1. QUY ĐỊNH BOX EBOOK SƯU TẦM

    Khi các bạn post link eBook sưu tầm nhớ chú ý nguồn edit và Link dẫn về chính chủ

    eBook phải tải File trực tiếp lên forum (có thể thêm file mediafire, dropbox ngay văn án)

    Không được kèm link có tính phí và bài viết, hay quảng cáo phản cảm, nếu có sẽ ban nick

    Cách tải ebook có quảng cáo

Những Đứa Con Của Nửa Đêm - Salman Rushdie (30 Chương)

Thảo luận trong 'Truyện Phương Tây'

  • ^^! Nếu bạn không gửi link bài viết trên Facebook được, hãy sử dụng link trong khung này để chia sẻ bài viết :
    1. banglangtrang123

      banglangtrang123 Well-Known Member Staff Member Super Moderator

      Bài viết:
      26,213
      Được thích:
      47,825
      QUYỂN HAI

      Chương 9: Ngón tay chỉ của người ngư phủ



      Liệu người ta có thể ghen với những dòng chữ? Có thể căm ghét trò viết lách ban đêm như thể đó là kẻ tình địch bằng xương bằng thịt? Tôi thể nghĩ ra lý do gì khác cho phản ứng kỳ cục của Padma; và cách giải thích này ít nhất có ưu điểm là nó cũng kỳ lạ ngang với cơn phẫn nộ mà rơi vào khi, tối nay, tôi phạm phải sai lầm là viết (và đọc to) từ đáng lẽ được ra... bắt đầu từ cuộc viếng thăm của lão lang băm, tôi đánh hơi thấy bất mãn lạ lùng nơi Padma, tỏa ra thứ mùi bí hiểm từ tuyến eccrine (hay apocrine[1]). Ức chế, có lẽ vậy, vì vô vọng của những nỗ lực thực về đêm nhằm hồi sinh “cây bút chì kia” của tôi, quả dưa chuột vô dụng trốn trong quần tôi, ngày càng cáu bẳn. (Rồi phản ứng bực tức của , đêm qua, khi tôi tiết lộ bí mật về ra đời của mình, rồi khó chịu khi thấy tôi coi thường món tiền trăm rupee.) Tôi tự trách mình: đắm chìm vào công trình tự truyện này, tôi để tâm đến cảm xúc của , và khởi đầu đêm nay bằng những nốt nhạc sai lầm tai hại nhất.

      [1] Tuyến eccrine là tuyến mồ hôi thường cơ thể con người, có chức năng điều hòa thân nhiệt. Còn tuyến apocrine là tuyến sản sinh ra mùi con người (còn gọi là tuyến rụng đầu), tập trung ở vùng nách và cơ quan sinh đục. Tuyến apocrine thường hoạt động khi kích thích tình dục.

      “Bị tấm ga giường khoét lỗ kết án sống cuộc đời của những mảnh vụn,” tôi viết rồi đọc to, “tôi dù vậy thành công hơn ông tôi; bởi trong khi Aadam Aziz vẫn là nạn nhân của tấm ga, tôi thành chủ nhân của nó - và Padma mới là người giờ mắc bùa phép của nó. Ngồi trong bóng tối được yểm bùa, tôi ban phát những hình ảnh liếc qua mỗi ngày của bản thân - trong khi , người liếc nhìn ngồi xổm của tôi, bị mê hoặc, bất lực như con chồn bị đóng băng bất động bởi cặp mắt lắc lư chớp của con rắn hổ mang, bị tê liệt - phải! - trước tình .”

      Từ ấy đấy: tình . Được viết-ra-rồi-đọc-lên, nó đẩy giọng lên độ cao chói tai khác thường; nó giải phóng từ môi hung bạo hẳn làm tổn thương tôi, nếu như tôi còn có thể bị lời lẽ làm thương tổn. “ ?” Padma của chúng ta ré lên đầy khinh bỉ, “Vì cái gì, lạy Chúa? được tích gì, hả tiểu vương tử,” - và giờ là cú đòn kết liễu của - “với tư cách người ?” Cánh tay vươn dài, lông tay lung linh dưới ánh đèn, chọc ngón trỏ đầy khinh miệt về phía cái dương căn phải thừa nhận là hoạt động của tôi; ngón tay dài, to, cứng ngắc vì ghen tuông, đáng tiếc thay lại chỉ làm cho tôi nhớ tới ngón tay khác, mất từ lâu... thế nên , thấy mũi tên của mình chệch đích, rít lên, “Đồ điên ở đâu ấy! Lão bác sĩ ấy đúng!” rồi điên cuồng lao ra khỏi phòng. Tôi nghe tiếng bước chân loẹt quẹt xuống cầu thang sắt dẫn xuống sàn nhà máy; tiếng bàn chân hối hả giữa những vại rau quả dầm phủ vải đen; rồi tiếng cánh cửa, mở ra rồi đóng sầm lại.

      Bị bỏ rơi như thế, tôi bèn, có lựa chọn nào khác, trở lại với công việc.

      Ngón tay chỉ của người ngươi phủ: tâm điểm thể lãng quên của bức tranh treo bức tường màu thiên thanh ở Biệt thự Buckingham, thẳng ngay cái cũi màu xanh da trời, nơi, hồi là Bé Saleem, đứa trẻ của nửa đêm, tôi sống những ngày đầu đời. Cậu bé Raleigh - và ai nữa? – ngồi, đóng khung trong gỗ tếch, dưới chân người thủy thủ già, sần sùi, vá lưới - phải chăng ông ta có bộ ria hải mã? – với cánh tay phải, duỗi dài hết cỡ, vươn về phía chân trời mênh mông nước, trong khi những chuyện nước non của ông dập dờn quanh đôi tai háo hức của Raleigh - và ai nữa? Bởi vì hiển nhiên là có cậu bé khác trong tranh, ngồi xếp bằng trong cổ diềm xếp nếp và áo dài cài khuy... và giờ hồi ức trở lại với tôi: về bữa tiệc sinh nhật khi bà mẹ hãnh diện và ayah cũng hãnh diện kém mặc cho đứa trẻ có cái mũi Gargantua đúng cái cổ diềm ấy, đúng cái áo dài ấy. người thợ may ngồi trong cán phòng màu thiên thanh, dưới ngón tay chỉ, mà sao chép y phục của các quý tộc ... “Kìa, dễ sương chưa!” Lila Sabarmati thốt lên trong nỗi hổ thẹn vĩnh viễn của tôi, “Cứ như thằng bé vừa bước từ trong tranh ra ấy?”

      Trong bức tranh treo tường phòng ngủ, tôi ngồi cạnh Walter Raleigh, dõi mắt theo ngón tay chỉ của người ngư phủ; mắt căng ra ở chân trời, mà phía sau là - cái gì? - tương lai của tôi, có thể; số kiếp đặc biệt của tôi, mà tôi biết từ đầu, qua diện sáng mờ sắc xám tại căn phòng màu thiên thanh ấy, lúc đầu còn mơ hồ, nhưng thể bỏ qua... bởi ngón tay kia còn chỉ xa hơn chân trời sáng mờ ấy, nó chỉ ra ngoài khung gỗ tếch, qua mảng tường ngắn màu thiên thanh, lái ánh mắt tôi tới cái khung khác, trong đó treo số mệnh thể trốn thoát của tôi, bị cố định vĩnh viễn dưới tấm kính: đây là bức-hình-em-bé cỡ-đại với dòng chú thích tiên tri, còn đây, bên cạnh nó, lá thư thứ giấy da bê hảo hạng, dập nổi dấu quốc huy - bốn con sư tử Sarnath đứng pháp luân ở bút tích của Thủ tướng, đến nơi, qua Vishwanath cậu bé đưa thư, tuần sau khi ảnh tôi xuất trang nhất tờ Thời báo Ấn Độ.

      Báo chí tôn vinh tôi; chính trị gia khẳng định vị thế của tôi. Jawaharlal Nehru viết: “Bé Saleem thân mến, lời chúc muộn màng của tôi nhân kiện đáng mừng của thời khắc cháu ra đời! Cháu là người mới nhất mang gương mặt xa xưa nhưng cũng vĩnh viễn trẻ trung ấy của Ấn Độ. Chúng ta dõi theo cuộc đời của cháu với quan tâm sát sao nhất; nó là, theo nghĩa nào đó, tấm gương của bản thân chúng ta.”

      Và Mary Pereira, kinh hoảng, “Chính phủ ư, thưa Bà? Họ để mắt đến thằng bé? Nhưng vì sao, thưa Bà? Nó có làm sao đâu?” - Và Amina, nhìn ra sắc sợ hãi trong giọng của người ayah: “Đó chỉ là cách thôi Mary; nó có nghĩa như họ đâu.” Nhưng Mary yên tâm; và bao giờ cũng vậy, mỗi khi bước vào phòng đứa bé, mắt lại chớp dáo dác về bức thư trong khung kính; mắt đảo quanh, xem Chính phủ có theo dõi ; đôi mắt ngờ vực: họ biết gì? Có ai trông thấy ?... Về phần mình, khi lớn lên, tôi cũng thực chấp nhận lời giải thích của mẹ tôi; nhưng nó ru tôi vào cảm giác an toàn giả tạo; thế nên, mặc dù đôi chút nghi ngờ của Mary rỉ sang tôi, tôi vẫn bị bất ngờ khi...

      Có lẽ ngón tay của người ngư phủ chỉ vào bức thư đóng khung, bởi nếu ta theo nó xa hơn nữa, nó dẫn ta qua cửa sổ ra ngoài, xuống ngọn đồi hai tầng, qua đường Warden, vượt bể bơi Breach Candy, và ra tới mặt biển khác, phải mặt biển trong tranh; mặt biển nơi cánh buồm của những chiếc dhow Koli rực đỏ trong ánh mặt trời sắp lặn... ngón tay kết tội, khi ấy, buộc chúng ta phải nhìn vào những con người bị tước đoạt của thành phố.

      Hoặc giả - và ý tưởng này làm tôi hơi rùng minh bất chấp cái nóng - đó là ngón tay cảnh cáo, mục đích là thu hút chú ý vào chính nó; phải, có thể nó là, sao lại , lời tiên tri về ngón tay khác, ngón tay khác biệt với chính nó, mà xuất trong câu chuyện của tôi tiết lộ thứ logic đáng sợ của Alpha và Omega... lạy Chúa, gớm thay ý tưởng ấy! Bao nhiêu tương lai từng treo cái cũi của tôi, chỉ chờ tôi hiểu được? Bao nhiêu lời cảnh báo được gửi đến cho tôi - bao nhiêu bị tôi bỏ qua?... Nhưng . Tôi làm “đồ điên ở đâu ấy”, theo cách diễn đạt sinh động của Padma. Tôi bị cuốn theo những lạc đề gàn dở[2]; chừng nào tôi còn sức kháng cự lại những rạn nứt.

      [2] Ở đây Rushdie um chơi chữ. Nguyên tác: “cracked digressions”. Cracked vừa có nghĩa là gàn dở, vừa có nghĩa là bị rạn nứt.



      Khi Amina Sinai và Bé Saleem về nhà chiếc Studebaker mượn, Ahmed Sinai mang theo lên xe bịch giấy manila. Trong bịch giấy: hũ rau quả dầm, đổ hết kasaundy chanh, rửa, luộc, tiệt trùng - và giờ, đổ đầy lại. cái bình đậy kín, với lớp màng cao su phủ kín cái nắp thiếc và cố định bằng sợi chun buộc xoắn. Cái gì được bịt kín dưới cao su, bảo quản trong thủy tinh, giấu trong giấy manila? Đây: quay về nhà cùng bố, mẹ và em bé là lượng nước muối trong đó chứa cái dây rốn nổi lững lờ. (Nhưng nó là của tôi hay của Đứa bé kia? Đó là điều tôi thể được.) Trong khi ayah mới tuyển, Mary Pereira, đến Điền trang Methwold bằng xe buýt, cái dây rốn du hành trong hộc để găng tay chiếc Studey của đại gia điện ảnh. Trong khi Bé Saleem lớn lên thành người lớn, đoạn dây rốn lửng lơ thay đổi trong nước muối đóng chai, đằng sau cái tủ gỗ tếch. Và, nhiều năm sau, khi gia đình tôi bước vào cuộc lưu đày ở Xứ Sở của những kẻ Thuần Khiết, khi tôi đấu tranh hướng tới thuần khiết, những sợi dây rốn gặp thời trong chốc lát.

      có gì bị vứt ; cả đứa bé lẫn nhau thai đều được giữ lại; cả hai đều về đến Điền trang Methwold; cả hai đều đợi đến thời của mình.

      Tôi phải là đứa trẻ đẹp đẽ. Những bức-hình-em-bé cho thấy gương mặt trăng tròn của tôi quá to; quá tròn vành vạnh. Vùng cằm bị thiếu cái gì đó. Làn da trắng trẻo ôm lấy đường nét khuôn mặt tôi - nhưng những vết bớt làm nó biến dạng; vệt ố sẫm chảy xuống chân tóc bờ Tây, mảng khác nhuộm sẫm cái tai bên Đông. Và thái dương tôi: quá nổi bật: hai mái vòm Byzantine hình củ hành. (Sonny Ibrahim và tôi sinh ra để làm bạn của nhau - khi bọn tôi cụng trán, hai hõm forcep của Sonny cho phép hai thái dương củ hành của tôi nằm lọt ở trong, khít khao như mộng mộc.) Amina Sinai, nhõm khôn tả khi thấy tôi chỉ có cái đầu, ngắm nó với trìu mến của người mẹ nhân lên gấp bốn, nhìn nó qua màn sương đẹp đẽ hóa, phớt lờ vẻ kỳ dị băng giá của đôi mắt màu thiên thanh, hai thái dương như cặp sừng còi, và cả cái mũi dưa chuột ngoại cỡ của tôi.

      Cái mũi của Bé Saleem: nó to khủng bố; và chảy nước.

      Đặc điểm thú vị của giai đoạn đầu đời của tôi: to và kém xinh đẹp như vậy, có vẻ như tôi được vừa ý. Ngay từ những ngày đầu, tôi triển khai chương trình tự tăng trưởng đầy dũng. (Như thể tôi biết rằng, để gánh vác những gánh nặng của cuộc sống tương lai, tôi cần phải khá đô con.) Đến giữa tháng Chín, tôi vắt kiệt bầu sữa hề ít ỏi của mẹ tôi. bà vú được thuê tạm nhưng bà ta bỏ chạy, cạn khô như sa mạc chỉ sau hai tuần, cáo buộc Bé Saleem định cắn đứt đầu vú mình bằng hai hàng lợi răng. Tôi chuyển qua bú bình và nốc cạn từng lượng lớn hợp chất: những núm vú bình sữa cũng lãnh đủ, minh oan cho bà vú tố cáo tôi. Những ghi chép trong cuốn sổ-tay-em-bé rất tỉ mỉ; chúng cho thấy tôi nở ra gần như trông thấy, tăng kích cỡ từng ngày; nhưng đáng tiếc là có phép đo phần mũi nào được thực nên tôi thế kết luận liệu cơ quan hô hấp của mình có phát triển với tốc độ tương đương, hay nhanh hơn những phần còn lại. Tôi phải rằng mình có hệ trao đổi chất khỏe mạnh. Chất thải được bài tiết dào dạt từ các cửa ngõ thích hợp; từ mũi tôi đổ ra dòng thác chất nhờn lóng lánh. Từng binh đoàn mùi soa, từng trung đoàn tã lót tìm đường chui vào cái tủ giặc lớn trong phòng tắm cửa mẹ tôi... trút rác thải qua đủ mọi cửa, tôi vẫn giữ đôi mắt ráo hoảnh. “Thằng bé ngoan thế cơ chứ, Bà nhỉ,” Mary Pereira , “Cấm có khóc bao giờ.”

      Bé Saleem ngoan ngoãn là đứa trẻ lặng lẽ; tôi hay cười, song thành tiếng. (Như con trai tôi, tôi bắt đầu bằng cách đánh giá tình hình, nghe ngóng trước khi nhảy sang ê a và, sau đó, chuyện.) Có thời gian Amina và Mary sợ rằng thằng bé bị câm; nhưng, đúng lúc họ sắp với ông bố (mà họ giữ bí mật nỗi lo lắng của mình - ông bố nào muốn đứa con khuyết tật), thằng bé lại bật thốt ra tiếng, và trở nên, ở mọi tình huống phương diện ấy, hoàn toàn bình thường. “Cứ như thể,” Amina thầm với Mary, “nó quyết định cho chúng ta được yên lòng.”

      Còn vấn đề nghiêm trọng hơn. Amina và Mary mất vài ngày mới nhận ra điều này. Bận rộn với những quy trình đồ sộ và phức tạp để hóa thân chành bà mẹ hai đầu, tầm nhìn bị che phủ bởi màn sương đồ lót hôi thối, họ nhận ra bất động của mí mắt tôi. Amina, nhớ lại, trong thời kỳ bà mang bầu, sức nặng của đứa con chưa ra đời giữ thời gian lắng đọng như mặt hồ xanh lặng ngắt ra sao, bắt đầu tự hỏi phải chăng điều ngược lại xảy ra - phải chăng đứa bé sở hữu thứ ma lực nào đó với toàn bộ thời gian trong phạm vi kề cận quanh mình và tăng tốc nó, thế nên mẹ-và-ayah bao giờ có đủ thời gian để làm mọi thứ cần làm, thế nên đứa trẻ mới có thể phát triển với tốc độ dường như tưởng; lạc lối trong những huyễn tưởng về trật tự thời gian ấy, bà nhận thấy vấn đề của tôi. Chỉ khi bà rũ bỏ ý tưởng ấy và tự nhủ tôi chẳng qua là thằng bé phổng phao phàm ăn, đứa trẻ phát triển sớm, tấm màn của tình mẫu tử mới hé ra đủ để bà và Mary rú lên, đồng thanh: “Kìa, baap-re-baap! Kìa, Bà! Này, Mary! Thằng bé hề chớp mắt!”

      Cặp mắt quá xanh: xanh-Kashmir, xanh-đứa-trẻ-bị-tráo, với sức nặng của dòng nước mắt trào, quá xanh thể chớp. Lúc được cho ăn, mắt tôi hề hấp háy; lúc nàng Mary đồng trinh bế tôi qua vai và kêu lớn, “Uii, nặng thế, lạy Chúa tôi!” tôi ợ hơi mà chớp mắt. Lúc Ahmed Sinai lết bàn chân bó ngón tới bên cũi tôi nằm, tôi nhượng bộ cặp môi trề bằng cái nhìn chăm chú và bất động… “Khéo ta nhầm, Bà ạ,” Mary nêu ý kiến. “Khéo sahib bắt chước chúng ta - thấy ta chớp chớp theo.” Và Amina: “Ta thay nhau chớp thử xem sao.” Mí mắt luân phiên mở-ra-đóng-lại, họ quan sát màu xanh băng giá nơi tôi; nhưng rung động dù là nhất; cho đến khi Amina tự mình giải quyết vấn đề và thò tay vào nôi để vuốt mí mắt tôi xuống. Chúng khép lại: hơi thở tôi biến đổi, ngay tức , sang nhịp thở thỏa mãn của giấc ngủ. Sau đó, suốt mấy tháng, mẹ và ayah thay phiên nhau mở và khép mí mắt cho tôi. “Nó học được, Bà ạ,” Mary vỗ về Amina, “Nó là đứa bé ngoan, nhất định nó biết cách thôi.” Tôi học được : bài học đầu tiên của đời tôi: ai mở mắt mà đối mặt với đời mãi được.

      Giờ đây, nhìn lại qua đôi mắt ấu thơ, tôi có thể thấy tất cả cách hoàn hảo - kinh ngạc thay những gì ta nhớ được khi ta cố. Điều tôi thấy: thành phố, phơi mình như con thằn lằn hút máu dưới cái nóng mùa hè. Bombay của chúng ta: trông nó như bàn tay nhưng kỳ thực nó là cái miệng, luôn mở to, luôn đói khát, nuốt lương thực và nhân tài từ khắp nơi đất Ấn. con đỉa lộng lẫy, sản xuất gì ngoài phim ảnh bush-shirt[3] cá biển... giữa cơn dư chấn hậu Chia cắt, tôi thấy Vishwanath cậu bé đưa thư đạp xe về phía quả đồi hai tầng nhà tôi, phong bì da bê trong xắc cốt, cưỡi chiếc Arjuna Indiabike cũ kỹ phóng qua chiếc xe buýt gỉ nát - bị bỏ dù chưa tới mùa mưa, vì tay tài xế bỗng nhiên quyết định chạy sang Pakistan, tắt máy rồi bỏ , để lại cỗ xe đầy hành khách mắc kẹt, bấu vào cửa sổ, bám lấy nóc xe, phòi ra ở cửa lên xuống... tôi có thể nghe tiếng họ chửi rủa, đồ-lợn-đẻ, quân-đốn-mạt; nhưng họ bíu chặt cái chỗ ngồi phải giành giật mới có được ấy suốt hai giờ trước khi phó mặc cỗ xe cho số phận. Và, và: đây là người Ấn Độ đầu tiên bơi vượt Eo biển quốc, Ngài Pushpa Roy, xuất trước cổng bể bơi Breach Candy. Đầu đội mũ tắm màu nghệ, quần bơi xanh quấn khăn tắm ngả màu cờ, ngài Pushpa đây tuyên chiến với chính sách chỉ-da-trắng của bể tắm. Ông ta cầm bánh xà phòng Mysore mùi đàn hương; ưỡn thằng người; sải bước qua cổng... nơi đám Pathan làm thuê túm lấy ông ta, người Ấn bảo vệ người Âu khỏi cuộc binh biến của người Ấn như thường lệ; rồi ông ta trở ra, dũng kháng cự, bị quặt tay điệu ra đường Warden và lẳng xuống đất. Người bơi vượt biển nhào ra giữa đường, tránh khỏi lạc đà taxi xe đạp trong gang tấc (Vishwanath đánh tay lái để tránh bánh xà phòng của ông ta)... nhưng ông ta nhụt chí; lụi hụi đứng lên; lúi húi phủi quần áo; và thề hôm sau trở lại. Suốt những năm tuổi thơ của tôi, điểm nhấn của ngày là cảnh Pushpa người vận động viên bơi, mũ màu nghệ và khăn tắm ngả màu cờ, lao mình trái với ý muốn ra đường Warden. Và rốt cuộc cuộc vận động bất khuất của ông thắng lợi, bởi ngày nay Bể bơi cho phép số người Ấn - “tầng lớp ưu tú” - bước xuống làn nước hình bản đồ của mình. Nhưng Pushpa thuộc tầng lớp ưu tú; già và bị lãng quên, ông đứng nhìn Bể bơi từ xa... và giờ quần chúng ùa vào tôi mỗi lúc nhiều - chẳng hạn như Bano Devi, người nữ đô vật nổi tiếng thời ấy, người chỉ đấu với đàn ông và dọa lấy bất kỳ ai thắng mình, hệ quả của lời thề ấy là ta chưa thua keo nào; và (giờ ở gần nhà hơn), vị sadhu dưới vòi nước trong vườn nhà tôi, tên là Purushottam, người mà tụi tôi (Sonny, Mắt Chẻ, Tóc Dầu, Cyrus và tôi) luôn gọi là Puru-ông-guru - tin rằng tôi là Mubarak, Kẻ được Ban phước, ông hiến dâng đời mình để dõi theo tôi, và dành trọn thời gian cho việc dạy cha tôi xem chỉ tay và phù phép xua mụn cóc khỏi mẹ tôi; rồi đến kình địch giữa lão người ở cũ Musa và ayah mới Mary, điều tích tụ cho tới khi bùng nổ; tóm lại, cuối năm 1947, cuộc sống ở Bombay đầy ắp, phong phú, vô định hình cách đa dạng chưa từng thấy... trừ việc là tôi đến; tôi bắt đầu chiếm lĩnh vị trí trung tâm vũ trụ; và khi xong việc, tôi đem ý nghĩa đến cho tất cả. Quý vị tin tôi? Nghe kìa: bên nôi tôi, Mary Pereira hát bài hát ngắn:

      Bất cứ gì con muốn thành, con được:


      Con được thành, bất cứ gì con muốn.


      [3] Bush-shirt là loại áo sơ mi may theo kiểu áo jacket rừng (safari jacket). Đây là sản phẩm đặc trưng ra đời trong quá trình khai phá Ấn Độ của thực dân .

      Cho tới trước lễ cắt bao quy đầu của tôi do ông thợ cạo hở hàm ếch tại Hiệu Thợ cạo Hoàng gia đường Gowalia Tank thực (tôi mới được hơn hai tháng), tôi rất đắt khách tại Điền trang Methwold. (Nhân tiện, về chuyện cắt bao quy đầu: tôi thề là tôi vẫn nhớ lão thợ cạo cười nhăn nhở, lão túm lấy tôi nơi da quy đầu, trong khi thằng của tôi ngoe nguẩy điên cuồng như con rắn trơn tuột; và lưỡi dao cạo xuống, và cơn đau; nhưng tôi được kể rằng, lúc đó, tôi thậm chí cũng chớp mắt.)

      Phải, tôi là thằng bé rất được ưa thích: hai bà mẹ của tôi, Amina và Mary, trông thấy tôi bao nhiêu cũng đủ. Trong mọi vấn đề thực tiễn, họ là những đồng minh thân cận nhất. Sau khi tôi được cắt bao quy đầu, họ cùng tắm cho tôi; và cùng khúc khích khi cái bộ phận mới tổn thương của tôi ngoe nguẩy giận dữ trong nước tắm. “Ta phải coi chừng thằng nhóc này, Bà ạ,” Mary láu lỉnh , “Cái ấy của nó có sống riêng đấy!” Và Amina, “Chậc, chậc, Mary, gớm quá, đấy...” Nhưng rồi trong tiếng nấc nghẹn của cơn cười nhịn nổi, “Bà xem kìa, quả ớt bé bỏng tội nghiệp của cu cậu!” Vì nó lại ve vẩy, giãy giụa như con gà bị cắt tiết... Cùng nhau, họ chăm chút cho tôi cực kỳ chu đáo; nhưng về vấn đề tình cảm, họ lại là tử địch. Có lần, khi đẩy tôi rong qua Vườn treo Đồi Malabar, Amina nghe lỏm thấy Mary với mấy ayah khác, “Này: đây là thằng con mập mạp của tôi” - và cảm thấy uy hiếp kỳ lạ. Bé Saleem trở thành, kể từ đó, chiến trường của tình của họ; họ nỗ lực vượt mặt đối phương trong việc biểu lộ tình thương; trong khi thằng bé, biết nháy mắt, ợ hơi to, hấp thụ tình cảm của họ, lấy nó để tăng tốc độ phát triển, phình ra và nuốt chửng vô số cái ôm ấp hôn hít bẹo-cằm-nựng-nịu, tích nạp cho thời khắc khi nó có được đặc tính cốt lõi của nhân loại: mỗi ngày, và chỉ vào những giờ phút hiếm hoi tôi bị bỏ lại mình với ngón tay chỉ của người ngư phủ, tôi cố rướn mình đứng lên trong cũi.




