi xem: con và bà mẹ có ra đường để tìm kiếm tha thứ? Có phải đấy là thời điểm mười năm lần xác ướp của Thánh Francis Xavier (linh thiêng kém sợi tóc của Đấng Tiên tri) được đem ra từ hầm mộ ở Nhà thờ Bom Jesus và diễu hành quanh thành phố? Có phải Mary và cụ bà Pereira quẫn trí đều phủ phục lên cỗ linh xa; có phải bà lão hóa dại vì đau khổ trước tội lỗi của con ? Có phải bà Pereira, miệng than, “Ôi! Hỡi ôi! Ôi hỡi ôi!”, trầy trật trèo lên linh sàng nhằm hôn chân Đức Thánh? Giữa đám đông vô kể, có phải bà lão Pereira phát cơn cuồng đạo? Hỏi xem! Có hay việc bà lão, trong cơn kích động điên cuồng, đặt môi quanh ngón cái của bàn chân trái của Thánh Francis? Hãy tự hỏi xem: có phải mẹ của Mary cắn đứt ngón chân ấy?

      “Sao?” Padma rền rĩ, khiếp đảm trước cơn giận của tôi. “Sao, hỏi gì?”

      … Và chuyện này có đúng : có phải báo chí dựng chuyện khi đưa tin bà cụ bị thần linh trừng phạt; khi họ trích dẫn nguồn tin từ Giáo hội và các nhân chứng, mô tả cảnh bà cụ bị hóa đá ra sao? à? Hỏi ta xem có phải Giáo hội cho diễu bức tượng đá hình bà già khắp các thành phố làng mạc ở Goa, cho tất cả thấy điều gì xảy đến với những kẻ mạo phạm “thánh thần”? Hỏi xem: có phải người ta trông thấy bức tượng cùng lúc tại mấy làng – và có phải thế là giả mạo, hay là phép mầu còn lớn lao hơn?

      “Ông thừa biết em chẳng hỏi ai được,” Padma tru tréo… nhưng tôi, cảm thấy cơn giận lắng xuống, mạc khải gì nữa trong đêm nay.

      trắng ra : Mary Pereira rời bỏ chúng tôi, và về nhà mẹ ở Goa. Nhưng Alice Pereira vẫn ở lại; Alice tiếp tục làm việc ở văn phòng của Ahmed Sinai, đánh máy, đưa đồ ăn và nước uống có ga.

      Về phần tôi – khi tang kỳ của cậu Hanif kết thúc, tôi bước vào chuyến lưu đày thứ hai.

    2. banglangtrang123

      banglangtrang123 Well-Known Member Staff Member Super Moderator

      Bài viết:
      26,213
      Được thích:
      47,825
      Chương 20: Cuộc hành quân của lọ gia vị




      Tôi buộc lòng đến kết luận rằng Shiva, kình địch của tôi, người em tráo đổi của tôi, được vào diễn đàn của tâm trí tôi nữa; vì những lý do tôi phải thừa nhận là thấp hèn. Tôi sợ khám phá ra cái điều mà tôi biết chắc mình giấu nổi – bí mật về ra đời của chúng tôi. Shiva, người coi thế giới là vật chất, người cho rằng chỉ có thể kiến giải lịch sử như cuộc đấu tranh ngừng nghỉ của cá-nhân-chống-lại-đám-đông, chắc chắn quyết tâm đòi lại quyền vị khi chào đời của ; và; khiếp đảm trước ý nghĩ gã địch thủ đầu gối gõ nhau thế chỗ mình tại căn phòng màu xanh của tôi thời thơ ấu, trong khi tôi, lẽ tất nhiên, phải rầu rĩ rời bỏ quả đồi hai tầng để đến với khu ổ chuột phía Bắc thành phố; nhất định thừa nhận rằng lời tiên đoán của Ramram Seth là dành cho con trai của Winkie, rằng Shiva mới là người được Thủ tướng viết thư cho, và vì Shiva ngư phủ mới chỉ về phía biển… tóm lại, định cho mười năm làm con của tôi giá trị vượt xa huyết thống đơn thuần, tôi quyết rằng bản thể đối lập mang xu hướng hủy diệt và bạo lực của tôi bao giờ được tham gia những cuộc họp ngày càng bè phái của Hội nghị Những đứa trẻ Nửa đêm nữa; rằng tôi bảo vệ bí mật của tôi – và từng của Mary - bằng cả tính mạng mình.

      Thời kỳ này, có những đêm tôi tránh nhóm họp Hội nghị gì cả - phải vì chuyển hướng đáng thất vọng của nó, mà chẳng qua vì tôi biết, để dựng lên rào chắn bao quanh hiểu biết mới của tôi và ngăn được lũ trẻ tiếp cận nó phải có thời gian, và máu lạnh; sau cùng, tôi tự tin là mình làm được… nhưng tôi lại sợ Shiva. Hung bạo và mạnh mẽ nhất trong Lũ trẻ, đột nhập được vào nơi kẻ khác vào được. Ở mọi hoàn cảnh, tôi né tránh các bạn thiếu niên đồng bào[1], và rồi đột nhiên tất cả trở nên quá muộn, bởi vì, sau khi lưu đày Shiva, tôi phát ra mình cũng bị ném vào chuyến lưu đày mà từ đó tôi thể liên lạc với hơn năm trăm đồng nghiệp của mình nữa: tôi bị quẳng qua đường biên giới ra-đời-từ-Chia-cắt sang Pakistan.

      [1] Fellow-Children đọc gần giống Fellow-Citizen (quốc dân đồng bào).

      Cuối tháng Chín năm 1958, tang kỳ của cậu tôi Hanif Aziz đến hồi kết thúc; và kỳ diệu thay, đám mây bụi vẫn bao phủ chúng tôi được trận mưa rào lành làm nắng xuống. Khi tắm rửa và mặc quần áo mới giặt và bật quạt trần lên, chúng tôi bước ra từ nhà tắm, lòng ngập tràn, trong chốc lát, niềm lạc quan ảo tưởng của sạch còn tươi mùi xà phòng; và tìm thấy Ahmed Sinai bụi bặm, chưa tắm rửa, tay cầm chai whisky, mắt vằn máu, ngả nghiêng leo từ văn phòng lên lầu dưới ách kiềm tỏa mê loạn của tửu tinh. Ông tiếp tục đánh vật, trong thế giới trừu tượng của riêng ông, với những thực ai ngờ nổi mà mạc khải của Mary giải phóng ra; và dưới tác động quắc cần câu của rượu, nổi trận lôi đình khôn bề tả xiết mà ông trút lên, phải Mary quay gót ra , cũng phải đứa bé bị tráo ở bên ông, mà là mẹ tôi – hay, tôi nên gọi, là Amina Sinai. Có lẽ vì biết mình phải xin bà tha thứ, nhưng làm, Ahmed Sinai rủa xả vợ hàng giờ trước choáng váng của gia đình bà; tôi nhắc lại những cái tên ông gọi bà, hay những nẻo đường ti tiện ông khuyên bà nên chọn cho đời mình. Nhưng rốt cuộc Mẹ Bề là người ra tay can thiệp.

      lần, con ta,” bà lên tiếng, phớt lờ Ahmed vẫn lèm bèm,: “cha con và ta, cáigìkhôngbiết, rằng có gì phải xấu hổ khi từ bỏ kẻ đáng mặt làm chồng. Giờ ta lại: con có, cáigìkhôngbiết, người chồng ti tiện lời nào tả xiết. Bỏ ; ngay hôm nay, và đem lũ trẻ, cáigìkhôngbiết, xa khỏi những lời chửi rủa mà phun ra khỏi mép như thứ súc vật, cáigìkhôngbiết, đầu cống miệng rãnh. Ta , đưa lũ trẻ , cáigìkhôngbiết - cả hai đứa,” bà , ghì chặt tôi vào ngực. khi Mẹ Bề hợp pháp hóa tôi, chẳng có ai phản đối bà; giờ đây nhìn lại, sau nhiều năm, tôi thấy dường như cả người cha lèm bèm chửi bới của tôi cũng bị tác động bởi hậu thuẫn bà dành cho đứa bé thò lò mười tuổi.

      Mẹ Bề an bài tất cả; mẹ tôi giống như mát tít - đất sét của chợ gốm - dưới bàn tay toàn năng của bà. Thời điểm đó, bà tôi (tôi phải tiếp tục gọi bà như thế) vẫn tin rằng bà và Aadam Aziz sớm sang Pakistan định cư; vì vậy bà dặn dì Emerald đem tất cả chúng tôi theo – Amina, con Khỉ, tôi, kể cả mợ Pia - rồi đợi bà sang sau. “Chị em phải đùm bọc nhau, cáigìkhôngbiết,” Mẹ Bề bảo, “những khi hoạn nạn.” Dì Emerald khó chịu ra mặt; nhưng cả dì và Đại tướng Zulfikar vẫn tuân lời. Và, do cha tôi trong tình trạng điên dại khiến chúng tôi lo sợ cho an toàn của mình, và vì nhà Zulfikar đặt vé chuyến tàu nhổ neo đêm đó, tôi rời ngôi nhà gắn bó suốt đời ngày hôm ấy, để Ahmed Sinai lại mình với Alice Pereira; bởi vì khi mẹ tôi rời bỏ người chồng thứ hai, tất cả người hầu cũng bỏ .

      Ở Pakistan, giai đoạn phát triển vũ bão thứ hai của tôi kết thúc. Và, ở Pakistan: tôi phát ra: vì sao tồn tại của đường biên giới “làm nhiễu” việc thu phát suy nghĩ của tôi với hơn-năm-trăm-đứa-trẻ; do đó, chỉ lần nữa bị lưu đày khỏi nhà mình, tôi còn bị lưu đày khỏi tặng vật trời ban cho chỉ tôi và chính tôi khi chào đời: món quà của những đứa trẻ nửa đêm.



      Chúng tôi buông neo ngoài Rann xứ Kutch[2] vào chiều oi bức, Cái nóng vo ve bên tai điếc của tôi; nhưng tôi quyết định ở lại boong, ngắm từng chiếc ghe , phảng phất báo điềm gở và dhow của dân chài làm dịch vụ chở hàng giữa tàu của chúng tôi và Rann, vận chuyển những đồ vật phủ bạt đen qua lại, qua lại. Dưới khoang tàu, người lớn chơi bài bingo; tôi chịu con Khỉ ở đâu. Đây là lần đầu tiên tôi tàu (mấy lần lên thăm tàu chiến Mỹ ở cảng Bombay chỉ là tham quan, tính; chưa kể bối rối khi cùng hàng chục bà bầu bụng chửa vượt mặt, những người luôn tham gia những đoàn du khách này với hy vọng mình lâm bồn và sinh ra những đứa trẻ co tư cách mang quốc tịch Mỹ, do ra đời biển). Tôi chăm chú nhìn Rann qua màn hơi nóng. Rann xứ Kutch… Tôi luôn nghĩ đó là cái tên huyền bí, và nửa-sợ-nửa-mong được đến đây, khu vực tắc kè hoa nửa năm là đất còn nửa năm là biển này, nơi người ta đồn rằng đại dương khi rút bỏ lại đủ thứ phế tích kỳ dị, như rương châu báu, xác sứa trắng như ma, và đôi khi cả những hình thù quái dị-truyền kỳ còn ngáp ngoải của nhân ngư. Lần đầu chiêm ngưỡng dải đất lưỡng thê này, vũng lầy của ác mộng này, đáng lẽ tôi phải cảm thấy hưng phấn; nhưng oi bức và những kiện vừa qua vẫn làm tâm tình tôi trĩu nặng; môi của tôi hãy còn ướt nước mũi như con nít, nhưng tôi bị đè nặng bởi xúc cảm của việc bước từ thời thơ ấu quá dài và thò lò mũi xanh sang tuổi trưởng thành quá sớm (tuy còn chảy mũi). Giọng tôi trầm xuống; tôi phải bắt đầu cạo râu; và mặt tôi lấm chấm nốt máu ở chỗ dao cạo gọt những đầu trứng cá… người quản lý qua bảo tôi, “Nên xuống dưới hơn, con trai. Giờ này nóng nhất đấy.” Tôi hỏi về những chuyến ghe chở hàng. “Tiếp tế ấy mà,” ông ta đáp rồi bỏ , để tôi lại ngẫm nghĩ về tương lai chả có gì đáng mong đợi, ngoài hiếu khách miễn cưỡng của Đại tướng Zulfikar, kiểu tự mãn hợm hĩnh của dì Emerald, người nghi ngờ gì thích thú phô trương thành đạt và địa vị trần tục của mình với bà chị đau khổ và bà chị dâu góa bụa, và thái độ vênh váo đầu teo chân tay to của Zafar con họ… “Pakistan”, tôi to, “Đúng là cái xứ rác rưởi!” Thế mà chúng tôi thậm chí còn chưa đến nơi… Tôi nhìn đoàn ghe, chúng như chèo xuyên qua màn sương váng vất. Boong tàu dường như cũng lắc lư dữ dội, mặc dù trời gần như lặng gió; và dù tôi cố bám vào lan can, sàn tàu vẫn quá nhanh so với tôi: nó lao đến và đập thẳng vào mũi tôi.

      [2] Rann trong tiếng Hindi là hoang mạc. Rann of Kutch là vùng đồng lầy ngập mặn lớn, nằm vắt qua biên giới giữa tỉnh Kutch ở bang Gujarat thuộc Ấn Độ và tỉnh Sindh của Pakistan.

      Tôi tới Pakistan như vậy đấy, với cơn say nắng để bổ sung cho hai bàn tay trắng, và kiến thức về ra đời của mình; mà tên của con tàu là gì nhỉ? Đôi tàu chị em nào dạo ấy vẫn chạy tuyến Bombay và Karachi trước khi chính trị chấm dứt hành trình của chúng? Tàu của chúng tôi là S.S.Sabarmati; chiếc chị em của nó, vừa qua mặt chúng tôi trước khi tàu cập cảng Karachi, là Sarasvati. Chúng tôi cưỡi động cơ hơi nước đày con tàu mang tên viên Trung tá, lần nữa cho thấy ta thể nào thoát khỏi trùng .



      Chúng tôi đến Rawalpindi chuyến tàu nóng, bụi mù. (Viên Tướng và Emerald khoang Có Điều Hòa; họ mua cho chúng tôi vé hạng nhất bình thường.) Nhưng khi đến Pindi trời mát và tôi đặt chân, lần đầu trong đời, đến thành phố miền Bắc… Tôi nhớ đấy là đô thị hạng thấp, có gì nổi bật; trại lính, hàng hoa quả, ngành sản xuất đồ thể thao; những người nhà binh cao lớn ngoài phố; xe Jeep; thợ khắc gỗ; polo[3]. thành phố có thể trở nên rất, rất lạnh. Và trong khu quy hoạch đô thị mới và đắt đỏ, tòa nhà đồ sộ có tường cao cắm dây thép gai bao quanh và lính gác tuần: nhà của Đại tướng Zulfikar. Cạnh chiếc giường đôi của đức ông Đại tướng có bồn tắm; trong nhà có khẩu lệnh: “Chấn chỉnh lại !”; người hầu mặc quân phục và đội mũ nồi xanh; buổi tối mùi bhang và chara[4] bốc lên từ nơi ở của họ. Đồ đạc trong nhà đắt tiền và đẹp cách bất ngờ; thẩm mỹ của Emerald chê vào đâu được. Đây là ngôi nhà ảm đạm, thiếu sinh khí, vì cái khí nhà binh của nó; kể cả lũ cá vàng trong bể ốp tường ở phòng ăn dường như cũng nhả bong bóng cách uể oải; có lẽ cư dân thú vị nhất của tòa nhà thậm chí phải là người. Quý vị chắc cho phép tôi, trong giây lát, mô tả về con chó Bonzo của ngài Đại tướng. Xin lỗi: con chó cái già săn thỏ của ngài Đại tướng.

      [3] Môn thể thao du nhập từ , luật giống khúc côn cầu, nhưng người chơi cưỡi ngựa và thi đấu cỏ.

      [4] Bhang là hỗn hợp lá và hoa của cây cannabis (còn gọi là marijuana) cái, dùng làm thuốc hút hoặc đồ uống. Charas là chiết xuất nhựa cây cannabis, dùng làm thuốc phiện.

      Sinh vật già nua mong manh bị bướu cổ này sống đời cực kỳ lười nhác và vô dụng; nhưng trong lúc tôi hồi phục sau cơn say nắng, nó là tác giả vụ náo nhiệt đầu tiên từ khi chúng tôi ở đây - kiểu trailer[5] cho “cuộc cách mạng của lọ gia vị”. hôm Đại tướng Zulfikar đưa nó tới thao trường, nơi ông ta quan sát nhóm lính dò mìn thao diễn tại bãi mìn được chuẩn bị đặc biệt. (Đại tướng khao khát cho rải mìn toàn bộ biên giới Ấn-Pak. “Chấn chỉnh lại !” ông ta quát. “Hãy cho bọn Hindu ấy có cái mà lo sợ! Ta cho lũ xâm lược ấy nổ tan xác, chẳng còn quái gì mà đầu thai nữa.” Tuy nhiên, ông ta đặc biệt quan tâm tới biên giới Đông Pakistan, với quan điểm là “lũ mọi đen ấy tự biết lo thân.”)… Và lúc này Bonzo giằng tuột dây, và bằng cách nào đó thoát khỏi những bàn tay hớt hải vồ bắt của đám jawan trẻ, lạch bạch vào bãi mìn.

      [5] đoạn phim ngắn, đóng vai trò giới thiệu, quảng bá cho bộ phim sắp được công chiếu.

      Kinh hoàng tột độ. Toán lính mìn dò dẫm như đoạn phim quay chậm đầy khiếp đảm ra khỏi vùng phát nổ. Tướng Zulfikar và các sĩ quan hụp xuống nấp sau đài quan sát, chờ đợi vụ nổ… Nhưng chẳng có gì; và khi những tinh hoa của Quân đội Pakistan từ trong thùng rác hay sau băng ghế ló ra, họ thấy Bonzo tao nhã bước giữa thửa ruộng gieo toàn hạt chết chóc, mũi gí sát đất, Bonzo-kẻ-vô-ưu, rất đỗi ung dung. Đại tướng Zulfikar ném chiếc mũ lưỡi trai lên trời. “Quá tuyệt vời!” ông ta kêu lên bằng cái giọng mỏng quẹt len từ giữa mũi và cằm ra, “Lão phu nhân đây đánh hơi được mìn!” Bonzo được tuyển mộ ngay lập tức vào quân ngũ, giữ vai trò lính-dò-mìn-bốn-chân mang quân hàm thượng sĩ.

      Tôi đề cập đến thành tích của Bonzo vì nó cho Đại tướng cây gậy để đả chúng tôi. Đám người nhà Sinai chúng tôi – và Pia Aziz – là những thành viên vô tích , năng suất lao động bằng trong gia đình Zulfikar, và Đại tướng muốn chúng tôi quên điều đó. “Đến con chó săn thỏ già cốc đế còn biết tự nuôi thân,” chúng tôi nghe được ông ta lẩm bẩm, “thế mà nhà này lại đầy những kẻ biết tự chấn chỉnh bản thân cho ra hồn.” Nhưng trước khi tháng Mười kết thúc ông ta phải biết ơn (ít nhất là) về có mặt của tôi… và lột xác của con Khỉ cũng còn xa nữa.

      Bọn tôi học cùng ông em họ Zafar, cái thằng còn háo hức cưới em tôi lắm nữa khi chúng tôi nay là con gia đình đỗ vỡ; nhưng vụ mất mặt nhất của nó xảy ra vào cuối tuần khi chúng tôi được đưa đến căn nhà nghỉ núi của Đại tướng ở Nathia Gali, Murree quãng. Tôi trong tình trạng rất hưng phấn (bệnh của tôi mới khỏi): núi non! Biết đâu có cả báo! Trời lạnh và rét buốt! – vì thế tôi chẳng nghĩ ngợi gì khi Đại tướng hỏi tôi có thể ngủ chung giường với Zafar , và thậm chí đoán ra khi họ trải tấm cao su đệm… Tôi tỉnh giấc sau nửa đêm giữa vũng tướng chất lỏng ấm, khai nồng và bắt đầu la cứu mạng. Ngài Đại tướng xuất bên giường và bắt đầu đánh thằng con tơi bời hoa lá. “Mày lớn bằng này rồi! Khốn kiếp! Vậy mà mày vẫn thế! Chấn chỉnh lại ! Đồ vô dụng! Có ai cư xử khốn nạn như mày ? Chỉ lũ hèn nhát mới thế! Trời nguyền rủa tao nếu tao có thằng con hèn nhát…” Tật đái dầm của Zafar em họ tôi, tuy vậy, tiếp tục là nỗi hổ thẹn của gia đình; bất chấp đòn roi, chất lỏng ấy vẫn chảy dọc chân nó; và hôm điều này xảy ra lúc nó thức. Nhưng đấy là sau khi số nước nhất định , nhờ phụ tá của tôi, được thực bằng lọ gia vị, cho tôi thấy tuy ở đất nước này sóng ngoại cảm bị nhiễu, các chế độ liên kết hình như vẫn vận hành; cách chủ động-nghĩa đen cũng như nghĩa bóng, tôi góp phần thay đổi vận mệnh của Xứ Sở của những kẻ Thuần Khiết.




