1. QUY ĐỊNH BOX EBOOK SƯU TẦM

    Khi các bạn post link eBook sưu tầm nhớ chú ý nguồn edit và Link dẫn về chính chủ

    eBook phải tải File trực tiếp lên forum (có thể thêm file mediafire, dropbox ngay văn án)

    Không được kèm link có tính phí và bài viết, hay quảng cáo phản cảm, nếu có sẽ ban nick

    Cách tải ebook có quảng cáo

Những Đứa Con Của Nửa Đêm - Salman Rushdie (30 Chương)

Thảo luận trong 'Truyện Phương Tây'

  • ^^! Nếu bạn không gửi link bài viết trên Facebook được, hãy sử dụng link trong khung này để chia sẻ bài viết :
    1. banglangtrang123

      banglangtrang123 Well-Known Member Staff Member Super Moderator

      Bài viết:
      26,213
      Được thích:
      47,825
      Chương 14: Sinh nhật thứ mười của tôi




      “Ôi thưa ông, em biết gì? Lỗi tại em mọi đàng!”

      Padma quay về. Và, giờ khi tôi bình phục khỏi cơn ngộ độc và trở lại bàn làm việc, lại xoắn xuýt đến nỗi yên lặng được. Hết lần này đến lần khác, bông sen trở lại của tôi dằn vặt bản thân, đấm bộ ngực nặng nề, rền rĩ đến rát họng. (Với tình trạng mong manh của tôi, kiểu này khá là mệt mỏi; nhưng tôi trách gì cả.)

      “Cứ tin em , thưa ông, rằng em quan tâm sức khỏe của ông biết mấy! là những sinh vật kỳ lạ, đàn bà chúng em, phút nào yên dạ được khi người đàn ông của mình ốm đau phiền muộn... Ông khỏe rồi là em mừng lắm, ông chẳng biết đâu!”

      Câu chuyện của Padma (kể bằng chính lời , và đọc lại cho nghe để được phê duyệt bằng những đảo mắt, than vãn, đấm ngực): “Chỉ tại lòng kiêu hãnh và tự cao ngu dại của em, Saleem baba, xui khiến em rời bỏ ông, mặc dầu công việc ở đây rất tốt, và ông rất cần người chăm sóc! Nhưng chửa được bao lâu em nóng ruột muốn quay về.”

      “Thế là em nghĩ, làm sao để trở lại với cái người chẳng em mà chỉ ngồi viết nhăng viết cuội? (Tha lỗi cho em, Saleem baba, nhưng em phải . Và tình , với đàn bà chúng em, là thứ lớn lao nhất.)”

      “Thế là em tìm ông thầy, ông ấy dạy em phải làm gì. Trong túi còn mấy đồng, em bắt xe buýt về quê để đào cây thuốc, có nó dương căn của ông có thể được đánh thức dậy... hãy tưởng tượng, thưa ông, em khấn những lời này: ‘Hỡi cây thuốc được Bò Mộng nhổ lên!’ Rồi em nghiền cây thuốc với nước với sữa và đọc, ‘Hỡi cây thuốc tráng dương ích khí! Được thần Varuna[1] sai Gandharva đào lên! Hãy cho ngài Saleem của ta sức mạnh. Nhiệt như Ngọn lửa của thần Indra. Như linh dương đực, hỡi cây thuốc, mi có mọi sức mạnh đời, mi có quyền năng của Indra, và sinh lực của thú hoang’.”

      [1] Theo kinh Vệ Đà, Varuna là thần của bầu trời, của nước. Trong thần thoại Hindu, Varuna là thần nước, đặc biệt là các đại dương.

      “Mang theo món thuốc này em trở về, thấy ông vẫn mình như mọi khi và luôn chúi mũi vào viết lách. Nhưng lòng ghen tuông, em thề, em bỏ lại sau; nó lộ ra ngoài mặt và làm ta già . Ôi Chúa tha thứ cho em, em lặng lẽ bỏ thang thuốc vào thức ăn của ông!... Thế rồi, hai-hai, xin Thượng đế tha thứ cho con, nhưng con chỉ là mụ đàn bà bình thường, nếu thầy pháp bảo vậy, làm sao con dám cãi?... Nhưng ít nhất bây giờ ông khá hơn, tạ ơn Chúa, và mong sao ông đừng giận.”

      Dưới dược lực từ liều thuốc của Padma, tôi bị mê sảng tuần liền. Đóa sen-phân của tôi (qua hàm răng nghiến chặt) thề rằng tôi cứng đờ như tấm ván, miệng sùi bọt mép. Tôi còn bị sốt. Trong cơn mê sảng tôi ú ớ về rắn; nhưng tôi biết Padma phải xà tinh, và bao giờ muốn hại tôi.

      “Tình , thưa ông,” Padma than thở, “nó làm đàn bà hóa điên.”

      Tôi nhắc lại: tôi trách Padma. Dưới chân dãy Tây San tìm kiếm cây thuốc tráng dương, mucuna pruritus và rễ cây feronia eleplantum; ai biết tìm thấy gì? Ai biết thứ gì, được nghiền với sữa và trộn với thức ăn của tôi, ném ruột gan tôi vào trạng thái “khuấy đảo” và từ đó, như mọi sinh viên môn vũ trụ học Hindu đều biết, Indra tạo ra vật chất, bằng cách khuấy món súp khởi nguyên trong thùng sữa vĩ đại của mình? Có hề gì. Đó là nỗ lực cao quý; nhưng tôi vượt quá giới hạn có thể tái tạo – mụ Góa phụ kết liễu tôi. Kể cả cây mucuna cũng thể đặt dấu chấm hết cho bất lực của tôi; feronia thể nào khơi dậy được trong tôi “sinh lực của thú hoang”.

      Dù vậy, lần nữa tôi lại ngồi trước bàn; lần nữa Padma ngồi dưới chân tôi, thúc giục tôi. Tôi lại cân bằng như trước – phần đế tam giác cân của tôi vững chãi. Tôi bay lượn đỉnh, tại và tương lai, và cảm thấy mạch văn trở lại với ngòi bút của mình.

      thứ ma thuật được thực thi; và hành trình tìm tình dược của Padma nối kết tôi trong chốc lát với thế giới của tri thức cổ xưa và học vấn của giới phù thủy mà ngày nay bị hầu hết chúng ta kinh rẻ; nhưng (bất chấp những cơn co thắt dạ dày và sốt và sùi bọt mép) tôi lấy làm mừng vì nó xâm nhập vào những ngày cuối cùng của tôi, bởi nghiền ngẫm nó cũng đồng nghĩa với việc tìm lại chút ý niệm mất về tỉ lệ.

      Nghĩ mà xem: lịch sử, trong phiên bản của tôi, bước sang thời kỳ mới vào ngày 15 tháng Tám năm 1947 – nhưng theo phiên bản khác, cái ngày thể tránh khỏi ấy chỉ là sát na hơn trong Kỷ nguyên Tăm tối, Kali-Yuga, khi con bò của Pháp[2] chỉ còn đứng, chênh vênh, duy nhất chân! Kali-Yuga, cú đổ thất bại trong trò xúc xắc của đất nước này; thời kỳ tồi tệ nhất; kỷ nguyên khi tài sản mang lại cho con người đẳng cấp, khi giàu sang tương đương với phẩm giá, khi dục vọng trở thành gắn kết duy nhất giữa đàn ông và đàn bà, khi dối trá đem lại thành công (có gì đáng ngạc nhiên khi, ở thời kỳ như thế, tôi cũng lăn lộn giữa cái tốt và cái xấu?)... bắt đầu từ thứ Sáu, ngày 18 tháng Hai, năm 3102 trước Công nguyên; và chỉ kéo dài có 432.000 năm! kịp thấy mình có phần bé mọn, tôi vẫn phải bổ sung rằng Kỷ nguyên Tăm tối chỉ là giai đoạn thứ tư của chu kỳ Maha Yuga tại, vốn có độ dài, tổng cộng, gấp mười lần; và khi tính rằng phải mất ngàn Maha Yuga mới bằng Ngày của Brahma, quý vị hiểu ý tôi khi đến tỉ lệ.

      [2] Theo quan niệm của đạo Hindu, biểu trưng của Pháp (dharma) là con bò. Trong kỷ nguyên đầu tiên, hoàng kim của thế giới (Satya Yuga), con bò có bốn chân, nhưng qua mỗi kỷ nguyên, Pháp lại tiêu hao mất phần tư. Đến kỷ nguyên Kali, con bò của Pháp chỉ còn có chân. Có thể hiểu là thời mạt pháp.

      chút khiêm nhường vào thời điểm này (khi tôi run rẩy chuẩn bị giới thiệu Những đứa trẻ) có gì là, như tôi thấy, lạc lõng.

      Padma đổi thế ngồi, lún túng. “Ông gì vậy?” hỏi, mặt hơi đỏ lên. “Đấy là chuyện của Bà la môn; có liên quan gì đến em chứ?”

      ... Sinh ra và được giáo dưỡng theo truyền thống đạo Hồi, tôi bỗng nhiên thấy mình choáng ngợp trước nguồn tri thức cổ xưa hơn; trong khi ở đây cạnh tôi là Padma của tôi, mà trở về của nàng tôi mong mỏi biết bao nhiêu... Nàng Padma của tôi! Nữ thần Hoa sen; Người Sở hữu Phân; người Ngọt Như Mật và Làm Bằng Vàng; có hai đứa con là Hơi ẩm và Bùn...

      “Ông chắc là chưa hết sốt,” phản đối, cười khúc khích. “Cài gì mà làm bằng vàng, hở ông? Và ông thừa biết em làm gì có co...”

      ... Padma cùng với các dạ xoa[3], những vị thần đại diện cho các bảo vật thiêng liêng của trái đất, cho các con sông thiêng Ganga Yamuna Sarasvati[4], và với các nữ thần cây, là trong các thần Bảo hộ sống, mê hoặc và an ủi phàm nhân khi họ qua lưới mộng của Ảo ảnh[5]... Padma, đài Sen, mọc ra từ rốn của thầnVishnu, và từ đó chính Brahma ra đời; Padma Nguồn cội, mẹ của Thời gian!...

      [3] Yaksa, tiếng Hán là dạ xoa. Theo đạo Hindu và đạo Phật, dạ xoa là các linh thần bảo vệ những báu vật của tự nhiên dưới lòng đất và dưới gốc cây.

      [4] Ba con sông thiêng của Ấn Độ, trong đó Ganga (sông Hằng) và Yamuna là hai con sông có , còn con sông thứ ba, Sarasvati, chỉ tồn tại trong thần thoại.

      [5] Maya, chỉ thế giới tượng liên tục thay đổi trong mắt của phàm nhân chưa giác ngộ.

      “Này,” giọng bắt đầu có vẻ lo âu, “đưa em sờ trán xem nào!”

      ... Và tôi, trong hệ thống những thứ này, ở đâu? Có phải tôi (được mê hoặc và an ủi bởi trở về của ) chỉ là phàm nhân – hay còn gì hơn thế? Ví dụ như – phải, sao lại – vòi ma mút, mũi Ganesh như tôi đây – thần Voi, chẳng hạn. Người, giống như thần mặt trăng Sin, điều khiển nước, ban phát mưa... có mẹ là Ira, ái phi của Kashyap, tức Quy Lão, chúa tể và tổ tiên của muôn loài trái đất... thần Voi, đồng thời là cầu vồng, và sấm sét, vị thần mà ý nghĩa biểu tượng, tôi phải bổ sung, rất nhiều nghi vấn và ràng[6].

      [6] Kashyap (con rùa) là trong bảy đấng trí giả (rishi) do thần Vishnu tạo ra, và là thủy tổ của muôn loài. Ira là trong mười người vợ của Kashyap, sinh ra đàn voi. Con voi trắng Airavata là vật cưỡi của thần Indra. Indra khi cưỡi voi tay cầm lưỡi tầm sét, tay cầm cầu vồng. Bản thân chữ Airavata cũng có nghĩa là cầu vồng.

      : khó nắm bắt như cầu vồng, khó dự đoán như sấm sét, ba hoa như Ganesh, có vẻ như tôi, rốt cuộc, vị trí trong kho tàng tri thức cổ xưa.

      “Lạy Chúa.” Padma bổ tìm khăn để dấp nước lạnh, “trán ông như bốc hỏa ấy! Tốt hơn ông nên nằm xuống; giờ này chưa thể viết lách được đâu! Mê sảng đây mà; phải ông.”

      Nhưng tôi mất tuần; vậy nên, sốt hay sốt, tôi cũng phải tiếp tục; bởi vì, sau khi (tạm thời) vắt kiệt cái bút pháp kể-chuyện-ngày-xưa này, tôi sắp tiến tới trung tâm kỳ ảo của câu chuyện của chính tôi, và phải viết cách công khai chân xác, về những đứa trẻ nửa đêm.




      Hãy hiểu điều tôi sắp : trong giờ đầu tiên của ngày 15 tháng Tám năm 1947 – từ nửa đêm đến giờ sáng – dưới nghìn lẻ đứa trẻ chào đời bên trong đường biên giới của quốc gia Ấn Độ chủ quyền non trẻ. Về bản chất, đây phải là kiện bất thường (tuy rằng con số này mang hưởng văn chương cách kỳ lạ) - ở thời kỳ đó, tỉ lệ sinh mảnh đất này vượt tỉ lệ tử khoảng 687 người giờ. Điều khiến kiện này đáng chú ý (đáng chú ý! có từ trung tính thế đấy, nếu quý vị thích!) là bản chất của những đứa trẻ này, mỗi người trong số chúng đều, do biến dị sinh học, hoặc do mộ thế lực siêu nhiên nào đó vào thời điểm ấy, hoặc chỉ dễ hiểu là trùng hợp (tuy rằng ngẫu nhiên xảo hợp ở quy mô ấy làm choáng váng cả C.G.Jung), được phú cho những đặc tính, thiên khiếu, hay năng lực chỉ có thể được miêu tả bằng hai chữ kỳ diệu. Cứ như thể - nếu quý vị cho phép tôi khoảnh khắc tưởng tượng trong cái mà nếu có nó tường thuật nghiêm túc nhất tôi có thể thực , tôi cam đoan vậy – cứ như thể lịch sử, đến thời điểm của tầm vóc và triển vọng tối cao, quyết định gieo xuống, vào thời khắc ấy, những hạt giống của tương lai rồi hoàn toàn khác bất kỳ thứ gì thế giới này từng chứng kiến cho đến thời điểm ấy.

      Nếu phép mầu tương tự có xảy ra bên kia biên giới, tại quốc gia vừa-bị-cắt-ra Pakistan, tôi cũng biết gì cả; linh lực của tôi, trong thời gian tồn tại của chúng, bị giới hạn chỉ bởi Biển Ả Rập, vịnh Bengal, dãy Himalaya, mà cả đường biên giới nhân tạo cắt xẻ Punjab và Bengal.

      Lẽ tất nhiên, số đứa trẻ thể sống sót. Suy dinh dưỡng, bệnh tật và những rủi ro của cuộc sống hằng ngày lấy dưới bốn trăm hai mươi sinh mệnh trước thời điểm tôi đến tồn tại của chúng; mặc dù có thể giả định rằng tất cả những cái chết này, cũng có mục đích của nó, bởi vì 420[7], biết từ bao giờ là con số gắn liền với lừa đảo, dối trá và gian lận. Vậy , có thể nào, những đứa bé biến mất ấy bị đào thải vì chúng, phương diện nào đó, xứng đáng, và phải là những đứa con đích thực của nửa đêm ấy? À, trước hết, đây lại là cuộc du ngoạn khác vào cõi giả tưởng; thứ hai, nó còn tùy thuộc vào cách nhìn cuộc đời vừa đầy rẫy thần quyền vừa tàn bạo đến dã man này. Đó cũng là câu hỏi thể trả lời; mọi cố gắng tìm hiểu sâu hơn bởi thế chỉ là vô ích.

      [7] Khoản 420 trong Luật Hình Ấn Độ, ra đời từ 1862, là điều khoản quy định về tội lừa đảo. 420 do vậy trở thành tên lóng để chỉ những kẻ hành nghề lừa đảo.

      Tới năm 1957, năm trăm tám mươi mốt đứa trẻ sống sót đều sắp đến sinh nhật thứ mười, phần lớn hoàn toàn biết đến tồn tại của nhau, mặc dù có số ngoại lệ nhất định. Tại thị trấn Baud, bên bờ sông Mahanadi ở Orissa, có cặp chị em song sinh trở thành huyền thoại trong vùng bởi vì bất chấp nhan sắc bình phàm đến kinh ngạc, cả hai đều có khả năng làm mọi người đàn ông gặp mặt mình si mê họ cách vô vọng và tự diệt, đến nỗi bậc cha mẹ ngỡ ngàng của họ ngừng bị làm phiền bởi dòng người đến cầu hôn hoặc thậm chí cả hai đứa trẻ bí hiểm; những ông già từ bỏ thông thái của chòm râu và đám thanh niên đáng lẽ phải mê mẩn mấy đào trong gánh chiếu bóng rong vẫn viếng thăm Baud mỗi tháng lần; và cả dòng người khác, phiền toái hơn gồm những tang gia nguyền rủa hai chị em vì bỏ bùa mê thuốc lú khiến con trai họ có những hành vi bạo hành bản thân, những nhát dao và đòn roi chết người, thậm chí (có trường hợp) tự thiêu. Mặc dù vậy, ngoại trừ mấy trường hợp cá biệt hiếm hoi ấy, những đứa con của nửa đêm lớn lên mà hầu như biết tới những chị em đích thực của mình, những đồng-bạn-được-lựa-chọn khắp chiều dài và bề rộng của viên kim cương thô và thiếu cân xứng Ấn Độ.

      Thế rồi, dưới tác động của cú sốc sau tai nạn xe đạp, tôi, Saleem Sinai, bỗng nhiên biết về tất cả bọn họ.

      Với những ai có nếp suy nghĩ quá cứng nhắc để có thể chấp nhận được những ấy, tôi xin thế này: chuyện là như thế đấy; có cách nào chối bỏ đâu. Tôi đành phải chìa vai ra hứng gánh nặng ngờ vực từ những kẻ hoài nghi. Nhưng ai biết đọc tại đất nước Ấn Độ này của chúng tôi lại có thể hoàn toàn miễn nhiễm khỏi kiểu tin tức mà tôi sắp sửa hé lộ - độc giả nào của nền báo chí nước nhà có thể bỏ qua hàng loạt đứa trẻ thần kỳ và dị nhân đủ loại – dù phải thừa nhận là ở cấp độ thấp hơn. Mới tuần trước, có cậu bé người Bengal tuyên bố mình là Rabindranath Tagore đầu thai và bắt đầu ứng khẩu những vần thơ vào loại xuất sắc, trước kinh ngạc của cha mẹ; và chính tôi còn nhớ được có những đứa trẻ hai đầu (đôi khi đầu người, đầu thú) và những đặc điểm kỳ dị khác như sừng bò.

      Tôi phải ngay rằng phải mọi thiên phú của những đứa trẻ đều đáng mong muốn, thậm chí được chính chúng mong muốn; và, với số trường hợp những đứa trẻ sống sót nhưng bị tước mất những phẩm chất mà nửa đêm ban cho. Ví dụ (để song hành với chuyện hai chị em ở Baud) để tôi kể chuyện bé ăn mày tại Delhi tên là Sundari, ra đời ở con phố phía sau Bưu điện Trung tâm, xa cái mái nhà nơi Amina Sinai lắng nghe Ramram Seth là mấy, người có sắc đẹp dữ dội đến mức chỉ trong khoảnh khắc bé chào đời nó làm mù cả mẹ lẫn các bà hàng xóm sang đỡ đẻ giúp; cha , khi xông vào phòng khi nghe tiếng thét của mấy người đàn bà, được họ cảnh báo kịp thời; nhưng chỉ thoáng nhìn con làm thị lực ông tổn thương nặng nề đến mức từ đó trở ông thể phân biệt người Ấn và du khách ngoại quốc, thương tật ảnh hưởng nghiêm trọng đến năng lực kiếm tiền của ăn mày như ông. Sau đó, suốt thời gian Sundari buộc phải quấn tấm giẻ ngang mặt; cho tới khi bà già nua tàn nhẫn của mẹ bé giơ đôi tay xương xẩu đón lấy và rạch chín nhát lên mặt bằng con dao làm bếp. Vào thời điểm tôi biết về , Sundari nguồn thu nhập ổn định, bởi ai nhìn thấy xót thương cho ràng từng đẹp lóa mắt người mà giờ dung nhan lại bị hủy hoại tàn nhẫn đến vậy; nhận được nhiều tiền bố thí hơn bất kỳ ai trong nhà.

      đứa trẻ nào lại ngờ rằng thời điểm ra đời của mình lại có liên quan tới dị thường ở chúng, tôi cũng phải mất thời gian mới khám phá ra. Ban đầu, sau tai nạn xe đạp (đặc biệt sau khi những người diễu hành ngôn ngữ thanh tẩy Evie Burns ra khỏi đầu tôi), tôi tự thỏa mãn với việc khám phá ra, từng cái , bí mật của những sinh thể huyền bí bất ngờ xuất trong trường linh giác của tôi, hăng say sưu tầm chúng, theo cách mấy đứa nhóc sưu tầm côn trùng, hoặc đếm tàu hỏa; đánh mất hứng thú với lưu bút và mọi hình thái khác của bản năng hái lượm, tôi liền, mỗi khi có thể, đắm mình vào thế giới biệt lập và tươi sáng hơn tổng thể, của năm trăm tám mươi mốt đứa trẻ. (Hai trăm sáu mươi sáu trong số tụi tôi là con trai; và về số lượng chúng tôi bị phe con áp đảo – ba trăm mười lăm người bọn họ, kể cả Parvati. Parvati-phù-thủy.)

      Những đứa trẻ nửa đêm!... Từ Kerala, cậu bé có khả năng bước vào trong gương và bước ra qua bất kỳ bề mặt phản quang nào mặt đất - qua mặt hồ hay (tuy khó khăn hơn) vỏ kim loại bóng loáng của những chiếc ô tô... bé người Goa có biệt tài nhân bội cá... rồi những đứa trẻ có khả năng biến hình; người sói từ Đồi Nilgiri, và từ vùng lưu vực mênh mông Vindhyas, cậu bé có thể tùy ý tăng giảm kích cỡ của mình, và ( cách ma mãnh) là nguyên nhân của những hoảng loạn và đồn đại về tái xuất của người Khổng lồ... ở Kashmir, có đứa trẻ mắt xanh mà tôi xác định được giới tính, vì bằng cách ngâm mình vào nước cậu (hay ) có thể hoán đổi nó theo ý (hay cậu) ta muốn. Bọn tôi có người gọi nó là Narada, người gọi nó là Markandaya, tùy câu chuyện cổ tích nào về chuyển đổi giới tính bọn tôi được nghe... gần Jalna, chính giũa trung tâm bình nguyên Deccan khô hạn tôi phát ra đứa trẻ có năng lực tìm ra nguồn nước, và ở Budge-Budge, ngoại ô Calcutta, bé lưỡi sắc mà mỗi lời có sức mạnh gây ra thương tích, nên sau khi vài người lớn thấy mình chảy máu ồ ạt vì vài lời châm chọc thuận miệng ném ra, họ quyết định nhốt vào lồng tre thả trôi sông Hằng tới rừng Sunbardans (sào huyệt của ma quỷ quái); nhưng ai dám lại gần , và giữa thị trấn, bao bọc trong khoảng chân của nỗi khiếp sợ; ai có can đảm từ chối thức ăn. Còn có cậu bé ăn kim loại và bé ngón tay xanh tới mức trồng được những trái cà tím tuyệt hảo giữa sa mạc Thar; và còn nữa còn nữa còn nữa... choáng ngợp trước số lượng của chúng và trước muôn hình vạn trạng huyền bí của những năng lực chúng sở hữu, lúc buổi đầu tôi ít để tâm đến những cái tôi bình thường của chúng; nhưng, cách tất yếu, những vấn đề của chúng tôi, khi nó phát sinh, là những vấn đề rất đời thường, con người, bắt nguồn từ tính-cách-và-môi-trường; trong những cuộc cãi lộn, bọn tôi chỉ là lũ nhóc.

      thực tế đáng chú ý: giờ sinh càng sát nửa đêm, năng lực của bọn tôi càng lớn. Những ai sinh vào những giây cuối của tiếng ấy chỉ ( thực là) hơn quái nhân rạp xiếc đôi chút: những bé có râu, cậu bé mang cặp mang hoàn chỉnh của cá chép Mahaseer, cặp song sinh dính nhau với hai cơ thể lủng lẳng dưới cái đầu và cổ - cái đầu có thể hai giọng, nam, nữ, và đủ mọi ngôn ngữ lẫn thổ ngữ của tiểu lục địa; nhưng bất chấp dị thường của mình chúng vẫn chỉ là những kẻ kém may mắn, những rủi ro sống của giờ linh thiêng ấy. Càng gần nửa tiếng đầu càng xuất những năng lực lý thú và hữu ích hơn - ở rừng Gir có bé phù thủy sờ vào đâu là chữa lành vết thương ở đấy, con trai chủ trại chè giàu có tại Shillong được ban phước (mà cũng có thể là họa) thể quên bất kỳ điều gì cậu ta từng nhìn hay nghe thấy. Song, những đứa trẻ ra đời vào phút đầu tiên – chính những đứa trẻ này được dành tặng những tài năng cao quý nhất mà loài người từng mơ tới. Nếu , Padma, tình cờ sở hữu giấy khai sinh trong đó thời gian được ghi chính xác từng giây, biết hậu duệ nào của đại gia tộc ở Lucknow (chào đời hai mươi mốt giây sau nửa đêm) ở tuổi lên mười thành thạo bí quyết của thuật giả kim thất truyền, nhờ nó cậu ta khôi phục sản nghiệp của gia tộc trâm thế phiệt nhưng suy vi của mình; và đứa con nhà thợ giặt nào từ Madras (mười bảy giây sau) chỉ cần nhắm mắt là bay cao hơn bất cứ loài chim nào; và đứa con trai nhà thợ bạc nào tại Benarsi (mười hai giây sau nửa đêm) được phú cho năng lực du hành vượt thời gian và nhờ vậy có thể tiên đoán tương lai và biết quá khứ... năng lực mà, vốn dĩ trẻ dại, chúng tôi tin tưởng tuyệt đối khi nhắc đến những gì qua và bị lãng quên, nhưng giễu cợt khi cậu ta cảnh cáo về kết cục của chính chúng tôi... may mắn thay, có bút lục nào về những chuyện này; và, về phần mình, tôi tiết lộ - hoặc nếu làm ra vẻ tiết lộ ngụy tạo - tên tuổi và thậm chí cả địa danh; bởi vì, tuy những thông tin này là chứng cứ tuyệt đối cho những gì tôi kể, song giờ đây, sau tất cả mọi chuyện, những đứa trẻ của nửa đêm vẫn xứng đáng được yên; có lẽ được quên; nhưng tôi hy vọng (trong tuyệt vọng) là vẫn nhớ...

      Parvati-phù-thủy sinh ra ở Delhi Cũ, giữa ghetto chen chúc quanh những bậc thềm của Thánh đường Thứ Sáu. Nơi này phải là khu ổ chuột thông thường, mặc dầu những túp lều dựng từ thùng hàng cũ và những miếng tôn lượn sóng và những mảnh bao đay, đứng nhấp nhô chen chúc dưới bóng thánh đường này trông chả khác gì những ngôi nhà xập xệ khác... vì đây là khu trại của những ảo thuật gia, phải, chính nơi sinh ra con Chin ngân nga mà những lưỡi dao rạch nát và bầy chó hoang kịp cứu... cái ổ chuột của giới pháp sư, nơi các fakir và xảo thuật gia và huyễn giả tài ba nhất từ mọi miền lũ lượt đổ về, tìm kiếm vận may tại thủ đô. Cái mà họ thấy là lều tôn, cảnh sát bạo hành, và chuột... Cha Parvati từng là ảo thuật gia lừng lẫy nhất xứ Oudlh; lớn lên giữa những nghệ nhân phúc ngữ có thể bảo đá kể chuyện và nghệ nhân uốn dẻo có thể nuốt chân và người nuốt lửa có thể khạc lửa qua hậu môn và những hề bi có thể khóc ra nước mắt thủy tinh; từng bình thản đứng giữa đám đông há hốc miệng khi cha cắm đinh xuyên cổ ; và suốt thời gian ấy bảo toàn bí mật của riêng ; điều lớn lao hơn bất kỳ trò ảo thuật tầm thường nào quanh ; bởi vì Parvati-phù-thùy, ra đời sau nửa đêm chỉ bảy giây, chính là người được ban tặng quyền năng của bậc chân tài, người khai sáng, thiên tài đích thực về phù chú và pháp thuật, môn nghệ thuật cần xảo thuật.

      Vậy là, trong lũ trẻ nửa đêm, đứa có năng lực biến hình, bay, tiên tri, phù thủy... riêng hai chúng tôi ra đời đúng nửa đêm. Saleem và Shiva, Shiva và Saleem, mũi và đầu gối và đầu gối và mũi... với Shiva, giờ này ban cho gã thiện chiến (của Rama, người giương được cây cung ai giương nổi; của Arjuna và Bhima; dũng khí của Kuru cùng Pandava[8] hợp nhất, ai cản nổi, trong gã!)... còn với tôi là tài năng siêu việt hơn hết - khả năng nhìn thấu trái tim và khối óc của con người.

      [8] Kuru: bộ tộc nổi tiếng là thiện chiến trong sử thi Mahabharata. Bhima và Arjuna là hai trong số năm em Pandava, những chiến binh dũng mãnh bậc nhất ở vương quốc Kuru.

      Nhưng là Kali-Yuga; những đứa trẻ của giờ đêm tối lại chào đời, tôi sợ là, giữa kỷ nguyên của bóng tối; cho nên dù thấy tỏa sáng là việc dễ dàng, chúng tôi lại luôn mơ hồ về việc thế nào là tốt.

      Đấy; tôi ra rồi đấy. Tôi là – chúng tôi là thế đấy.

      Nhìn Padma như thể mẹ vừa chết – vẻ mặt , với cái miệng ngừng há ra ngậm lại, là mặt con cá chim mắc cạn. “Ôi baba!” cuối cùng thốt lên. “Ôi baba! Ông ốm rồi; ông vừa gì vậy?”

      , vậy dễ dàng quá. Tôi từ chối trốn tránh trong bệnh tật . Chớ mắc sai lầm khi xem những gì tôi vừa tiết lộ chỉ toàn là những lời mê sảng; thậm chí những ảo tưởng vĩ cuồng của đứa trẻ độc, xấu xí. Tôi tuyên bố từ trước rằng tôi dụ; những gì tôi viết (và đọc to cho Padma choáng váng) là gì khác ngoài theo nghĩa đen, thề-có-từng-sợi-tóc--đầu-mẹ-tôi.

      thực có thể chứa đựng yếu tố dụ; điều này làm nó ít thực hơn. ngàn lẻ đứa trẻ ra đời; có ngàn lẻ khả năng trước đây chưa hề tồn tại diện ở cùng nơi; và có ngàn lẻ ngõ cụt. Lũ trẻ của nửa đêm có thể được lấy làm đại diện cho nhiều thứ, tùy vào góc nhìn của mỗi người: chúng có thể được xem như ván bài tối hậu của tất thảy những gì cổ hủ và lạc hậu ở đất nước chìm đắm trong thần thoại này của chúng tôi, mà thất bại, trong bối cảnh kinh tế đại hóa thế kỷ 20, là điều hoàn toàn đáng mong ước; hoặc niềm hy vọng đích thực vào tự do, mà giờ đây bị triệt tiêu vĩnh viễn; nhưng chúng thể nào là hư cấu kỳ quặc của đầu óc lèm bèm, bệnh tật. : bệnh tật có chỗ đứng ở đây.

      “Được rồi, được rồi, baba,” Padma cố gắng vỗ về tôi. “Làm gì mà gắt gỏng thế? Ông nghỉ , nghỉ tí, em chỉ cầu có vậy thôi.”



      Những ngày trước sinh nhật thứ mười của tôi hiển nhiên là thời kỳ đầy ảo giác; song ảo giác ở trong đầu tôi. Cha tôi, Ahmed Sinai, bị cái chết phản trắc của Bác sĩ Narlikar và ảnh hưởng ngày càng mạnh mẽ của tửu-tinh-và-tonic xô đẩy, lánh mình vào cõi mộng của những ảo tưởng đáng lo ngại; và khía cạnh ỉ nhất trong suy sụp từ từ của ông đó là, suốt thời gian dài, mọi người nhầm nó với điều hoàn toàn ngược lại... Này là mẹ của Sonny, Nussie-vịt-bầu, trò chuyện cùng Amina tối nọ ngoài vườn: “Nhà chị độ này hạnh phúc, chị Amina, khi Ahmed nhà chị đương độ sung sức! Người đâu mà giỏi giang, vì gia đình phấn đấu làm ăn phát đạt thế đấy!” ta đủ to cho ông nghe thấy; và mặc dù ông vờ như dặn bảo người làm vườn phải làm gì với cây hoa giấy héo, mặc dù ông làm ra vẻ khiêm tốn và nghiêm khắc với bản thân, nó vẫn rất thuyết phục, bởi cái cơ thể núng nính của ông bắt đầu, mà ông ý thức được, tỏ ra vênh váo và khệnh khạng. Ngay tới Purushottam, vị sadhu chán nản dưới vòi nước ngoài vườn, cũng thấy phát ngượng.

      Người cha phai nhạt của tôi... suốt mười năm ông luôn có tâm trạng vui vẻ tại bàn ăn sáng trước khi cạo râu; nhưng khi râu ông ngả trắng theo nước da ngày nhạt dần, cái điểm vui vẻ cố định này còn là tất yếu nữa; và rồi cũng đến cái ngày lần đầu tiên ông nổi cáu vào bữa sáng. Đấy là cái ngày thuế được tăng lên và ngưỡng chịu thuế đồng thời bị hạ xuống; cha tôi ném tờ Thời báo Ấn Độ bằng động tác dữ tợn và trợn mắt nhìn quanh bằng con mắt đỏ sọc mà tôi biết chỉ xuất khi nào ông nổi giận. “Hệt như vệ sinh!” ông bùng nổ, cách bí hiểm; trà trứng bánh mì run lẩy bẩy trước cơn thịnh nộ bộc phát. “Ta vén áo lên và tụt quần xuống! Bà nó, cái chính quyền này vệ sinh đầu chúng ta!” Và mẹ tôi, bừng đỏ dưới làn da ngăm đen, “Janum, bọn trẻ kìa, em xin ,” nhưng ông sầm sập bỏ , để tôi lại với ý niệm ràng về hàm ý của người khác khi họ bảo đất nước này tiêu.

      Trong những tuần tiếp theo cái cằm buổi sáng của cha tôi tiếp tục nhạt dần và chỉ có bình yên ở bàn ăn sáng biến mất: ông bắt đầu quên mất người đàn ông từng là mình trong những ngày tháng trước phản bội của Narlikar. Những nề nếp của đời sống gia đình chúng tôi bắt đầu suy đồi. Ông bắt đầu tránh có mặt ở bàn ăn sáng, để Amina thể dỗ tiền từ ông; nhưng, bù lại, ông trở nên bất cẩn với tiền bạc, quần áo ông thay ra còn đầy cả tiền giấy lẫn tiền xu, thế nên bằng cách móc túi ông bà vẫn kiếm được đủ tiêu. Nhưng chỉ dấu đáng buồn hơn của việc ông rút ra khỏi cuộc sống gia đình là ông hầu như kể chuyện cho chúng tôi vào giờ ngủ nữa, và nếu như ông có kể chúng tôi cũng thích, bởi chúng trở nên nghèo tưởng tượng và kém thuyết phục. Đề tài vẫn vậy, hoàng tử quỷ lùn ngựa bay và những cuộc phiêu lưu đến các xứ sở diệu kỳ, nhưng từ giọng kể chiếu lệ của ông, chúng tôi có thể nghe ra những tiếng kẽo kẹt và rền rĩ của trí tưởng tượng hoen gỉ, mục nát.