      (Và trong khi tôi nỗ lực vô ích để đứng dậy bằng hai chân, Amina cũng bị bóp nghẹt trong quyết tâm vô vọng - bà cố sức trục xuất khỏi đầu mình giấc mơ về người chồng thể gọi tên, vốn thay thế giấc mơ về giấy bẫy ruồi từ cái đêm sau khi tôi ra đời; giấc mơ với tính chân thực mãnh liệt đến mức nó ở lại với bà suốt những giờ bà tỉnh ngủ. Trong đó, Nadir Khan đến bên giường bà và làm bà có thai; phi lý quái hiểm đến nỗi làm Amina lẫn lộn về nguồn gốc của đứa trẻ, và đem đến cho tôi, đứa trẻ của nửa đêm, người cha thứ tư để đặt cạnh Winkie và Methwold và Ahmed Sinai. Lo lắng nhưng bất lực trong vòng kiềm tỏa của giấc mơ, từ đó mẹ tôi Amina bắt đầu hình thành màn sương mù tội lỗi rồi , nhiều năm sau, bao quanh đầu bà như vòng hoa đen tăm tối.)



      Tôi chưa bao giờ được nghe Wee Willie Winkie thời đỉnh cao. Sau nỗi mất mát mù lòa kia, thị lực của ông dần hồi phục; nhưng có gì đó gay gắt và cay đắng len vào giọng hát của ông. Ông bảo đó là bệnh suyễn, và tiếp tục đến Điền trang Methwold mỗi tuần lần để hát những bài hát vốn, cũng như ông, là tàn tích của thời đại Methwold. “Chúc Ngủ Ngon, Quý Bà,” ông hát; và, để cập nhật, bổ sung “Mây Rồi Sớm Tan” vào vốn biểu diễn của minh, và, sau đó ít lâu, “Cún Con Cửa Sổ Giá Nhiêu Tiền?” Đặt đứa bé khá bự với cặp đầu gối gõ nhau đầy khiếp hãi tấm thảm cạnh ông trong vòng xuyến, ông ca những bài ca đầy niềm hoài cổ, và ai nỡ đuổi ông . Winkie và ngón tay người ngư phủ là hai trong số ít những thứ thời William Methwold còn sót lại, vì sau khi người biến mất, những người kế tục ông ta tống khứ khỏi các cung điện những đồ đạc họ ruồng bỏ. Lila Sabarmati bảo lưu chiếc pianola; Ahmed Sinai giữ lại tủ whisky; ông lão Ibrahim chấp nhận những chiếc quạt trần; nhưng lũ cá vàng chết, vài con vì đói, những con khác vì bị nhồi nhét khủng khiếp đến mức chúng nổ tung thành những đám mây vảy và thức ăn cá chưa tiêu hóa; đàn chó chạy rông, và sau cùng thôi quanh quẩn ở Điền trang nữa; và chỗ quần áo bạc màu trong những chiếc tủ cũ được phân phát cho các bà quét dọn và những người hầu khác ở Điền trang, thế nên suốt nhiều năm về sau những người thừa kế William Methwold được phục vụ bởi những người đàn ông và đàn bà mặc áo sơ mi và váy vải hoa ngày rách nát của chủ nhân đời trước của họ. Nhưng Winkie và bức tranh tường của tôi sống sót; ca sĩ và ngư phủ trở thành thông lệ trong đời sống của chúng tôi, giống như giờ cocktail, nay thành thói quen quá mạnh mẽ thể dứt bỏ. “Mỗi giọt lệ và niềm đau bé,” Winkie hát, “càng kéo em lại gần ...” Còn giọng ông càng lúc càng kém , tới khi nghe như cây đàn sitar mà bầu cộng hưởng, làm bằng vỏ bí ngô sơn mài, bị chuột gặm từ lâu; “Vì bệnh suyễn,” ông bướng bỉnh bào chữa. Trước khi chết, ông mất giọng hoàn toàn; bác sĩ sửa đổi kết quả chẩn đoán thành ung thư vòm họng; nhưng họ lại sai, bởi Winkie chết vì bệnh mà vì nỗi cay đắng mất người vợ mà bất trinh ông chưa từng hoài nghi. Con trai ông, được đặt tên là Shiva theo vị thần sáng tạo và hủy diệt, ngồi dưới chân ông trong những ngày đầu ấy, lặng lẽ chịu đựng gánh nặng là căn nguyên (hoặc giả nó nghĩ vậy) suy sụp từ từ của cha mình; và dần dà, theo năm tháng, chúng tôi chứng kiến đôi mắt nó ngập nỗi căm giận thể thành lời; chúng tôi chứng kiến nắm tay nó siết lại quanh từng viên sỏi rồi ném (ban đầu vô hại, nhưng ngày nguy hiểm hơn khi nó lớn) ra khoảng trống xung quanh. Khi thằng lớn của Lila Sabarmati lên tám, nó tự ý chọc ghẹo Shiva về tính khó gần, cái quần cộc hồ, cặp đầu gối củ lạc; thế là thằng bé bị tội ác của Mary đày đọa trong kiếp nghèo với đàn phong cầm liền ném hòn đá bẹt và sắc, cạnh bén như dao cạo, làm kẻ chòng ghẹo nó mù mắt phải. Sau tai nạn của Mắt Chẻ, Wee Willie Winkie đến Điền trang Methwold mình, bỏ lại đứa con trai bước vào những mê cung u tối mà về sau chỉ cuộc chiến tranh mới giải thoát được nó.

      Vì sao Điền trang Methwold tiếp tục chịu đựng Wee Willie Winkie bất chấp hư hoại trong giọng hát của ông và hành vi bạo lực của con ông: ông từng, lần, cho họ gợi ý quan trọng về cuộc sống. “Đứa trẻ đầu tiên chào đời,” ông , “ biến quý vị thành .”

      Là hệ quả trực tiếp từ gợi ý của Winkie, tôi, trong những ngày đầu, cực kỳ đắt khách. Amina và Mary giành giật chú ý của tôi; nhưng ở mọi nhà tại Điền trang đều có người muốn biết tôi; và sau cùng Amina, cho phép niềm tự hào về tiếng tăm của tôi lấn át tâm lý miễn cưỡng để tôi ra khỏi tầm mắt, đồng ý cho mượn tôi, dưới hình thức xoay tua, cho các gia đình đồi. Được Mary Pereira đẩy trong cỗ xe nôi màu thiên thanh, tôi bắt đầu cuộc diễu hành chiến thắng quanh các cung điện lợp ngói đỏ, ban vinh dự cho lần lượt từng nhà với diện của mình, và khiến chúng trở nên với chủ nhân. Và giờ, nhìn lại bằng đôi mắt của Bé Saleem, tôi có thể vén màn hầu hết mọi bí mật của hàng xóm, bởi những người lớn sống cuộc đời họ trước mặt tôi mà hề e dè bị quan sát, biết rằng, nhiều năm sau, ai đó nhìn lại qua đôi mắt trẻ thơ và quyết định bật mí điều bí mật.

      Thế nên đây là ông lão Ibrahim, chết mòn trong lo âu vì, ở châu Phi, các chính phủ quốc hữu hóa các đồn điền sisal của ông; đây là con cả của ông Ishaq buồn bực về việc kinh doanh khách sạn lâm vào cảnh nợ nần, khiến ông ta buộc phải vay tiền đám chị trong vùng; đây là cặp mắt của Ishaq, thèm khát em dâu, mặc dù vì sao Nussie vịt bầu có thể khơi dậy ham muốn tình dục ở ai đó vẫn là điều bí đối với tôi; và đây là chồng Nussie, Ismail tay luật sư, người thu được bài học quan trọng từ ca đẻ forcep của đứa con trai: “Ở đời chẳng có gì chui ra trót lọt cả,” ông ta bảo vợ vịt bầu, “trừ phi nó được ép ra.” Áp dụng triết lý ấy vào nghiệp luật gia của mình, ông ta đeo đuổi nghiệp hối lộ quan tòa và dàn xếp bồi thẩm; mọi đứa trẻ đều có quyền năng thay đổi cha mẹ và Sonny biến cha mình thành gã lừa đảo hết sức thành công. Và, chuyển sang Biệt thự Versailles, đây là Bà Dubash với bàn thờ thần Ganesh của bà ta, được nhét vào góc căn hộ với bừa bộn siêu nhiên đến mức, ở nhà tôi, chữ “dubash” trở thành động từ nghĩa là “bày bừa”... “Ôi, Saleem, con lại dubash phòng con rồi, cái thằng da đen này!” Mary kêu ca. Và giờ căn nguyên của bừa bộn, nghiêng người qua mái chiếc xe nôi để bẹo cằm tôi: Adi Dubash, nhà vật lý, thiên tài của hạt nhân nguyên tử và rác rưởi. Bà vợ, có thai Cyrus-đại-đế, lùi lại sau, nuôi lớn đứa con, có điều gì đó cuồng tín lóe lên trong khóe mắt, lặng lẽ chờ thời; nó trỗi dậy cho đến khi Ông Dubash, người ngày ngày phải làm việc với những vật chất nguy hiểm nhất đời, chết vì nghẹn quả cam mà bà vợ quên tách hột. Tôi bao giờ được mời tới căn hộ của Bác sĩ Narlikar, viên bác sĩ phụ khoa ghét trẻ con; nhưng tại nhà Lila Sabarmati và Homi Catrack tôi trở thành tên nhòm trộm, kẻ đồng lõa tí hon với ngàn lẻ bất trinh của Lila, và cuối cùng là nhân chứng cho khởi đầu của cuộc tư thông giữa vợ viên sĩ quan hải quân với tay trùm-phim-và-chủ-ngựa-đua; điều rồi đến lúc phục vụ đắc lực cho tôi khi tôi toan tính hành động trả thù nào đó.

      Ngay cả đứa trẻ cũng phải đối diện với vấn đề định nghĩa bản thân; và tôi buộc phải rằng nổi tiếng sớm của tôi có những mặt khó khăn riêng của nó, vì tôi bị tấn công tới tấp bởi đa dạng hỗn loạn về cách nhìn nhận vấn đề, là Kẻ được Ban phước với vị guru dưới vòi nước, kẻ nhòm trộm với Lila Sabarmati; trong mắt Nussie-vịt-bầu tôi là địch thủ, và địch thủ thành công hơn, của thằng Sonny nhà ta (mặc dù, rất đáng khen, ta bao giờ thể cay cú, và cũng hỏi mượn tôi như tất cả mọi người); với bà mẹ hai đầu của tôi, tôi là đủ thứ bé bỏng đời - họ gọi tôi là joonoo-moonoo, và putch-putch, và mảnh trăng bé.

      Nhưng, cho cùng, đứa bé có thể làm được gì ngoài việc nuốt hết tất cả và hy vọng sau này hiểu ra? Kiên nhẫn, mắt ráo hoảnh, tôi hấp thụ thư-Nehru và lời tiên tri của Winkie; nhưng ấn tượng sâu sắc hơn tất thảy lại đến vào ngày con ngớ ngẩn của Homi Catrack gửi suy nghĩ của ta qua vòng xuyến vào cái đầu trẻ thơ của tôi.

      Toxy Catrack, với cái đầu ngoại cỡ và cái miệng dãi; Toxy, người đứng ở ô cửa sổ có song sắt gác thượng, trần truồng, thủ dâm với những động tác của ghê tởm bản thân tột độ; người nhổ bọt rất mạnh và thường là qua song sắt, đôi khi trúng đầu bọn tôi... có hai mươi mốt tuổi, điên dở ngô ngọng, sản phẩm của nhiều năm giao phối cận huyết; nhưng trong đầu tôi rất đẹp, vì đánh mất những thiên khiếu mọi đứa trẻ sinh ra đều có nhưng bị cuộc đời từng bước bào mòn . Tôi nhớ được bất kỳ điều gì Toxy khi gửi ý nghĩ của mình đến thầm với tôi; có lẽ chẳng có gì ngoài tiếng ú ớ và nhổ bọt; nhưng cho cánh cửa trong trí óc tôi cú huých khẽ, thế nên khi biến cố xảy ra trong cái tủ giặt có lẽ chính Toxy khiến nó thành có thể.

      Tạm thời như thế là đủ rồi, về những ngày đầu đời của Bé Saleem - chưa gì diện của tôi tác động đến lịch sử; chưa gì Bé Saleem thay đổi mọi người xung quanh; và, ở trường hợp cha tôi, tôi cho rằng chính tôi đẩy ông vào những quá đà dẫn đến, có lẽ là tất yếu, giai đoạn hãi hùng của đóng băng.



      Ahmed Sinai bao giờ tha thứ cho con trai vì làm giập ngón chân ông. Ngay cả khi tháo nẹp, ông vẫn hơi tập tễnh. Cha tôi cúi xuống cũi của tôi và , “Chà, con trai: con định thế nào là khởi đầu thế ấy. Chưa gì con bắt đầu cho bố già tội nghiệp của con ăn đòn rồi!” Theo quan điểm của tôi, câu này chỉ phân nửa là đùa. Bởi vì, với ra đời của tôi, tất cả thay đổi với Ahmed Sinai. Vị thế của ông trong gia đình bị lung lay khi tôi xuất . Đột nhiên ân cần của Amina tìm thấy những mục tiêu khác; bà bao giờ phỉnh tiền của ông nữa, và tấm khăn lòng ông ở bàn ăn sáng đôi khi lại nhói lên nỗi buồn hoài niệm về những ngày tháng cũ. Bây giờ là “Con mình cần cái này cái nọ,” hay “Janum, mình phải đưa tôi tiền cho cái nọ cái kia.” Quá tệ, Ahmed Sinai nghĩ. Cha tôi luôn tự cho mình là quan trọng.

      Và thế là chính thành tích của tôi khiến cho Ahmed Sinai, trong những ngày đầu tôi ra đời, rơi vào hai ảo tưởng sinh đôi mà rồi trở thành sụp đổ của ông, vào thế giới có thực của tinh và vùng đất trong lòng biển.

      hồi ức về cha tôi trong tối mùa lạnh, ngồi giường tôi (dạo ấy tôi lên bảy) mà kể cho tôi, với chất giọng hơi quánh lại, chuyện người đánh cá tìm thấy tinh trong cái chai bị dạt lên bãi biển... “Đừng bao giờ tin lời hứa của tinh, con trai! Thả chúng ra là chúng nuốt tươi con!” Và tôi, rụt rè - vì tôi có thể ngửi thấy mùi hiểm nguy trong hơi thở cha tôi: “Nhưng, Abba, tinh sống được trong chai à?” Và thế là cha tôi, trong cơn thay đổi tâm trạng chóng mặt, cười rầm lên và rời khỏi phòng, trở lại với cái chai màu xanh sẫm có nhãn trắng. “Nào,” ông trầm giọng hỏi, “con có muốn xem tinh trong này ?” “!” tôi sợ hãi ré lên; nhưng “Có!” con Khỉ Đồng em tôi reo to từ giường bên cạnh… và co rúm lại trong nỗi khiếp sợ háo hức, chúng tôi xem ông vặn nút rồi lấy bàn tay bịt cổ chai lại đầy vẻ kịch tính; và giờ, tay kia, chiếc bật lửa xuất . “Thế là tiêu đời lũ tinh gian ác!” cha tôi kêu lên; rồi, nhấc tay ra, gí ngọn lửa vào cổ chai. Kinh hãi, con Khỉ và tôi quan sát ngọn lửa ma quái, lam-lục-vàng, chầm chậm di chuyền xuống theo vòng tròn ở mặt trong chai; tới khi, xuống đến đáy, nó bùng lên giây lát rồi tắt ngấm. Hôm sau tôi khơi mào hàng tràng cười khi bảo Sonny, Mắt Chẻ và Tóc Dầu, “Bố tao chiến đấu với tinh; ông đánh bại chúng; đấy!...” Và có thế . bao lâu sau khi tôi ra đời, Ahmed Sinai, bị tước bỏ những phỉnh nịnh và quan tâm, bắt đầu cuộc đấu tranh trọn đời với những chai đựng tinh. Nhưng tôi nhầm điều: ông thắng.

      Tủ cocktail kích thích khẩu vị ông; nhưng xuất của tôi mới là điều đẩy ông đến với nó... Hồi ấy, Bombay mới được tuyên bố là bang cấm rượu. Cách duy nhất kiếm rượu là lấy được chứng nhận nghiện rượu; và thế là giống bác sĩ mới sinh sôi, bác sĩ-tửu tinh, trong số này, Bác sĩ Sharabi, được giới thiệu với cha tôi qua ông Homi Catrack hàng xóm. Sau đó, cứ vào ngày đầu tháng cha tôi và Ngài Catrack và nhiều nhân vật khả kính nhất của thành phố lại xếp hàng ngoài cánh cửa kính sần tại phòng mổ của Bác sĩ Sharabi, vào, rồi quay ra với những tờ tem phiếu rượu màu hồng be bé. Nhưng khẩu phần cho phép quá ít so với nhu cầu của cha tôi; thế là ông bắt đầu sai cả người hầu ; và thợ làm vườn, người bưng bê, tài xế (giờ chúng tôi có ô tô, chiếc 1946 Rover có gờ lên xuống, giống của William Methwold), thậm chí cả lão Musa và Mary Pereira, đem về cho cha tôi càng lúc càng nhiều tem hồng, ông mang tem hồng tới Bách hóa Vijay đối diện hiệu thợ cạo cắt bao quy đầu ở Đường Gowalia Tank để đổi lấy những túi giấy nâu đựng rượu, bên trong là những chai màu xanh kêu lanh canh, chứa đầy tửu tinh. Và cả whisky nữa: Ahmed Sinai xóa nhòa đường nét của bản thân bằng cách uống những chai xanh và nhãn đỏ của người hầu. Người nghèo, chẳng có gì khác để kiếm tiền, bán danh tính họ những mẩu giấy hồng; còn cha tôi biến chúng thành chất lỏng và nốc cạn.

      Vào sáu giờ mỗi tối, Ahmed Sinai bước vào thế giới của tửu tinh; và mỗi sáng, mắt đỏ ngầu, đẫu nhức nhối vì kiệt lực sau trận chiến suốt đêm, ông cạo râu ngồi vào bàn ăn sáng; và theo dòng chảy của năm tháng, tâm trạng phấn khởi trước khi cạo râu của ông bị thay thế bởi kiệt quệ cáu bẳn của cuộc chiến giữa ông với những linh thần trong chai.

      Sau khi ăn sáng, ông xuống nhà. Ông dành riêng hai phòng ở tầng trệt để làm văn phòng, vì khả năng định hướng của ông vẫn kém như thường lệ, và ông thích thú gì cái ý tưởng bị lạc giữa Bombay đường làm; nhớ đường xuống lượt cầu thang cả ông cũng làm được. Đường nét nhạt nhòa, cha tôi thực những giao dịch bất động sản; và cơn giận tăng dần của ông trước việc mẹ tôi chuyên chú vào đứa con tìm được lối xả mới sau cánh cửa văn phòng - Ahmed Sinai bắt đầu ve vãn các thư ký. Sau nhiều đêm mà trận cãi vã với những chai rượu đôi khi bùng phát với những lời lẽ cay nghiệt - “Vợ với chả con! Thế này tôi mua quách thằng con rồi thuê mụ vú nuôi - có khác gì đâu?” Và rồi nước mắt, và Amina, “Ôi, ja-num - đừng dằn vặt em!”, và thế là khơi lên, “Dằn vặt cái chân tôi! nghĩ chồng đòi hỏi vợ quan tâm là dằn vặt à? Chúa cứu con khỏi lũ đàn bà ngu độn!” - cha tôi tập tễnh xuống cầu thang để lồi mắt ra nhìn các Colaba. Và sau thời gian Amina bắt đầu để ý thấy thư ký của ông ai ở được lâu, họ đột ngột bỏ , hầm hầm lao ra khỏi cửa nhà tôi hề báo trước; và quý vị phải tự đánh giá đấy là bà giả mù, hay bà chấp nhận điều đó như trừng phạt, nhưng tóm lại bà có phản ứng gì, tiếp tục dồn hết thời gian cho tôi; hành động duy nhất của bà để ghi nhận việc là đặt cho các cái tên chung. “Mấy ả lai ấy,” bà bảo Mary, để lộ chút hợm hĩnh, “tên kỳ cục, Fernand với Alonso này kia, họ , trời ạ! Sulaca với Colaco cái gì biết. Việc gì ta phải bận tâm về các ả? Loại đàn bà rẻ tiền. Ta gọi tất là đám Coca-Cola của ông ta - tên mấy ả nghe đều rưa rứa cả.”

      Trong khi Ahmed véo: những cặp mông, Amina trở nên cam chịu; nhưng có lẽ nếu bà tỏ ra quan tâm ông hẳn thấy vui.

      Mary Pereira , “Những cái tên đấy hề kỳ cục, thưa Bà; Bà bỏ quá, nhưng đấy là những từ Thiên Chúa tốt đẹp.” Amina liền nhớ lại vụ em họ Zohra của Ahmed đem da đen ra làm trò cười - và, cuống lên để xin lỗi, bà phạm vào sai lầm của Zohra: “Ôi, phải em đâu, Mary, sao em có thể nghĩ rằng chị giễu em?”

      Đầu sừng, mũi dưa chuột, tôi nằm trong cũi lắng nghe; và mọi chuyện xảy ra, đều vì tôi mà xảy ra... ngày tháng năm 1948, lúc năm giờ chiều, cha tôi được Bác sĩ Narlikar đến thăm. Những cái ôm hôn như thường lệ, rồi những cái vỗ lưng. “Làm tí cờ nhé?” bố tôi hỏi, theo nghi thức, vì các cuộc viếng thăm này trở thành thông lệ. Họ chơi cờ theo lối Ấn Độ xưa, trò chơi shatranj, và, được giải phóng khỏi những phức tạp trong cuộc sống bởi giản đơn của bàn cờ, Ahmed mơ tưởng trong giờ đồng hồ về chuyện sắp xếp lại kinh Quran; thế rồi đến sáu giờ, giờ cocktail, giờ của tửu tinh... song tối nay Narlikar , “.” Và Ahmed, “? là sao? Nào, ngồi, chơi, buôn chuyện...” Narlikar ngắt lời: “Tối nay, người em Sinai ạ, có thứ này tôi phải cho xem.” Giờ họ ngồi chiếc 1946 Rover, Narlikar quay cần khởi động rồi nhảy lên; và họ chạy về phía Bắc theo đường Warden, qua đền Mahalaxmi bên trái và sân golf Willingdon Club bên phải, bỏ trường đua ngựa lại sau, lăn bánh dọc Hornby Vellard cạnh con đê biển; sân vận động Vallabhbhai Patel nằm trong tầm mắt, với những hình nộm đô vật khổng lồ bằng bìa, Bano Devi Người đàn bà Bất khả Chiến bại và Dara Singh, dũng sĩ đệ nhất... những người bán channa và dắt chó dạo tản bộ bên bờ biển. “Dừng lại,” Narlikar ra lệnh, và họ xuống xe. Họ đứng nhìn ra biển; gió biển thổi mát mặt họ; ngoài xa, ở cuối con đường hẹp lát xi măng giữa những con sóng, là hòn đảo đặt lăng tẩm của vị thánh Haji Ali. Khách hành hương sải bước giữa Vellard và lăng mộ.

      “Đó,” Narlikar chỉ, “ thấy gì?” Và Ahmed, hoang mang, “Chả thấy gì sất. Lăng. Người. Thế này là sao, ông bạn già?” Và Narlikar, “ phải cái đấy. Kia kìa!” Và giờ Ahmed thấy ngón tay chỉ của Narlikar trỏ vào lối lát xi măng... “Con đường bờ biển ?” ông hỏi, “Cái đó sao? Vài phút nữa thủy triều lên và phủ kín nó; ai chả biết...” Narlikar, làn da tỏa sáng như ngọn hải đăng, trở nên triết lý. “Chính thế, người em Ahmed; chính thế. Đất và biển; biển và đất; cuộc tranh đấu muôn đời, phải ?” Ahmed, hiểu gì, im lặng. “ thời nơi đây từng có bảy hòn đảo,” Narlikar nhắc ông, “Worli, Mahim, Salsette, Matunga, Colaba, Mazagaon, Bombay. Người hợp chúng lại. Biển, người em Ahmed, trở thành đất. Đất nổi lên, và chìm xuống dưới thủy triều!” Ahmed thấy thèm whisky; môi ông bắt đầu trề ra trong khi khách hành hương rảo bước con đường hẹp. “Ý tưởng,” ông chất vấn. Và Narlikar, rực rỡ ánh quang huy: “Ý tưởng, Ahmed bhai, là đây!”

      Nó chui ra từ túi ông: mô hình thạch cao cao hai tấc: cái tetrapod! Như cái logo ba chiều của Mercedes-Benz, ba chân đứng tay ông, chân thứ tư vươn lên theo kiểu linga giữa trời đêm, nó làm cha tôi chết lặng. “Cái gì thế?” ông hỏi; và Narlikar liền bảo ông: “Đây là cục cưng làm chúng ta giàu hơn cả Hyderabad, bhai! Món đồ chơi biến , và tôi, thành chủ nhân của ! Ông chỉ về nơi biển ào đến lối lát xi măng người... Vùng đất dưới mặt biển, bạn ơi! Chúng ta phải sản xuất thứ này hàng nghìn chiếc - hàng chục nghìn! Chúng ta phải bỏ thầu những hợp đồng lấn biển: cả gia tài đợi; đừng bỏ lỡ, người em, đây là cơ hội cả đời người đấy!”