      Con Khỉ Đồng và tôi, ngày ấy, là những nhân chứng bất lực trước cảnh mẹ tôi ngày héo hon. Bà, người luôn cần mẫn trong cái nóng, bắt đầu héo tàn dưới cái lạnh phương Bắc. Bị tước hai người chồng, bà đồng thời bị tước (trong mắt bà) ý nghĩa cuộc sống; rồi còn có mối quan hệ cần vun đắp lại, giữa mẹ và con trai. đêm bà siết chặt tôi và , “ thương, con ta, là điều người mẹ học được; nó ra đời cùng đứa trẻ, mà hun đúc theo thời gian; và trong mười năm, mẹ học con như con trai của mẹ.” Nhưng đằng sau vẻ dịu dàng của bà là xa cách, như thể bà thuyết phục chính mình… cũng xa cách này, trong tiếng thào nửa đêm của con Khỉ, “Ê, trai, hay mình đổ nước lên thằng Zafar – mọi người nghĩ là nó đái dầm?” – và chính cảm giác về khoảng cách này cho tôi thấy rằng, dù gọi tôi bằng con trai trai, óc tưởng tượng của họ phải nỗ lực để tiêu hóa lời thú tội của Mary; khi đó chưa biết rằng họ thể thành công trong việc tái định hình trai con trai, tôi vẫn khiếp sợ Shiva; và do đó bị nhấn càng sâu hơn vào trái tim ảo tưởng của nỗi khát khao chứng tỏ tôi xứng đáng với tình ruột thịt của họ. Bất chấp công nhận của Mẹ Bề , tôi chưa từng thấy yên lòng cho đến khi, hiên nhà sau-đó-hơn-ba-năm, cha tôi bảo, “Lại đây, con trai; lại đây để ta con.” Có lẽ vì vậy nên tôi xử như thế vào cái đêm 7 tháng Mười năm 1958.

      thằng bé mười tuổi, Padma, biết rất ít về tình hình nội trị Pakistan; nhưng nó có thể thấy, vào cái hôm tháng Mười ấy, rằng bữa tiệc tối bất thường được chuẩn bị. Saleem lên mười biết gì về Hiến pháp 1956 và việc nó ngày bị xói mòn; nhưng cặp mắt cậu đủ sắc sảo để phát những sĩ quan an ninh Quân đội, và quân cảnh, xuất vào buổi chiều và bí mật nấp sau những bụi cây trong vườn. Đấu tranh phe phái và kém cỏi về nhiều mặt của Ngài Ghu-lam Mohammed[6] là điều bí với cậu bé; nhưng cậu thấy dì Emerald đeo lên những món nữ trang đẹp nhất của mình. Vở hài kịch bốn-thủ-tướng-trong-hai-năm chưa từng làm cậu khúc khích; song cậu có thể cảm thấy, trong bầu khí kịch tính bao trùm tòa nhà của Đại tướng, có gì như hồi kết sắp hạ màn. Chả biết gì về nổi lên của đảng Cộng hòa, nhưng cậu vẫn tò mò về danh sách khách mời dự tiệc của Zulfikar; mặc dù cậu đất nước nơi những cái tên gợi lên điều gì – ai là Chaudhuri Muhammad Ali? Hay Suhrawadry? Hay Chundrigar, hay Noon?[7] - nặc danh của khách mời, điều được chú dì cậu bảo vệ kỹ lưỡng, là điều khó hiểu. Mặc dù cậu lần cắt từng ngón cái tít Pakistan từ báo ra - TỦ BAY GIẾT CHẾT PHÓ PHÁT NGÔN VIÊN ĐÔNG PAKISTAN - cậu chịu biết vì sao, vào sáu giờ tối, đoàn xe limousine màu đen chạy qua những bức tường có lính gác của Điền trang Zulfikar; vì sao cờ phấp phới nóc capô xe; vì sao người ngồi xe ai cười; hay vì sao Emerald và Pia và mẹ tôi đằng sau Đại tướng Zulfikar với vẻ mặt có lẽ thích hợp với đám ma hơn là buổi giao tế xã hội. Ai cái gì chết? Ai vì sao đến trong những chiếc limousine? – Tôi chịu có khái niệm gì; nhưng tôi đứng sẵn sàng sau lưng mẹ tôi và chăm chú nhìn những ô kính mờ từng chiếc xe bí hiểm.

      [6] Có lẽ là Malik Ghulam Muhammad, Toàn quyền (Đại diện cho Nữ hoàng ) Pakistan từ năm 1951 đến 1956.

      [7] Thủ tướng thứ tư, thứ năm, thứ sáu và thứ bảy của Pakistan trong giai đoạn 1955-1958.

      Cửa xe mở ra; các nội hầu, sĩ quan phụ tá nhảy xuống xe và mở cửa sau, đứng nghiêm chào; bắp cơ bắt đầu giật má dì Emerald. Thế rồi, những ai từ những cỗ xe phấp phới cờ bước xuống? Những cái tên nào được gán cho dãy hoành tráng những bộ ria, những gậy chỉ huy, những cặp mắt sắc lẹm, những huân chương và những sao vừa xuất ? Saleem chẳng biết tên cũng như số thứ tự; tuy nhiên, quân hàm là cái có thể nhận ra. Mề đay và sao, được đeo cách kiêu hãnh ngực và vai, báo hiệu xuất của các sếp lớn thứ thiệt. Và từ xe sau cùng bước ra người đàn ông cao lớn có cái đầu tròn đáng kinh ngạc, tròn như quả địa cầu nhôm dù kẻ các đường kinh và vĩ tuyến; có cái đầu tinh cầu, nhưng ông ta được ghi địa danh như quả cầu con Khỉ từng giẫm bẹp; cũng được SẢN XUẤT TẠI (dù chắc chắn là được đào tạo tại Sandhurst[8], ông ta giữa những mề-đay-và-sao giơ tay chào; đến bên dì Emerald; và làm động tác chào tất cả.

      [8] Học viện Quân Hoàng gia .

      “Ngài Tổng tư lệnh,” dì tôi , “hoan nghênh ngài đến tệ xá.”

      “Emerald, Emerald,” cái miệng quả đầu hình trái đất lên tiếng – cái miệng nằm ngay dưới hàng ria chỉn chu, “Sao phải khách sáo thế, takalluf thế?” Nghe vậy dì bèn chào đón ông ta với, “Nếu vậy, Ayub, hôm nay trông ngài tuyệt.”

      Ông ta khi ấy là Đại tướng, tuy chức Thống chế còn xa nữa… chúng tôi theo sau ông ta vào nhà; chúng tôi nhìn ông ta uống (nước) và cười (to); tại bàn ăn, chúng tôi lại quan sát ông ta, xem ông ta nốc như lực điền, khiến bộ ria nhoe nhoét rau quả dầm… “Nghe này, Em[9],” ông ta bảo, “Lần nào ta đến cũng thịnh soạn thế này! Nhưng ta chỉ là lính bình thường; dal và cơm từ bếp nhà này là đại tiệc với ta rồi.”

      [9] Cách gọi ngắn và thân mật tên Emerald.

      người lính, thưa ngài,” dì tôi đáp, “nhưng bình thường ! bao giờ!”

      Quần dài cho tôi tư cách có mặt tại bàn ăn, cạnh ông em họ Zafar, vây quanh là mề-đay-và-sao; tuy nhiên, tuổi tác còn non nớt đặt chúng tôi vào thế buộc phải im lặng. (Đại tướng Zulfikar cho tôi cú suỵt kiểu nhà binh, “Chỉ hó hé tiếng là ta tống mày xuống nhà của lính gác. Muốn ngồi lại phải ngồi im. chưa?” Ngồi im như thóc, Zafar và tôi được nghe nhìn thoải mái. Nhưng Zafar, giống tôi, nỗ lực chứng tỏ mình đáng mặt con nhà…)

      Bọn trẻ mười tuổi nghe thấy gì trong bữa tối? Chúng hiểu gì từ những lời đề cập hớ hênh của giới nhà binh về “cha Suhrawardy đấy, luôn phản đối Ý Tưởng Pakistan” – hay về Noon, “lẽ ra thằng cha phải tên là Xế Chiều[10], hả?” Và thông qua những trao đổi về dàn xếp bầu cử và tiền bẩn, mối hiểm nguy tiềm nào ngấm vào da bọn trẻ, khiến lông tơ tay chúng dựng đứng lên? Và khi vị Tổng tư lệnh trích dẫn kinh Quran, bao nhiêu phần ý nghĩa lọt vào những đôi tai mười tuổi?

      [10] Noon trong tiếng có nghĩa là buổi trưa.

      “Kinh viết rằng,” người đàn ông đầu tròn hói, và đám mề-đay-và-sao im lặng. “Aad và Thamoud đều bị ta hủy diệt. Quỷ dữ khiến chúng nghĩ những hành vi lầm lạc của mình là đúng đắn, dẫu chúng là những kẻ tinh minh.”[11]

      [11] Aad và Thamoud là hai bộ lạc Ả Rập thời cổ đại. Theo kinh Quran, Đức Allah giáng thiên tai hủy diệt hai bộ lạc này vì tội bất kính và mạo phạm.

      Như thể ám hiệu vừa được phát ra; cái vẫy tay của dì tôi cho toàn bộ người hầu lui ra. Chính dì cũng đứng dậy rút lui; mẹ tôi và Pia nối gót. Zafar và tôi cũng đứng dậy; nhưng ông ta, chính ông ta, vọng qua chiều dài của chiếc bàn lộng lẫy: “Hai người đàn ông tuổi nên ở lại. cho cùng, đấy là tương lai của chúng.” Hai người đàn ông tuổi, sợ hãi nhưng cũng tự hào, ngồi lại và im lặng, răm rắp tuân lệnh.

      Chỉ còn lại đàn ông. Nét mặt của đầu tròn biến đổi; có gì đó đen tối hơn, có gì đó loang lổ và quyết liệt chiếm lĩnh nó… “Mười hai tháng trước,” ông ta , “ta chuyện với tất cả quý vị. Cho đám chính khách năm - chẳng phải ta vậy ư?” Những cái gật đầu; những tiếng rì rầm tán thành. “Quý vị, ta cho họ năm; tình hình đến chỗ thể chịu đựng được; và ta định chịu đựng thêm nữa!” Nhưng mề-đay-và-sao lấy bộ mặt nghiêm nghị, đầy vẻ kinh bang tế thế. Từng hàm răng nghiến lại, từng đôi mắt đau đáu nhìn vào tương lai. “Vì thế, tối nay,” - phải, tôi ở đó! Cách ông ta có vài mét - Đại tướng Ayub và tôi, tôi và Ayub Khan lão luyện! – “tôi giành quyền kiểm soát Đất nước.”

      Những đứa trẻ mười phản ứng thế nào trước lời tuyên bố đảo chính? Nghe những lời, “… tình hình tài chính đất nước hỗn loạn khủng khiếp, tham nhũng và ô trọc ở khắp mọi nơi…”, hàm răng chúng có nghiến chặt? Ánh mắt chúng có chăm chú vào ngày mai tươi sáng hơn? Những đứa trẻ mười ngồi im nghe khi Đại tướng thốt lên, “Hiến pháp theo đây bị bãi bỏ! Các cơ quan lập pháp Trung ương và Địa phương bị giải tán! Các chính đảng ngay lập tức bị thủ tiêu!” – quý vị nghĩ chúng có cảm giác gì?

      Khi Đại tướng Ayub Khan , “Lệnh Giới nghiêm bắt đầu có hiệu lực,” cả em họ tôi Zafar và tôi chợt hiểu rằng giọng ông ta – cái giọng chứa đầy quyền lực và quyết đoán và hương vị đậm đà của những món tủ của dì tôi – ra điều mà chúng tôi chỉ biết từ để diễn tả: phản bội. Tôi tự hào là mình giữ được cái đầu lạnh; song Zafar kiềm chế nổi bộ phận khác khó xử hơn. Chất lỏng trào ra mặt trước quần nó; chất lỏng màu vàng của nỗi sợ hãi theo chân nó rỉ xuống làm ố tấm thảm Ba Tư; đám mề-đay-và-sao ngửi thấy gì đó, ngoảnh lại nhìn nó với ánh mắt miệt thị giấu giếm; rồi (điều tệ hại nhất) phá lên cười.

      Đại tướng Zulfikar chỉ vừa , “Nếu ngài cho phép, thưa ngài, tôi phác họa lộ trình hành động đêm nay,” ông con tè ra quần. Trong cơn thịnh nộ lạnh lùng chú tôi lẳng thằng con ra ngoài; “Ma ! Đàn bà!” bám theo Zafar ra khỏi phòng ăn, trong giọng mỏng sắc của bố nó; “Đồ hèn! Lại cái! Hindu!” vọt ra từ khuôn mặt Punchinello và đuổi theo thằng bé lên cầu thang… Ánh mắt Zulfikar dừng lại ở tôi. Từ chúng toát ra vẻ cầu khẩn. Hãy cứu lấy danh dự của gia đình ta. Lấy lại thể diện cho ta sau việc thằng ranh kia nín nổi. “Này, nhóc!” chú tôi , “Cháu muốn lên đây giúp ta ?”

      Tất nhiên, tôi gật đầu. Chứng tỏ nam tính, đáng mặt làm con của mình, tôi trợ giúp chú tôi trong khi ông thực cuộc cách mạng. Và bằng cách đó, bằng cách giành được lòng biết ơn của ông, bằng cách làm lặng tiếng cười khùng khục của hội mề-đay-và-sao, tôi tạo cho mình người cha mới; Đại tướng Zulfikar trở thành cái tên mới nhất trong hàng ngũ những người sẵn lòng gọi tôi là “ cu”, hay “cậu cả”, hay chỉ đơn giản là “con trai ta”.

      Chúng tôi tiến hành cách mạng ra sao: Đại tướng Zulfikar mô tả kế sách hành binh; tôi di chuyển các lọ gia vị để minh họa khi ông . Dưới kiểm soát của chế độ liên kết chủ động-nghĩa bóng, tôi di chuyển những lọ muối và bát chutney: Bình mù tạc này là Đại đội A trấn giữ Bưu Điện Trung Tâm; hai lọ gia vị bao vây cái muỗng , tức là Đại đội O chiếm sân bay. Nắm vận mệnh đất nước trong tay, tôi dịch chuyển mắm muối và dao dĩa; bắt giữ những đĩa biriani[12] hết bằng mấy cốc nước; giao những lọ muối đồn trú, vả sẵn sàng tác chiến, quanh mấy bình nước. Và khi Đại tướng Zulfikar dứt lời, cuộc hành quân của bộ đồ ăn cũng đến hồi kết thúc. Ayub Khan dường như an ổn ghế; có phải cái nháy mắt của ông ta với tôi là do tôi tưởng tượng ra? – dù gì nữa, vị Tổng Tư lệnh , “Tốt lắm, Zulfikar; màn trình diễn được đấy.”

      [12] kiểu cơm rang trộn nhiều gia vị của Ấn Độ.

      Suốt những nước do lọ gia vị và vân vân thực , có vật trang trí bàn được bắt giữ: bình kem bằng bạc nguyên chất, mà, trong vụ đảo chính bàn của chúng tôi, tượng trưng cho Nguyên thủ quốc gia, Tổng thống Iskander Mirza; trong ba tuần, Mirza vẫn là Tổng thống.

      đứa trẻ mười tuổi chẳng thể phán xét Tổng thống có thực thối nát hay , kể cả khi mề-đay-và-sao bảo thế; mười phải tuổi để đánh giá liệu mối liên hệ của Mirza với đảng Cộng hòa nhược tiểu có đáng khiến ông ta mất chức dưới chế độ mới . Saleem Sinai đưa ra phán xét chính trị; nhưng khi, chỉ có thể vào nửa đêm, ngày 1 tháng Mười , chú tôi lay tôi dậy và thào, “ nào, con trai, tới lúc con nếm mùi thực tế rồi!”, tôi mau lẹ nhảy khỏi giường; tôi mặc đồ và ra trong đêm tối, tự hào ý thức rằng chú tôi ưng được tôi tháp tùng hơn chính con trai ông.

      Nửa đêm. Rawalpindi chạy ngược chiều chúng tôi ở tốc độ bảy mươi dặm giờ. Phía trước hai bên phía sau chúng tôi đều có mô tô. “Mình đâu hở chú Zulfy?” Cứ chờ xem. Chiếc limousine đen cửa kính mờ dừng lại trước ngôi nhà tối tăm. Quân cảnh gác cổng bồng súng đan chéo; chúng mở ra, nhường đường cho chúng tôi. Tôi , đều bước, bên cạnh chú tôi, qua những hành lang tranh tối tranh sáng; đến khi xông vào căn phòng tối, nơi quầng sáng từ vầng trăng soi tỏ chiếc giường bốn cột. chiếc màn rủ xuống giường như vải liệm.

      người đàn ông tỉnh giấc, hốt hoảng, cái quái gì thế này… Nhưng Đại tướng Zulfikar rút ra khẩu colt nòng dài; nòng súng bị tống vào ư ư giữa hàm răng bị tách ra của người nọ. “Câm mồm,” chú tôi , cách thừa thãi. Người đàn ông trần truồng to béo lẩy bẩy bước xuống giường. Đôi mắt, dò hỏi: Ngươi bắn ta chứ? Mồ hôi lăn xuống cái bụng phệ, phản chiếu ánh trăng, rồi rỏ xuống soo-soo của ông ta; nhưng nó lạnh toát; ông ta toát mồ hôi vì nực. Ông ta trông như Ông Phật Cười trắng bệch; nhưng cười. Mà run. Khẩu súng được rút khỏi miệng ông ta. “Đằng sau quay. đều bước!”… Và nòng súng lại gí vào giữa hai gò cặp mông béo múp. Người đàn ông rú lên, “Vì Chúa, hãy cẩn thận; cái đó mở chốt an toàn rồi!” Đám jawan cười rúc rích khi da thịt lõa lồ bước ra dưới ánh trăng, bị đẩy vào chiếc limousine đen. Đêm đó tôi ngồi cạnh người đàn ông trần truồng trong khi chú tôi đưa ông ta đến sân bay quân ; tôi đứng nhìn chiếc máy bay đợi ông ta lướt đường băng, tăng tốc, bay . Điều bắt đầu, cách chủ động-nghĩa bóng, với lọ gia vị, giờ kết thúc; tôi chỉ lật đổ chính quyền – mà còn đẩy vị tổng thống vào cảnh lưu đày.

      Nửa đêm có nhiều con; nhưng phải mọi hậu duệ của Độc lập đều là con người. Bạo lực, tham nhũng, nghèo đói, tướng lĩnh, hỗn loạn, lòng tham và lọ gia vị… tôi phải dấn bước lưu đày mới hiểu rằng những đứa con của nửa đêm đa dạng hơn là tôi - kể cả tôi từng mơ tới.



      “Đúng thế à?” Padma hỏi. “Ông ở đấy à?” Đúng thế mà. “Người ta bảo Ayub là người tốt trước khi tha hóa,” Padma ; đây là câu hỏi. Nhưng Saleem, mới mười , phán xét mấy chuyện này. Cuộc hành binh của lọ gia vị đòi hỏi ở tôi những lựa chọn đạo đức. Điều Saleem quan tâm: phải biến động xã hội, mà là tái hòa nhập của cá nhân. Quý vị thấy nghịch lý – cú đột kích trí mạng nhất của tôi vào lịch sử đến thời điểm này lại khởi phát từ động cơ thuộc loại hẹp hòi nhất. Dù sao, đó cũng phải đất nước tôi – hay hồi đó chưa. phải đất nước tôi, mặc dù tôi sống ở đây – như kẻ tị nạn, phải công dân; nhập cảnh bằng hộ chiếu Ấn Độ của mẹ tôi, đáng lẽ tôi gặp phải ít hoài nghi, thậm chí bị trục xuất hoặc bắt giữ vì làm gián điệp, nếu nhờ tôi còn thơ ấu và nhờ thế lực của người giám hộ có gương mặt như Punch[13] của tôi - suốt bốn năm ròng rã.

      [13] Punch vừa là cách viết tắt của Punchinello, vừa có nghĩa là cú đấm. Gương mặt như Punch bởi vậy còn hàm ý là mặt như bị đấm (khiến cái mũi cụp hẳn vào sát miệng).

      Bốn năm vô nghĩa.

      Trừ việc trở thành thiếu niên. Trừ việc chứng kiến mẹ tôi tan rã. Trừ việc quan sát con Khỉ, kém tôi tuổi có tính quyết định, ăn phải thứ bùa mê độc của cái xứ sở bị Chúa thống trị ấy; con Khỉ, thời từng hoang dại và bất trị, nay có những biểu của nhu thuận và phục tùng mà, ban đầu, chắc hẳn chính nó cũng cảm thấy giả dối; con Khỉ, học nấu ăn và tề gia nội trợ, cách mua gia vị ngoài chợ; con Khỉ, đoạn tuyệt hoàn toàn với di sản của ông ngoại nó, bằng cách học kinh tiếng Ả Rập và cầu nguyện vào mọi lúc theo quy định; con Khỉ, phơi bày chất cuồng tín thanh giáo mà ngày trước nó hé lộ khi xin bộ đồ nữ tu; nó, người hắt hủi mọi lời giải bày tình trần tục, bị quyến rũ bởi tình của Đức Chúa mang tên bức phù điêu trong đền thờ dị giáo được xây dựng quanh khối thiên thạch khổng lồ: Al-Lah, trong Qa’aba, đền thờ Tảng Đá Đen vĩ đại[14].

      [14] Tại đất thánh Mecca, trong Thánh đường Masjid al-Haram có đền thờ hình khối lập phương (Qa’aba). Theo kinh sách, khối đá đen được chính Muhammad ốp vào góc tường phía Đông của đền thờ này. Saleem tin theo thuyết cho rằng trước khi đạo Hồi ra đời, khối đá này từng là linh vật của các tín đồ dị giáo (tức là đa thần giáo). Bản thân tên Chúa Trời trong đạo Hồi (Allah) cũng là tên được người Mecca thời đó gọi vị thần Sáng Tạo trong tôn giáo của họ.

      Nhưng chỉ thế mà thôi.

      Bốn năm xa cách lũ trẻ nửa đêm; bốn năm có đường Warden và Breach Candy và Scandal Point và cám dỗ của Sô La Dài Cả Mét; xa trường Cathedral và bức tượng Sivaji kỵ mã và những người bán dưa hấu gần Cổng vòm Ấn Độ; xa Divali và Ganesh Chaturthi và Ngày Dừa; bốn năm cách biệt người cha ở mình trong căn nhà ông chịu bán; mình, chỉ có Giáo sư Schaapsteker, ở căn hộ gác và từ chối tiếp xúc với con người, làm bầu bạn.

      Chả lẽ suốt bốn năm có chuyện gì xảy ra? Tất nhiên, hẳn thế. Em họ tôi, Zafar, người bao giờ được cha tha thứ vì đái dầm khi có diện của lịch sử, buộc phải chấp nhận rằng nó nhập ngũ ngay khi đến tuổi. “Ta muốn thấy mày chứng tỏ mày phải là đàn bà,” ông bố bảo nó.

      Và Bonzo chết; Đại tướng Zulfikar dòng lệ nam nhi.