      Cha tôi chìm đắm vào con trầm mê. Hình như cái chết của Narlikar và chấm dứt của giấc mơ tetrapod cho Ahmed Sinai thấy bản chất bất trắc của quan hệ giữa người với người; ông quyết định dứt bỏ mọi mối liên hệ kiểu ấy. Ông chuyển sang thức dậy trước hừng đông và nhốt mình cùng ả Fernanda hay Flory thời trong văn phòng ở tầng trệt, mà bên ngoài cửa sổ hai cây xanh cao đến độ ngăn hết hầu hết ánh sáng ban ngày lọt vào. Vì rằng bọn tôi hiếm khi dám làm phiền ông, cha tôi rơi vào cơn đơn sâu, trạng thái ít thấy ở đất nước quá đông đúc của chúng tôi đến mức gần như bất thường; ông bắt đầu từ chối thức ăn nhà nấu để sống bằng những của rẻ của ôi do ả thư ký mua về hằng ngày đựng trong cặp lồng, paratha nguội ngắt và samosa rau nhão nhoét và dăm chai nước có ga. mùi kỳ quái bay ra từ khe cửa văn phòng ông; Amina cho đó là hơi khí tù đọng và thức ăn rẻ tiền; nhưng tôi tin rằng đó là mùi hương cũ, nay trở lại mạnh mẽ hơn, cái mùi xa xưa của thất bại từng lởn vởn quanh ông từ buổi ban đầu.

      Ông bán tháo nhiều chung cư và nhà tập thể ông mua với giá rẻ ngày mới tới Bombay, nền tảng cho phát đạt của gia đình tôi. Nhằm giải phóng mình khỏi mọi mối quan hệ làm ăn với nhân loại – kể cả với những khách trọ vô danh ở Kurla và Worli, ở Matunga và Mazagaon, và Mahim – ông thanh lý bất động sản, để bước vào gian bí hiểm và trừu tượng của đầu cơ tài chính. Nhốt mình ở văn phòng, vào những ngày ấy, mối liên hệ duy nhất của ông với thế giới bên ngoài (trừ các ả Fernanda tội nghiệp) là chiếc điện thoại. Suốt ngày ông chìm trong những cuộc đàm thoại với thiết bị này, trong khi nó rót tiền của ông vào cổ phần abc hay cổ phiếu xyz, trong khi nó đầu tư vào trái phiếu chính phủ hoặc cổ phiếu mất giá, bán thường hay bán khống theo lệnh ông... và luôn luôn kiếm được giá hời nhất trong ngày. Với chuỗi vận may chỉ có thể sánh ngang với thành công của mẹ tôi với bầy ngựa nhiều năm trước, cha tôi và chiếc điện thoại ào ạt đổ bộ vào thị trường chứng khoán, chiến công còn ấn tượng hơn khi xét đến tật nghiện rượu ngày nặng của Ahmed Sinai. Say sưa túy lúy, thế nhưng ông vẫn ngất ngưởng những con sóng trừu tượng của thị trường tiền tệ, phản ứng trước những biến động và thay đổi ngẫu hứng, khó lường của nó theo cách chàng trai phản ứng trước từng ý tưởng phù phiếm nhất của người mình ... ông cảm nhận được khi nào cổ phiếu lên giá, khi nào đạt đỉnh; và bao giờ ông cũng rút ra trước khi sụt giá. Đây là cách ông ngụy trang việc đắm mình trong nỗi đơn trừu tượng của những ngày ôm điện thoại, cách những thắng lợi tài chính của ông che giấu đoạn tuyệt từ từ của ông với thực; nhưng dưới vỏ bọc của khối tài sản liên tục sinh sôi ấy, tình trạng của ông ngày tệ hơn.

      Rốt cuộc ả thư ký mặc váy hoa cuối cùng của ông cũng bỏ , sống nổi trong bầu khí loãng và trừu tượng đến mức khó thở; bấy giờ cha tôi gọi Mary Pereira tới và dỗ bằng, “Mary, chúng ta là bạn, phải , ta và chị?” và người đàn bà tội nghiệp đáp, “Vâng, sahib, em biết; ông chăm nom em lúc em về già,” và hứa giúp ông tìm người thay thế. Hôm sau dắt em mình đến, Alice Pereira, người làm việc với mọi loại ông chủ và có sức chịu đựng gần như vô biên với đàn ông. Alice cùng Mary làm lành từ sau vụ cãi vã về Joe D’Costa; em thường lên gác chơi với tụi tôi vào cuối ngày, mang nét tươi tắn và hoạt bát của đến bầu khí có phần ngột ngạt ở nhà tôi. Tôi mến , và từ chúng tôi mới biết về những hành vi cực đoan nhất của cha tôi, mà nạn nhân là con vẹt đuôi dài và con chó lai.

      Đến tháng Bảy, Ahmed Sinai bước vào trạng thái say xỉn gần như triền miên; hôm, Alice kể lại, ông bỗng nhiên lái xe mất, làm lo nhỡ ông bị làm sao, và bằng cách nào đó rồi cũng trở về được với cái lồng chim phủ vải, trong đó, theo lời ông, là con chim ông mới mua, con bulbul hay họa mi Ấn Độ. “Có Chúa mới biết,” Alice tiết lộ, “ông về chim bulbul với tôi trong bao lâu; đủ mọi chuyện thần tiên về tiếng hót của chúng; vị Calipha bị tiếng hót ấy mê hoặc ra sao, tiếng hót ấy có thể kéo dài thêm vẻ đẹp của đêm thế nào; có Chúa mới biết con người khốn khổ ấy lảm nhảm điều gì, trích dẫn hết tiếng Ba Tư tới Ả Rập, tôi chẳng hiểu mô tê gì. Nhưng khi ông bỏ tấm phủ ra, trong lồng chẳng có gì khác ngoài con vẹt biết , chắc là gã lừa đảo nào đấy ngoài chợ Chor sơn lại lông con vật! Tôi biết làm sao với con người tội nghiệp ấy, quá háo hức với con chim, cứ ngồi đó gọi, “Hót , bulbul bé ! Hót !”... mà buồn cười lắm, ngay trước khi chết vì ngộ độc sơn nó cứ nhại lại lời ông, nguyên xi như thế - cà cộ kiểu chim đâu, mà bằng giọng của chính ông: “Hót ! Bulbul bé , hót !”

      Nhưng như thế chưa phải là tệ nhất. Mấy ngày sau khi ngồi cùng tôi cầu thang xoắn ốc của người hầu, Alice bảo, “Baba, tôi hiểu bây giờ bố cậu bị sao nữa. Cả ngày cứ ngồi đó nguyền rủa con chó!”

      Con chó lai mà nhà tôi gọi là Sherri lững thững leo lên ngọn đồi hai tầng từ đầu năm và cứ thế nhận chúng tôi là chủ, hề biết đời là cuộc hiểm nguy đối với động vật ở Điền trang Methwold; và trong cơn say Ahmed Sinai biến nó thành con chuột lang cho thí nghiệm của ông về lời nguyền của gia tộc.

      Đây chính là lời nguyền hư cấu ông tưởng tượng ra nhằm gây ấn tượng với William Methwold, song giờ đây ở những khoang hóa lỏng của tâm trí ông các tửu tinh thuyết phục ông rằng đó phải là hư cấu, chỉ là ông quên mất những lời đó; vậy là ông ở lì hàng giờ liền trong cái văn phòng độc đến phát điên để thí nghiệm công thức... “Ôi những lời nguyền rủa ông ấy trút lên con vật tội nghiệp!” Alice , “tôi tự hỏi vì sao nó còn chưa lăn ra chết!”

      Nhưng Sherri vẫn ngồi góc và nhe răng cười ngớ ngẩn với ông, dứt khoát ngả tím[9] hay mọc nhọt, cho đến mộ tối nọ, ông bừng bừng rời khỏi văn phòng và lệnh cho Amina chở cả nhà đến Hornby Vellard. Sherri cũng theo. Chúng tôi tản bộ, mặt mũi ngơ ngác, dọc theo Vellard, rồi ông bảo, “Tất cả, lên xe.” Có điều ông cho Sherri lên... khi chiếc Rover do cha tôi cầm lái tăng tốc chạy , nó bắt đầu đuổi theo chúng tôi trong khi con Khỉ gào thét Bốơibốơi còn Amina cầu xin Janumđừngmà còn tôi câm bặt trong kinh hãi, chúng tôi phải chạy hàng cây số, gần hết đường tới sân bay Santa Cruz, trước khi ông báo thù được con chó cái vì nhất định quy phục tà thuật của ông... nó vỡ động mạch khi chạy và chết ộc máu ra từ miệng và hậu môn, dưới cái nhìn của con bò đói.

      [9] Rushdie dùng khái niệm “ngả tím” (turn purple) với nghĩa kép, vừa có nghĩa là tím mặt lại vì tức giận, vừa nghĩa là trở thành quý tộc. Thời La Mã và Byzantine màu tím là màu áo đặc trưng của hoàng đế. Tiếng có thành ngữ born in the purple, nghĩa là sinh ra trong gia đình quyền quý. Ở đây ám chỉ việc Ahmed Sinai bốc phét với Methwold rằng nhà ông là dòng dõi các hoàng đế Mughal.

      Con Khỉ Đồng (vốn hề thích chó) khóc mất tuần liền; mẹ tôi đâm lo nó mất nước, bắt nó uống hàng gallon[10], tưới nước vào nó, theo lời Mary, như thể nó là bãi cỏ; riêng tôi khoái con cún cha tôi mua tặng tôi nhân dịp tôi sinh nhật mười tuổi, hành động có lẽ xuất phát từ thoáng ăn năn: tên nó là Nữ nam tước Simki von der Heiden, và nó có cây phả hệ đầy lèn những con chó nòi Alsace đoạt chức vô địch, mặc dù sau này mẹ tôi phát ra con này cũng giả chả khác gì con bulbul nhái, cũng hư cấu chả khác gì lời nguyền bị lãng quên và tổ tiên Mughal của cha tôi; và sáu tháng sau nó chết vì bệnh hoa liễu. Kể từ đó nhà tôi nuôi con gì nữa.

      [10] gallon = 4,55 lít.



      Cha tôi phải là người duy nhất hướng đến sinh nhật thứ mười của tôi với tâm trí u mê trong mây mù của những giấc mơ; bởi vì còn có Mary Pereira, mải mê theo đuổi thú làm chutney, kasaundy và rau quả dầm đủ kiểu, và bất chấp vẻ hớn hở bề ngoài của em Alice, gương mặt vẫn có vẻ gì đó ám ảnh.

      “Xin chào, Mary!” Padma – người dường như sinh lòng thương cảm người ayah tội lỗi của tôi – chào đón trở lại sân khấu. “Điều gì dằn vặt ấy vậy?”

      Thế này, Padma: bị hành hạ vì những cơn ác mộng giày vò của Joseph D’Costa, Mary ngày càng khó ngủ hơn. Biết những giấc mơ gì đợi mình, ép mình thức; mắt thâm quần, bao phủ lớp màng mỏng, mờ đục; và dần dần, mờ ảo trong cái nhìn của pha trộn tỉnh và mơ thành hai thứ rất giống nhau... tình trạng rất nguy hiểm, Padma. chỉ công việc bị ảnh hưởng, mà có những thứ trong mơ bắt đầu thoát ra ngoài. thực tế, Joseph D’Costa vượt qua ranh giới mơ hồ ấy, và bắt đầu xuất tại Biệt thự Buckingham, phải dưới dạng ác mộng, mà như con ma thực thụ. Chỉ bị mình Mary Pereira (ở thời điểm này) nhìn thấy, gã bắt đầu ám ở khắp nơi trong nhà tôi, nơi gã, trước nỗi kinh hãi và hổ thẹn của , thản nhiên coi như nhà mình. nhìn thấy gã trong phòng khách, ở giữa đám bình pha lê và tượng sứ Dresden và bóng quạt trần xoay tròn, uể oải ngồi ghế bành, đôi chân dài rách rưới vắt qua tay ghế; cặp mắt trắng dã và bàn chân đầy vết rắn cắn. lần thấy gã giường Amina Begum vào buổi chiều, nằm giãi thẻ ngay cạnh mẹ tôi ngủ, và bật thốt, “Ê, này! Cút ra khỏi đây! Ngươi tưởng ngươi là ai, quý tộc à?” - nhưng chỉ khiến mẹ tôi ngơ ngác thức dậy. Hồn ma Joseph theo ám Mary trong câm lặng; và điều đáng sợ nhất là thấy mình bắt đầu quen với gã, thấy những rung động thương bị lãng quên cựa mình thức dậy trong , và mặc dù tự nhủ như thế là rồ dại, trong bắt đầu tràn đầy thứ tình hoài vọng với linh hồn gã hộ lý chết.

      Nhưng tình ấy được đáp lại; cặp mắt trắng dã của Joseph luôn luôn vô cảm; môi gã luôn luôn nụ cười nghiệt ngã, nhạo báng; và rốt cuộc nhận ra rằng cái hồn ma mới này cũng chẳng khác gì gã Joseph-trong-mơ trước kia (mặc dù nó xỉ vả ), và để vĩnh viễn thoát khỏi gã phải làm điều tưởng là thú nhận tội ác của mình với mọi người. Nhưng thú nhận, có lẽ đấy là lỗi của tôi – bởi vì Mary tôi như đứa con trai hoài thai và thể hoài thai của chính , và nếu thú nhận làm tôi tổn thương ghê gớm, thế nên vì tôi chịu đựng hồn ma của lương tâm và đứng bếp trong tình trạng bị ma ám (cha tôi tối say mèm đuổi người đầu bếp) nấu bữa tối cho gia đình tôi, và trở thành, cách tình cờ, thân của dòng mở đầu cuốn sách dạy tiếng Latin của tôi, Ora Maritima: “Bên bờ biển, người ayah nấu ăn.” Ora Maritima, ancilla cenam parat. Nhìn vào mắt của người ayah nấu ăn, rồi ta thấy nhiều hơn mọi cuốn sách giáo khoa.



      Vào sinh nhật thứ mười của tôi, rất nhiều gà về chuồng.

      Vào sinh nhật thứ mười của tôi, ràng là thời tiết bất thường – bão, lũ, mưa đá khi trời gợn mây – tiếp nối cái nóng chịu nổi của năm 1956, phá hỏng Kế hoạch Năm Năm lần thứ hai. Chính phủ buộc phải – mặc dù kỳ bầu cử tới gần – thông báo với quốc tế rằng Ấn Độ thể tiếp nhận thêm viện trợ phát triển, trừ phi bên cho vay sẵn lòng dãn nợ vô thời hạn. (Tuy vậy, tôi phóng đại tình hình: tuy sản lượng thép thành phẩm chỉ đạt 2,4 triệu tấn khi kết thúc Kế hoạch vào năm 1961, và tuy, trong năm năm ấy, số người mất đất và thất nghiệp thực tế gia tăng, cao hơn suốt thời thuộc địa , song cũng có những thành tựu đáng kể. Sản lượng sắt tăng gần gấp đôi; sản lượng điện tăng gấp đôi; sản lượng than tăng vọt từ 38 triệu lên 55 triệu tấn. Bốn triệu rưỡi mét vải tông được sản xuất hằng năm. Ngoài ra là số lượng lớn xe đạp, máy công cụ, động cơ diesel, bơm nước và quạt trần. Nhưng tôi thể kết thúc bằng điều đáng buồn: nạn mù chữ suy suyển; dân số tiếp tục bùng nổ.)

      Vào sinh nhật thứ mười của tôi, chúng tôi đón cậu Hanif đến chơi, người tự làm mình bị ghét ghê gớm tại Điền trang Methwold bằng cách cười hô hố, “Sắp bầu cử rồi! Hãy coi chừng đảng Cộng sản!”

      Vào sinh nhật thứ mười của tôi, khi cậu Hanif lỡ lời, mẹ tôi (người bắt đầu biến mất trong những chuyến “ mua sắm” bí ) liền đỏ mặt tưng bừng cách khó hiểu.

      Vào sinh nhật thứ mười của tôi, tôi được tặng con cún giống Alsace với cây phả hệ giả, con vật rồi sớm chết vì bệnh giang mai.

      Vào sinh nhật thứ mười của tôi, mọi người tại Điền trang Methwold đều cố tỏ ra vui vẻ, nhưng bên dưới lớp vecni mỏng này ai nấy đều bị ám ảnh chung suy nghĩ: “Mười năm, lạy Chúa! Chúng đâu! Ta làm gì?”

      Vào sinh nhật thứ mười của tôi, ông già Ibrahim tuyên bố ủng hộ đảng Maha Gujarat; xét đến chuyện chiếm hữu thành phố Bombay, ông già đặt cửa vào bên thua cuộc.

      Vào sinh nhật thứ mười của tôi, gương mặt đỏ bừng khơi dậy nghi ngờ trong tôi, tôi rình mò suy nghĩ của mẹ tôi; và những gì tôi thấy dẫn tôi đến chỗ theo dõi bà, đến chỗ trở thành tay thám tử táo tợn như huyền thoại Dom Minto của Bombay, và đến những khám phá trọng đại ở và trong vùng phụ cận của quán café Pioneer.

      Vào sinh nhật thứ mười của tôi, tôi có bữa tiệc, với có mặt của gia đình tôi, vốn quên mất cách vui vẻ, của đám bạn cùng lớp từ trường Cathedral, được bố mẹ gửi đến, và số tay bơi nữ của bể bơi Breach Candy, mấy con bé vẫn cho con Khỉ Đồng lân la chơi cùng và nắn cơ bắp của chúng; về phía người lớn, có Mary và Alice Pereira, nhà Ibrahim và Homi Catrack và cậu Hanif và Mợ Pia, và Lila Sabarmati, người mà ánh mắt của cả lũ con trai (và cả Homi Catrack) đều dính chặt vào, trước vẻ khó chịu ra mặt của Pia. Nhưng thành viên duy nhất của hội đồi có mặt là thằng Sonny Ibrahim trung thành, người bất chấp lệnh cấm đối với bữa tiệc do Evie Burns cay cú ban ra. Nó chuyển đến tôi thông điệp: “Evie bảo với mày rằng mày bị trục xuất khỏi băng.”

      Vào sinh nhật thứ mười của tôi, Evie, Mắt Chẻ, Tóc Dầu và cả thằng Cyrus-đại-đế xông vào chỗ trốn bí mật của tôi; bọn nó chiếm tháp đồng hồ, và tống tôi ra khỏi nơi trú .

      Vào sinh nhật thứ mười của tôi, Sonny có vẻ vui, và con Khỉ Đồng tách ra khỏi đám vận động viên bơi và cực kỳ tức giận Evie Burns. “Em cho bài học,” nó bảo tôi. “ cứ yên tâm, trai; em cho nó nếm mùi.”

      Vào sinh nhật thứ mười của tôi, bị lũ trẻ bỏ rơi, tôi phát ra năm trăm tám mươi mốt đứa trẻ khác cũng mừng sinh nhật; nhờ vậy tôi khám phá ra bí mật về giờ sinh gốc của mình; và, vừa bị trục xuất khỏi băng, tôi quyết định tự lập băng của mình, cái băng trải suốt chiều dài và chiều rộng của đất nước, và có tổng hành dinh đặt sau hàng lông mày của tôi.

      Vào sinh nhật thứ mười của tôi, tôi ăn cắp chữ viết tắt của Metro Cub Club – đồng thời cũng là tên viết tắt của hội cricket du đấu – và lấy nó đặt cho Hội nghị Những đứa trẻ Nửa đêm[11], cái M.C.C. của chính tôi.

      [11] Nguyên văn Mildnight Children’s Conference.



      Khi tôi lên mười mọi chuyện như thế đấy: bên ngoài đầu tôi chỉ toàn rắc rối, ở trong toàn những diệu kỳ.

    2. banglangtrang123

      banglangtrang123 Well-Known Member Staff Member Super Moderator

      Bài viết:
      26,213
      Được thích:
      47,825
      Chương 15: Ở quán café Pioneer




      có màu gì ngoại trừ màu xanh và đen tường màu xanh trời màu đen ( có mái nhà) sao màu xanh mụ Góa phụ màu xanh nhưng tóc mụ đen. Mụ Góa phụ ngồi cái ghế cao cao cái ghế màu xanh mặt ghế màu đen tóc mụ rẽ ngôi giữa bên trái xanh bên phải đen. Trời cao vòi vọi cái ghế xanh mặt ghế đen cánh tay mụ Góa phụ dài như thần chết da tay màu xanh móng tay dài và sắc và đen. Giữa bốn bức tường là lũ trẻ màu xanh tường màu xanh cánh tay mụ Góa phụ vươn dài như rắn con rắn màu xanh lũ trẻ rú lên móng tay mụ đen chúng cào cánh tay mụ Góa phụ lùa lũ trẻ chạy và rú lên bàn tay mụ Góa phụ cuốn quanh chúng xanh và đen. Và giờ từng đứa bị tiếng ú ớ bị bóp nghẹt tay mụ Góa phụ nhấc lên từng đứa lũ trẻ màu xanh máu chúng màu đen chảy ra dưới những móng tay khía vào tung tóe màu đen lên tường (màu xanh) cứ từng đứa bàn tay cong cong nhấc lũ trẻ lên cao tít bầu trời đen kịt có bóng sao mụ Góa phụ cười lưỡi mụ màu xanh nhưng răng mụ đen. Và lũ trẻ bị xé thành hai mảnh dưới hai bàn tay mụ Góa phụ chúng vo vo từng nửa đứa trẻ vo chúng thành những quả bóng bóng màu xanh đêm màu đen. Và từng quả bóng bay vào trời đêm giữa những bức tường lũ trẻ rú rít khi từng đứa qua tay mụ Góa phụ. Và trong góc con Khỉ với tôi (tường màu xanh bóng tối màu đen) bò rúm bò ró tường cao rộng xanh lẫn với đen có mái nhà và bàn tay mụ Góa phụ vươn ra từngđứamột bọn trẻ thét lên và ú ớ và những quả bóng và bàn tay la thét và ú ớ và từng vũng đen bắn tung tóe. Giờ chỉ còn mụ và tôi còn tiếng thét bàn tay mụ Góa phụ vươn ra lùa bắt lùa bắt da mụ xanh móng tay mụ đen xòe vào góc lùa bắt lùa bắt trong khi bọn tôi co rúm lại ở trong góc da bọn tôi màu xanh nỗi sợ màu đen và giờ Bàn Tay vươn tới vươn tới và nó em tôi đẩy tôi khỏi góc còn nó rúm ró ngó trân trân bàn tay móng tay cong cong la thét và ú ớ và màu đen bắn tung tóe và cao tít lên trời và mụ Góa phụ cười vang xé toang tôi vo thành những quả bóng bóng màu xanh và bay vào đêm đêm màu đen...

      Hôm nay cơn sốt dứt. Suốt hai ngày (tôi nghe vậy) Padma ngồi thâu đêm bên tôi, đắp khăn lạnh lên trán tôi, ôm tôi qua từng cơn co giật và giấc mơ về bàn tay mụ Góa phụ; suốt hai ngày tự oán trách mình vì phương thuốc thảo dược vô danh của . “Nhưng,” tôi trấn an , “lần này, phải vì thế đâu.” Tôi nhận ra cơn sốt này; nó xuất phát từ trong tôi chứ phải đâu khác; giống như mùi hôi, nó bốc ra qua những kẽ nứt của tôi. Tôi lên cơn sốt đúng như thế này vào ngày sinh nhật thứ mười, và nằm liệt giường hai ngày; giờ đây, khi ký ức bắt đầu rỉ khỏi tôi, cơn sốt cũ này trở lại. “Đừng lo,” tôi , “tôi nhiễm thứ vi khuẩn này từ gần hai mươi mốt năm trước.”

      Ở đây chỉ có chúng tôi. là buổi sáng tại nhà máy rau quả dầm; mọi người đưa con trai tôi đến thăm tôi. Ai đó (là ai quan trọng) đứng cạnh Padma bên giường tôi, bế con tôi tay. “Baba, ơn Chúa là khỏe, hình dung nổi gì khi mê sảng đâu.” Ai đó lo lắng cất lời, cố gắng chen chân vào câu chuyện của tôi trước thời điểm; nhưng ăn thua... ai đó, chủ nhân sáng lập nhà máy rau quả dầm này, cũng như công việc phụ trợ của nó là đóng chai, người chăm sóc đứa con ai hiểu được của tôi, như từng... khoan ! Chỉ chút nữa là người này dụ được tôi ra, nhưng may thay tôi hãy còn tỉnh táo, dù có sốt hay ! Ai đó phải lùi lại và tiếp tục danh chờ đến lượt; và thế nghĩa là phải đợi đến phút chót. Tôi đưa mắt từ người đó sang Padma. “Chớ có nghĩ,” tôi quở trách , “rằng vì tôi sốt, mà những gì tôi kể hoàn toàn chính xác. Mọi chuyện xảy ra đúng như tôi miêu tả.”

      “Trời ơi, ông và những câu chuyện của ông,” kêu lên, “suốt ngày, suốt đêm – ông tự làm mình đổ ốm! Nghỉ tí, nào, có chết ai đâu?” Tôi mím môi lại đầy bướng bỉnh; và giờ , đột nhiên đổi giọng: “Nào, em nghe: ông có thích món gì ?”

      “Chutney xanh,” tôi đòi, “Xanh non – xanh như châu chấu.” Và người tôi thể nhắc tên nhớ ra và bảo Padma, “Ta hiểu ý nó rồi.”

      ... Tại sao, vào thời điểm quyết định này, khi đủ mọi thứ chờ để được tường thuật – khi quán café Pioneer ở rất gần, rồi kình địch giữa đầu gối và mũi nữa – tôi lại đưa món gia vị vào cuộc đối thoại? (Tại sao tôi lại phí thời gian, của câu chuyện này, vào món rau quả dầm quê mùa, trong khi tôi có thể miêu tả kỳ bầu cử năm 1957, khi cả Ấn Độ chờ đợi, hai mươi mốt năm về trước, bỏ phiếu?). Bởi vì tôi đánh hơi; và nhận thấy, sau vẻ mặt lo âu của những người đến thăm, làn hơi sặc mùi nguy hiểm. Tôi quyết tâm tự vệ; nhưng tôi cần trợ giúp của chutney…

      Cho đến bây giờ tôi vẫn chưa giới thiệu cho quý vị nhà máy lúc ban ngày. Đây là những gì chưa được miêu tả: qua lớp cửa kính xanh nhạt, phòng tôi trông ra cầu treo bằng sắt rồi nhìn xuống tầng chế biến, nơi những vại đồng sôi lục bục, nơi những phụ nữ tay khỏe đứng bậc gỗ, khuấy những cái muôi cán dài qua làn hơi chua ngắt của dung dịch ngâm; trong khi (nhìn về phía kia, qua ô cửa xanh nhạt trông ra thế giới) đường ray tỏa ánh sáng đục dưới nắng sớm, nối nhau cách quãng đều đặn ở là hàng cột tín hiệu rối bù của hệ thống điện khí hóa. Vào ban ngày, nữ thần neon màu xanh-và-nghệ của chúng tôi nhảy múa bên cửa nhà máy; chúng tôi tắt nàng để tiết kiệm điện. Nhưng xe điện vẫn tiêu thụ năng lượng: từng đoàn tàu nội hạt màu vàng-và-nâu xình xịch chạy về phía Nam đến Ga Churchgate từ Dadar đến Borivli, từ Kurla và đường Bassein. Hàng đàn ruồi người đậu dày thành từng lớp áo choàng quần trắng quanh tàu; và tôi phủ nhận rằng, bên trong nhà máy, quý vị cũng có thể thấy ruồi. Nhưng để bù lại cũng có thạch sùng, nằm ngửa bất động trần nhà, má của chúng gợi nhớ đến bán đảo Kathiawar... cả các thanh cũng chờ được nghe thấy: tiếng vại rau quả dầm sôi sục, tiếng hò hát vang trời, tiếng chửi rủa thô tục, những câu đùa tục tĩu của đám phụ nữ tay lông lá; tiếng nhắc nhở thính mũi mỏng môi của đốc công; tiếng lanh canh lan khắp nơi của dây chuyền đóng chai nằm kế bên; và tiếng tàu hỏa rầm rập, và tiếng vo ve ( thường xuyên, song tránh khỏi) của lũ ruồi... trong khi chutney màu xanh châu chấu được chiết từ vại ra, được đem lên cái đĩa vừa được lau sạch, có những vạch màu nghệ và xanh ở viền, cùng với đĩa bánh đầy tú hụ bánh trái từ cửa hàng Iran gần đó; trong khi những-gì-bây-giờ--được-giới-thiệu diễn ra như thường lệ, và những gì bây-giờ-có-thể-nghe-thấy tràn ngập trong khí (chưa kể những thứ có thể ngửi thấy), tôi, mình giường, trong văn phòng, giật mình nhận ra rằng việc dã ngoại được đề xuất. “... Khi khỏe hơn,” người thể nhắc tên , “ ngày ở Elephanta, sao lại , làm chuyến xuồng máy, trong động phù điêu đẹp tuyệt vời; hay là Bãi Juhu, bơi, uống nước dừa và xem đua lạc đà; thậm chí Aarey Milk Colony nữa!...”[1] Và Padma, “ khí trong lành, phải rồi, và cậu bé thích cùng bố.” Và người nọ, vỗ vỗ đầu con trai tôi: “Rồi, tất nhiên rồi, cả nhà ta . Picnic; dã ngoại. Baba, như vậy tốt cho ...”

      [1] Đây là những địa danh du lịch nổi tiếng ở Bombay. Elephanta là hòn đảo ngoài khơi Bombay, có hệ thống các hang động được điêu khắc công phu trong giai đoạn từ thế kỷ 5 đến 8.

      Khi chutney vào, do người hầu bưng, tới phòng tôi, tôi vội vàng đặt dấu chấm hết cho những đề xuất ấy. “,” tôi từ chối. “Tôi còn phải làm việc.” Và tôi thấy ánh mắt trao đổi giữa Padma và người kia; và tôi hiểu mình nghi ngờ đúng. Bởi vì tôi từng bị lừa dã ngoại lần rồi! lần, những nụ cười và gợi ý giả tạo về Aarey Milk Colony đánh lừa tôi ra khỏi nhà và leo lên chiếc xe; và rồi đột nhiên có những bàn tay tóm lấy tôi, có những hành lang bệnh viện và bác sĩ và y tá giữ chặt tôi trong khi chiếc mặt nạ ụp thuốc tê xuống mũi tôi và giọng vang lên, Đếm , đếm đến mười... Tôi biết họ mưu tính gì. “Nghe này,” tôi , “tôi cần bác sĩ.”

      Và Padma, “ Bác sĩ? Ai bảo cần b...” Nhưng chẳng lừa được ai hết; và tôi mỉm cười , “Nào, cả nhà, ăn chutney . Tôi có vài chuyện quan trọng muốn kể cho mọi người.”

      Và trong khi chutney – chính thứ chutney mà, hồi năm 1957, người ayah Mary Pereira của tôi làm tuyệt hảo; thứ chutney màu xanh châu chấu vĩnh viễn gắn liền với những ngày tháng ấy – đem họ quay lại thế giới quá khứ của tôi, trong khi chutney làm họ mềm môi và dễ tiếp nhận, tôi chuyện với họ, dịu dàng, đầy thuyết phục, và nhờ vào hỗn hợp của gia vị và thuật hùng biện, giữ mình thoát khỏi bàn tay đám lang băm nguy hiểm. Tôi bảo: “Con trai tôi hiểu. Tôi kể chuyện đời mình cho nó, cũng là cho mọi sinh linh khác, cốt để sau này, khi tôi bại trong cuộc chiến với những vết nứt, nó biết. Đạo đức, nhận định, tính cách... tất cả đều bắt đầu với ký ức... và tôi sao lưu.”

      Chutney xanh pakora cay, trôi xuống dạ dày ai đó; màu xanh châu chấu chapati nhạt, biến mất sau đôi môi Padma. Tôi thấy họ yếu dần, bèn ép tới. “Tôi chỉ kể ,” tôi lại lần nữa. “ của ký ức, bởi vì ký ức có riêng của nó. Nó lựa chọn, xóa bỏ, sửa đổi, phóng đại, giảm thiểu, tôn vinh, và bôi nhọ nữa; nhưng cuối cũng nó tại ra thực của riêng nó, phiên bản đa dạng nhưng thường khá nhất quán của các kiện; và người tỉnh táo nào lại tin phiên bản của người khác hơn của chính mình.”

      Phải: tôi “tỉnh táo”. Tôi biết họ nghĩ gì: “Nhiều đứa trẻ chế ra bạn bè tưởng tượng; nhưng ngàn lẻ đứa! Thế điên quá!” Những đứa trẻ nửa đêm lay chuyển niềm tin của Padma đối với câu chuyện của tôi; nhưng tôi đưa về nẻo chính, và giờ ai nhắc đến chuyện dã ngoại nữa.

      Tôi thuyết phục họ ra sao: bằng cách về con trai tôi, người cần phải biết câu chuyện của tôi; bằng cách giải thích quá trình vận động của ký ức; và bằng các phương tiện khác, cái thành đến ngây thơ, cái ranh ma như chồn cáo. “Ngay cả Muhammad,” tôi , “lúc đầu cũng cho rằng mình bị điên: hai người tưởng ý nghĩ ấy chưa từng nảy ra trong óc tôi? Nhưng Đấng Tiên tri có Khadija, có Abu-Bakr để bảo chứng cho ông về chân thực của Tiếng gọi; ai phản bội ông khiến ông vào tay lũ bác sĩ tâm thần.” Lúc này, chutney xanh lấp đầy tâm trí họ những suy tưởng của nhiều năm về trước; tôi thấy khuôn mặt họ xuất vẻ tội lỗi, và hổ thẹn. “ là gì?” Tôi hỏi tu từ, “Thế nào là tỉnh trí? Liệu Jesus có sống dậy từ dưới mồ? Người Hindu có thừa nhận – Padma – thế giới là thứ giấc mơ; rằng Brahma mơ, và mơ thành vũ trụ; rằng chúng ta chỉ thấy lờ mờ qua lưới-mộng, nghĩa là Maya. Maya,” tôi lấy giọng giảng giải, cao đạo, “có thể được định nghĩa là tất cả những gì hư ảo; là lừa gạt, giả tạo và trá ngụy. Quỷ hồn, u linh, ảo tượng, xảo thuật, hình thái bề ngoài của vật: tất cả đều là thành phần của Maya. Nếu tôi có những chuyện xảy ra, những chuyện mà mọi người, lạc lối trong giấc mơ của Brahma, thấy khó tin, trong chúng ta ai đúng ai sai? Ăn chutney nữa ,” tôi duyên dáng thêm, và tự mình lấy thêm kha khá. “Rất là ngon đấy.”

      Padma bắt đầu khóc. “Em chưa bao giờ rằng em tin,” sùi sụt. “Dĩ nhiên, ai cũng có cách kể chuyện của riêng mình; nhưng...”

      “Nhưng,” tôi cắt ngang đầy quả quyết, “ cũng muốn - phải – biết điều gì xảy ra? Về những bàn tay nhảy múa mà chạm, và đầu gối? Và sau đó, cây ba toong kỳ lạ của Trung tá Sabarmati, và dĩ nhiên về mụ Góa phụ? Và lũ trẻ - chúng ra sao?”