      Vì sao cha tôi bằng lòng mơ giấc mơ kinh doanh của bác sĩ phụ khoa? Vì sao, từng chút , viễn cảnh về những khối tetrapod bê tông kích thước hành quân con đường ven biển, những kẻ chinh phục bốn chân giành chiến thắng trước biển cả, lại hớp hồn ông hoàn toàn như với vị bác sĩ phát sáng? Vì sao, những năm sau này Ahmed lại dâng hiến bản thân cho cái ảo tưởng của mọi cư dân vùng đảo - cái huyền thoại chinh phục những con sóng? Có thể vì ông sợ bỏ lỡ ngã rẽ nữa; có thể vì tình bằng hữu của những ván shatranj; hoặc có lẽ vì đáng tin cậy của Narlikar - “Vốn của và quan hệ của tôi, Ahmed bhai, còn có khó khăn gì được? Mọi nhân vật tiếng tăm ở thành phố này đều có đứa con trai do tay tôi đón ra đời; cửa nào đóng. sản xuất; tôi kiếm hợp đồng! Năm mươi - năm mươi; ăn đồng chia đủ!” Nhưng, theo quan điểm của tôi, có cách giải thích đơn giản hơn. Cha tôi, bị tước đoạt quan tâm của vợ, bị thay thế bởi con trai, bị nhòa vì whisky và tửu tinh, cố gắng khôi phục vị thế của mình trong thế giới này; và giấc mơ tetrapod cho ông cơ hội ấy. Toàn tâm toàn ý, ông lao vào trò dại dột đồ sộ ấy; thư được viết; cửa được gõ, tiền hối lộ được trao tay; tất cả góp phần biến Ahmed Sinai thành cái tên quen thuộc ở những hành lang của Sachivalaya - các lối của Văn phòng Bang người ta đánh hơi thấy tay người Hồi vãi tiền như nước. Và Ahmed Sinai, uống đến ngủ mê mệt, hay biết về mối hiểm nguy ông dấn thân vào.

      Cuộc sống của chúng tôi, ở giai đoạn này, được định hình bằng thư tín. Thủ tướng viết cho tôi khi tôi mới bảy ngày tuổi - trước khi biết tự chùi mũi tôi nhận được thư hâm mộ từ độc giả của Thời báo Ấn Độ; sáng tháng , cả Ahmed Sinai cũng nhận được bức thư mà ông chẳng bao giờ quên được.

      Đôi mắt đỏ ngầu ở bữa sáng được tiếp nối bằng cái cằm cạo nhẵn của ngày làm việc; tiếng chân xuống tầng; tiếng giật mình khúc khích của Coca-Cola. Tiếng cót két của cái ghế bị kéo lại gần chiếc bàn phủ vải giả da màu lục. Tiếng kim khí của lưỡi dao rọc bằng kim loại được nhấc lên, va chạm vào máy điện thoại trong giây lát. Tiếng xoẹt ngắn của kim loại xén vào lớp phong bì; và phút sau, Ahmed chạy ngược lên cầu thang, la gọi mẹ tôi, hét lớn:

      “Amina! Lại đây, mình! Bọn con hoang nhét hai hòn của tôi vào xô đá rồi!”

      Những ngày sau khi Ahmed nhận được thư chính thức thông báo việc đóng băng toàn bộ tài sản của ông, cả thế giới nhất tề lên tiếng... “Ơ kìa, janum, mình ăn thế à!” Amina - và có phải tôi tưởng tượng ra, hay đứa bé vừa đỏ mặt trong cái cũi màu thiên thanh?

      Và Narlikar, xuất trong cơn hốt hoảng dầm dề, “Lỗi tại tôi mọi đàng; bọn ta quá phô trương. Bây giờ buổi rối ren, Sinai bhai - đóng băng tài sản của gã người Hồi, họ bảo, rồi ép gã chạy sang Pakistan, bỏ lại tất cả của cải. Tóm đuôi thằn lằn rồi tự đứt đuôi! Cái gọi là chính quyền thế tục này có những ý tưởng ranh mãnh .”

      “Tất cả,” Ahmed Sinai , “tài khoản ngân hàng, trái phiếu tiết kiệm; tiền thuê nhà từ bất động sản ở Kurla - phong tỏa, đóng băng hết. Theo lệnh, thư viết. Theo lệnh chúng để cho tôi có lấy bốn anna, mình ạ - có lấy chavanni để xem hộp vạn hoa!”

      “Tại mấy bức hình đăng báo,” Amina quả quyết. “ làm sao quân khốn nạn ma lanh tinh tướng ấy biết ai mà khởi tố? Trời ơi, janum, lỗi tại em...”

      có lấy mười xu để mua xiên channa,” Ahmed Sinai thêm, “ có lấy anna để bố thí cho ăn mày. Đóng băng - như trong tủ lạnh!”

      “Lỗi tại tôi,” Ismail Ibrahim , “Lẽ ra tôi phải cảnh báo , Sinai bhai, tôi nghe tới mấy vụ đóng băng này - chỉ những người Hồi giàu có mới bị chọn, tất nhiên rồi. phải chiến đấu...”

      “…máu lửa vào!” Homi Catrack hối thúc, “Như con mãnh sư! Như Aurangzeb - tổ tiên của , phải nhỉ? - như Quận chúa xứ Jhansi! Để xem chúng ta rơi vào cái đất nước kiểu gì!”

      “Ở đất nước này hãy còn tòa án đấy,” Ismail Ibrahim thêm; Nussie-vịt-bầu cười nụ cười đần đụt trong khi cho Sonny bú; ngón tay ta chuyển động, vô thức vuốt ve hai hốc lõm của nó, lên xuống, quay qua quay lại, theo nhịp điệu đều đặn, bất biến... “ phải tiếp nhận hỗ trợ pháp lý của tôi,” Ismail bảo Ahmed. “Hoàn toàn miễn phí. , , đừng nhắc đến chuyện đấy. Có nhẽ đâu thế? Mình là hàng xóm cơ mà.”

      “Phá sản,” Ahmed , “Đóng băng, như nước ấy.”

      “Mình lại đây,” Amina ngắt lời ông; dâng hiến trỗi dậy ở tầm cao mới, bà dẫn ông về phòng... “Janum, mình cần nằm xuống lát.” Và Ahmed: “Thế này là sao, mình? Giữa lúc như thế này – trắng tay; mạt vận; nát vụn như đá - vậy mà mình lại nghĩ đến...” Nhưng bà đóng cửa; dép được đá tung ra, cánh tay bà vươn về phía ông; và bao lâu sau bàn tay bà lần xuống xuống xuống; và rồi, “Ôi trời ơi, janum, em tưởng mình chỉ bậy nhưng đúng ! Lạnh quá, Allah, lạnh quáááá, như hai cục đá tròn ấy!”



      Những chuyện như vậy vẫn xảy ra; sau khi Chính quyền đóng băng tài sản của cha tôi, mẹ tôi bắt đầu thấy chúng càng lúc càng lạnh hơn. Vào ngày đầu tiên, con Khỉ Đồng được thụ thai - vừa kịp lúc, vì sau đó, mặc dù Amina nằm bên chồng hằng đêm để sưởi ấm cho ông, mặc dù bà cuộn mình ôm chặt ông khi thấy ông run bần bật lúc những ngón tay băng giá của thịnh nộ và bất lực từ dương căn của ông vươn lên, bà chịu nổi việc sờ tay vào đó nữa bởi hai hòn đả của ông trở nên buốt lạnh tới mức thể cầm được.

      Họ - chúng tôi - đáng lẽ phải đoán được chuyện tồi tệ xảy ra. Tháng năm đó, Bãi biển Chowpatty, cả Juhu và Trombay nữa, ngổn ngang xác cá chim báo điềm gở, những cái xác trôi, bóng dáng lời giải thích, ngửa bụng, như những ngón tay đầy vảy dạt vào bờ.

    2. banglangtrang123

      banglangtrang123 Well-Known Member Staff Member Super Moderator

      Bài viết:
      26,213
      Được thích:
      47,825
      Chương 10: Rắn và Thang




      Và những điềm gở khác: có người thấy sao chổi nổ tung Vịnh Back; báo đưa tin có người thấy hoa chảy máu; rồi vào tháng Hai lũ rắn trốn thoát khỏi Viện Schaapsteker. Người ta đồn rằng gã dụ rắn người Bengal bị điên, tay Tubriwallah, lang thang khắp nước, dụ lũ bò sát ra khỏi tình trạng giam cầm, dẫn chúng thoát khỏi các trại rắn (như Viện Schaapsteker, nơi người ta nghiên cứu chức năng y học của nọc rắn và điều chế huyết thanh kháng độc) bằng ma thuật Pied Piper[1] từ cây sáo, để báo thù việc chia cắt xứ Bengal Trù phú thân của gã. Được thời gian, tin đồn bổ sung rằng gã Tubriwallah ấy cao ngoài hai thước, da xanh lơ. Gã là thần Krishna giáng hạ để trừng phạt con dân của người; gã là đức Jesus màu thiên thanh của các nhà truyền giáo.

      [1] Tên nhân vật truyền kỳ ở Đức, người dùng tiếng sáo để dụ đàn chuột khỏi thi trấn Hamelin. Sau khi được trả công như cam kết, ta dùng chính tiếng sáo này để dụ trẻ con trong thị trấn bỏ .

      Hình như, dưới tác động của ra đời bị đánh tráo của tôi, trong khi tôi to lên với tốc độ chóng mặt, mọi thứ có thể sinh chuyện bắt đầu sinh chuyện. Trong mùa đông của loài rắn đầu năm 1948, trong mùa nóng và mùa mưa tiếp nối, kiện chất chồng kiện, cho nên đến khi con Khỉ Đồng ra đời vào tháng Chín chúng tôi đều kiệt sức, và sẵn sàng để nghỉ ngơi vài năm.

      Lũ hổ mang trốn thoát biến mất vào hệ thống cống rãnh của thành phố; cạp nong xuất xe buýt. Các lãnh tụ tôn giáo mô tả việc đàn rắn trốn thoát như lời cảnh báo - rắn thần Naga được phóng thích, họ ngân nga, để trừng phạt việc đất nước này công khai từ bỏ những thần linh của nó. (“Chúng ta là Quốc gia thế tục,” Nehru tuyên bố, và cả Morarji lẫn Patel lẫn Menon đều tán thành; song Ahmed Sinai vẫn run bần bật dưới tác động của vụ đóng băng.) Và ngày, khi Mary bắt đầu hỏi, “Giờ ta sống ra sao, thưa Bà?” Homi Catrack giới thiệu chúng tôi với chính Bác sĩ Schaapsteker. Ông ta tám mốt tuổi; lưỡi thò ra thụt vào liên hồi giữa cặp môi mỏng dính; và sẵn sàng trả tiền mặt thuê căn hộ tầng cùng nhìn ra biển Ả Rập. Ahmed Sinai, trong những ngày ấy, nằm liệt giường; cái lạnh buốt giá của vụ đóng băng thấm đẫm giường chiếu ông; ông nốc từng lượng lớn whisky cho mục đích điều trị nhưng nó thể làm ông ấm lên... thế nên chính Amina đồng ý cho ông bác-sĩ-rắn già thuê tầng cùng Biệt thự Buckingham. Vào cuối tháng Hai, nọc rắn bước vào cuộc đời chúng tôi.

      Bác sĩ Schaapsteker là người khơi dậy những câu chuyện hoang đường. Những người giúp việc mê tín hơn ở Viện nghiên cứu của ông thề rằng ông có khả năng hằng đêm mơ thấy bị rắn cắn, và nhờ vậy luôn miễn nhiễm trước những cú cắn của chúng. Mấy người khác rỉ tai nhau rằng ông chính là nửa người nửa rắn, kết quả của cuộc hôn phối phi tự nhiên giữa người đàn bà và con rắn hổ mang. Nỗi ám ảnh của ông với nọc độc của rắn cạp nong - bungarus fasciatus - sớm thành huyền thoại. Nhân loại chưa biết tới loại huyết thanh kháng độc nào cho cú cắn của rắn bungarus: nhưng Schaapsteker dành trọn đời tìm nó. Mua những con ngựa suy nhược từ tàu ngựa Catrack (và những tàu khác), ông tiêm vào chúng từng liều nọc độc; nhưng lũ ngựa, chẳng giúp ích gì, hình thành được kháng thể, sùi bọt mép, chết đứng và buộc phải đem nấu thành cao. Người ta bảo rằng Bác sĩ Schaapsteker – “Sharpsticker[2] sahib” – giờ đây có năng lực hạ sát lũ ngựa chỉ đơn giản bằng cách lại gần chúng với ống tiêm dưới da... nhưng Amina để tâm đến mấy chuyện tầm phào ấy. “Đấy là ông già lịch lãm,” bà bảo Mary Pereira; “Việc gì phải bận tâm đến những kẻ đơm đặt về ông ấy? Ông ấy trả tiền nhà, và cho phép nhà ta sống.” Amina biết ơn ông bác-sĩ-rắn người Âu, đặc biệt là khi vào những ngày tháng tài sản bị đóng băng, khi Ahmed dương như có dũng khí để chiến đấu.

      [2] Tên Schaapsteker (tiếng Đức) phát khá giống với Sharp-stick-er, hiểu nôm na là người có cây gậy nhọn, ám chỉ việc Bác sĩ Schaapsteker dùng kim tiêm để tiêm nọc rắn vào lũ ngựa.

      “Cha mẹ kính ,” Amina viết, “Thề có quỷ thần hai vai, con hiểu vì sao những chuyện này lại đổ xuống đầu chúng con... Ahmed là người đàn ông tốt, nhưng tai biến này đánh quỵ ấy. Nếu cha mẹ có lời khuyên cho con mình, con trẻ rất cần đến nó.” Ba ngày sau khi nhận bức thư này, Aadam Aziz và Mẹ Bề tới Nhà ga Trung tâm Bombay chuyến tàu Frontier Mail; và Amina, lái xe đưa họ về chiếc 1946 Rover của nhà tôi, nhìn qua cửa sổ thấy Trường đua Mahalaxmi; và nảy ra mầm mống đầu tiên cho ý tưởng táo tợn của bà.

      “Thứ trang trí tân thời này với bọn trẻ như chị được, cáigìkhôngbiết,” Mẹ Bề . “Nhưng cho tôi cái tràng kỷ kiểu cũ để tôi ngồi. Cái thứ ghế này mềm quá thể, cáigìkhôngbiết, làm tôi thấy như sắp ngã.”

      “Nó ốm à?” Aadam Aziz hỏi. “Bố khám và kê đơn cho nó nhé ?”

      “Giờ phải lúc núp giường,” Mẹ Bề tuyên bố, “Giờ nó phải là thằng đàn ông, cáigìkhôngbiết, và làm nhiệm vụ của đàn ông.”

      “Khí sắc bố mẹ tốt quá,” Amina thốt lên, thầm nghĩ bố bà trở thành ông lão hình như mỗi năm qua lại thấp hơn; trong khi Mẹ Bề rộng ra đến mức những cái ghế bành, dẫu mềm, cũng phải rên lên dưới sức nặng của bà... và đôi khi, trong ảo ảnh của ánh sáng, Amina ngỡ như mình thấy, ở chính giữa người cha bà, quầng tối giống như cái lỗ.

      “Còn gì ở cái đất Ấn Độ này?” Mẹ Bề , vung tay chém gió. “Thôi, bỏ hết , sang Pakistan mà sống. Nhìn thằng Zulfìkar xem nó ăn nên làm ra thế nào - nó giúp mày khởi nghiệp. Hãy làm thằng đàn ông, con ạ - đứng dậy và bắt đầu lại!”

      ấy muốn gì lúc này,” Amina , “ ấy cần nghỉ ngơi.”

      “Nghỉ ngơi?” Aadam Aziz gầm lên. “Nó đúng là ngữ èo uột!”

      “Cả Alia, cáigìkhôngbiết,” Mẹ Bề , “ thân mình, sang Pakistan - cả nó cũng có cuộc sống đàng hoàng, dạy học ở trường tử tế. Họ bảo nó thành hiệu trưởng sớm thôi.”

      “Suỵt, mẹ, ấy muốn ngủ... ta sang phòng bên ...”

      “Có lúc để ngủ, cáigìkhôngbiết, và cũng có lúc phải thức! Nghe này: Mustapha kiếm được hàng mấy trăm đồng tháng, cáigìkhôngbiết, trong Ngạch Công chức. Chồng mày là gì? Oách quá cần làm việc à?”

      “Mẹ, ấy buồn bực. Thân nhiệt ấy thấp lắm…”

      “Mày cho nó ăn những gì? Kể từ hôm nay, cáigìkhôngbiết tao quản chuyện bếp núc nhà mày. Thanh niên bây giờ như con nít ấy, cáigìkhôngbiết!”

      “Xin theo ý mẹ.”

      “Tao mày nghe, cáigìkhôngbiết, tại mấy bức ảnh báo cả. Tao bảo - phải ? - cái đó rồi chẳng hay ho gì đâu. Ảnh nó lấy mất hồn vía của mày. Trời ạ, cáigìkhôngbiết, lúc tao xem ảnh mà mày trong suốt đến mức tao thấy cả chữ ở mặt kia hằn xuyên qua mặt mày!”

      “Nhưng đấy chỉ là...”

      “Thôi đừng có trình bày với tao, cáigìkhôngbiết! Tao tạ ơn Chúa là mày hồi phục sau cái vụ chụp ảnh ấy!”

      Từ hôm đó, Amina được giải phóng khỏi cái nhiệm vụ cấp bách là điều hành gia đình. Mẹ Bề ngồi ở đầu bàn, phân phát thức ăn (Amina mang đồ ăn lên cho Ahmed nằm giường, thỉnh thoảng rên rẩm, “Tan tành, mình ơi! Vỡ vụn - như trụ băng!”); trong khi, dưới bếp, Mary dành thời gian chuẩn bị, để khoản đãi các vị khách, vài món xoài dầm, chutney chanh và kasaundy dưa chuột hảo hạng và thanh tao nhất đời. Và giờ, được trả về vị thế con trong nhà của chính mình, Amina bắt đầu thấy cảm xúc từ thức ăn của người khác rỉ vào bà - bởi Mẹ Bề phân phát món cà ri và thịt viên của bảo thủ, những món ăn thấm đẫm cá tính người nấu; Amina ăn cá salan của ương ngạnh và biriani[3] của lòng quyết tâm. Và, mặc dù những món rau quả dầm của Mary có hiệu ứng trung hòa phần nào - vì đá khuấy vào đó cảm giác tội lỗi trong tim minh, và nỗi sợ bị phát giác, cho nên, thơm ngon như vậy, chúng có sức mạnh biến người ăn thành nạn nhân của những nỗi thấp thỏm tên và những giấc mơ về những ngón tay kết tội - khẩu phần do Mẹ Bề cung cấp lấp đầy Amina với niềm phẫn nộ, và thậm chí mang lại đôi chút dấu hiệu của cải thiện ở ông chồng bại tướng của bà. Vậy là cuối cùng đến cái ngày Amina, trước giờ vẫn nhìn tôi vụng về chơi với lũ ngựa đồ chơi bằng gỗ đàn hương trong bồn tắm, vẫn hít vào cái mùi ngọt ngào của gỗ đàn hương từ nước tắm tỏa ra, đột nhiên tái phát trong bà dòng máu phiêu lưu thừa kế từ người cha nhạt nhòa , dòng máu đưa Aadam Aziz rời bỏ vùng quê thung lũng núi; Amina quay sang Mary Pereira mà bảo, “Đủ lắm rồi. Nếu ai trong cái nhà này đứng ra thu xếp mọi việc cho ổn thỏa tôi tự lo!”

      [3] thứ cơm trộn nhiều gia vị ăn kèm với thịt hoặc rau.

      Bầy ngựa đồ chơi phi nước đại đằng sau đôi mắt Amina khi bà để Mary lau người cho tôi và tiến về phòng mình. Những hình ảnh bà ghi nhớ vể Trường đua Mahalaxmi chạy nước kiệu nhanh trong đầu bà khi bà gạt mớ sari và váy lót sang tên. Cơn rạo rực của mưu táo tợn làm máu dồn lên má bà khi bà mở nắp cái thùng tôn cũ... nhét đầy ví tiền xu và tiền giấy của những bệnh nhân biết ơn và khách mời đám cưới, mẹ tôi tới trường đua.

      Với con Khỉ Đồng lớn dần trong bụng, mẹ tôi hiên ngang tiến vào bãi giữ ngựa của trường đua mang tên vị nữ thần tài lộc; dũng cảm chịu đựng những cơn nghén và chứng phù nề, bà đứng xếp hàng trước cửa sổ nhà Tote[4], đặt tiền vào những kèo xiên ba ngựa[5] và kèo ngoài bảng ăn to[6]. Mù tịt những điều cơ bản nhất về ngựa, bà bắt những con ngựa cái có tiếng là có cửa thắng khi đua đường trường; bà đặt tiền vào những dô kề vì thích nụ cười của họ. Nắm chặt cái ví đựng đầy những của hồi môn nằm yên trong rương ai đụng đến từ khi mẹ bà gói ghém chúng lại, bà điên cuồng vỗ tay cổ vũ những con ngựa đực có bề ngoài phù hợp với Viện Schaapsteker... và thắng, và thắng, và thắng.

      [4] tòa nhà trong trường đua Mahalaxmi, nơi nhận đặt cửa và thanh toán tiền thắng đua ngựa. The Tote công ty cá cược lớn của thành lập năm 1926 và được bảo trợ của chính phủ.

      [5] Người đánh cá chỉ thắng nếu ba con ngựa họ chọn ở ba vòng đua đều thắng.

      [6] Những con ngựa được đánh giá là rất ít cơ hội chiến thắng, do vậy nên tỉ lệ đánh cá rất cao.

      “Tốt đấy,” Ismail Ibrahim , “Tôi luôn cho rằng chị phải chiến đấu với bọn khốn nạn ấy. Tôi bắt đầu thủ tục ngay... nhưng cần tiền đấy, Amina. Chị có tiền mặt ?”

      “Tiền sẵn sàng cho .”

      phải cho tôi,” Ismail giải thích, “Dịch vụ của tôi là, như tôi , miễn phí, gratis hoàn toàn. Nhưng, chị bỏ quá, chắc chị cũng biết cái lệ nó thế, ta phải có tí quà cáp cho người ta để bôi trơn...”

      “Đây,” Amina đưa ra cái phong bì, “Trước mắt thế này đủ chưa?”

      “Lạy Chúa,” Ismail Ibrahim kinh ngạc đánh rơi cái gói, và những đồng rupee mệnh giá lớn vung vãi khắp sàn phòng khách của ông ta, “Chị kiếm ở đâu ra...” Và Amina, “Tốt hơn đừng hỏi - còn tôi hỏi tiêu thế nào.”

      Tiền của Schaapsteker trả tiền ăn cho nhà tôi; nhưng lũ ngựa mới chiến đấu cuộc chiến của chúng tôi. Chuỗi vận may của mẹ tôi đường đua rất dài, vỉa lộc rất dày, đến nỗi nếu nó xảy ra thực tế chắc chẳng ai tin nổi... tháng này qua tháng khác, bà đặt cửa vào kiểu tóc chỉn chu ưa nhìn của tay dô kề hoặc màu lông khoang đẹp đẽ của con ngựa; và bà bao giờ rời đường đua mà thiếu chiếc phong bì lớn nhét đầy tiền.

      “Mọi chuyện tiến triển tốt,” Ismail Ibrahim bảo bà, “Nhưng chị Amina, có Chúa mới biết chị tính chuyện gì. Có đàng hoàng ? Có hợp pháp ?” Và Amina: “ đừng bận tâm. Ta phải học cách sống chung với lũ thôi. Tôi làm chuyện cần phải làm.”

      Suốt thời gian đó chưa lần nào mẹ tôi thích thú với những chiến thắng oanh liệt ấy; bởi vì bà chỉ bị cái thai đè nặng - ăn những món cà ri tràn ngập những định kiến xa xưa của Mẹ Bề , bà bị thuyết phục rằng đánh bạc là thứ xấu xa thứ nhì đời, chỉ sau rượu chè; bởi vậy, dù phải tội phạm, bà vẫn bị cảm giác tội lỗi giày vò.

      Mụn cóc hành hạ hai bàn chân bà, mặc dù Purushottam vị sadhu, người ngồi dưới vòi nước vườn nhà tôi đến khi nước xuống tạo thành mảng hói giữa mái tóc sum suê rối bù đầu ông cụ, là bậc kỳ tài trong việc làm phép xua chúng ; nhưng suốt mùa đông rắn và mùa nóng, mẹ tôi chiến đấu cuộc chiến của chồng mình.

      Quý vị hỏi: làm sao thế được? Làm sao bà nội trợ, dù cần mẫn đến đâu, dù quyết tâm thế nào, thắng hàng gia tài nhờ cá ngựa, ngày đua này qua ngày đua khác, tháng này qua tháng khác? Quý vị tự nhủ: à há, tay Homi Catrack ấy, ông ta là chủ ngựa đua; và ai cũng biết phần lớn các cuộc đua được dàn xếp; Amina chắc nhờ ông hàng xóm mách nước! giả thiết hợp lý; song Ngài Catrack thua cũng thường xuyên như thắng; ông ta thấy mẹ tôi tại trường đua và choáng váng trước thành công của bà. (“Xin ,” Amina đề nghị, “Catrack Sahib, hãy xem đây là bí mật của hai ta. Cờ bạc là chuyện xấu xa; nếu mẹ tôi mà phát ra xấu hổ lắm.” Và Catrack, gật đầu trong sửng sốt, đáp, “ như chị muốn.”) Vậy là phải tay người Parsee đứng sau vụ này - nhưng có lẽ tôi có thể đưa ra lời giải thích khác. Nó đây, trong cái cũi màu thiên thanh trong căn phòng màu thiên thanh với ngón tay chỉ của người ngư phủ tường: đây, mỗi khi mẹ cậu ra tay nắm chặt chiếc ví đựng đầy bí mật, là Bé Saleem, người có được vẻ mặt tập trung cao độ nhất, có đôi mắt bị chiếm hữu bởi đơn nhất về mục đích có sức mạnh lớn lao đến nỗi nó làm chúng tối lại thành màu xanh hải quân sẫm, và có cái mũi co giật cách kỳ lạ mỗi khi cậu bé có vẻ như dõi theo kiện xa xôi nào đó, điều khiển nó từ xa, như mặt trăng kiểm soát thủy triều.

      “Sắp lên tòa rồi,” Ismail Ibrahim , “tôi nghĩ chị có thể tương đối yên tâm... lạy Chúa, Amina, chị tìm thấy Mỏ vàng của Vua Solomon đấy à?”