      Và lời thú nhận của Mary phai mờ dần cho đến khi, bởi ai nhắc đến, nó thành ra như cơn ác mộng; đối với tất cả trừ tôi.

      Và ( hề có trợ giúp nào từ tôi) quan hệ giữa Ấn Độ và Pakistan ngày xấu ; hoàn toàn được tôi hỗ trợ, Ấn Độ chiếm đóng Goa – “cái nhọt Bồ Đào Nha mặt Mẹ Ấn Độ”; tôi ngồi ngoài và đóng vai trò nào trong việc Pakistan giành được viện trợ quy mô lớn từ Mỹ, tôi cũng có lỗi trong những vụ giao tranh lẻ tẻ biên giới Trung -Ấn ở vùng Aksai Chin thuộc Ladakh[15]; cuộc điều tra dân số Ấn Độ năm 1961 cho thấy tỷ lệ biết chữ là 23,7%, nhưng tôi có tên trong báo cáo thống kê. Vấn đề tiện dân tiếp tục nhức nhối; tôi làm gì để giảm bớt nó; và trong cuộc bầu cử năm 1962, đảng Quốc đại Toàn Ấn Độ giành 361 494 ghế trong Lok Sabha, và hơn 61% số ghế tại Hội đồng Lập pháp. Cả trong việc này cũng thể bàn tay vô hình của tôi cử động; trừ, có lẽ, theo nghĩa bóng: status quo[16]vẫn được duy trì ở Ấn Độ; trong đời tôi, cũng có gì thay đổi.

      [15] Bang nằm ở tận cùng phía Bắc Ấn Độ.

      [16] Tiếng Latin, có nghĩa là nguyên trạng.

      Thế rồi, vào 1 tháng Chín năm 1962, chúng tôi kỷ niệm sinh nhật lần thứ mười bốn của con Khỉ Đồng. Lúc này (và mặc dầu ông chú tiếp tục ưu ái tôi) chúng tôi được ấn định là thành phần xã hội thấp kém, những bà con nghèo bất hạnh của nhà Zulfikar danh giá; bởi vậy bữa tiệc khá tằn tiện. Con Khỉ, tuy vậy, vẫn thể mọi diện mạo tươi vui. “Đó là bổn phận của em, ạ,” nó bảo. Tôi cơ hồ tin nổi tai mình. Nhưng có lẽ em tôi có linh cảm về số phận của nó; có lẽ nó biết về biến hóa chờ đợi mình; sao tôi có thể nghĩ rằng chỉ mình có quyền năng tiên tri?

      Có lẽ, lúc ấy, nó đoán biết rằng khi đội nhạc công được thuê bắt đầu trình diễn (có shehnai và vina; rồi tới lượt sarangi và sarod; tabla và sitar[17] diễn tấu màn vấn đáp điêu luyện của mình), Emerald Zulfikar bất ngờ tập kích nó với vẻ tao nhã tàn nhẫn, cầu, “Coi nào, Jamila, đừng ngồi như quả dưa thế chứ, hát cho chúng ta nghe như nàng khuê nữ đích thực xem nào!”

      [17] Những nhạc cụ cổ truyền của Ấn Độ.

      Và rằng với câu này bà dì băng lãnh như ngọc[18] của tôi bắt đầu, cách vô tình, quá trình em tôi hóa thân từ khỉ thành ca sĩ; bởi vì mặc dù nó phản đối với nết vụng về phụng phịu của tuổi mười bốn, nó vẫn bị bà dì áp đặt của tôi nể nang gì lôi xềnh xệch lên bục dành cho ban nhạc; và mặc dù trông nó như ước ao sàn nhà bỗng nhiên nứt ra dưới chân mình, nó vẫn chắp tay lại; thấy rằng còn lối thoát, con Khỉ bắt đầu hát.

      [18] Nguyên văn: emerald-icy. Rushdie chơi chữ, vì Emerald có nghĩa là ngọc lục bảo.

      Tôi là người giỏi miêu tả cảm xúc, tôi nghĩ vậy - bởi tin rằng khán giả của tôi có khả năng tham gia vào câu chuyện; tự mình hình dung ra những gì tôi thể tái hình dung, để câu chuyện của tôi cũng là của quý vị… nhưng khi em tôi cất lên tiếng hát, tôi bị dồn dập dưới cảm xúc mãnh liệt đến nỗi tôi thể hiểu nổi cho tới khi, mãi về sau, tôi được người điếm già nhất thế gian điểm hóa cho. Bởi vì, ngay từ nốt nhạc đầu tiên, Con Khỉ Đồng trút bỏ cái biệt danh của nó; nó, người từng trò chuyện với chim (giống như, lâu rồi, giữa thung lũng miền sơn cước, cụ ngoại nó từng làm), hẳn học được nghệ thuật ca hát từ những loài chim biết hót. Bằng tai lành và tai điếc, tôi lắng nghe giọng hát tỳ vết cuả nó, mà ở tuổi mười bốn là giọng của người đàn bà thành thục, ngập tràn thuần khiết của đôi cánh thiên thần và nỗi đau của phận lưu đày và vẻ cao bay của đại bàng và vô tình của nhân sinh và giai điệu của họa mi và hữu muôn nơi đầy vinh quang của Chúa; giọng hát sau này được ví với Bilal, người muezzin[19] của Mahammad, phát ra từ đôi môi thiếu nữ có phần hơi gầy guộc.

      [19] Muezzin là người được chọn đứng tháp của thánh đường để cất tiếng gọi mọi tín đồ cầu nguyện. Bilal al-Habashi được xem là muezzin đầu tiên, do chính Muhammad đích thân lựa chọn. Bilal nổi tiếng là có chất giọng rất đẹp.

      Điều tôi hiểu phải chờ tới lượt để được kể; giờ tôi xin ghi lại rằng em tôi làm nên tên tuổi ở bữa tiệc sinh nhật thứ mười bốn của mình, và từ đó được gọi là Jamila Ca sĩ; và tôi, khi nghe “Tấm Dupatta Muslin Đỏ Của Em” và “Shahbaz Qalandar”[20], hiểu ra rằng quá trình bắt đầu từ cuộc lưu đày thứ nhất của tôi sắp sửa hoàn thành trong lần đày ải thứ hai; rằng, từ giờ trở , Jamila mới là đứa trẻ quan trọng, và rằng tôi phải mãi mãi đứng thứ hai sau tài năng của nó.

      [20] Shahbaz Qalandar là giả tu tập theo phái thần bí sống vào thế kỷ 13, có ảnh hưởng lớn về tôn giáo cả với đạo Hồi lẫn Hindu. Ông thường mặc trang phục đỏ (lưu ý: hai bài hát đều liên hệ đến màu đỏ).

      Jamila hát – tôi, khiêm nhường, cúi đầu. Nhưng trước khi em có thể bước trọn vẹn vào vương quốc của mình, điều nữa phải xảy ra: tôi phải bị kết liễu cách triệt để.

    3. banglangtrang123

      banglangtrang123 Well-Known Member Staff Member Super Moderator

      Bài viết:
      26,213
      Được thích:
      47,825
      Chương 21: Hút kiệt và hoang mạc




      Thứ-gặm-mòn-xương dứt khoát dừng lại… chỉ còn là vấn đề thời gian. Đây là điều giúp tôi chi trì: tôi bám víu vào Padma. Padma là điều quan trọng – cơ bắp của Padma, cánh tay lông lá của Padma, Padma bông sen thanh khiết của tôi… người, bối rối, ra lệnh: “Đủ rồi. Bắt đầu. Bắt đầu .”

      Phải, cần phải bắt đầu từ bức điện tín. Viễn cảm cho tôi đứng người khác; viễn thông lại kéo tôi xuống…

      Ngày xửa ngày xưa, Amina Sinai gọt mụn cóc ở chân bức điện đến… , như thế được, thể né tránh ngày tháng được: mẹ tôi, bàn chân phải gác đầu gối trái, nạo những nốt chai gan bàn chân bằng cái giũa nhọn đầu vào ngày 9 tháng Chín năm 1962. Thế còn giờ? Giờ cũng quan trọng. À, vậy : vào buổi chiều. , phải cụ thể hơn… Khi đồng hồ điểm ba giờ, tức là, mặc dù ở phương Bắc, thời điểm nóng nhất trong ngày, người hầu đem cho bà tấm phong bì đặt đĩa bạc. Vài giây sau, ở tít New Delhi, Bộ trưởng Quốc phòng Krishna Menon (tự mình chủ xướng, trong khi Nehru vắng để tham dự Hội nghị các Thủ tướng thuộc khối Thịnh vượng chung) đưa ra quyết định trọng đại nếu cần thiết dùng vũ lực với quân đội Trung Quốc ở vùng biên giới dãy Himalaya. “Quân Trung Quốc phải bị đánh bật khỏi Triền Thag La,” ông Menon vào thời điểm mẹ tôi xé phong bì. “ được phép tỏ ra khiếp nhược.” Nhưng quyết định này chỉ là chuyện vặt khi đặt cạnh hệ quả mà bức điện của mẹ tôi mang lại; vì trong khi cuộc hành quân trục xuất kẻ thù, mật danh LEGHORN, được chú định thất bại, và cuối cùng biến Ấn Độ thành kịch trường chết chóc nhất, Kịch trường Chiến tranh, bức điện ném tôi, cách thầm nhưng đích xác, đến với biến cố kết thúc với việc tôi bị trục xuất vĩnh viễn khỏi cái thế giới bên trong tôi. Trong khi quân đoàn Ấn Độ XXXIII hành động theo chỉ đạo của Menon được truyền đạt đến Đại tướng Thapar, tôi cũng bị đặt vào tình thế hiểm nghèo; như thể những sức mạnh vô hình kết luận tôi vượt quá giới hạn những gì tôi được phép làm hoặc biết hoặc là; như thể lịch sử quyết định đặt tôi chắc chắn ở vị trí của mình. Tôi hoàn toàn được có ý kiến gì trong việc này; mẹ tôi đọc bức điện, bật khóc và , “Các con, ta về nhà thôi.”…và sau đó, như tôi khi bắt đầu câu chuyện trong bối cảnh khác, chỉ còn là vấn đề thời gian.

      Bức điện viết: XIN VỀ NGAY SINAI SAHIB BỊ BỤP TIM ỐM NẶNG LẮM SALAAMS ALICE PEREIRA.

      “Tất nhiên là phải về ngay, chị thân ,” dì Emerald bảo bà chị, “Có điều, cái bụp tim này, lạy Chúa, là gì biết?”

      Có khả năng, thậm chí có nhiều khả năng, tôi mới là sử gia đầu tiên ghi lại câu chuyện về cuộc-đời-và-thời-đại ly kỳ chối cãi được của mình. Người nào nối gót tôi, dù sao nữa, tất yếu phải đến với tài liệu này, cuốn cẩm nang này, cuốn Hadith hay Purana hay Grundrisse[1]này, để tìm hướng và cảm hứng. Tôi khuyên những nhà luận giải kinh điển tương lai rằng: khi nghiên cứu những kiện xảy ra tiếp sau “Bức điện bụp tim”, hãy nhớ rằng ở chính giữa tâm cơn bão đổ xuống đầu tôi – hay dùng dụ khác, lưỡi kiếm đánh ra đòn sát thủ với tôi – là sức mạnh hội tụ duy nhất. Tôi muốn đến viễn thông.

      [1] Hadith là tập hợp những cuốn sách về những tập quán và truyền kỳ về Muhammad và các tông đồ, được xem như tài liệu cơ bản của Hồi luật. Purana là tập hợp các Phạn văn thuộc kinh Vệ Đà, giải thích về sinh diệt của vũ trụ và tích các thần trong đạo Hindu. Grundrisse là cách gọi tắt Grundrisse der Kritik der Politischen Ökonomie (Đại cương Phê phán Kinh tế Chính trị), bản thảo có ý nghĩa rất quan trọng trong các trước tác của Karl Marx.

      Điện tín, và sau điện tín, tới điện thoại, là tác nhân hủy hoại tôi; tuy nhiên, với độ lượng, tôi kết ai vào tội mưu; mặc dù dư luận dễ tin rằng giới nắm quyền kiểm soát truyền thông quyết tâm giành lại vị thế độc quyền đối với sóng thông tin toàn quốc… Tôi phải quay về (Padma cau mày) với chuỗi kiện tầm thường của nguyên-nhân-và-hệ-quả: chúng tôi đến sân bay Santa Cruz chiếc Dakota, vào 16 tháng Chín; nhưng để giải thích về bức điện, tôi phải xa hơn ngược chiều thời gian.

      Nếu Alice Pereira lần phạm tội, khi đánh cắp Joseph D’Costa của Mary chị , những năm sau này, được chặng dài con đường chuộc tội; bởi suốt bốn năm qua là người duy nhất bầu bạn với Ahmed Sinai. Sống biệt lập quả đồi phủ bụi thời từng là Điền trang Methwold, thiên tính hay giúp đỡ của phải đáp ứng những đòi hỏi nặng nề. Ông bắt ngồi với ông đến nửa đêm trong khi ông nốc tửu tinh và lèm bèm về những bất công trong đời mình; ông nhớ ra, sau nhiều năm quên lãng, giấc mơ cũ về những bất công trong đời mình; ông nhớ ra, sau nhiều năm quên lãng, giấc mơ cũ về dịch và sắp xếp lại kinh Quran, và đổ lỗi cho gia đình làm ông suy nhược tới mức còn đủ tinh lực để bắt đầu sứ mệnh tầm cỡ ấy; ngoài ra, vì có ở đó, cơn giận của ông thường nhắm vào , dưới hình thức tràng dài những lời chửi bới tục tằn và rủa xả vô dụng được ông chế ra trong những ngày chìm đắm vào nỗi quên đời. nỗ lực thông cảm với ông: ông đơn, mối quan hệ từng là thể thất bại của ông với điện thoại nay bị hủy hoại sau những biến động kinh tế của thời kỳ này; nhạy bén trong vấn đề tài chính cũng bắt đầu từ bỏ ông… và cả ông cũng trở thành con mồi của những nỗi sợ kỳ quái. Khi con đường do Trung Quốc xây ở vùng Aksai Chin bị phát , ông bắt đầu tin rằng việc bọn mọi da vàng đến Điền trang Methwold chỉ là chuyện sớm chiều; và chính Alice phải trấn an ông bằng Coca-Cola ướp đá, và bảo, “Có gì mà sợ. Bọn Khựa ấy bé tí, đánh sao nổi jawan của chúng ta. Cứ yên tâm mà uống Coca của ông ; chẳng có gì xảy ra đâu.”

      Cuối cùng ông làm kiệt quệ; nhưng rốt cuộc vẫn ở lại, chỉ vì cầu và nhận được những khoản tăng lương đáng kể, và gửi hầu hết số tiền về Goa chu cấp cho chị Mary; nhưng vào ngày 1 tháng Chín, kể cả cũng cưỡng nổi những thỉnh phờ từ chiếc điện thoại.

      Đến lúc đó, cũng dành thời gian bên thiết bị ấy nhiều kém gì ông chủ, nhất là mỗi khi đám đàn bà nhà Narlikar gọi lên. Những phụ nữ ghê gớm nhà Narlikar, vào thời điểm ấy, vây hãm cha tôi, gọi điện cho ông ngày hai lần, dỗ dành thuyết phục ông bán nhà, nhắc ông rằng tình thế của ông rất tuyệt vọng, lượn lờ đầu ông như kền kền lượn godown cháy… vào ngày 1 tháng Chín, như con kền kền ngày xưa, họ giáng xuống cánh tay quật trúng giữa mặt ông, bởi họ hối lộ Alice Pereoira để rời bỏ ông. thể chịu đựng ông hơn nữa, kêu lên, “Ông tự mà nghe điện thoại! Tôi đây.”

      Đêm đó, tim của Ahmed Sinai bắt đầu trương lên. Chất chứa đầy thù hận cay đắng đau buồn tự thương thân, nó phồng lên như trái bóng bay, nó đập quá nhanh, ngừng đập, và cuối cùng đánh quỵ ông như con bò mộng; ở bệnh viện Breach Candy, bác sĩ phát tim cha tôi thực tế biến dạng – chỗ sưng mới lồi hẳn ra bên dưới tâm thất trái. Nó , bằng chữ của Alice, “bụp” ra.

      Alice tìm thấy ông vào hôm sau, khi, tình cờ, quay lại lấy cái ô bỏ quên; như thư ký mẫu mực, viện tới quyền năng của điện tử viễn thông, điện thoại gọi xe cứu thương và điện báo cho chúng tôi. Do chế độ kiểm duyệt thư tín giữa Ấn Độ và Pakistan, “bức điện bụp tim” mất nguyên nhân tuần mới đến được Amina Sinai.



      “Bay-về-Bom!” tôi hét lên hoan hỉ, làm đám cu li ở sân bay giật mình. “Bay-về-Bom!” tôi reo vui, bất chấp tất cả, cho tới khi con bé Jamila mới-trở-nên-nghiêm-túc , “Kìa, Saleem, thiệt tình, thôi !” Alice Pereira đón chúng tôi tại sân bay (điện tín báo trước cho ); và sau đó chúng tôi lên chiếc taxi đen-và-vàng chính hiệu Bombay, tôi vừa đắm mình trong tiếng rao channa-nóng-đê, trong chen chúc lạc đà xe đạp và người người người, vừa nghĩ thành phố của Mumbadevi làm Rawalpindi nhìn chả khác gì cái làng, vừa khám phá lại nơi này, đặc biệt là những màu sắc – sắc rực rỡ bị lãng quên của hoa phượng và hoa giấy, sắc xanh ngắt của nước chứa trong bể ở Đền Mahalaxmi[2], sắc đen-và-trắng nhức mắt từ những cái ô của cảnh sát giao thông và sắc xanh-và-vàng từ đồng phục của họ; nhưng phần lớn là màu xanh xanh xanh của biển… chỉ có màu xám xịt gương mặt tiều tụy của cha tôi là làm tôi quên vẻ rực rỡ muôn màu của thành phố, và khiến tôi tỉnh táo lại.

      [2] Đền thờ của đạo Hindu thường có bể nước thiêng cho tín đồ tắm rửa để thanh trừ bệnh tật.

      Alice Pereira bỏ chúng tôi tại bệnh viện để trở về làm việc cho đám đàn bà nhà Narkilar; và giờ bất ngờ xảy ra. Mẹ tôi, Amina Sinai, bừng tỉnh khỏi trạng thái đờ đẫn và nỗi trầm uất và màn-sương-tội-lỗi và cơn đau-mụn-cóc khi vừa thấy mặt cha tôi, và hình như tìm lại tuổi trẻ cách thần kỳ; với đức cần mẫn thiên phú phục hồi trọn vẹn, bà khởi quá trình giúp Ahmed hồi phục, dưới thôi thúc của quyết tâm gì cản nổi. Bà đưa ông về căn phòng ngủ ở tầng nơi bà chăm sóc ông qua trận đóng băng; bà ở bên ông cả ngày lẫn đêm, rót sinh lực vào cơ thể ông. Và tình của bà được đền đáp, bởi vì Ahmed Sinai chỉ hồi phục hoàn toàn đến mức làm các bác sĩ người Âu ở Breach Candy phải sững sờ, mà còn có thay đổi tuyệt đối kỳ diệu hơn xảy ra, ấy là, khi Ahmed trở lại là mình dưới săn sóc của Amina, ông trở lại với con người từng nhọc công nguyền rủa bà vật lộn với tửu itnh, mà với con người vốn có của ông, chan chứa ăn năn và tha thứ và tiếng cười và lòng khoan dung và phép mầu thần diệu nhất, ấy là tình . Ahmed Sinai, đến cuối cùng, đem lòng mẹ tôi.

      Và tôi là con dê tế thần họ đem phụng hiến cho tình của họ.



      Họ thậm chí bắt đầu ngủ chung trở lại; và dù rằng em tôi – với thoáng tái của con Khỉ trước kia – , “Cùng giường ấy à, Allah, chhi-chhi, gớm quá!”, tôi thấy mừng cho họ; và thậm chí, trong giây lát, vui mừng hơn cho chính tôi, bởi vì tôi về lại miền đất của Hội nghị Những đứa trẻ Nửa đêm. Trong khi những tít báo hành quân ra trận, tôi khôi phục mối quan hệ với các đồng bạn phi thường của mình, hề biết có bao nhiêu cái kết chờ đợi sẵn.

      Vào ngày 9 tháng Mười – QUÂN ĐỘI ẤN SẴN SÀNG CHO NỖ LỰC TOÀN DIỆN – tôi thấy có thể triệu tập Hội nghị (thời gian và những nỗ lực của tôi dựng lên rào chắn cần thiết quanh bí mật của Mary). Chúng trở lại đầu tôi; đó là tối vui mừng, tối để chôn vùi những bất đồng cũ, để cùng nỗ lực toàn diện vì đoàn tụ. Chúng tôi nhắc lại, hết lần này tới lần khác, niềm vui hội ngộ; phớt lờ sâu xa hơn – rằng chúng tôi cũng giống mọi gia đình, rằng những cuộc đoàn tụ gia đình trong hình dung bao giờ cũng tươi vui hơn là thực tế, và rằng đến lúc mọi gia đình phải đường ai nấy . Vào 15 tháng Mười - ẤN ĐỘ BỊ TẤN CÔNG DÙ KHƠI MÀO – những câu hỏi tôi hằng sợ hãi và cố gắng khơi mào bắt đầu: Tại sao Shiva có mặt? Và: Tại sao cậu phải khóa trái phần tâm thức?

      Vào ngày 20 tháng Muời, quân Ấn Độ bị quân Trung Quốc đánh bại – đập tan tại triền Thag La. Thông cáo chính thức của Bắc Kinh tuyên bố: Vì mục đích tự vệ, bộ đội biên phòng Trung Quốc buộc phải kiên quyết giáng trả. Nhưng khi, cũng đêm ấy, lũ trẻ nửa đêm phát động cuộc hiệp đồng công kích vào tôi, tôi chẳng có phòng tuyến nào. Chúng tấn công tôi ở chính diện và từ mọi hướng, kết tội tôi giấu diếm, quanh co, chuyên quyền, tự phụ; tâm trí tôi, còn là nghị trường, trở thành chiến trường nơi chúng đồ sát tôi. còn là “ Hai Saleem”, tôi tuyệt vọng im nghe chúng xé xác tôi; bởi, bất chấp mọi -thanh-và-cuồng-nộ của chúng, tôi thể khai mở thứ tôi niêm phong; tôi thể buộc mình cho chúng biết bí mật của Mary. Kể cả Parvati-phù-thủy, bao lâu nay là người ủng hộ tôi nhiệt tình nhất, cuối cùng cũng mất kiên nhẫn với tôi. “Ôi, Saleem”, , “Chúa mới biết cái đất Pakistan ấy làm gì cậu; nhưng cậu khác xưa nhiều quá.”