      Và Padma gật đầu. Phát mệt với bác sĩ với viện tâm thần; mọi người để yên cho tôi viết ( mình, trừ có Padma dưới chân tôi). Chutney và tài hùng biện, thần học và tò mò: đây là những thứ giải cứu tôi. Còn thứ nữa – gọi nó là giáo dục, hay đẳng cấp xuất thân; Mary Pereira hẳn bảo đó là nết “con nhà nòi”. Bằng cách phô trương học vấn và bằng thuần khiết trong khẩu ấm, tôi làm họ hổ thẹn tới chỗ cảm thấy đủ tư cách phán xét tôi; hành động đàng hoàng cho lắm, nhưng khi xe cấp cứu phục sau góc phố, cách nào cũng hợp lệ. (Nó ở đấy : tôi ngửi thấy.) Gì gì, tôi lời cảnh báo quý giá. Cố gắng áp đặt cách nhìn vật của mình lên người khác là điều nguy hiểm.

      Padma: nếu có chút nghi ngờ độ khả tín của tôi, ờ, nghi ngờ đôi chút có gì sai. Đàn ông ngạo mạn thường mắc những sai lầm ghê gớm. Đàn bà cũng vậy.

      Trong khi đó, tôi mười tuổi, và tìm cách trốn vào cốp xe của mẹ tôi.

      Đó chính là tháng khi Purushottam vị sadhu (người tôi chưa hề thổ lộ về cuộc sống bên trong của tôi) cuối cùng tuyệt vọng về tồn tại bất động của mình, và mắc chứng nấc trí mạng hành hạ ông cả năm, thường xuyên giật người ông lên khỏi mặt đất mấy tấc làm cái đầu nước xói trọc lốc của ông đập cách đáng ngại vào cái vòi nước, và cuối cùng giết chết ông, khiến tối nọ vào giờ cocktail, ông gục sang bên khi chân vẫn xếp bằng tròn, bỏ lại đám mụn cóc của mẹ tôi vô phương cứu chữa; khi tôi thường đứng ngoài vườn của Biệt thự Buckingham về tối, ngắm từng vệ tinh Sputnik bay ngang trời, và cảm thấy vừa hoan hỉ vừa đơn như Laika bé bỏng, con chó đầu tiên và vẫn là duy nhất được phóng vào vũ trụ (nữ nam tước Simki von der Heiden, sắp mắc chứng giang mai, đứng cạnh tôi, dõi theo đốm sáng của Sputnik II bằng đôi mắt Alasce – đó là thời kỳ loài chó đặc biệt quan tâm tới cuộc đua vào gian; khi Evie Burns và băng của nàng chiếm cứ tháp đồng hồ của tôi, còn tủ giặt bị cấm và trở nên quá , thế nên để đảm bảo bí mật và tỉnh táo, tôi buộc phải giới hạn việc viếng thăm bọn trẻ nửa đêm vào thời điểm riêng tư, lặng lẽ của riêng chúng tôi – tôi giao tiếp với chúng mỗi nửa đêm và chỉ vào nửa đêm, múi giờ dành riêng cho những điều kỳ diệu, và vì lý do nào đấy nằm ngoài thời gian; và khi – để vào vấn đề - tôi quyết tâm chứng minh, bằng cách tai nghe mắt thấy, điều khủng khiếp tôi thoáng thấy khi ngồi đằng trước trong tâm trí mẹ tôi. Kể từ khi tôi trốn trong tủ giặt và nghe được hai tiết tai tiếng này, tôi nghi ngờ người mẹ đầy bí mật của mình; những lần đột nhập dòng suy nghĩ của bà khẳng định những nghi ngờ ấy; vậy là với ánh mắt kiêng định, và quyết tâm sắt đá, tôi viếng thăm Sonny Ibrahim vào buổi chiều sau giờ học, với ý định cầu viện giúp đỡ của nó.

      Tôi tìm thấy Sonny trong phòng nó, tứ bề treo đầy poster võ sĩ đấu bò Tây Ban Nha, đương rầu rĩ chơi Cricket Trong Nhà mình. Thấy tôi, nó buồn bã thốt lên, “Ê mày tao rất xin lỗi về vụ Evie con chịu nghe ai cả mà rốt cuộc mày làm cái quái gì nó thể hở?”... Nhưng tôi oai vệ giơ tay lên, ra lệnh và nhận được im lặng.

      “Bây giờ phải lúc,” tôi . “Vấn đề là, tao cần biết cách mở khóa cần chìa.”

      về Sonny Ibrahim: bất chấp mọi giấc mơ võ sĩ đấu bò, thiên tài của nó nằm ở vương quốc của đồ cơ khí. Lâu nay, nó đảm nhiệm việc bảo dưỡng tất cả xe đạp ở Điền trang Methwold đổi lấy truyện tranh và nguồn cung cấp nước ngọt có ga miễn phí. Ngay cả Evelyn Lilith Burns cũng gửi gắm chiếc Indiabike quý cho nó chăm sóc. Dường như mọi thứ máy móc đều bị chinh phục bởi niềm hoan hỉ hồn nhiên của nó khi nâng niu mỗi bộ phận chuyển động của chúng; thiết bị nào cưỡng nổi săn sóc của nó. cách khác: Sonny Ibrahim trở thành (thuần túy bắt nguồn từ khát khao khám phá) tay mở khóa thiện nghệ.

      Giờ đây khi có cơ hội chứng tỏ lòng trung thành với tôi, mắt nó sang lên. “Mày cứ để đấy tao! Dẫn tao đến đó!”

      Khi chắc chắn bị ai chú ý, bọn tôi bò dọc lối giữa Biệt thự Buckingham và Sans Souci của nhà Sonny; bọn tôi đứng sau chiếc Rover cũ của nhà tôi; và tôi trỏ cái cốp xe. “Đây này,” tôi bảo, “tao cần mở được từ bên ngoài, và cả bên trong nữa.”

      Mắt Sonny mở to. “Ê, mày mưu tính gì thế? Định bí mật bỏ nhà ra hả?”

      Để ngón tay lên môi, tôi làm bộ bí hiểm. “ được, Sonny,” tôi nghiêm trang đáp, “thông tin tuyệt đối bí mật.”

      “Trời ơi,” Sonny , và trong ba mươi giây nó chỉ cho tôi cách mở cốp xe bằng mẩu nhựa mảnh màu hồng. “Mày giữ lấy,” Sonny Ibrahim bảo, “Mày cần nó hơn tao.”



      Ngày xửa ngày xưa có bà mẹ, người, để có thể làm mẹ, đồng ý đổi tên; người đề ra cho mình nhiệm vụ phải sinh lòng chồng từng chút , nhưng lại thể được bộ phận, cái bộ phận, lạ lùng thay, lại biến giấc mơ làm mẹ của bà thành có thể; người có đôi chân tập tễnh vì mụn cóc và đôi vai oằn xuống dưới chất chồng tội lỗi của thế gian; người có đức ông chồng mà cái bộ phận thể được thể hồi phục sau tác động của vụ đóng băng; và người, cũng như chồng mình, cuối cùng bị bí hiểm của điện thoại cám dỗ, dành thời gian nghe lời những người gọi nhầm số... lâu sau sinh nhật thứ mười của tôi (khi tôi hồi phục sau cơn sốt vừa quay về hành hạ tôi sau gần hai mươi mốt năm cách quãng), mới đây Amina Sinai nối lại thói quen là đột nhiên lên đường, và luôn ngay sau cuộc gọi nhầm, thực những cuộc mua sắm khẩn cấp. Nhưng giờ, trốn trong cốp chiếc Rover, đồng hành cùng bà là tên lậu vé, nằm trốn trong và được che chở của mấy tấm nệm ăn cắp, tay nắm chặt mẩu nhựa mảnh màu hồng. Chao ôi, những vất vả ta phải chịu đựng nhân danh đạo lý! Những va đập và bầm tím! Những hít thở bầu -khí-cốp-xe ốp cao su qua hàm răng lập cập! Và thường trực, nỗi sợ bị phát ... “Nhỡ mẹ mua sắm sao? Nhỡ tự nhiên cốp xe bật mở? Nhỡ lũ gà sống bị tống vào, chân bị trói, cánh bị nẹp, lũ gà cánh đập phành phạch mỏ mổ túi bụi xâm nhập nơi náu của tôi? Nhỡ bà thấy tôi, lạy Chúa, tôi phải im lặng tuần liền!”

      Đầu gối tôi co lại dưới cằm – được bảo vệ khỏi va vào gối bằng mảnh nệm cũ sờn – tôi lên đường đến nơi chưa biết trong cỗ xe của bất chính mang tên người mẹ. Mẹ tôi lái xe rất cẩn thận; bà chậm, kỹ lưỡng ở từng cú rẽ; nhưng cuối cùng tôi vẫn thâm tím đầy người và bị Mary Pereira rầy la ra trò vì tội gây đánh nhau.

      “Lạy Chúa lòng lành nhờ giời nên chúng nó mới giã cậu nát thành từng mảnh Chúa ở rồi ra lớn lên cậu thành thứ gì biết hả đồ da đen hư đốn đồ haddi-phaelwan[2] đồ đô vật da bọc xương!”

      [2] Tiếng Hindi, cũng có nghĩa là đô vật da bọc xương; haddi nghĩa là gầy guộc.

      Để tạm quên bóng tối rung xóc, tôi thâm nhập vào, với thận trọng tối đa, phần tâm trí đảm nhiệm việc lái xe của mẹ tôi, và nhờ vậy có thể nắm được lộ trình chuyến . (Và cũng phát , trong tâm trí thường ngày ngăn nắp của mẹ tôi, mức độ xáo trộn đáng báo động. Từ hồi ấy, tôi bắt đầu phân loại mọi người theo mức độ ngăn nắp bên trong, và nhận ra mình thích típ người bừa bãi hơn, những người mà suy nghĩ, vốn ngừng tràn sang nhau khiến những hình ảnh mong ngóng đồ ăn chen vào những toan tính nghiêm túc để kiếm sống còn những huyễn tưởng tình dục in hằn lên những suy tư chính trị, có mối liên hệ gần gũi với bộ não ngổn ngang trăm thứ bà rằn của tôi, nơi mọi thứ đụng đầu nhau, và điểm trắng của ý thức nhảy tứ tung như con bọ chét hết thứ này sang thứ khác... Amina Sinai, người mà bản năng sắp xếp cần mẫn ban cho trí não ngăn nắp đến gần như bất thường, là ca tuyển mộ kỳ lạ vào hàng ngũ của hỗn loạn.)

      Chúng tôi về phía Bắc, qua bệnh viện Breach Candy và đền Mahalaxmi, về phía Bắc dọc theo Horaby Vellard, qua sân vận động Vallabhbhai Petel và đảo lăng Haji Ali, phía Bắc của nơi từng là (trước khi giấc mơ của William Methwold đầu tiên thành thực) đảo Bombay. Chúng tôi hướng tới quần thể vô danh những chung cư và làng chài và xưởng dệt và studio phim mà thành phố này chuyển hóa thành ở vùng phía Bắc ( xa đây đâu! hề xa nơi tôi ngồi và thấy các đoàn tàu địa phương!)... khu vực mà, hồi đó, hoàn toàn xa lạ với tôi; tôi nhanh chóng bị mất phương hướng và buộc phải tự thừa nhận mình bị lạc. Rốt cuộc, đến cuối con đường nhánh đầy người-ngủ-trong-ống-cống và tiệm sửa xe và người lớn và trẻ con nhếch nhác, chúng tôi dừng lại. lũ trẻ con bu lấy mẹ tôi khi bà bước xuống; bà, người nỡ xua con ruồi, phân phát những đồng xu , vì vậy càng khiến đám đông phình ra ghê gớm. Cuối cùng, bà cũng vùng vẫy thoát ra được và về cuối phố; thằng bé nài nỉ “Nau se , Begum? Nau se số hạng nhất đây, Begum? Con trông xe đến khi bà về, Begum? Con trông xe chuẩn lắm, bà hỏi mà xem!”... kinh hãi, tôi chờ đợi bà trả lời. Làm sao tôi chui từ cốp xe ra được dưới mắt thằng nhãi trông xe này? Nó phiền toái đành; và hơn nữa, việc tôi chui ra gây chú ý phố... mẹ tôi đáp, “.” Bà biến mất ở cuối đường; thằng nhãi lau và trông xe hụt sau cùng cũng bỏ cuộc; có khoảnh khắc khi mọi con mắt đều đổ dồn vào chiếc xe thứ hai chạy qua, vì ngộ nhỡ nó cũng đỗ lại và thả xuống quý bà cho tiền xu như cho lạc; và vào thời điểm đó (tôi quan sát từ vài cặp mắt để chọn thời điểm thích hợp) tôi thi triển tuyệt chiêu với mảnh nhựa hồng và trong nháy mắt đứng đường cạnh cốp xe đóng kín. Mím chặt môi đầy cương quyết, phớt lờ mọi bàn tay chìa ra, tôi cất bước theo hướng mẹ tôi vừa , gã thám tử tí hin với cái mũi chó săn và cái trống gõ vang rền ở nơi đáng lẽ là trái tim tôi... và tới trước cửa, vài phút sau đó, và quán Café Pioneer.

      Kính bẩn ở cửa sổ; kính bẩn bàn – Pioneer Café chả là gì nếu so sánh với những Gaylord hay Kwality ở phần huy hoàng hơn của thành phố; cơ ngơi lúi xùi, với dăm tấm biển sơn quảng cáo LASSI LUNG LING và FALOODA PHI PHÀM và BHELPURY ĐÚNG CHẤT BOMBAY, với nhạc phim phát ra từ chiếc đài rẻ tiền đặt bên quầy thu ngân, gian phòng dài hẹp xanh xao trong ánh đèn tuýp lập lòe, thế giới cấm kỵ nơi những gã đàn ông răng sứt ngồi quanh mấy chiếc bàn bọc vải giả da với bộ bài nhàu nát và ánh mắt vô cảm. Nhưng bất chấp tất cả vẻ hoang tàn ảm đạm ấy, Pioneer Café là nơi ký gửi rất nhiều mộng ước. Hằng sáng, nơi này đầy rẫy những kẻ vô công rồi nghề đẹp mã nhất thành phố, mọi gã du côn và tài xế taxi và buôn lậu mạt hạng và mách nước đua ngựa, những kẻ từng, lâu rồi, đến thành phố này với giấc mơ về ngôi sao điện ảnh, về những ngôi nhà thiếu thẩm mỹ đến dị dạng và những khoản thu nhập trốn thuế; vì cứ sáu giờ sáng, các studio lớn cử mấy gã chạy vặt đến Pioneer Café để lùa diễn viên quần chúng cho buổi quay ngày hôm đó. Trong vòng nửa giờ mỗi sáng, khi D.W. Ram Studio và Filmistan Talkies và R.E. Films tuyển người, Pioneer là nơi hội tụ mọi tham vọng và ước mơ của thành phố; sau đó đám tuyển trạch viên rút , dẫn theo những kẻ may mắn của ngày hôm đó, và quán cà phê vắng dần về trạng thái trì trệ quen thuộc với ánh đèn tuýp. Vào giờ ăn trưa, nhóm giấc mơ khác đặt chân đến quán, để dành cả chiều vùi đầu quanh cỗ bài và Lassi Lung Linh và biri[3] nặng – những con người khác với những niềm hy vọng khác: khi đó tôi chưa nhưng buổi chiều Pioneer có tiếng là nơi lui tới của đảng Cộng sản. Khi đó là buổi chiều, tôi nhìn thấy mẹ tôi vào Pioneer Café; dám theo bà, tôi đứng ngoài đường, gí mũi vào góc cửa kính nhem nhuốc phủ mạng nhện; mặc kệ mọi ánh mắt soi mói – vì bộ đồ trắng của tôi, dù bị cốp xe vấy bẩn, vẫn được hồ cứng; tóc tôi, dù bị cốp xe làm rối, vẫn được xức dầu kỹ lưỡng; giày tôi, dù bị trầy xước, vẫn là đôi giày đế kếp của con nhà giàu – tôi dõi theo bà khi bà ngập ngừng và tập tễnh vì mụn cóc qua dãy bàn ọp ẹp và đám đàn ông rắn mắt; tôi thấy bà ngồi xuống chiếc bàn khuất bóng ở cuối căn phòng hẹp; thế rồi tôi thấy người đàn ông đứng dậy để đón bà.

      [3] loại thuốc lá rẻ tiền ở Ấn Độ.

      Da mặt gã thõng thành nếp, cho thấy thời gã từng thừa cân; răng gã ố xỉn vì ăn trầu. Gã mặc tấm kurta trắng sạch thùa khuyết kiểu Lucknow[4]. Gã có mái tóc dài, dài kiểu thi sĩ, rủ qua tai; nhưng đỉnh đầu lại hói bóng. Hai tiết kỵ vang vọng bên tai tôi: Na. Dir. Nadir. Tôi nhận ra mình ao ước trong tuyệt vọng rằng tôi chưa từng quyết tâm đến đây.

      [4] kiểu thêu xuất xứ từ Lucknow, thủ phủ bang Uttar Pradesh, Đông Bắc Ấn Độ.



      Ngày xửa ngày xưa có người chồng trong lòng đất bỏ để lại lời nhắn ly dị đầy thương; thi sĩ của những bài thơ có cả vần, mạng sống do chó hoang cứu thoát. Sau thập niên thất lạc gã bỗng từ dưới đất chui lên, bộ da lõng thõng như tưởng nhớ thời tròn trịa; và, như người vợ năm xưa, gã có cái tên mới... Nadir Khan nay là Qasim Khan, ứng viên chính thức của đảng Cộng sản chính thức của Ấn Độ. Lal Qasim. Qasim Đỏ. có gì là vô tình hết: phải tự nhiên ngượng có màu đỏ. Chú Hanif tôi , “Coi chừng dân Cộng sản!” và mẹ tôi đỏ bừng mặt; chính trị và tình cảm hội tụ má bà... qua màn ảnh bằng kính, bẩn thỉu, hình vuông của ô cửa sổ tại Pioneer Café, tôi xem Amina Sinai và kẻ -còn-là Nadir đóng cảnh đương; họ diễn xuất với vụng về của diễn viên nghiệp dư đích thực.

      mặt bàn bọc vải giả da là bao thuốc lá: State Express 555. Những con số cũng có ý nghĩa: 420, tên của bọn lừa đảo; 1001, con số của đêm, của phép thuật của những thực tại khác – con số được thi nhân ưa thích và bị chính trị gia căm ghét, đối với họ mọi phiên bản khác của thế giới đều là mối đe dọa; và 555, mà suốt nhiều năm tôi nghĩ là con số tà ác nhất, mật mã của Quỷ, của Ma vương, của chính Shaitan! (Cyrus-Đại-đế bảo tôi thế, và tôi hề nghĩ đến khả năng nó nhầm lẫn. Nhưng nó nhầm : con số ma quỷ thực phải 555, mà là 666: thế nhưng trong đầu tôi, làn hắc khí vẫn tỏa ra từ ba số năm cho đến ngày nay)... Nhưng tôi lạc đề mất rồi. Chỉ cần nhãn hiệu ưa thích của Nadir-Qasim là loại State Express ; rằng con số năm được lặp lại ba lần bao; và rằng nhà sản xuất của nó là W.D.& H.O. Wills. thể nhìn thấy mặt mẹ tôi, tôi tập trung vào bao thuốc lá, cắt cảnh từ góc máy hai người sang quay cực cận gói nicotine này.

      Nhưng giờ những bàn tay tiến vào khuôn hình – đầu tiên là tay Nadir-Qasim, vẻ mềm mại thi sĩ ít nhiều chai cứng; đôi tay run rẩy như ánh nến bò ngang mặt vải giả da, rồi rụt lại; rồi đôi tay đàn bà, đen như mun, nhích về phía trước như những con nhện duyên dáng; tay nhấc lên, khỏi mặt bàn giả da, tay lơ lửng ba số năm, bắt đầu vũ điệu kỳ lạ nhất, nhô lên, hạ xuống, xoay tròn quanh nhau, quấn quýt bện xoắn lấy nhau, những bàn tay khát khao đụng chạm, những bàn tay vươn dài căng cứng run rẩy đòi hỏi được vậy – nhưng rốt cuộc luôn luôn rụt lại, đầu ngón tay né tránh đầu ngón tay, bởi vì điều tôi chứng kiến màn kính lem luốc, cho cùng, là bộ phim Ấn Độ, nơi tiếp xúc da thịt là cấm lỵ vì lo ngại nó làm hoen ố các mầm non thế hệ trẻ Ấn Độ; và dưới gầm bàn là những bàn chân và ở là hai khuôn mặt; chân tiến về phía chân, mặt nhàng ngả về phía mặt, nhưng đều đột ngột khựng lại trong nhát cắt kiểm duyệt tàn nhẫn... hai kẻ xa lạ, mỗi người mang cái tên-màn-bạc phải tên khai sinh của họ, diễn hai vai diễn nửa miễn cưỡng. Tôi bỏ trước khi bộ phim kết thúc, chuồn trở vào cốp chiếc Rover chẳng ai lau chẳng ai trông, vừa ước gì mình xem, vừa thể cưỡng lại ham muốn xem lại từ đầu lần nữa.

      Điều cuối cùng tôi nhìn thấy: tay mẹ tôi nhấc ly Lassi Lung Linh còn phân nửa lên; môi mẹ tôi khẽ khàng và hoài nhớ chạm vào chiếc cốc đốm hoa; tay mẹ tôi chìa chiếc cốc cho Nadir-Qasim của bà; gã cũng đặt, lên bên kia cốc nước, đôi môi thi sĩ của gã. Vậy là đời bắt chước thứ nghệ thuật xấu xa, và chị của cậu Hanif tôi mang vẻ gợi dục của nụ hôn gián tiếp vào gian u ám màu xanh đèn tuýp của Pioneer Café. Tóm lại: vào đỉnh hè 1957, ở cao điểm của chiến dịch tranh cử, Amina Sinai đỏ mặt cách khó hiểu khi có người tình cờ đề cập đến đảng Cộng sản Ấn Độ. Con trai bà – trong mớ suy nghĩ hỗn loạn vẫn còn chỗ cho nỗi ám ảnh nữa, bởi vì bộ óc mười tuổi dư sức dung nạp mọi ám ảnh – bám theo bà tới phía Bắc thành phố, và theo dõi cảnh phim chất chứa nỗi đau của tình bất lực. (Giờ đây khi Ahmed Sinai bị đóng băng, Nadir-Qasim còn ở thể bất lợi về tình dục; giằng xé giữa người chồng nhốt mình trong phòng và nguyền rủa chó, với người chồng cũ từng, trong thương, từng chơi phụt-ống-nhổ, Amina Sinai chỉ còn biết hôn-cốc và múa-tay.) Câu hỏi: tôi có bao giờ, sau lần đó, cầu viện tới phục vụ của mảnh nhựa hồng? Tôi có bao giờ trở lại quán cà phê của diễn viên phụ và phe Marxist? Tôi có bao giờ chất vấn mẹ tôi về bản chất ghê tởm của hành vi của bà – vì có người mẹ nào lại có lý do gì để - mặc kệ mấy chuyện ngày-xửa-ngày-xưa – trước chứng kiến của đứa con trai duy nhất, sao bà có thể sao bà có thể sao bà có thể? Trả lời: tôi có; tôi có; tôi có.

      Việc tôi làm: khi bà “mua sắm”, tôi tạm trú trong tâm trí bà. còn hăm hở tận mắt mình thu thập chứng cứ, tôi ngự trong đầu mẹ tôi, ngược lên phía Bắc thành phố; trong cuộc hành vi khó ai ngờ này, tôi ngồi ở Pioneer Café lắng nghe những cuộc đối thoại về triển vọng thắng cử của Qasim Đỏ; thoát xác nhưng hoàn toàn hữu, tôi theo sát mẹ tôi khi bà tháp tùng Qasim đường vận động, ngược xuôi những chung cư trong quận (có phải đây chính là những dãy nhà cha tôi mới bán , phó mặc khách trọ của ông cho số phận?), khi bà hỗ trợ gã tìm người sửa vòi nước và vật nài chủ nhà tiến hành sửa chữa và tẩy uế. Amina Sinai dấn bước giữa những kẻ khốn cùng thay mặt cho đảng Cộng sản – chưa bao giờ thôi làm bà kinh ngạc. Có lẽ bà làm vậy vì cuộc sống của chính bà ngày nghèo ; nhưng ở tuổi lên mười tôi sẵn sàng cho cảm thông; và theo cách của riêng mình, tôi bắt đầu mơ những giấc mơ báo thù.

      Người ta kể rằng vị Caliph huyền thoại, Haroun al-Rashid, rất thích vi hành trong dân chúng thành Baghdad; tôi, Saleem Sinai, cũng bí mật chu du khắp ngõ ngách thành phố của tôi, nhưng khó mà rằng tôi thích thú. Miêu tả chân xác cái thất thường và kỳ quái, và mặt đối lập của chúng, nghĩa là các phiên bản được kịch tính hóa, cách điệu của cuộc sống thường ngày – những kỹ năng này, đồng thời cũng là thái độ tư duy, tôi nhảy – hoặc có thể hấp thu – từ nhân vật bá đạo nhất trong lũ trẻ nửa đêm, kình địch của tôi, đứa trẻ bị đánh tráo cùng tôi, đứa con danh nghĩa của Wee Willie Winkie: Shiva-đầu-gối-bự. Đó là những kỹ năng, đối với , được vận dụng cách hoàn toàn vô thức, và hệ quả của nó là tạo ra bức tranh thế giới với độ nhất quán đáng kinh ngạc, trong đó người ta có thể thuận miệng đề cập, cách tùy tiện, tới những vụ sát hại điếm độ ấy bắt đầu nhan nhản báo-chí-vỉa-hè (còn xác chết nhan nhản vỉa hè), trong khi tiếp tục mải mê đắm đuối với từng chi tiết phức tạp của nước bài nhất định. Cái chết, và thua bài đối với Shiva đều như nhau; dẫn đến hung bạo lạnh lùng, đáng sợ của , mà cuối cùng... nhưng, để bắt đầu bằng những khởi đầu:

      Mặc dù, phải thừa nhận, đó là lỗi của tôi, tôi vẫn phải rằng nếu tôi chỉ là cái đài phát thanh, quý vị mới nắm được phân nửa . Thường suy nghĩ có tính ngôn từ bao nhiêu cũng có tính hình ảnh hoặc thuần túy biểu tượng bấy nhiêu; và dẫu sao, để giao tiếp được với, và để hiểu, các đồng nghiệp của tôi tại Hội nghị Những đứa trẻ Nửa đêm, tôi cần mau chóng vượt qua giai đoạn ngôn từ. Xuất trong những tâm trí đa dạng bất tận của chúng, tôi buộc phải chui xuống dưới lớp vỏ ngoài của những suy nghĩ bề nổi bằng đủ thứ tiếng ai hiểu nổi, với hệ quả tất yếu (và được phô bày từ trước) là chúng nhận biết có mặt của tôi. Nhớ đến tác động sâu sắc của nhận biết ấy ở Evie Burns, tôi phải trải qua khá nhiều gian khổ hòng giảm cú sốc mà xuất của tôi gây ra. Với mọi trường hợp, tín hiệu tiêu chuẩn đầu tiên tôi phát là hình ảnh gương mặt tôi, với nụ cười mà tôi tin là điềm đạm, thân thiện, tự tin và có phong thái lãnh đạo, và bàn tay chìa ra của tình bằng hữu. Tuy vậy, khởi đầu có nhiều va vấp. Phải mất ít lâu, tôi mới nhận ra rằng hình ảnh của tôi bị chính mặc cảm ngoại hình của tôi bóp méo nghiêm trọng; bởi thế nên bức chân dung tôi gửi qua sóng-ý-thức toàn quốc, toét miệng cười như con mèo Cheshire, là bức chân dung gớm guốc hết mức có thể, phô bày cái mũi bị phóng đại kỳ khôi, cái cằm hoàn toàn tồn tại và hai vết nhọ khổng lồ hai bên thái dương. có gì ngạc nhiên khi tôi thường bị chào đón bằng những tiếng rú giật mình kinh hãi. Bản thân tôi cũng từng bị chân dung tự họa của đám bạn mười tuổi này làm cho hoảng sợ như thế. Khi hiểu ra vấn đề, tôi khuyến khích các thành viên của Hội nghị, từng người , nhìn vào gương, hoặc vũng nước lặng; và nhờ đó chúng tôi tìm ra được ngoại hình thực của nhau. Rắc rối duy nhất là thành viên từ Kerala (người có thể xuyên gương, chắc quý vị còn nhớ) lại vô ý chui ra từ tấm gương ở nhà hàng tại khu thượng lưu ở New Delhi, và phải vội vã rút lui; còn thành viên mắt xanh đến từ Kashmir ngã xuống hồ và vô tình hoán đổi giới tính, rơi xuống là con còn nhô lên lại thành cậu bé xinh trai.

      Khi tôi lần đầu giới thiệu bản thân với Shiva, tôi thấy trong tâm trí gã hình ảnh được chứng thực của thằng bé lùn, mặt chuột, răng mòn vẹt và cặp đầu gối lớn nhất thế gian.

      Đối diện với bức tranh hình thù quái dị đến thế, tôi tự cho phép nụ cười trong bức chân dung tôi phát hé lộ chút khinh miệt; bàn tay tôi chìa ra bắt đầu lẩy bẩy và co giật. Còn Shiva, cảm nhận được có mặt của tôi, ban đầu phản ứng cực kỳ hung bạo; những con sóng sục sôi thịnh nộ làm bỏng ở trong đầu tôi; nhưng rồi, “Ê, này, tao biết mày! Mày là thằng nhà giàu ở Điền trang Methwold, phải ?” Và tôi, cũng ngạc nhiên kém, “Con trai Winkle – người làm thằng Mắt Chẻ bị chột!” Hình ảnh của phổng lên kiêu hãnh. “Phải, phải, tao đấy. đứa nào dám trêu vào tao!” Việc nhận ra nhau làm tôi đâm khuôn sáo: “Ờ! Bố mày thế nào? Dạo này thấy ông ấy...” Và ở , có gì rất gần nhõm: “Ông ấy à? Bố tao chết rồi.”

      Im lặng trong giây lát; rồi băn khoăn – tức giận nữa, rồi Shiva, “Êu, nghe này, trò này oách phết – mày làm thế nào hả?” Tôi bắt đầu màn giải thích quen thuộc, nhưng được ngắt lời, “Ờ! Nghe nầy, ông già bảo tao cũng ra đời vào đúng nửa đêm – mày hiểu , thế tức là tao với mày là đồng thủ lĩnh cái hội của mày! Nửa đêm là nhất, hả? Thế - bọn nó phải nghe theo tụi mình sai bảo!” Trước mắt tôi ra hình ảnh Evelyn Lilith Burns thứ hai, và quyền uy hơn... gạt bỏ ý tưởng nhẫn tâm này, tôi giải thích, “Đó là ý tưởng chính xác của tao khi lập ra Hội nghị; tao mường tượng ra , mày biết đấy, kiểu liên đoàn các cá nhân bình đẳng đúng hơn, mọi quan điểm đều được tự do bày tỏ.” Có gì như tiếng khịt dữ dằn vang vọng giữa những bức tường của đầu tôi. “Cái đấy, ông bạn ạ, chỉ là rác rưởi. Ta làm được gì với băng như thế? làm băng phải có trùm. Mày nhìn tao đây” – (lại phổng lên đầy kiêu hãnh) “tao cai quản băng Mantunga này được hai năm rồi. Từ hồi tao lên tám. Lớn bé đủ cả. Mày thấy sao hả?” Và tôi, cách chủ đích, “Nó làm gì, băng của mày ấy – nó có nội quy các thứ ?” Tiếng cười của Shiva bên tai tôi... “Khà, thằng công tử bột: có thôi. Tất cả nghe lời tao, là tao lấy đầu gối kẹp tụi nó phọt cứt ra!” Tuyệt vọng, tôi tiếp tục cố gắng thuyết phục Shiva tán thành quan điểm của tôi: “Vấn đề là, bọn mình tồn tại hẳn phải vì mục đích nào đó, đúng ? Ý tao là, phải có lý do, đồng ý chứ? Cho nên tao nghĩ rằng, chúng ta nên cố gắng tìm hiểu xem đó là gì, để rồi, mày biết đấy, kiểu như cống hiến đời mình cho...” “Đồ nhà giàu,” Shiva hét, “mày đếch biết gì sất! Mục đích gì, hả? Cả cái thế giới thối nát này làm đếch gì có lý do, hử? Lý do gì mà mày giàu còn tao nghèo? Chết đói có lý do gì, hả? Có Chúa mới biết có bao nhiêu triệu thằng ngốc sống ở đất nước này, và mày nghĩ có mục đích đấy! Này, nghe đây – mày giành được gì cố mà giành, làm được gì cố mà làm, rồi cố mà chết. Lý do đấy, công tử ạ. Còn lại đều là rắm hết!”

      Bây giờ tôi, giường vào nửa đêm, bắt đầu lung lay... “Nhưng lịch sử,” tôi đáp, “và Thủ tướng viết cho tao lá thư... và chả lẽ mày tin cả... ai biết được chúng ta có thể...” , bản thể đối lập của tôi, Shiva, ngắt lời: “Nghe nầy, nhóc – óc mày toàn thứ điên rồ, xem ra tao phải tiếp quản vụ này. Mày bảo tất cả bọn nhóc quái dị kia thế!” Mũi và gối và gối và mũi... kình địch khởi đầu vào đêm đó bao giờ chấm dứt, cho đến khi hai lưỡi dao chém xuống, xuống xuống xuống... liệu linh hồn Mian Abdullah, người bị dao hạ sát nhiều năm trước, có rỉ sang tôi, ngấm vào tôi ý tưởng về chủ nghĩa liên bang mở và làm tôi dễ bị thương vì dao, tôi chẳng thể khẳng định; nhưng thời điểm đó tôi tìm thấy nguồn dũng khí liền bảo Shiva, “Mày đừng hòng quản lý được Hội nghị; có tao, tụi nó thậm chí nghe thấy lời mày nữa kìa!”

      , khẳng định lời tuyên chiến: “Công tử bột, bọn nó muốn biết về tao; mày cứ thử ngăn tao xem!”

      “Rồi,” tôi đáp lại, “Tao .”



      Shiva, vị thần hủy diệt, người quyền lực nhất trong các thần; Shiva, vũ công siêu phàm nhất; người cưỡi bò; người có sức mạnh nào có thể kháng cự... thằng nhóc Shiva, theo lời , phải chiến đấu để sinh tồn từ . Đến khi bố , độ năm trước đó, bị mất giọng hoàn toàn, Shiva còn phải bảo vệ mình trước tình phụ tử đắm đuối của Wee Willie Winkie. “Lão bịt mắt tao, giời ạ! Lão quấn giẻ quanh mắt tao rồi dắt tao lên sân thượng, giời ạ! Tụi mày biết tay lão cầm gì ? cây búa chó đẻ, giời ạ! cây búa! Lão khốn kiếp định đập gãy hai chân tao – chuyện này vẫn xảy ra, mày biết đó, công tử bột, họ làm thế với trẻ con để suốt đời chúng có thể ăn xin kiếm sống – mày mà què mày xin được nhiều hơn! Và thế là tao bị đẩy đến nằm lăn ra sân thượng, giời ạ; và rồi...” Và rồi búa giáng xuống cặp đầu gối to hơn và lồi hơn bất kỳ tay cảnh sát nào, mục tiêu ngon ăn, nhưng giờ cặp đầu gối ra đòn, nhanh như chớp, đầu gối mở ra – nghe thấy hơi gió của cây búa nện xuống và mở rộng ra; và cây búa bổ xuống giữa hai đầu gối, cán vẫn nằm trong tay bố ; thế là, hai đầu gối sập lại như hai nắm đấm. Cây búa, nện lốp cốp cách vô hại xuống nền bê tông. Cổ tay của Wee Willie Winkie, bị kẹp giữa hai đầu gối của đứa con trai bịt mắt. Từng tiếng thở khàn khàn thoát ra từ đôi môi của người cha thống khổ. Thế nhưng hai đầu gối, vẫn khép vàovàovào, chặt nữa và chặt nữa, đến khi rắc tiếng. “Ép vỡ cổ tay lão! Cho lão biết tay - quá chuẩn, hả? Tao thề đấy!” Shiva và tôi ra đời vào lúc Ma Kết trỗi dậy; chòm sao này bỏ mặc tôi, nhưng lại ban cho Shiva tài năng. Ma Kết, như mọi nhà chiêm tinh đều biết, là thiên tượng chủ về đầu gối.