      Khi vừa đủ lớn để chơi cờ[7], tôi say mê trò Rắn và Thang. Ôi cân bằng hoàn hảo giữa phần thưởng và hình phạt! Ôi những lựa chọn tưởng chừng ngẫu nhiên bằng cách quăng súc sắc! Lóng ngóng trèo thang, tuồn tuột trườn rắn, tôi sống những ngày hạnh phúc nhất đời mình. Khi, trong thời gian thử thách của tôi, cha tôi thách thức tôi nắm vững trò shatranj, tôi làm ông nổi cáu bằng cách đưa ra đề xuất mời ông thay vào đó hãy thử vận may của mình giữa những cái thang và bầy rắn chực táp.

      [7] Nguyên văn: board games, những trò chơi có bàn cờ (cờ tướng, cờ vua, cá ngựa, v.v...).

      Mọi trò chơi đều có đạo lý; và trò Rắn và Thang chứa đựng, điều trò chơi nào khác có thể mong làm được, vĩnh hằng là với mỗi cái thang ta trèo, lại có con rắn chực chờ sau góc khuất; và với mỗi con rắn, cái thang bù đắp lại. Nhưng chỉ có vậy; chỉ là câu chuyện củ cà rốt và cây gậy đơn thuần; bởi chứa trong trò chơi này là tính hai mặt bất biến của vạn vật, tính nhị nguyên của lên và xuống, thiện và ác; lý tính rành mạch của những cái thang cân bằng với ngoằn ngoèo bí hiểm của quái xà; trong mâu thuẫn giữa cầu thang và hổ mang ta có thể thấy, cách dụ, mọi mâu thuẫn có thể tồn tại, Alpha và Omega, cha và mẹ; đây là cuộc chiến của Mary và Musa, và đối lập giữa đầu gối và mũi... song tôi phát ra, từ rất sớm trong đời, rằng trò chơi này chiếu khía cạnh cốt yếu, khía cạnh của mơ hồ - bởi vì, như những kiện sắp sửa cho thấy, ta hoàn toàn có thể trượt xuống cái thang và leo lên vinh quang nhờ nọc con rắn... Tuy nhiên trước mắt, để cho mọi chuyện được đơn giản, tôi chỉ ghi lại rằng ngay khi phát ra cái thang dẫn tới chiến thắng thể qua may mắn tại trường đua của bà, mẹ tôi lập tức được nhắc nhở rằng cống rãnh của đất nước này vẫn lúc nhúc đầy những rắn.



      Hanif em trai Amina sang Pakistan. Đeo đuổi giấc mơ thời thơ ấu mà từng thầm với Rashid cậu trai chạy xe kéo trong ruộng ngô ở Agra, đến Bombay tìm việc làm ở những xưởng phim lớn. Với tự tin trước tuổi, chỉ thành công trong việc trở thành người trẻ nhất được giao đạo diễn bộ phim trong lịch sử điện ảnh Ấn Độ; còn cưa và cưới được trong những ngôi sao sáng nhất của cái thiên đường celluloid[8], nàng Pia thần nữ, mà gương mặt chính là hạnh vận của nàng, và những tấm sari nàng mặc được dệt từ thứ vải ràng là được những người thiết kế làm ra nhằm chứng minh rằng hoàn toàn có thể tích hợp mọi màu sắc nhân loại biết tới lên mẫu hoa văn duy nhất. Mẹ Bề chấp thuận nàng Pia thần nữ; nhưng cả nhà tôi riêng có Hanif là nằm ngoài vòng kiềm tỏa của bà; chàng trai vui tươi, vạm vỡ với tiếng cười vang rền của lão lái đò Tai và cơn giận hồn nhiên, bùng nổ của cha mình Aadam Aziz, đưa nàng về sống giản dị trong căn hộ , hào nhoáng theo kiểu Bollywood đường Marine Drive, bảo nàng, “Tha hồ sống như Hoàng đế khi thành danh.” Nàng ưng thuận; nàng là ngôi sao trong bộ phim đầu tay của , có phần vốn của Homi Catrack và phần còn lại là của D.W. Rama Studios (Pvt) Ltd - có tên là Đôi tình nhân Kashmir, và buổi tối giữa những ngày tháng đua ngựa của bà, Amina Sinai tới dự buổi khởi chiếu. Cha mẹ bà tới, vì thù ghét điện ảnh của Mẹ Bề , điều giờ đây Aadam Aziz còn sức lực để phản kháng - cũng như ông, người từng chiến đấu cùng Mian Abdullah chống lại Pakistan, còn tranh luận với bà khi bà tán tụng quốc gia này, giữ lại vừa đủ sức lực để khăng khăng mực chịu di cư; nhưng Ahmed Sinai, được hồi sinh nhờ tài nấu nướng của mẹ vợ, nhưng chán ghét tiếp tục diện của bà, trở dậy và tháp tùng vợ mình. Họ yên vị, cạnh Hanif, Pia và ngôi sao nam của bộ phim, trong những “tình lang” thành công nhất của điện ảnh Ấn Độ, I.S. Nayyar. Và, dù họ hay biết, con rắn đợi sau cánh gà... nhưng trước mắt, ta hãy cho phép Hanif Aziz có thời khắc thăng hoa của mình; vì Đôi tình nhân Kashmir chứa đựng ý tưởng mang đến cho cậu tôi thời kỳ vinh quang huy hoàng, tuy rằng ngắn ngủi. Hồi ấy các tình lang và tình nương của họ được phép đụng chạm nhau màn bạc, vì quan ngại những nụ hôn nồng nàn giữa họ có thể làm băng hoại thế hệ trẻ của đất nước... nhưng ba mươi ba phút sau khi Đôi tình nhân diễn ra, tiếng rì rầm choáng ngợp bắt đầu nổi lên trong khán giả buổi mở màn, bởi vì Pia và Nayyar bắt đầu hôn - hôn nhau - mà hôn các thứ.

      [8] Chất liệu làm phim nhựa 35mm.

      Pia hôn trái táo, đầy mê đắm, với toàn bộ căng đầy của đôi môi tô son; rồi chuyển nó cho Nayyar; chàng đặt, lên mặt kia của nó, cái miệng nồng nàn sinh lực. Đây là ra đời của cái được biết đến với cái tên nụ hôn gián tiếp - và đây quả là ý tưởng tinh tế hơn nhiều so với bất kỳ điều gì trong nền điện ảnh đương đại của chúng ta; đầy ắp khát khao và nhục cảm! Khán giả điện ảnh (những người, ngày nay, hưởng ứng rầm rĩ cảnh đôi tình nhân trẻ nhao vào sau bụi cây sau đó rung lắc cách kỳ cục - khả năng ám chỉ của chúng ta tụt xuống mới thấp làm sao) xem, dán mắt vào màn ảnh, trong khi tình của Pia và Nayyar, cái nền là Hồ Dal và bầu trời xanh băng giá xứ Kashmir, tự biểu lộ qua những nụ hôn đặt lên những tách hồng trà Kashmir; bên đài phun nước Shalimar họ áp môi vào lưỡi gươm... nhưng giờ, giữa thời khắc đỉnh cao vinh quang của Hanif, con độc xà từ chối chờ đợi; dưới tác động của nó, đèn khán phòng bật sáng. hình dáng to hơn người của Pia và Nyayar, hôn những trái xoài và hát nhép theo băng, hình dáng người đàn ông rụt rè, râu ria lơ phơ xuất , hùng dũng tiến lên sân khấu bên dưới màn hình, micro tay. Con Độc xà có thể mang những hình hài ai ngờ nhất; giờ đây, trong lốt viên quản lý rạp phim kém năng lực này, nó phóng ra nọc độc của mình. Pia và Nayyar nhạt dần rồi câm lặng; và giọng được khuếch đại của người đàn ông có râu thốt lên: “Thưa quý bà quý ông, xin thứ lỗi; nhưng có tin dữ.” Giọng ông ta vỡ òa - tiếng nức nở của con Độc xà, để dồn sức mạnh vào hàm răng! – rồi tiếp tục, “Chiều nay, tại Nhà Birla ở Delhi, Mahatma kính của chúng ta bị sát hại. tên điên bắn vào bụng người, thưa quý bà quý ông - Bapu của chúng ta còn nữa!”

      Khán giả bắt đầu gào khóc trước khi ông ta ngừng lời; nọc độc từ những lời ông ta xâm nhập vào huyết quản họ - có những người đàn ông trưởng thành lăn lộn lối , tay ôm bụng, cười mà khóc, Hai Ram! Hai Ram! - và đàn bà bứt tóc: những kiểu đầu đẹp đẽ nhất thành phố xổ tung quanh tai những quý bà trúng độc - những minh tinh màn bạc gào rú như những mụ đánh cá và khí xuất mùi kinh khủng - rổi Hanif thầm, “Ra khỏi đây thôi, chị - nếu gã người Hồi làm điều này cái giá phải trả là địa ngục.”

      Với mỗi cái thang, lại có con rắn... và suốt bốn mươi tám giờ sau cái kết dở dang của Đôi tình nhân xứ Kashmir, gia đình tôi ở yên sau những bức tường của Biệt thự Buckingham (“Chặn bàn ghế vào cửa, cáigìkhôngbiết!” Mẹ Bề ra lệnh. “Nếu nhà có người hầu Hindu, cho họ về!”); và Amina dám đến trường đua.

      Nhưng với mỗi con rắn, lại có cái thang: và cuối cùng đài phát thanh cho chúng tôi cái tên. Nathuram Godse. “Ơn Trời,” Amina bật ra, “Tên đấy phải của người Hồi!”

      Và Aadam, người mà tin tức về cái chết của Gandhi đặt lên gánh nặng tuổi tác mới: “Gã Godse này chẳng có gì đáng biết ơn hết!”

      Amina, dù vậy, ngập tràn cảm giác bồng bềnh của niềm nhõm, bà ngất ngây chạy chiếc thang dài của niềm nhõm… “ cho cùng, sao lại ? Bằng việc là Godse gã cứu mạng chúng ta!”



      Ahmed Sinai, sau khi trở dậy từ cái có vẻ là giường bệnh của mình, tiếp tục xử như người tàn phế. Bằng giọng như kính mờ, ông bảo Amina, “Vậy là mình bảo Ismail đưa vụ việc ra tòa; hay lắm, tốt; nhưng chúng ta thua thôi. Ở những tòa án này phải mua được quan tòa...” Và Amina, lao đến Ismail, “ bao giờ - bao giờ trong bất kỳ hoàn cảnh nào - được cho Ahmed biết vế chuyện tiền nong. người đàn ông phải giữ tự tôn của mình.” Và rồi, sau đó, “, janum, em đâu cả; , đứa bé làm em mệt gì hết; mình nghỉ , em phải chợ - chắc em tạt qua thăm Hanif - đàn bà bọn em, mình biết đấy, phải có việc làm cho hết ngày!”

      Và trở về nhà với những chiếc phong bì đầy ắp giấy bạc... “Cầm , Ismail, giờ ông ấy dậy rồi ta phải nhanh và cẩn thận!” Và ngồi ngoan ngoãn bên mẹ bà mỗi tối, “Vâng, tất nhiên là mẹ đúng, và Ahmed sớm trở nên giàu có, rồi mẹ xem!”

      Và những lần trì hoãn liên miên tại tòa; và những chiếc phong bì, dốc sạch; và đứa trẻ lớn dần, tiến đến gần thời điểm Amina thể nhét người vào sau tay lái chiếc 1946 Rover nữa; và bà còn hên nữa ?; và Musa và Mary, hục hặc như hai con cọp già.

      Điều gì khơi mào cuộc chiến?

      Tàn dư gì của tội lỗi sợ hãi hổ thẹn, được thời gian ngâm trong ruột Mary, khiến chủ ý? chủ ý? khiêu khích ông lão giúp việc bằng cả chục cách khác nhau - bằng cái hếch mũi để biểu thị vị thế bề ; bằng việc hăm hở lần tràng hạt ngay trước mũi người tín đồ đạo Hồi sùng đạo; bằng việc chấp nhận danh hiệu mausi, mẹ , do những người hầu khác tại Điền trang dành tặng, và bị Musa xem như đe dọa đối với vị trí của mình; bằng thân thiết quá đáng với Begum Sahiba - những tiếng thầm khúc khích nơi góc nhà, vừa đủ to để ông lão Musa nguyên tắc, cứng nhắc, chuẩn mực nghe được và cảm thấy như bị lừa gạt?

      Hạt cát bé nào, giữa biển khơi tuổi tác giờ đây tràn qua ông lão giúp việc, nằm lại giữa môi ông và tích tụ thành viên ngọc trai đen của thù hận - những cơn tê bại bất thường nào tác động lên Musa, khiến tay chân ông cứng đờ ra, khiến những cái bình bị vỡ, những gạt tàn bị đổ, và lời ám chỉ mơ hồ về sa thải sắp đến - từ đôi môi vô tình hay cố ý của Mary? - lớn dần lên thành nỗi sợ hãi ám ảnh rồi quay lại phản pháo người khơi dậy nó?

      Và ( bỏ qua các nhân tố xã hội) đâu là cái hệ quả tàn nhẫn của thân phận người hầu, của căn phòng cho người hầu nằm sau gian bếp ám đen khói lò, nơi Musa buộc phải ngủ cùng với thợ làm vườn, thằng bé sai vặt, và hamal - trong khi Mary đường hoàng ngủ tấm thảm cói cạnh đứa trẻ mới ra đời?

      Và Mary có đáng trách hay ? Có phải việc thể nhà thờ - vì ở nhà thờ có buồng xưng tội, mà trong buồng xưng tội người ta thể giữ bí mật - lên men trong và khiến trở nên hơi gay gắt, hơi cay độc?

      Hay chúng ta phải nhìn vượt ra khỏi phạm trù tâm lý học tìm câu trả lời trong những tuyên bố kiểu như, có con rắn nằm chờ Mary, và kiếp số của Musa là phải biết đến mơ hồ của những cái thang? Hay xa hơn nữa, vượt ra khỏi chuyện rắn-và-thang, chúng ta có nên nhìn thấy Bàn tay của Vận mệnh trong cãi cọ này - và bảo rằng, để Musa có thể trở lại như hồn ma bùng nổ, để ông lão có thể đảm nhiệm vai trò Bom-ở-Bombay, việc bài bố cuộc ra là cần thiết... hay, trượt từ những điều cao siêu như thế xuống chỗ kỳ cục, có thể nào tại Ahmed Sinai - người bị whisky kích thích, người bị tửu tinh khích động đến chỗ thô lỗ thái quá - làm ông lão giúp việc nổi giận đến nỗi tội ác của ông, điều giúp ông san bằng kỷ lục của Mary, được thực xuất phát từ lòng kiêu hãnh bị tổn thương của người lão bộc bị lăng nhục - và hoàn toàn liên quan gì đến Mary hết?

      Ngừng đặt câu hỏi, tôi tự giới hạn mình trong khuôn khổ những thực tế: Musa và Mary thường trực trong tình trạng gầm ghè nhau. Và đúng: Ahmed lăng mạ ông, và những nỗ lực vỗ về của Amina có thể thành công; và đúng: bóng ma lú lẫn của tuổi tác khiến ông tin rằng mình bị đuổi việc, báo trước, bất cứ lúc nào; và thế rồi Amina tình cờ phát ra, vào sáng tháng Tám, rằng ngôi nhà bị trộm đột nhập.

      Cảnh sát tới. Amina kê khai những đồ bị mất: cái ống nhổ bằng bạc khảm lam ngọc; tiền vàng; ấm trà khảm đá quý và bộ đồ trà bằng bạc; những đồ vật trong cái thùng tôn xanh. Đám người ở bị xếp hàng trong sảnh và hứng chịu đe dọa của thanh tra Johnny Vakeel. “Xem nào, thú nhận ” - ngọn dùi cui gõ lên chân ông ta - “bằng các ngươi thấy có gì bọn ta thể làm với các ngươi. Các ngươi muốn đứng chân cả ngày lẫn đêm chứ? Các ngươi muốn bị giội nước vào người, lúc nóng sôi, lúc lại lạnh cóng chứ? Bọn ta có rất nhiều phương pháp ở Sở Cảnh sát...” Và giờ tràng nhốn nháo từ đám người hầu, phải cháu, Thanh tra Sahib, cháu là đứa thà; vì lòng khoan dung, xin ngài cứ khám, sahib! Và Amina: “Thế này quá lắm, thưa ngài, ngài quá xa rồi. Mary của tôi tôi biết, gì gì, là người trong sạch. Tôi để ấy bị xét hỏi đâu.” khó chịu bị kiềm chế của viên sĩ quan. cuộc khám xét tư trang được tiến hành - “Để đề phòng, thưa Bà. Bọn này trí thông minh có giới hạn - biết đâu bà lại phát ra tên trộm sớm khiến thủ phạm kịp tẩu thoát cùng tang vật!”

      Cuộc khám xét thành công. Trong bó chăn của Musa ông lão giúp việc: cái ống nhổ bạc. Cuộn trong dúm quần áo của ông: những đồng tiền vàng, cái ấm trà bằng bạc. Giấu dưới cái giường charpoy: bộ đồ trà bị mất. Và giờ Musa sụp xuống chân Ahmed Sinai; Musa van vỉ, “Tha thứ cho con, sahib! Con quẫn trí; con nghĩ ông sắp quẳng con ra đường!” nhưng Ahmed Sinai lắng nghe; cảm giác băng giá hành hạ ông; “Ta thấy yếu quá,” ông , và rời khỏi phòng; còn Amina, choáng váng, hỏi: “Nhưng, Musa, sao ông lại thề độc như vậy?”

      ... Bởi vì, trong quãng thời gian giữa lúc xếp hàng ở hành lang và những phát tại nơi ở của những người hầu, Musa bảo ông chủ: “ phải con, sahib. Con mà ăn cắp của ông, con phát bệnh hủi! Bộ da già của con lở loét!”

      Amina, nét mặt đầy kinh hãi, chờ đợi câu trả lời của Musa. Khuôn mặt ông lão giúp việc méo lại thành lớp mặt nạ giận dữ; từng chữ phun ra. “Begum Sahiba, tôi chỉ lấy những đồ quý của bà, còn bà, và sahib của bà, và bố ông ta, cướp cả đời tôi; rồi khi tôi già bà lại sỉ nhục tôi bằng những ả ayah Thiên Chúa giáo.”

      Im lặng tràn ngập Biệt thự Buckingham - Amina từ chối buộc tội nhưng Musa bỏ . Bó chăn lưng, ông lão bưóc xuống cây cầu thang sắt xoắn ốc, khám phá ra rằng thang có thể xuống cũng như lên; ông xuống đồi bỏ , để lại lời nguyền lên ngôi nhà.

      Và (có phải chính bởi lời nguyền đó?) Mary Pereira sắp khám phá ra rằng kể cả khi thắng trận, kể cả khi những cây cầu thang vận hành có lợi cho ta, ta cũng thể tránh khỏi con rắn.



      Amina , “Tôi thể kiếm thêm tiền cho , Ismail; như vậy chưa đủ sao?” Và Ismail, “Tôi hy vọng thế - nhưng ai biết được - chị có thể nào...?” Nhưng Amina: “Vấn đề là, bây giờ tôi to quá rồi, chui vào xe được nữa. Chỗ ấy buộc phải đủ thôi.”

      Thời gian lần nữa chậm lại đối với Amina; lần nữa đôi mắt bà nhìn qua lớp kính thủy tinh chì, nơi những bông tulip đỏ, thân xanh, nhảy múa đều; lần thứ hai, ánh mắt bà lưu lại ngọn tháp đồng hồ hoạt động từ mùa mưa năm 1947; lần nữa, trời lại mưa. Mùa đua kết thúc.

      Ngọn tháp đồng hồ màu xanh lợt: to bè, bong tróc, hoạt động. Nó đứng lớp bê tông phủ nhựa đường ở cuối vòng xuyến - mái bằng của tầng cùng những ngôi nhà dọc đường Warden, dựa lưng vào ngọn đồi hai tầng của chúng tôi, thế nên nếu ta leo lên bức tường bao của Biệt thự Buckingham, lớp nhựa đường đen phẳng nằm dưới chân ta. Và dưới lớp nhựa đường đen, là trường mẫu giáo Breach Candy, mà từ đó, mỗi chiều trong học kỳ, đều vang lên tiếng nhạc réo rắt từ cây đàn dương cầm của Harrison, chơi những điệu nhạc chẳng đổi thay của tuổi thơ; và bên dưới nữa, là những cửa hàng, Thiên Đường của Độc giả, hiệu kim hoàn Fatbhoy, hiệu đồ chơi Chimalker và cửa hàng bánh Bombelli, cửa sổ đầy những thanh Sô La Dài Cả Mét. Cửa tháp đồng hồ vốn là phải khóa, nhưng đấy là cái khóa rẻ tiền thuộc loại Nadir Khan hẳn nhận ra: sản xuất tại Ấn Độ. Và ba tối liền ngay trước sinh nhật đầu tiên của tôi, Mary Pereira, đứng bên cửa sổ phòng tôi lúc về khuya, để ý thấy bóng người lướt qua mái nhà, tay bưng những vật ra hình thù gì; cái bóng khiến trong tràn ngập nỗi kính sợ định hình được. Sau đêm thứ ba, với mẹ tôi; cảnh sát được gọi đến; và Thanh tra Vakeel trở lại Điền trang Methwold, cùng với biệt đội những cảnh sát sừng sỏ - “toàn thiện xạ cả, Beguin Sahiba; bà cứ mặc bọn tôi giải quyết!” - những người, cải trang làm phu quét dọn, súng giấu trong lần áo rách, giám sát chặt chẽ tòa tháp đồng hồ trong lúc quét rác trong vòng xuyến.

      Đêm xuống. Đằng sau những tắm rèm và mành sáo, các cư dân của Điền trang Methwold sợ sệt ngóng về phía tháp đồng hồ. Đám phu quét dọn, cách kỳ cục, tiếp tục công việc trong bóng tối. Johnny Vakeel chiếm lĩnh vị trí hiên nhà tôi, súng trường để lộ... và, tới nửa đêm, cái bóng leo lên bức tường bên của trường Breach Candy và tiến về ngọn tháp, vai lủng lẳng cái túi... “Phải để vào,” Vakeel bảo Amina; “Phải đảm bảo rằng ta bắt đúng đối tượng.” Đối tượng, bước mái nhà rải nhựa đường, đến bên ngọn tháp; tiến vào.

      “Thanh tra Sahib, ông còn chờ gì nữa?”

      “Suỵt, Begum, đây là điệp vụ của cảnh sát; xin bà lui vào trong nhà. Chúng tôi tóm khi trở ra; bà cứ nhớ lời tôi. Bắt sống,” Vakeel với vẻ thỏa mãn, “như con chuột sập bẫy.”

      “Nhưng là ai?”

      “Ai biết được,” Vakeel nhún vai. “ gã badmaash là cái chắc. Thời nay quân bất lương nhan nhản khắp nơi.”

      ... Và rồi im lặng của màn đêm bị xé toạc bởi tiếng thét duy nhất, tắc nghẹn; ai đó lảo đảo dựa vào mặt trong cánh cửa của tháp đồng hồ; nó bị giật tung ra; tiếng đổ sầm; và thứ gì đó chảy thành vệt nền nhựa đường đen. Thanh tra Vakeel chồm lên và ra tay, lia khẩu súng trường lên, bắn từ ngang hông hệt như John Wayne; đám phu quét dọn móc vũ khí của xạ thủ trong chổi ra và khai hỏa... tiếng rú phấn khích của phụ nữ, tiếng hét cùa người hầu... im lặng.

      Thứ gì nằm đó, nửa nâu nửa đen, vằn vện và xoắn xuýt nền nhựa đường đen? Thứ gì, rỉ máu đen, kích động Bác sĩ Schaapsteker rít lên từ vọng lâu gác thượng: “Đồ đần độn! em với gián! Con của lũ lại cái!”... thứ gì, lưỡi thò thụt, chết khi Vakeel lao lên mái nhà phủ nhựa đường?

      Và trong cánh cửa tháp đồng hồ? Sức nặng nào, khi sụp xuống, gây ra tiếng đổ sầm vang dội nhường ấy? Tay ai giật tung cửa; gót chân ai hai lỗ đỏ, chảy máu, đầy ứ thứ nọc độc có thuốc giải, thứ nọc giết chết từng tàu đầy lũ ngựa già nua? Thi thể ai được khiêng ra khỏi tháp bởi những người đàn ông mặc thường phục, quan tài, với những phu quét dọn giả trang trong vai người hộ quan? Tại sao, khi ánh trăng rọi vào khuôn mặt xác chết, Mary Pereira lại ngã phịch như tải khoai tây xuống sàn, mắt trợn trừng, trong cơn ngất xỉu bất ngờ và đầy kịch tích?

      Và xếp sát tường ở bên trong ngọn tháp đồng hồ: những máy móc kỳ lạ có gắn đồng hồ rẻ tiền này là gì - tại sao có nhiều chai lọ miệng nút đầy giẻ như thế?

      “May mà bà gọi quân của tôi tới, Begum Sahiba,” Thanh tra Vakeel bảo. “Đó là Joseph D’Costa - trong danh sách Truy nã Đặc biệt của tụi tôi. Săn đâu cả năm nay rồi. gã badmaash cực kỳ tàn độc. Bà phải nhìn mấy bức tường trong tháp! Từng giá, chất đầy tận nóc toàn bom tự chế. Sức công phá đủ để thổi bay cả quả đồi này xuống biển!”



      Mê lô chồng chất mê lô; cuộc đời bỗng có màu sắc của phim chớp bóng Bombay; rắn tiếp bước thang, thang theo gót rắn; trong hoàn cảnh của quá nhiều tai biến như vậy, Bé Saleem ngã bệnh. Như thể đủ sức tiêu hóa nhiều biến động đến thế, cậu nhắm mắt lại, đỏ và nóng rực lên. Trong khi Amina ngóng đợi kết quả vụ Ismail kiện Chính quyền Bang; trong khi con Khỉ Đồng lớn dần trong bụng bà; trong khi Mary lâm vào trạng thái sốc mà chỉ hoàn toàn hồi phục khi hồn ma của Joseph tìm về ám ; trong khi sợi dây rốn lơ lửng trong lọ ngâm và những món chutney của Mary làm giấc mơ của chúng tôi tràn ngập những ngón tay chỉ; trong khi Mẹ Bề điều hành gian bếp, ông ngoại khám bệnh cho tôi và , “Ta sợ rằng có gì nghi ngờ nữa; thằng bé tội nghiệp bị thương hàn.”