      Ngày xưa, lâu rồi, cái chết của Mian Abdullah hủy hoại Hội nghị khác, vốn tồn tại được hoàn toàn nhờ vào sức mạnh ý chí của ông; giờ đây, khi lũ trẻ nửa đêm mất lòng tin ở tôi, chúng đồng thời mất niềm tin vào điều tôi tạo dựng cho chúng. Từ 20 tháng Mười đến 20 tháng Mười , tôi tiếp tục triệu tập – hay cố gắng triệu tập – những phiên họp ban đêm; nhưng chúng tháo chạy khỏi tôi, phải từng người mà hàng mười và hai mươi đứa ; mỗi đêm, số người sẵn lòng tiếp sóng lại ít ; mỗi tuần, cả trăm đứa rút về với cuộc sống riêng. dãy Himalaya, người Gurkha và Rajput tháo chạy tán loạn khỏi quân đội Trung Quốc, còn ở thượng nguồn tâm trí tôi, đạo quân khác cũng bị tiêu diệt vì nhiều thứ - hục hặc, định kiến, chán nản, ích kỷ - những điều tôi cứ tưởng là quá nhặt, quá vặt vãnh thể chạm đến chúng.

      (Nhưng lạc quan, như căn bệnh mạn tính, dứt khoát tiêu tan; tôi tiếp tục tin – giờ vẫn tiếp tục – rằng điều-chúng-tôi-chia-sẻ cuối cùng lấn át điều-chia-rẽ-chúng-tôi. : tôi nhận trách nhiệm chủ yếu về kết thúc của Hội nghị Những đứa trẻ; bởi vì thứ hủy diệt mọi cơ hội tái sinh của nó chính là tình của Ahmed và Amina Sinai).

      … Còn Shiva? Shiva, người bị tôi lạnh lùng chiếm đoạt quyền vị hợp pháp từ khi ra đời? lần, trong tháng sau cùng ấy, tôi huy động ý nghĩ của mình để tìm kiếm ; nhưng tồn tại của , đâu đó trong thế giới này, ngớt giày vò từng ngóc ngách tâm trí tôi. Shiva-kẻ-hủy-diệt, Shiva Đầu-gối-gõ-nhau… trở thành, với tôi, đầu tiên là cơn đau nhói của tội lỗi; rồi nỗi ám ảnh; và cuối cùng, khi hồi ức về tồn của mờ , trở thành dạng triết lý; thành đại diện, trong tâm thức tôi, của mọi hận thù và bạo lực và -đồng-thời--ghét-mọi-vật-chất--thế-gian; đến nỗi tận bây giờ, khi nghe chuyện xác chết đuối nổi lềnh phềnh như bóng bay dòng Hooghly và vỡ tung khi tàu bè quẹt phải; hay tàu hỏa bị đốt, hay chính trị gia bị sát hại, hay bạo loạn ở Orissa hay Punjab, tôi lại có cảm giác có bàn tay Shiva đè nặng lên mọi chuyện, chú định rằng chúng ta phải ngơi bì bõm trong vũng lầy giết chóc hãm hiếp lòng tham chiến tranh – rằng Shiva, tóm lại, tạo ra chúng ta như bây giờ. ( cũng ra đời vào nửa đêm; , như tôi, gắn kết với lịch sử. Các chế độ liên kết - nếu tôi đúng khi nghĩ rằng chúng áp dụng cho tôi – cũng cho phép tác động lên dòng chảy của thời đại.)

      Tôi như thể tôi bao giờ gặp lại nữa; thực ra là có. Nhưng chuyện đó, đương nhiên, cũng phải xếp hàng như các chuyện khác; tôi chưa đủ khỏe mạnh để kể cố ấy ngay lúc này.



      Căn bệnh lạc quan, dạo ấy, lần nữa đạt đến độ quy mô đại dịch; tôi, trong khi đó, bị cơn viêm xoang hành hạ. Được kích phát cách kỳ quái sau trận thua ở triền Thag La, dư luận lạc quan về cuộc chiến trở nên béo tốt (và nguy hiểm) như trái bóng bơm quá căng; tuy nhiên, cái khoang mũi chịu khổ lâu của tôi, bao giờ cũng trong tình trạng quá căng, cuối cùng buông súng trong cuộc chiến với chứng nghẹt mũi. Trong khi các nghị sĩ tuôn ra những diễn từ về “bọn bành trướng Trung Hoa” và “máu các jawan tuẫn đạo của chúng ta”, mắt tôi bắt đầu trào nước; trong khi cả quốc gia tự thổi phồng lên, tự thuyết phục mình rằng tiêu diệt bọn lùn da vàng là chuyện trong tầm tay, xoang mũi tôi cũng căng phồng và làm biến dạng khuôn mặt vốn gây sửng sốt tới mức chính Ayub Khan nhìn chằm chằm vào nó với vẻ kinh ngạc giấu giếm. Bị căn bệnh lạc quan kiểm soát, sinh viên đốt Mao Trạch Đông và Chu Ân Lai bằng hình nộm; với cơn sốt lạc quan hiển lông mày, đám đông tấn công các thợ giày, lái buôn đồ cổ và chủ quán ăn Hoa kiều. Bừng bừng ý chí lạc quan, Chính phủ thậm chí còn giam giữ các công dân Ấn Độ gốc Hoa – giờ được coi là “ngoại kiều thù địch” – trong các trại ở Rajasthan. Tập đoàn công nghiệp Birla hiến tặng trường bắn mini cho đất nước; nữ sinh bắt đầu tham gia diễu hành của quân đội. Nhưng tôi, Saleem, cảm thấy như sắp chết vì ngạt thở. khí, bị dịch lạc quan làm đặc quánh lại, từ chối vào phổi tôi.

      Ahmed và Amina Sinai nằm trong số những bệnh nhân nặng nhất của dịch lạc quan vừa tái phát; lây bệnh qua vật chủ là tình vừa nảy nở, họ lại hòa mình vào cơn phấn khích của xã hội trong niềm hăm hở. Khi Morarji Desai, ngài Bộ trưởng Tài chính uống-nước-tiểu, phát động phong trào “Kim khí làm vũ khi”, mẹ tôi liền quyên tặng vòng vàng và khuyên tai lục bảo; lúc Morarji gợi ý về trái phiếu quốc phòng, Ahmed Sinai liền mua cả mớ. Chiến tranh dường như đem đến cho Ấn Độ bình minh mới; tờ Thời báo Ấn Độ, bức biếm họa có tên “Chiến tranh với Trung Quốc” vẽ Nehru xem các đồ thị về “Độ Hòa nhập Cảm xúc”, “Hòa hợp Chủ-Thợ” và “Niềm tin của Nhân dân vào Chính phủ” và reo lên, “Chưa bao giờ tình hình lại tốt như thế này!” Bồng bềnh biển lạc quan, chúng tôi – đất nước, cha mẹ tôi, tôi – mù quáng trôi về phía rặng đá ngầm.

      dân tộc, chúng tôi bị ám ảnh với những trùng hợp. Mỗi điểm tương đồng giữa chuyện này với chuyện kia, giữa những thứ tưởng như liên quan, khiến chúng tôi hớn hở vỗ tay khi phát ra. Nó là dạng khát khao hình thái của cả dân tộc – hay có lẽ đơn giản là biểu của niềm tin sâu sắc của chúng tôi rằng hình thái náu trong thực; rằng ý nghĩa chỉ hiển lộ trong sát na. Thế nên điềm báo là điểm yếu của chúng tôi… chẳng hạn, khi lá cờ Ấn Độ lần đầu được kéo lên, cầu vồng xuất cánh đồng nọ ở Delhi, cây cầu vồng màu nghệ và xanh; và chúng tôi thấy như được ban phước. Ra đời giữa trùng hợp, tôi nhận ra nó liên tục săn đuổi tôi… trong khi người dân Ấn Độ mù quáng hướng đến thảm bại quân , tôi cũng đến gần (mà hoàn toàn biết) thảm họa của riêng tôi.

      Biếm họa Thời báo Ấn Độ về “Độ Đoàn kết Cảm xúc”, ở Biệt thự Buckingham, mẩu sót lại cuối cùng của Điền trang Methwold, cảm xúc chưa bao giờ đoàn kết thế. Ahmed và Amina sống những ngày tháng như đôi chim cu thời ve vãn; và trong khi tờ Nhân dân Nhật báo của Bắc Kinh phê phán “Chính quyền Nehru rốt cuộc trút bỏ tấm áo Liên Kết”, hai em tôi phê phán gì, bởi lần đầu tiên sau nhiều năm chúng tôi phải giả vờ giữ lập trường liên kết trong cuộc chiến giữa bố mẹ chúng tôi; điều chiến tranh gây ra cho Ấn Độ, việc chấm dứt mọi hành động thù địch lại giành được ở ngọn đồi hai tầng của nhà tôi. Ahmed Sinai thậm chí từ bỏ trận chiến hằng đêm với tửu tinh.

      Đến ngày 1 tháng Mười - ẤN ĐỘ TẤN CÔNG DƯỚI YỂM TRỢ CỦA PHÁO BINH – đường mũi của tôi lâm vào tình trạng cực kỳ nghiêm trọng. Mặc dù mẹ bắt tôi chịu đựng tra tấn hàng ngày của Bình xịt Vick’s và dầu Vick’s pha với nước (thứ mà, với chăn trùm kín đầu, tôi bị bắt phải hít lực), xoang mũi tôi dứt khoát phản ứng trước mọi cách điều trị. Đây chính là ngày cha tôi dang tay và . “Lại đây, con trai – lại đây để ta con.” Trong cơn cuồng điên hạnh phúc (có lẽ, rốt cuộc, bệnh lạc quan nhiễm vào tôi) tôi cho phép mình bị ép tới ngạt thở trong cái bụng nhão xệ của ông; nhưng đến khi ông buông tôi ra, nước mũi nhoe nhoét chiếc bush-shirt của ông. Tôi nghĩ đó là kiện cuối cùng kết án tôi; bởi vì chiều hôm ấy, mẹ tôi phát động tấn công. Vờ như sắp gọi cho bạn, bà thực cú điện thoại nào đấy. Trong khi quân Ấn tấn công dưới yểm trợ của pháo binh, Amina Sinai lên kế hoạch cho sụp đổ của tôi, dưới bảo vệ của lời dối.

      Trước khi kể câu chuyện tôi bước vào sa mạc của những năm cuối đời mình ra sao, tôi phải thú nhận rằng tôi có khả năng trách oan uổng cha mẹ mình. lần, theo chỗ tôi biêt, lần trong suốt quãng thời gian sau mạc khải của Mary, họ tiến hành tìm kiếm đứa con máu mủ đích thực của mình; và tôi , ở vài thời điểm trong câu chuyện này, quy thất bại ấy cho việc thiếu khả năng tưởng tượng – tôi , ít nhiều, rằng tôi vẫn là con họ bởi vì họ thể hình dung ra tôi ở ngoài vai trò đó. Và còn có những cách suy diễn tồi tệ hơn – như họ ngần ngại dang tay đón vào lòng thằng bé bất bơ sống mười năm nơi đầu đường xó chợ; nhưng tôi muốn nêu ra động cơ cao quý hơn: có lẽ, bất chấp tất cả, bất chấp mũi-dưa-chuột-mặt-nhọ cằm-lẹm thái-dương-sừng chân-vòng-kiềng ngón-tay-cụt đầu-sư-cọ và (phải thừa nhận là họ biết) tai trái điếc, bất chấp cả việc nửa-đêm-tráo-trẻ của Mary Pereira… có lẽ, tôi nghĩ, mặc dù tất cả những kích động ấy, bố mẹ tôi vẫn tôi. Tôi rút chạy khỏi họ vào thế giới bí mật của tôi; sợ họ ghét bỏ, tôi thừa nhận khả năng là tình của họ mạnh hơn xấu xí, mạnh hơn cả máu thịt. Có nhiều khả năng là, điều được thu xếp qua cú điện thoại, điều cuối cùng xảy ra vào 21 tháng Mười năm 1962, được thực vì những lý do cao quý nhất; đó là, cha mẹ hủy hoại tôi vì tình .

      Ngày 20 tháng Mười ngày khủng khiếp; đêm đó là đêm khủng khiếp… sáu ngày trước, vào sinh nhật thứ bảy mươi ba của Nehru, cuộc giao tranh dữ dội với phía Trung Quốc bắt đầu; quân Ấn – JAWAN XUNG TRẬN! – tấn công quân Tàu ở Walong. Tin về thảm bại tại Walong, và cuộc tháo chạy của Tướng Kaul với bốn tiểu đoàn, đến tai Nehru từ thứ Bảy ngày 18; vào thứ Hai ngày 20, nó loan khắp báo đài và tới Điền trang Methwold. NEW DELHI TỘT CÙNG HOẢNG LOẠN! ẤN ĐỘ TOÀN QUÂN TAN TÁC! Ngày hôm đó – ngày cuối cùng của cuộc đời cũ của tôi – tôi và em và cha mẹ tôi quây quần quanh chiếc đài Telefunken, trong khi viễn thông gieo rắc nỗi sợ Chúa trời và Trung Quốc vào tim chúng tôi. Và lúc này cha tôi ra điều định mệnh: “Mình ạ,” ông trầm giọng, trong khi tôi và Jamila run lên vì sợ hãi, “Begum Sahiba, đất nước này kết thúc rồi. Phá sản, Funtoosh.” Tờ báo buổi tối loan báo kết thúc dịch bệnh lạc quan: TINH THẦN DÂN CHÚNG BỊ HÚT KIỆT. Và sau kết thúc này, còn có những cái kết khác; những thứ khác cũng bị hút .

      Tôi lên giường mà đầu đầy những khuôn mặt súng ống xe tăng Trung Quốc… nhưng đến nửa đêm, đầu tôi lại trống rỗng và im lặng, bởi Hội nghị nửa đêm cũng tiêu tan; người duy nhất trong đám trẻ ma thuật sẵn lòng chuyện cùng tôi là Parvati-phù-thủy, và chúng tôi, chán nản cùng cực vì điều Nussie-vịt-bầu chắc hẳn gọi là “ngày tận thế”, chẳng thể làm gì hơn ngoài việc chuyện trò trong im lặng.

      Và còn nhiều hút kiệt khác, bình thường hơn: vết nứt xuất tại Đập Thủy Điện Bhakra Nangal vĩ đại, và hồ chứa nước khổng lồ ở đằng sau chảy tràn qua khe nứt… và cái liên doanh lấn biển của đám đàn bà nhà Narlikar, miễn nhiễm với lạc quan và thất bại hay bất kỳ thứ gì ngoài cám dỗ của tiền tài, tiếp tục hút đất ra từ lòng biển… nhưng vụ tiêu thoát sau cùng, đem đến cái tên cho chương này, xảy ra vào sáng hôm sau, ngay khi tôi vừa thở phào và nghĩ, rốt cuộc, cũng phải có gì đó kết thúc tốt đẹp chứ… vì buổi sáng chúng tôi nghe được tin mừng đến tưởng là Trung Quốc đột ngột, tuy cần phải vậy, ngừng tiến quân; sau khi kiểm soát được dãy Himalaya, họ ràng thỏa mãn; NGỪNG BẮN! báo chí reo mừng, và mẹ tôi cơ hồ ngất xỉu vì nhõm. (Người ta đồn rằng Đại tướng Kaul bị bắt làm tù binh; Tổng thống Ấn Độ, Tiến sĩ Radhakrishnan, bình luận, “Rất tiếc là, thông tin này hoàn toàn sai ”)

      Bất chấp đôi mắt ròng nước và xoang mũi sưng phồng, tôi vẫn vui; bất chấp cả kết thúc của Hội nghị Những đứa trẻ, tôi vẫn tắm mình trong ánh hân hoan của hạnh phúc tràn ngập Biệt thự Buckingham; thế nên khi mẹ tôi gợi ý, “Nhà ta ăn mừng nào! chuyến dã ngoại, hai đứa thấy sao?”, đương nhiên là tôi sốt sắng đồng ý. Đó là sáng ngày 21 tháng Mười ; chúng tôi giúp làm sandwich và paratha; chúng tôi dừng lại ở hàng nước ngọt và chất xô nhôm đựng đá và thùng Coca lên cốp chiếc Rover; bố mẹ đằng trước, con cái đằng sau, chúng tôi xuất phát. Jamila Ca sĩ hát cho chúng tôi nghe đường.

      Qua xoang mũi bỏng rát, tôi hỏi: “Mình đâu đây? Juhu? Elephanta? Marve? Đâu ạ?” Và mẹ tôi, cười gượng gạo: “Bí mật, con cứ chờ xem.” Qua phố xá đầy những đám đông nhõm reo mừng, chúng tôi phóng … “Ta nhầm đường rồi”, tôi thốt lên: “Đây đâu phải đường ra biển?” Cả bố mẹ tôi đồng thanh, đầy trấn an, đầy vui vẻ: “Chỉ dừng chỗ thôi, rồi ta ; bố mẹ hứa.”

      Điện tín triệu hồi tôi; vô tuyến điện[3] làm tôi khiếp sợ; nhưng điện thoại mới là kẻ đặt trước ngày giờ địa điểm hủy hoại tôi… và bố mẹ dối tôi.

      [1] Tức là sóng phát thanh.

      … Chúng tôi dừng lại trước tòa nhà lạ lẫm đường Carnac. Ngoại thất: đổ nát. Mọi cửa sổ: buông mành. “ với bố chứ, con trai?” Ahmed Sinai xuống xe; tôi, vui mừng được tháp tùng bố công chuyện, hớn hở cạnh ông. cửa gắn tấm biển đồng: Phòng khám Tai Mũi Họng. Và tôi, bỗng nhiên cảnh giác: “Cái gì đây, Abba? Sao mình lại đến…” Và tay ông, siết chặt vai tôi – thế rồi người đàn ông áo trắng – và y tá – rồi “À vâng, thưa ngài Sinai ra đây là cậu Saleem – rất đúng giờ - tốt, tốt”; trong khi tôi “Abba, – còn chuyến picnic…”; nhưng các bác sĩ dẫn tôi mất, cha tôi tụt lại sau, người đàn ông áo trắng gọi với ông, “ lâu đâu – mà đình chiến mừng quá, hả?” Và y tá, “Cháu vui lòng theo để thay quần áo và gây mê.”

      Lừa đảo! Lừa đảo, Padma! Tôi bảo rồi: lần, dã ngoại lừa tôi; thế rồi đến bệnh viện và căn phòng với cái giường cứng và những ngọn đèn treo trần sáng lòa và tôi gào khóc, “ ,” và y tá, “Nào đừng ngốc thế, cháu thành người lớn đến nơi rồi, nằm xuống ,” và tôi, nhớ lại khoang mũi bắt đầu mọi thứ trong đầu tôi, dịch mũi bị hít lênlênlên -nơi-nước-mũi--nên-đến ra sao, mối liên hệ được thiết lập, và giải phóng những tiếng ở trong tôi thế nào, liền quẫy đạp la hét tới mức họ phải ghì tôi xuống. “Thiệt tình,” y tá , “đứa bé này là, tôi chưa thấy bao giờ.”

      Và thế là điều bắt đầu trong tủ giặt kết thúc bàn mổ; bởi vì tay chân tôi bị ghì chặt xuống, và người đàn ông bảo, “Cháu cảm thấy gì đâu, còn dễ hơn cả cắt amiđan, chữa xoang nhanh í mà, nhoáng cái là xong,” và tôi “ đừng mà ,” nhưng giọng lại tiếp, “giờ chú áp chiếc mặt nạ này lên mặt cháu, cứ đếm đến mười nhé.”

      Đếm. Những con số bước đều hai ba.

      Tiếng khí thoát ra xì xì. Những con số giẫm đạp tôi bốn năm sáu.

      Những khuôn mặt bồng bềnh trong sương mù. Và vẫn những con số hỗn loạn, tôi khóc, tôi nghĩ vậy, những con số bước thình thịch bảy tám chín.

      Mười.

      “Chúa ơi, thằng bé vẫn tỉnh. bất thường. Tốt nhất là thêm liều nữa – cháu nghe được chú chứ? Saleem, phải ? Ngoan lắm, đếm đến mười lần nữa nhé!” Đừng hòng bắt được tôi. Hằng hà sa số tập hợp trong đầu tôi. Chủ nhân của những con số, tôi. Chúng lại đến rồi mười mười hai.

      Nhưng họ đời nào để tôi dậy cho đến khi… mười ba mười bốn mười lăm… Ôi Chúa Ôi Chúa màn sương váng vất và tôi rơi ngược lại rơi rơi, mười sáu, qua mặt chiến tranh và lọ gia vị, rơi rơi, mười bảy mười tám mười chín.

      Hai



      Xưa có cái tủ giặt và thằng bé khịt quá mạnh. Mẹ nó cởi đồ và phô ra Trái Xoài Đen. Những giọng xuất , song phải của các Tổng thiên thần. bàn tay, làm điếc bên tai trái. Và thứ gì sinh trưởng mạnh nhất trong mùa nóng: ảo tưởng, phi lý, dục vọng. Có chuyện náu trong tháp đồng hồ, và gian lận lớp. Và tình ở Bombay nảy nở từ tai nạn xe đạp; sừng-thái-dương nhập vào hõm-forcep, và năm trăm tám mươi mốt đứa trẻ tìm đến đầu tôi. Những đứa trẻ của nửa đêm: có thể là thân của niềm hy vọng và tự do, và cũng có thể là những-kẻ-dị-hợm-đáng-bị-kết-liễu. Parvati-phù-thủy, người trung thành hơn cả, và Shiva, kẻ trở thành triết lý sống. Có câu hỏi về mục đích, và cuộc tranh luận giữa ý thức và vật chất. Có đầu gối và mũi và mũi và đầu gối.