      Vào ngày bầu cử, 1957, đảng Quốc đại Toàn Ấn nếm cú sốc nặng nề. Mặc dù họ thắng cử, nhưng mười hai triệu phiếu biến đảng Cộng sản thành đảng đối lập lớn nhất; và ở Bombay, bất chấp nỗ lực của Sếp Patil, số lượng lớn cử tri đánh dấu chữ thập lên biểu tượng hình-bò-thiêng-và-bê-non của đảng Quốc đại, mà ưu ái hai logo ít biểu cảm hơn của Samyukta Maharashtra Samiti và Maha Gujarat Parishad. Khi hiểm họa Cộng sản được thảo luận ở đồi, mẹ tôi tiếp tục đỏ mặt; và chúng tôi xuôi tay chấp nhận chia cắt bang Bombay. thành viên của Hội nghị Những đứa trẻ Nửa đêm đảm đương vai phụ trong kỳ bầu cử. Đứa con trai danh nghĩa của Winkie, Shiva, được tuyển mộ bởi - ừm, có lẽ tôi nêu đích danh; nhưng chỉ có đảng có nhiều tiền để chi như thế - và vào ngày bầu cử, người ta thấy và băng của , tự xưng là Những tay Cao bồi, đứng ngoài phòng bỏ phiếu ở phía Bắc thành phố, đứa cầm côn lớn, đứa tung hứng với đá, đứa xỉa răng bằng dao, tất cả đều khuyến khích các cử tri bỏ phiếu cách khôn ngoan và thận trọng... và khi vòng bỏ phiếu kết thúc, niêm phong ở hòm phiếu có bị phá? tượng nhồi phiếu có xảy ra? Dầu gì nữa, sau khi kiểm phiếu, kết quả cho thấy Qasim Đỏ bị thua cách sít sao; và các khách hàng của kình địch của tôi đều hết sức hài lòng.

      ... Nhưng giờ Padma hỏi, nhàng, “Hôm đó là ngày nào?” Và, hề suy nghĩ, tôi đáp: “Đâu đó vào mùa xuân.” Lúc ấy tôi mới chợt nhận ra mình vừa phạm sai lầm nữa – rằng kỳ bầu cử năm 1957 xảy ra trước, phải sau, kỳ sinh nhật thứ mười của tôi; nhưng dù tôi giày vò đầu óc bản thân thế nào, trí nhớ của tôi vẫn từ chối, cách bướng bỉnh, thay đổi trình tự các kiện. Điều này đáng lo. Tôi biết có gì ổn.

      , cố an ủi tôi cách vô ích: “Ông mong chờ gì mà mặt ngẩn ra thế? Ai chả có lúc quên mấy chuyện nhặt, bao giờ chẳng thế!” Nhưng nếu chuyện qua, liệu chuyện lớn có sắp đến gần?

    3. banglangtrang123

      banglangtrang123 Well-Known Member Staff Member Super Moderator

      Bài viết:
      26,213
      Được thích:
      47,825
      Chương 16: Alpha và Omega




      Bạo loạn bùng nổ tại Bombay những tháng sau bầu cử; bạo loạn bùng nổ trong suy nghĩ của tôi khi nhớ lại những ngày ấy. Sai lầm của tôi khiến tôi buồn phiền ghê gớm; nên bây giờ, để lấy lại cân bằng, tôi trả mình về mảnh đất quen thuộc của Điền trang Methwold; gạt lịch sử của Hội nghị Những đứa trẻ Nửa đêm sang bên, và nỗi đau ở Pioneer Café sang bên kia, tôi kể quý vị nghe về sụp đổ của Evie Burns.

      Cái tên tôi đặt cho chương này có chút kỳ cục. “Alpha và Omega” chằm chằm nhìn tôi từ trang giấy, đòi được giải thích – nhan đề lạ lùng cho chương đánh dấu nửa chặng đường câu chuyện của tôi, cái tên sặc mùi khởi đầu và kết thúc, trong khi quý vị có thể nó nên liên quan hơn tới phần giữa; nhưng, chút hối hận, tôi có ý định thay đổi nó, mặc dù có nhiều nhan đề khác để lựa chọn, như “Từ Khỉ đến Vượn[1]” hay “Ngón Tay Tái Xuất,[2]” hay - cách bóng gió hơn – “Con Ngỗng Đực”, ám chỉ, rất hiển nhiên, tới loài chim thần thoại, hamsa hay parahamsa[3], tượng trưng cho khả năng cư ngụ ở cả hai thế giới, vật chất và tâm linh, thế giới của đất-và-nước và thế giới của trung, của bay lượn. Nhưng nó là “Alpha và Omega”; nó vẫn là “Alpha và Omega”. Bởi vì ở đây có những khởi đầu, và đủ loại kết thúc; nhưng quý vị sớm hiểu ý tôi.

      [1] Nguyên văn: rhesus, họ khỉ phổ biến ở châu Á.

      [2] Nguyên văn: Finger Redux. Redux từ phổ biến trong cách đặt tên phim, ví dụ như Apocalypse Now Redux hay Ashes of Time Redux.

      [3] Hamsa trong tiếng Hindi là thiên nga, còn parahamsa tức là “siêu thiên nga”. Đây là danh hiệu dành cho những bậc trí giả Hindu “đạt đạo”, nghĩa là ung dung tự tại trong thế giới vật chất cũng như trong thế giới tâm linh, cũng giống như thiên nga sống thoải mái cả cạn lẫn dưới nước.

      Padma bực bội chắt lưỡi. “Ông lại nhăng rồi,” phê bình, “Thế ông có kể chuyện Evie bảo?”

      ... Sau kỳ bầu cử, Chính quyền Trung ương tiếp tục trù trừ lưỡng lự về tương lai của Bombay. Bang được chia cắt; rồi chia cắt nữa; rồi chia cắt lại ngóc đầu dậy. Về phần thành phố - nó là thủ phủ của Maharashtra; hoặc là của cả Maharashtra lẫn Gujarat; hoặc thành bang độc lập... trong khi chính phủ cố gắng suy tính xem phải làm cái quỷ gì, các cư dân của thành phố quyết định phải đẩy nhanh tiến trình đó. Bạo động bùng phát (và quý vị vẫn có thể nghe khúc chiến ca cũ của đảng Mahratta - Mi thế nào? – Tau khỏe re! – Để tau lấy gậy nện tòe đầu mi! – bay lên từ cuộc loạn đả); và góp phần làm tình hình tồi tệ hơn, thời tiết cũng gia nhập cuộc hỗn chiến. cơn đại hạn xảy ra; đường sá nứt nẻ; ở các làng, nông dân phải giết bò; và đúng ngày Giáng sinh (ngày mà ý nghĩa của nó thằng bé nào theo học trường dòng và có người ayah theo đạo Cơ đốc chăm sóc lại biết) hàng loạt tiếng nổ lớn vang lên tại Bể chứa nước Walkeshwar và các đường ống nước ngọt chính, nơi khởi đầu nguồn sống của thành phố bắt đầu phun nước lên như những con cá voi thép khổng lồ. Báo chí xôn xao bàn tán về kẻ phá hoại; các phỏng đoán về danh tính và mối quan hệ chính trị của nhóm tội phạm chen vai thích cánh cạnh những tin tức về làn sóng sát hại điếm vẫn tiếp diễn. (Tôi đặc biệt lưu tâm đến việc kẻ sát nhân để lại “chữ ký” kỳ lạ. Thi thể các bướm đêm đều bị siết chết ngạt; quanh cổ có vết bầm tím, những vết bầm quá lớn so với dấu ngón tay cái, nhưng hoàn toàn phù hợp với dấu tích để lại bởi cặp đầu gối vĩ đại, có sức mạnh siêu nhiên.)

      Tôi lạc đề rồi. Mấy chuyện này, cái nhíu mày của Padma chất vấn, liên can gì đến Evelyn Lilith Burns? Ngay lập tức, vồ lấy chú ý này, tôi đưa ra câu trả lời: những ngày sau vụ hủy hoại hệ thống cấp nước của thành phố, đàn mèo hoang của Bombay bắt đầu hội tụ ở những khu vực trong thành phố nơi nước vẫn còn tương đối dồi dào; nghĩa là, những khu khá giả, nơi mỗi nhà đều có bể nước ngầm hoặc mái. Và, do đó, ngọn đồi hai tầng của Điền trnag Methwold đón nhận đợt xâm lăng của đội quân dã miêu đói khát; mèo lúc nhúc khắp bùng binh, mèo leo lên giàn hoa giấy và nhảy vào phòng khách, mèo đánh đổ lọ hoa để uống thứ nước thiu mùi cuống hoa, mèo cắm trại trong nhà tắm, húp chất lỏng từ bồn cầu, mèo tràn lan trong bếp các cung điện của William Methwold. Đội ngũ người hầu của Điền trang hoàn toàn thất bại trong nỗ lực đánh đuổi cuộc đại xâm lăng của lũ mèo; các quý bà ở Điền trang chỉ còn biết thốt lên những tiếng cảm thán bất lực của nỗi kinh hoàng. Những con sâu cứt mèo khô khốc rải khắp nơi; các khu vườn bị hủy hoại chỉ vì sức mạnh quân số của bầy dã miêu; và đến đêm, giấc ngủ trở thành điều thể, bởi đạo quân ấy tìm ra giọng , và hát lên cơn khát của mình với vầng trăng. (Nữ hầu tước Simki von der Heiden từ chối chiến đấu với bầy mèo; nó bắt đầu bộc lộ những dấu hiệu của căn bệnh sớm đẩy nó đến chỗ diệt vong.)

      Nussie Ibrahim gọi cho mẹ tôi thông báo, “Chị Amina, ngày tận thế đến rồi.”

      ta nhầm; bởi vì vào ngày thứ ba của cuộc đại xâm lăng của lũ mèo, Evelyn Lilith Burns lần lượt đến từng nhà ở Điền trang, khẩu súng hơi Daisy hờ hững tay, và đề xuất, để đổi lấy tiền thưởng, chấm dứt đại dịch mèo luôn và ngay.

      Cả ngày hôm ấy, Điền trang Methwold vang vọng tiếng súng hơi của Evie, lẫn với tiếng ngoao đau đớn của bầy mèo, khi Evie săn trọn đạo quân, từng con và kiếm bộn tiền. Nhưng (như lịch sử rất thường cho thấy), thời khắc vinh quang nhất cũng chứa đựng mầm mống của suy tàn tối hậu; và quả có vậy, bởi vì trò khủng bố của Evie với lũ mèo, trong con mắt con Khỉ Đồng, đích thị là giọt nước tràn ly.

      ạ,” con Khỉ lầm lì bảo tôi, “em hứa là cho con đấy biết tay, bây giờ, ngay bây giờ, đến lúc rồi.”

      Những câu hỏi thể trả lời: phải chăng em tôi học được tiếng mèo, như với tiếng chim? Phải chăng tình cảm của nó với đời sống loài mèo đẩy nó quá giới hạn... khi cuộc đại xâm lăng của lũ mèo xảy ra, mái tóc của con Khỉ kịp ngả sang màu nâu; nó chấm dứt tật đốt giày; nhưng, hiểu vì sao, trong nó vẫn còn dữ tợn mà ai trong tụi tôi có được; và nó thẳng xuống chỗ bùng binh, rồi hét đến vỡ giọng: “Evie! Evie Burns!! Mày bước ra đây, ngay lập tức, dù mày ở đâu!”

      Đứng giữa lũ mèo tháo chạy, con Khỉ chờ đợi Evelyn Burns. Tôi bước lên hiên nhà ở tầng để quan sát; ở hiên nhà mình, Sonny và Mắt Chẻ và Tóc Dầu và Cyrus đều theo dõi. Chúng tôi thấy Evive Burns xuất từ đằng bếp của Biệt thự Versailles; nàng thổi khói bốc ra từ nòng súng.

      “Bọn Ấn tụi mài nên tạ ơn trời vì có tao ở đây,” Evie tuyên bố, “ bọn mài bị mèo ăn sạch rồi!”

      Chúng tôi thấy Evie nín lặng khi nhìn thấy thứ căng thẳng ngự trị trong mắt con Khỉ; và như cái bóng con Khỉ nhào lên Evie và trận chiến bùng nổ và kéo dài quãng thời gian tưởng như vài giờ (nhưng cũng có thể chỉ vài phút). Chìm trong đám bụi giữ bùng binh, cả hai lăn lộn đấm đá cào cấu cắn xé, từng nắm tóc bay ra từ đám bụi và khuỷu tay và chân tất trắng lấm lem và đầu gối và những mảnh váy tung ra từ đám mây; người lớn chạy đến, người hầu thể gỡ hai đứa ra, và cuối cùng bác làm vườn của Homi Catrack phải dùng vòi xịt nước để tách chúng ra... con Khỉ Đồng đứng dậy, hơi xộc xệch và giũ tà váy ướt nước, phớt lờ tiếng hét đe dọa trừng phạt phát ra từ môi Amina Sinai và Mary Pereira; vì giữa nền đất đẫm nước của bùng binh, Evie Burns nằm đấy, niềng răng gãy, tóc bết đầy bụi và nước bọt, khí phách và ách thống trị của nàng với chúng tôi bị bẻ gãy lần và mãi mãi.

      Vài tuần sau bố nàng cho nàng về hẳn Mỹ. “Để hưởng nền giáo dục tử tế, tránh xa bọn man rợ này,” thấy bảo ông ta vậy; tôi chỉ nghe tin về nàng lần, sáu tháng sau, khi đột nhiên nàng viết cho tôi lá thư báo tin nàng vừa đâm mụ già vì can tội phản đối nàng hành hung con mèo. “Tao cho mụ ấy nhát ra trò,” Evie viết, “Bảo con em mày nó chỉ gặp may thôi.” Tôi nghiêng mình trước bà lão vô danh ấy: bà gánh nợ thay con Khỉ.

      Đáng chú ý hơn cả thông điệp cuối cùng của Evie là suy nghĩ giờ đây chợt nảy ra trong tôi, khi tôi nhìn ngược đường hầm thời gian. Giữ trước mắt hình ảnh con Khỉ và Evie lăn lộn đất, tôi dường như nhận ra động lực của trận chiến sinh tử ấy, động cơ sâu xa hơn nhiều chuyện ngược đãi bầy mèo: hai đứa đánh nhau vì tôi. Evie và em tôi (hai đứa, nhiều khía cạnh, hề khác biệt nhau) đấm đá và cào cấu, ngoài mặt là vì số phận của dăm con thú hoang đói khát; nhưng có lẽ những cú đá của Evie là nhằm vào tôi; có lẽ đó là bạo lực xuất phát từ nỗi giận dữ trước việc tôi xâm nhập vào đầu nàng; và chắc hẳn sức mạnh của con Khỉ là sức mạnh lòng trung thành của em nhà, và hành vi gây chiến của nó kỳ thực là hành động của tình .



      Máu, hồi ấy, đổ giữa bùng binh. cái tên bị gạt bỏ khác cho chương sách này – chắc quý vị cũng biết – là “Đặc Hơn Nước Lã”. Giữa những ngày khan hiếm nước ấy, thứ nước đặc hơn nước lã chảy xuống mặt Evie Burns; lòng trung thành của huyết thống thôi thúc con Khỉ Đồng; và đường phố, những kẻ bạo loạn làm cho nhau đổ máu. Những vụ giết người đẫm máu xảy ra, và có lẽ thích hợp lắm nếu kết thúc bản danh sách điệp huyết này bằng cách đề cập, lần nữa, việc máu dồn lên má mẹ tôi. Năm ấy, mười hai triệu lá phiếu được tô màu đỏ, và đỏ là màu của máu. Máu sớm đổ nữa: các nhóm máu, A và O, Alpha và Omega – và loại nữa, khả năng thứ ba – cũng phải được tính đến. Cả các nhân tố khác: tính tương đồng hợp tử, và kháng thể Kell, và đặc tính bí hiểm nhất của huyết dịch, có tên là rhesus, đồng thời cũng là loài khỉ[4].

      [4] Rhesus factor là dạng protein kèm với hồng cầu. Đây là hệ tiêu chí phân loại nhóm máu quan trọng thứ hai sau hệ ABO. Khoảng 85% nhân loại mang Rh dương tính, còn lại là tính. Những người có Rh- chỉ có thể nhận máu từ người cùng có Rh-.

      Vạn vật đều có hình dạng, nếu ta tìm kiếm nó. thể né tránh hình thái.

      Nhưng trước khi tới ngày của máu, tôi cất cánh (như loài ngỗng parahamsa có thể bay từ môi trường này sang môi trường khác) và quay lại, trong chốc lát, với câu chuyện của thế giới bên trong tôi; bởi vì mặc dù sụp đổ của Evie Bunrs chấm dứt giai đoạn tẩy chay tôi của lũ trẻ đồi, tôi vẫn thấy khó lòng tha thứ; và trong thời gian, giữ thái độ độc và xa cách, tôi đắm mình vào những kiện trong đầu tôi, trong giai đoạn lịch sử sơ khai của hiệp hội những đứa trẻ nửa đêm.



      Thành : tôi thích Shiva. Tôi ghét cục cằn trong giọng lưỡi, thô tục trong ý tưởng của ; và tôi bắt đầu nghi ngờ về loạt những tội ác khủng khiếp, bởi vì , duy nhất trong lũ trẻ nửa đêm, có thể đóng cửa chặn tôi khỏi bất kỳ dòng suy nghĩ nào mà muốn giữ cho riêng mình – việc, tự thân nó, càng gia tăng nỗi căm ghét và nghi ngờ của tôi với thằng cha mặt chuột ấy hơn. Tuy nhiên, gì gì tôi vẫn là đứa công bằng; và là bất công nếu cách ly khỏi các thành viên khác của Hội nghị.

      Tôi phải giải thích rằng khi năng lực trí tuệ của tôi phát triển, tôi nhận ra mình chỉ thu nhận được tín hiệu từ lũ trẻ; và gửi được thông điệp của mình; tôi còn có thể (bởi tôi có vẻ thoát được cái dụ “đài phát thanh” này) đóng vai trò mạng lưới quốc gia, nghĩa là bằng cách mở tâm trí mình cho tất cả lũ trẻ, tôi có thể biến nó thành dạng diễn đàn, nơi chúng có thể chuyện với nhau, qua tôi. Vậy là, trong những ngày đầu năm 1958, năm trăm tám mươi mốt đứa trẻ tề tựu, trong tiếng, từ nửa đêm đến giờ sáng, tại Lok Sabha[5] hay là Nghị viện của não bộ của tôi.

      [5] Hạ viện của Quốc hội Ấn Độ.

      Chúng tôi cũng hỗn tạp, ầm ĩ và vô kỷ luật như bất kỳ hội năm trăm tám mươi đứa trẻ mười tuổi nào; và bổ sung cho hoạt náo tự nhiên ấy, còn có hứng khởi của chúng tôi khi phát ra nhau. Sau tiếng đồng hồ hò hét huyên thuyên cãi cọ cười cợt đến khản cổ, tôi vào giấc ngủ sâu đến mức thể gặp ác mộng, và tỉnh dậy với cơn nhức đầu; nhưng tôi mặc kệ. Khi thức, tôi phải đối mặt với nỗi đa bất hạnh từ dối trá của mẫu thân và suy sụp của phụ thân, từ tráo trở của tình bằng hữu và đủ kiểu bạo hành học đường; còn khi ngủ, tôi là trung tâm của thế giới hấp dẫn nhất mà trẻ con từng khám phá ra. Cho dù có Shiva, được ngủ vẫn thích hơn.

      Việc Shiva quả quyết rằng (hay -và-tôi) là lãnh đạo tất nhiên của nhóm chúng tôi hay do (và tôi) ra đời vào đúng nửa đêm, tôi buộc phải thừa nhận, có lý lẽ ủng hộ khá vững chắc. Đối với tôi hồi ấy – và bây giờ vẫn vậy – phép mầu của nửa đêm về bản chất quả có tính thứ bậc rất ràng, năng lực của bọn trẻ suy giảm đáng kể theo khoảng cách từ thời điểm ra đời của chúng đến nửa đêm; nhưng ngay điều này cũng là quan điểm bị tranh cãi gay gắt. “Ýcậulàgìsaocậucóthểnóithế,” chúng đồng thanh, thằng bé từ rừng Gir có gương mặt trống trơn đường nét (trừ mắt lỗ mùi và khoang miệng), và có thể biến thành bất kỳ khuôn mặt nào theo ý nó, rồi Harilal người chạy nhanh như gió, và có Chúa mới biết còn có bao nhiêu đứa nữa... “Ai dám bảo cái này tốt hơn cái kia?” Rồi, “Mày biết bay ? Tao biết này!” và “Ờ, tao nữa, mày biêt biến con cá thành năm mươi ” và, “Hôm nay tao đến thăm ngày mai. Mày làm được . -” ... đối diện với cơn bão phản đối cỡ đó, cả Shiva cũng phải đổi giọng; nhưng tìm ra giọng điệu mới, nguy hiểm hơn nhiều – nguy hiểm cho Lũ Trẻ, và cho tôi.

      Vì tôi nhận ra mình miễn nhiễm với cám dỗ của vai trò lãnh đạo. Rốt cuộc, ai phát Lũ Trẻ? Ai sáng lập Hội nghị? Ai cung cấp chỗ họp? Tôi chẳng phải là người đồng lớn tuổi nhất đó ư, và chẳng lẽ tôi được tiếp nhận tôn trọng và phục tùng xứng với vai bề của tôi? Chẳng phải người cung cấp trụ sở hội cũng là người điều hành hội hay sao?... Nghe vậy, Shiva, “Quên mày . Cái trò hội hè ấy chỉ dành cho bọn cậu ấm chúng mày thôi!” Nhưng – riêng lần này – bị yếu thế. Parvati-phù-thủy, con của nhà ảo thuật từ Delhi, thế chỗ tôi (cũng như, nhiều năm sau, cứu mạng tôi), lên tiếng, “, nghe này, tất cả mọi người: thiếu Saleem ta đến đâu cả, thể chuyện hoặc làm gì khác, cậu ấy đúng. Hãy để cậu ấy làm thủ lĩnh!” và tôi, “, gì mà thủ lĩnh, hãy xem tớ như ... đại ca, thế thôi. Phải; chúng ta là gia đình, kiểu vậy. Tớ chỉ là người lớn tuổi nhất, tớ ấy.” Nghe vậy Shiva bèn đáp, đầy khinh miệt, nhưng phản bác được, “Được rồi, đại ca: vậy giờ chúng em phải làm gì?”

      Lúc này tôi bèn giới thiệu cho Hội nghị về ý niệm đeo đẳng tôi bấy lâu nay: ý niệm về mục đích, và ý nghĩa. “Ta phải nghĩ,” tôi , “xem ta sinh ra làm gì.”

      Tôi ghi lại, cách chính xác, quan điểm của số thành viên tiêu biểu của Hội nghị (trừ những quái-nhân-rạp-xiếc, và những người, giống như bé ăn xin bị rạch mặt ở Sundari, mất năng lực, và có xu hướng im lặng suốt các cuộc tranh luận, như những người bà con nghèo trong bữa cỗ): trong số các triết lý và mục tiêu được nêu ra có chủ nghĩa tập thể - “Ta nên tập hợp lại và sống ở đâu đó, nhỉ? Ta có cần gì từ người khác đâu?” – và chủ nghĩa cá nhân – “Cậu bảo chúng ta; nhưng việc chúng ta ở bên nhau quan trọng; quan trọng là mỗi người trong chúng ta có tài năng để sử dụng vì lợi ích của bản thân” – báo hiếu – “Dù có thể đỡ đần cha mẹ bằng cách nào, đó cũng là điều chúng ta sinh ra để làm” – và cách mạng con nít – “Giờ đây ta phải cho tất cả trẻ con biết rằng có thể sống cần cha mẹ!” – chủ nghĩa tư bản – “Thử xem ta có thể kinh doanh những gì! Bọn ta, lạy đức Allah, giàu phải biết!” – và chỉ nghĩa vị tha – “Đất nước cần người tài; ta nên hỏi chính phủ muốn sử dụng năng lực của chúng ta ra sao” – khoa học – “Nên cho họ nghiên cứu chúng ta” – và tôn giáo – “Hãy công bố cho cả thể giới về chúng ta, để tất cả có thể vinh danh Đức Chúa” – dũng cảm – “Ta phải xâm lược Pakistan!” – và hèn nhát – “Trời ơi, phải giữ bí mật, thử nghĩ xem họ làm gì ta, ném đá vì tội phù thủy rồi gì nữa biết!”; những tuyên bố về nữ quyền và đòi hỏi cải thiện tình hình cho tiện dân; những đứa trẻ đất mơ có đất và những bộ tộc trung du mơ xe Jeep; và cả những ảo tưởng về quyền lực. “Họ thể ngăn chặn ta! Bọn ta biết phép thuật, biết bay, biết đọc suy nghĩ, biết biến người thành ếch, hóa phép ra vàng ra cá, và họ đem lòng chúng ta, và chúng ta có thể biến mất vào gương và thay đổi giới tính... làm sao họ đánh lại ta được?”

      Tôi phủ nhận mình thất vọng. Đáng ra tôi cần phải thế; ở bọn trẻ này có gì khác thường ngoài năng lực của chúng; đầu óc chúng chứa toàn những điều bình thường, bố mẹ tiền bạc cái ăn đất đai của cải danh vọng quyền lực Chúa Trời. đâu, trong suy nghĩ của Hội nghị, tôi có thể tìm được điều gì mới mẻ như chính bản thân chúng tôi... nhưng hồi ấy tôi cũng nhầm đường; cái nhìn của tôi cũng tỉnh táo gì hơn người khác; và ngay khi Soumitra thằng bé vượt thời gian bảo, “Tao bảo nhé, mấy chuyện này vô ích thôi – họ kết liễu cả bọn trước khi ta kịp bắt đầu!” chúng tôi đều phớt lờ nó; với niềm lạc quan của tuổi trẻ - thể độc hại hơn của căn bệnh từng nhiễm vào ông tôi, Aadam Aziz – chúng tôi khước từ nhìn vào mặt tối, và đứa nào trong bọn cho rằng mục đích của Lũ Trẻ của Nửa Đêm có khả năng là hủy diệt; rằng chúng tôi có ý nghĩa gì cho đến khi chúng tôi bị triệt hạ.

      riêng tư của mọi người, tôi phân biệt các giọng với nhau; vì cả những lý do khác. Trước hết, câu chuyện của tôi thể xử lý được toàn diện năm trăm tám mươi mốt tính cách; thứ nữa, lũ trẻ, mặc dù có những năng lực riêng rẽ và khác biệt, song vẫn là, trong đầu tôi, dạng quái vật nhiều đầu, chuyện bằng vô số ngôn ngữ của tháp Babel; chúng là kết tinh của đa dạng, và tôi thấy có lý do gì để phân tích chúng vào lúc này. (Nhưng có số ngoại lệ. Cụ thể, là Shiva; và Parvati-phù-thủy.)

      ... Định mệnh, vai trò lịch sử, thiên ý: đây là những miếng ăn quá lớn với thực quản những đứa trẻ lên mười. Kể cả, có lẽ, với tôi; bất chấp khiển trách thường xuyên từ ngón tay chỉ của người ngư phủ và lá thư của Thủ tướng, tôi ngừng sao nhãng khỏi những diệu kỳ mà việc khịt mũi mang lại, do những điều nhặt của cuộc sống hằng ngày, do thấy đói hay buồn ngủ, do chơi trò khỉ cùng con Khỉ, hay ra rạp xem Cobra Woman hay Vera Cruz, do niềm mong mỏi được mặc quần dài ngày tăng, do cảm giác hừng hực thể giải thích dưới-thắt-lưng, bắt nguồn từ buổi Giao lưu Học đường sắp tới, khi chúng tôi, lũ con trai của trường Trung học Nam sinh Cathedral và John Connon, được phép nhảy kiểu boxstep và điệu Nón Mexico[6] với các từ trường kết nghĩa – như Masha Miovic nữ vô địch bơi ếch (“Yahooo,” Keith Colaco Nội tiết rú lên) và Elithzabeth Purkiss hay Janey Jaskson – các châu Âu, lạy Chúa, với tà váy buông lơi và các kiểu hôn! – tóm lại, tập trung của tôi liên tục bị chiếm lĩnh bởi những nỗi dày vo đau đớn, choán đầy tâm trí của trưởng thành.

      [6] Boxstep là kỹ thuật khiêu vũ phổ biến, các bước nhảy chuyển động thành hình vuông. Nhiều điệu nhảy như waltz, rumba... đều sử dụng kỹ thuật này. Điệu Mexican Hat là điệu nhảy chính thức của Mexico.

      Kể cả con ngỗng biểu tượng, cuối cùng, cũng phải hạ cánh xuống mặt đất; vì thế với tôi lúc này (cũng như hồi ấy), giới hạn câu chuyện trong những khía cạnh thần kỳ còn xa mới là đủ; tôi phải trở lại (như từng trở lại) với bình phàm; tôi phải cho máu được đổ.



      Thương tích đầu tiên của Saleem Sinai, và nhanh chóng được tiếp nối bằng vết thương thứ hai, xảy ra vào ngày thứ Tư đầu năm 1958 – thứ Tư của buổi Giao lưu rất được chờ đợi – với bảo trợ của Hiệp hội Giáo dục -Scotland. Nghĩa là, nó xảy ra ở trường.

      Kẻ tấn công Saleem: đẹp trai, hung hăng, với bộ ria bờm xờm của dân man rợ: tôi xin giới thiệu chân dung hùng hổ, chuyên bứt tóc của Thầy Emil Zagallo, người dạy chúng tôi địa lý và thể dục, và là người, sáng hôm đó, vô tình thúc đẩy cuộc đời tôi rơi vào khủng hoảng. Zagallo tự nhận mình là dân Peru, và ưa gọi chúng tôi là bọn điêng rừng rú, mê hột cườm[7]; lão treo bức tranh in hình người lính cứng đờ, đầy mồ hôi, đội mũ thiếc chóp nhọn và mặc quần chẽn bằng kim loại bảng và có cái kiểu chọc ngón tay vào bức tranh mỗi khi bực bội và quát lên, “Nhìn thới chưa, lũ mọi rợ? Người nầy chính lờ văn minh! Liệu mà kíng trọng ta, ta có kiếm đới!” Rồi lão vút cây can trong khí giữa bốn bức tường đá. Bọn tôi gọi lão là Pagal-Zagal, Zagallo khùng, vì bất chấp mọi chuyện ba hoa của lão về loài lạc bướu và conquistador[8] và Thái Bình Dương, tụi tôi biết tỏng, với chính xác tuyệt đối của tin đồn, là lão sinh ra trong chung cư tại Mazagaon và bà mẹ người Goa[9] của lão bị tay đại lý tàu biển bỏ rơi khi về nước; vậy nên lão những chẳng phải là người “ quốc” mà khéo còn là con hoang cũng nên. Biết vậy, chúng tôi hiểu tại sao Zagallo nhái giọng Nam Mỹ, tại sao lão luôn cáu kỉnh, tại sao lão hay đấm vào tường đá ở lớp; nhưng hiểu biết ấy làm chúng tôi hết sợ. Và sáng thứ Tư này, chúng tôi biết gặp rắc rối, bởi vì tiết học Nhà Thờ Bắt Buộc bị hủy.

      [7] Khi khám phá ra châu Mỹ, người châu Âu nhầm đây là Ấn Độ, nên gọi thổ dân ở đây là người điêng (Indian - tức người Ấn). Zagallo coi thổ dân châu Mỹ là người điêng “xịn”, nên gọi người Ấn là “ điêng rừng rú”. Thổ dân châu Mỹ rất thích hột cườm, đây là mặt hàng người châu Âu thường dùng để trao đổi với dân bản xứ.

      [8] Llama là loài lạc đà bướu phổ biến ở Nam Mỹ. Conquistador là danh hiệu chỉ những người Tây Ban Nha chinh phục Mexico và Peru vào thế kỷ 16.

      [9] Mazagaon là trong bảy hòn đảo tạo thành Bombay ngày nay. Goa là tộc người ở bang Goa miền Tây Ấn Độ.

      Hai tiết học sáng thứ Tư là giờ địa lý của Zagallo; nhưng chỉ lũ ngốc và những thằng có bố mẹ có định kiến tôn giáo mới học, vì thời gian này chúng tôi có thể chọn hành quân đến Nhà thờ St Thomas theo đội hình cá sấu, hàng dài con trai thuộc đủ mọi dòng tôn giáo đời, trốn học đến nép vào bầu ngực Đức Chúa được cẩn thận dán nhãn tùy chọn của tín đồ Cơ đốc. Điều đó làm Zagallo tức điên, nhưng lão đành bất lực; tuy nhiên, hôm nay, mắt lão ánh lên tia đen tối, vì Con Quạ (tức là thầy Crusoe hiệu trưởng) thông báo lúc Chào cờ buổi sáng rằng giờ Nhà thờ bị hủy. Với cái giọng sống sượng, sin sít phát ra từ bộ mặt con ếch bị gây tê, ông ta tuyên án chúng tôi hai giờ địa lý với Pagal-Zagal, khiến cả bọn ngỡ ngàng, vì chúng tôi chưa hề nhận ra rằng Chúa cũng được phép thực thi quyền lựa chọn. Mặt mày ủ dột, cả bọn lũ lượt tiến vào hang ổ của Zagallo; trong những thằng ngốc khốn khổ mà bố mẹ chẳng bao giờ cho Nhà thờ tàn nhẫn thào vào tai tôi, “Cứ chờ đấy: hôm nay lão ấy cho chúng mày chết.”

      Padma: lão làm đấy.

      Ủ rũ ngồi trong lớp gồm có: Keith Colaco Nội tiết, Perce Fishwala Mập, Jimmy Kapadia, thằng được học bổng và có bố lái taxi, Sabarmati Tóc Dầu, Sonny Ibrahim, Cyrus-đại-đế và tôi. Còn nhiều đứa khác, nhưng giờ có thời gian, bởi với cặp mắt nheo lại khoái trá, Zagallo khùng ra lệnh cho chúng tôi trật tự.

      “Địa lý nhân văn,” Zagallo tuyên bố. “Đây là giề? Kapadia?”

      “Dạ thưa thầy em biết thưa thầy.” Mấy bàn tay bay lên – năm thuộc về bọn ngốc bị cấm nhà thờ, bàn tay còn lại tất nhiên của Cyrus-đại-đế. Nhưng Zagallo hôm nay khát máu: những kẻ sùng đạo nếm mùi đau khổ. “Quân mán rừng,” lão tát tai Jimmy Kapadia, rồi tiện tay xoắn tai nó, “Lên lớp vài lần biết!”

      “Ối ối vâng thưa thầy em xin lỗi thưa thầy...” Sáu bàn tay vẫy, nhưng tai Jimmy vẫn có nguy cơ bị đứt lìa ra. Chủ nghĩa hùng trong tôi trỗi dậy... “Thưa thầy xin thầy dừng lại tim bạn ấy có vấn đề thưa thầy!” Quả thế ; nhưng rất nguy hiểm, vì lúc này Zagallo quay ngoắt sang tôi: “Chà, cu lý , hả?” và tôi bị túm tóc dắt lên trước lớp. Trước ánh mắt nhõm của bạn bè đồng học – ơn Chúa là nó phải mình – tôi quằn quại trong đau đớn với mớ tóc bị cầm tù.