      “Lạy Chúa trời,” Mẹ Bề nấc lên, “Ma quỷ nào đến, cáigìkhôngbiết, gieo tai ương xuống cái nhà này?”

      Đây là những gì tôi được nghe về trận ốm suýt nữa chặn tôi lại trước khi tôi kịp bắt đầu: cả ngày lẫn đêm, vào cuối tháng Tám năm 1948, mẹ và ông ngoại trông nom tôi; Mary lê mình ra khỏi nỗi dằn vặt và đắp khăn lạnh lên trán tôi; Mẹ Bề hát ru và bón thức ăn cho tôi; ngay cả cha tôi, tạm thời quên mất tình trạng rối loạn của mình, cũng đứng cuống quýt bất lực ngưỡng cửa. Nhưng khi đêm xuống, Bác sĩ Aziz, kiệt quệ như con ngựa già, , “Ta làm hết khả năng rồi. Nó chết trước khi trời sáng.” Và trong bối cảnh đám đàn bà khóc lóc và cơn đau đẻ vừa phát của mẹ tôi do bị kích thích trước đau khổ và cảnh bứt tóc của Mary Pereira, có tiếng gõ cửa; người hầu báo tên Bác sĩ Schaapsteker; người đưa cho ông tôi cái chai , “Tôi giấu giếm gì cả: thứ này hoặc chữa hoặc chết. Đúng hai giọt; rồi chờ xem.”

      Ông tôi, ngồi ôm đầu giữa đống kiến thức y khoa đổ nát của mình, hỏi, “Cái gì đây?” Và Bác sĩ Schaapsteker, gần tám mươi hai tuổi, lưỡi thò thụt nơi khóe miệng: “Nọc độc hổ mang chúa pha loãng. Nó từng hiệu nghiệm.”

      Rắn có thể dẫn đến vinh quang, cũng như thang có thể xuống dốc: ông tôi, biết đằng nào tôi cũng chết, cho tôi uống nọc rắn hổ. Cả gia đình đứng nhìn nọc độc lan khắp người đứa bé... và sáu tiếng sau, thân nhiệt của tôi trở lại bình thường. Từ đó, tốc độ lớn của tôi mất những đặc tính phi thường; nhưng cái mất được bù đắp bằng thứ khác: sinh mệnh, và ý thức sớm về mơ hồ của loài rắn.

      Trong khi thân nhiệt tôi hạ xuống, em tôi ra đời tại Nhà Hộ sinh của Bác sĩ Narlikar. Hôm đó là mồng 1 tháng Chín; và ca sinh nở bình yên, trôi chảy đến mức nó qua hầu như ai chú ý tại Điền trang Methwold; bởi vì đúng ngày hôm đó Ismail Ibrahim tới thăm cha mẹ tôi ở bệnh viện và thông báo họ thắng kiện... Trong khi Ismail ăn mừng, tôi bíu tay vào song cũi; trong khi ông ta kêu lên, “Đóng băng thế đủ rồi! Tài sản của lại là của ! Theo lệnh của Tòa án Tối cao!”, tôi đỏ mặt tía tai rướn lên khỏi trọng lực; và trong khi Ismail thông báo, vẻ thản nhiên, “Sinai bhai, nền pháp trị giành chiến thắng vang dội,” và né tránh ánh mắt hân hoan đắc thắng của mẹ tôi, tôi, Bé Saleem, vừa tròn tuổi, hai tuần và ngày, nâng mình đứng thẳng trong cũi.

      Những kiện của ngày hôm ấy có tác động kép: tôi lớn lên với đôi chân vòng kiềng chữa được, bởi vì tôi đứng dậy quá sớm; còn con Khỉ Đồng (gọi vậy vì vạt tóc dày màu vàng đỏ của con bé, sẫm lại tới khi nó lên chín) hiểu rằng, nếu muốn nhận được chú ý trong đời, nó phải gây rất nhiều náo động.

    3. banglangtrang123

      banglangtrang123 Well-Known Member Staff Member Super Moderator

      Bài viết:
      26,213
      Được thích:
      47,825
      Chương 11: Tai nạn trong tủ giặt




      tròn hai ngày từ khi Padma sầm sập ra khỏi đời tôi. Trong hai ngày, vị trí của bên vại kasaundy xoài được phụ nữ khác đảm nhận – eo cũng dày, lông tay cũng rậm; nhưng trong mắt tôi, chẳng thay thế được gì cả! – trong khi bông sen-phân của tôi biến mất đâu . cân bằng bị phá vỡ; tôi cảm thấy những vết nứt toác ra theo chiều dài cơ thể mình; vì đột nhiên tôi còn lại mình, thiếu lắng nghe cần thiết, và thế là đủ. Tôi bị bóp nghẹt trong nắm tay bất ngờ của cơn phẫn nộ: tại sao tôi lại bị tông đồ độc nhất của mình đối xử phi lý đến thế? Bao người khác kể chuyện trước tôi; bao người khác đâu có bị bỏ rơi vội vàng như thế. Khi Valmiki, tác giả Ramayana, đọc kiệt tác của mình cho Ganesh đầu voi chép, vị thần ấy có bỏ rơi ông nửa chừng ? Tất nhiên là . (Lưu ý rằng, mặc dù xuất thân đạo Hồi, tôi cũng là dân Bombay đủ để thông thạo những truyền thuyết Hindu, và tình tôi rất khoái cái hình ảnh thần Ganesh vòi voi, tai ve vẩy, cặm cụi ngồi chép chính tả!)

      Làm sao để tiếp tục mà vắng Padma? Làm sao để từ bỏ vô ri và mê tín của , đối trọng cần thiết cho toàn tri chất chưa kỳ tích của tôi? Làm sao để làm việc mà thiếu vắng trần tục đầy mâu thuẫn của tâm hồn , điều giữ – giữ? – đôi chân tôi mặt đất? Tôi trở thành, qua cảm nhận của tôi, đỉnh của tam giác cân, được nâng đỡ cân bằng bởi hai vị thần song sinh, nam thần cuồng dại của ký ức và nữ thần hoa sen của tại… nhưng giờ liệu tôi có nên chấp nhận tính đơn chiều hạn hẹp của đường thẳng?

      Tôi , có lẽ, trốn sau tất cả những câu hỏi này. Phải, có lẽ đúng thế. Tôi nên cách giản đơn, có tấm áo choàng là dấu chấm hỏi: Padma của chúng ta bỏ , và tôi nhớ nàng. Phải, chính thế.

      Nhưng vẫn còn việc cần phải làm: ví dụ:

      Mùa hè năm 1956, khi hầu hết mọi thứ đời còn lớn hơn tôi, con Khỉ Đồng em tôi phát sinh quái tật là châm lửa đốt giày. Trong khi Nasser đánh chìm tàu ở kênh đào Suez, bởi vậy làm giảm tốc độ di chuyển của thế giới bằng cách buộc tất cả phải vòng qua Mũi Hảo Vọng, em tôi cũng nỗ lực ngăn cản bước tiến của chúng tôi. Buộc phải tranh đấu để được chú ý, bị ám ảnh bởi nhu cầu đặt mình ở trung tâm mọi kiện, kể cả những kiện chẳng dễ chịu gì (nó dù gì cũng là em tôi; nhưng chẳng Thủ tướng nào viết thư cho nó, chẳng giả nào dõi theo nó từ dưới vòi nước ngoài vườn; được tiên đoán, được chụp hình, đời nó là đấu tranh từ phút đầu tiên), nó mang cuộc chiến của mình vào thế giới của giày dép, hy vọng rằng, chắc vậy, bằng cách đốt giày chúng tôi, nó làm chúng tôi đứng yên đủ lâu để nhận thấy nó ở đó… nó hề cố gắng giấu giếm tội lỗi của mình. Khi bố tôi vào phòng và thấy đôi Oxford đen cháy, con Khỉ Đồng đứng ngay cạnh đó, diêm trong tay. Lỗ mũi ông bị tấn công bởi thứ mùi chưa từng có của giày da bắt lửa, trộn lẫn với xi đánh giày Hoa Đào và chút dầu Ba-Trong-… “Nhìn kìa, Abba!” con Khỉ Đồng duyên dáng , “Đẹp chưa kìa – hệt như màu tóc con!”




      Bất chấp mọi cảnh cáo, những bông hoa đỏ tươi tắn của nỗi ám ảnh của em tôi nở rộ khắp Điền trang mùa hè năm ấy, mãn khai những đôi xăng đan của Nussie-vịt-bầu và giày dép đại gia của Homi Catrack; những lưỡi lửa màu tóc liếm lên đôi giày da lộn mòn vẹt đế của Ngài Dubash và đôi guốc gót nhọn của Lila Sabarmati. Bất chấp việc diêm bị giấu kỹ còn người hầu luôn cảnh giác, con Khỉ Đồng vẫn tìm ra cách, sờn lòng trước mọi trừng phạt và đe nẹt. Trong năm liền, thỉnh thoảng, Điền trang Methwold lại bị khói của những đôi giày bị hỏa thiêu tấn công; cho tới khi tóc con bé sẫm lại thành màu nâu vô danh, và nó dường như mất hứng thú với những que diêm.

      Amina Sinai, căm ghét ý tưởng đánh đập con cái, bản tính có khả năng cao giọng, lâm vào cảnh gần như hết cách; và con Khỉ Đồng bị phạt, ngày này qua ngày khác, bằng im lặng. Đây là hình thức kỷ luật được mẹ tôi lựa chọn: thể đánh con, bà ra lệnh cho chúng tôi khóa miệng lại. vài hưởng, nghi ngờ gì nữa, của im lặng ghê gớm mà bằng nó chính mẹ hành hạ Aadam Aziz vẫn quanh quẩn bên tai bà – vì rằng, cả im lặng cũng có tiếng vang, rỗng hơn và kéo dài hơn tiếng vọng của bất cứ thanh nào – và với tiếng “Suỵt!” dứt khoát, bà đặt ngón tay lên môi và lệnh cho lưỡi chúng tôi bất động. Đó là hình phạt chưa bao giờ thất bại trong việc dọa tôi phải phục tùng; con Khỉ Đồng, tuy vậy, được làm bằng chất liệu khó uốn nắn hơn. Trong câm lặng, sau đôi môi mím chặt như của bà ngoại, nó mưu hỏa thiêu đồ da – như có lần, lâu rồi, con khỉ khác, ở thành phố khác, thực hành vi khiến việc căn godown chứa vải giả da bị đốt trụi trở thành tránh khỏi…

      Tôi xấu bao nhiêu con bé xinh đẹp (dù có thể hơi gầy gò) bây nhiêu; nhưng nó, ngay từ đầu, tàn phá như cơn lốc và ầm ĩ ngang đám đông. Hãy đếm số cửa sổ và bình hoa bị vỡ cách vô-tình-có-chủ-ý; hãy liệt kê, nếu quý vị có thể, số thức ăn hiểu vì sao bay khỏi những cái đĩa ăn tối phản chủ của con bé, làm ố bẩn những tấm thảm Ba Tư quý giá! Im lặng, quả , là hình phát khắc nghiệt nhất nó có thể phải nhận; nhưng nó gánh chịu cách tươi tỉnh, ngây thơ vô tội đứng giữa đống đổ nát của những ghế gãy và đồ trang trí vỡ vụn.

      Mary Pereira , “Con bé ấy, Con Khỉ ấy! Đáng lẽ phải sinh ra với bốn chân!” Nhưng Amina, mà ký ức về lần sinh hụt trong gang tấc thằng bé hai đầu vẫn ngoan cố chưa chịu phai mờ, trong tâm trí hét lên, “Mary! cái gì thế hả? Đến nghĩ như vậy cũng được!”… Bất chấp phản đối của mẹ tôi, thực tế là phần động vật ở con Khỉ Đồng cũng ngang với phần con người; và, như tất cả người hầu và trẻ con ở Điền trang Methwold đều biết, nó có khả năng chuyện với chim, và với mèo. Cả chó nữa: nhưng sau lần nó bị cắn, năm lên sáu, bởi con chó hoang bị nghi mắc bệnh dại, và bị lôi , vừa khóc lóc vừa quẫy đạp, tới bệnh viện Breach Candy, mỗi buổi chiều trong ba tuần, để nhận mũi tiêm vào bụng, có vẻ như con bé hoặc quên mất ngôn ngữ của chúng hoặc từ chối dính dáng gì đến chúng nữa. Từ chim nó học hát; từ mèo nó học được hình thái độc lập nguy hiểm. Con Khỉ Đồng giận dữ nhất khi nghe ai đó với nó những lời thương; khao khát được thương , bị tước đoạt điều đó bởi cái bóng áp đảo của tôi, nó có xu hướng tấn công bất cứ ai dành cho nó điều nó muốn, như thể để bảo vệ mình trước khả năng bị đánh lừa.

      … Chính vào thời điểm như thế Sonny Ibrahim thu hết can đảm bảo nó: “Này, nghe đây, em của Saleem – đằng ấy hơi bị được đấy. Tớ, ừm, đằng ấy biết đấy, rất khoái đằng ấy…” Và lập tức con bé thẳng tiến đến chỗ bố mẹ thằng nhóc uống lassi trong khuôn viên biệt thự Sans Souci và bảo, “Dì Nussie, cháu chẳng biết Sonny nhà dì chơi trò gì. Mới vừa nãy cháu thấy ấy và Cyrus sau bụi cây, chà xát cái soo-soo buồn cười lắm ấy!”…

      Con Khỉ Đồng rất xấu nết tại bàn ăn; nó giẫm nát các luống hoa; nó nhận biệt hiệu đứa trẻ rắc rối; nhưng nó với tôi vẫn cực kỳ thân thiết, bất chấp những bức thư đóng khung gửi đến từ Delhi và sadhu-dưới-vòi-nước. Từ đầu, tôi quyết định coi nó là đồng minh, chứ phải là đối thủ; và, bởi thế cho nên, nó chưa từng oán trách tôi vì nổi bật của tôi trong nhà, nó bảo, “Có gì mà oán trách? Chẳng lẽ đấy là lỗi của nếu cả nhà đều thấy rất oách?” (Nhưng khi, nhiều năm sau, tôi phải phải đúng sai lầm của Sonny, nó cũng đối xử với tôi y hệt.)

      Và chính con Khỉ Đồng là người, bằng việc trả lời cú điện thoại gọi nhầm nào đó, khởi đầu chuỗi kiện dẫn đến tại nạn của tôi trong cái tủ giặt màu trắng bằng gỗ thanh ken sát.



      Chưa gì, ở cả tuổi gần lên chín, tôi biết ngần này: ai nấy đều chờ đợi ở tôi. Nửa đêm và ảnh-em-bé, các nhà tiên tri và thủ tướng tạo nên quanh tôi màn sương lung linh và thể tránh né của kỳ vọng… trong đó bố tôi kéo tôi vào cái bụng nhão xệ của ông trong cái mát mẻ của giờ cocktail và bảo: “Toàn thứ oách! Con trai: có gì nằm giá chờ con? Thành tích oách, cuộc đời oách!” Trong khi tôi, hết ngọ nguậy cái môi trề lại đến ngón chân cái, làm ướt áo ông với dòng nước mũi muôn đời vẫn chảy của tôi, mặt đỏ rực và ré lên, “Thả con ra, Abba! Mọi người thấy kìa!” Và ông, làm tôi ngượng đến mức khó tin, ồm ồm, “Kệ cho họ thấy! Cho cả thế giới thấy ta con trai ta thế nào!”… còn bà tôi, đến chơi với chúng tôi mùa đông nọ, cũng khuyên tôi: “Chỉ cần xắn tay nỗ lực, cáigìkhôngbiết, cháu bà ăn đứt bất cứ ai đời này!”… Trôi dạt giữa đám mây mù của niềm trông đợi ấy, tôi sớm cảm thấy trong mình những cử động đầu tiên của con vật hình thù mà, trong những đêm vắng-Padma này, vẫn sục sạo cào cấu ruột gan tôi: gánh chịu lời nguyền của vô vàn hy vọng và biệt danh (tôi kịp có tên Cả Khịt và Thò Lò), tôi đâm lo sợ rằng tất cả nhầm – rằng tồn tại rất được trống giong cờ mở của tôi rồi hóa ra là hoàn toàn vô dụng, rỗng tuếch, có lấy tí ti mục đích nào. Và chính vì trốn chạy con quái vật này mà tôi hình thành thói quen náu mình, từ khi còn , trong cái tủ giặt to màu trắng của mẹ tôi, bởi vì tuy sinh vật này ở trong tôi, song diện êm dịu của vải lanh bẩn bao bọc xung quanh dường như ru được nó vào giấc ngủ.

      Bên ngoài tủ giặt, bị vây quanh bởi những con người dường như sở hữu ý thức về mục đích ràng kinh khủng, tôi vùi mình trong những chuyện thần tiên. Hatim Tai và Người Dơi, Siêu Nhân và Sinbad giúp tôi qua được gần chín năm ấy. Khi chợ với Mari Pereira – khiếp hãi trước chuyện có khả năng đoán tuổi gà bằng cách xem cổ con gà, trước quyết liệt tuyệt đối khi nhìn chằm chằm vào mắt những con cá chim chết – tôi trở thành Aladdin, du hành trong hang động kỳ bí; trông những người hầu lau chùi bình lọ với tận tâm vừa trịnh trọng vừa mơ hồ, tôi tưởng tượng ra bốn mươi tên cướp của Ali Baba nấp trong những chiếc bình phủ bụi; trong vườn, khi đăm đăm nhìn Purushottam vị sadhu bị nước xói mòn, tôi hóa thành thần đèn, và nhờ đó, trốn tránh được, trong đa số trường hợp, cái ý nghĩ kinh khủng rằng tôi, đơn độc trong vũ trụ này, chẳng có ý niệm gì về việc tôi nên là ai, hay tôi cần hành xử thế nào. Mục đích: nó lẻn đến sau lưng tôi khi tôi đứng cửa sổ phòng mình nhòm xuống những bé người Âu nhảy chân sáo trong bể bơi hình bản đồ bên bờ biển. “Biết tìm nó ở đâu?” tôi hét to; con Khỉ Đồng, ở chung căn phòng màu thiên thanh với tôi, giật bắn cả người lên. Khi ấy tôi sắp lên tám, nó gần bảy tuổi. Đó là tuổi rất sớm để băn khoăn về ý nghĩa cuộc đời.

      Nhưng trong tủ giặt có người hầu; xe buýt nhà trường cũng vắng bóng. Khi sắp lên chín tôi bắt đầu học ở trường Trung học Nam sinh Cathedral và John Connon đường Outram ở khu Thành Cổ; được tắm táp và chải chuốt mỗi sáng, tôi đứng dưới chân quả đồi hai tầng nhà mình, mặc quần soóc trắng, đeo thắt lưng chun sọc xanh có khóa hình rắn, cặp đeo vai, quả dưa chuột cỡ bự hình cái mũi vẫn chảy thò lò như thường lệ; Mắt Chẻ và Tóc Dầu, Sonny Ibrahim và Cyrus-đại-đế khôn sớm cũng đứng đợi. Và xe buýt, giữa những hàng ghế lọc xọc và tiếng cọt kẹt hoài cổ của những ô cửa sổ, chao ôi những lời quả quyết! Chao ôi những chắc chắn gần-chín-tuổi về tương lai! Sonny huyên hoang: “Tao trở thành võ sĩ đấu bò; Tây Ban Nha! Chiquita! Ê, toro, toro[1]!” Cái cặp giơ ra như tấm muleta của Manolete[2], nó vào vai tương lai của mình khi cỗ xe lọc xọc chạy qua góc phố Kemp, qua (Hiệu thuốc) Thomas Kemp & Công ty, bên dưới tấm poster vị rajah[3] của Hàng Ấn Độ (“Hẹn gặp lại, cá sấu! Ta London Hàng Ấn Độ đây!”) và tấm biển còn lại, đó, suốt thời thơ ấu của tôi, Nhóc Kolynos, tiểu tinh linh răng sáng bóng đội chiếc mũ xanh, kiểu gia tinh, màu diệp lục lung linh, quảng cáo chất lượng cho Kem Đánh Răng Kolynos: “Giữ Răng Shạch và Giữ Răng Sháng! Giữ Răng Kolynos Cực Bóng Loáng!” Cậu bé tấm biển, lũ nhóc xe buýt: chiều, bị chắc chắn là phẳng, chúng biết mình sinh ra để làm gì. Đây là Keith Colalo Nội Tiết, thằng bé bị phù tuyến giáp, môi lún phún râu: “Tao quản lý các rạp phim của ông già; bọn lợn chúng mày muốn xem phim, chúng mày phải xin tao chỗ ngồi!”… Và Perce Fishwala Mập, mà bệnh béo phì có căn nguyên gì khác ngoài ăn quá nhiều, và là đứa, cùng với Keith Nội Tiết, nắm giữ vị trí đặc quyền đầu gấu lớp học: “Xì! Chẳng là gì sất! Tao có kim cương và ngọc lục bảo và nguyệt thạch! Và ngọc trai to như hòn dái tao!” Bố Perce Mập quản lý của hàng kim hoàn còn lại của thành phố; kình địch của nó là con trai Ngài Fatbhoy, là đứa, vốn người và mọt sách, luôn thất thế trong cuộc chiến của những đứa trẻ có tinh hoàn ngọc trai… Và Mắt Chẻ, tuyên bố tương lai của nó là vận động viên Test cricket[4], thản nhiên xem bên tròng mắt trống rỗng của mình như ; và Tóc Dầu, thằng đầu bù tóc rối bao nhiêu nó chỉn chu bóng mượt bấy nhiêu, , “Chúng mày đúng là lũ ích kỷ! Tao theo bố tao vào Hải quân; tao bảo vệ đất nước tao!” Và thế là nó hứng trận mưa nào thước kẻ, compa, viên mực… xe buýt, khi nó lạch xạch chạy qua Bãi biển Chowpatty, khi nó rẽ trái ra khỏi Marine Drive cạnh căn hộ của Hanif, ông chú thích của tôi, thẳng tiến qua Bến xe Victoria đến Đài phun nước Flora, vượt Nhà ga Churchgate và Chợ Crawford, tôi giữ im lặng; tôi là Clark Kent điềm đạm bảo vệ thân phận bí mật của mình[5]; nhưng nó là cái quái gì nhỉ? “Ê, Thò Lò!” Keith Nội Tiết réo lên, “Ê, chúng mày bảo thằng Cả Khịt lớn lên thành gì?” Và tiếng hét đáp lại từ Perce Fishwala Mập, “Pinocchio!” Và cả lũ hùa theo, ré lên đoạn điệp khúc của bài “Người tôi chẳng còn sợi dây nào!”… trong khi Cyrus-đại-đế ngồi lặng lẽ như thiên tài, lên kế hoạch cho tương lai của trung tâm nghiên cứu hạt nhân hàng đầu đất nước.

      [1] Chiquita: tiếng Tây Ban Nha, nghĩa là em bé bỏng. Toro nghĩa là con bò.

      [2] Muleta là tấm vải đỏ của võ sĩ đấu bò. Manolete là võ sĩ nổi tiếng của Tây Ban Nha những năm 40.

      [3] Tiểu vương Ấn Độ.

      [4] Còn gọi là Cricker Đối kháng, hình thức thi đấu cricket, mỗi trận có thể kéo dài đến 5 ngày, đòi hỏi sức bền rất lớn ở mỗi cầu thủ.

      [5] Trong series truyện tranh và phim Superman, Clark Kent là bộ mặt ngoài đời của Siêu nhân.

      Rồi, ở nhà, là con Khỉ Đồng với trò đốt giày; và bố tôi, người trỗi dậy từ sâu thẳm của suy sụp để rơi vào, lần nữa, trò rồ dại của những tetrapod… “Biết tìm nó ở đâu?” tôi khẩn cầu trước cửa sổ phòng mình; ngón tay người ngư phủ chỉ, cách dễ gây ngộ nhận, về phía biển.

      Bị cấm cửa bên ngoài tủ giặt: những tiếng réo: “Pinocchio! Mũi dưa chuột! Mặt nhờn!” Giấu mình trong nơi náu, tôi được an toàn trước ký ức về Kapadia, giáo tại nhà trẻ Breach Candy, người, vào ngày đầu tiên tôi học, từ bảng ngoảnh lại chào tôi, thấy mũi tôi, giật mình đánh rơi cái lau bảng và làm giập móng chân cái của , trong tái chói tai song ít tiếng vang cái tai nạn lừng lẫy của cha tôi; vùi mình trong đống mùi soa bẩn và pajama nhàu nhĩ, tôi có thể quên , trong chốc, xấu xí của mình.

      Thương hàn tấn công tôi; nọc cạp nong cứu sống tôi; và phát triển quá sớm, quá nóng của tôi nguội dần. Tới khi tôi gần chín tuổi, Sonny Ibrahim cao hơn tôi bốn xăng ti mét. Nhưng có thứ ở Bé Saleem dường như miễn nhiễm với bệnh tật và chiết-xuất-từ-rắn. Giữa hai mắt tôi, nó mọc ra trước và cắm xuống, như thể tất cả sinh lực tăng trưởng của tôi, bị ép ra khỏi phần còn lại cơ thể tôi, quyết định dồn sức vào cú đâm độc nhất vô nhị này… giữa hai mắt tôi và ở môi tôi, mũi tôi nở bung như quả bí ngô đoạt giải. (Thế nhưng, tôi lại phải mọc răng khôn; làm người nên biết bằng lòng với những gì mình có.)

      Trong mũi có gì? Đáp án quen thuộc: “Đơn giản thôi. Bộ máy hô hấp; cơ quan khứu giác; lông.” Nhưng trong trường hợp của tôi, câu trả lời còn đơn giản hơn, dù rằng, tôi phải thừa nhận, hơi kinh tởm: trong mũi tôi là nước mũi. lấy làm tiếc, tôi phải, may thay, nhấn mạnh vào chi tiết: tình trạng ngạt mũi buộc tôi phải hô hấp qua đường miệng, cho tôi lượng khí của con cá vàng hổn hển; nghẹt thở kinh niên đày đọa tôi sống tuổi thơ mùi hương, những ngày tháng biết tới hương xạ và hoa nhài và kasaundy xoài và món kem nhà làm; cả quần áo bẩn nửa. tàn phế ở thế giới bên ngoài tủ giặt có thể trở thành ưu thế khi ta ở trong. Nhưng chỉ trong thời gian ta lưu lại đó mà thôi.