      Bắt đầu có cãi cọ, và thế giới người lớn thâm nhiễm vào thế giới trẻ con; ích kỷ và hợm hĩnh và thù ghét xuất . Và bất khả của triết lý thứ ba; nỗi sợ của việc cuối-cùng--chẳng--đến-đâu bắt đầu lớn dần. Và điều ai đề cập: rằng mục đích của năm trăm tám mươi mốt đứa trẻ nằm ở trong hủy diệt của chúng; rằng chúng ra đời, chỉ để trở thành gì cả. Những lời tiên tri bị phớt lờ khi chúng đến cái kết cục này.

      Và những mạc khải, và đóng cửa tâm trí; và lưu đày, và lần trở về sau-bốn-năm; ngờ vực gia tăng, bất đồng nảy nở, từng mười, hai mươi người bỏ . Rồi, đến cuối cùng, chỉ còn giọng ở lại; song bệnh lạc quan vẫn dai dẳng – điều-chúng-ta-chia-sẻ vẫn còn cơ hội khuất phục điều-chia-rẽ-chúng-ta.

      Cho đến khi:



      Im lặng bên ngoài tôi. gian phòng tối om (buông mành). nhìn thấy gì ( có gì để nhìn).

      Im lặng bên trong tôi. mối liên kết bị cắt đứt (vĩnh viễn). nghe thấy gì ( còn gì để nghe).

      Im lặng, như hoang mạc. Và cái mũi thông, thoáng (khoang mũi tràn ngập khí). khí, như kẻ đốt đền, xâm phạm tư thất của tôi.

      Hút kiệt. Tôi bị hút kiệt. Chim parahamsa, hạ cánh.

      (Vĩnh viễn.)




      Ôi, toẹt ra , toẹt ra : ca phẫu thuật mà danh nghĩa là hút kiệt xoang mũi sưng phồng của tôi và việc nạo hút -lần-cho-mãi-mãi đường mũi của tôi gây hậu quả là cắt đứt bất cứ mối liên kết nào từng được thiết lập trong tủ giặt; và tước bỏ của tôi khả năng ngoại cảm được mũi phú cho; và trục xuất tôi khỏi triển vọng về những đứa trẻ nửa đêm.

      Cái tên chứa đựng số phận của con người; sống như chúng ta sống ở nơi những cái tên chưa có được vô nghĩa của phương Tây, và vẫn chỉ đơn thuần là những tiết, ta chính là nạn nhân của danh tự của mình. Sinai hàm chứa Ibn Sina, pháp sư bậc thầy, đạo sĩ Sufi[4] lão luyện; và cũng là mặt trăng Sin, vị thần cổ đại của xứ Hadhramaut[5], với chế độ liên kết riêng của mình, với quyền năng tác-động-từ-xa lên thủy triều của trái đất. Nhưng Sin cũng là chữ S, xoắn xuýt như linh xà, là mãng xà cuộn tròn trong cái tên. Rồi còn có ngẫu nhiên khi phiên – Sinai, trong văn tự La Mã (nhưng Nastalid ) là tên của chốn-mạc-khải, của thoát-hài, của những điều răn và của bê vàng[6]; nhưng khi tất cả những điều đó được và làm, khi Ib Sina bị lãng quên còn vầng trăng lặn, khi rắn náu mình còn mạc khải chấm dứt, đó là cái tên của hoang mạc[7] - của cằn cỗi, vô sinh, cát bụi; tên của kết thúc.

      [4] Sufi: từ dùng để gọi những người tu hành theo tông phái thần bí (sufism) thuộc đạo Hồi.

      [5] Tên thành bang nằm ở phía Nam bán đảo Ả Rập, ngày nay thuộc Cộng hòa Yemen.

      [6] Rushdie nhắc đến nhiều điển tích tôn giáo liên quan đến đỉnh Sinai. Đây là nơi (i) Tổng Thiên thần Gabriel giáng hạ và giao tiếp với Muhammad; (ii) theo tín ngưỡng Do Thái, đức Jehovah phán rắng tín đồ phải cởi giày khi đặt chân lên đỉnh Sinai vì đây là thánh địa; (iii) cũng tại đây, Moses nhận được hai tấm bia đá khắc Mười Điều Răn của Chúa; (iv) Aaron đúc tượng con bê bằng vàng làm thần vật tượng trưng cho Chúa để người Israel chiêm bái khi Moses vắng mặt.

      [7] Bán đảo Sinai (ngày nay thuộc Ai Cập) là khu vực có địa hình chủ yếu là sa mạc.

      Tại Ả Rập – Arabia Deserta[8]– thời của Nhà Tiên tri Muhammad, có nhiều nhà tiên tri khác cũng cùng thuyết giảng: Maslama của bộ lạc Banu Hanifa ở Yamama, nằm ở trung tâm Ả Rập, và Hanzala ibn Safwan, và Khalid ibn Sinan. Chúa của Maslama là ar-Rahman, đấng Từ bi; ngày nay tín đồ đạo Hồi cầu nguyện Allah, ar-Rahman[9]. Khalid ibn Sinai được cử đến thuyết giáo cho bộ lạc ‘Abs; thời gian, ông được họ tin theo, nhưng rồi thất bại. phải bao giờ các nhà tiên tri cũng là giả mạo chỉ vì họ bị lịch sử vượt mặt, và nuốt chửng. Sa mạc chưa bao giờ vắng bóng những người có đạo hạnh.

      [8] Sa mạc Ả Rập.

      [9] Theo kinh Quran, ar-Rahman là tên của Chúa (Allah). Rushdie ám chỉ Chúa của đạo Hồi là đức Chúa “tổng hợp”, dung nạp những yếu tố từ tôn giáo khác.



      “Mình ạ,” Ahmed Sinai , “đất nước này kết thúc rồi.” Sau vụ ngừng bắn và hút xoang, những lời này trở lại ám ảnh ông; và Amina bắt đầu thuyết phục ông di cư sang Pakistan, nơi các chị em còn sống của bà định cư, và nơi mẹ bà đến sau cái chết của cha bà. “ khởi đầu mới,” bà gợi ý, “Janum, như vậy hay lắm. Quả đồi bị Chúa ruồng bỏ này còn gì cho ta nữa đâu?”

      Vậy là rốt cuộc, sau bao sóng gió, Biệt thự Buckingham được giao vào tay đám đàn bà nhà Narlikar; và sau hơn mười lăm năm lỡ hẹn, gia đình tôi chuyển đến Pakistan, Xứ Sở của những kẻ Thuần Khiết. Ahmed Sinai hầu như lưu lại gì; có nhiều cách chuyển tiền với trợ giúp của các công ty đa quốc gia, và cha tôi rành chuyện đó. Còn tôi, tuy buồn khi chia tay nơi chôn nhau cắt rốn, nhưng phải vui khi được khỏi thành phố nơi Shiva rình rập đâu đó như quả mìn được chôn giấu kỹ càng.

      Nhà tôi, rốt cuộc, rời Bombay vào tháng Hai năm 1963; và, vào ngày xuất hành, tôi cầm quả địa cầu nhôm cũ ra vườn rồi chôn nó giữa những bụi xương rồng. Ở trong: lá thư của Thủ tướng, bức-hình-em-bé trang-nhất-cỡ-đại, với lời chú thích “Em bé của Nửa đêm”… Có thể chúng phải là thánh tích – tôi định so sánh những kỷ vật vụn vặt của đời mình với sợi tóc ở Hazratbal của Đấng Tiên tri, hay di hài của Thánh Francis Xavier tại Nhà thờ Bom Jesus – nhưng chúng là tất cả những gì sót lại từ quá khứ của tôi: quả địa cầu nhôm móp méo, lá thư ố mốc, tấm ảnh. Chẳng còn gì khác, kể cả cái ống nhổ bạc. Ngoại trừ hành tinh bị Con Khỉ giẫm nát, mọi kỷ lục còn lại được phong ấn trong hai cuốn thiên thư đóng kín, Sidijeen and Illiyun, hai cuốn Thiện Thư và Ác Thư; dù gì nữa, chuyện là như thế.

      … Chỉ khi chúng tôi chiếc S.S.Sabarmati và buông neo ngoài Rann xứ Kutch, tôi mới nhớ tới cụ Schaapsteker; và, đột nhiên, tự nhủ có ai thông báo cho cụ rằng chúng tôi sắp . Tôi dám hỏi, sợ câu trả lời có thể là ; bởi vậy khi tôi nghĩ đến cảnh đội giải phóng mặt bằng vào việc, và hình dung ra những cỗ máy hủy diệt đập thủng văn phòng của cha tôi và căn phòng thiên thanh của tôi, kéo đổ cây cầu thang sắt cuốn của người hầu và căn bếp nơi Mary Pereira khuấy nỗi sợ của mình vào chutney và rau quả dầm, thảm sát hàng hiên nơi mẹ tôi từng ngồi với đứa bé như tảng đá trong bụng, tôi cũng tưởng tượng ra quả cầu lăng[10] khổng lồ đâm sầm vào lãnh địa của Sharpsticker sahib, và ra chính ông già mất trí, nhợt nhạt kiệt quệ lưỡi chẻ, bị phơi ra ở đó nóc tòa nhà vỡ vụn, giữa những ngôi tháp sụp đổ và mái ngói đỏ, ông cụ Schaapsteker nhăn nheo già chết dần dưới ánh mặt trời bao năm ông nhìn thấy. Nhưng có lẽ tôi kịch tính hóa vấn đề; có lẽ tôi bị nhiễm tất cả những điều này từ bộ phim cũ tên là Chân trời mất, trong đó những phụ nữ xinh đẹp và nhăn nheo và chết khi rời bỏ Shangri-La.

      [10] quả bóng bằng sắt rất lớn, treo đầu cần cẩu như con lắc đồng hồ. Đây là thiết bị chuyên dùng để phá nhà, rất thịnh hành vào những năm 1950, 1960.



      Với mỗi con rắn, có cái thang; với mỗi cái thang, là con rắn. Chúng tôi đến Karachi vào ngày 9 tháng Hai – và chỉ sau vài tháng, em tôi Jamila bước lên bệ phóng của nghiệp đem lại cho nó cái tên Thiên thần của Pakistan Họa mi của Đức tin; chúng tôi rời Bombay, nhưng vẫn được thơm lây. Còn điều nữa: mặc dù tôi bị hút kiệt – mặc dù chẳng còn tiếng ai chuyện trong đầu tôi, và chẳng bao giờ nữa – nhưng lại có bù đắp: ấy là, lần đầu tiên trong đời, tôi biết thế nào là niềm hân hoan tột bậc khi sở hữu khứu giác.

    4. banglangtrang123

      banglangtrang123 Well-Known Member Staff Member Super Moderator

      Bài viết:
      26,213
      Được thích:
      47,825
      Chương 22: Jamila Ca sĩ




      Đó hóa ra là khứu giác nhạy bén tới mức có thể nhận biết được mùi nồng nặc nhớp nháp của đạo đức giả đằng sau nụ cười hồ hởi mà bà bác chồng Alia dùng để chào đón chúng tôi ở cầu cảng Karachi. Trở nên cay nghiệt thể nào cứu vãn từ khi cha tôi bội bạc ngã vào vòng tay em bà nhiều năm trước, bà bác hiệu trưởng của tôi trở thành hình hài đồ sộ, nặng nề của niềm ghen tuông chưa hề mờ nhạt; lớp lông đen, rậm của nỗi oán hận tua tủa mọc lên từ hầu hết mọi lỗ hở da bà. Và có thể bà lừa được cha mẹ tôi và Jamila bằng vòng tay dang rộng, bằng dáng chạy lạch bạch về phía chúng tôi, bằng tiếng reo vui “Ahmed bhai, đợi mãi! Nhưng thà muộn còn hơn !”, bằng lời mời hiếu khách – và tất yếu được nhận lời – của con nhền nhện; nhưng tôi, kẻ từng sống gần hết thời thơ bé trong mớ găng tay cay đắng và mũ quả bông của lòng đố kỵ của bà, kẻ bị nhiễm (mà hề biết) căn bệnh thất bại từ những món đồ em bé có bề ngoài vô hại mà trong đó bà đan vào lòng thù hận của mình, và người, thêm vào đó, vẫn nhớ rất cảm giác khi bị khát vọng trả thù ám ảnh, tôi, Saleem-bị-hút-kiệt, ngửi thấy ngay mùi phục hận rỉ ra từ các tuyến nội tiết của bà. Tôi, tuy vậy, hoàn toàn bất lực trong việc phản đối; chúng tôi bị lùa lên chiếc Datsun[1] của chí phục thù của bà rồi bị chở theo đường Bunder tới nhà bà ở Guru Mandir – như bầy ruồi, nhưng còn ngu ngốc hơn, vì chúng tôi ăn mừng việc bị cầm tù.

      [1] model ô tô do hãng Nissan sản xuất.

      … Nhưng cái khứu giác ấy ghê gớm! Phần đông chúng ta bị giới hạn, từ lúc nằm nôi, chỉ có khả năng nhận biết phổ mùi hẹp nhất có thể; tôi, tuy nhiên, trước nay chẳng hề ngửi thấy mùi gì, và bởi thể hề biết đến mọi kiêng kỵ về mùi. Hệ quả là tôi có xu hướng làm bộ thản nhiên khi ai đó phát trung tiện – điều làm tôi gặp phải ít rắc rối với phụ huynh; tuy nhiên, điều quan trọng hơn là tự do khứu giác cho phép tôi hít được nhiều hơn rất rất nhiều so với những mùi có nguồn gốc thuần túy vật chất mà phần còn lại của nhân loại bằng lòng với việc ngửi thấy chúng. Vậy là, kể từ những ngày đầu tiên của tuổi thiếu niên đất Pakistan, tôi bắt đầu thu nạp những hương vị bí của thế gian, mùi thơm nồng nhiệt nhưng chóng phai của ái tình chớm nở, tới mùi cay trầm hơn, dai dẳng hơn của thù hận. ( bao lâu sau khi đặt chân lên “Xứ Sở của những kẻ Thuần Khiết,” tôi phát giác trong bản thân nhơ bẩn tột cùng của tình em ; và ngọn lửa ỉ trong bác tôi xộc vào cánh mũi tôi từ sớm.) Mũi đem lại kiến thức, nhưng quyền-năng-tác-động-lên--kiện ; cuộc xâm lăng Pakistan của tôi, vũ trang (nếu đó là từ phù hợp) chỉ bằng biến tướng mới của gien di truyền về mũi, cho tôi năng lực đánh-hơi-ra--, ngửi-thấy-có-gì-trong--khí, và lần theo dấu vết; nhưng cho tôi năng lực duy nhất mà kẻ xâm lăng cần đến; sức mạnh để chế ngự kẻ thù.

      Tôi phủ nhận: tôi chưa bao giờ tha thứ cho Karachi vì là Bombay. Nằm giữa sa mạc và những con suối nước mặn ảm đạm, bờ lô nhô những rặng đước lùn, thành phố mới dường như có bề ngoài xấu xí đến mức lu mờ cả xấu xí của tôi; do phát triển quá nhanh – dân số tăng gấp bốn lần từ 1947 – nó có hình thù dị dạng đầy u bướu của gã lùn khổng lồ. Vào sinh nhật thứ mười sáu, tôi được tặng chiếc xe tay ga Lambretta; cưỡi chiếc xe cửa kính khắp phố phường, tôi hít thở mùi tuyệt vọng cam chịu số kiếp của cư dân khu ổ chuột và thái độ phòng thủ đầy tự mãn của đám nhà giàu; tôi bị hút theo dấu mùi của những số phận trắng tay và cả cuồng tín, bị lùa xuống hành lang dài dưới lòng đất mà cuối đường là cánh cửa dẫn đến Tai Bihi, người điếm già nhất thế gian… nhưng tôi đánh mất tự chủ. Trung tâm của Karachi của tôi là nhà của Alia Azia, tòa nhà lớn, cũ kỹ đường Clayton (bà hẳn dật dờ ở đây suốt nhiều năm như hồn ma có ai để ám), kiến trúc của bóng tối và sơn ố vàng, chiều chiều lại nằm ở khu này. Kể cả khi, nhiều năm sau, ở ghetto của giới ảo thuật, sống dưới cái bóng của thánh đường khác, cái bóng từng (ít ra trong thời gian) là vùng nửa tối chở che và đe dọa, tôi chưa bao giờ đánh mất cái nhìn hình thành ở Karachi về bóng râm của các thánh đường, mà ở đó, tôi luôn thấy như ngửi thấy mùi hẹp hòi, căm hận, kết tội của bác tôi. Người nhẫn chờ thời: nhưng đòn báo thù, khi ra tay, trí mạng.

      Đó là, hồi ấy, thành phố của ảo ảnh; bị cắt đứt khỏi sa mạc, song nó triệt để thành công trong việc phá vỡ quyền năng của sa mạc. Ốc đảo tỏa sáng mặt đường nhựa của phố Elphinstone, dịch trạm[2] lung linh giữa những túp lều lụp xụp quanh cây cầu đen, Kala Pul. Ở thành phố mưa ấy (mà điểm chung duy nhất với thành phố nơi tôi ra đời là cả hai đểu khởi đầu từ làng chài), sa mạc tuy mình nhưng vẫn giữ được quyền năng buôn-bán-ảo-tượng, mà hệ quả là người dân Karachi chỉ sở hữu khả năng nắm bắt thực cực kỳ trơn trượt, và do đó sẵn sàng tìm đến lãnh tụ của họ để được chỉ điểm cái gì là còn cái gì . Bị bao vây giữa những cồn cát ảo tưởng và hồn ma các hoàng đế cổ đại, và cả ý niệm rằng tên của tín ngưỡng nền tảng của thành phố này nghĩa là “phục tùng”, các bằng hữu công dân mới của tôi tỏa ra mùi đồ luộc nhạt nhẽo của thuần phục, điều dễ gây trầm cảm cho cái mũi từng ngửi – vào phút chót, và tuy chỉ trong chốc lát – mùi bất phục tùng cay nồng gia vị của Bombay.

      [2] Nguyên văn: caravanserais, khách sạn dành cho các đoàn lữ hành (caravan) nằm dọc những tuyến đường thương mại xuyên lục địa như Con đường Tơ lụa.

      Đến nơi bao lâu – và, có lẽ, cảm thấy ức chế trong khí phủ-bóng-thánh-đường của tòa nhà đường Clayton – cha tôi quyết chí xây ngôi nhà mới. Ông mua lô đất ở khu vực sành điệu nhất của “giới thượng lưu”, khu quy hoạch đô thị mới; và vào sinh nhật thứ mười sáu, Saleem chỉ được chiếc Lambretta – tôi còn biết đến quyền năng thần bí của dây rốn.

      Thứ gì, ngâm trong nước muối, mười sáu năm nằm trong almirah của cha tôi, chỉ chờ ngày như thế? Thứ gì, lơ lửng như rắn nước trong cái bình cũ, theo gia đình tôi vượt biển và kết cục là được chôn xuống đất Karachi cứng, cằn cỗi? Thứ gì từng nuôi dưỡng sống trong tử cung – thứ gì nay bơm vào đất sức sống phi thường, và cho ra đời bungalow[3] đại, lệch tầng, kiểu Mỹ?... Né tránh những câu hỏi hóc hiểm này, tôi xin giải thích rằng, vào sinh nhật thứ mười sáu của tôi, gia đình tôi (kể cả bác Alia) tề tựu lô đất đường Korangi; dưới theo dõi của những cặp mắt công nhân và hàm râu giáo sĩ, Ahmed trao cho Saleem cây cuốc chim; tôi bổ nhát cuốc khởi công vào đất. “ khởi đầu mới,” Amina , “Inshallah[4], chúng ta giờ là những con người mới.” Được mong ước cao quý nhưng bất khả đạt của bà thôi thúc, người thợ mau chóng khoét rộng cái lỗ tôi vừa đào; và giờ bình ngâm được đưa ra. Nước muối được trút lên mặt đất khô hạn; và thứ-còn-lại-bên-trong được giáo sĩ ban phước. Sau đó, sợi dây rốn – của tôi? Hay của Shiva? – được trồng xuống đất; và ngay lập tức, ngôi nhà bắt đầu mọc lên. Có bánh kẹo và nước ngọt; vị giáo sĩ, biểu lộ cơn đói ghê gớm, tiêu thụ hết ba mươi chín chiếc laddoo; và Ahmed Sinai lời phàn nàn về tốn kém. Tinh thần của sợi dây rốn mới chôn thôi thúc đội thợ; nhưng mặc dù móng được đào rất sâu, chúng vẫn ngăn được ngôi nhà sụp đổ trước khi chúng tôi kịp đến sống ở đây.

      [3] Kiểu nhà , hoặc tầng rưỡi, có hiên rộng, kiến trúc xuất xứ từ Ấn Độ.

      [4] Còn có cách viết khác là Insha’Allah, nghĩa là theo Chúa.

      Phỏng đoán của tôi về dây rốn: tuy chúng sở hữu quyền năng làm nhà cửa mọc lên, song hiển nhiên là số sợi làm việc này tốt hơn các sợi khác. Thành phố Karachi minh chứng cho điều đó; ràng là được xây dựng những dây rốn hoàn toàn thích hợp, nơi đây đầy rẫy những căn nhà dị dạng, những đứa trẻ còi cọc gù lưng bởi sinh mạch thiếu dưỡng chất, những ngôi nhà bị mù cách bí hiểm, cửa sổ nào đủ lớn, những căn nhà nhìn như đài phát thanh hay máy điều hòa hay xà lim, những cao ốc điên rồ đầu nặng trịch, gục xuống cách đều đặn đơn điệu, như những gã say xỉn; cơn bùng nổ của những căn nhà điên dại, mà thiếu thốn về điều kiện sinh hoạt chỉ thua kém xấu xí bất thường của chúng. Thành phố này che khuất sa mạc; nhưng dây rốn, hoặc là cằn cỗi của đất, khiến nó phát triển thành thứ gì đó quái dị.



      Có khả năng nhắm mắt ngửi thấy niềm vui và nỗi buồn, đánh hơi được thông minh hay ngu dốt, tôi đến Karachi và tuổi thiếu niên – với ý thức, lẽ tất nhiên, rằng những quốc gia non trẻ của tiểu lục địa và tôi đều bỏ tuổi thơ lại đằng sau; rằng những nỗi đau lớn dần và những biến đổi bối rối lạ lẫm của giọng chờ đợi tất cả chúng tôi. Hút xoang kiểm duyệt cuộc sống nội tâm của tôi; nhưng ý thức liên kết của tôi chưa bị hút kiệt.