      “Trả lời câu hỏi xem nào. Địa lý nhân văn là cái giề?”

      Đau đớn lấp kín đầu tôi, xóa bỏ mọi ý tưởng gian lận bằng ngoại cảm: “Áái thưa thầy thưa ấy ốối!”

      ... Và giờ có thấy câu đùa trời rơi xuống đầu Zagallo, câu đùa kéo dãn mặt lão thành hình mô phỏng của nụ cười; có thể thấy bàn tay lão thọc ra trước, ngón-cái-và-ngón-trỏ xòe ra; để ý thấy ngón-cái-và-ngón-trỏ kép chặt chóp mũi của tôi và kéo xuống ra sao... mũi kéo đâu, đầu theo đến đó, và rốt cuộc mũi tôi chúi xuống và đôi mắt nhòe nước của tôi buộc phải nhìn chằm chặp vào đôi chân xăng đan với móng chân cáu bẩn của Zagallo trong khi lão phô bày dí dỏm của mình.

      “Nhìn , các ông mãnh – xem ở đây ta có gì? Hãy chiêm ngưỡng, bộ mặt gớm ghiếc của sinh vật nguyên thủy này. Nó làm các cậu nghĩ đến?”

      Và những phản hồi hăm hở: “Thưa thầy con quỷ.” “Thưa thầy giống thằng em họ em!” “ ạ thưa thầy giống cây rau thưa thầy nhưng em biết loại gì.” Tới khi Zagallo, hét át những om sòm: “Im lặng, lũ khỉ con! Vật thể nầy” – giật mũi tôi phát - “đơi chính là địa lý nhân văn!”

      “Sao thưa thầy đâu thưa thầy cái gì thưa thầy?”

      Zagallo phá lên cười. “ thấy à?” lão cười hô hố. “ mặt con dã nhân xấu xí nầy các cậu thấy bản đồ toàn Ấn Độ?”

      “Có thưa thầy thưa thầy như thế nào thưa thầy!”

      “Nhìn đây – bán đảo Deccan buông thõng xuống!” Lại Ối-mũi-em lần nữa.

      “Thưa thầy thưa thầy nếu đó là bản đồ Ấn Độ hai vết nhọ là gì thưa thầy?” Đó là Keith Colaco Nội tiết đâm ra táo tợn. Rúc rích, khúc khích từ đám bạn tôi. Còn Zagallo, sải bước và giải đáp câu hỏi: “Mấy vết nhọ này,” lão thốt, “là Pakistan! Cái bớt bên tai phải là Cánh Đông; còn bên má trái nhọ nhoe nhoét nầy, Cánh Tây! Nhớ lấy, các ông mãnh: Pakistan là vết nhọ mặt Ấn Độ!”[10]

      [10] Khi mới tách khỏi Ấn Độ, Pakistan bao gồm hai vùng lãnh thổ phía Đông và phía Tây. Sau nhiều mâu thuẫn và xung đột, phía Đông tách ra thành Bangladesh ngày nay, còn phía Tây là Pakistan bây giờ.

      “Hô hô,” cả lớp cười, “Câu đùa tuyệt đỉnh, thưa thầy!”

      Nhưng giờ mũi tôi chịu đựng đủ rồi; tổ chức cuộc nổi dậy tự phát chống lại ngón-cái-và-ngó-trỏ túm chặt nó, nó phát động vũ khí của riêng mình... giọt nước mũi nhờn bóng chui ra khỏi lỗ mũi phải, rồi rớt xuống tay Zagallo. Perce Fishwala Béo hét lên, “Thưa thầy, xem kìa! Nước mũi của nó, thưa thầy! Đấy có phải đảo Ceylon[11] ạ?”

      [11] Ceylon, tức Sri Lanka, là hòn đảo lớn ở phía Đông Nam Ấn Độ.

      Tay nhoen nhoét nước mũi, Zagallo mất hứng đùa cợt. “Đồ súc vật,” lão rủa tôi, “Có thấy mày vừa làm gì ?” Tay Zagallo thả mũi tôi ra; quay sang tóc. Thứ bị mũi chối bỏ được chùi vào mái tóc rẽ ngôi chỉnh chu của tôi. Và giờ, lần nữa, tóc tôi bị túm lấy; lần nữa, bàn tay lại kéo... nhưng lần này là kéo lên, và đầu tôi bị giật thẳng lên, chân tôi nhấp nhớm đầu ngón, còn Zagallo, “Mày là cái gì? xem mày là gì!”

      “Thưa thầy đồ súc vật thưa thầy!”

      Bàn tay kéo mạnh nữa cao nữa. “Nhắc lại.” Lúc này đứng bằng móng chân, tôi rú lên: “Ááii thưa thầy đồ súc vật đồ súc vật xin thầy ááii!”

      Lại mạnh hơn nữa và cao hơn nữa... “Lần nữa!” Nhưng nó đột nhiên kết thúc; chân tôi lại đứng đất bằng; và cả lớp rơi vào cơn im bặt chết chóc.

      “Thưa thầy,” Sonny Ibrahim lên tiếng, “thầy giật đứt tóc nó rồi, thưa thầy.”

      Và giờ cả bọn nhao nhao: “Thưa thầy, máu.” “Nó chảy máu thưa thầy.” “Thưa thầy em đưa nó lên ý tá nhé?”

      Ngài Zagallo đứng trơ như tượng với nắm tóc của tôi trong tay. Trong khi tôi – quá choáng để cảm thấy đau – sờ lên mảng đầu chỗ Zagallo vừa tạo thành mảng trọc lốc, hình tròn mà tóc vĩnh viễn mọc lại, và nhận ra rằng lời nguyền khi tôi chào đời, lời nguyền gắn kết tôi với đất nước tôi, vừa tìm thấy thêm cho mình hình thức biểu ngờ mới.

      Hai hôm sau, Crusoe Quạ thông báo rằng, may, Thầy Emil Zagallo rời trường vì lý do cá nhân; nhưng tôi biết lý do là gì. Túm tóc bị nhổ của tôi dính chặt vào tay lão, như vết máu rửa sạch được, và ai muốn giáo viên mọc lông ở bàn tay, “Dấu hiệu bị điên đầu tiên,” như thằng Keith Nội tiết hay , “còn dấu hiệu thứ hai là nhìn xem có .”[12]

      [12] câu đùa quen thuộc ở . người bảo: dấu hiệu bị điên đầu tiên là mọc lông ở bàn tay. Theo phản xạ, người nghe giơ tay lên nhìn. Người kia tiếp: dấu hiệu thứ hai là nhìn xem (ở tay) có .

      Di sản của Zagallo: mảng trọc như sư; và, tệ hại hơn, lô câu chọc ghẹo mới, mà lũ bạn cùng lớp ném vào tôi khi đứng chờ xe buýt đưa bọn tôi về nhà thay đồ cho buổi Giao lưu: “Thò Lò thành Hói rồi!” và “Thằng Cả Khịt có mặt-bản-đồ!” Khi Cyrus xuất trong hàng, tôi cố gắng chĩa mũi dùi vào nó, bằng cách mở đầu bài hát: “Cyrus-hôi-hám, đẻ trong nồi cám, vào năm bốn tám,” nhưng ai hưởng ứng cả.



      Vậy là chúng tôi đến buổi Giao lưu Trường Cathedral. Nơi những hành vi bắt nạt trở thành công cụ của vận mệnh và ngón tay bị biến đổi thành vòi phun, còn Masha Miovic, tay bơi ếch lừng danh, ngã lăn ra bất tỉnh... Tôi đến buổi Giao lưu đầu vẫn còn băng bó. Tôi đến muộn, vì thuyết phục được mẹ cho tôi phải việc dễ dàng; thế nên khi tôi bước vào Hội trường Lớn, dưới những dải cờ đuôi nheo và những chùm bóng bay và ánh mắt ngờ vực nặng tính nghề nghiệp của các nữ giám hộ xương xẩu, những nàng xinh nhất đều nhảy box-step hay Nón Mexico với lũ bạn nhảy nhìn tự mãn phát ghét. Lẽ tất nhiên, các lớp trưởng xí được những em oách nhất; tôi nhìn bọn họ với cơn ghen tị dữ dội; Guzder và Joshi và Stevenson và Rushdie và Tayarkhan và Tayabali và Jussawalla và Wagle và King; tôi cố chen vào giữa họ nhân những điệu xin-thứ-lỗi[13] nhưng khi thấy cái đầu băng bó, quả dưa chuột hình cái mũi và hai vết nhọ mặt tôi họ chỉ cười và quay ... Hờn giận nở bừng trong ngực, tôi gặm khoai tây chiên và nốc Bubble-Up và Vimto và tự nhủ, “Lũ dở người ấy; bọn nó mà biết mình là ai lại chả tránh đường ngay tắp lự!” Song nỗi sợ hãi phải bộc lộ bản chất của tôi vẫn mạnh hơn niềm ham muốn có phần mơ hồ với các châu Âu quay cuồng khiêu vũ.

      [13] Điệu nhảy trong đó người tham gia được phép chen vào cặp đôi để đổi bạn nhảy.

      “Này, Saleem, đúng ? Này, bạn, cậu sao thế?” Tôi bị lôi ra khỏi cơn mộng ngày càng đắng, đơn (đến cả Sonny cũng có bạn nhảy; nhưng mà, nó có hai hõm forcep và mặc quần lót – căn nguyên hấp dẫn của nó) bởi giọng đến từ sau vai trái tôi, giọng trầm khàn, đầy hứa hẹn – nhưng cũng đầy tai ương. Giọng con . Tôi giật mình quay ngoắt lại và thấy mình nhìn chằm chằm vào mỹ nhân có mái tóc màu vàng óng và bộ ngực nổi bật và lừng danh... lạy Chúa, nàng mười bốn tuổi, nàng chuyện với tôi làm gì?... “Tớ tên là Masha Miovic,” mỹ nhân lên tiếng, “Tớ biết em cậu.”

      Dĩ nhiên rồi! Những thần tượng của con Khỉ, các tay bơi ở trường Walsingham, chắc chắn phải biết nhà nữ vô địch bơi ếch của trường! “Tớ biết...” tôi lắp bắp, “Tớ biết tên cậu.”

      “Và tớ cũng vậy,” nàng chỉnh lại nơ cho tôi, “thế là hòa nhé.” Qua vai nàng tôi thấy Keith Colaco Nội tiết và Perce Béo nhìn chúng tôi chảy dãi và nổ mắt ra vì ghen tị. Tôi thẳng lưng và ưỡn vai ra. Masha Miovic hỏi lần nữa về vết băng bó của tôi. “Chả có gì đâu,” tôi với giọng mà tôi hy vọng là trầm ấm. “Tai nạn thể thao ấy mà.” Và rồi, cố gắng mãnh liệt để giữ giọng mình bình tĩnh, “Cậu có muốn... muốn nhảy ?”

      “Được thôi,” Masha Miovic , “Nhưng ôm sát[14] đâu đấy.”

      [14] Nguyên văn: smooch, kiểu khiêu vũ trong đó hai người ôm sát nhau và nhảy chậm rãi, tình tứ.

      Saleem lên sàn cùng Masha Miovic, thề ôm sát. Saleem và Masha, bài Nón Mexico; Masha và Saleem, nhảy điệu box-step bằng tất cả tài năng! Tôi tự cho phép mình có vẻ mặt khệnh khạng; thấy chưa, chả cần là lớp trưởng mới kiếm được bạn nhé!... Điệu nhảy kết thúc; và, vẫn cưỡi đỉnh sóng của niềm phấn khích, tôi hỏi, “Cậu có muốn dạo , ngoài sân ấy?”

      Masha Miovic cười kín đáo. “Ừm, chỉ tí thôi; và nắm tay, nhé?”

      nắm tay. Saleem thề. Saleem và Masha, thảnh thơi tản bộ... trời ơi, phê đấy. Đây mới là cuộc sống. Tạm biệt Evie, xin chào Bơi ếch... Keith Colaco Nội tiết và Perce Fishwala Béo bước ra từ bóng tối của khoảnh sân. Hai đứa khúc khích: “Hi hi.” Masha Miovic ngỡ ngàng khi chúng chặn đường chúng tôi. “Hê hê.” Perce Béo , “Masha, hô hô. Cậu có cuộc hẹn oách nhỉ.” Và tôi, “Im , thằng kia.” Tức Keith Nội tiết, “Cậu biết vết thương chiến trận của nó từ đâu ra , Mashy?” Và Perce Béo, “Hii hôô haa.” Masha , “Đừng thô lỗ thế; cậu ấy bị tai nạn khi chơi thể thao!” Perce Béo và Keith Nội tiết khoái chí cơ hồ ngã ngửa ra; rồi Fishwala bóc trần tất cả. “Zagallo giật tóc nó ra ở lớp đấy!” Hii hôô. Còn Keith, “Thò Lò trọc lóc!” Rồi cả hai đồng thanh, “Cả Khịt mặt bản đồ!” Mặt Masha Miovic lộ vẻ khó hiểu. Và còn có thứ nữa, hơi hướm tâm hồn tinh quái về tình dục chớm nở... “Saleem, chúng về cậu thô lỗ quá!”

      “Ừ,” tôi đáp, “kệ bọn nó.” Tôi toan kéo nàng bỏ . Nhưng nàng tiếp tục, “Cậu định bỏ qua cho chúng đấy chứ?” Những giọt hưng phấn đậu môi nàng; lưỡi nàng đánh vào góc miệng; đôi mắt Masha Miovic bảo, Cậu là gì? Đàn ông hay chuột nhắt?... và dưới bùa mê của nữ vô địch bơi ếch, thứ khác trôi vào đầu tôi: hình ảnh cặp đầu gối bất khả chiến bại; và giờ tôi xông đến Colaco và Fishwala; khi hai đứa còn mải cười, đầu gối tôi thúc vào háng thằng Nội tiết; trước khi nó gục xuống, động tác gập gối tương tự cho Perce Béo đo ván. Tôi quay sang tình nương; nàng hoan hô, khe khẽ. “Này bạn, được đấy.”

      Nhưng giờ thời khắc của tôi qua; Perce Béo lồm cồm đứng dậy, và Keith Nội tiết lao về phía tôi... rũ bỏ mọi lên mặt đàn ông, tôi quay đầu bỏ chạy. Hai thằng đầu gấu liền đuổi theo và sau lưng chúng là tiếng gọi của Masha Miovic, “Chạy đâu thế, người hùng bé bỏng?” Nhưng thời gian đâu cho nàng lúc này, thể để bọn nó tóm được, chạy ngay vào lớp học gần nhất sập cửa lại, nhưng vướng chân thằng Perce Béo và giờ chúng vào trong và tôi nhao ra cửa, tôi vươn tay phải túm lấy nó, ráng mở nó ra, cố mà chạy ra ngoài, chúng sập cửa lại, nhưng tôi kéo bằng sức mạnh của nỗi sợ hãi, tôi mở ra được vài tấc, bàn tay tôi vòng ra quanh cửa và nó sập xuống quá nhanh tôi chưa kịp rút tay ra nó sập lại. Khục cái. Và phía ngoài, Masha Miovic vừa đến nơi và nhìn xuống sàn; và thấy phần ba của ngón tay giữa của tôi nằm đó như mẩu kẹo cao su nhai kỹ. Đây là lúc nàng ngất xỉu.

      đau. Tất cả đều rất xa xăm. Perce Béo và Keith Nội tiết bỏ chạy, để cầu cứu hoặc trốn. Tôi nhìn vào tay mình, hoàn toàn vì tò mò. Ngón tay tôi trở thành vòi phun: huyết dịch phụt ra theo nhịp tim tôi. hề biết ngón tay lại chứa nhiều máu thế. Đẹp . À y tá đây rồi, đừng lo, ạ. Xước da ấy mà. Mọi người điện thoại cho bố mẹ cháu rồi; thầy Crusoe lấy chìa khóa xe. Y tá rịt cục bông tướng vào chỗ cụt. Thấm đầy như kẹo bông màu đỏ. Và giờ Crusoe. Lên xe , Saleem, mẹ em đến thẳng bệnh viện rồi. Vâng thưa thầy. Còn cái mẩu, ai cất cái mẩu chưa? Dạ hiệu trưởng đây ạ. Cám ơn , y tá. Chắc chả dùng đến đâu nhưng ai biết được. Em cầm lấy để thầy lái xe, Saleem... và cầm đầu ngón tay đứt trong bàn tay trái bị tổn thương, tôi được chở đến bệnh viện Breach Candy qua những con phố vang vọng của đêm.

      Ở bệnh viện: tường trắng cáng cứu thương tất cả nhao nhao . Lời lẽ tuôn ra xung quanh tôi như suối. “Ôi xin Chúa bảo bọc chúng con, mảnh trăng bé bỏng của mẹ, chúng làm gì con thế này?” Nghe vậy Crusoe già, “He he. Bà Sinai. Tai nạn thế là thường. Con trai mà.” Nhưng mẹ tôi nổi cơn điên, “Trường lớp kiểu gì thế? Ông Caruso? Ngón tay con tôi đứt lìa mà ông ăn thế à? Nghe trôi đâu. đâu, thưa ông.” Và giờ, trong lúc Crusoe, “ ra tên tôi là – như Robinson ấy mà, bà biết đấy – he he,” bác sĩ tiến lại và câu hỏi được đặt ra, mà câu trả lời đổi thay cả thế giới.

      “Bà Sinai, bà vui lòng cho biết nhóm máu. Cậu bé bị mất máu. Có khả năng phải truyền bổ sung Và Amina: “Tôi nhóm A; nhưng chồng tôi nhóm O.” Và giờ bà kìm nổi nữa, òa khóc, nhưng bác sĩ vẫn, “À, nếu vậy, bà có biết con bà...” Nhưng bà, con bác sĩ, phải thừa nhận rằng bà trả lời được câu hỏi: Alpha hay Omega? “Nếu vậy phải làm xét nghiệm nhanh; về kháng nguyên rhesus?” Mẹ tôi, qua làn nước mắt: “Hai vợ chồng tôi, đều rhesus dương tính.” Và bác sĩ, “À, tốt, ít ra là vậy.”

      Nhưng khi tôi lên bàn mổ - “Cứ nằm yên, con trai, ta gây tê cục bộ cho con, , thưa bà, cậu bé bị choáng, thể gây mê toàn phần được, được rồi con trai, cứ giơ ngón tay lên và giữ yên đấy, y tá đỡ cậu bé , chỉ loáng là xong ngay ấy mà” - trong lúc bác sĩ phẫu thuật khâu ngón tay cụt và thi triển phép mầu cấy gốc móng tay, đột nhiên ở hậu cảnh có tiếng lao xao, như xa hàng triệu dặm, và “Gia đình ta có bà hai Sinai ạ” và tôi nghe ... từ ngữ bồng bềnh qua khoảng vô tận... Bà Sinai, bà chắc chứ? O và A? A và O? Và rheus tính, cả hai người? Đồng hợp tử hay dị hợp tử? , chắc phải có nhầm lẫn gì đó, làm sao nó có thể... Tôi rất tiếc, tuyệt đối ràng... dương tính... và phải A hay O... xin lỗi, thưa Bà, nhưng cậu nhà có phải... nhận nuôi hay là... y tá chen vào giữa tôi và tiếng chuyện xa hàng dặm, nhưng ăn thua, bởi lúc này mẹ tôi rú lên, “Nhưng tất nhiên ông phải tin tôi chứ, bác sĩ; lạy Chúa, tất nhiên nó là con chúng tôi!”



      phải A hay O. Và kháng nguyên rhesus: cách tưởng. Và tương đồng hợp tử cho thấy bằng chứng gì. Và tồn tại trong máu, các kháng thể Kell hiếm. Và mẹ tôi, nức nở, nức-nở-nức-nở, nức nở... “Tôi hiểu. Tôi là con bác sĩ, nhưng tôi hiểu.”

      Có phải Alpha cùng Omega lật mặt tôi? Có phải rhesus chĩa ngón tay thể trả lời vào tôi? Và có phải Mary Pereira buộc phải...Tôi tỉnh dậy giữa căn phòng lạnh, trắng, cửa sổ treo mành sáo và có Đài phát thanh Toàn Ấn Dộ làm bầu bạn. Tony Brent hát: “Buồm Đỏ Dưới Hoàng Hôn”.

      Ahmed Sinai, khuôn mặt bị tàn phá bởi whisky và bây giờ bởi điều tệ hại hơn, đứng sau tấm mành. Amina, khe khẽ thầm. lần nữa, những tiếng được tiếng mất từ xa hàng triệu dặm. Janumđừngmà. Emxinanh. , gì vậy. Tất nhiên là thế. Tất nhiên là. Sao có thể nghĩ rằng em . Của ai mới được chứ. Chúa ơi, đừng đứng đó và nhìn em như thế. Em thề. Emthềtrênđầumẹem. Suỵt, thằng bé nó...

      khúc ca khác của Tony Brent, người mà chương trình tiết mục hôm nay giống của Wee Willie Winkie cách bí hiểm: “Cún Con Cửa Sổ Giá Nhiêu Tiền?” lửng lơ trong khí, bồng bềnh sóng phát thanh. Cha tôi bước đến giường tôi, đổ bóng sừng sững xuống tôi, tôi chưa thấy ông như thế bao giờ. “Abba...” Và ông, “Lẽ ra ta phải biết. Nhìn xem, ta ở đâu khuôn mặt ấy. Cái mũi đấy, lẽ ra ta phải...” Ông quay gót rời khỏi phòng; mẹ tôi theo gót ông, quẫn trí đến nỗi buồn thầm nữa: “, janum, em thể để tin vào những điều như thế về em! Em tự tử! Em ,” và cánh cửa đóng sập lại sau lưng họ. Từ ngoài vọng vào thanh: tiếng chát. Hay cái tát. Hầu hết những điều trọng đại của đời ta đều xảy ra vắng mặt ta.

      Tony Brent bắt đầu rủ rỉ bài ca mới nhất vào bên tai nghe của tôi: và trấn an tôi, rất du dương, rằng “Mây Rồi Sớm Tan.”



      ... Và giờ tôi, Saleem Sinai, dự kiến trong giây lát dành cho tôi-hồi-đó cơ hội được hồi cố; phá bỏ tính thống nhất và thông lệ của văn chương chuẩn mực, tôi cho được thấy trước những gì sắp tới, chỉ để có thể được phép suy nghĩ những ý nghĩ sau: “Ôi đối lập vĩnh cửu giữa bên trong và bên ngoài! Vì mỗi con người, bên trong ta, là tất cả trừ tổng thể, tất cả trừ tính đồng nhất; đủ loại tấtcảbấtkỳthứgì được nhồi nhét ở bên trong , phút trước là người này sang phút sau thành người khác. Cơ thể, mặt khác, lại cực kỳ thuần nhất. thể phân tách, bộ y-phục--mảnh, ngôi đền thiêng, tùy quý vị. Bảo tồn tính nhất thể này là điều rất quan trọng. Nhưng mất mát của ngón tay tôi (được dự báo cách dễ hiểu bằng ngón tay chỉ của người ngư phủ của Raleigh), chưa kể việc vạt tóc nào đó bị giật khỏi đầu tôi, phá bỏ tất cả. Bởi thế chúng ta lâm vào tình thế hội đủ mọi yếu tố của cuộc cách mạng; và tác động của nó đối với lịch sử chắc chắn kinh ngạc ra trò. Mở nút cơ thể[15], và Chúa mới biết ta cho trào ra những gì. Đột nhiên ta mãi mãi khác ta trước kia; và thế giới đổi thay đến độ cha mẹ có thể thôi là cha mẹ nữa, thương có thể hóa thành căm ghét. Và những điều đó, hãy nhớ rằng, mới chỉ là tác động đối với đời tư. Hệ quả đối với gian của hoạt động công chúng[16], quý vị thấy, - - và kém phần sâu sắc.”

      [15] Nguyên văn: uncork (mở nút chai). Rushdie dùng chữ này vì nó rất giống cảnh mẩu ngón tay của Saleem bị đứt: mẩu ngón tay trông cũng giống nút chai, còn rượu vang cũng có màu đỏ như máu.

      [16] Sphere of public action: thuật ngữ có lẽ xuất phát từ khái niệm “public sphere” của Jurgen Habermas. Ông quan niệm rằng giữa gian của cá nhân (private sphere) và gian của chính quyền (government sphere) tồn tại gian chung, nơi công chúng trao đổi, tranh luận, thể quan điểm về các vấn đề chung. gian này có thể là gian vật lý như quảng trường, quán cà phê; cũng có thể là gian trừu tượng như báo chí, sách vở, tác phẩm nghệ thuật.

      Cuối cùng, thu hồi món quà về khả năng tiên tri, tôi để quý vị lại với hình ảnh cậu bé lên mười, ngón tay băng kín, ngồi giường bệnh, ngẫm nghĩ về máu và tiếng-động-chan-chát và nét mặt chủa cha mình; ống kính từ từ chuyển sang góc rộng, tôi cho phép nhạc nền lấn át lời tôi, bởi vì Tony Brent đến cuối điệu liên khúc, và bài kết của ông, cũng giống của Winkie: “Chúc Ngủ Ngon, Quý Bà!” là tên bài hát. Đầy tươi vui, nó cứ mãi du dương, du dương, du dương...

      (Mờ dần)[17]

      [17] Fade out: hiệu ứng khi kết thúc cảnh phim, hình ảnh mờ dần và thanh dần .

    4. banglangtrang123

      banglangtrang123 Well-Known Member Staff Member Super Moderator

      Bài viết:
      26,213
      Được thích:
      47,825
      Chương 17: Thằng nhóc Kolynos




      Từ người ayah đến mụ Góa phụ, tôi luôn là mẫu người thụ động hứng chịu tai ương; nhưng Saleem Sinai, nạn nhân kinh niên, vẫn nhất quyết xem ta là nhân vật chính. Bất kể tội ác của Mary; gạt sang bên bệnh thương hàn và nọc rắn; bỏ qua hai tai nạn, trong tủ giặt và vòng xuyến (khi Sonny Ibrahim, bậc thầy phá khóa, cho phép cặp sừng-thái dương mới nhú của tôi nhập vào hai hõm forcep của nó, và qua kết hợp này mở cánh cửa đến lũ trẻ nửa đêm); đếm xỉa đến tác động từ cú đẩy của Evie và phản bội của mẹ tôi; bất chấp việc mất tóc vì trò bạo hành cay nghiệt của Emil Zagallo và mất ngón tay vì trò khiêu khích liếm môi của Masha Miovic; ngoảnh mặt với mọi dấu hiệu cho thấy điều ngược lại, bây giờ tôi cụ thể hóa, với phong thái và nghiêm túc phù hợp ở con người khoa học, tuyên bố chủ quyền của minh đối với vị trí trung tâm của mọi kiện.

      “… cuộc đời của cháu, nó là, theo nghĩa nào đó, tấm gương của bản thân chúng ta,” Thủ tướng viết, buộc tôi, cách khoa học, phải đối diện với câu hỏi: Theo nghĩa nào? Như thế nào, phương diện gì, nghiệp cá nhân có thể tác động lên vận mệnh dân tộc? Tôi phải trả lời bằng các trạng từ và gạch giữa: tôi được gắn kết với lịch sử theo cả nghĩa đen lẫn nghĩa bóng, cả chủ động lẫn bị động, theo cách mà các nhà khoa học (tiên tiến cách đáng ngưỡng mộ) của nước ta có lẽ định danh là “dạng thức liên kết”, hình thành bởi cấu trúc đối ngẫu kết hợp của hai cặp trạng từ đối lập nêu . Đây là lý do phải có gạch ngang: theo nghĩa đen cách chủ động và theo nghĩa bóng- cách bị động, theo nghĩa bóng- cách chủ động và theo nghĩa đen- cách bị động, tôi và thế giới của tôi xoắn xuýt với nhau gỡ ra được.

      Nhận thấy vẻ ngơ ngác phi khoa học ở Padma, tôi đành quay lại với thiếu chính xác của ngôn ngữ bình dân: Bằng kết hợp của “chủ động” và “nghĩa đen”, tôi muốn , dĩ nhiên, mọi hành vi của tôi trực tiếp - theo nghĩa đen - tác động, hoặc thay đổi lộ trình của, những kiện lịch sử tầm cỡ, chẳng hạn như cái cách tôi đem tới cho đoàn diễu hành ngôn ngữ khúc chiến ca. kết hợp của “bị động” và “nghĩa bóng” bao hàm mọi xu thế và kiện chính trị-xã hội mà, chỉ bằng tồn tại của mình, tác động đến tôi theo nghĩa bóng - ví dụ, bằng cách tìm hiểu nghĩa hàm của chương nhan đề “Ngón Tay Chỉ Của Người Ngư Phủ”, quý vị nhận ra mối liên hệ tránh khỏi giữa cố gắng nhảy vọt đến tuổi trưởng thành, lớn hết cỡ của quốc gia non trẻ với nỗ lực tăng trưởng sớm, bùng nổ của chính tôi... Kế tiếp, “bị động” và “nghĩa đen”, khi có gạch giữa, bao gồm mọi giây phút khi các kiện quốc gia ảnh hưởng trực tiếp đến tôi và gia đình - trong đề mục này quý vị có thể liệt kê việc đóng băng tài sản của cha tôi, và cả vụ nổ Bể chứa nước Walkeshwar, khởi đầu cho cuộc đại xâm lăng của đàn mèo. Và cuối cùng là “dạng thức” của “chủ động-nghĩa bóng”, tập hợp các kiện trong đó những thứ tôi làm hoặc được làm với tôi được phản chiếu lên tầm vĩ mô của các vấn đề đại chúng, còn tồn tại cá nhân của tôi được minh chứng là đồng nhất, cách hình tượng, với lịch sử. Thương tích ở ngón tay giữa của tôi là ví dụ tiêu biểu, bởi vì khi tôi bị chia tách khỏi đầu ngón tay mình và máu ( phải Alpha hay Omega) phun ra thành vòi, điều tương tự xảy ra trong lịch sử, và đủ loại tấtcảbấtkỳthứgì bắt đầu trút xuống đầu ta; nhưng bởi vì lịch sử vận hành ở quy mô vĩ dại hơn bất kỳ cá nhân nào, phải mất rất nhiều thời gian hơn đế khâu vá vết thương và thu dọn chiến trường.

      “Bị động-nghĩa bóng”, “thụ động-nghĩa đen”, và “chủ động-nghĩa bóng”: Hội nghị Những đứa trẻ Nửa đêm là cả ba; nhưng chưa bao giờ nó thành điều tôi mong mỏi nhất: chúng tôi chưa từng hoạt động ở chế độ đầu tiên và ý nghĩa nhất của các “dạng thức liên kết”. Chế độ “chủ động-nghĩa đen” bỏ qua chúng tôi.



      Thay đổi hồi kết: Saleem chín ngón được đưa ra cổng bệnh viện Breach Candy bởi y tá thấp đậm tóc vàng hoe, có gương mặt đóng băng thành nụ cười thiếu thành đến đáng sợ. Cậu hấp háy mắt trước ánh sáng chói chang của thế giới bên ngoài, cố dõi mắt vào hai hình bóng dập dờn tiến về phía cậu từ ánh mặt trời; “Thấy chưa?” y tá nựng, “Thấy ai đến đón con chưa?” Và Saleem nhận ra rằng có điều gì đó khủng khiếp xảy đến với thế giới này, vì bố mẹ cậu, những người đáng lẽ phải đến đón cậu, dọc đường bị biến hóa thành ayah Mary Pereira và Cậu Hanif.

      Cậu Hanif rền vang như còi tàu cập bến, tỏa mùi như nhà máy thuốc lá cũ. Tôi rất quý cậu, vì giọng cười, vì cái cằm cạo, vì cái dáng điệu của tạo vật được nhào nặn hơi lỏng lẻo, vì tính thiếu khả năng phối hợp khiến mỗi cử động của cậu đều chất chứa nguy cơ. (Khi cậu đến Biệt thự Buckingham mẹ tôi giấu tiệt đống bình pha lê mài.) Người lớn chưa từng tin tưởng cậu cư xử đúng phép tắc (“Coi chừng đảng Cộng sản!” cậu gầm lên, và họ đỏ mặt), điều gắn bó cậu với tất cả trẻ con - trẻ con nhà khác, vì cậu với Pia có con. Cậu Hanif mà ngày nọ , hề báo trước, bước ra khỏi sân thượng nhà mình.

      ... Cậu vỗ lưng tôi manh, đẩy tôi nhào vào vòng tay Mary. “Chào, cậu đô vật ! Trông khỏe rồi đấy!” Nhưng Mary, nôn nóng, “Nhưng gầy quá, lạy Chúa! Người ta cho cậu ăn thiếu à? Cậu thích pudding bột ngô ? Chuối dầm đường nhé? Họ cho cậu khoai chiên chứ?”… trong khi Saleem mải nhìn quanh thế giới này nơi mọi thứ dường như vận động quá nhanh; giọng cậu, khi được thành lời, nghe the thé, như thể bị ai đó tua nhanh: “Amma-Abba?” cậu hỏi. “Con Khỉ?” Và giọng Hanif rền vang, “Rồi, chuẩn cẩn chỉnh! Chú bé hơi bị tinh tươm đấy! nào phaelwan: làm chuyến Packard[1], nhé?” Và cùng lúc Mary Pcreira dồn dập, “Bánh sô la nhé,” hứa hẹn, “laddoo, pista-ki-lauz, samosa nhân thịt và kulfi nữa. Cậu gầy quá, baba, gầy gió thổi bay ấy.” Chiếc Packard lăn bánh, nhưng lại rẽ sang đường Warden, lên ngọn đồi hai tầng; và Salcem, “Hanif mamu, mình đâu...” Chưa kịp hết câu; Hanif ồm ồm, “Mợ Pia đợi cháu! Chúa ơi, rồi cháu xem, ta dịp vui chơi oách nhất quả đất!” Giọng cậu hạ xuống đầy mưu: “Rất nhiều,” cậu vẻ bí hiểm, “trò vui” Và Mary, “Arre baba, phải rồi! Bít tết này! Chutney xanh nữa!”…

      [1] dòng xe ô tô đắt tiền của Mỹ.

      ăn loại sẫm đâu,” tôi , sau cùng cũng bó tay chịu trói; vẻ nhõm lên má hai kẻ bắt giữ. “ ,” Mary lắp bắp, “xanh nhạt chứ, baba. Đúng ý cậu.” Và, “Xanh nhạt!” Hanif gầm gừ, “Chúa ơi, xanh như châu chấu.”

      Nhanh quá... chúng tôi đến Kemp’s Corner rồi, xe lao vùn vụt xung quanh như đạn bắn... nhưng thứ hề thay đổi. tấm biển quảng cáo, thằng nhóc Kolynos cười toét miệng, nụ cười tinh linh vĩnh cửu của chú bé đội mũ xanh diệp lục, cái cười ngớ ngẩn của Nhóc bất lão, kẻ mãi mãi bóp tuýp thuốc đánh răng bất tận lên chiếc bàn chải xanh sáng: Giữ Răng Shạch và Giữ Răng Sháng! Giữ Răng Kolynos Cực Bóng Loáng!... và quý vị có thể nghĩ về tôi giống như thằng Nhóc Kolynos bất đắc dĩ, nặn khủng hoảng và thay đổi ra từ tuýp thuốc đáy, bóp thời gian lên chiếc bàn chải dụ; thứ thời gian trắng, sạch, có sọc màu xanh diệp lục[2].

      [2] Màu trắng và xanh lá cây là hai màu của quốc kỳ Pakistan.