      Ám ảnh về mục đích, tôi lo lắng về cái mũi của mình. Mặc những áo quần cay đắng thường xuyên tìm đến từ bà bác hiệu trưởng Alia, tôi học, chơi cricket kiểu Pháp, đánh lộn, bước vào những chuyện thần tiên… và lo lắng. (Hồi đấy, bác Alia bắt đầu gửi cho bọn tôi dòng bất tận quần áo trẻ con, mà trong từng đường chỉ bà dường như khâu vào nỗi bẳn gắt già của bà; con Khỉ Đồng và tôi xúng xính trong những món quà bà tặng, mặc đầu tiên là những món đồ con nít của nỗi cay đắng, rồi đến những tấm quần yếm của niềm oán giận; tôi lớn lên trong những chiếc quần soóc trắng hồ bằng thứ hồ của ghen tị, trong khi con Khỉ mặc những chiếc váy hoa xinh xắn của lòng đố kỵ phai mờ ở Alia… hay biết rằng tủ quần áo của mình trói mình vào tấm lưới nhện báo thù cùa bà, chúng tôi cứ thế sống cuộc đời ăn vận bảnh bao.) Mũi tôi: đặc chất voi như vòi của thần Ganesh, nó lẽ ra, tôi nghĩ, phải là cỗ máy thở siêu việt; bộ khịt vô đối, như chúng ta vẫn ; thay vào đó, nó bị nghẹt kinh niên, và vô dụng khác gì cái sikh-kabab bằng gỗ.

      Đủ rồi. Tôi ngồi trong tủ giặt và quên cái mũi; quên kiện chinh phục Đỉnh Everest năm 1953 – khi thằng Mắt Chẻ lem luốc khúc khích, “Êu, tụi mày! Tụi mày bảo Tenzing có len nổi lên mặt thằng Cả Khịt ?” – và cả những lần cãi cọ giữa bố mẹ về cái mũi tôi, điều Ahmed Sinai bao giờ chán đổ lỗi cho cha của Amina: “Chưa bao giờ họ nhà tôi có cái mũi như thế! Chúng tôi có những cái mũi hoàn hảo: mũi kiêu hãnh, mũi hoàng gia, mình ạ!” Ahmed Sinai bắt đầu, tại thời điểm này, tin vào cái dòng tộc hư cấu ông sáng tạo ra vì William Methwold; say tửu tinh bí tỉ, ông thấy dòng máu Mughal chảy trong huyết quản… Quên cả cái đêm khi tôi tám tuổi rưỡi, và cha tôi, hơi thở sặc mùi tửu tinh, bước vào phòng, giật chăn khỏi người tôi mà quát: “Mày làm cái gì thế hả? Lợn! Đồ lợn rách giời rơi xuống!” Tôi nhìn lên, ngái ngủ; vô tội; ngơ ngác. Ông lại gầm lên: “Phù, phì! Đồ thối thây! Trời phạt những đứa như mày! Chưa gì ông ấy khiến mũi mày to như cây bạch dương. Trời làm mày còi cọc; làm cứt mày quắt lại!” Và mẹ tôi, khoác áo ngủ chạy vào căn phòng sững sờ, “Janum, vì lòng thương xót; thằng bé chỉ ngủ thôi mà.” Tửu tinh gầm lên qua môi cha tôi, áp chế ông hoàn toàn: “Nhìn mặt nó xem! Đời thuở nhà ai vì ngủ mà có cái mũi như thế?”

      Bên trong tủ giặt có gương; những câu đùa thô lỗ chui vào đó, những ngón tay chỉ cũng . Trận lôi đình của các ông bố bị bóp nghẹt bởi những ga giường bẩn và nịt ngực thay ra. Cái tủ giặt là cái lỗ giữa thế gian, nơi văn minh tự đặt mình ra ngoài, vượt khỏi chuẩn mực xã hội; điều này biến nó thành nơi náu lý tưởng nhất. Ở trong tủ giặt, tôi giống như Nadir Khan trong thế giới ngầm của ta, an toàn trước mọi sức ép, giấu mình trước những đòi hỏi của cha mẹ và lịch sử…

      … Cha tôi, kéo tôi vào cái bụng nhão xệ của mình, bằng giọng nghẹn ngào của cảm xúc tức thời: “Được rồi, được rồi, thế, thế, con ngoan lắm; con có thể là bất cứ gì con muốn; con chỉ cần muốn cho đủ thôi! Giờ ngủ …” Và Mary Pereira, lặp lại lời ông trong câu hát ru của mình: “Bất cứ gì con muốn thành, con được; Con được thành, bất cứ gì con muốn!” Tôi ngộ ra rằng gia đình tôi tin tưởng tuyệt đối vào những quy tắc kinh doanh hiệu quả; họ mong đợi món lợi tức ra trò từ khoản đầu tư vào tôi. Con nít được cái ăn chỗ ở tiền quà nghỉmátdàingày và thương, tất cả có vẻ như là dạng bồi thường cho việc chúng bị sinh ra. “Người tôi chẳng có sợi dây nào!” chúng hát; song tôi, Pinocchio, nhìn những sợi dây. Các ông bố bà mẹ bị thôi thúc vì động cơ lợi nhuận – hơn, kém. Đổi lấy quan tâm của họ, họ trông đợi, từ tôi, món lợi tức khổng lồ của vĩ đại. Đừng hiểu nhầm tôi. Tôi chẳng lấy thế làm điều. Tôi, hồi ấy, là đứa trẻ biết vâng lời. Tôi ước ao đem đến cho họ điều họ muốn, điều các ông thầy bói và những lá thư lồng khung hứa với họ; tôi chỉ biết phải làm thế nào. vĩ đại ở đâu ra? Làm sao để có được chút đỉnh? Khi nào?... Khi tôi lên bảy, Aadam Aziz và Mẹ Bề tới thăm chúng tôi. Vào ngày sinh nhật thứ bảy của mình, cách ngoan ngoãn, tôi chịu cho mặc đồ giống như cậu bé trong bức tranh người ngư phủ; nóng và bị bó chặt trong bộ trang phục ngoại quốc, tôi cười, cười mãi. “Kìa, mảnh trăng bé bỏng của tôi!” Amina thốt lên khi cắt chiếc bánh phủ những con giống bọc đường, “Yếu xếế! Cấm có rỏ nước mắt bao giờ!” Đem bao cát ra chặn dòng nước lũ chực trào ra sau mắt, những giọt nước mắt vì oi bức và thiếu những Thanh Sô La Dài Cả Mét trong đống quà sinh nhật, tôi đem lát bánh đến cho Mẹ Bề ốm nằm giường. Tôi được đeo cái ống nghe; nó lủng lẳng cổ tôi. Bà cho phép tôi khám; tôi kê cho bà tập thể dục nhiều hơn. “Bà phải từ đầu phòng đến cái almirah rồi trở lại, mỗi ngày lần. Bà có thể dựa vào cháu; cháu là bác sĩ.” Nhà quý tộc người đeo ống nghe đỡ người bà có mụn ruồi phù thủy ngang phòng; tập tễnh, cót két, bà làm theo. Sau ba tháng điều trị như vậy, bà hoàn toàn bình phục. Hàng xóm đến mừng, đem theo rasgulla và gulab-jaman và các thức kẹo khác. Mẹ Bề , ngồi uy nghi chiếc takht giữa phòng khách, tuyên bố: “Thấy cháu tôi chưa? Nó chữa cho tôi đấy, cáigìkhôngbiết. Thiên tài! Thiên tài, cáigìkhôngbiết: đó là năng khiếu Trời ban.” Có thế ? Tôi có nên thôi lo lắng ? Có phải thiên tài là điều tuyệt liên quan tới việc mong muốn được, hay học hỏi cách, hay hiểu biết về, hay có khả năng để? điều, đến thời điểm định, lơ lửng choàng lên vai tôi như thấm pashmina tinh xảo, hoàn mỹ? vĩ đại như khăn san rủ xuống: thứ chẳng bao giờ phải mang tới dhobi[6]. ai nện thiên tài lên tảng đá… manh mối ấy, câu vô tình của bà tôi, là hy vọng độc nhất của tôi; và, sau này hóa ra, bà sai bao nhiêu. (Tai nạn sắp xảy đến với tôi; và những đứa trẻ của nửa đêm đợi.)

      [6] Thợ giặt.

      Nhiều năm sau, tại Pakistan, vào đúng cái đêm mái nhà sắp sập xuống đầu bà và ép bà dẹp lép hơn cả cái bánh xèo, Amina Sinai nhìn thấy cái tủ giặt cũ hình về. Khi nó ra bên trong mi mắt bà, bà chào nó như ông họ ---được chào đón. “Lại là mày đấy,” bà bảo nó, “Ừ, sao lại ? Độ này mọi thứ cứ quay trở lại với ta. Có vẻ như ta chẳng thể bỏ lại bất cứ thứ gì.” Bà trở nên già trước tuổi như mọi phụ nữ trong gia đình tôi; cái tủ gợi cho bà nhớ đến cái năm khi lần đầu tiên tuổi già thầm bò lên người bà. Cái oi bức dữ dội của năm 1956 – mà Mary Pereira bảo tôi là do bầy côn trùng vô hình phun lửa tí xíu gây ra – lại vo ve bên tai bà lần nữa. “Những mụn cóc bắt đầu hành hạ tôi rồi,” bà to, và viên sĩ quan Dân Phòng đến đốc thúc lệnh tắt điện nở nụ cười buồn và nghĩ, Ngày trước người già tự khâm liệm cho họ trong chiến tranh; như thế họ sẵn sàng để chết khi cần. ta luồn lách ra về giữa cả núi khăn bông phế phẩm chất gần chật kín căn nhà, để Amina lại chuyện quần áo bẩn mình… Nussie Ibrahim – Nussie vịt bầu – từng ngưỡng mộ Amina: “Chị có cái phong thái, cái dáng điệu hết sảy! Em thề đó là kỳ quan trong mắt em: chị lướt như thể đứng chiếc xe đẩy vô hình!” Nhưng vào mùa hè của lũ côn trùng oi bức, người mẹ duyên dáng của tôi rốt cuộc bại trận trước đám mụn cóc, bởi vị sadhu Purushottam đột nhiên mất pháp lực. Nước xói hói mảng đầu ông; dòng nước giọt đều đặn qua năm tháng xói mòn ông. Phải chăng ông vỡ mộng về thằng bé được ban phước, Mubarak của ông? Phải chăng vì tôi nên thần chú của ông mất pháp lực? Với vẻ gặp rắc rối nghiêm trọng, ông bảo mẹ tôi, “Yên tâm; chỉ cần chờ thôi; tôi nhất định chữa khỏi chân cho bà.” Nhưng bệnh mụn cóc của Amina ngày càng nặng; bà tới gặp bác sĩ và họ đóng băng chúng bằng carbon dioxide ở độ tuyệt đối; nhưng như thế chỉ khiến chúng mọc lại dữ dội hơn gấp bốn, thế nên bà bắt đầu tập tễnh, những ngày lả lướt của bà trở lại; và bà nhận ra lời chào hỏi lẫn vào đâu được của tuổi già. (Ngập trong huyền thoại, tôi biến bà thành selkie[7] – “Amma, có lẽ mẹ là nàng tiên cá ấy, hóa thành người vì tình trao cho chàng trai – nên mỗi bước chân cũng như bước dao!” Mẹ tôi mỉm cười, nhưng thành tiếng.)

      [7] sinh vật trong truyền thuyết Scotland, ở dưới nước là hải cẩu nhưng hóa thành người lúc lên bờ.

      1956. Ahmed Sinai và Bác sĩ Narlikar chơi cờ và tranh luận – cha tôi ghét cay ghét đắng Nasser, trong khi Narlikar ngưỡng mộ ông ta ra mặt. “Thằng cha ấy phá hoại việc kinh doanh,” Ahmed bảo; “Nhưng có cá tính,” Narlikar đáp, rực sáng đầy say sưa, “Chả ai dọa nổi .” Cùng lúc đó, Jawaharlal Nehru tham khảo các nhà chiêm tinh về Kế hoạch Năm Năm của đất nước, để tránh Karamstan khác; và trong khi thế giới kết hợp giữa hiếu chiến và ma thuật; tôi nằm giấu mình trong chiếc tủ giặt còn đủ rộng để cảm thấy thoải mái nữa; và Amina Sinai thấy lòng đầy tội lỗi.

      cố gắng gạt khỏi đầu cuộc phiêu lưu tại trường đua ngựa; nhưng thoát được cảm giác ăn năn mà những món ăn mẹ bà nấu gây ra trong bà; thế nên khó để bà nghĩ đến đám mụn cóc như hình phạt… chỉ vì hành động táo tợn nhiều năm trước tại Mahalaxmi, mà còn vì cứu được chồng khỏi những tấm tem phiếu rượu màu hồng; vì tính cách bất thuần, nữ tính của con Khỉ Đồng; và vì kích cỡ cái mũi của đứa con trai độc nhất. Giờ đây nhìn lại bà, tôi thấy dường như màn sương tội lỗi bắt đầu tụ lại quanh đầu bà – làn da đen của bà tiết ra mây đen lơ lửng trước mắt bà. (Padma tin; Padma hiểu điều tôi muốn !) Và khi cảm giác tội lỗi trong bà tăng lên, màn sương đặc lại – phải, sao ? – có những ngày ta hầu như thấy đầu bà từ cổ trở lên!... Anima trở thành trong những người hiếm hoi ghé lưng ra đón lấy những gánh nặng của thế gian; bà bắt đầu tỏa ra cái hấp lực của người tình nguyện phạm tội; và từ đó ai tiếp xúc với bà cũng cảm thấy nỗi thôi thúc mãnh liệt nhất phải thú nhận những tội lỗi thầm kín của chính mình. Khi họ quy phục trước ma lực của mẹ tôi, bà nở nụ cười dịu dàng buồn bã ảm đạm với họ, và họ bỏ , nhõm, trút lại gánh nặng của họ lên vai bà; và màn sương tội lỗi lại dày thêm. Amina nghe về chuyện người hầu bị đánh đập và quan chức được hối lộ; khi cậu Hanif tôi và vợ nàng Pia thần thánh tới chơi họ thuật là những vụ cãi cọ tới từng chi tiết ; Lila Sabarmati giãi bày những lần thất tiết của mình với đôi tai cao quý, sẵn lòng, nhẫn nại của bà; còn Mary Pereira phải ngừng tranh đấu với cám dỗ gần như thể cưỡng lại là thú nhận tội ác của mình.

      Đối mặt với những tội lỗi của thế gian, mẹ tôi mỉm cười ảm đạm và nhắm chặt mắt lại; và đến trước khi mái nhà đổ xuống đầu bà, thị lực của bà suy giảm nặng nề; nhưng bà vẫn nhìn thấy cái tủ giặt.

      ra tận cùng cảm giác tội lỗi của mẹ tôi là gì? Ý tôi là , dưới đám mụn cóc và những tửu tinh và những lời thú tội? Đó là nỗi bất an nổi thành lời, nỗi dằn vặt thậm chí thể gọi tên, và nó còn tự giới hạn trong những giấc mơ về người chồng dưới lòng đất… mẹ tôi rơi (cũng như cha tôi rồi sớm rơi) vào bùa phép của chiếc điện thoại.



      Vào những buổi chiều của hè năm ấy, những buổi chiều nóng như khăn bông, điện thoại reo. Khi Ahmed Sinai nằm ngủ trong phòng, chùm chìa khóa dưới gối và sợi dây rốn trong tủ, tiếng điện thoại réo xuyên thủng tiếng vo ve của lũ côn trùng oi bức; và mẹ tôi, tập tễnh vì mụn cóc, lê bước ra hành lang để nghe máy. Và giờ, vẻ mặt này là gì, mà vấy bẩn mặt bà với màu của máu khô?... biết rằng bà bị theo dõi, những mấp máy như cá này của đôi môi bà là gì, những thầm tắc nghẹt này nữa?... Và tại sao, sau khi nghe cả năm phút, mẹ tôi mới , bằng cái giọng như thủy tinh vỡ “Xin lỗi, nhầm số rồi”? Tại sao kim cương lóng lánh mi bà?... Con Khỉ Đồng thào với tôi, “Lần sau có chuông, mình thử tìm hiểu xem.”

      Năm ngày sau. Lại là buổi chiều; song hôm nay Amina vắng, sang chơi nhà Nussie-vịt-bầu, khi chiếc điện thoại đòi hỏi chú ý. “Mau! Mau kẻo nó đánh thức bố dậy!” Con Khỉ, nhanh nhảu như tên nó, nhấc ống nghe lên khi Ahmed Sinai còn chưa kịp thay đổi kiểu ngáy… “À lố? Vầng? Đây là bảy năm sáu ; à lố?” Chúng tôi lắng nghe, từng sợi thần kinh căng như dây đàn; nhưng mãi thấy gì. Rồi, khi chúng tôi sắp sửa bỏ cuộc, giọng nọ cất lên. “… À… vâng… a lô…” Và con Khỉ, gần như hét lên, “À lố? Ai đấy ạ?” Lại im lặng; giọng nọ, thể ngăn nổi mình lên tiếng, cân nhắc câu trả lời; thế rồi, “… A lô… Đây là Công ty Vận tải Shanti Prasad phải ạ?...” Và con Khỉ, nhanh như chớp: “Vâng, quý khách cần gì?” Lại nín lặng; giọng , lộ vẻ bối rối, gần như biết lỗi, đáp: “Tôi muốn thuê chiếc xe tải.”

      Ôi lý do kém thuyết phục của giọng qua điện thoại! Ôi những lời ngớ ngẩn lừa được ai của hồn ma! Giọng điện thoại đâu phải giọng của khách thuê xe tải; nó mềm, hơi đầy đặn, giọng của nhà thơ… nhưng từ đó, điện thoại reo thường xuyên; đôi khi mẹ tôi nhấc máy, lắng nghe trong im lặng khi miệng bà làm những động tác của cá, và sau cùng, khi quá trễ, , “Xin lỗi, nhầm số”; và những lần khác con Khỉ và tôi bâu quanh máy, tai dán vào ống nghe, trong khi con Khỉ nhận đơn hàng thuê xe tải. Tôi băn khoăn: “Ê, Khỉ, mày nghĩ sao? lẽ ông ta chả bao giờ tự hỏi tại sao xe đến?” Và nó, mắt mở to, giọng lắp bắp: “Trời, có nghĩ rằng… hay là xe đến!”

      Nhưng tôi thấy có khả năng nào là xe có đến; và hạt giống ngờ vực tí ti được gieo vào tôi, tia le lói tí ti của ý nghĩ rằng mẹ chúng tôi có thể có bí mật – Amma của chúng tôi! Người luôn bảo, “Giữ bí mật là nó thối ra trong ruột; bị đau bụng!” – tia lửa xíu mà việc tôi trải qua trong tủ giặt thổi bùng lên thành trận cháy rừng. (Vì lần này, quý vị thấy đấy, bà cho tôi bằng chứng.)

      Và giờ, rốt cuộc, đến thời khắc của quần áo bẩn. Mary Pereira rất hay bảo tôi rằng, “Nếu cậu muốn làm người lớn, baba, cậu phải sạch . Thay quần áo,” dặn, “tắm rửa thường xuyên. , baba, là tôi gửi cậu đến bác thợ giặt, cho bác ấy dện cậu lên đá giặt bây giờ.” đem cả sâu bọ ra dọa tôi: “Rồi, cứ ở bẩn , rồi chẳng có ai cậu hết, trừ lũ ruồi. Chúng đậu lên người cậu khi cậu ngủ; chúng đẻ trứng dưới da cậu!” Phần nào, lựa chọn về chỗ náu của tôi là hành động mang tính thách thức. Coi khinh dhobi[8] và lũ nhặng, tôi giấu mình vào nơi sạch ; tôi tìm thấy sức mạnh và vỗ về từ ga giường và khăn tắm; mũi tôi tự do rúc vào đám vải lanh chịu kiếp bị dện lên đá; và bao giờ cũng vậy, khi chui ra thế giới từ bụng con cá voi gỗ của tôi, minh triết chín chắn và buồn thảm của đồ giặt bẩn vẫn quấn lấy tôi, dạy tôi triết lý của lãnh tĩnh và phẩm-giá-bất-chấp-tất-cả và tính tất yếu tránh khỏi khủng khiếp của xà phòng.

      [8] Quần áo bẩn.

      chiều tháng Sáu, tôi rón rén hành lang của ngôi nhà say ngủ, tới nơi trú tôi chọn cho mình; lẻn qua mẹ tôi đương say giấc nồng để chui vào im lặng ốp gạch men trắng của phòng tắm của bà; mở nắp đích đến của tôi lên; rồi gieo mình vào lô mềm mại những vải vóc (chủ yếu là trắng) của nó, nơi ký ức duy nhất về những cuộc viếng thăm trước của tôi. Thở dài khe khẽ, tôi hạ cái nắp xuống, và đề quần dài và áo vét xoa dịu nỗi đau tồn tại, mục đích và sắp tròn chín tuổi.

      Có điện tích trong khí. oi bức, vo ve như ruồi. tấm khăn voan, lửng lơ đâu đó giữa trời, chờ chực để nhàng buông xuống vai tôi… đâu đó, ngón tay đặt lên đĩa số; đĩa số quay tròn và quay tròn, xung điện chạy dọc dây cáp, bảy, , năm, sáu, . Điện thoại đổ chuông. Tiếng chuông réo tắc nghẹt xuyên vào tủ giặt, nơi cậu bé sắp-lên-chín nằm giấu mình co ro… Tôi, Saleem, cứng người lại vì sợ bị phát , bởi lúc này thêm nhiều tiếng ồn vọng vào trong tủ: tiếng lò xo giường kẽo kẹt; tiếng dép loẹt quẹt dọc hành lang; tiếng điện thoại im bặt khi réo nửa chừng; và – hay là tưởng tượng? Có phải giọng bà quá khẽ nghe ? – tiếng từng chữ, thốt lên quá muộn như thường lệ: “Xin lỗi. Nhầm số rồi.”

      Và giờ, tiếng chân tập tễnh quay lại phòng ngủ; và những nỗi sợ khủng khiếp nhất của cậu bé trốn thành thực. Nắm cửa xoay tròn, hét lên cảnh báo cậu; từng bước chân sắc như dao cạo cắt sâu vào cậu khi chúng bước nền gạch men trắng lạnh. Cậu đông cứng lại như băng, cứng đờ như khúc gỗ; mũi cậu lặng lẽ nước lên quần áo bẩn. sợi dải rút quần – vật báo hiệu hình rắn của tai họa! – luồn vào lỗ mũi trái của cậu. Khịt mũi tức là chết: cậu từ chối nghĩ đến điều đó.

      … Bị siết chặt trong gọng kìm của nỗi khiếp sợ, cậu thấy mắt mình nhìn xuyên qua khe hở giữa chỗ quần áo bẩn… và thấy người đàn bà khóc trong nhà tắm. Mưa rơi từ đám mây đen dày. Và giờ thêm nhiều thanh, nhiều chuyển động: giọng mẹ cậu bắt đầu cất lên, hai tiết, lặp lặp lại: và tay bà bắt đầu hoạt động. Đôi tai bị bóp nghẹt vì đồ lót căng ra bắt lấy hai thanh – này: Dir? Bir? Dil? – và kia: Ha? Ra? – Na. Ha và Ra bị loại trừ; Dil và Bir biến mất vĩnh viễn; và cậu bé nghe thấy, bên tai, cái tên được ra kể từ khi Mumtaz Aziz trở thành Amina Sinai: Nadir. Nadir. Na. Dir. Na.

      Và tay bà chuyển động. Lạc trong ký ức của mình về những ngày tháng khác, về chuyện xảy ra sau khi những ván phụt-ống-nhổ trong căn hầm ở Agra, chúng hớn hở vồ vập má bà, chúng ấp vú bà chặt hơn bất kỳ thứ nịt vú nào; và giờ chúng mơn trớn cái bụng trần của bà, chúng rê sâu xuống dưới… phải, đây là điều mình vẫn làm, tình của em, như thế là đủ, đủ cho em, mặc dù cha em bắt mình, rồi chạy, và giờ điện thoại, Nadirnadirnadirnadirnadirnadir… bàn tay nâng điện thoại giờ đây nâng thịt, trong khi ở chỗ khác bàn tay kia làm gì? Hành vi gì, sau khi đặt ống nghe xuống, bàn tay kia thực !... quan trọng; vì ở đây, trong gian riêng tư bị theo dõi của mình, Amina Sinai lặp lại cái tên xa xưa, lần này qua lần khác, đến khi cuối cùng bà bật ra, “Arre Nadir Khan, từ đâu ra thế hả?”