      Saleem xâm lược Pakistan với vũ khí duy nhất là cái mũi siêu sắc bén; nhưng; điều tồi tệ nhất là, gã nhầm đường! Mọi cuộc chinh phục thành công ở khu vực này của thế giới đều bắt đầu từ phương Bắc; mọi kẻ chinh phạt đều theo đường bộ. Vô tri giương buồm ngược chiều gió của lịch sử, tôi đến Karachi từ phía Đông Nam, theo đường biển. Những gì tiếp nối đáng lẽ phải làm tôi bất ngờ mới phải.

      Nhìn lại lịch sử, lợi thế khi tràn xuống từ phương Bắc là hiển nhiên. Hai tướng của Umayyad[5], Hajjaj bin Yusuf và Muhammad bin Qasim, đều từ phía Bắc xuống; người Ismaili[6] cũng vậy. (Biệt viện Honeymoon, nơi nghe Aly Khan[7] nghỉ lại với Rita Hayworth, nhìn xuống lô đất vùi dây rốn của nhà tôi; nghe đồn rằng minh tinh màn bạc này gây xôn xao dư luận khi dạo ngoài vườn trong loạt váy ngủ kiểu Hollywood huyền bí, mỏng tang. Ôi tính siêu việt khó cưỡng của phương Bắc! Từ phương nào Mahmud xứ Ghazni tập kích bình nguyên sông Ấn[8], mang theo ngôn ngữ sở hữu dưới ba hình thái của ký tự S? Câu trả lời tất yếu: sé, sin và swad[9] là những kẻ xâm lăng phương Bắc. Và Muhammad bin Sam Ghuri[10], người lật đổ các Ghaznavid và lập nên Vương triều Delhi? Những đứa con của Sam Ghuri cũng hành quân Nam tiến.

      [5] triều đại thống trị Bắc Phi và Tây Á sau khi Muhammad qua đời. Vào năm 711, Hajjai bin Yusuf khi đó là Tổng trấn thành Baghdad sai Muhammad bin Qasim dẫn quân sang Ấn Độ.

      [6] nhánh của Hồi giáo dòng Shiite, xem Ismail là thủ lĩnh tinh thần (imam) thứ bảy. Vào thế kỷ 19, bộ phận lớn của cộng đồng này chạy từ Ba Tư sang Ấn Độ.

      [7] Hoàng tử và người đứng đầu dòng Hồi giáo Ismaili, chồng thứ ba của diễn viên Rita Hayworth.

      [8] Sultan xứ Ghazni, thuộc Afghanistan ngày nay, người chinh phục vùng Bắc Ấn vào thế kỷ 11, và du nhập tiếng Ả Rập (ngôn ngữ có ba hình thái của chữ S) vào Ấn Độ.

      [9] Ba trong tiếng Ả Rập, khi phiên sang bảng chữ cái Latin đều được thể bằng chữ S.

      [10] Sultan xứ Ghur, thuộc Afghanistan ngày nay, người đánh bại hậu duệ của Mahmud xứ Ghazni.

      Rồi Tughlaq[11], rồi các Đại đế Mughal… nhưng tôi như vậy là rồi. Chỉ cần bổ sung rằng tư tưởng, cũng như quân viễn chinh, tràn xuống phương Nam Nam Nam từ các cao nguyên phương Bắc: Sikandar But-Shikan huyền thoại, Kẻ Hủy hoại Thánh tượng của Kashmir, kẻ vào cuối thế kỷ 14 tàn phá mọi đền đài Hindu ở Thung lũng (tạo tiền lệ cho ông tôi), từ trung du tiến xuống đồng bằng châu thổ; và năm trăm năm sau, phong trào mujahideen[12] của Syed Ahmed Barilwi cũng nẻo đường mòn dấu chân ấy. Tư tưởng của Barilwi: tiết chế, căm ghét tín đồ Hindu, thánh chiến… những triết lý và những ông hoàng ( thế cho gọn) đều đến từ hướng đối lập với tôi.

      [11] vương triều gốc Thổ, cai trị Delhi vào thế kỷ 14.

      [12] phong trào du kích Hồi giáo cực đoan. Barilwi là lãnh tụ đạo Hồi vào cuối thế kỷ 18 và đầu 19, khởi xướng cuộc thánh chiến (jihad) chống lại người Sikh ở bang Punjab.

      Cha mẹ Saleem , “Chúng ta đều phải trở thành con người mới”; ở xứ sở của những kẻ thuần khiết, thuần khiết trở thành lý tưởng của chúng tôi. Nhưng Saleem vĩnh viễn bị vấy bẩn chất Bombay, đầu gã chứa đầy đủ thứ tôn giáo phải của Allah (như những tín đồ đạo Hồi đầu tiên của Ấn Độ, các thương nhân Mopla[13] xứ Malabar, tôi sống ở đất nước nơi dân số thần linh ngang ngửa số lượng con người, thế nên, trong cơn phản kháng vô thức chống lại cả bầy thánh thần sợ gian hẹp, gia đình tôi theo đạo đức kinh doanh, thay vì tôn giáo); và cơ thể gã rồi bộc lộ ưa thích rệt đối với người thuần khiết. Như dân Mopla, tôi bị vận mệnh định sẵn là kẻ trái đời; nhưng, cuối cùng, thuần khiết phát ra tôi, và ngay cả tôi, Saleem, cũng được tẩy rửa mọi điều lầm lạc.

      [13] Cộng đồng đạo Hồi ở bang Kerala, hậu duệ của những người Moor và Ả Rập kết hôn với những phụ nữ địa phương ở Malabar.

      Từ sau sinh nhật thứ mười sáu, tôi theo học lịch sử ở trường trung học của bác Alia; nhưng kể cả học hành cũng làm tôi cảm thấy mình là phần của quốc gia thiếu vắng những đứa trẻ nửa đêm ấy, nơi các bạn đồng học của tôi xuống đường tuần hành đòi hỏi xã hội khắt khe hơn, Hồi giáo hơn – chứng tỏ rằng họ chủ định trở thành phản đề của sinh viên mọi nơi khác thế giới, bằng cách đòi hỏi nhiều-luật-hơn-thay-vì-ít-. Cha mẹ tôi, tuy vậy, quyết tâm bám rễ tại đất này; mặc dù Ayub Khan và Bhutto tạo dựng liên minh với Trung Quốc (nước mới đây còn là kẻ thù của chúng tôi), Ahmed cùng Amina bỏ ngoài tai mọi lời phê phán quê hương mới của họ; và cha tôi tậu nhà máy khăn tắm.

      Ngày ấy, cha mẹ tôi toát ra vẻ rạng rỡ mới mẻ; màn sương tội lỗi ở Amina tan , mụn cóc có vẻ làm khổ bà nữa; trong khi đó Ahmed, dù vẫn trắng bệch, cảm thấy băng dưới dương căn ông tan dần dưới hơi ấm của tình vừa tìm thấy của ông đối với vợ mình. Đôi khi sáng ra, Amina có vết răng cổ; chốc chốc bà lại bật cười khúc khích, như học trò. “Hai chị, thiệt tình,” Alia chị bà , “Cứ như vợ chồng son, hay cái gì biết.” Nhưng tôi có thể ngửi ra điều gì sau hàm răng của Alia; điều gì ở lại khi những lời lẽ thân thiện thốt ra… Ahmed Sinai lấy tên vợ đặt cho sản phẩm của mình,: Khăn tắm hiệu Amina.

      “Mấy đại gia này là ai hả? Đám Dawood, Saigol, Haroon[14] này?” ông hào hứng, bỏ qua các gia tộc giàu có nhất xứ này. “Valika với Zulfikar là ai hả? Ta thừa sức ăn gỏi mười tên lúc. Hãy chờ xem!”, ông hứa, “Trong vòng hai năm, cả thế giới lau người bằng khăn hiệu Amina. Loại khăn bông xù tốt nhất! Dây chuyền tiên tiến nhất! Chúng ta làm cả thế giới khô và sạch; nhà Dawood và Zulfikar phải năn nỉ xin bí quyết của ta; và ta bảo, phải, khăn này hảo hạng; nhưng bí quyết nằm ở khâu sản xuất; chính tình chinh phục tất cả.” (Tôi nhận ra, trong diễn văn của cha tôi, tác động dai dẳng của virus lạc quan.)

      [14] Những gia tộc kinh doanh giàu có và thế lực bậc nhất ở Ấn Độ thời kỳ đó.

      Nhãn hiệu Amina có chinh phục cả thế giới nhân danh sạch (điều đứng ngay sau…)? Nhà Valika và Saigol có đến hỏi Ahmed Sinai, “Chúa ơi, tụi tôi mù tịt đấy, ờ, làm thế nào thế?” Thứ khăn bông hảo hạng, mẫu mã được Ahmed Sinai đích thân thiết kế - hơi lòe loẹt tí, nhưng sao, sản phẩm của tình mà – có quét sạch hơi ẩm người dân Pakistan cũng như các thị trường xuất khẩu? Dân Nga Hoa Kỳ Cát Lợi có quấn quanh người cái tên được bất tử hóa của mẹ tôi?... Chuyện về Nhãn hiệu Amina phải chờ chút; bởi vì nghiệp của Jamila Ca sĩ sắp sửa cất cánh; và căn nhà dưới bóng thánh đường đường Clayton vừa được Bác Puffs viếng thăm.



      Tên của bác là Thiếu tá ( về hưu) Alauddin Latif; bác nghe về giọng hát của em tôi từ “ bạn chí cốt Đại tướng Zulfikar; từng ở chung với hồi ‘47 trong Lực lượng Biên phòng.” Bác xuất ở nhà Alia Aziz lâu sau sinh nhật thứ mười lăm của Jamila, rạng rỡ và đầy sinh lực, phô ra cái miệng đầy răng vàng nguyên chất. “Tính tôi đơn giản,” bác giải thích, “như Tổng thống đáng kính của chúng ta. Tôi giữ tiền ở đâu an toàn.” Như Tổng thống đáng kính của chúng ta, đầu ngài Thiếu tá là hình cầu hoàn hảo; như Ayub Khan, Latif rời quân ngũ để gia nhập ngành giải trí. “Ông bầu số vô đối ở Pakistan, ông bạn ạ,” ông bảo cha tôi. “Chẳng có bí quyết gì ngoài tính tổ chức; cái nết Nhà binh từ xưa, đánh chết chưa chừa.” Thiếu tá Latif có đề xuất: ông muốn nghe Jamila hát, “Và nếu bé hát hay bằng hai phần trăm những gì tôi nghe kể thôi, thưa ngài tôn kính, tôi làm nổi tiếng! Ồ, vâng, sau đêm, chắc chắn! Quan hệ: chỉ cần có thế; quan hệ và tài tổ chức; và Thiếu tá ( về hưu) Latif tôi đây có tất cả. Alauddin Latif,” ông nhấn mạnh, cười lấp lánh vàng với Ahmed Sinai, “Ông biết chuyện đó chứ? Tôi chỉ cần chà xát cây đèn cũ kỹ, thế là thần Đèn ra mang theo danh vọng và tiền tài. Con ông ở trong những bàn tay cực tốt. Cực tốt.”

      May mắn cho đội quân fan hâm mộ của Jamila Ca sĩ là Ahmed Sinai là người chồng ; mềm lòng vì hạnh phúc của bản thân, ông thể từ chối Thiếu tá Latif ngay tại chỗ. Ngày nay tôi cũng cho rằng bố mẹ tôi đến kết luận rằng năng khiếu của con họ quá phi thường thể giữ riêng cho mình; ma thuật siêu phàm trong tiếng hát thiên thần của Jamila bắt đầu dạy họ về nhu cầu cấp thiết tất yếu của tài năng. Nhưng Ahmed và Amina có băn khoăn. “Con chúng tôi,” Ahmed – tự đáy lòng ông luôn là người truyền thống hơn trong hai vợ chồng – “là con nhà gia giáo; vậy mà ông muốn mang nó lên sân khấu, trước mặt có Chúa mới biết bao nhiêu gã đàn ông lạ…?” Viên Thiếu tá tỏ ra phật ý. “Thưa ngài,” ông nghiêm giọng, “ngài nghĩ tôi là người kém nhạy cảm ư? Bản thân tôi cũng có con , ông bạn ạ. Bảy đứa, ơn Chúa. Mở cho chúng đại lý du lịch nho ; nhưng giao dịch hoàn toàn qua điện thoại. Thực ra, là đại lý qua điện thoại lớn nhất vùng. Thực tế, chúng tôi gửi lái tàu hỏa sang ; tài xế xe buýt nữa. Ý tôi là,” bác vội vàng bổ sung, “con ngài được tôn trọng y như con tôi. Chính ra còn hơn thế; ấy ngôi sao!”

      Các con của Thiếu tá Latif – Sana và Rafia và năm –afia khác – được gọi chung, bởi phần còn lại của con Khỉ trong em tôi, là “các Puffia”; đầu tiên bố các có biệt danh “Bố-Puffia,” và sau đó là Bác – cách gọi xã giao – Puffs. Bác hề ngoa; trong vòng sáu tháng Jamila Ca sĩ có đĩa hát ăn khách, đội quân hâm mộ, mọi thứ; tất cả, như tôi sắp giải thích, mà cần lộ mặt.

      Bác Puffs trở thành gương mặt quen thuộc trong cuộc sống của chúng tôi; hầu như tối nào bác cũng đến ngôi nhà ở đường Clayton, vào lúc tôi vẫn coi là giờ cocktail, để uống nước lựu và đề nghị Jamila hát đôi chút. Em, giờ trở thành thiếu nữ rất mực dịu hiền, luôn chiều ý bác… sau đó bác đằng hắng như bị mắc gì ở cổ rồi bắt đầu thân mật trêu tôi về chuyện lập gia đình. Những nụ cười hai bốn karat làm tôi lóa mắt trong khi bác, “Đến tuổi cưới vợ rồi đấy, chàng trai. Nghe bác: kiếm con bé sáng dạ nhưng sâu răng; cháu có bạn đời và két sắt cả hai trong !” Con Bác Puffs, bác cam đoan, nào cũng đáp ứng tiêu chuẩn … Tôi, ngượng ngịu, ngửi thấy rằng bác chỉ đùa nửa, thốt lên, “Ôi, Bác Puffs!” Bác biết cái biệt danh này; khá thích nó là khác. Vỗ đùi tôi, bác thốt, “Làm cao, hử? Được lắm. OK, cậu trai: cháu lấy quách đứa nhà bác, bác đảm bảo nhổ sạch răng của nó; khi cháu cưới nó về, nó nụ cười bạc triệu làm của hồi môn!” Ngay sau đó mẹ tôi thường cố tình chuyển chủ đề; bà hào hứng với ý tưởng của Bác Puffs, bất kể hàm răng giả kia đắt tiền đến đâu… vào tối đầu tiên ấy, cũng như rất thường xuyên sau này, Jamila hát cho Thiếu tá Alauddin Latif nghe. Giọng em lướt qua cửa sổ và làm tiếng xe cộ lặng im; chim ngưng hót và, ở tiệm bánk kẹp bên kia đường, đài bị tắt ; đường phố đầy người đứng yên bất động, và giọng em tôi tràn qua họ… khi em kết thúc, chúng tôi nhận thấy Bác Puffs khóc.

      viên ngọc,” bác , xịt còi hơi vào chiếc mùi soa, “Thưa Ông Bà, con hai vị là viên ngọc. Tôi xin ngả mũ kính phục. Cực kính phục. cho tôi thấy rằng giọng ca vàng còn đáng giá hơn miệng răng vàng.”

      Và khi tiếng tăm của Jamila Ca sĩ lên cao đến mức em thể né tránh buổi công diễn, chính Bác Puffs tung tin em bị tai nạn ô tô khủng khiếp, làm em bị biến dạng; chính Thiếu tá ( nghỉ hưu) Latif chế ra tấm chadar lụa trắng lừng danh, giấu--tất-cả của em[15], tấm rèm hoặc màn, thêu kim tuyến và thư pháp tôn giáo, mà em e lệ ngồi sau mỗi lần công diễn. Tấm chadar của Jamila Ca sĩ được hai nhân vật dẻo dai, cơ bắp, cũng quấn khăn (song đơn giản hơn) từ đầu đến chân, chăng lên sân khấu – thông tin chính thức họ là tùy nữ của em, nhưng xác định giới tính của họ sau lớp burqa[16] là điều bất khả; và chính giữa tấm vải, viên Thiếu tá khoét cái lỗ. Đường kính: tám xăng ti mét. Chu vi: được viền chỉ vàng tinh xảo. Lịch sử gia đình tôi lần nữa trở thành vận mệnh của quốc gia như thế đấy, bởi vì khi Jamila hát với cặp môi áp vào lỗ hổng thêu kim tuyến, Pakistan phải lòng bé mười lăm tuổi mà đất nước này mới được thoáng nhìn qua tấm vải khoét lỗ vàng-và-trắng.

      [15] Loại khăn trùm đầu và thân , chỉ để lộ mặt của phụ nữ theo đạo Hồi.

      [16] loại áo choàng trùm kín đầu và toàn thân được phụ nữ đạo Hồi mặc khi ra nơi công cộng.

      Tin đồn tai nạn chính thức xác lập vị thế của em trong lòng người hâm mộ; những buổi hòa nhạc của em ken đầy khán giả trong nhà hát Bambino ở Karachi và lấp kín Shalimar-bagh ở Lahore; đĩa hát của em liên tục đứng đầu bảng doanh thu. Và khi em trở thành tài sản quốc gia, “Thiên thần của Pakistan”, “Giọng ca của Đất nước”, “Bullbul-e-Din” hay là họa-mi-của-đức-tin, và bắt đầu nhận được ngàn lẻ lời cầu hôn quả quyết mỗi tuần; khi em trở thành đứa con cưng của cả nước và trở thành tượng đe dọa lấn át vị thế của em trong chính gia đình tôi, em cũng đồng thời biến thành con mồi của loài virus song sinh của danh vọng, con thứ nhất biến em thành nạn nhân của chính hình ảnh của mình trong mắt dư luận, bởi vì tin đồn tai nạn buộc em luôn phải quấn burqa vàng-và-trắng, kể cả ở trường của bác Alia, nơi em tiếp tục theo học; trong khi con virus thứ hai làm em mắc bệnh cường điệu và đơn giản hóa bản thân, hiệu ứng phụ khó tránh đối với các ngôi sao, khiến lòng sùng tín mù quáng và gây mù quáng và chủ nghĩa dân tộc cực đoan nhen nhóm ở em nay bắt đầu chi phối tính cách em, tới mức gần như loại trừ mọi thứ khác. Danh vọng cầm tù em trong túp lều vàng; và, là tân nhiệm ái-nữ-của-quốc-gia, cá tính em bắt đầu chịu nhiều ảnh hưởng từ những khía cạnh khắc nghiệt nhất trong tính cách của dân tộc hơn là từ thế giới trẻ thơ của những năm em còn là con Khỉ.

      Giọng hát của Jamila Ca sĩ liên tục xuất Đài Tiếng Pakistan, vì thế với các làng quê của cả Cánh Tây lẫn Đông[17], em trở thành như siêu nhân, chẳng biết đến mệt mỏi, thiên thần hát cho đồng bào mình ngày cũng như đêm; trong khi Ahmed Sinai, mà chút âu lo sót lại về nghiệp của con được còn hơn cả được trấn an bằng thu nhập hoành tráng của em (tuy ông từng là người Delhi, song giờ ông người đạo Hồi Bombay đích thực, đặt tiền bạc lên gần như hết), bắt đầu thích thú bảo em tôi: “Thấy , con : đoan trang, thuần khiết, nghệ thuật và đầu óc kinh doanh có thể hoàn toàn đồng nhất với nhau; khôn ngoan như bố già của con mới giải quyết được vụ này.” Jamila mỉm cười ngọt ngào và tán đồng… em từ gầy gò như con trai hóa thành mỹ nhân mảnh mai, mắt mí, da vàng óng, có mái tóc dài gần đủ để ngồi lên; kể cả mũi em cũng đẹp. “Ở con tôi,” Ahmed Sinai kiêu hãnh bảo Bác Puffs, “chính những gien quý tộc của đằng nhà tôi lại trội hơn.” Bác Puffs ném cái liếc nhìn nghi vấn, kỳ cục về phía tôi và hắng giọng. “ thiếu nữ cực xinh xắn, thưa ngài,” bác bảo cha tôi, “Đỉnh cao, hết sảy.”

      [17] Thời điểm này Pakistan vẫn bao gồm hai phần lãnh thổ nằm phía Đông và phía Tây Ấn Độ. Năm 1971, Đông Pakistan mới ly khai và trở thành Bangladesh.

      Tiếng sấm rền của những tràng pháo tay chưa bao giờ tắt bên tai em tôi; ở buổi hòa nhạc đầu tiên, nay thành huyền thoại tại Bambino (ghế của chúng tôi do Bác Puffs lo – “Chỗ oách nhất ở nhà hát!” – cạnh bảy Puffia của bác, ai nấy đều đeo mạng… Bác Puffs huých tôi, “Này, nhóc – chọn ! Cứ thoải mái! Nhớ nhé: món hồi môn!”, còn tôi đỏ bừng mặt và chăm chú nhìn lên sân khấu), tiếng reo “Oaa! Oaa!” đôi khi át cả giọng Jamila; và sau buổi diễn chúng tôi tìm thấy Jamila sau cánh gà ngập trong biển hoa, tới nỗi chúng tôi phải đánh vật để len qua vườn long não bừng nở của tình từ cả quốc gia, để tìm thấy em gần như ngất lịm, phải vì kiệt sức, mà vì hương thơm quá mãnh liệt của lòng ái mộ từ biển hoa kia lấp kín căn phòng. Tôi cũng thấy đầu bắt đầu bồng bềnh; đến khi Bác Puffs bắt đầu ném từng ôm hoa qua cửa sổ - chúng được đám đông người hâm mộ nhặt lại – trong lúc bác rên lên, “Hoa tốt thôi, bố khỉ, nhưng thư dân tộc cũng phải thở chứ!”