      Đây, như vậy, là mở đầu cho cuộc lưu đày thứ nhất của tôi. ( có cuộc thứ hai, rồi thứ ba.) Tôi chịu đựng kêu ca. Tôi, tất nhiên, biết rằng có câu hỏi bao giờ được phép hỏi; rằng tôi được đem cho mượn, như cuốn truyện tranh của Thư viện sách cũ Scandal Point, kỳ hạn; và rằng chừng nào cha mẹ muốn tôi trở lại; họ cho gọi tôi về. Chừng nào, chậm chí là nếu: bởi tôi tự trách mình ít về vụ đày ải này. Chẳng phải chính tôi tự gây cho mình thêm dị tật nữa để bổ sung vào chânvòngkiềng mũidưachuột sừngtháidương mánhọ? Có phải ngón tay cụt của tôi chính là (như tuyên bố về những giọng suýt là), đối với song thân khốn khổ nhiều của tôi, giọt nước tràn ly? Rằng tôi còn là vụ làm ăn hời, còn xứng đáng với đầu tư tình và bảo bọc của họ?... Tôi quyết định tưởng thưởng cho cậu mợ tôi vì lòng nhân ái dang tay đón về sinh vật thảm hại như thằng tôi, bằng cách đóng vai đứa cháu mẫu mực và đợi chờ diễn biến. Có lúc tôi ao ước con Khỉ đến gặp tôi, hay chỉ gọi cho tôi thôi cũng được; nhưng chìm đắm vào những chuyện ấy chỉ tổ chọc thủng quả bóng bình tâm trong tôi, nên tôi cố hết sức xua chúng khỏi đầu. Ngoài ra, sống với Hanif và Pia Aziz hóa ra đúng như những gì cậu tôi hứa: rất nhiều trò vui.

      Họ bày ra với tôi đủ thứ trò vè mà trẻ con trông đợi, và đón nhận rất tự nhiên, từ những người lớn con cái. Căn hộ nhìn xuống Marine Drive của họ lớn, nhưng có cái ban công mà từ đấy tôi có thể thả vỏ lạc xuống đầu khách bộ hành; có phòng ngủ trống, nhưng tôi được dành cho chiếc sofa trắng êm ấm sọc xanh lá ( bằng chứng sớm vì biến đổi của tôi thành Nhóc Kolynos); ayah Mary, người ràng theo tôi dấn bước lưu đày, ngủ dưới sàn bên cạnh tôi. Ban ngày, nhồi dạ dày tôi bằng các thứ bánh kẹo hứa (bây giờ tôi tin rằng do mẹ tôi thanh toán) lẽ ra tôi béo tướng lên, chỉ có điều lần nữa tôi lại bắt đầu phát triển theo hướng khác, và đến cuối năm của lịch sử được tăng tốc (khi tôi mới mười tuổi rưỡi) tôi đạt chiều cao tối đa của người lớn; như thể ai đó túm lấy phần mô mỡ[3] của tôi và bóp lực, hơn với bất kỳ tuýp thuốc đánh răng nào, đến nỗi từng xăng ti mét trồi lên từ người tôi dưới áp lực ấy. Được hiệu ứng Kolynos cứu thoát khỏi bệnh béo phì, tôi tắm mình trong nỗi hân hoan của cậu mợ khi có đứa trẻ trong nhà. Khi tôi đánh đổ 7 Up ra thảm hay hắt xì lên bữa tôi, cùng lắm cậu tôi cũng chỉ rầy “Hây dà! Cái thằng!” với cái giọng còi hơi rền vang, nhưng lại ngoác miệng ra cười rất phản tác dụng. Trong khi đó, mợ Pia trở thành người kế tiếp trong danh sách dài các phụ nữ bỏ bùa và rốt cuộc hủy hoại tôi hoàn toàn và triệt để.

      [3] Nguyên văn: puppy fat, phần mô mỡ tự nhiên ở trẻ con, thường tự tiêu đến tuổi trưởng thành.

      (Tôi phải đề cập rằng, lúc ở căn hộ Marine Drive, tinh hoàn của tôi, giã từ bảo vệ của xương chậu, đưa ra quyết định quá sớm và báo trước là rơi xuống hai bìu đựng chúng. kiện này cũng có vai trò trong những gì diễn ra sau đây.)

      Mumani - mợ tôi - nàng Pia Aziz thần thánh: sống với nàng tức là tồn tại giữa trung tâm nóng bỏng và ướt át của bộ phim Bombay. Ngày ấy, nghiệp điện ảnh của cậu tôi bước vào giai đoạn thoái trào chao đảo, và bởi vì đời là như thế, ngôi sao của Pia cũng xuống theo. Trong phong thái của nàng, suy nghĩ vế thất bại là điều tưởng. được đóng phim, Pia biến đời nàng thành cuốn phim, trong đó tôi được đóng ngày càng nhiều vai phụ. Tôi là chú Tiểu Đồng trung thành: Pia mặc áo lót, cặp hông mềm mại tròn căng trước cặp mắt lảng tránh trong tuyệt vọng của tôi, cười khúc khích trong khi mắt nàng, lấp lánh nhờ kẻ antimony[4], chớp lên đầy quyền uy. “Lại đây, cậu bé, có gì mà xấu hổ, giữ mấy nếp sari này để ta gấp nào.” Tôi còn là Bạn tâm tình Tin cẩn của nàng. Trong khi cậu tôi ngồi ở ghế sofa sọc diệp lục và dện máy chữ ra những kịch bản rồi chả ai dựng thành phim, tôi lắng nghe những lời độc thoại hoài cổ của mợ tôi, và cố rời mắt khỏi hai quả cầu sao chịu nổi, tròn như dưa hấu, vàng ruộm như xoài: tôi muốn đến, chắc quý vị đá đoán ra, bộ ngực đáng ngưỡng mộ của Pia mumani. Trong khi nàng, ngồi giường, tay vắt ngang lông mày, hùng hồn tuyên bố: “Chàng trai, cháu biết , mợ là diễn viên vĩ đại; mợ thể nhiều vai chính! Nhưng, nhìn xem, số mệnh làm gì! thời cậu bé ạ, có Chúa mới biết những ai vật nài van vỉ được đến căn hộ này; thời phóng viên tờ Điện ảnhNữ thần Màn bạc sẵn sàng hối lộ để được vào! Phải, và nhảy múa, rồi ở nhà hàng Venice ai cũng biết mợ - cả đám tài tử nhạc jazz quỳ dưới chân mợ, phải, kể cả gã Braz[5] ấy. Ôi, sau Đôi tình nhân xứ Kashmir, còn có ngôi sao nào lớn hơn? phải Poppy, chẳng phải Vyjayantimala, ai!” Và tôi, gật đầu dứt khoát, -dĩ nhiên rồi-làm gì có ai, trong khi hai trái dưa mỹ miều của nàng nhấp nhô và... Với tiếng cảm thán não nùng, nàng tiếp tục: “Nhưng kể cả thời ấy, lúc ở đỉnh cao danh vọng, mỗi bộ phim là kiệt tác trăm năm có , ông cậu này của cháu vẫn thích sống trong căn hộ hai buồng như thư ký! Thế nên mợ cũng đòi hỏi; mợ như mấy đứa diễn viên rẻ tiền; mợ sống giản dị và vòi vĩnh xe Cadillac và điều hòa nhiệt độ và giường Dunlopillo mua tận bên ; cần bể bơi hình dáng như bikini giống của ả Roxy Vishwanatham! Ở đây, mợ sống, như người vợ nhà thường dân; tại đây, lúc này, mợ chết mòn! Chết mòn, thực . Nhưng mợ biết: nhan sắc là gia tài của mợ; cho cùng, tiền tài mợ nào có cần gì?” Và tôi, hăm hở tán thành: “Mumani, ; cần gì hết.” Nàng khóc thảm thiết; bên tai bị tát điếc của tôi cũng như bị xuyên thủng. “Phải, dĩ nhiên rồi, các người đều muốn tôi khốn khó! Cả thế giới đều muốn Pia này đói rách! Kể cả ta, cậu của cháu, ngồi viết ba cái kịch bản chán lăn chán lóc! Ôi Chúa ơi, mợ bảo cậu, đưa nhảy múa vào, hoặc các thắng cảnh! Cho vai ác ác, sao lại , vai nam chính hùng! Nhưng cậu bảo, , đấy chỉ toàn rác rưởi, giờ mới hiểu - dù trước đây cậu kiêu hãnh thế đâu! Bây giờ cậu phải viết về những con người bình thường và những vấn đề xã hội! Và mợ bảo, ừ, Hanif, làm , thế hay đấy; nhưng đưa vào ít ngón hài quen thuộc, vài đoạn nhảy múa cho Pia của , rồi bi kịch và chính kịch nữa; đấy là điều Công chúng muốn!” Mắt nàng rưng lệ. “Cháu biết cậu viết gì ? Về...” trong nàng như thể con tim sắp tan nát “... Cuộc đời Bình dị ở Nhà máy Rau quả dầm!”

      [4] hóa chất màu bạch kim, được dùng làm phấn kẻ mắt từ rất sớm trong lịch sử.

      [5] Braz Golsaves, nghệ sĩ saxophone có , gương mặt tiêu biểu của nhạc jazz Ấn những năm 1950-70.

      “Suỵt, mumani, suỵt,” tôi nài, “Hanif mamu nghe thấy đấy!”

      “Cho ấy nghe!” Nàng bùng lên, rồi khóc nức nở. “Cho cả mẹ ấy nữa, ở Agra; họ làm mợ chết vì tủi nhục!”

      Mẹ Bề chưa bao giờ có cảm tình với nàng dâu diễn viên. Tôi từng nghe bà bảo mẹ tôi: “ lấy ả đào hát, cáigìkhôngbiết, con trai tôi trải chiếu ngủ dưới cống, chả mấy chốc, cáigìkhôngbiết, nó cho thằng bé uống rượu và ăn thịt lợn[6].” Sau cùng, bà đành chấp nhận cuộc phối ngẫu tránh khỏi này cách miễn cưỡng; nhưng bà bắt đầu viết những bức tâm thư răn dạy Pia. “Nghe này, con ,” bà viết, “bỏ cái nghề diễn viên này con ạ. Tội tình gì phải lầm những điều ô nhục như thế? Lao động, ừ, các có tư tưởng đại, nhưng trần truồng múa may màn ảnh! Trong khi chỉ cần ít tiền con có thế lấy lại thương quyền của cây xăng tốt. Mẹ có thế bỏ tiền túi ra mua cho con chỉ trong hai phút. Ngồi ở văn phòng, thuê nhân viên; thế mới là công việc đàng hoàng.” ai biết Mẹ Bề moi giấc mơ về cây xăng, thứ ngày ám ảnh bà khi về già, từ đâu ra; nhưng bà mang nó ra để giội bom Pia, trước chán ghét của nữ diễn viên.

      [6] Tín đồ đạo Hồi được phép ăn thịt lợn.

      “Sao bà ấy bảo tôi đánh máy tốc ký ?” Pia than thở với Hanif và Mary và tôi trong lúc ăn sáng. “Sao lái taxi, hay ngồi dệt cửi? Tôi , cái chuyện xăng xe xè xửa này nó làm tôi phát rồ.”

      Cậu tôi run lên (lần duy nhất trong đời) bên bờ vực giận dữ. “Ở đây có mặt trẻ con,” cậu bảo, “và bà ấy là mẹ ; tôn trọng bà chút.”

      “Tôn trọng dễ thôi,” Pia hầm hầm bỏ , “nhưng bà ấy muốn xăng cơ.”

      … Và vai phụ tôi trân quý nhất được diễn mỗi lần Pia và Hanif tụ tập chơi bài thường xuyên với bạn bè, tôi được đôn lên chiếm giữ vị trí thiêng liêng của cậu con trai mợ chưa từng có. (Sinh ra từ cuộc hôn phối thầm lặng, tôi có nhiều mẹ hơn phần lớn các bà mẹ có nhiều con; sinh ra cha mẹ là trong những thiên khiếu dị thường của tôi - hình thái sinh sản nghịch đảo, ngoài tẩm kiểm soát của những biện pháp tránh thai, thậm chí của chính mụ Góa phụ.) Khi khách tới chơi, Pia Aziz kêu lên: “Các bạn, nhìn đây, đây là thái tử của tôi! Hòn ngọc chiếc nhẫn! Hạt trai dây chuyền của tôi!” Và mợ kéo tôi về phía mình, ghì đầu tôi khiến mũi tôi bị dúi vào ngực mợ và khoan khoái nằm lọt giữa cặp gối êm ái thể diễn tả thành lời là đôi bầu... thể chịu đựng nổi thứ khoái cảm ấy, tôi giằng đầu ra. Nhưng tôi là nô lệ của mợ; và tôi biết vì sao mợ cho phép mình suồng sã với tôi đến thế. Có tinh hoàn sớm, lớn nhanh, thế nhưng tôi vẫn mang ( cách gian trá) chiếc phù hiệu của ngây thơ về tính dục: Saleem Sinai, trong thời gian tạm trú tại nhà cậu, vẫn mặc quẩn soóc. Đôi đầu gối trần là bằng chứng cho Pia thấy tôi vẫn còn là con nít; bị đôi tất cao đến gối lừa dối, mợ ghì mặt tôi vào vú mợ trong khi giọng hát hoàn mỹ như tiếng sitar[7] thủ thỉ vào bên tai tốt của tôi: “Bé ơi, bé ơi, đừng sợ; mây rồi sớm tan.”

      [7] loại đàn dây cổ truyền của Ấn Độ, hình dáng gần giống như đàn guitar.

      Vì cậu tôi, và vì cả bà mợ kịch nghệ, tôi diễn xuất (ngày càng trơn tru) vai đứa con trai thay thế. Vào ban ngày ta tìm thấy Hanif Aziz trẻn chiếc sofa sọc, bút chì và cuốn vở học trò tay, biên soạn thiên sử thi rau quả dầm của mình. Cậu vận tấm lungi[8] quen thuộc quấn hờ hững quanh eo và cài chặt bằng kim băng; đôi chân lông lá thò ra dưới lần vải. Móng tay cậu ố vàng vì suốt đời hút Gold Flakes; móng chân cũng xỉn màu tương tự. Tôi hình dung ra cảnh cậu hút thuốc bằng ngón chân. Bị ấn tượng mạnh trước cảnh ấy, tôi hỏi cậu rằng thực tế cậu có làm được chiêu này ; thế là lời, cậu nhét điếu Gold Flake vào giữa ngón cái và ngón trỏ và oằn người thành tư thế vặn vẹo kỳ quái. Tôi vỗ tay rối rít, nhưng hình như cậu lên cơn đau suốt cả ngày hôm đó.

      [8] kiểu xà rông của Ấn Độ.

      Tôi chăm chút cho cậu như đứa con hiếu thảo: đổ gạt tàn, gọt bút chì, đem nước uống; trong khi cậu, người sau những khởi đẩu đậm chất ngụ ngôn nhớ ra mình là con của cha mình và dồn hết tâm huyết chống lại tất cả những gì mang hơi hướm phi thực, nguệch ngoạc ra cái kịch bản yểu mệnh của cậu.

      “Sonny Jim,” cậu bảo tôi, “đất nước khốn nạn này mơ mộng năm ngàn năm nay. đến lúc nó cần tỉnh giấc.” Hanif thích phản đối hoàng tử và quái, thần thánh và hùng, hay, đúng ra, phản đối toàn bộ những hình tượng của điện ảnh Bombay; trong ngôi đến của những ảo tưởng, cậu trở thành đại tư tế của thực; trong khi tôi, biết về bản chất thần kỳ của mình, điểu gắn bó tôi vượt mọi yếu tố giảm trừ với đời sống thần thoại của Ấn Độ, cắn môi và biết nhìn đâu.

      Hanif Aziz, nhà biên kịch thực duy nhất làm việc trong nền công nghiệp điện ảnh Bombay, viết câu chuyện về nhà máy rau quả dầm được thành lập, quản lý và vận hành hoàn toàn bằng bàn tay phụ nữ. Có những cảnh lớn miêu tả hình thành của công đoàn; những đoạn miêu tả chi tiết quá trình làm rau quả dầm. Cậu tham vấn Mary Percira về các công thức; họ thảo luận, hàng giờ liền, về hỗn hợp tuyệt hảo của chanh vàng, chanh xanh với garam masala[9]. trớ trêu khi vị đại tông đồ của chủ nghĩa tự nhiên này đồng thời là nhà tiên tri tài năng (dù vô thức) về vận mệnh của gia đình mình; trong những nụ hôn gián tiếp của Đôi tình nhân xứ Kashmir, cậu báo trước các cuộc gặp gỡ của mẹ tôi với Nadir-Qasim của bà ở Pioneer Café; và trong cái kịch bản về chutney chưa lên phim của cậu cũng chứa lời tiên đoán với độ chính xác chết người.

      [9] thứ bột nêm phổ biến ở Bắc Ấn, thành phần gồm nhiều loại gia vi khác nhau.

      Cậu vây hãm Homi Catrack bằng kịch bản. Catrack chẳng sản xuất cái nào; chúng nằm trong căn hộ ở Marine Drive, bao phủ mọi bề mặt có thể, khiến ta phải nhặt chúng khỏi nắp bồn cầu nếu muốn mở nó lên; nhưng Catrack (vì từ tâm? Hay vì lý do khác, -sớm-được-tiết-lộ?) vẫn trả lương xưởng phim cho cậu tôi. Nhờ thế họ mới sống được, Hanif và Pia, bằng hào phóng của người đàn ông mà rồi đây, khi đến lúc, thành người thứ hai bị ám sát bởi Saleem phổng lên như nấm.

      Homi Catrack nài nỉ cậu, “Chỉ cảnh đương thôi?” Còn Pia, “ nghĩ gì thế, dân quê họ bỏ tiền xem phụ nữ ngâm Alfonso à?” Nhưng Hanif, ngoan cố: “Đây là phim lao động, phải phim hôn hít. Và ai ngâm Alfonso cả. Phải dùng loại xoài có hột lớn hơn.”



      Hồn ma của Joe D’Costa, theo chỗ tôi biết, theo Mary Pcreira đến chốn lưu đày; tuy nhiên, vắng mặt của gã chỉ gia tăng hoang mang trong . bắt đầu, trong những ngày ở Marine Drive, sợ hình trước mắt những người khác ngoài , và tiết lộ, khi vắng mặt, những bí mật khủng khiếp về chuyện xảy ra tại Nhà Hộ sinh của Bác sĩ Narlikar vào đêm Độc lập. Thế nên sáng nào cũng rời căn hộ trong tình trạng lo sợ đến nhủn người, và cơ hồ ngã quỵ khi đến Biệt thự Buckingham; chỉ khi thấy Joe vẫn vô hình và im lặng mới thở phào. Nhưng khi về đến Marine Drive, ngập trong samosa và bánh trái và chutney, nỗi hoang mang lại bắt đầu tích tụ… nhưng do quyết tâm (bản thân có đủ phiền phúc) bỏ ngoài đầu mọi chuyện trừ Lũ trẻ, tôi hiểu vì sao.

      Hoang mang hấp dẫn hoang mang; suốt những chuyến , ngồi xe buýt chật như nêm (tàu điện ngừng hoạt động), Mary nghe được đủ mọi loại tin đồn và chuyện ngồi lê đôi mách, mà kể lại cho tôi như những tuyệt đối. Theo lời Mary, đất nước này bị bóp nghẹt trong cuộc xâm lăng của các thế lực siêu nhiên. “Phải, baba, họ bảo ở Kurukshetra bà cụ người Sikh ngủ trong lều bỗng tỉnh dậy và thấy cuộc chiến cổ xưa giữa phe Kuru và Pandava[10] diễn ra ngay bên ngoài! Tin đăng khắp báo, bà cụ chỉ cho người ta chỗ bà nhìn thấy chiến xa của Arjuna và Karna, và quả có vết bánh xe bùn ! Baap-re-baap, lắm điềm gở quá: ở Gwalior người ta nhìn thấy hồn ma Quận chúa xứ Jhansi[11]; và thấy những con rakshasa nhiều đầu như Ravana[12], làm chuyện ấy với phụ nữ và kéo đổ gốc cây bằng ngón tay. Tôi là con chiên ngoan đạo, baba; nhưng tôi cũng phát hãi khi họ bảo mộ của Đức Jesus được tìm thấy ở Kashmir. bia khắc hai bàn chân bị đổng đinh và bà dân chài địa phương thề rằng thấy chúng rỉ máu - máu , xin Chúa cứu vớt chúng con! - vào đúng ngày Thứ Sáu Lành[13]… điều gì xảy ra thế, baba, sao mấy thứ cổ đại ấy chết rấp và đừng ám những người tử tế nữa?” Và tôi, mắt mở to, lắng nghe; và mặc dù cậu Hanif cười ầm lên, tôi vẫn, đến bây giờ, nửa tin nửa ngờ rằng vào thời đại của những kiện bị đẩy nhanh tốc độ và những giờ phút bệnh tật, quá khứ của Ấn Độ sống dậy để đánh bại tại; quốc gia thế tục vừa ra đời này nhận được lời nhắc nhở chấn động về thời cổ đại huy hoàng của nó, khi dân chủ và quyền bỏ phiếu của phụ nữ đều vô nghĩa... khiến cho tất cả bị chế ngự bởi khát khao hồi cổ, và, quên cái huyền thoại mới về tự do, họ quay lại với các lề thói cũ, lòng trung thành và định kiến địa phương chủ nghĩa xa xưa, và cái cơ thể chính trị[14] này bắt đầu rạn nứt. Như tôi : chặt có đầu ngón tay rồi đủ thứ vòi phun của hỗn loạn được mở nắp. “Rồi trâu bò, ba ba, bỗng dưng biến mất; bụp! Thế là ở làng quê, nông dân phải chết đói.”

      [10] Trận huyết chiến Kurukshetra giữa phe Kuru và năm em nhà Pandava, được miêu tả rất chi tiết trong sử thi Mahabharata.

      [11] Lakshmi Bai, Quận chúa (Rani) xứ Jhansi ờ Bắc Ấn, là trong những thủ lĩnh của phong trào nổi dậy ở Ấn Độ năm 1857, chống lại ách thống trị của Công ty Đông Ấn thuộc . Bà hy sinh tại Gwalior trong trận đánh chống quân .

      [12] Rakshasa là loài quỷ trong thần thoại Ấn Độ. Quỷ vương Ravana, vua của loài Rakshasa, chính là kẻ bắt cóc nàng Sita, vợ của Rama, trong sử thi Ramayana.

      [13] Ngày Thứ Sáu Lành là ngày tín đồ Thiên Chúa kỷ niệm kiện Chúa Jesus bi đóng đinh câu rút.

      [14] Nguyên văn: body politic, khái niệm dụ, bắt nguồn từ thời Phục hưng, so sánh quốc gia với cơ thể con người.

      Đúng vào thời điểm này, tôi cũng bị con quỷ kỳ lạ nhập vào; song để quý vị có thể hiểu đúng ý tôi, tôi phải bắt đầu cầu chuyện về việc này từ buổi tôi vô hại, khi Hanif và Pia Aziz đón nhóm bạn đến chơi bài.

      Mợ tôi mắc cái tật hay cường điệu; bởi vì mặc dù thiếu vắng FilmfareScreen Goddess, nhà cậu tôi vẫn là nơi, nhiều người lui tới. Vào những tối chơi bài, ngôi nhà chật ních những nhạc công jazz tán phét về các cuộc cãi cọ và bài phê bình tạp chí Mỹ, và những ca sĩ mang bình xịt họng trong xắc tay, và những thành viên của vũ đoàn Uday Shankar, nỗ lực hình thành phong cách nhảy mới bằng cách kết hợp ba lê phương Tây và bharata natyam[15]; có những nhạc công vừa ký hợp đồng biểu diễn ở nhạc hội của Đài phát thanh Toàn Ấn, Sangeet Sammelan; có những họa sĩ bất đồng quan điểm dữ dội. khí dày đặc tào lao chính trị và các chủ đề khác. “ thực tế, tôi là họa sĩ duy nhất ở Ấn Độ vẽ với cảm quan đích thực của trách nhiệm về ý thức hệ!” - “Ờ, tội thằng Ferdy quá, sau vụ này còn lâu mới kiếm được ban nào.” - “Menon? Chớ có nhắc đến Krishna với tôi. Tôi biết hồi còn nguyên tắc. Như tôi đây, chưa bao giờ từ bỏ...” “… Ơ này, Hanif, dạo này sao thấy Lal Qasim ở đây nhỉ?” Và cậu tôi, liếc nhìn tôi với vẻ bồn chồn: “Suỵt... Qasim nào ? Tôi chả quen ai tên thế cả.” .

      [15] Điệu nhảy cổ truyền của bang Tamil Nadu ở miền Nam Ấn Độ.

      ... Và hòa trộn với cái nhốn nháo trong căn hộ, là những sắc màu và thanh của Marine Drive: những khách bộ hành dắt chó dạo, mua hoa nhài và channa từ những gánh hàng rong; tiếng van nài của dám ăn mày và bán bhel-puri; và ánh đèn chiếu sáng thành chiếc kiềng khổng lồ, lượn tròn và lên tận Đồi Malabar... Tôi đứng ban công với Mary Pereira, ngoảnh bên tai điếc vào những tin đồn thầm, sau lưng tôi là thành phố và trước mắt là hội chơi bài tụ tập và tán gẫu. Và ngày nọ, giữa những con bạc, tôi nhận ra hình thù khắc khổ, cặp mắt trũng sâu của Ngài Homi Catrack. Người chào tôi bằng vẻ vồn vã bối rối: “Xin chào, nhóc! Khỏe chứ hả? Tất nhiên, tất nhiên là khỏe rồi!”

      Cậu Hanif tôi chơi tá lả cách say mê; nhưng cậu là nô lệ của nỗi ám ảnh kỳ quái - nghĩa là, cậu quyết tâm hạ bài chừng nào chưa có đủ dãy mười ba con cơ. Luôn luôn cơ, tất cả đều cơ, và gì khác ngoài cơ. Trong cuộc kiếm tìm hoàn hảo thể đạt tới này, cậu tôi bỏ những bộ ba ngon lành và nguyên những dây bích tép rô, trước cơn ngạc nhiên huyên náo của bạn bè. Tôi thấy tay kèn shehnai[16] danh tìếng Ustad Changez Khan (người có mái tóc nhuộm, khiến vào những tối trời nóng, tai bị đổi màu vì dòng chất lỏng màu đen chảy xuống) bảo cậu tôi: “Thôi nào, bạn; vứt cái chất cơ này , cứ chơi như em ờ đây sao.” Cậu tôi đối mặt cám dỗ ấy; rồi rền vang át tiếng ồn, “, mẹ kiếp biến với quỷ sứ và để yên cho tôi chơi!” Cậu chơi bài như thằng ngốc; nhưng tôi, người chưa từng thấy chuyên nhất về mục đích nào như thế, những muốn vỗ tay.

      [16] loại kèn của Ấn Độ, hình dáng giống kèn ôboa.

      khách quen của những đêm bài bạc lẫy lừng ở nhà Hanif Aziz là tay nhiếp ảnh biên chế của tờ Thời báo Ấn Độ, kho chuyện giật gân và tai tiếng. Cậu tôi giới thiệu tôi với ông ta: “Đây là người đưa cháu lên trang nhất đấy, Saleem. Đây là Kalidas Gupta. thợ ảnh kém cỏi; gã badmaash chính hiệu. Chớ chuyện lâu với ông ấy; đầu cháu xoay mòng mòng với các xì căng đan!” Kalidas có mái đầu bạc và chiếc mũi chim ưng. Tôi thấy ông ấy tuyệt. “Chú biết nhiều xì căng đan à?” Tôi hỏi; nhưng ông ấy chỉ , “Nhóc ạ, ta mà kể ra, chúng làm bỏng tai nhóc đẩy.” Nhưng ông ta chẳng bao giờ biết được tên tội phạm thiên tài, Các hạ xám[17] đứng sau vụ tai tiếng lớn chưa từng thấy tại thành phố này, phải ai khác ngoài Saleem Thò lò. Nhưng tôi được chạy trước. Câu chuyện về cây dùi cui kỳ lạ của Trung tá Sabarmati phải được tường thuật đúng thời điểm. Hậu quả (bất chấp bản chất lươn lẹo của thời gian vào năm 1958-) được phép trước nguyên nhân.

      [17] Eminence grise, biệt danh cùa François Leclerc du Tremblay, cánh tay phải cùa Hồng y Giáo chủ Richelieu. Ông đứng sau màn trướng nhưng có tầm ảnh hưởng rất lớn tới chính trường nước Pháp thời Louis XIII, dù được phong Hồng y, nhưng vẫn được tôn xưng là Các hạ, còn xám là vì ông mặc tăng y màu xám của dòng tu Capuchin. Ở đây dịch là Các hạ xám, theo cách dịch của Vũ và Trần Việt ở Ba người lính ngự lâm.

      Tôi đứng mình ngoài ban công. Mary Pereira vào bếp giúp Pia chuẩn bị sandwich và pakora phết pho mát; Hanif Aziz vẫn chìm đắm trong cuộc kiếm tìm mười ba con cơ; và giờ Ngài Homi Catrack ra đứng cạnh tôi. “Hít thở khí trong lành hả,” ông ta hỏi. “Dạ vâng,” tôi đáp. “Thế,” ông ta hít sâu. “Thế, thế. Đời vẫn hậu đãi nhóc chứ? bạn xuất sắc. Cho bác bắt tay cái nào.” Bàn tay mười tuổi bị nuốt thỏm trong nắm tay của đại gia điện ảnh (tay trái; còn tay phải bị tàn khuyết buông xuôi ngơ ngác bên sườn)... và giờ cú sốc. Lòng bàn tay trái cảm thấy mẩu giấy nhét vào – mẩu giấy ma quái, do nắm tay linh hoạt tuồn sang! Nắm tay của Catrack siết chặt; giọng ông ta thấp xuống, xì xì, như rắn hổ mang; thể nghe thấy từ căn phòng kê chiếc sofa sọc xanh, từng lời của ông ta xuyên vào bên tai tốt của tôi: “Đưa cái này cho mợ mày. Bí mật, bí mật. Được chứ? Cấm bép xép; kẻo tao cho cảnh sát cắt lưỡi.” Và giờ, lớn tiếng và hổ hởi, “Tốt! Tinh thần cháu phấn khởi thế bác rất mừng!” Homi Catrack vỗ vỗ đẩu tôi; rồi quay lại chiếu bài.

      Bị cảnh sát đe dọa, tôi im lặng suốt hai thập niên; nhưng hết rồi. Giờ đây, mọi thứ phải được phơi bày.



      Chiếu bài kết thúc sớm: “Thằng bé phải ngủ,” Pia thẩm, “Mai nó phải học lại rồi.” Tôi tìm thấy cơ hội nào ở riêng vói mợ; tôi bị an trí sofa khi tay trái vẫn nắm chặt mảnh giấy. Mary nằm ngủ dưới sàn... Tôi quyết định giả vờ gặp ác mộng. (Ma lanh phải quá xa lạ với tôi.) Tuy nhiên, may là tôi mệt quá ngủ thiếp ; và hóa ra, việc gì phải giả vờ: bởi vì tôi nằm mơ thấy vụ sát hại thằng bạn cùng lớp Jimmy Kapadia.

      ... Chúng tôi đá bóng ở cầu thang chính trong trường, nền gạch đỏ, hết trôi lại trượt. nền gạch đỏ máu có lát chữ thập đen. Thầy Crusoe đứng đầu cầu thang: “Cấm trượt thành cầu thang đấy, ngày xưa có cậu bị ngã ở chỗ chữ thập rồi.” Jimmy đá bóng ngay chữ thập. “Vụ chữ thập là bịa,” Jimmy bảo, “Họ dối để mình chơi mất vui.” Mẹ nó gọi điện thoại đến. “Đừng nghịch Jimmy nhé tim con yếu đấy.” Chuông vào lớp. Điện thoại gác máy, và giờ chuông đổ... gian trong lớp nhoe nhoét viên mực, Perce Béo và Keith Nội tiết quậy. Jimmy muốn cây bút chì, huých vào sườn tôi. “Ê mày, có bút chì , tao mượn. tí thôi.” Tôi đưa. Zagallo bước vào. Tay lão giơ lên ra lệnh im lặng: hãy nhìn tóc tôi mọc tay lão! Zagallo đội mũ lính chì chóp nhọn... Tôi phải đòi lại cây bút chì. Vươn ngón tay ra chọc chằng Jimmy phát. “Thưa thầy, thầy nhìn kìa, Jimmy bị ngã!” “Thưa thầy em thấy Thò lò nó chọc!” “Thò lò vừa bắn Kapadia, thưa thầy!” “Đừng nghịch Jimmy nhé tim con yếu đấy.” “Trật tự,” Zagallo quát to, “Lũ mán rừng, cầm mồm.”

      Jimmy nằm đống dưới sàn. “Thưa thầy họ dựng chữ thập chứ thưa thầy?” Nó mượn bút chì, tôi chọc, nó ngã. Bố nó lái xe taxi. Giờ chiếc taxi chạy vào lớp; đống dhobi được chất lên ghế sau, Jimmy thế là . Reng, chuông reo. Bố Jimmy hạ cờ taxi xuống. Bố Jimmy nhìn tôi: “Thò lò, mày phải trả tiền xe.” “Nhưng thưa bác cháu có tiền.” Và Zagallo: “Chúng ta ghi nợ cho mày.” Nhìn thấy tóc tôi tay Zagallo. Lửa trào ra từ mắt Zagallo. “Năm chăm chiệu, mạng người?” Jimmy chết rồi; năm trăm triệu hãy còn sống. Tôi bắt đầu đếm: hai ba. Những con số diễu quanh nấm mồ Jimmy. triệu hai triệu ba triệu bốn. Ai thèm quan tâm nếu có ai, có ai chết. trăm triệu và hai ba. Bây giờ những con số diễu quanh lớp học. Thình thịch huỳnh huỵch hai trăm triệu ba bốn năm. Năm trăm triệu hãy còn sống nhăn. Và có mỗi mình tôi...

      ... Trong đêm tối, tôi bừng tỉnh khỏi giấc mơ về cái chết của Jimmy Kapadia sau đó trở thành giấc mơ về -hủy-diệt-bởi-những-con-số, kêu la gầm rú gào thét, nhưng vẫn nắm mảnh giấy trong tay; và cánh cửa bật mở, ra cậu Hanif và mợ Pia. Mary Pereira cố vỗ về tôi, nhưng Pia quyền uy, mợ là cơn gió lốc thần tiên của váy ngủ và dupatta, mợ ẵm tôi tay: “ sao! Kim cương của mợ, sao rồi!” Và cậu Hanif, ngái ngủ: “Nào, phaelwan! Ổn cả rồi; sang đây, sang đây với cậu; bế nó sang, Pia!” Và giờ tôi an toàn trong vòng tay Pia,; “Riêng tối nay, ngọc trai của mợ, con có thể ngủ với chúng ta.” - và tôi nằm đó, rúc giữa mợ và cậu, cuộn mình nép vào những đường cong thơm mùi nước hoa của mumani của tôi.

      Hãy tưởng tượng, nếu quý vị có thể, niềm hân hoan đột ngột của tôi; hãy tưởng tượng cơn ác mộng tan biến khỏi tâm trí tôi với tốc độ nào, khi tôi rúc vào tấm váy ngủ phi thường của mợ! Khi mợ trở mình, cho thoải mái, và trái dưa vàng ruộm mơn trớn má tôi! Khi bàn tay Pia tìm và nắm chặt tay tôi... tôi bèn thực thi nhiệm vụ của mình. Khi tay mợ nắm lấy tay tôi, mảnh giấy được chuyền từ tay sang tay. Tôi cảm thấy người mợ đờ ra, im lặng; rồi, cho dù tôi rúc lại gần nữa gần nữa gần nữa, mợ quên bẵng mất tôi; mợ đọc trong bóng tối, và người mợ càng cứng đờ hơn; và rồi bỗng nhiên tôi hiểu rằng minh bị lừa, rằng Catrack là kẻ thù của tôi; và chỉ đe dọa của cảnh sát mới ngăn được tôi mách cậu.