      Bí mật. cái tên đàn ông. Những cử động chưa-bị-bắt-gặp-bao-giờ của đôi tay. Trong óc đứa trẻ chất đầy những suy nghĩ hình thù, bị giằng xé bởi những ý niệm nhất định chịu lắng xuống thành lời; và trong lỗ mũi trái, dây dải rút như rắn trườn lên lên lên, nhất định chịu bị lờ

      Và giờ – ôi bà mẹ vô sĩ! Kẻ lộ mặt ở hai lòng, với những xúc cảm có chỗ trong cuộc sống gia đình; và còn nữa: ôi kẻ phô bày trắng trợn Trái Xoài Đen! – Amina Sinai, lau khô nước mắt, bị thôi thúc bởi nhu cầu nhặt hơn; và khi mắt phải của con trai bà nghé qua những nẹp gỗ nóc tủ giặt, mẹ tôi gỡ sari ra! Trong khi tôi, nín lặng trong tủ giặt: “Đừng làm thế đừng làm thế đừng!”… nhưng tôi nhắm mắt lại được. Đôi đồng tử chớp thu vào hình ảnh lộn ngược của tấm sari rơi xuống sàn, hình ảnh, như thường lệ, được não bộ lật ngược; qua đôi mắt xanh băng giá tôi thấy cái xi líp nối tiếp tấm sari; và rồi – ôi kinh khủng thay! – mẹ tôi, đóng khung trong đồ giặt và nẹp gỗ, cúi xuống nhặt quần áo lên! Và nó đấy, đốt bỏng võng mạc tôi – hình ảnh bộ mông mẹ tôi, đen như màn đêm, tròn và cong, giống gì đời hơn là trái xoài Alfonso khổng lồ màu đen! Ở trong tủ giặt, thất thần trước hình ảnh ấy, tôi vật lộn với bản thân… tự kiểm soát trở thành bắt buộc đồng thời là bất khả… dưới tác động sét đánh của trái Xoài Đen, thần kinh tôi sụp đổ; sợi dải rút chiến thắng; và trong khi Amina Sinai ngồi lên bồn cầu, tôi… sao? phải hắt xì; nó chưa đến mức hắt xì. Cũng phải nhăn mũi; nó lớn hơn thế. đến lúc thẳng: choáng váng trước giọng hai tiết và đôi tay vồ vập, kinh hoàng trước trái Xoài Đen, mũi của Saleem Sinai, phản ứng trước chứng cứ về hai lòng của người mẹ, run rẩy vì xuất của cặp mông mẫu thân, đầu hàng sợi dải rút, và bị chế ngự bởi cú khịt thảm họa – làm thay đổi thế giới – thể đảo ngược. Sợi dải rút nhoi lên thêm nửa tấc trong lỗ mũi tôi đau nhói. Nhưng những thứ khác cũng nhoi lên: bị cú hít vào kích động ấy lôi kéo, chất lỏng trong mũi ngừng bị hút lên lên lên, nước mũi xộc thẳng lên, ngược trọng lực, ngược tự nhiên. Xoang mũi chịu áp lực quá sức chịu đựng… cho đến khi, trong cái đầu sắplênchín ấy, có gì đó vỡ ra. Nước mũi bắn vọt qua con đập thủng, ùa vào những dòng kênh mới tối đen. Dịch nhầy, lên cao hơn mức cao nhất được định sẵn cho dịch nhầy. Nước thải, chạm tới tận, có lẽ, ranh giới của não bộ… có cú sốc. Có gì đó tích điện bị nhiễm ẩm.

      Đau.

      Và rồi tiếng ồn, điếc tai đa thanh kinh dị, trong đầu cậu bé!... Trong cái tủ giặt gỗ màu trắng, bên trong khán phòng tăm tối của hộp sọ của tôi, mũi tôi bắt đầu hát.

      Nhưng giờ còn thời gian để nghe, vì giọng ở rất gần. Amina Sinai mở ô cửa dưới của tủ giặt; tôi lăn ra long lóc với quần áo bẩn quấn quanh đầu như cái màng thóp. Sợi dải rút bắn khỏi mũi tôi; và giờ ánh chớp lóe lên xuyên qua vầng mây đen quanh mẹ tôi – và nơi náu mất vĩnh viễn.

      “Con có nhìn!” tôi ré lên qua những ga với gối. “Con thấy gì sất, Ammi, con thề!!”

      Và nhiều năm sau, chiếc ghế mây giữa mớ khăn tắm ế và cái đài loan báo những tin thắng trận bị cường điệu hóa, Amina nhớ lại rằng với ngón cái và ngón trỏ kẹp quanh tai thằng con dối trá, bà lôi nó đến chỗ Mary Pereira, người như thường lệ ngủ tấm chiếu cói trong căn phòng màu thiên thanh ra sao; bà lệnh, “Con lừa non này; thằng vô tích rách giời rơi xuống này được gì suốt ngày” thế nào… Và, ngay trước khi mái nhà sập xuống đầu, bà to: “Lỗi tại tôi. Tôi nuôi dạy nó chẳng ra gì.” Giữa tiếng bom nổ xé nát gian, bà thêm, điềm đạm nhưng quả quyết, dành những lời cuối cùng thế gian cho bóng ma của chiếc tủ giặt: “Giờ , tao chán nhìn mày lắm rồi.”



      đỉnh Sinai, Nhà Tiên tri Musa hay Moses nghe thấy những lời răn vô hình; Đỉnh Hira, Nhà Tiên tri Muhammad (còn có tên là Mohammed, Mahomet, Nhà-Tiên-Tri-Sau-Chót, và Mahound) đối thoại với Đại thiên sứ (Gabriel hay Jibreel, tùy quý vị). Và sân khấu của trường Trung học Nam sinh Cathedral và John Connon, tổ chức “dưới bảo trợ” của Hiệp hội Giáo dục -Scotland, thằng Cyrus-đại-đế bạn tôi, đóng vai nữ như thường lệ, nghe tiếng Thánh Joan những câu thoại của Bernard Shaw. Nhưng Cyrus là trường hợp cá biệt: như Joan, nghe thấy những giọng ngoài đồng, mà như Musa hay Moses, như Muhammad Nhà Tiên tri tối hậu, tôi nghe thấy những giọng ngọn đồi.

      Muhammad (cầu cho tên người được bình an, tôi xin bổ sung; tôi muốn xúc phạm bất kỳ ai) nghe thấy giọng bảo ông rằng “Hãy tụng!” và nghĩ là mình hóa điên; tôi nghe thấy, đầu tiên, ong ong khắp đầu toàn tiếng líu lô, như kênh đài chưa dò đúng sóng; và với đôi môi bị khóa theo lệnh mẫu thân, tôi thể đòi hỏi an ủi. Muhammad, ở tuổi bốn mưoi, tìm kiếm và nhận được trấn án từ vợ và bằng hữu: “Đích thực,” họ bảo ông, “ là Sứ giả của Chúa”; tôi, hứng chịu hình phạt này khi gầnchíntuổi, thể tìm trợ giúp từ con Khỉ Đồng hay cầu viện những lời vỗ về từ Mary Pereira. Bị bắt câm lặng từ tối qua đêm đến sáng, tôi vật vã, trong đơn độc, để tìm hiểu điều xảy đến với mình; tới khi sau cùng tôi thấy tấm khăn choàng của thiên tài phấp phới bay xuống, như cánh bướm thêu, dải khăn san của vĩ đại rủ lên vai tôi.

      Giữa cơn oi bức của cái đêm nín lặng ấy (chỉ có tôi nín lặng; bên ngoài tôi, biển loạt soạt như tiếng giấy ở xa xăm; quạ rúc trong cơn quằn quại của những ác mộng lông vũ; tiếng xành xạch của những chiếc taxi rề rà vọng đến từ đường Warden; con Khỉ Đồng, trước khi thiếp với vẻ mặt đóng băng lại thành chiếc mặt nạ làm bằng nỗi tò mò, nài nỉ, “ nào, Saleem; có ai nghe đâu; làm gì? Kể kể kể !”… trong khi, bên trong tôi, những giọng dội vào thành hộp sọ) tôi bị bóp nghẹt trong những ngón tay nóng hổi của niềm hưng phấn – đám côn trùng ngó ngoáy của cơn phấn khích nhảy múa trong bụng tôi – bởi vì sau cùng, theo cách nào đấy mà hồi ấy tôi hoàn toàn hiểu, cánh cửa mà Toxy Catrack từng đẩy khẽ trong đầu tôi bị mở bung ra; và qua đó tôi thoáng thấy – dù hãy còn mờ ảo, chưa định hình, huyền bí – lý do khiến tôi được sinh ra đời.

      Gabriel hay Jibreel bảo Muhammad: “Hãy tụng!” Và thế là mở đầu khúc Thần tụng, tiếng Ả Rập gọi là al-Quran: “Hãy tụng: nhân danh Chúa, Đấng Sáng Tạo của người, người tạo ra Con Người từ những hòn máu…” Đấy là chuyện Đỉnh Hira ngoài Mecca Sharif; ngọn đồi cao hai tầng đối diện bể bơi Breach Candy, những giọng cũng lệnh cho tôi đọc theo: “Ngày mai!” Tôi khấp khởi nghĩ thầm. “Ngày mai!”

      Khi mặt trời lên, tôi phát ra rằng những giọng ấy có thể kiểm soát được – tôi là cái đài, và có thể chỉnh lượng lên xuống; tôi có thể chọn từng giọng riêng lẻ; thậm chí, tôi có thể, bằng nỗ lực của ý chí, tắt cái tai nội tại vừa được phát ấy . Nỗi sợ hãi rời bỏ tôi nhanh cách đáng kinh ngạc; lúc trời sáng, tôi nghĩ, “Chà, cái này còn hay hơn Đài phát thanh Toàn Ấn Độ, chà; hơn cả Đài Ceylon!”

      Để thể lòng trung thành của em: khi hai mươi bốn giờ vừa hết, lập tức, con Khỉ Đồng chạy sang phòng mẹ tôi. (Hôm đó là Chủ nhật; chắc vậy: phải đến trường. Hoặc cũng có thể là ngày thường – đó là mùa hè của những cuộc biểu tình thổ ngữ, và trường học thường phải đóng cửa, vì nguy cơ bạo lực các tuyến xe buýt).

      “Hết giờ rồi!” nó kêu, lay mẹ tôi tỉnh giấc. “Amma, dậy : đến giờ rồi: ấy được chưa?”

      “Thôi được,” mẹ tôi , bước sang căn phòng màu thiên thanh để ôm tôi, “lần này mẹ tha. Nhưng từ nay cấm được trốn trong đó nữa…”

      “Amma,” tôi hăm hở , “Ammi của con, mẹ nghe này. Con phải kể mẹ nghe chuyện này. Chuyện quan trọng. Nhưng, trước hết, phải gọi Abba .”

      Và sau lúc những “Hả?”, “Sao?” và “ được,” mẹ tôi nhìn thấy có gì đó bất thường trong mắt tôi liền lo lắng gọi Ahmed Sinai dậy, “Janum, mình lại đây. Tôi chẳng biết thằng Saleem nó bị làm sao ấy.”

      Cả nhà và người ayah tề tựu trong phòng khách. Giữa những bình pha lê mài và nệm phồng, đứng tấm thảm Ba Tư dưới quầng bóng xoay tít của những chiếc quạt trần, tôi mỉm cười với ánh mắt thấp thỏm của họ và chuẩn bị cho mặc khải của mình. Nó đây rồi; khởi đầu của hoàn vốn cho những đầu tư của họ; món cổ tức đầu tiên của tôi – món đầu tiên, tôi tin chắc, trong số rất nhiều… bà mẹ đen, ông bố môi trề, con Khỉ em tôi, và người ayah che-giấu-tội-lỗi bồn chồn chờ đợi trong nỗi hoang mang.

      ra . Thẳng tuột, màu mè. “Cả nhà nên được biết đầu tiên,” tôi , cố tạo cho lời mình ngữ điệu của người lớn. Và rồi tôi bảo họ. “Hôm qua, con nghe thấy những giọng . Những giọng chuyện với con bên trong đầu con. Con nghĩ – Ammi, Abboo, con thực nghĩ là – các Đại thiên sứ bắt đầu chuyện với con.”

      Đấy! Tôi nghĩ. Đấy! rồi đấy! Giờ có những cái vỗ lưng, kẹo ngọt, những lời tuyên bố công khai, có thể thêm những bức ảnh; giờ ngực họ căng lên niềm hãnh diện. Ôi ngây thơ con nít! Vì thành thực của mình – vì nỗ lực nhiệt thành tuyệt vọng làm vừa lòng người khác của mình – tôi bị tất cả các bên tấn công. Kể cả con Khỉ: “Chúa ơi, Saleem, tất cả những tamasha này, tất cả những trò vè này, chỉ vì trong mấy trò đùa ngu ngốc của à?” Tệ hơn con Khỉ là Mary Pereira: “Lạy Đấng Jesus Chris! Xin Người cứu vớt! Lạy Đức Thánh Cha ở Rome, hôm nay con nghe phải điều quá sức báng bổ!” Và tệ hơn Mary Pereira là mẹ tôi Amina Sinai: trái Xoài Đen giờ được giấu kín, những cái tên thể gọi tên còn nóng hổi môi, bà kêu lên, “Xin Trời xá tội! Thằng bé khiến mái nhà sập xuống đầu chúng ta!” (phải chăng đó cũng là lỗi của tôi?) Và Amina tiếp tục: “Thằng giặc đen! Đồ goonda! Ôi Saleem, con bị nhũn não rồi à? Chuyện gì xảy ra với bé con dấu của mẹ – lẽ nào con biến thành đứa điên rồ – kẻ hành hạ người khác!?” Và tệ hơn tiếng rú của Amina là im lặng của cha tôi; tệ hơn nỗi khiếp hãi của bà là cơn cuồng nộ ngự trị trán ông; và khủng khiếp hơn hết thảy là bàn tay ông, đột nhiên xòe ra, những ngón tay chuốn mắn, những khớp tay chắc nịch, khỏe như bò mộng, giáng cho tôi cú dữ dội vào mang tai, khiến tôi ngã lăn lông lốc giữa căn phòng choáng váng trong bầu khí kinh hoàng và làm vỡ nát cái mặt bàn bằng kính mờ màu lục; khiến cho, mới lần đầu tiên trong đời chắc chắn về bản thân, tôi bị ném vào thế giới màu xanh, mờ đục như thủy tinh đầy những cạnh sắc, thế giới nơi tôi còn có thể kể cho những người quan trọng nhất về những gì xảy ra trong đầu tôi; những mảnh thủy tinh xanh khía toạc tay tôi khi tôi lao vào cái vũ trụ quay cuồng ấy nơi tôi bị đày đọa, cho tới khi quá quá muộn, phải bị dằn vặt bởi nỗi nghi ngờ thường trực rằng tôi sinh ra để làm gì.

      Trong căn phòng tắm ốp gạch men trắng bên cạnh cái tủ giặt, mẹ bôi Mercurochrome cho tôi; gạc phủ lên vết thương của tôi, trong khi từ ngoài cửa giọng cha tôi ra lệnh, “Bà nó, hôm nay cấm ai được cho nó ăn. Bà nghe chưa? Cho nó ôm bụng đói mà tận hưởng trò đùa của mình!”

      Đêm đó, Amina Sinai mơ thấy Ramram Seth lơ lửng cách mặt đất mười lăm xăng ti mét, mắt trợn trừng trắng dã, ngâm nga: “Đồ giặt che lấp nó, giọng dẫn dắt nó!”… nhưng khi, sau vài ngày bị giấc mơ ấy đè nặng vai từng bước , bà thu hết can đảm hỏi đứa con ô nhục về tuyên bố táo tợn của nó, thằng bé trả lời với cái giọng cũng kìm nén như những giọt nước mắt rơi suốt thời thơ ấu: “Con đùa ấy mà, Amma. trò đùa ngu dại, như mẹ ấy.”

      Bà mất, chín năm sau, mà hề phát ra .

    4. banglangtrang123

      banglangtrang123 Well-Known Member Staff Member Super Moderator

      Bài viết:
      26,213
      Được thích:
      47,825
      Chương 12: Đài phát thanh Toàn Ấn Độ




      thực là vấn đề điểm nhìn; càng ngược về quá khứ, mọi thứ càng có vẻ ràng và hợp lý hơn – nhưng ta càng tiếp cận tại, tất cả lại tránh khỏi tỏ ra càng lúc càng kì lạ. Quý vị thử hình dung mình trong rạp phim lớn, đầu tiên ngồi ở phía sau, rồi từ từ dịch lên, từng hàng , đến khi gần như gí mũi vào sát màn hình. Những khuôn mặt diễn viên từ từ nhòa thành những hạt sạn nhảy múa; những chi tiết bé tí trở nên to lớn cách quái dị; ảo ảnh nhòa – hay đúng hơn, ta nhận ra ảo ảnh ấy chính là thực... ta từ 1915 đến 1956, vậy là ta lại gần màn ảnh hơn đáng kể... vậy , từ bỏ hình ảnh dụ này, tôi nhắc lại, hoàn toàn cảm thấy hổ thẹn, lời khẳng định khó tin của mình: sau vụ tai nạn kỳ dị trong tủ giặt, tôi trở thành thứ đài phát thanh.

      ... Nhưng hôm nay tôi thấy hoang mang, Padma chưa trở lại – tôi có nên báo cảnh sát ? Có phải thành Người Mất Tích? – và khi vắng mặt , những điều tôi chắc chắn đều tan rã. Ngay cả cái mũi cũng giở trò với tôi – ban ngày, khi giữa những vại rau quả dầm được đội quân chị em khỏe mạnh, tay lông lá, cực kỳ thạo việc coi sóc, tôi bỗng phân biệt được giữa mùi chanh vàng với chanh xanh. Đội ngũ nhân công bưng miệng cười khúc khích: sahib tội nghiệp vướng phải – cái gì? – hẳn phải là lưới tình chứ?... Padma, và những vết nứt lan khắp người tôi, tỏa ra như mạng nhện từ mũi tôi; và cái nóng... trong những hoàn cảnh như thế này hẳn người ta cũng được phép nhầm lẫn chút đỉnh. Đọc lại những gì viết, tôi phát ra lỗi về trình tự thời gian. Vụ ám sát Mahatma Gandhi xảy ra, trong bản thảo này, nhầm ngày. Nhưng tôi thể tiết lộ, vào lúc này, thứ tự thực tế của các kiện; ở Ấn Độ của tôi, Gandhi tiếp tục chết nhầm thời điểm.

      Liệu lỗi lầm có khiến toàn bộ công trình trở nên vô giá trị? Có phải tôi quá xa, với nhu cầu tuyệt vọng về lẽ sống, đến nỗi sẵn sàng bóp méo tất cả - viết lại trọn vẹn lịch sử thời đại mình chỉ cốt để đặt bản thân vào vị trí trung tâm? Hôm nay, trong cơn bối rối, tôi phán xét được. Tôi phải nhường việc này lại cho người khác. Giờ đây, tôi hết đường lùi; tôi phải kết thúc những gì tôi mở đầu, kể cả khi, vô phương tránh né, cái tôi kết thúc hóa ra phải là cái tôi mở đầu.

      Ye Akashvani hai. Đây là Đài phát thanh Toàn Ấn Độ.

      Vừa ra ngoài đường nóng như sôi để ăn cho xong bữa ở quán cà phê Iran gần nhà, tôi trở lại ngồi dưới quầng sáng về đêm của ánh đèn Anglepoise, chỉ có chiếc đài bán dẫn rẻ tiền làm bầu bạn. đêm nóng; trong khí sục sôi ngập mùi hương dai dẳng từ những vại rau quả dầm câm lặng; những giọng trong đêm tối. Hơi rau quả dầm, nồng nặc nhức mũi trong cái nóng, kích thích thứ nước quả tiết ra từ ký ức, nhấn mạnh những tương đồng và khác biệt giữa hồi ấy và bây giờ... hồi ấy trời nóng; bây giờ trời cũng nóng (trái mùa). Hồi ấy cũng như bây giờ, có người thao thức trong bóng tối, nghe thấy những giọng vô hình. Hồi ấy cũng như bây giờ, bên tai bị điếc. Và nỗi sợ hãi, nảy nở trong cái nóng... điều đáng sợ (hồi ấy hay bây giờ) phải là những giọng . Cậu bé, nhóc-Saleem-hồi-ấy, sợ ý nghĩ – cái ý nghĩ rằng cơn thịnh nộ của cha mẹ cậu có thể dẫn tới việc họ rút lại tình ; rằng dẫu có bắt đầu tin cậu nữa, họ cũng xem thiên tư của cậu như thứ dị tật ô nhục... trong khi tôi, bây giờ, vắng Padma, gửi những lời này vào bóng tối và sợ rằng chẳng ai tin. Cậu ấy và tôi, tôi và cậu... tôi còn năng lực của cậu; cậu chưa từng có năng lực của tôi. Có những lúc cậu như người lạ, gần như... ở cậu có vết nứt nào. có mạng nhện nào tỏa khắp người cậu trong cái nóng.

      Padma tin tôi; nhưng còn đâu nữa Padma. Hồi ấy cũng như bây giờ, có cơn đói. Nhưng ở dạng khác: bây giờ phải cơn đói-hồi ấy vì bị cắt bữa tối, mà cơn đói vì bị mất người đầu bếp.

      khác biệt khác, hiển nhiên hơn: hồi ấy, những giọng đến qua những lá van dao động của chiếc đài bán dẫn (vốn bao giờ, ở xứ chúng tôi, thôi tượng trưng cho bất lực – từ khi có vụ hối lộ triệt sản lấy đài đầy tai tiếng, cái máy kêu oe óe ấy đại diên cho điều đàn ông có thể làm trước khi lưỡi kéo xoẹt qua và nút buộc thít lại)... hồi ấy, cậubésắplênchín giường lúc nửa đêm chẳng cần đến máy móc.

      Khác biệt mà tương đồng, chúng tôi gắn kết với nhau nhờ cơn nóng. màn sương-nhiệt bập bùng, hồi ấy và bây giờ làm thời kỳ-hồi ấy của nhòa vào của tôi... nỗi hoang mang của tôi, qua làn sóng-nhiệt, cũng là của cậu.

      Thứ gì mọc khỏe nhất trong cái nóng: mía; dừa; các loại kê như bajra, ragi và jowar; hạt lanh, và (nếu có nước) chè và lúa. Xứ nóng quê ta cũng là nơi sản xuất bông lớn thứ hai thế giới – ít nhất, đấy là vào thời tôi học môn địa lý dưới ánh mắt dữ tợn của ông Emil Zagallo, và cái nhìn sắt lạnh hơn của hiệp sĩ chinh phạt người Tây Ban Nha trong khung tranh. Nhưng mùa hè nhiệt đới cũng sản sinh ra nhiều kỳ hoa dị thảo: những bông hoa lạ lẫm của nở bừng tưởng tượng, để lấp đầy những đêm bức đổ mồ hôi bằng thứ mùi nồng như nùi xạ, mang đến cho người ta những giấc mơ tăm tối của bất mãn... hồi ấy cũng như bây giờ, trong khí sặc mùi bất ổn. Đám diễu hành ngôn ngữ đòi chia cắt bang Bombay theo biên giới của ngôn ngữ - đầu đoàn người này là giấc mơ về Maharashtra, dẫn dắt đoàn người kia là ảo vọng về Gujarat[1]. Cái nóng ăn mòn ranh giới giữa ảo tưởng và thực trong tâm trí con người, khiến tất cả trở thành như có thể; hỗn loạn nửa tình nửa mê của giấc ngủ trưa khiến đầu óc con người mụ mị, và khí tràn ngập cái dính ráp của niềm ham muốn bị kích thích.

      [1] Năm 1956, sau khi mở rộng, bang Bombay bao gồm hai khu vực chính là vùng tiếng Gujarat ở phía Bắc và vùng tiếng Maharashtra (Marathi) ở phía Nam. Xung đột giữa hai cộng đồng này dẫn tới việc năm 1960 Bombay bị tách ra, cơ sở ngôn ngữ, thành hai bang Maharashtra và Gujarat như ngày nay.

      Thứ gì mọc khỏe nhất trong cái nóng: ảo tưởng ; điên rồ; dục vọng.

      Năm 1956, hồi ấy, ngôn ngữ hành quân đường phố lúc ban ngày; về đêm, chúng nổi loạn trong đầu tôi. “Chúng ta dõi theo cuộc đời của cháu với quan tâm sát sao nhất; nó là, theo nghĩa nào đó, tấm gương của bản thân chúng ta.”

      đến lúc về những giọng .

      Nhưng giá mà Padma của chúng ta ở đây...



      Tôi nhầm về các Đại thiên sứ, tất nhiên rồi. Bàn tay cha tôi, giáng vào tai tôi trong hành động (cố ý? vô tình?) tái bàn tay khác, cơ thể, từng táng thẳng vào mặt ông – ít ra cũng có tác dụng khai sáng; nó buộc tôi phải xem xét lại và rốt cuộc là từ bỏ cái vị thế ban đầu, tập tọng làm Nhà Tiên tri của tôi. Nằm giường vào chính cái đêm bị ruồng rẫy ấy, tôi rút sâu vào trong nội tâm của mình, mặc cho con Khỉ Đồng lấp đầy căn phòng màu xanh của bọn tôi với những lời vặn vẹo: “Nhưng mà làm thế làm gì, Saleem? Người lúc nào cũng vô cùng ngoan ngoãn như ?”... tới khi nó ngủ thiếp trong bất mãn, môi vẫn mấp máy thành tiếng, và tôi còn lại mình với dư trận lôi đình của cha tôi, lùng bùng bên tai trái, rì rầm: “ Michael hay Anael; chẳng phải Gabriel; quên Cassiel, Sachiel và Samael! Các Đại thiên sứ còn giao tiếp với người trần. Thần tụng được hoàn thành ở Ả Rập từ lâu; nhà tiên tri cuối cùng chỉ xuất để báo hiệu Ngày Tận Thế.” Đêm đó, hiểu ra những giọng trong đầu mình vượt xa các thiên sứ về số lượng, tôi quyết định, phải là có chút nhõm, rằng tôi cuối cùng được chọn chủ trì ngày tận thế. Những giọng trong tôi, có chút gì là hoảng hốt, hóa ra lại trần tục, và đông đảo, như cát bụi.

      Ngoại cảm, phải rồi; cái kiểu quý vị vẫn luôn đọc được báo lá cải. Nhưng xin quý vị kiên nhẫn – chờ đợi. Chỉ đợi thôi. Nó là ngoại cảm ; nhưng đồng thời còn hơn cả ngoại cảm. Đừng gạch tên tôi dễ dàng quá thế.

      Ngoại cảm, phải rồi: tiếng độc thoại nội tâm của tất cả cái được gọi là ức triệu con người, của mọi tầng lớp và giai cấp, chen vai thích cánh trong đầu tôi. Ban đầu, khi tôi còn thỏa mãn với vai trò khán giả - trước khi tôi bắt đầu hành động – có vấn đề về ngôn ngữ. Những giọng rầm rì bằng đủ thứ tiếng từ thổ ngữ Malayalam đến Naga, từ cái thuần khiết của tiếng Urdu ở Lucknow đến giọng líu ríu của tiếng Tamil miền Nam. Tôi chỉ hiểu đôi chút những gì được bên trong bốn vách sọ của mình. Chỉ sau này, khi bắt đầu thăm dò kỹ hơn, tôi mới phát ra, dưới những tín hiệu bề mặt ấy – những chuyện bề nổi mà tôi “bắt” được từ đầu tới giờ - ngôn ngữ nhòa , và bị thay thế bằng những hình-thái-ý nghĩ mà bất kỳ ai cũng hiểu được và ưu việt vượt xa ngôn từ... nhưng đấy là sau khi tôi nghe thấy, bên dưới hỗn loạn đa ngôn ngữ trong đầu mình, những tín hiệu quý giá kia, khác hẳn tất cả mọi thứ khác, hầu hết đều khẽ và xa xăm, như từng hồi trống vẳng vọng mà nhịp đập dai dẳng cuối cùng xuyên qua cái lao xao chợ cá của những giọng trong tôi... những bí mật ấy, những tiếng gọi nửa đêm ấy, người gọi người giống mình... những ngọn đèn hiệu vô thức của những đứa trẻ của nửa đêm, phát tín hiệu gì khác ngoài tồn tại của mình, truyền vỏn vẹn: “Tôi.” Từ phương Bắc xa xăm, “Tôi.” Và Nam Đông Tây: “Tôi.” “Tôi.” “Tôi nữa.”