      Tiếng vỗ tay cũng vang lên, trong buổi tối Jamila Ca sĩ (và gia đình) được mời đến Dinh Tổng thống để hát cho vị tổng chỉ huy của các lọ gia vị. Phớt lờ những tin tức báo nước ngoài về những khoản tiền tham nhũng và tài khoản tại nhà băng Thụy Sĩ, chúng tôi kỳ cọ đến khi sáng bóng lên; gia đình kinh doanh khăn tắm dứt khoát phải sạch tỳ vết. Bác Puffs dành cho hàm răng vàng màn đánh bóng đặc biệt kỹ càng; và trong đại sảnh nằm dưới tầm mắt những chân dung đeo vòng hoa của Muhammad Ali Jinnah, người sáng lập Pakistan, Quaid-i-Azam[18], và của bạn và người kế nhiệm bị ám sát của ông – Liaquat Ali, tấm vải khoét lỗ được trương lên cho em tôi hát. Tiếng hát của em cuối cùng cũng tắt; giọng của tua ngù vàng tiếp nối bài hát viền kim tuyến của em. “Jamila, con ta,” chúng tôi nghe, “giọng hát của con là lưỡi gươm của thuần khiết; là vũ khí của chúng ta để thanh tẩy tâm hồn con người.” Tổng thống Ayub là, như tự ông thừa nhận, người lính đơn giản; ông ta tiêm nhiễm vào em tôi những phẩm chất nhà binh, giản đơn về trung-thành-với-lãnh-tụ và tin-vào-Chúa; và em, “Ý nguyện của Tổng thống là tiếng lòng của cháu.” Qua ô tròn tấm vải khoét lỗ, Jamila Ca sĩ cống hiến hết mình cho lòng nước; và diwan-i-khas, tòa ngự khán phòng này, vang dậy tiếng pháo tay, song lịch thiệp, phải tiếng oaa oaa ồn ã của biển người tại Bambino mà là tán thưởng chính quy từ đội mề-đay-và-sao đeo tua ngù cùng tràng vỗ tay hân hoan từ bậc cha mẹ ứa lệ. “Tôi !” Bác Puffs thầm, “cực đỉnh, hả?”

      [18] Lãnh tụ vĩ đại.

      Những gì tôi ngửi thấy, Jamila có thể hát lên. cái đẹp niềm vui nỗi đau: mỗi thứ đều có hương riêng, có thể phân biệt được qua mũi tôi; mỗi thứ, trong màn trình diễn của Jamila, có thể tìm được tiếng lý tưởng của mình. Mũi tôi, giọng em: chúng đích thực là những thiên khiếu bổ sung cho nhau; nhưng chúng lại ngày xa nhau. Trong khi Jamila hát những bài ca nước, mũi tôi hình như lại lưu luyến những mùi xấu xí hơn xâm nhập vào nó: nỗi cay đắng của Bác Alia, mùi thối hoăng bất biến từ đám bạn học đầu óc thủ cựu của tôi; thế nên khi em thăng hoa tới trời cao, tôi rơi vào cống rãnh.

      Tuy nhiên, nhìn lại, tôi nghĩ khi ấy tôi em rồi, từ lâu trước khi có người bảo tôi… có bằng chứng gì cho tình em thể thổ lộ của Saleem ? Có đấy. Jamila Ca sĩ có chung đam mê với con Khỉ Đồng tan biến; em khoái bánh mì. Chapati, paratha, tandoori nan? Đúng, nhưng. À, vậy : men nở có được chuộng hơn[19]? Có; em tôi – bất chấp lòng nước – ngớt thèm thuồng bánh mì ủ men. Và, ở khắp Karachi, đâu là nguồn bánh mì men nở chất lượng duy nhất? phải hàng bánh; thứ bánh mì ngon nhất thành phố được trao tay qua ô cửa sập duy nhất bức tường kín như bưng, vào mỗi sáng thứ Năm, bởi các xơ của dòng tu kín Santa Ignacia. Mỗi tuần, cưỡi chiếc Lambretta, tôi mang về cho em những ổ bánh nóng hổi tinh khôi của các xơ. Bất chấp những dòng người xếp hàng rồng rắn; coi mùi cay, nồng, ngộp hơi phân của những phố hẹp quanh tu viện; phớt lờ mọi công việc khác vào thời điểm đó, tôi lấy bánh mì. Tư tưởng phê bình hoàn toàn vắng bóng trong tim tôi; chưa lần tôi hỏi chẳng lẽ em thấy cái di tích cuối cùng này của đoạn tình duyên cũ giữa em với Thiên Chúa giáo có chút hay với vai trò mới Họa mi của Đức tin của em.

      [19] Bánh mì trộn men nở (yeast) là kiểu bánh mì của châu Âu. Các loại bánh mì kiểu Ấn như chapati, paratha và tandoori nan dùng men này.

    5. banglangtrang123

      banglangtrang123 Well-Known Member Staff Member Super Moderator

      Bài viết:
      26,213
      Được thích:
      47,825
      Có thể nào truy nguyên tình trái luân thường? Có phải Saleem, người hằng khao khát vị trí trung tâm của lịch sử, mê đắm những gì gã thấy ở em , người hội tụ những hy vọng của chính gã vào cuộc đời? Có phải thằng Thò-Lò-nhưng-giờ-hết-rồi khắp người thương tích, thành viên của Hội nghị Những đứa trẻ Nửa đêm toàn thân tan nát khác gì ăn xin Sundari đầy mặt sẹo dao, phải lòng toàn thiện toàn mỹ mới mẻ của đứa em? Từng là Mubarak, Kẻ được Ban phước, có phải tôi ái mộ ở em trọn vẹn của những mộng ước thầm kín nhất đời tôi?... Tôi chỉ rằng tôi chưa ý thức được điều gì xảy ra với mình cho đến khi, với chiếc scooter giữa cặp đùi mười sáu tuổi, tôi bắt đầu theo hơi những ả làng chơi.

      Trong lúc Alia ỉ cháy; vào buổi ban đầu của khăn bông Hiệu Amina; ở thời kỳ thánh hóa của Jamila Ca sĩ; khi căn nhà lệch tầng, mọc lên theo lệnh của dây rốn, còn lâu mới hoàn thành; trong giai đoạn tình muộn đơm hoa của cha mẹ tôi; bị bao vây giữa những tín niệm có phần cằn cỗi ở miền đất của những kẻ thuần khiết, Saleem Sinai bắt đầu chấp nhận chính mình. Tôi rằng gã buồn; từ chối kiểm duyệt quá khứ, tôi thừa nhận gã cũng lầm lì, cũng thường xuyên bất hợp tác, và chắc chắn là đầy trứng cá như hầu hết các cậu trai cùng lứa. Những giấc mơ của gã, bị tước bỏ những đứa trẻ của nửa đêm, chìm trong nỗi hoài nhớ đến độ buồn nôn, khiến gã bật dậy ọc ọe vì mùi xạ nặng nề của cơn hối tiếc đè nén các giác quan; có những ác mộng về những con số đều bước hai ba, về cặp đầu gối linh hoạt như tay[20], siết chặt, bóp nghẹt… nhưng cũng có năng khiếu mới, chiếc Lambretta, và tình khiêm nhường, nhu thuận (tuy còn vô thức) dành cho em … Bứt cặp mắt người kể chuyện khỏi quá khứ được trần thuật, tôi nhấn mạnh rằng Saleem, hồi-ấy-và-bây-giờ, thành công trong việc hướng chú ý của bản thân vào tương lai đến-nay-vẫn-chưa-được-kể. Trốn khỏi, bất cứ khi nào có thể, căn nhà nơi hơi cay gắt từ ghen tị của bà bác biến cuộc đời thành quá sức chịu đựng, và trường trung học tràn ngập những mùi khó chịu kém, tôi nhảy lên con thiết mã và khám phá những nẻo đường mùi ở thành phố mới của tôi. Và sau khi biết tin về cái chết của ông tôi ở Kashmir, tôi càng thêm quyết tâm nhấn chìm quá khứ vào món mùi-hầm đặc quánh, sôi sục của tại… Ôi những buổi đầu váng vất trước khi có cơ chế phân loại! Chẳng có hình thù gì (trước khi tôi khởi định hình chúng), đủ thứ mùi vị tràn vào trong tôi: mùi phân hủy thê lương của phân súc vật trong những khu vườn của bảo tàng đường Frere, mùi hơi người mưng mủ của những gã trai mặc quần thụng nắm tay nhau tối tối ở Sadar[21], mùi sắc như dao của những tia bã trầu và vị đắng ngọt lẫn lộn của trầu và nha phiến: tôi có thể đánh hơi thấy “trầu tên lửa” từ những con hẻm đông nghịt hàng rong giữa phố Elphinstone và đường Victoria. Mùi-lạc-đà, mùi-ô-tô, mùi hăng như muỗi mắt của khói xe tuk-tuk, hương thuốc lá lậu và “tiền đen”, xú khí cạnh tranh của đám tài xế xe buýt và mùi mồ hôi đơn thuần của hành khách bị lèn như cá hộp. ( gã tài xế, hồi ấy, quá cay cú vì bị địch thủ ở hãng khác vượt mặt – mùi buồn nôn của thất bại trào ra từ tuyến nội tiết của gã – nên đánh xe đến nhà đối thủ vào buổi đêm, bóp còi đến khi bạn khốn khổ kia ló ra, rồi cán qua ta dưới hàng lốp xe sặc mùi, như bác tôi, phục hận.) Các thánh đường rót vào tôi mùi tinh dầu của sùng đạo; tôi ngửi thấy mùi quyền lực nồng đậm phát tán từ đoàn mô tô cắm cờ Quân đội; từ áp phích ở rạp chiếu bóng tôi nhận ra mùi hào nhoáng rẻ tiền từ những phim Viễn Tây[22] nhập khẩu và những phim võ thuật bạo lực nhất từ trước đến giờ. Có thời gian, tôi như người say thuốc, đầu tôi quay mòng mòng trước phức tạp của mùi; nhưng rồi niềm khát khao mãnh liệt với hình thái của tôi lên tiếng, và tôi sống sót.

      [20] Nguyên văn: prehensile, nghĩa đen là có khả năng cầm nắm. Tính từ này được dùng miêu tả các loài động vật có chi hoặc đuôi có khả năng cầm nắm như khỉ, vượn.

      [21] Khu trung tâm thương mại của Karachi.

      [22] Nguyên văn: spaghetti Western, dòng phim Viễn Tây kinh phí thấp vào thập niên 1950-60, tiêu biểu nhất là những phim của Sergio Leone như A Fistful of Dollars.

      Quan hệ Ấn-Pakistan ngày càng xấu ; biên giới bị đóng cửa, khiến chúng tôi thể Agra viếng ông tôi; chuyện Mẹ Bề di cư sang Pakistan cũng bị chậm lại ít nhiều. Trong lúc này, Saleem phát triển lý thuyết tổng quát về mùi: quy trình phân loại bắt đầu. Tôi coi cách tiếp cận khoa học này là cách bày tỏ lòng tôn kính của riêng mình với linh hồn ông tôi… để bắt đầu, tôi hoàn thiện kỹ năng phân loại, cho đến khi tôi có thể phân biệt số lượng vô tận các loại cau và (khi nhắm mắt) mười hai nhãn hiệu đồ uống có ga thị trường. (Từ lâu trước khi nhà bình luận người Mỹ Herbert Feldman đến Karachi để bất bình trước việc thành phố này có tới chục thứ nước ngọt có ga nhưng chỉ có ba nhà cung cấp sữa đóng chai, tôi có thể bịt mắt mà phân biệt Pakola với Hoffman’s Mission, Cirra Cola với Fanta. Feldman coi những đồ uống này là biểu của chủ nghĩa đế quốc tư bản; còn tôi, ngửi ra được đâu là Canada Dry và đâu là 7-Up, tách biệt chính xác Pepsi với Coca, lại quan tâm hơn đến việc vượt qua bài test khứu giác tinh tế chúng đặt ra. Double Kola và Kola Kola, Perri Cola và Bubble Up đều được bịt mắt nhận diện và gọi tên.) Chỉ khi chắc chắn nắm vững các mùi vật chất tôi mới chuyển sang những mùi khác chỉ mình tôi ngửi thấy: hương vị của cảm xúc và ngàn lẻ động cơ làm nên con người: tình chết, lòng tham và khiêm nhường, -từng và chưa-từng được dán nhãn và sắp xếp chỉn chu trong các ngăn kéo của tâm trí tôi.

      Những nỗ lực sắp xếp đầu tiên: tôi thử phân loại mùi theo màu – quần lót đun sôi và mực in tờ Daily Jang có chung chất màu xanh, trong khi gỗ tếch lâu năm và rắm mới đều màu nâu sẫm. Ô tô và nghĩa địa được tôi xếp chung màu xám… ngoài ra còn có cách phân loại theo hạng cân: mùi hạng ruồi (giấy), mùi hạng gà (cơ thể vừa tắm xà phòng, cỏ), hạng bán trung (mồ hôi và hoa quỳnh); shahi-korma và dầu xe đạp xếp hạng bán nặng trong hệ thống của tôi, trong khi hoắc hương, tức giận, phản trắc và phân nằm trong số những mùi hạng nặng của trần thế. Và tôi có cả hệ thống hình học: tròn trịa của niềm vui và góc cạnh của tham vọng; có mùi hình elip, rồi ôvan và hình vuông… nhà từ điển học của khứu giác, tôi du ngoạn đường Bunder và khu P.E.C.H.S[23]; nhà hồ điệp học, tôi đánh bẫy những làn hơi như bẫy bướm vào mành lưới của lông mũi tôi. Ôi kỳ diệu thay những cuộc du hành trước buổi ra đời của triết lý!... Bởi tôi sớm nhận ra rằng, công việc của tôi, nếu muốn có chút giá trị nào, phải có khía cạnh đạo đức; rằng phân loại duy nhất quan trọng là phân cấp chi tiết đến vô hạn những mùi tốt và xấu. Nhận bản chất cốt lõi của đạo đức, ngửi được mùi gì là thiêng liêng hoặc báng bổ, tôi phát minh ra, trong lập của những cuộc rong ruổi bằng xe máy, môn khoa học của luân lý mũi.

      [23] khu dân cư khá giả ở Karachi.

      Thiêng liêng: mạng purdah, thịt halal, tháp của muezzin, và thảm cầu nguyện; báng bổ: đĩa hát của Tây, thịt lợn, rượu. Giờ tôi mới hiểu, tại sao các giáo sĩ (thiêng liêng) từ chối lên máy bay (báng bổ) vào đêm trước Id-ul-Fitr, thậm chí chịu lên những chiếc xe tỏa ra thứ mùi bí hiểm đối lập với lòng kính Chúa, để chắc chắn mình có thể nhìn thấy trăng non[24]. Tôi học được tương khắc về mùi giữa đạo Hồi và chủ nghĩa xã hội, cũng như mâu thuẫn cố hữu giữa hương nước hoa cạo râu của các thành viên câu lạc bộ Sind và mùi nghèo khổ của đám ăn mày vạ vật ở cổng câu lạc bộ… tuy nhiên, càng ngày tôi càng bị thuyết phục bởi xấu xí – nghĩa là cái thiêng liêng, cái tốt, rất ít thu hút tôi kể cả khi những mùi hương ấy vây phủ em tôi khi em hát; trong khi mùi hăng nơi cống rãnh dường như sở hữu hấp dẫn khó cưỡng, chết người. Ngoài ra, tôi mới mười sáu; có những thứ sôi sục dưới thắt lưng, sau lớp quần vải thô màu trắng; và thành phố nhốt phụ nữ trong nhà nào lại thiếu điếm. Trong khi Jamila hát những điều thần thánh và tình--tổ-quốc, tôi khám phá báng bổ và dục vọng. (Tôi dư tiền để đốt; cha tôi trở nên những thương mà còn hào phóng).

      [24] Ngắm trăng sau khi kết thúc tháng Ramadan là nghi lễ thiêng liêng của người đạo Hồi.

      Bên ngoài Lăng Jinnah vĩnh viễn hoàn thiện, tôi kiếm làng chơi. Tụi thanh niên đến đây để cưa cẩm các Mỹ, dắt họ vào khách sạn hoặc bể bơi; tôi thích trả tiền và duy trì độc lập của mình. Và cuối cùng tôi đánh hơi ra người điếm trong điếm, người sở hữu tài năng là tấm gương cho tài năng của tôi. Tên ả là Tai Bibi, và ả mình năm trăm mười hai tuổi.

      Nhưng mùi của ả! Thứ mùi nồng đậm nhất mà gã, Saleem, từng ngửi thấy; gã bị mê muội vì thứ gì trong đó, thứ khí độ đế vương lưu dấu trong sử sách… gã thấy mình với sinh vật răng ấy: “Tuổi tác của bà quan trọng; quan trọng là cái mùi.”

      (“Lạy Chúa,” Padma ngắt lời, “Gớm quá mất – sao ông có thể?”)

      Mặc dù ả chưa bao giờ hé lộ mối liên hệ nào với người lái đò Kashmir, cái tên ả tạo ra lực hút mãnh liệt nhất trong mọi lực hút; mặc dù ả có lẽ chỉ bỡn Saleem khi , “Cậu trai, ta năm trăm mười hai tuổi rồi,” cảm quan lịch sử của gã vẫn bị khêu gợi. Nghĩ gì về tôi tùy quý vị; tôi trải qua chiều nóng, ẩm trong căn phòng trọ với tấm nệm đầy rận và ngọn đèn trần trụi và ả điếm già nhất thế gian.

      Rốt cuộc điều gì làm tôi cưỡng nổi Tai Bibi? Ả có tài câu dẫn gì mà khiến những điếm khác phải hổ thẹn? Thứ gì làm cánh mũi mới trở nên nhạy cảm của Saleem phát điên? Padma: người điếm cổ đại của tôi sở hữu khả năng kiểm soát tuyến nội tiết toàn diện đến mức có thể biến đổi mùi cơ thể cho giống bất kỳ ai đời. Các tuyến eccrine và aporine tuân theo chỉ thị của ý muốn cổ xưa của ả; và dù ả bảo, “Chớ hy vọng ta đứng dậy làm với cậu, cậu đủ tiền trả đâu,” thuật tỏa hương của ả vẫn vượt quá sức chịu đựng của Saleem.

      (… “Chhi-chhi,” Padma bịt tai lại, “Lạy Chúa, người đâu mà bẩn thỉu tởm lợm thế. tôi ngờ!”…)

      Vậy là ở đó, gã trai xấu xí dị dạng này, cùng với mụ khọm già, người bảo, “ta đứng dậy, ta bị mụn cóc,” và nhận ra hai chữ mụn cóc có vẻ kích thích gã; thào bí mật về khả năng điều khiển tuyến eccrine-và-apocrine, ả hỏi gã có muốn ả thử bắt chước mùi của ai , gã có thể tả và ả có thể thử, cứ vừa thử vừa sửa như vậy họ có thể… đầu tiên gã rụt lại, , nhưng ả dỗ dành gã bằng giọng như tiếng vò giấy, cho đến khi, bởi gã chỉ có mình, cách biệt với thế gian và mọi thời gian, mình với lão nương thần bí hoang đường này, gã bắt đầu miêu tả các mùi với sức thấu cảm của cái mũi kỳ diệu, còn Tai Bibi bắt đầu phỏng theo miêu tả của gã, và làm gã kinh hoàng khi bằng cách thử-và-sửa, ả thành công trong việc tái tạo mùi cơ thể mẹ gã các dì gã, ô hô cậu thích thế phải sahibzada bé bỏng, tiếp tục , cứ thoải mái dí mũi sát vào , cậu là chàng rất ngộ đây… cho đến khi đột nhiên, vì vô tình, phải, tôi thề rằng mình bảo ả làm thế, đột nhiên trong quá trình thử-và-sửa mùi hương vạn lần được phép ra ấy lan ra từ cơ thể già nua cũ kỹ nhăn nheo nứt nẻ của ả, và giờ gã thể che giấu điều ả nhìn thấy, ô hô, sahibzada bé bỏng, ta vừa chạm phải cái gì đây, cậu cần ta là ai nhưng chắc chắn đây là người ấy rồi.

      Và Saleem, “Thôi thôi .” Nhưng Tai Bibi, với tàn nhẫn của tuổi lão niên cười hăng hắc, truy vấn. “Ô hô, phải, chắc chắn rồi, ý trung nhân của cậu, sahibzada bé bỏng – ai thế? Em họ cậu chăng? Hay em …” Tay Saleem siết chặt thành nắm đấm; bàn tay phải, bất chấp ngón tay tàn khuyết, nghĩ đến bạo lực… và giờ Tai Bibi, “Lạy Chúa đúng rồi! Em cậu! Nào, đánh ta , cậu thể giấu cái điều chễm chệ trong đầu cậu đâu!...” Và Saleem thu dọn quần áo quýnh quáng xỏ chân vào quần Câm mụ già Trong khi ả , cứ , nhưng nếu cậu trả tiền ta , ta , rồi cậu xem ta có từ việc gì, và giờ từng tờ rupee bay vung vãi trong phòng lả tả rơi xuống quanh ả kỹ nữ năm trăm mười hai tuổi, Cầm cầm và đừng ló cái mặt xấu xí của mụ ra, trong khi ả Cẩn thận đấy tiểu vương tử cậu cũng chẳng đẹp đẽ gì lắm đâu, giờ mặc đồ và chạy bổ khỏi căn hộ, chiếc Lambretta chờ nhưng lũ ranh con đái lên yên, cậu phóng nhanh, nhưng vẫn bám theo, và giờ Tai Bibi thò đầu ra cửa sổ và hét lên, “Ê, bhaenchud! Ê, chú bé ngủ với em , định chạy đâu? vẫn là …!”

      Quý vị có thể hỏi rất hợp lý rằng: Chẳng lẽ chuyện xảy ra đúng như… Và chắc mụ ta thể năm trăm… nhưng tôi thề thú nhận tất cả, và tôi khẳng định rằng tôi biết bí mật thể ra về tình của mình với Jamila Ca sĩ từ miệng và tuyến mùi của người điếm vô tiền khoáng hậu nọ.

      “Bà Braganza đúng,” Padma rầy la tôi, “Bà trong đầu lũ đàn ông chẳng có gì ngoài đất.” Tôi tảng lờ ; Bà Braganza, và bà Fernandez em bà ta, được xử lý khi đến lượt; tạm thời, người sau phải bằng lòng với vai trò kế toán nhà máy trong khi người trước chăm sóc con trai tôi. Trong lúc tôi, nhằm giành lại say mê chú ý từ Padma Bibi nổi loạn của tôi, kể chuyện cổ tích.