      (Hôm sau, ở trường, tôi được biết về cái chết bi thảm của Jimmy Kapadia, do nhồi máu cơ tim. Ta có thể giết người bằng cách mơ thấy người đó chết? Mẹ tôi vẫn luôn bảo thế; và, nếu thế , Jimmy Kapadia là nạn nhân đầu tiên bị tôi sát hại. Homi Catrack là người kế tiếp.)




      Lúc tôi quay về sau ngày đầu tiên trở lại trường, vừa đắm mình trong bẽn lẽn bất thường của Perce Béo và Keith Nội tiết (“Này, ờ, bọn tao đâu biết ngón tay mày... à, bọn tao có vé xem phim miễn phí tối mai đấy, mày muốn ?”) và nổi tiếng cũng bất ngờ kém của tôi (“Hết Zagallo rồi! Mày chất đấy! Mất tóc như thế cũng đáng!”), mợ Pia vắng nhà. Tôi ngồi im lặng cạnh cậu Hanif trong khi, ờ dưới bếp, Mary Pereira chuẩn bị bữa tối. Đấy là cảnh gia đình yên bình, nhưng bình yên bị phá vỡ, đột ngột, bởi tiếng cửa mở đánh sầm cái. Hanif buông bút chì xuống khi Pia, vừa đóng sầm cửa chính, đẩy tung cửa phòng khách thô bạo kém.Rồi cậu vui vẻ ồm ồm, “Kìa, bà xã: gì mà kịch tính thế?”… Nhưng Pia dễ xoa dịu. “Viết lách ,” mợ , vung tay chém gió, “Allah, khỏi cần dừng lại vìtôi! Tài ba cho lắm vào, đái ở cái nhà này cũng thấy dấu vết thiên tài của . đẹp ý chứa, chồng tôi? Ta kiếm được nhiều tiền nhỉ? Chúa tử tế với nhỉ?” Hanif vẫn hổ hởi. “Kìa Pia, có ông khách bé của ta ở đây. Mình ngồi xuống, uống trà ...” Nữ diễn viên Pia như đóng băng lại với vẻ khó tin. “Ôi Chúa ơi! Tôi rơi vào cái nhà thế này bao giờ ! Đời tôi tan nát, và mời tôi trà; mẹ mời tôi xăng! Điên hết cả rồi…” Và cậu Hanif, giờ nhíu mày: “Pia, thằng bé...” tiếng rít. “Ahaaa! Thằng bé - nhưng thằng bé cũng chịu đựng; nó vẫn chịu đựng; nó biết thế nào là mất mát, là lẻ loi! Tôi đây, cũng bị bỏ rơi: tôi là diễn viên kiệt xuất, và tôi ngôi đây, vây quanh là chuyện về những tay bưu tá và những gã đánh xe lừa! biết gì về nỗi đau của đàn bà? Chỉ biết ngồi, ngồi, nhận bố thí của lão chủ xưởng phim người Parsee giàu béo, chả cần biết vợ mình phải đeo đồ mỹ ký và hai năm trời có lấy tấm sari mới; đàn bà tuy giỏi chịu đựng , nhưng, người chồng quý ạ, biến đời tôi thành sa mạc! , mặc kệ tôi, để yên cho tôi nhảy qua cửa sổ! Bây giờ tôi sang phòng ngủ,” mợ kết thúc, “và nếu nghe thấy gì nữa đó là vì tim tôi tan nát và tôi chết.” Lại những tiếng sập cửa: đó là màn vào đầy ấn tượng.

      Cậu Hanif bẻ cây bút chì, khi lơ đãng, làm đôi. Cậu lắc đầu khó hiểu: “ ấy làm sao thế?” Nhưng tôi biết. Tôi, người mang bí mật, người bị cảnh sát đe dọa, tôi biết và cắn môi. Vì, mắc kẹt giữa cuộc hôn nhân của cậu mợ mình, tôi phá vỡ nguyên tắc tôi vừa tự đặt ra và xâm nhập vào đầu Pia; tôi thấy mợ đến Homi Carrack và biết rằng, mấy năm nay, mợ là tình nhân củalão; tôi nghe lão bảo mợ rằng chán nhan sắc của mợ, và nay lão có người khác; và tôi, vốn căm ghét lão vì quyến rũ mợ dấu của tôi, nay căm ghét lão dữ dội gấp đôi vì bắt mợ hứng chịu nỗi nhục nhã bị ruồng bỏ.

      “Sang với mợ ,” cậu tôi . “Biết đâu con làm mợ vui lên.”

      Cậu bé Saleem qua những lần cửa bị sập liên tục đến nơi lánh của người mợ bi kịch; và bước vào, để thấy thân hình mỹ lệ tuyệt trần của mợ nằm soải trong lả lơi huyền diệu tên chiếc giường cưới – nơi, mới đêm qua, thân thể nép sát vào thân thể - nơi giấy tuồn từ tay sang tay… tay mợ run bần bật nơi tim; ngực mợ phập phồng; và cậu bé Saleem lắp bắp: “Mợ, ôi mợ, con xin lỗi.”

      tiếng than thống thiết vang lên. Đôi cánh tay đào thương, xòe ra hướng về phía tôi. “Ôi! Hỡi ôi! Ôi hỡi ôi!” Chẳng cần mời gọi thêm nữa, tôi lao về phía vòng tay ấy; tôi nhào vào giữa chúng, nằm lên mợ thổn thức của tôi. Đôi cánh tay khép lại quanh tôi, chặtnữachặtnữa, những móng tay bấu xuyên tấm áo học trò trắng, nhưng tôi mặc kệ!- nhưng tôi mặc kệ - bởi có gì đấy bắt đầu giần giật dưới chiếc thắt lưng khóa chữ S của tôi. Bên dưới tôi, mợ Pia vặn vẹo trong nỗi tuyệt vọng và tôi vặn vẹo theo mợ, vẫn nhớ giữ bàn tay phải loạn động. Tôi giữ cứng nó ở ngoài vòng cuộc đảo điên. Bằng tay, tôi bắt đầu vuốt ve mợ, ý thức được mình làm gì, tôi mới lên mười và vẫn mặc quần cộc, nhưng tôi khóc bởi mợ khóc, và thanh ấy tràn ngập căn phòng - và giường khi hai cơ thể vặn vẹo, hai cơ thể dần dần bắt thứ nhịp điệu, thể gọi tên thể tưởng tượng, hông rướn lên lên phía tôi, trong khi mợ la lớn, “Ôi! Ôi Chúa ơi, Ôi Chúa ơi, Ôi!” Và có lẽ tôi cũng la, tôi dám chắc, có gì đó thay đau buồn ngự trị ở đây, trong khi cậu tôi mải bẻ gãy những cây bút chì chiếc sofa sọc khị mợ oằn oại và quằn quại dưới tôi, và cuối cùng bị bóp nghẹt bởi sức mạnh lớn hơn sức mạnh của mình tôi hạ tay phải xuống, tôi quên bẳng ngón tay đau, và khi nó chạm vào vú mợ, vết thương ấn lên làn da…

      “Yaaouuuu!” Tôi gào lên đau đớn; và mợ, choàng tỉnh khỏi bùa mê khiếp đảm của mấy phút giây ấy, đẩy tôi khỏi người mợ và giáng cái tát vang dội vào mặt tôi. May thay, đấy là má trái; bên tai tốt của tôi gặp nguy cơ tổn thương nào. “Badmaash!” mợ tôi thét lên, “ nhà toàn kẻ điên loạn và biến thái, khốn nạn thân tôi, có người đàn bà nào khổ sở như tôi ?”

      Ngoài cửa có tiếng đằng hắng. Tôi đứng dậy, lẩy bẩy vì đau. Pia cũng đứng dậy rồi, tóc mợ chảy xuống như từng hàng nước mắt. Mary Pereira đứng ở ngưỡng cửa, đằng hắng, mặt đỏ bừng trong cơn bối rối, tay cầm gói giấy.

      “Baba, xem tôi quên cái gì này,” rốt cuộc cũng nên lời. “Giờ cậu là người lớn rồi: nhìn xem, mẹ gửi cho cậu đôi quần dài trắng rất đẹp này.”



      Sau khi mất tự chủ cách khinh suất đến thế trong lúc cố gắng an ủi mợ tôi, tôi khó lòng tiếp tục ở lại căn hộ Marine Drive. Thường xuyên có các cuộc điện thoại dài và căng thẳng trong mấy ngày sau đấy; Hanif thuyết phục ai đó, trong khi Pia khoa tay múa chân, rằng có lẽ bây giờ, sau năm tuần... và tối nọ sau khi tôi ở trường về, mẹ tôi lái chiếc Rover cũ đến đón tôi, và cuộc lưu đày đầu tiên của tôi kết thúc.

      Cả chuyến xe về nhà, lẫn sau này, tôi đều nhận được lời giải thích nào về cuộc lưu đày của tôi. Bởi vậy, tôi quyết định rằng mình nghĩ đến chuyện đặt câu hỏi. Bây giờ tôi mặc quần dài, tôi, bởi vậy, là người đàn ông, và phải gánh chịu khó khăn như người đàn ông. Tôi bảo mẹ tôi: “Ngón tay con cũng ổn rồi. Hanif mamu dạy con cầm bút theo cách khác, nên con có thể viết bình thường.” Bà dường như rất tập trung lái xe. “Kỳ nghỉ này rất vui,” tôi lịch bổ sung. “Cảm ơn mẹ cho con .”

      “Ôi bé con,” bà bật thốt, “mặt con như mặt trời mới mọc thế kia, mẹ biết gì đây? Hãy ngoan ngoãn với cha con; dạo nay ông ấy được vui.” Tôi bảo rằng tôi cố gắng ngoan; bà dường như bị loạng choạng tay lái và xe chúng tôi chạy sát sạt đầy nguy hiểm qua chiếc xe buýt. “Thế giới này là,” lúc sau bà . “Bao chuyện kinh khủng xảy ra mà ta chẳng biết vì đâu.”

      “Con biết,” tôi tán thành. “Ayah kể con nghe.” Mẹ tôi nhìn tôi đầy kinh hãi, rồi ngoảnh nhìn Mary ở ghế sau. “Đồ đàn bà đen đúa,” bà kêu lên, “ kể những gì?” “Tôi giải thích về những quái mà Mary kể cho tôi, song những tin đồn gở dường như làm mẹ tôi bình tâm lại. “Con biết gì,” bà thở dài, “con chỉ là đứa trẻ.”

      Tôi biết gì hả, Amma? Tôi biết về Pioneer Café! Đột nhiên, đường về, lần nữa trong tôi lại dâng lên khao khát báo thù người mẹ bội bạc của tôi, khao khát nhạt dưới ánh hào quang rực rỡ của cuộc lưu đày, nhưng giờ quay lại và hợp nhất với nỗi căm ghét mới phát sinh với Homi Catrack. Niềm khao khát hai đầu này là con quái vật chế ngự tôi, và đẩy tôi đến chỗ làm điều tồi tệ nhất mà tôi từng làm… “Mọi chuyện rồi ổn thôi,” mẹ tôi , “đấy rồi con xem.”

      Vâng thưa mẹ



      Tôi chợt nhận ra mình nhắc gì, trong suốt chương này, tới Hội nghị Những đứa trẻ Nửa đêm; nhưng, thực tình mà , hồi ấy, với tôi chúng có vẻ gì là rất quan trọng. Tâm trí tôi còn nhiều chuyện khác.

    5. banglangtrang123

      banglangtrang123 Well-Known Member Staff Member Super Moderator

      Bài viết:
      26,213
      Được thích:
      47,825
      Chương 18: Cây dùi cui của Trung tá Sabarmati




      Mấy tháng sau, khi Mary Pereira sau cùng thú nhận tội lỗi của , và tiết lộ bí mật về việc mười năm bị hồn ma của Joseph D’Costa theo ám, chúng tôi mới biết rằng, sau khi lưu đày trở về, choáng váng trước tình trạng mà hồn ma rơi vào khi vắng mặt. Nó bắt đầu mục rữa, dẫn đến số thứ tiêu biến: cái tai, mấy ngón chân, hầu hết răng; và có cái lỗ to hơn quả trứng ở giữa bụng. Lo âu vì cái hồn ma rữa nát này, hỏi nó (khi chắc chắn ai nghe được) “Lạy Chúa, Joe, làm gì bản thân thế?” Gã đáp lại rằng trách nhiệm về tội lỗi của dồn cả lên vai gã cho đến chừng nào thú nhận, và nó hủy hoại cơ thể gã. Từ thời khắc đấy, việc thú nhận trở thành tất yếu; nhưng mỗi lần nhìn tôi lại thấy có gì ngăn cản làm điều đó. Tuy nhiên, đó chỉ là vấn đề thời gian.

      Trong khi đó, và hoàn toàn biết mình sắp bị bóc mẽ là kẻ mạo danh đến nơi, tôi cố gắng đón nhận trở lại Điền trang Methwold vài thay đổi. Trước hết, cha tôi dường như muốn dính dáng gì đến tôi nữa, thái độ làm tôi thấy tổn thương nhưng (nếu xét cơ thể tàn khuyết của tôi) hoàn toàn dễ hiểu. Thứ hai, vận may của con Khỉ Đồng thay đổi rệt. “Vị trí của mình ở nhà này,” tôi buộc phải tự thừa nhận, “ bị tiếm đoạt.” Bởi bây giờ chính con Khỉ mới là đứa được cha tôi cho phép vào chốn cư trừu tượng là văn phòng của ông, con Khỉ là người bị ông ôm đến ngạt thở vào cái bụng nhão xệ, và là người buộc phải gánh vác những giấc mơ của ông về tương lai. Tôi còn nghe thấy Mary Pereira hát ru con Khỉ bằng bài đồng dao từng là ca khúc chủ đề của tôi suốt thời thơ ấu: “Bất cứ gì con muốn thành,” Mary hát, “con được; Con được thành, bất cứ gì con muốn!” Cả mẹ tôi dường như cũng lây tâm trạng ấy; và giờ em tôi là đứa được phần khoai tây chiên lớn nhất vào bữa tối, rồi phần nargisi kofta[1] thêm, rồi phần pasada[2] ngon nhất. Trong khi tôi – bất cứ khi nào ai đó trong nhà tình cờ nhìn tôi – cảm thấy nếp hằn sâu giữa lông mày họ, và bầu khí lúng túng và nghi ngại. Nhưng tôi đâu thể phàn nàn? Con Khỉ Đồng chịu đựng vị trí đặc biệt của tôi ngần ấy năm. Chỉ trừ có lần tôi ngã từ cây ngoài vườn xuống sau khi nó huých tôi (mà cho cùng cũng có thể chỉ là tai nạn), nó chấp nhận vị thế quan trọng của tôi với độ lượng tuyệt vời và cả lòng trung thành nữa. Giờ đây tới lượt tôi; mặc quần dài, tôi cần tỏ ra người lớn trước việc bị giáng cấp. “Cái trưởng thành này,” tôi tự nhủ, “khó khăn hơn mình tưởng.”

      [1] Thịt viên.

      [2] Thịt nấu cà ri trộn xốt kem sữa chua.

      Phải rằng con Khỉ ngạc nhiên kém gì tôi trước việc được thăng cấp thành đứa con cưng. Nó cố gắng hết sức để bị thất sủng, nhưng dường như nó thể mắc lỗi. Dạo ấy nó bắt đầu dan díu với đạo Thiên Chúa, phần vì ảnh hưởng của đám bạn người Âu ở trường và phần khác nhờ diện luôn tay lần tràng hạt của Mary Pereira (người, thể đến nhà thờ vì sợ hãi buồng xưng tội, chiêu đãi chúng tôi những tích trong Kinh Thánh); tuy nhiên, tôi tin phần lớn đây là nỗ lực của con Khỉ nhằm giành lại vị trí cũ, dễ chịu của nó trong cũi chó[3] của gia đình (và, nhân chuyện chó, Nữ nam tước Simki an giấc ngàn thu khi tôi vắng mặt, bị thói lang chạ ru vào giấc ngủ).

      [3] Nguyên văn: in the doghouse, nghĩa bóng là bị vào sổ đen, bị ghét bỏ.

      Em tôi hết lời ca ngợi Đức Jesus dịu dàng hiền hậu[4]; mẹ tôi cười lơ đãng và vỗ vỗ đầu nó. Nó quanh nhà ngâm ngợi thánh ca; mẹ tôi nhập tâm giai điệu rồi hát theo. Nó đòi bộ đồ nữ tu thay cho bộ váy y tá ưa thích; cầu ấy được chuẩn y. Nó lấy chỉ xâu hạt đậu gà thành tràng hạt, và lầm rầm Kính-mừng-Mary-đầy-ơn-phước, và bố mẹ tôi khen nó khéo tay. Dằn vặt vì thể bị trừng phạt, nó vươn đến đỉnh điểm của sùng đạo, tụng Đức Chúa Cha từ sáng đến tối, nhịn ăn trong Mùa Chay thay vì vào Lễ Ramzan[5], qua đó hé lộ dấu hiệu bị nghi ngờ của cuồng tín mà, về sau, bắt đầu chi phối tính cách con bé; thế nhưng, có vẻ như, mọi người vẫn chịu đựng nó. Sau cùng, nó trao đổi với tôi. “Chà, ạ,” nó bảo, “xem ra từ giờ trở em đành phải làm con ngoan, còn mọi trò vui về phần .”

      [4] Câu đầu trong bài thánh ca do Charles Wesley, người khởi xướng Phong trào Giám lý (Methodist) vào giữa thế kỷ 18, sáng tác.

      [5] Mùa Chay (Lent) là thời gian bốn mươi ngày trước lễ Phục sinh, là thời gian nhịn ăn của tín đồ Cơ đốc; còn Ramzan (Ramadan) là tháng nhịn ăn của đạo Hồi.

      Có lẽ nó đúng; thiếu quan tâm ràng của cha mẹ đối với tôi lẽ ra dành cho tôi phạm vi tự do lớn hơn; nhưng tôi chìm đắm trong những thay đổi diễn ra mọi khía cạnh cuộc sống của tôi, và trò vui, trong hoàn cảnh ấy, là thứ khó mà có được. Tôi biến đổi về thể chất; chưa gì, râu tơ lún phún nơi cằm tôi, còn giọng tôi lên bổng xuống trầm, ngoài tầm kiểm soát, thang vực. Tôi cảm nhận sâu sắc kỳ dị của bản thân: tứ chi dài ra làm tôi trở nên lóng ngóng, và bộ dạng tôi hẳn là rất hề, bởi vì tôi lớn nhanh vượt hết áo quần và tay chân lộc ngộc thòi hẳn ra ngoài quần áo. Tôi cảm thấy mình như bị chơi xấu, mà thủ phạm là đám quần áo ve vẩy đầy hoạt kê quanh cổ chân và cổ tay tôi; và kể cả khi hướng vào nội tâm với Lũ trẻ bí mật của mình, tôi cũng thấy thay đổi, và tôi thích thế.

      tan rã từ từ của Hội nghị Những đứa trẻ Nửa đêm – mà cuối cùng sụp đổ vào ngày quân Trung Quốc tràn qua dãy Himalaya đánh xuống, làm bẽ mặt fauj[6] Ấn Độ - khi đó diễn ra được thời gian. Khi những háo hức ban đầu tan , chán nản, rồi đến bất đồng, tất yếu nảy sinh. Hoặc ( cách khác) khi ngón tay bị tàn khuyết, và từng vòi máu trào ra, muôn vẻ xấu xa đều trở thành có thể… cho dù những rạn nứt của Hội nghị có là hệ quả (chủ động-nghĩa bóng) từ việc tôi bị cụt ngón tay hay , điều chắc chắn là chúng toác rộng. Ở Kashmir, Narada-Markandaya chìm đắm trong những giấc mơ duy ngã của Narcissus[7] đích thực, và chỉ quan tâm duy nhất đến khoái cảm của việc ngừng hoán đổi giới tính; trong khi Soumitra thằng nhóc du hành thời gian, bị tổn thương bởi vì chúng tôi từ chối lắng nghe nó miêu tả tương lai trong đó (theo lời nó) đất nước này do ông già lẫn cẫn uống nước tiểu và dứt khoát chịu chết nắm quyền, và người ta quên mất mọi bài học, và Pakistan tách làm đôi như con trùng amip, và hai thủ tướng của hai nửa bị kẻ kế vị mình ám sát, và hai người này – nó thề thốt bất chấp việc chúng tôi tin – được gọi bằng cùng cái tên… Sourmitra bị tổn thương thường xuyên vắng mặt trong những buổi họp mặt về đêm của chúng tôi, mỗi lần đều biệt tích khá lâu trong mê cung chằng chịt như mạng nhện của Thời gian. Còn hai chị em ở Baud thỏa mãn với khả năng bỏ bùa những gã khờ trẻ cũng như già. “Hội nghị này ích lợi gì?” chúng hỏi. “Đây có quá nhiều kẻ si mê rồi.” Còn nhà giả kim của bọn tôi bận rộn với phòng thí nghiệm do bố (người được nó tiết lộ bí mật) xây cho; mải mê với viên Điểm kim thạch, nó chẳng còn mấy thời gian cho chúng tôi. Chúng tôi mất nó về tay cám dỗ của vàng.

      [6] Quân đội.

      [7] Nhân vật trong thần thoại Hy Lạp, nổi tiếng đẹp trai, mê đắm vẻ đẹp của bản thân đến nỗi ngày ngày soi mình xuống nước, cuối cùng chết đuối và hóa thành hoa thủy tiên.

      Và còn cả tác động của những nhân tố khác. Trẻ con, dẫu có pháp thuật, cũng miễn nhiễm trước cha mẹ; và khi những định kiến và thế giới quan ở người lớn bắt đầu chiếm lĩnh suy nghĩ của chúng, tôi nhận ra bọn trẻ đến từ Mahatrastra ghét dân Gujarat, bọn da trắng ở miền Bắc dè bỉu “lũ mọi đen” Dravidian[8]; xuất thù địch về tôn giáo; và nảy sinh vấn đề giai cấp trong hội đồng. Đám nhà giàu nhăn mũi khinh bỉ khi phải ngồi chung chiếu với những kẻ thấp hèn hơn; những đứa xuất thân Bà la môn bắt đầu khó chịu ngay từ việc cho phép suy nghĩ của mình tiếp xúc với suy nghĩ của đám tiện dân; trong khi, ở tầng lớp thấp, áp lực của nghèo đói và Chủ nghĩa Cộng sản ngày càng rệt… và, tất cả những điều đó, có xung đột giữa các tính cách, và cả trăm cuộc cãi cọ khóc lóc rầm rĩ vốn là điều thể tránh khỏi ở cái nghị viện gồm toàn lũ nhóc chưa đủ lớn.

      [8] Dravidian: nhóm ngôn ngữ ở miền Nam Ấn Độ và Sri Lanka, bao gồm tiếng Tamil và Kannada.

      Theo cách này Hội nghị Những đứa trẻ Nửa đêm ứng nghiệm lời tiên đoán của Thủ tướng và trở thành, thực tế, tấm gương của đất nước; chế độ bị-động-nghĩa-đen vận hành mặc dầu tôi cố cưỡng lại, với tuyệt vọng ngày lớn, và sau cùng là với cam chịu ngày càng tăng… “Hỡi các chị em!” tôi phát thanh, bằng giọng tâm linh cũng khó kiểm soát như giọng thể chất của tôi, “ thể để điều này xảy ra! thể cho phép mâu thuẫn bất tận của quần-chúng-bị-trị-và-giai-cấp-thống-trị, của tư-bản-và-lao-động, của ta-và-địch xen vào giữa chúng ta! Ta,” tôi cách hăng say, “phải là lực lượng thứ ba, ta phải là sức mạnh can thiệp vào song đề tiến thoái lưỡng nan này; bởi chỉ có khác , mới hơn, ta mới thực hóa được triển vọng mà ra đời của chúng ta mang lại!” Cũng có người ủng hộ tôi, và ai nhiệt tình bằng Parvati-phù-thủy; nhưng tôi thấy bọn trẻ tuột khỏi tay mình, mỗi đứa đều vướng bận với cuộc đời riêng, cũng như, thực lòng mà , tôi cũng vướng bận với đời tôi. Cứ như thể cái hội nghị huy hoàng của chúng tôi hơn món đồ chơi thời trẻ con là mấy, như thể quần dài hủy hoại những gì nửa đêm tạo ra… “Ta phải thống nhất chương trình,” tôi kêu gọi, “Kế hoạch Năm năm của riêng ta, sao lại ?” Nhưng tôi có thể nghe thấy, đằng sau lời kêu gọi đầy lo âu của mình, tiếng cười khoái trá của đại kình địch của tôi; và Shiva xuất trong đầu chúng tôi, nhạo báng, “, cậu ấm ạ; chẳng có lực lượng thứ ba nào hết; chỉ có tiền-bạc-và-nghèo-đói, đầy-đủ-và-thiếu-thốn, phải-và-trái; chỉ có ta-chống-lại-cả-thế-giới! Thế giới đồng nghĩa với ý thức, công tử bột ạ; thế giới có chỗ cho lũ mơ tưởng cùng những mộng mơ của chúng; thế giới, Thò lò bé bỏng ơi, là vật chất. Vật chất và những kẻ làm ra chúng thống trị thế giới; nhìn Birla, và Tata[9], và các nhân vật quyền lực khác : họ làm ra vật chất. Vì vật chất, đất nước này được điều hành. vì con người. Vì vật chất, Hoa Kỳ và Liên Xô cấp viện trợ; song năm trăm triệu người vẫn nhịn đói. Có vật chất, mới có giờ mơ mộng; có, phải chiến đấu.” Bọn Trẻ, lắng nghe chúng tôi tranh cãi cách hứng thú… hoặc có lẽ , có lẽ ngay cả cuộc đối thoại này cũng thu hút được quan tâm của chúng. Và giờ tôi: “Nhưng con người phải là đồ vật; nếu ta đoàn kết lại, nếu ta thương nhau, nếu ta cho thấy rằng đây, chính đây, đoàn kết giữa người với người này, Hội nghị này, những-đứa-trẻ-sát-cánh-bên-nhau-vượt-mọi-thăng-trầm này, có thể là con đường thứ ba…” Nhưng Shiva, khịt mũi: “Cậu ấm ơi, toàn chém gió thôi. Gì mà tầm-quan-trọng-của-cá-nhân. Gì mà triển-vọng-của-lòng-nhân-đạo. Ngày nay, con người chỉ là thứ đồ vật hơn kém.” Và tôi, Saleem, sụp đổ: “Nhưng… quyền tự quyết… hy vọng… còn tâm hồn vĩ đại, hay còn gọi là mahatma, của nhân loại… rồi thi ca, còn nghệ thuật, còn…” Lập tức Shiva chớp lấy chiến thắng: “Thấy chưa? Tao biết là mày thành như thế. Nhão nhoét, như cơm nát. Ủy mị như các bà mẹ. Biến , ai cần mớ rác rưởi của mày? Chúng tao còn phải sống. Mẹ kiếp, mũi-dưa-chuột, tao chán ngấy cái Hội nghị của mày rồi. Chẳng liên quan đếch gì.”

      [9] Ghanshyam Das Birla là nhà tư bản lớn trong ngành dệt và giấy, còn Tata là gia đình đại tư bản công nghiệp của Ấn Độ.

      Quý vị hỏi: đây là những đứa trẻ lên mười? Tôi trả lời: Đúng, nhưng. Quý vị bảo: trẻ lên mười, cứ cho là sắp mười , thảo luận về vai trò của cá nhân trong xã hội? Và mâu thuẫn giữa tư bản và lao động? Cuộc thảo luận có sâu làm sức ép nội tại của khu vực nông nghiệp và công nghiệp hóa? Và xung đột giữa những di sản văn hóa-xã hội? Lũ trẻ chưa đầy bốn ngàn ngày tuổi có trao đổi về bản sắc cá nhân, và những xung đột có tính kế thừa của chủ nghĩa tư bản? Mới sống chưa đến trăm ngàn giờ, bọn trẻ có đối chiếu Gandhi với Mác-Lê, quyền lực với bất lực? Tập thể có đối lập với cá nhân? Chúa có chết về tay trẻ con? Dù chấp nhận của các tượng được cho là kỳ diệu, liệu chúng ta có thể tin rằng lũ nhóc con lại chuyện như những ông già râu rậm?

      Tôi đáp: có lẽ phải bằng những lời này; có lẽ hoàn toàn bằng lời, mà bằng thứ ngôn ngữ thuần khiết hơn của ý nghĩ; nhưng đúng, chắc chắn, gốc rễ của vấn đề là như vậy; vì trẻ con là bình chứa để người lớn rót chất độc của họ vào, và chính thuốc độc của người lớn hủy hoại chúng tôi. Thuốc độc, và cách nhiều năm sau đó, mụ Góa phụ cầm dao.

      Tóm lại: sau khi quay lại Biệt thự Buckingham, kể cả thứ muối của lũ trẻ nửa đêm cũng trở nên nhạt nhẽo; giờ đây, có những đêm tôi thậm chí chẳng buồn khởi động mạng truyền thanh toàn quốc của mình; và con quỷ lẩn khuất trong tôi (nó có hai đầu) có thể ung dung tiếp tục những trò ma quỷ của nó. (Tôi bao giờ biết Shiva có tội hay vô tội trong các vụ sát hại điếm; nhưng tác động của Kali-Yuga lớn đến mức ngay cả tôi, người tốt và nạn nhân bẩm sinh, cũng chắc chắn phải chịu trách nhiệm về hai cái chết. Đầu tiên là Jimmy Kapadia; thứ hai là Homi Catrack.)

      Nếu như có lực lượng thứ ba, đó chính là tuổi thơ. Nhưng nó chết; hay đúng hơn, bị sát hại.



      Dạo ấy chúng tôi ai cũng có vấn đề. Homi Catrack có đứa con ngớ ngẩn Toxy, còn nhà Ibrahim có những mối lo khác: Ismail bố của Sonny, sau nhiều năm hối lộ quan tòa và đoàn bồi thẩm, nay có nguy cơ bị Hội đồng luật sư điều tra; còn Ishaq bác của Sonny, của khách sạn hạng hai Embassy ở gần Đài phun nước Flora, bị đồn là lún sâu vào nợ nần với giới băng đảng địa phương, và thường xuyên lo sợ bị “làm thịt” (hồi ấy, ám sát trở thành chuyện thường ngày giống như oi bức)… cho nên có lẽ có gì ngạc nhiên khi tất cả chúng tôi đều quên bẵng tồn tại của Giáo sư Schaapsteker. (Người Ấn càng già càng to ra và quyền lực hơn; nhưng Schaapsreker là người Âu, và loại người như ông may thay cứ nhạt nhòa theo năm tháng, và, thường biến mất hoàn toàn.)

      Nhưng giờ, bị, có lẽ, con quỷ trong tôi xui khiến, đôi chân tôi dẫn tôi leo cầu thang lên tầng cùng của Biệt thự Buckingham, nơi tôi thấy ông già gàn dở, bé và teo tóp cách khó tin, cái lưỡi hẹp ngừng thò thụt giữa hai môi – lập lè, liếm láp: cựu chuyên gia tìm kiếm huyết thanh kháng độc, kẻ hạ sát ngựa, sahib Sharpsticker, nay chín mươi hai và còn Viện nghiên cứu mang tên ông nữa, mà nghỉ hưu ở căn hộ tối tăm tầng thượng, chất đầy các loại thực vật nhiệt đới và rắn ngâm nước muối. Tuổi già, làm rụng nổi răng và túi nọc của ông, biến ông thành hóa thân của loài rắn; như những người Âu lưu lại đây quá lâu, máu điên rồ cổ xưa của Ấn Độ ngâm não ông, làm ông quay ra tin vào những điều mê tín của đám nhân viên của Viện, mà theo lời họ ông là hậu duệ cuối cùng của dòng tộc được mở đầu khi con hổ mang chúa giao phối với người đàn bà, sinh ra đứa trẻ hình người (nhưng cốt rắn)… dường như cả đời mình tôi chỉ cần rẽ vào góc phố là lại gặp phải thế giới mới và bị thay hình đổi dạng cách dị thường. Leo lên cái thang (hoặc cầu thang), và ta thấy con rắn chờ ta.

      Rèm lúc nào cũng rủ; bên trong căn hộ của Schaapsteker, mặt trời mọc và lặn, và đồng hồ tích tắc. Là con quỷ, hay cảm giác chung về nỗi độc kéo chúng tôi lại gần nhau?... Bởi vì, vào những ngày tháng con Khỉ thăng tiến còn Hội nghị suy tàn, tôi bắt đầu leo lên cầu thang mỗi khi có thể, và lắng nghe những lời càm ràm của ông già điên dại, xì xì như rắn.

      Lời chào đầu tiên, khi tôi lập cập bước vào cái hang khóa của ông, là: “Chà, cậu bé – khỏi bệnh thương hàn rồi đấy.” Câu ấy khuấy động thời gian như quầng mây bụi lờ đờ và tái hợp tôi với tôi-hồi--tuổi; tôi nhớ lại chuyện Schaapsteker cứu mạng tôi bằng nọc rắn thế nào. Kể từ hôm đó, suốt mấy tuần, tôi ngồi dưới chân ông, và ông hé cho tôi thấy con rắn hổ mang cuộn tròn trong tôi.

      Ai kể, vì muốn tốt cho tôi, về sức mạnh dị của loài rắn? (Cái bóng của chúng giết chết bò; nếu chúng chui vào giấc mơ của người, vợ người ấy có thai; ai giết rắn dòng họ ấy tuyệt tự suốt hai mươi đời.) Ai miêu tả cho tôi – với trợ giúp của sách vở và những cái xác nhồi – kẻ thù truyền kiếp của rắn hổ mang? “Phải hiểu kẻ thù, nhóc ạ,” ông xì xì, “bằng chúng giết cháu chết chắc.”… Dưới chân Schaapsteker, tôi nghiên cứu chồn và lợn lòi, già đẫy[10] mỏ dao găm và loài hươu barasinha chuyên lấy móng giẫm nát đầu rắn; rồi cầy Ai Cập, rồi cò quăm[11]; cao mét hai, bạo dạn, mỏ khoằm, có ngoại hình và cái tên làm tôi nảy sinh ý nghĩ nghi ngờ về Alice Pereira của cha tôi; rồi ó buteo, chồn hôi, chồn ăn mật trú ngụ đồi; chim việt dã, lợn lòi peccary, rồi loài chim cangamba đáng sợ. Schaapsteker, từ sâu thẳm của lão suy, dạy bảo tôi về cuộc đời. “Phải tỉnh táo, nhóc ạ. Bắt chước hành vi của rắn. Phải bí mật; trong bụi cỏ mà tấn công.”

      [10] loài chim hình dáng gần giống cò, khá phổ biến ở Ấn Độ (ở Đồng Tháp Mười cũng có), mỏ to, dày và nhọn, thường ăn rắn.

      [11] Danh pháp trong tiếng Việt là diều ăn rắn. số thuyết cho rằng cái tên “chim thư ký” xuất phát từ việc loài chim này có chòm lông đầu giống như bút lông mà thư ký thời xưa hay giắt ở tai.

      lần ông bảo: “Cháu phải xem ta như cha. Cái mạng của cháu chẳng phải do ta ban cho lần nữa?” Với tuyên bố này, ông chứng tỏ ông cũng mắc phải bùa phép của tôi y như tôi mắc phải của ông; ông chấp nhận mình là trong số vô vàn cha mẹ mà chỉ mình tôi là có quyền năng cho ra đời. Và mặc dầu, sau thời gian, tôi cảm thấy khí trong các căn phòng của ông quá ngột ngạt, và bỏ ông lại, lần nữa, trong độc mà ở đó ông bao giờ bị ai làm phiền nữa, ông cũng chỉ cho tôi phải hành động ra sao. Bị con quỷ hai đầu của khát vọng báo thù thiêu đốt, tôi sử dụng năng lực ngoại cảm (lần đầu tiên) làm vũ khí; và nhờ vậy tôi khám phá chi tiết về mối quan hệ của Homi Catrack với Lila Sabarmati. Lila và Pia vốn là kỳ phùng địch thủ về nhan sắc; người vợ của ứng cử viên sáng giá cho danh hiệu Thủy sư Đô đốc chính là tình nhân mới của đại gia điện ảnh. Trong khi Trung tá Sabarmati diễn tập biển, Lila và Homi cũng thực những màn thao diễn của riêng họ; trong khi con sư tử của biển cả trông đợi cái chết của ngài đương kim Đô đốc, Homi và Lila cũng sắp có cuộc hẹn với thần Chết. (Có trợ giúp của tôi.)

      “Phải bí mật,” sahib Sharpsticker dặn; cách bí mật, tôi theo dõi kẻ thù của tôi, Homi, và người mẹ lăng loàn của Mắt Chẻ và Tóc Dầu (hai đứa dạo này rất hợm hĩnh, ra là từ khi báo chí loan tin việc Trung tá Sabarmati được đề bạt chỉ thuần túy là thủ tục. Chỉ là vấn đề thời gian…). “Thứ đàn bà phóng đãng,” con quỷ ở trong tôi thầm thành tiếng, “Kẻ phạm tội thất tiết tồi tệ nhất! Chúng ta biến ngươi thành tấm gương tày liếp; lấy ngươi làm minh chứng về số phận chờ đợi kẻ dâm đãng. Ôi kẻ ngoại tình vô tâm! Chẳng lẽ ngươi thấy lang chạ gây ra hậu quả gì cho nữ nam tước Simki von der Heiden lừng lẫy? – mà vốn là, cách thẳng thừng, con chó cái, giống hệt như ngươi.”

      Cách nhìn của tôi về Lila Sabarmati dịu cùng tuổi tác; cho cùng, ả và tôi có điểm chung – mũi ta, cũng như tôi, sở hữu quyền năng phi thường. Tuy nhiên, ở ta là thứ ma thuật hoàn toàn trần tục: cái nhăn mũi đủ sức mê hoặc vị Đô đốc sắt đá nhất; hơi lửa xíu từ lỗ mũi đủ để khơi dậy ngọn lửa kỳ lạ trong trái tim của đại gia điện ảnh. Tôi hơi ân hận về việc phản bội cái mũi ấy; việc đó gần như đâm sau lưng người em họ.

      Điều tôi khám phá ra: cứ mười giờ sáng Chủ nhật, Lila Sabarmati lại lái xe đưa Mắt Chẻ và Tóc Dầu đến rạp Metro dự cuộc gặp gỡ hàng tuần của Metro Cub Club. ( ta tình nguyện đưa cả lũ chúng tôi luôn; Sonny và Cyrus, con Khỉ và tôi chất lên chiếc Hindustan sản xuất tại Ấn Độ của ta.) Và trong khi chúng tôi lái xe đến chỗ Lana Turner hay Robert Taylor hay Sandra Dee, Ngài Homi Catrack cũng chuẩn bị cho cuộc hẹn hàng tuần. Trong khi chiếc Hindustan của Lila lạch xạch chạy dọc bên đường xe lửa, Homi thắt chiếc khăn lụa màu kèm quanh cổ; trong khi ta dừng đèn đỏ, lão khoác chiếc măng tô rừng màu Technicolor[12]; khi ta dẫn chúng tôi vào bóng tối của phòng chiếu, lão đeo cọng kính râm gọng vàng; và khi ta để chúng tôi lại xem phim, lão ta cũng bỏ rơi đứa trẻ. Toxy Catrack chưa bao giờ phản ứng với những chuyến của lão bằng việc gào khóc giãy giụa quẫy đạp; con bé biết điều gì sắp sửa xảy ra, và ngay cả Bi-Appah cũng kiềm chế được nó.

      [12] Bush-coat hay Safari jacket là loại áo khoác rừng thường được các nhà thám hiểm sử dụng. Còn Technicolor là loại phim màu điện ảnh phổ biến trong giai đoạn 1920-1950.

      Ngày xửa ngày xưa có Radha và Krishna, có Rama và Sita, có Laila và Majnu; rồi cả (bởi chúng tôi phải là bị Tây hóa) Romeo và Juliet, rồi Spencer Tracy và Katherine Hepburn. Thế gian có vô số chuyện tình, và mọi đôi tình nhân, theo nghĩa nào đó chính là hóa thân của tiền nhân. Khi Lila lái chiếc Hindustan tới địa chỉ Đê Colaba, ta là Juliet bước ra ban công; khi Homi khăn màu kem, kính râm mạ vàng phóng đến gặp ta (cũng chiếc Studebaker từng chở mẹ tôi đến Nhà Hộ sinh của Bác sĩ Narlikar), lão là Leander bơi vượt eo Hellespont đến với ngọn nến bập bùng của nàng Hero[13]. Về vai trò của tôi trong chuyện này – tôi đặt tên cho nó.

      [13] Theo thần thoại Hy Lạp, chàng trai Leander đem lòng Hero và hàng đêm bơi vượt eo Dardanelles ( eo biển ở Tây Bắc Thổ Nhĩ Kỳ, tên cũ là Hellespont) để đến với nàng. Hero thắp ngọn nến tháp cao để làm mốc dẫn đường cho Leander.

      Tôi thừa nhận: việc tôi làm đáng mặt hùng. Tôi chiến đấu với Homi lưng ngựa, với ánh mắt bừng bừng và lưỡi gươm rực lửa; thay vào đó, bắt chước hành vi của loài rắn, tôi bắt đầu cắt từng mẩu báo. TỪ ỦY BAN GIẢI PHÓNG GOA PHÁT ĐỘNG PHONG TRÀO SATYAGRAHA[14], tôi tách ra TR và U; PHÁT NGÔN VIÊN CỦA QUỐC HỘI ĐÔNG PAKISTAN BỊ ĐIÊN cho tôi phụ “NG”, tôi tìm được “TÁ” trong NEHRU CÂN NHẮC TỪ CHỨC Ở QUỐC HỘI; giờ sang chữ thứ hai, tôi cắt được “SAB” từ BẠO ĐỘNG, BẮT BỚ HÀNG LOẠT Ở ĐẤT ĐỎ KERALA: BỌN PHÁ HOẠI LỘNG HÀNH: GHOST CÁO BUỘC ĐẢNG QUỐC ĐẠI LÀ GOONDA[15], và lấy được “ARM” từ HOẠT ĐỘNG TẠI BIÊN GIỚI CỦA QUÂN TRUNG QUỐC LÀ VI PHẠM NGUYÊN TẮC BANDUNG[16]. Để hoàn thành cái tên, tôi xén mấy chữ “ATI” từ THỦ TƯỚNG TUYÊN BỐ CHÍNH SÁCH ĐỐI NGOẠI CỦA DULLES[17] THIẾU NHẤT QUÁN, KHÓ DỰ ĐOÁN. Cắt gọt lịch sử cho phù hợp với mưu độc địa của mình, tôi chộp lấy VÌ SAO INDIRA GANDHI GIỜ ĐÂY là CHỦ TỊCH ĐẢNG QUỐC ĐẠI và giữ hai chữ “VÌ SAO”; nhưng tôi chịu bám vào mỗi chính trị, mà quay sang mục thể thao để lấy chữ “VỢ” trong TRUNG PHONG CỦA MOHUN BAGAN LẤY VỢ. Quảng cáo P.K. BA CÁI PHONG, NHAI NHAI LẠI VẪN MẤT MÙI! cho tôi chữ “ÔNG”, và chữ “ĐẾN” tôi lấy trong cái tin bi thảm NHÂN DÂN ĐẾN DỰ LỄ TANG ABUL KAAM AZAD. lần nữa tôi buộc phải tìm kiếm trong những mẩu tin ngắn: TAI NẠN ĐÈO NAM: SHEPRA NGÃ CHẾT[18] cho tôi chữ “COL” tôi rất cần, nhưng “ABA” khó tìm, mãi mới xuất tại mục quảng cáo phim: ALI-BABA, TUẦN SIÊU ĐÌNH ĐÁM THỨ MƯỜI BẢY – MUA NHANH KẺO HẾT!... Những ngày tháng ấy là lúc Sheikh Abdullah, con Sư tử xứ Kashmir, vận động trưng cầu dân ý để quyết định tương lai của bang; dũng khí của ông cho tôi tiết “ĐÊ”, vì nó dẫn đến cái tít ABDULLAH BỊ BẮT ĐÊM QUA VÌ KÍCH ĐỘNG DƯ LUẬN – PHÁT NGÔN VIÊN CỦA CHÍNH PHỦ. Rồi cả Acharyạ Vinobha Bhave, người dành mười năm vận động giới địa chủ quyên tặng ruộng cho người nghèo trong chiến dịch bhoodan của mình, tuyên bố số quyên tặng vượt ngưỡng triệu hecta, và phát động hai chiến dịch mới, kêu gọi quyên tặng nguyên cả các làng xã (“gramdan”) và cuộc đời của mỗi cá nhân (“jivandan”). Khi J.P.Narayan tuyên bố cống hiến đời mình cho nghiệp của Bhave, cái tít NARAYAN CON ĐƯỜNG CỦA BHAVE cho tôi chữ “ĐƯỜNG” tôi mỏi mắt kiếm tìm. Đến đây là sắp xong rồi; ngắt chữ “VÀO” từ PAKISTAN SẮP RƠI VÀO HỖN LOẠN CHÍNH TRỊ: ĐẤU ĐÁ BÈ PHÁI LÀM CHÍNH TRƯỜNG ĐIÊU ĐỨNG, và chữ “CHỦ NHẬT” từ đầu báo Tin nhanh Chủ nhật, tôi thấy mình chỉ còn thiếu đúng chữ. Những kiện ở Đông Pakistan cấp cho tôi chữ sau chót. TỦ BAY GIẾT CHẾT PHÓ PHÁT NGÔN VIÊN ĐÔNG PAKISTAN: PHÁT TANG SÁNG NAY cho tôi chữ “SÁNG”. Tôi cần dấu chấm hỏi ở cuối câu, và tìm được nó ở tận cùng nỗi băn khoăn dai dẳng của những ngày tháng lạ lùng ấy: SAU NEHRU, LÀ AI?

      [14] Hình thức phản kháng bất bạo động do Mahatma Gandhi khởi xướng.

      [15] Trong cuộc bầu cử năm 1957, đảng Cộng sản thắng cử ở bang Kerala nên đây được gọi là “đất Đỏ”. Ghost tức là Tiến sĩ P.C.Ghost, chính trị gia Ấn Độ, Thống đốc bang Tây Bengal giai đoạn 1947-1948.

      [16] Những nguyên tắc của Phong trào liên kết, được thông qua tại Hội nghị Bandung năm 1955.

      [17] John Foster Dulles, Ngoại trưởng Mỹ giai đoạn 1953-1959.

      [18] Nguyên văn: South Col, là con đèo nối giữa đỉnh Everest và đỉnh Lhotse, hai ngọn núi cao thứ nhất và thứ tư của dãy Himalaya. Sherpa là tộc người sống ở khu vực Himalaya, thường được thuê làm người dẫn đường, giúp đỡ cho các nhà leo núi.

      Trong gian bí mật của nhà tắm, tôi dán lời nhắn hoàn chỉnh - nỗ lực đầu tiên của tôi nhằm sắp xếp lại lịch sử - lên tờ giấy; như rắn, tôi nhét lá thư vào túi, như nọc độc trong túi nọc. cách xảo quyệt, tôi bố trí tối tụ tập với Mắt Chẻ và Tóc Dầu. Chúng tôi chơi trò “Sát nhân trong Bóng tối”… Giữa trò chơi sát nhân, tôi lẻn vào almirah của Trung tá Sabarmati và nhét lá thư chết người vào túi trong của bộ quân phục chưa mặc của ông ta. Vào thời khắc ấy (giấu mà làm gì) tôi cảm nhận được hưng phấn của rắn khi mổ trúng con mồi, và cảm thấy nanh nó ngập vào gót chân nạn nhân…

      TRUNG TÁ SABARMATI (thư của tôi viết)


      VÌ SAO VỢ ÔNG ĐẾN ĐƯỜNG ĐÊ COLABA


      VÀO SÁNG CHỦ NHẬT?


      , tôi còn tự hào về việc mình làm; nhưng hãy nhớ rằng con quỷ báo thù có hai đầu. Khi lật mặt phản bội của Lila Sabarmati, tôi cũng hy vọng tạo nên cú sốc cảnh tỉnh cho chính mẹ tôi. ná hai chim; có hai người đàn bà bị trừng phạt, mỗi người bị nanh của cái lưỡi rắn chẻ đôi của tôi xuyên qua. có gì sai nếu rằng kiện được biết đến dưới cái tên “vụ tai tiếng của Sabarmati” kỳ thực khởi đầu từ quán cà phê tăm tối ở phía Bắc thành phố, nơi thằng nhóc trốn vé được xem vở ba lê của những bàn tay xoay tròn.

      Tôi bí mật; tôi trong bụi cỏ mà tấn công. Cái gì xui khiến tôi? Những bàn tay ơ Pioneer Café; những cú điện thoại nhầm số; những mẩu giấy dúi vào tay tôi ngoài ban công, và chuyền tay dưới lớp ga giường; thái độ đạo đức giả của mẹ tôi và niềm đau khổ khôn nguôi của Pia: “Ôi! Hỡi ôi! Ôi hỡi ôi!”… Nọc độc của tôi là loại ngấm chậm; nhưng ba tuần sau, nó phát tác.

      Mãi sau này tôi mới biết, sau khi nhận được tin nhắn nặc danh của tôi, Trung tá Sabarmati viện đến phục vụ của Dom Minto trứ danh, thám tử tư nổi tiếng nhất Bombay. (Minto, già và tập tễnh, khi ấy bắt đầu hạ giá.) Ông chờ đến khi nhận được báo cáo của Minto. Thế rồi:

      Sáng Chủ nhật ấy, sáu đứa trẻ ngồi thành hàng ở Metro Cub Club, xem Francis Con La Biết Và Ngôi Nhà Ma. Quý vị thấy đấy, tôi có bằng chứng ngoại phạm; tôi hề ở gần trường vụ án. Giống Sin[19], vầng trăng lưỡi liềm, tôi tác động từ xa lên thủy triều của trái đất… trong khi con lừa chuyện màn ảnh, Trung tá Sabarmati đến kho vũ khí Hải quân. Ông mượn khẩu súng ngắn ổ quay nòng dài, hoạt động tốt; kèm cả đạn. Ông cầm, trong tay trái, mẩu giấy đó địa chỉ được bàn tay sạch của viên thám tử tư ghi lại; trong tay phải, ông cầm khẩu súng bao. Bắt taxi, viên Trung tá chạy đến Đê Colaba. Ông trả tiền xe, súng trong tay xuống con hẻm qua mấy hàng bán áo và đồ chơi, rồi bước lên cầu thang của tòa chung cư thụt vào từ mặt hẻm và nằm cuối khoảnh sân bê tông. Ông bấm chuông ở căn hộ 18c; tiếng chuông được gia sư người Ấn lai dạy tiếng Latin ở căn hộ 18b nghe thấy. Khi vợ Lila của Trung tá Sabarmati ra mở cửa, ông gí súng vào bụng và bắn hai phát. ngã ra sau; ông bước qua , và tìm thấy Ngài Homi Catrack từ hố xí nhổm dậy, đít chưa kịp chùi, cuống quýt xếch quần lên. Trung tá Vinoo Sabarmati bắn ông ta phát vào bộ phận sinh dục, vào tim và xuyên mắt phải. Khẩu súng lắp giảm thanh; nhưng khi nó ngưng tiếng, cơn im lặng khủng khiếp trùm lên căn hộ. Ngài Catrack ngồi xuống hố xí sau khi bị bắn và nhìn như cười.

      [19] Thần Mặt Trăng trong thần thoại Hy Lạp. Sin + ai = Sinai.

      Trung tá Sabarmati ra khỏi tòa chung cư với khẩu súng bốc khói tay (ông bị tay gia sư tiếng Latin khiếp đảm nhìn thấy qua khe cửa); ông sải bước Đê Colaba đến khi trông thấy viên cảnh sát giao thông đứng bục. Trung tá Sabarmati bảo viên cảnh sát, “Tôi vừa mới giết vợ mình và tình nhân của ta bằng khẩu súng này; tôi xin tự nộp mình cho…” Nhưng ông vừa vừa vung vẩy khẩu súng trước mũi viên cảnh sát; làm ta hãi quá vứt cả cây dùi cui điều khiển giao thông mà chạy. Trung tá Sabarmati, bị bỏ lại mình bục cảnh sát giữa dòng xe cộ bỗng trở nên hỗn loạn, bắt đầu phân luồng giao thông, lấy cây súng bốc khói thay dùi cui. Đây là tình cảnh của ông khi bị phát bởi toán mười hai cảnh sát có mặt mười phút sau, những người dũng cảm nhảy bổ lên người ông và giữ rịt chân tay ông, và tước từ ông cây dùi cui bất thường mà với nó, trong mười phút, ông điều khiển giao thông cách thành thạo.

      tờ báo viết về vụ Sabarmati: “Đó là sân khấu nơi Ấn Độ khám phá ra mình là gì, mình là gì, và mình trở thành gì.”… Nhưng Trung tá Sabarmati chỉ là con rối; tôi chính là nghệ nhân múa rối, và cả đất nước diễn vở kịch của tôi - chỉ có điều tôi định thế! Ai mà nghĩ rằng ông ta … tôi chỉ muốn… vụ tai tiếng, phải, lời dọa nạt, bài học cho mọi người vợ và mẹ chung thủy, chứ phải như vậy, , bao giờ.



      Kinh hoàng trước hậu quả của những việc mình làm, tôi lướt những làn-sóng-suy-nghĩ hỗn loạn của thành phố… tại Bệnh viện Đa khoa Parsee, bác sĩ , “Begum Sabarmati sống; nhưng bà ấy phải rất cẩn thận khi ăn uống.”… Nhưng Homi Catrack chết… Và ai được cầu làm luật sư cho bị cáo? – Ai , “Tôi bào chữa cho ông ấy miễn phí và lấy tiền?” – Ai, từng chiến thắng trong vụ Đóng Băng, giờ đây là chiến binh của viên Trung tá? Sonny Ibrahim , “Nếu có ai cứu được ông ta chính là bố tao.”

      Trung tá Sabarmati là kẻ giết người nổi tiếng nhất trong lịch sử luật pháp Ấn Độ. Các ông chồng tán thưởng việc ông ta trừng phạt vợ lăng nhăng; các phụ nữ chung thủy thấy chính chuyên của mình là xứng đáng. Trong đầu hai đứa con trai của Lila, tôi tìm thấy suy nghĩ này: “Mình biết bà ấy như thế. Mình biết người lính Hải quân chấp nhận chuyện này.” cây bút của tờ Tuần san ảnh Ấn Độ, khi viết bài khắc họa chân dung kèm bức biếm họa màu của viên Trung tá cho mục “Nhân vật trong Tuần”, nhận xét: “Trong vụ Sabarmati, những cảm xúc cao thượng của sử thi Ramayana kết hợp với cải lương rẻ tiền của phim ảnh Bombay; nhưng về phần nhân vật chính, tất cả đều nhất trí về đàng hoàng của ta; và thể phủ nhận đó là gã trai hấp dẫn.”

      Việc tôi trả thù mẹ tôi và Homi Catrack kích phát vụ khủng hoảng toàn quốc… bởi điều luật Hải quân quy định rằng người chịu án tù dân đừng hòng mơ tưởng hàm Thủy sư Đô đốc. Vậy là các Đô đốc, các chính trị gia của thành phố, và tất nhiên cả Ismail Ibrahim, đòi hỏi: “Trung tá Sabarmati phải ở nhà tù của Hải quân. Ông ta vô tội đến khi nào bị chứng minh là có tội. nghiệp của ông ấy được phép bị hủy hoại nếu có thể tránh được điều này.” Và nhà chức trách: “Được.” Và Trung tá Sabarmati, an toàn ở buồng giam của Hải quân, phát ra hình phạt của nổi tiếng – ngập trong thư từ cổ vũ, ông ta đợi ngày xử án; hoa chất đầy xà lim, và mặc dầu ông ta cầu chế độ dinh dưỡng kham khổ chỉ gồm cơm và nước, người hâm mộ nhận chìm ông bằng những cặp lồng đầy biriani và pista-ki-lauz và các món bổ dưỡng khác. Và, chen hàng ở Tòa Hình , vụ án được xử sớm gấp hai bình thường… Công tố viên , “Bị cáo bị buộc tội giết người cấp độ [20].”

      [20] Cấp độ nặng nhất trong hệ thống luật của : giết người có chủ đích và có tính toán.

      Răng nghiến chặt, mắt cứng cỏi, Trung tá Sabarmati đáp: “Vô tội.”

      Mẹ tôi , “Ôi lạy Chúa, con người khốn khổ, thảm quá, phải ?”

      Tôi , “Nhưng người vợ bất trinh là điều khủng khiếp, Amma…” và bà quay mặt .

      Bên công tố , “Đây là vụ án hai năm mười. Ta có đủ động cơ, cơ hội, lời thú tội, tử thi, và quá trình dự mưu: khẩu súng được ký mượn, bọn trẻ được cho xem phim, báo cáo của viên thám tử. Còn gì để ? Xin hết.”

      Và dư luận: “Người tốt như thế mà… Allah!”

      Ismail Ibrahim : “Đây là trường hợp tự tử bất thành.”

      Nghe vậy, dư luận: “?????????”

      Ismail Ibrahim diễn giải: “Khi Trung tá nhận được báo cáo của Dom Minto, ông ấy muốn tận mắt kiểm chứng việc; và nếu đúng, tự sát. Ông ấy ký mượn khẩu súng; là cho chính ông ấy. Ông ấy đến địa chỉ Đê Colaba trong trạng thái tuyệt vọng về tinh thần; phải như kẻ giết người, mà như người chết! Nhưng ở đấy – thấy vợ mình ở đấy, thưa bồi thẩm đoàn! – thấy ta lõa lồ bên lão nhân tình trơ trẽn! – thưa bồi thẩm đoàn, trước mắt con người tử tế, con người cao quý này chỉ còn màu đỏ. Đỏ, chắc chắn rồi, và trong cơn phẫn nộ bột phát, ông ấy hành động như vậy. Bởi vậy hề có quá trình dự mưu, bởi vậy thể tính là giết người cấp độ . Giết người có, nhưng máu lạnh . Thưa bồi thẩm đoàn, các vị phải kết luận ông ấy phạm tội như cáo trạng.”

      Và cả thành phố xôn xao, “, quá đáng rồi… Lần này Ismail Ibrahim quá xa… nhưng, nhưng… bồi thẩm đoàn của ông ta phần lớn là phụ nữ… và họ giàu… bởi vậy dễ bị tác động gấp đôi, trước quyến rũ của viên Trung tá và ví tiền của tay luật sư… biết đâu đấy? Ai dám chắc?”

      Bồi thẩm đoàn , “Vô tội.”

      Mẹ tôi kêu lên, “Ôi, tuyệt quá!... Nhưng, nhưng: đấy có phải là công lý?” Và quan tòa, trả lời bà: “Bằng thẩm quyền được trao cho tôi, tôi hủy bỏ phán quyết lố bịch này. Có tội như cáo trạng.”

      Ôi, làn sóng công phẫn của những ngày ấy! Khi giới chức sắc Hải quân và các giám mục và các chính khách đòi hỏi, “Sabarmati phải ở nhà tù của Hải quân trong khi chờ khiếu nại lên Tòa Đại hình.” Và các quan chức cảnh sát, nhượng bộ, “Cũng được.” Vụ Sabarmati hối hả leo lên, lao thẳng đến phiên phúc thẩm ở Tòa Đại hình với tốc độ vô tiền khoáng hậu… và viên Trung tá với luật sư, “Tôi cảm thấy như tương lai còn trong tầm kiểm soát; như có điều gì đó ngự trị… hãy gọi đó là Vận mệnh.”

      Tôi : “Hãy gọi đó là Saleem, hay Thò Lò, hay Cả Khịt, hay Mặt Nhọ; hãy gọi đó là mảnh trăng bé bỏng.”

      Phán quyết của Tòa Đại hình: “Có tội như cáo trạng.” Báo chí giật tít: SABARMATI CUỐI CÙNG VÀO TÙ DÂN ? Ismail Ibrahim tuyên bố: “Chúng tôi đấu tranh tới cùng! Tới tận Tòa án Tối cao!” Và giờ, quả bom chấn động. tuyên bố của đích thân Thống đốc Bang: “ khó khăn khi tạo nên ngoại lệ với luật pháp; nhưng xét phụng của Trung tá Sabarmati với tổ quốc, tôi cho phép ông ta tiếp tục ở trại giam Hải quân trong khi chờ phán quyết của Tòa án Tối cao.”

      Lạithêmnhiềutítbáo, châmchíchnhưmuỗi: CHÍNH QUYỀN BANG XEM THƯỜNG LUẬT PHÁP! VỤ SABARMATI TRỞ THÀNH NỖI NHỤC QUỐC THỂ!... Khi tôi nhận ra báo chí trở mặt với viên Trung tá, tôi biết ông ta thế là hết.

      Phán quyết của Tòa án Tối cao: “Có tội!”

      Ismail Ibrahim : “Ân xá! Chúng tôi xin Tổng thống Ấn Độ ân xá!”

      Và giờ những vấn đề lớn lao được cân nhắc tại Rashtrapati Bhavan – đằng sau cánh cổng của Dinh Tổng thống, người phải quyết định xem liệu có thể đặt người lên luật pháp; liệu vụ sát hại nhân tình của vợ có thể bị gạt sang bên vì nghiệp Hải quân; và còn những thứ cao hơn – liệu Ấn Độ thượng tôn pháp luật, hay tiếp tục tuân theo quy tắc cổ xưa về siêu việt vượt tất cả của người hùng? Nếu chính Rama còn sống, liệu ta có bỏ tù ta vỉ giết chết kẻ bắt cóc Sita? Những vấn đề lớn lao; can thiệp đầy hận thù của tôi vào lịch sử thời đại của tôi đương nhiên phải là điều vụn vặt.

      Tổng thống Ấn Độ , “Tôi ân xá cho người này.”

      Nussie Ibrahim (mà đức ông chồng vừa thua vụ án lớn nhất đời) rền rĩ, “Ôi! Hỡi ôi!” Và nhắc lại nhận xét cũ: “Chị Amina, con người tử tế ấy phải tù – em chị nghe, nghĩa là ngày tận thế đến rồi!”



      lời thú tội, rập rình môi tôi: “Tất cả là tại con, Amma; con muốn dạy cho mẹ bài học. Amma, đừng gặp đàn ông khác, người mặc áo thùa khuyết kiểu Lucknow; hôn hít chén trà thế đủ rồi, mẹ của con! Con giờ mặc quần dài và có thể chuyện với mẹ như người đàn ông!” Nhưng những lời ấy bao giờ trào ra khỏi tôi; cần phải vậy, bởi vì tôi nghe thấy mẹ tôi trả lời cuộc gọi nhầm số - và bằng giọng kỳ lạ, kìm nén, vào ống nghe những lời này: “; ở đây có ai tên thế cả; xin hãy tin lời tôi, và đừng bao giờ gọi nữa.”

      Phải, tôi dạy cho mẹ tôi bài học; và sau vụ Sabarmati bà bao giờ gặp lại Nadir-Qasim bằng xương bằng thịt của bà, bao giờ nữa, cho đến cuối đời; nhưng, bị tước mất gã, bà trở thành nạn nhân của số phận chung dành cho mọi phụ nữ trong nhà tôi, tức là lời nguyền bị già trước tuổi; người bà bắt đầu co lại, bà tập tễnh ngày càng hơn, và trong mắt bà có vẻ trống rỗng của tuổi tác.

      trả thù của tôi mang đến cùng với nó số diễn biến tôi chờ đợi; và có lẽ nổi bật nhất trong đó là xuất , ở những mảnh vườn của Điền trang Methwold, của loài hoa lạ, làm từ gỗ và tôn, đó có chữ sơn tay màu đỏ tươi… những tấm biển quảng cáo định mệnh mọc lên ở mọi mảnh vườn trừ vườn nhà tôi, bằng chứng cho thấy quyền năng của tôi vượt khỏi tầm hiểu biết của chính tôi, và rằng, sau lần bị lưu đày khỏi quả đồi hai tầng của mình, giờ đây đổi lại tôi thành công trong việc đuổi tất cả mọi người.

      Biển quảng cáo trong vườn của Biệt thự Versailles, Biệt thự Escorial và Sans Souci; biển quảng cáo gật đầu với nhau trong làn gió biển của giờ cocktail. Ở mỗi tấm biển người ta đều đọc thấy sáu chữ giống nhau, đều màu đỏ tươi, đều cao ba mươi xăng ti mét: BÁN NHÀ. Đó là thông điệp biển.

      BÁN NHÀ – Biệt thự Versailles, chủ nhân của nó chết bồn cầu; việc rao bán do mụ bảo mẫu dữ tợn Bi-Appah thực thay mặt Toxy ngu ngốc khốn khổ; sau khi vụ mua bán hoàn thành, người chăm sóc và người được chăm sóc biến mất mãi mãi, và Bi-Appah ôm, trong lòng mụ, cái va li căng phồng tiền… tôi biết điều gì xảy đến với Toxy, nhưng xét đến lòng tham của người bảo mẫu, tôi tin là chẳng có gì tốt đẹp… BÁN NHÀ, căn hộ của nhà Sabarmati ở Biệt thự Escorial; Lila Sabarmati bị từ chối quyền chăm sóc hai con và phai nhạt khỏi đời chúng tôi, trong khi Mắt Chẻ và Tóc Dầu gói ghém đồ đạc đến nương nhờ chăm sóc của Hải quân Ấn Độ, cơ quan đặt mình vào vị trí in loco parentis tới khi bố chúng mãn hạn ba mươi năm tù. Cũng BÁN NHÀ, là biệt thự Sans Souci của nhà Ibrahim, bởi Khách sạn Embassy của Ishaq Ibrahim bị xã hội đen đốt trụi vào ngày Trung tá Sabarmati gánh chịu thất bại tối hậu, như thể giới tội phạm của thành phố trừng phạt gia đình tay luật sư vì thất bại của ông ta; sau đó Ishaq Ibrahim bị cấm hành nghề, do có bằng chứng vi phạm chuẩn mực nghề nghiệp (trích báo cáo của Hội đồng Luật sư Bombay); “gặp khó khăn” về tài chính, nhà Ibrahim cũng biến mất khỏi đời chúng tôi; và cuối cùng BÁN NHÀ, là căn hộ của Cyrus Dubash và bà mẹ, bởi vì, giữa dư luận ầm ĩ về vụ Sabarmati, và hầu như chẳng được ai để ý, nhà vật lý hạt nhân chết cái chết vì hóc-hột-cam, do đó mở đường cho chứng cuồng tín tôn giáo của bà mẹ trút xuống đầu Cyrus và chuyển vần bánh xe của thời kỳ mạc khải vốn là chủ đề cho chương tiếp theo của tôi.

      Những tấm biển gật gù giữa các khu vườn mất dần ký ức về cá vàng và giờ-cocktail và bầy mèo xâm lăng; và ai gỡ chúng xuống? Ai kế thừa những người thừa kế của William Methwold?... Họ ùa đến như ong vỡ tổ từ nơi từng là nhà của bác sĩ Narlikar: những mụ đàn bà bụng béo và oai phong phát gớm, ngày càng béo và oai phong hơn bao giờ hết nhờ giàu có nhờ tetrapod ban cho (bởi vì đó là những năm của công cuộc lấn biển vĩ đại). Đám đàn bà nhà Narkilar – từ Hải quân họ mua lại căn hộ của Trung tá Sabarmati, và từ bà Dubash sắp ra ngôi nhà của Cyrus; họ trả Bi-Appah bằng những tờ bạc cũ, và các chủ nợ của nhà Ibrahim được vỗ yên bằng tiền của Narkilar.

      Cha tôi, duy nhất trong tất cả cư dân từ chối bán nhà; họ trả giá rất cao, song ông vẫn lắc đầu. Họ trình bày giấc mơ của họ - giấc mơ san bằng tòa nhà rồi dựng lên quả đồi hai tầng tòa cao ốc vươn ba mươi tầng lên trời, ngọn tháp khải hoàn màu hồng, cột mốc của tương lai của họ; Ahmed Sinai, mải mê quên hết đời, nhất định nghe. Họ bảo ông, “Đến khi xung quanh ông chỉ còn gạch vụn, ông phải bán tháo thôi”; ông (nhớ đến phản bội mang hình hài tetrapod của họ) chẳng hề lay chuyển.

      Nussie-vịt-bầu , khi dọn , “Em bảo mà, chị Amina – kết thúc rồi! Thế giới này kết thúc rồi!” Lần này ta vừa đúng vừa sai: sau tháng Tám 1958, thế giới vẫn quay; nhưng thế giới tuổi thơ của tôi, quả , đến hồi kết thúc.

      Padma – có, hồi còn , thế giới của riêng mình ? quả cầu nhôm, đó in hình các lục địa và đại dương và địa cực? Hai bán cầu rẻ tiền bằng kim loại, ốp vào nhau bằng chân đế nhựa? , tất nhiên là ; nhưng tôi có. Đấy là thế giới chi chít địa danh: Đại Tây Dương Amazon Chí tuyến Nam. Và, ở Bắc Cực, có dòng chú thích: SẢN XUẤT TẠI . Cho đến tháng Tám của những tấm biển gật gù và tham lam vô độ của đám đàn bà nhà Narlikar, thế giới bằng nhôm này bị mất chân đế; tôi tìm băng dính Scotch và dán trái đất lại quanh đường Xích đạo, và rồi, tính ham chơi lấn át lòng kính nể, bắt đầu mang nó ra đá bóng.Trong thời kỳ dư chấn của vụ Sabarmati, khi bầu khí tràn ngập nỗi ăn năn của mẹ tôi và bi kịch riêng tư của những hậu duệ của Methwold, tôi đá quả cầu nhôm loảng xoảng khắp Điền trang, vững tâm là thế giới còn nguyên vẹn (dẫu rằng phải dán băng dính) và vẫn ở dưới chân tôi… cho đến khi, vào cái ngày Nussie-vịt-bầu ra lời than vãn sặc mùi mạt thế cuối cùng – vào cái ngày Sonny Ibrahim thôi còn là Sonny-nhà-bên – con Khỉ Đồng em tôi bỗng nhảy xổ vào tôi trong cơn thịnh nộ khó hiểu, thét lên: “Giời ạ, thôi ngay cái trò này ; chả lẽ hôm nay thấy buồn tí nào à?” Rồi, nhảy vọt lên cao, nó hạ xuống Bắc Cực bằng cả hai chân, và nghiền thế giới thành bụi của con đường dưới gót giày phẫn nộ của nó.

      Dường như, rốt cuộc, ra của Sonny Ibrahim, kẻ si tình bị sỉ nhục của nó, người nó từng lột truồng ở giữa đường, tác động đến con Khỉ Đồng, bất chấp chuyện cả đời nó chối bỏ khả năng tồn tại của tình .

    6. ^^! Nếu bạn không gửi link bài viết trên Facebook được, hãy sử dụng link trong khung này để chia sẻ bài viết :