      Ngày xửa ngày xưa, tại tiểu quốc Kif phương Bắc xa xôi, vị tiểu vương có hai con xinh đẹp, cậu con trai cũng đẹp trai kém, chiếc Rolls-Royce mới coóng, và quan hệ chính trị tuyệt vời. Vị tiểu vương, tức Nawab này, tin tưởng nhiệt thành vào tiến bộ, và vì thế dàn xếp cho con lớn đính hôn với con trai Đại tướng Zulfikar giàu sang danh tiếng; phần thứ hai ông kỳ vọng cuộc hôn phối với quý tử của chính Tổng thống. Về chiếc ô tô, chiếc đầu tiên xuất ở thung lũng núi non bao quanh của ông, ông nó gần như con đẻ; ông xót xa khi thấy thần dân của mình, những người quen lấy đường sá ở Kif làm nơi giao tế xã hội, cãi cọ và chơi phụt-ống-nhổ, dứt khoát chịu nhường đường cho xe. Ông ban chỉ dụ giải thích rằng chiếc xe đại diện cho tương lai, vì thế người dân phải tránh đường cho xe ; dân tình phớt lờ cáo thị, cho dù nó được dán lên tường, mặt tiền cửa hàng và thậm chí, theo lời đồn, lưng bò. Cáo thị thứ hai có tính cưỡng bức hơn, lệnh cho dân chúng phải dẹp đường khi nghe tiếng còi xe; dân xứ Kif, tuy vậy, tiếp tục hút thuốc và nhổ bã trầu và cãi cọ đường. Cáo thị thứ ba, có minh họa là bức vẽ máu me, cảnh cáo rằng chiếc xe chẹt qua bất cứ ai nghe còi. Dân Kif liền bổ sung những hình vẽ rất phỉ báng vào bức tranh thông báo; và thế là vị Nawab, người tử tế nhưng lòng kiên nhẫn phải là vô hạn, dọa sao làm thế . Khi ca sĩ nổi tiếng Jamila đến đây cùng gia đình và ông bầu để biểu diễn tại lễ đính hôn của cậu em họ, xe đưa em thẳng từ biên giới tới tận hoàng cung mà gặp phiền toái gì; và Nawab tự hào, “Khỏi lo; chiếc xe nay được tôn trọng. Tiến bộ đến nơi này.”

      Con trai của Nawab, Mutasim, người chu du nước ngoài và để kiểu tóc tên gọi “đầu bọ dừa”, là nguồn lo lắng của cha mình; bởi mặc dù cậu đẹp trai đến mức, mỗi khi cậu ra phố ở Kif, các mũi đính châu báu đều ngất xỉu trước hơi nóng từ vẻ đẹp của cậu, cậu dường như để tâm đến mấy chuyện đó, và thỏa mãn với bầy ngựa polo và cây guitar mà với nó cậu chơi những bài hát phương Tây kỳ lạ. Cậu mặc bush-shirt in hình nốt nhạc và biển tên đường ngoại quốc chen chúc cơ thể nửa kín nửa hở của những da hồng. Nhưng khi Jamila Ca sĩ, giấu mặt sau tấm burqa thêu kim tuyến, đến cung điện, Mutasim tuấn – người mải chu du ngoại quốc nên chưa biết tin đồn về ngoại hình biến dạng của em – đâm ám ảnh về chuyện xem mặt em; cậu tương tư lăn lóc trước cái nhìn của đôi mắt e lệ mà cậu được thấy qua tấm vải khoét lỗ.

      Những ngày ấy, Tổng thống Pakistan ra sắc lệnh bầu cử; dự kiến diễn ra ngày sau lễ đính hôn, theo hình thức bỏ phiếu có tên là Dân chủ Đại diện. trăm triệu người Pakistan được chia làm trăm hai mươi phần xấp xỉ bằng nhau, mỗi phần do Đại Cử tri đại diện. Đoàn bầu cử, gồm trăm hai mươi nghìn “ĐCT” này bỏ phiếu bầu ra Tổng thống. Ở Kif, 420 Đại Cử tri gồm giáo sĩ, thợ quét rác, tài xế của Nawab, và nhiều nông dân trồng hashish[25] nộp tô ở đồn điền của Nawab, và các thần dân trung thành khác; Nawab mời tất cả họ dự lễ henna của con [26]. Ông, tuy vậy, buộc phải mời hai gã badmash, hai sĩ quan xuất ngũ của Đảng Liên minh Đối lập. Hai gã badmash này ngớt mồm cãi cọ nhau, nhưng Nawab vẫn nhã nhặn và hiếu khách. “Tối nay các vị là quý khách của tôi,” ông bảo chúng, “còn ngày mai là chuyện khác.” Hai gã badmash ngấu nghiến như chưa bao giờ nhìn thấy đồ ăn, nhưng mọi người – kể cả Mutasim tuấn, vốn kém cha cậu về khoản nhẫn nại – đều được dặn phải thết đãi chúng tử tế.

      [25] dạng cây thuốc phiện phổ biến ở Ấn Độ và Trung Đông.

      [26] Nghi thức vẽ hoa văn bằng phẩm màu (làm từ cây henna) lên người dâu.

      Quý vị ngạc nhiên khi biết rằng, Đảng Liên minh Đối lập (C.O.P) quy tụ toàn những kẻ lưu manh và vô lại nhất hạng, đoàn kết với nhau chỉ bởi quyết tâm lật đổ Tổng thống và quay về thời kỳ tồi tệ trước kia khi chính quyền dân , thay vì quân , là những kẻ móc túi công khố; nhưng chẳng vì đâu, chúng lại kiếm được thủ lĩnh đức cao vọng trọng. Đó là Phu nhân Fatima Jinnah, em của người sáng lập quốc gia, phụ nữ già nua khô héo đến mức Nawab ngờ rằng bà chết lâu rồi và được nhồi rơm bởi nghệ nhân bậc thầy – phán đoán được ủng hộ của cậu con, người từng xem bộ phim tên là El Cid, trong đó người chết dẫn đoàn quân ra trận… nhưng dù thế nào bà ta vẫn ở đó, tham gia tranh cử vì bất mãn trước việc Tổng thống bất lực trong việc hoàn thành ốp cẩm thạch lăng của bà; địch thủ đáng gờm, vì miễn nhiễm mọi vu khống và hiềm nghi. Người ta còn bảo việc bà phản đối Tổng thống lung lay niềm tin của dân chúng ở ông – ông há chẳng phải là, cho cùng, tái sinh của các hùng vĩ đại của đạo Hồi năm xưa? Của Muhammad bin Sam Ghuri, của Iltutmish[27] hay các Đại đế Mughal? Ngay ở Kif, Nawab thấy đề can của C.O.P xuất ở những nơi kỳ quái; thậm chí còn có kẻ cả gan dán tấm lên cốp chiếc Rolls-Royce. “Loạn rồi,” Nawab bảo con trai. Mutasim đáp, “Đó là những gì bầu cử đem lại – bọn cọ nhà xí và phó may phải bỏ phiếu bầu ra người cầm quyền?”

      [27] Shams-ud-din Iltutmush, Sultan thứ ba của vương triều Mamluk gốc Thổ ở Delhi.

      Nhưng hôm nay là ngày vui; trong khuê phòng, chị em vẽ những hoa văn henna tinh tế lên bàn tay và chân của con Nawab; Đại tướng Zulfikar cùng công tử Zafar sớm xuất . Giới cai trị tại Kif gạt bỏ cuộc bầu cử ra khỏi đầu, từ chối nghĩ đến hình hài rệu rã của Fatima Jinnah, mader-i-millat hay là người mẹ của dân tộc, người quá đỗi lạnh lùng lựa chọn con đường làm phức tạp thêm việc lựa chọn của các con bà.

      Nơi diễn ra bữa tiệc của Jamila Ca sĩ, niềm vui cũng ngự trị. Cha em, nhà sản xuất khăn tắm, người dường như thể xa lìa bàn tay mềm mại của vợ mình, kêu lên, “Thấy chưa? Con ai biểu diễn kia? Có phải con nhà Haroon ? Là con nhà Valika? Hay khuê nữ nhà Dawood hay Saigol? Còn khuya!” … Nhưng Saleem con ông, gã trai bất hạnh có gương mặt như tranh biếm họa, dường như bị bóp nghẹt trong nỗi bất an sâu kín, có lẽ bị ngợp trước việc mình luôn có mặt ở những kiện lịch sử lớn lao; gã liếc em tài năng với vẻ gì đó nhìn như nỗi hổ thẹn trong ánh mắt.

      Chiều hôm đó, Mutasim tuấn dắt Saleem trai Jamila ra góc và cố gắng làm thân với gã; cậu dắt Saleem xem đàn công nhập từ Rajasthan trước khi Chia cắt và bộ sưu tập sách bùa chú quý giá của Nawab, từ đó cậu lấy ra những lá bùa và thần chú giúp cậu trị vì cách minh; và trong lúc Mutasim (vốn dĩ phải mẫu người trẻ thông minh hay thận trọng gì lắm) đưa Saleem quanh sân polo, cậu thú nhận mình viết đạo bùa- lên tấm da, với hy vọng áp được nó lên tay nàng Jamila nổi danh và làm nàng phải lòng mình. Đến lúc này Saleem bắt đầu có hơi hướm con chó cắm cảu và toan bỏ ; nhưng Mutasim quay sang nài nỉ muốn biết Jamila Ca sĩ trông ra sao. Saleem, dù vậy, giữ im lặng; cho đến khi Mutasim, nổi cơn si mê cuồng dại, xin được gã đưa đến gần Jamila để ấp lá bùa lên tay nàng. Giờ Saleem, với ánh mắt giảo hoạt mà chàng Mutasim trúng tia sét ái tình nhận thấy, bảo, “Đưa lá bùa đây”; và Mutasim, người, tuy am hiểu địa lý các thành phố châu Âu, nhưng lại ngây thơ về ba chuyện ma thuật, bèn giao lá bùa cho Saleem, tưởng rằng nó vẫn linh nghiệm nhân danh cậu, kể cả khi do người khác dán.

      Bóng tối buông xuống hoàng cung; đoàn xe chở Đại tướng và Begum Zulfikar, công tử Zafar, và các bạn hữu của họ, đều tới. Nhưng giờ gió bỗng đổi chiều, bắt đầu thổi từ phương Bắc: trận gió lạnh, cũng là trận gió làm say người, vì ở phía Bắc của Kif có những đồng hashish phì nhiêu nhất, và vào mùa này trong năm, cây cái chín và đến kỳ phát dục. khí tràn ngập hương dục vọng nồng nàn của loài cây này, và ai hít phải đều bị phê thuốc đến độ nào đó. Cơn cuồng hỉ ngây ngô của hashish tác động lên các tài xế của đoàn hộ tống, vốn phải nhờ vận may cùng cực mới đến được cung điện, sau khi hất tung cơ số hiệu cắt tóc vỉa hè và đột nhập ít nhất quán trà, để lại người dân xứ Kif lo âu biết những cỗ xe ngựa tân kỳ này, sau khi đánh cắp đường phố, giờ có tịch biên nốt nhà họ .

      Trận gió Bắc xâm nhập cái mũi khổng lồ và nhạy cảm cao độ của Saleem, trai Jamila, và làm gã đờ đẫn đến nỗi ngủ quên trong phòng; và bởi vậy bỏ lỡ những kiện của buổi tối mà, về sau gã nghe kể lại, trận gió hashish biến đổi thái độ của quan khách trong lễ đính hôn, làm họ cười rũ rượi và đắm đuối nhìn nhau đầy khiêu khích bằng những cặp mắt nặng trĩu; các viên Tướng đeo tua ngù ngồi giạng chân ghế thếp vàng và mơ tới Thiên Đường. Lễ mehndi[28] diễn ra trong bầu khí phủ phê hết sức buồn ngủ đến nỗi ai hay biết chú rể hoàn toàn thả lỏng đến mức tè ra quần; và cả hai gã badmash hay hục hặc của C.O.P cũng nắm tay nhau hát dân ca. Và khi Mutasim tuấn, bị ngấm tinh lực dồi dào của cây hashish, toan lao vào sau tấm màn lụa thêu kim tuyến với duy nhất cái lỗ, Thiếu tá Alauddin Latif kiềm chế cậu với vẻ tươi cười hoan hỉ, ngăn cậu nhìn mặt Jamila Ca sĩ mà thậm chí chưa cần cho cậu chảy máu mũi. Buổi tối kết thúc với toàn bộ quan khách ngủ gục tại bàn; riêng Jamila Ca sĩ được ngài Latif cười toe toét và ngái ngủ hộ tống về phòng.

      [28] Tức là lễ vẽ henna.

      Vào nửa đêm, Saleem tỉnh dậy thấy mình vẫn nắm chặt lá bùa ma thuật của Mutasim tuấn trong tay phải; và vì cơn gió Bắc vẫn thổi nhè vào căn phòng, gã đến quyết định , dép và mặc áo ngủ, lẻn qua những hành lang tối tăm của cung điện đẹp đẽ này, qua tập hợp mọi phế tích của thế giới mục nát: những bộ giáp gỉ sét và những tấm thảm lâu đời cung cấp hàng thế kỷ thức ăn cho cả tỷ con nhậy trong cung điện, cá chép khổng lồ bơi trong đại dương thủy tinh, và vô số chiến lợi phẩm săn trong đó có con gà gô vàng xỉn màu đậu chân đế gỗ tếch, kỷ niệm ngày Nawab tiền nhiệm, trong cuộc săn cùng Nam tước Curzon[29] và đoàn tùy tùng, hạ 111, 111 con gà gô trong ngày; gã lẻn qua những bức tượng chim chết đến khu khuê phòng nơi phụ nữ trong cung điện ngủ, rồi, hếch mũi đánh hơi, gã chọn cánh cửa, xoay nắm đấm lẻn vào.

      [29] Toàn quyền tại Ấn Độ vào đầu thế kỷ 20.

      chiếc giường đồ sộ mắc màn chống muỗi đón luồng ánh sáng màu từ vầng trăng nửa đêm đầy kích động; Saleem bước về phía nó, rồi dừng lại, bởi gã vừa thấy, ở cửa sổ, hình dáng người đàn ông cố leo vào phòng. Mutasim tuấn, bị cơn cuồng si và trận gió hashish biến thành trơ trẽn, quyết tâm xem mặt Jamila, bằng mọi giá… Và Saleem, vô hình trong bóng tối của gian phòng, quát lên: “Giơ tay lên! Nếu ta bắn!” Saleem chỉ bốc phét; nhưng Mutasim, tay vẫn bám vào bậu cửa sổ và chịu toàn bộ trọng lượng của cậu, biết điều đó, và rơi vào thế tiến thoái lưỡng nan: cứ bám và bị bắn, hay buông tay và ngã? Cậu cố gắng phản bác, “Cả cậu cũng được ở đây,” cậu bảo, “tôi mách Amina Begum.” Cậu nhận ra giọng kẻ uy hiếp mình; nhưng Saleem bèn chỉ ra thế yếu của cậu, và Mutasim, sau khi nài nỉ “Được rồi, nhưng đừng có bắn,” được phép tụt xuống theo đường cậu leo lên. Sau hôm đó, Mutasim thuyết phục cha cậu đưa ra lời cầu hôn chính thức với cha mẹ Jamila; nhưng em, được sinh ra và nuôi lớn thiếu vắng tình , vẫn giữ nỗi căm ghét cũ với tất cả những kẻ em, nên từ chối cậu ta. Cậu bỏ Kif đến Karachi, nhưng em vẫn đoái hoài những lời cầu hôn dai dẳng của cậu ta; rốt cuộc cậu nhập ngũ và hy sinh trong cuộc chiến tranh năm 1965.

      Bi kịch của Mutasim tuấn, dầu vậy, chỉ là tình tiết thứ yếu trong câu chuyện của chúng ta; bởi lúc này Saleem và em còn lại mình, và em, bị cuộc trao đổi giữa hai gã trai đánh thức, bèn hỏi, “Saleem? Có chuyện gì thế?”

      Saleem lại gần giường em; tay gã lần tìm tay em; và lá bùa được áp lên da em. Chỉ đến lúc này Saleem, lưỡi mềm ra bởi ánh trăng và cơn gió thấm đẫm dục vọng, mới phế bỏ mọi ý niệm về thuần khiết và thú nhận tình của mình cho em há miệng ngỡ ngàng.

      khoảnh khắc im lặng; rồi em thốt, “Ôi, , sao có thể…”, song ma thuật của lá bùa tranh đấu với mãnh lực của lòng căm ghét tình trong em; nên mặc dù cơ thể em cứng lại và co giật như đô vật, em vẫn nghe gã giải thích rằng có tội lỗi gì cả, gã nghĩ thông rồi, xét cho cùng, họ phải là em thực ; máu chảy trong huyết quản của gã và em phải là ; trong cơn gió của cái đêm rồ dại ấy gã cố gắng tháo gỡ mọi nút thắt mà kể cả lời thú nhận của Mary Pereira cũng làm nổi; nhưng ngay trong lúc có thể nghe thấy lời mình trống rỗng, và nhận ra mặc dù điều gã rành rành, nhưng còn có những khác trở nên quan trọng hơn bởi chúng được hợp pháp hóa theo thời gian; và mặc dù việc gì phải hổ thẹn hay kinh hãi, gã nhìn thấy hai cảm xúc đó trán em, gã ngửi thấy chúng da em, và, tồi tệ hơn, gã cảm thấy và ngửi thấy chúng trong và chính bản thân mình.Vậy là, cuối cùng, kể cả tấm da ma thuật của Mutasim tuấn cũng đủ quyền năng mang Saleem Sinai và Jamila Ca sĩ lại bên nhau; gã rời phòng em mà đầu cúi gằm, theo sau là ánh mắt như con nai hoảng hốt của em; và tới lúc hiệu lực của câu thần chú hoàn toàn tan biến, và em giáng đòn trả thù khủng khiếp. Khi gã rời phòng những hành lang của cung điện đột nhiên tràn ngập tiếng hét hãi hùng của nàng quận chúa mới hứa hôn, người vừa bừng tỉnh khỏi giấc mơ về đêm tân hôn trong đó chiếc giường cưới của nàng bỗng nhiên và vì đâu đầm đìa thứ chất lỏng khai khai màu vàng; sau đấy, nàng bắt đầu dò hỏi, và khi biết được có tính tiên tri của giấc mơ này, liền hạ quyết tâm bao giờ dậy chừng nào Zafar còn sống, nhờ đó nàng có thể ở lại tẩm cung và tránh được nỗi kinh hoàng khai nồng của yếu hèn của .




      Sáng hôm sau, hai tên badmash của đảng Liên minh Đối lập tỉnh giấc thấy mình trở về giường tự bao giờ; nhưng khi mặc xong quần áo, chúng mở cửa phòng và thấy hai trong số những người lính đô con nhất Pakistan bên ngoài, đứng hòa bình ở đó với hai cây súng bồng chéo, bịt kín lối ra. Hai tên badmash hết la hét lại phỉnh phờ, nhưng hai người lính trấn thủ ở đây đến khi các hòm phiếu được niêm phong; rồi họ lặng lẽ rút lui. Hai tên badmash tìm Nawab, thấy ông ta trong vườn hồng đẹp hiếm có của mình; chúng hoa tay múa chân và to tiếng; những lời lẽ như nhạo-báng-công-lý được ra, và trò-bầu-cử-dối--lừa-dưới; rồi thủ đoạn hèn hạ; nhưng Nawab chỉ cho chúng thấy mười ba giống hồng Kin do chính tay ông lai tạo. Chúng tiếp tục lèm bèm – cái-chết-của-dân-chủ, bạo-chúa-chuyên-quyền – cho đến khi ông ta cười điềm đạm, điềm đạm, rồi , “Các bạn ạ, hôm qua con ta đính ước với Zafar Zulfikar; bao lâu, ta hy vọng, đứa kia cưới chính quý tử của Tổng thống. Thử nghĩ xem – ta mất thể diện thế nào, ta ô danh ra sao, nếu như có dù chỉ lá phiếu ở Kif chống lại thông gia tương lai của ta! Các bạn, ta là kẻ coi trọng danh dự; cho nên cứ ở nhà ta, ăn, uống; chỉ đừng hỏi xin điều ta thể cho.”

      Và tất cả chúng tôi sống hạnh phúc… dù gì nữa, dù thiếu cái kết hư cấu truyền thống của cổ tích, câu chuyện của tôi quả vẫn kết thúc cách hoang đường; bởi khi các Đại Cử tri hoàn thành nhiệm vụ, các báo Jang, Bình minh, Thời báo Pakistan đều loan báo thắng lợi áp đảo của đảng Liên đoàn Hồi giáo của Tổng thống trước đảng Liên minh Đối lập của Mader-i-Millat; và qua đó chứng minh cho tôi rằng tôi chỉ là kẻ tung-hứng-- khiêm nhường nhất; và rằng ở đất nước mà là cái được người ta chỉ đạo là , thực đúng nghĩa gần như ngừng tồn tại, thế nên điều gì cũng có thể là trừ cái mà người ta bảo ta là ; và có lẽ đây chính là khác biệt giữa tuổi thơ Ấn Độ và tuổi thiếu niên Pakistan của tôi – rằng ở thời kỳ thứ nhất tôi bị bao vây bởi vô hạn những thực khác nhau, trong khi ở thời kỳ thứ hai tôi trôi dạt, mất phương hướng, giữa số lượng cũng bất tận như thế những giả tạo, phi thực và lừa dối.

      chú chim thầm vào tai tôi: “Phải công bằng chứ! ai, nước nào, độc quyền về giả dối hết.” Tôi chấp nhận lời phê bình; tôi biết, tôi biết. Và, nhiều năm sau, mụ Góa phụ biết. Và Jamila: người mà với em điều-được-hợp-pháp-hóa-là-- (bởi Thời gian, bởi thói quen, bởi tuyên bố của người bà, bởi thiếu trí tưởng tượng, bởi đón nhận của người cha) chứng tỏ xác tín hơn điều em vẫn biết là .

    6. ^^! Nếu bạn không gửi link bài viết trên Facebook được, hãy sử dụng link trong khung này để chia sẻ bài viết :