      Nhưng tôi được trước chính tôi. Ban đầu, trước khi đột phá đến cảnh giới hơn-cả-ngoại-cảm, tôi tự thỏa mãn với việc lắng nghe; và từ sớm tôi “chỉnh” được cái tai nội thể của mình hướng về những giọng mà tôi hiểu được; và cũng bao lâu sau tôi dò ra, trong đám đông, tiếng của gia đình tôi; và của Mary Pereira; và của bạn bè, bạn học, thầy . Ngoài phố, tôi học cách xác định dòng-suy-nghĩ của khách bộ hành – hiệu ứng Doppler tiếp tục vận hành ở những môi trường siêu nhiên này, những giọng cũng to lên và dần khi người ta qua.

      Tất cả những chuyện này, bằng cách nào đấy tôi giữ kín trong lòng. Bị nhắc nhở mỗi ngày (bởi tiếng ù trong tai trái, tức cái tai ma quái) về cơn thịnh nộ của cha tôi, và nóng lòng muốn giữ tai phải hoạt động tốt, tôi câm như thóc. Với thằng bé chín tuổi, nỗi khó khăn khi phải giấu kín điều mình biết gần như thể vượt qua; nhưng may mắn thay, những người gần gũi nhất và thân nhất cũng nóng lòng quên bồng bột của tôi như tôi nóng lòng che giấu .

      “Ôi, cậu Saleem! Gớm thay những gì cậu hôm qua! là xấu hổ: cậu nên súc miệng xà phòng !”... Buổi sáng sau hổ nhục của tôi, Mary Pereia, run lên vì phẫn nộ như món thạch của , đề xuất phương thức hoàn hảo cho quá trình cải tạo của tôi. Gục đầu xuống vẻ ăn năn, tôi , câu nào, vào nhà tắm, và tại đó, dưới cái nhìn kinh ngạc của ayah và con Khỉ, chà xát răng lưỡi vòm họng lợi bằng cái bàn chải đánh răng phết thứ Xà phòng Coal Tar hôi cay đầy bọt. Tin tức về màn sám hối đầy kịch tính của tôi lan nhanh khắp nhà, do Mary và con Khỉ truyền ; và mẹ ôm lấy tôi, “Thế chứ, bé ngoan; chúng ta nhắc chuyện này nữa,” Còn Ahmed Sinai gục gạc gầm gừ ở bàn ăn sáng, “Ít ra nó cũng biết dũng cảm nhận lỗi khi đùa quá trớn.”

      Khi những vết thủy tinh cứa mờ dần, dường như những tuyên bố của tôi cũng bị xóa mờ theo; và đến sinh nhật thứ chín của tôi, ngoài tôi ra ai còn nhớ gì đến cái ngày tôi đem các Đại Thiên sứ ra bỡn cợt. Vị thuốc tẩy còn bám lưỡi tôi suốt nhiều tuần, nhắc nhở tôi về cần thiết phải kín miệng.

      Ngay cả con Khỉ Đồng cũng thỏa mãn với cách tôi trình diễn ăn năn – trong mắt nó, tôi lấy lại phong độ, và lần nữa là Tấm trong nhà. Để thể sẵn lòng tái lập trật tự cũ, nó châm lửa đốt đôi dép ưa thích của mẹ tôi, và giành lại vị trí hợp pháp của mình trong sổ đen gia đình. Đối với người ngoài, còn nữa – thể bảo thủ ai có thể nghi ngờ ở đứa con “liền ” như thế - nó sát cánh với cha mẹ tôi gữi bí mật về phút lầm lạc của tôi với bạn bè của cả tôi lẫn nó.

      đất nước nơi bất kỳ dị thường nào về thể chất hay thần kinh của đứa trẻ cũng là căn nguyên nỗi hổ nhục sâu xa của gia đình, cha mẹ tôi, những người quen với những vết bớt mặt, mũi dưa chuột và chân vòng kiềng, kiên quyết từ chối tìm thấy ở tôi bất kỳ điều gì đáng hổ thẹn nữa; về phần mình, tôi lần nào đả động đến tiếng ong ong ở tai đến tiếng chuông báo hiệu chứng điếc thi thoảng lại reo lên, đến những cơn đau rời rạc. Tôi học được rằng bí mật phải lúc nào cũng xấu.

      Nhưng hãy tưởng tượng náo loạn trong đầu tôi! Nơi, sau gương mặt xấu xí, cái lưỡi đầy vị xà phòng, sát bên màng nhĩ bị thủng, náu tâm trí lấy gì làm ngăn nắp, chứa trăm thứ bà rằn như túi áo thắng bé lên chín... hãy tưởng tượng quý vị bằng cách nào đó ở trong đầu tôi nhìn ra qua đôi mắt tôi, nghe thấy những thanh, những giọng , và rồi kể được với ai, điều khó nhất là giả bộ ngạc nhiên, như khi mẹ bảo Này Saleem đoán xem nhà ta dã ngoại ở Aarey Milk Colony và tôi phải Ôii hay quá!, khi tôi biết tỏng từ lâu vì nghe được giọng nội tâm thành lời của bà Và vào ngày sinh nhật tôi nhìn thấy mọi món quà trong óc người tặng từ trước cả khi chúng được mở ra Và trò chơi tìm kho báu phá sản vì ở đó trong đầu cha tôi là vị trí của từng chỉ dẫn tới mọi giải thưởng Rồi những chuyện khó khăn hơn nhiều như chạy vào tìm cha tôi trong văn phòng ở tầng triệt, đây rồi, và ngay khi bước vào, đầu tôi tràn ngập những thứ nhớp nhúa cóChúamớibiết bởi vì ông nghĩ đến ả thư ký, Alice hoặc Fernanda, nàng Coca – Cola mới nhất của ông, ông chậm rãi lột đồ ả trong đầu mình và nó trong cả đầu tôi nữa, nàng trần truồng ngồi cái ghế mặt mây và bây giờ đứng dậy, những vệt mắt lưới lằn khắp mông, đấy là cái cha tôi nghĩ, CHA TÔI, giờ ông nhìn tôi rất buồn cười Sao thế con trai con khỏe à Dạ khỏe Abba khỏe ạ, con đây CON PHẢI CÓ VIỆC phải làm bài tập, Abba, và bỏ chạy, dông thẳng trước khi ông phát ra vẻ khả nghi mặt tôi (cha tôi vẫn bảo rằng mỗi khi tôi dối trán tôi liền xuất tia sáng đỏ)... Quý vị bảo có khó , cậu Hanif đến đưa tôi xem đấu vật, và từ trước khi đến sân vận động Vallabhai Patel đê biển Hornby Vellard tôi thấy buồn Chúng tôi hòa cùng đám đông qua hình nộm bìa cứng của Dara Singh và Tagra Baba và các võ sĩ khác và nỗi buồn của cậu, ông cậu thích của tôi rót vào tôi, nó như con thằn lằn sống ngay dưới bờ dậu ở vui tươi của cậu, giấu dưới tiếng cười rền vang thời từng là tiếng cười của lão lái đò Tai, chúng tôi ngồi hai chỗ cực đẹp khi quầng sáng đèn pha nhảy múa lưng đôi đô vật khóa chặt nhau và tôi bị nghẹt trong gọng kìm thể phá vỡ của nỗi buồn phiền của cậu tôi, nỗi buồn phiền vì nghiệp điện ảnh thất bại, hết bom xịt này đến bom xịt khác, có lẽ cậu chẳng bao giờ kiếm được bộ phim nào nữa Nhưng tôi được để nỗi buồn ứa ra mắt Cậu chen vào dòng suy nghĩ của tôi, Này phaelwan, này chú nhóc đô vật, làm gì mà mặt chảy ra thế, trông dài hơn cả bộ phim dở rồi, cháu ăn channa nhé? pakora? gì hả? Và tôi lắc đầu, , có gì ạ, Hanif mamu, thế là cậu yên tâm, quay , bắt đầu hò hét Cố lên Dara, phải thế chứ, cho nếm mùi vị , Dara yara! Và khi về nhà mẹ tôi ngồi xổm ngoài hành lang với hộp kem, bằng giọng--bên-ngoài của bà, Muốn giúp mẹ làm kem , con trai, vị hạt dẻ cười khoái khẩu của con đấy, và tôi ngồi quay cái cần, nhưng giọng--bên-trong của bà cứ nảy qua nảy lại bên trong đầu tôi, tôi có thể thấy bà cố gắng lấp đầy mọi ngóc ngách suy nghĩ của mình bằng những chuyện hằng ngày, giá cá chim, danh mục các việc vặt trong nhà, phải gọi tay thợ điện đến sửa cái quạt trần ở phòng ăn, bà tập trung cách tuyệt vọng vào các bộ phận của chồng mình để , nhưng cái từ được phép nhắc tới kia vẫn án ngữ ở đó, hai tiết rỉ ra khỏi bà trong phòng tắm vào ngày hôm đó, Na Dir Na Dir Na, đối với bà, việc gác máy khi có người gọi nhầm số ngày khó khăn hơn MẸ TÔI tôi cho các vị biết khi đứa trẻ chui vào những suy nghĩ của người lớn chúng có thể làm thằng bé phát điên thực . Và kể cả về đêm, vẫn thôi, tôi thức dậy vào đúng nửa đêm với giấc mơ của Mary Pereira trong đầu Đêm này qua đêm khác Luôn vào cái giờ ma thịnh của tôi[2], mà cũng có ý nghĩa đặc biệt với Giấc mơ của bị giày vò bởi hình ảnh của gã đàn ông chết từ nhiều năm trước, Joseph D’Costa, giấc mơ mách cho tôi cái tên, nó phủ trong lớp cảm giác tội lỗi tôi hiểu được, đúng thứ tội lỗi vẫn rỉ sang tất cả chúng tôi mỗi lần chúng tôi ăn món chutney làm, ở đây có điều bí , nhưng vì nó ở bề mặt tâm trí nên tôi thể tìm ra, và trong lúc ấy, Joseph ở đó, hằng đêm, đôi khi mang hình người, nhưng phải luôn luôn, có khi gã là chó sói, hoặc ốc sên, hoặc cây chổi, nhưng chúng tôi (-mơ, tôi-nhìn vào) biết đó là gã, tà ác dung tha đầy vẻ buộc tội, nguyền rủa bằng ngôn ngữ của những hóa thân của gã, tru lên với khi là Joseph-chó-sói, phủ lên những vệt bò nhớp nhúa của Joseph-con-sên, quật bằng đầu quét của cái chổi hóa thân của gã... và sáng ra khi bảo tôi tắm rửa sạch chuẩn bị học tôi phải nuốt vào những câu hỏi, tôi chín tuổi và bị lạc trong mớ hỗn độn những mảnh đời người khác nhòa lẫn với nhau trong cái nóng.

      [2] Theo dân gian châu Âu, nửa đêm là giờ ma lực tối thịnh, là lúc phù thủy thi triển pháp thuật. Ý Saleem đây là lúc năng lực siêu nhiên của mình đạt đến cực điểm.

      Để kết thúc câu chuyện về những ngày đầu cuộc sống được biến cải của mình, tôi phải bổ sung lời thú tội đau lòng: tôi nhận ra mình có thể cải thiện đánh giá của bố mẹ về tôi bằng cách sử dụng năng lực mới này vào chuyện bài vở - ngắn gọn, tôi bắt đầu ăn gian ở lớp. Như thế nghĩa là, tôi bắt sóng giọng nội tâm của giáo viên và các bạn học thông minh hơn, và lấy thông tin từ trong đầu họ. Tôi phát ra rằng trong số thầy có rất ít người có thể ra đề kiểm tra mà duyệt trước đáp án tối ưu trong đầu – và tôi cũng biết rằng trong những trường hợp hiếm hoi khi giáo viên còn bận tâm về việc khác, chuyện tình ái riêng tư hay khó khăn về tài chính, tôi vẫn luôn có thể tìm được lời giải trong bộ óc phát triển sớm, phi thường của thằng thần đồng lớp tôi, Cyrus-đại-đế. Điểm số của tôi bắt đầu cải thiện rệt – nhưng quá lộ liễu, vì tôi luôn luôn làm cho bài mình khác với bản gốc bị ăn trộm; kể cả khi đạo bằng ngoại cảm nguyên bài luận văn của Cyrus, tôi cũng thêm thắt vài sửa đổi tầm thường của riêng tôi. Mục đích của tôi là để tránh bị hoài nghi; dù thành công, song tôi cũng bị phát . Dưới cặp mắt sục sôi, tra xét của Emil Zagallo tôi vẫn thánh thiện đầy vô tội; trước ngỡ ngàng lắc đầu khó hiểu từ thầy Tandon dạy tiếng , tôi tiến hành gian lận trong im lặng – biết rằng họ tin ngay cả khi, vì tình cờ hay rồ dại, tôi để lòi đuôi.

      Tóm lại là: vào thời khắc quyết định trong lịch sử quốc gia non trẻ của chúng ta, vào thời điểm các Kế hoạch Năm Năm được xây dựng và các cuộc bầu cử tới gần và những đoàn biểu tình ngôn ngữ giành giật Bombay, đứa trẻ chín tuổi tên là Saleem Sinai bỗng có được năng lực kỳ diệu. Bất chấp nhiều mục đích quan trọng mà năng lực ấy có thể được sử dụng phục vụ đất nước nghèo khổ, kém phát triển của mình, thằng bé quyết định che giấu tài năng, phung phí nó vào những trò thị dâm tầm phào và gian dối vụn vặt. Cách hành xử này – phải, tôi thừa nhận, cách hành xử của hùng – là hệ quả trực tiếp của bấn loạn trong tâm trí thằng bé, luôn lẫn lộn giữa đạo đức - khát vọng muốn làm điều đúng – và được lòng người khác – cái khát vọng có phần mơ hồ hơn là làm điều được tán thành. Sợ thất sủng với phụ huynh, nó bưng bít thông tin về biến hóa của mình; tìm kiếm tán dương từ phụ huynh, nó lạm dụng năng lực này ở trường. Khuyết điểm này trong tính cách của nó có thể được tha thứ phần bởi tuổi đời non nớt; song chỉ có phần thôi. Tư duy lẫn lộn còn đeo đẳng nghiệp của nó nhiều.

      Tôi có thể rất khắt khe khi phán xét bản thân nếu muốn.



      Thứ gì tọa lạc mái Nhà trẻ Breach Candy – cái mái, quý vị hẳn còn nhớ, có thể leo lên từ vườn trong Biệt thự Buckingham, chỉ cần trèo qua bức tường bao? Thứ gì, còn khả năng thực chức năng như thiết kế ban đầu, dõi theo chúng tôi năm đó khi ngay đến mùa đông cũng quên trở lạnh – thứ gì quan sát Sonny Ibrahim, Mắt Chẻ, Tóc Dầu và tôi, khi chúng tôi chơi kabaddi, và critket kiểu Pháp, và ném tháp, thi thoảng có tham gia của Cyrus-đại-đế và những đứa bạn khác đến chơi: Perce Fishwala Mập và Keith Colaco Nội Tiết? Thứ gì có mặt mỗi khi Bi-Appah, bảo mẫu của Toxy Catrack, từ gác thượng nhà Homi quát vọng xuống: “Bọn nhãi ranh! Đồ phá làng phá xóm! Có im !”... thế là cả bọn ù té chạy, rồi quay lại (khi bà ta mất dạng) làm mặt câm về phía ô cửa sổ bà ta vừa đứng? tóm lại, đó là thứ gì, cao và xanh và bong tróc, trông xuống cuộc đời chúng tôi, thứ dường như, có thời, là vật ghi dấu thời gian, chờ đợi chỉ quãng thời gian sắp tới khi bọn tôi bắt đầu mặc quần dài, mà có lẽ còn chờ cả xuất của Evie Burns? Có lẽ quý vị cần gợi ý: thứ gì có lần từng chứa bom? Đâu là nơi Joseph D’Costa chết vì rắn cắn?... Khi, sau vài tháng dằn vặt nội tâm, rốt cuộc cũng muốn tìm nơi lẩn tránh tiếng người lớn, tôi tìm thấy nó ở ngọn tháp đồng hồ cũ, nơi có ai buồn khóa cửa; và tại đây, giữa nỗi đơn của thời gian rỉ sét, tôi , trong tự mâu thuẫn, bước những bước ngập ngừng đầu tiên vào cuộc đời tiếng tăm mà tôi bao giờ thoát khỏi nữa... bao giờ, tới khi mụ Góa phụ...

      Bị cấm cửa khỏi tủ giặt, tôi bắt đầu, khi nào có thể, thừa lúc ai nhìn thấy lẻn vào ngọn tháp của thời gian què quặt. Khi ở vòng xuyến sạch bóng người vì trời nóng hay vì tình cờ hay vì ánh mắt soi mói; khi Ahmed cùng Amina đến Câu lạc bộ Willingdon chơi bài canasta buổi tối; khi con Khỉ Đồng vắng mặt, mải lân la quanh các nữ thần tượng mới kiếm được, đội bơi lặn của Trường Nữ sinh Walsingham... tức là, khi hoàn cảnh cho phép, tôi lại chui vào nơi náu bí mật, nằm dài tấm thảm rơm lấy trộm từ dãy nhà của người ở, nhắm mặt lại, và thả cho bên tai nội thể vừa thức tỉnh (thông với mũi tôi, như mọi cái tai) tự do lang thang khắp thành phố - và xa hơn, từ Bắc chí Nam, từ Đông sang Tây, lắng nghe đủ mọi chuyện. Để thoát khỏi áp lực khó gánh từ việc nghe trộm người thân, tôi đem thuật này học tập với người lạ. Như vậy việc tôi tham gia vào những vấn đề thời của Ấn Độ xuất phát hoàn toàn từ những lý do thấp hèn – rầu rĩ vì tiếp xúc với quá nhiều riêng tư, tôi sử dụng thế giới bên ngoài ngọn đồi nhà tôi để tiêu sầu.

      Thế giới được khám phá từ ngôi tháp đồng hồ hỏng: ban đầu, tôi chỉ là du khách hơn, đứa trẻ dòm qua những cái lỗ kỳ diệu từ cỗ máy “Dilli-dekho” riêng tư. Tiếng trống dugdugee lốc cốc bên tai trái ( hỏng) của tôi khi tôi lần đầu nhìn thấy Taj Mahal qua đôi mắt bà người to béo bị tiêu chảy; sau đó để cân bằng giữa Nam và Bắc, tôi nhảy xuống đền Meenakshi ở Madurai và yên ấm tọa trong góc nhìn trùm len, thần bí của thầy tu tụng niệm. Tôi thăm thú Connaught Place tại New Delhi trong bộ dạng của lại xe tuktuk, chua chát càm ràm với khách về việc xăng lên giá; ở Calcutta, tôi ngủ vạ vật trong đoạn ống nước thải. Lúc này bị con bọ du hành cắn cho tơi tả, tôi lao xuống Mũi Comorin và biến thành ả dân chài có tấm sari chặt bao nhiêu tiết hạnh lỏng bấy nhiêu... đứng cát đỏ dạt vào từ ba biển, tôi đong đưa với gã đồng nát bờ biển người Dravida bằng thứ tiếng tôi hiểu; rồi trèo lên dãy Himalaya, chui vào túp lều tiền sử rêu phong của bộ lạc Goojar, dưới ánh hào quang của cây cầu vồng tròn tuyệt đối và tầng băng tích chênh vênh của băng hà Kolahoi. Tại pháo đài vàng của Jaisalmer tôi nếm thử cuộc sống nội tâm của phụ nữ dệt váy đính thủy tinh và ở Khajuraho tôi là cậu trai làng tuổi lớn, bối rối tột độ trước những bức phù điêu Tantra hoa tình ở đền Chandela tọa giữa cánh đồng, nhưng chẳng thể móc mắt mình ra được... trong cái giản đơn lạ lẫm của viễn du tôi tìm được chút bình yên. Nhưng, cuối cùng, viễn du cũng thôi thỏa mãn; cơn tò mò bắt đầu ngó ngoáy; “Thử xem,” tôi tự nhủ, “điều gì thực diễn ra quanh đây.”

      Được cái tinh thần chiết trung của tuổi lên chín thôi thúc, tôi nhảy vào đầu các ngôi sao điện ảnh và cầu thủ bóng chày – tôi biết được đằng sau câu chuyện lá cải của tờ Filmfare về vũ công Vyjayantimala, và tôi đứng vạch với Polly Umrigar tại sân vận động Brabourne; tôi là Lata Mangeshkar ca sĩ hậu trường[3] và Bubu hề ở rạp xiếc phía sau khu Civil Lines... và cách tất yếu, từ quá trình nhảy-cóc-tâm-trí ấy, tôi khám phá ra chính trị.

      [3] Playback singer, ca sĩ chuyên thu giọng hát trong những bộ phim ca nhạc để diễn viên hát nhép theo.

      Lần này tôi là tay địa chủ ở Uttar Pradesh, mỡ bụng trùm lên dải rút quần khi ra lệnh cho nông nô châm lửa đốt ngũ cốc thừa... lần khác tôi chết đói ở Orissa, nơi vẫn thiếu lương thực như thường lệ: tôi hai tháng tuổi và mẹ tôi kiệt sữa. Tôi chiếm lĩnh, trong giây lát, tâm trí nhân viên đảng Quốc đại, đút lót ông giáo làng để ông ta đem uy tín ủng hộ cho đảng của Gandhi và Nehru tại chiến dịch tranh cử sắp tới; và cả suy nghĩ của nông dân Kerela người quyết định bầu cho đảng Cộng sản. Độ táo tợn của tôi tăng dần: buổi chiều nọ tôi cố ý xâm nhập vào đầu ngài Thủ hiến Bang, do vậy tôi phát ra, hơn hai mươi năm trước khi nó thành trò cười khắp nước, rằng Morarji Desai hằng ngày đều “uống nước của mình”... tôi ở trong ông ta, nếm thấy vị ấm khi ông ta ừng ực tu hết cốc nước tiểu sủi bọt. Và cuối cùng tôi đạt đến đỉnh cao: tôi hóa thành Jawaharhal Nehru, Thủ tướng và tác giả của bức thư lồng khung kính: tôi ngồi với con người vĩ đại ấy giữa đám chiêm tinh gia răng khuyết, râu xờm mà điều chỉnh Kế hoạch Năm Năm sao cho nó hài hòa với nhạc điệu của các vì tinh tú... đời sống thượng lưu là chuyện rất đau đầu. “Nhìn ta đây!” tôi hãnh diện trong im lặng. “Ta có thể bất cứ nơi nào ta muốn!” Ở tòa tháp nơi có lần từng chất đầy tận nóc thứ thuốc nổ của lòng thù hận của Joseph D’Costa, cụm từ này ( kèm hiệu ứng thanh tích tắc phù hợp) nảy ra hoàn chỉnh trong tâm trí tôi: “Ta là quả bom ở Bombay... xem ta nổ đây!”

      Vì trong tôi bỗng nảy sinh cảm giác rằng tôi bằng cách nào đó tạo ra thế giới; rằng những suy nghĩ mà tôi nhảy vào ấy chính là của tôi rằng những cơ thể tôi chiếm lĩnh hành động theo lệnh tôi; rằng, khi thời , nghệ thuật, thể thao, toàn bộ đa dạng phong phú của đài phát thanh hạng-nhất rót vào trong tôi, tôi bằng cách nào đó khiến chúng xảy ra... như thế để rằng, tôi lâm vào ảo tưởng của người nghệ sĩ, và xem hằng hà sa số vật tượng xứ sở này là thứ vật liệu thô chưa định hình của tài năng ở tôi. “Cái quái gì ta cũng tìm ra được!” tôi đắc thắng “Chẳng có gì là ta thể biết!”

      Hôm nay, với chiêm nghiệm từ những năm tháng qua, mất, tôi có thể rằng cái tinh thần vĩ đại hóa bản thân chiếm lĩnh tôi hồi ấy là phản xạ, sinh ra từ bản năng tự phòng vệ. Ví thử tôi tin rằng chính chính mình nắm quyền kiểm soát đám đông thác lũ ấy, tập hợp các bản thể đó hẳn hủy diệt bản thể của tôi... nhưng ở đó trong tháp đồng hồ của mình, ngập tràn tự mãn của cơn phấn khích, tôi hóa thành Sin, vị thần mặt trăng cổ đại (, phải của Ấn Độ: tôi du nhập ông ta từ miền Hadhramaut xa xưa), có năng lực hành-động-từ-xa và thay đổi thủy triều của thế giới.

      Nhưng cái chết, khi viếng thăm Điền trang Methwold, vẫn làm tôi bất ngờ.



      Mặc dù việc đóng băng tài sản kết thúc từ nhiều năm trước, vùng dưới thắt lưng của Ahmed Sinai vẫn tiếp tục lạnh như băng. Kể từ cái ngày ông kêu lên, “Bọn con hoang nhét hai hòn của tôi vào xô đá rồi!!”, và Amina ấp chúng vào tay để ủ ấm khiến ngón tay bà dính vào chúng vì lạnh, bộ phận sinh dục của ông chuyển sang ngủ đông, con ma mút trong khối băng, như con người ta tìm thấy ở Nga năm 56. Mẹ tôi Amina, người kết hôn để có con, cảm thấy từng sống chưa thành hình mục ruỗng trong tử cung bà và tự oán trách mình vì trở nên quyến rũ đối với chồng, vì đám mụn cóc rồi các thứ. Bà tâm về nỗi buồn này với Mary Pereira, nhưng người ayah chỉ bảo bà rằng chẳng thể tìm được niềm vui nào ở “bọn đàn ông”; họ vừa chuyện vừa cùng làm rau quả dầm, và Anima khuấy những thất vọng của bà vào món chutney chanh cay bao giờ thất bại trong việc làm người ăn trào nước mắt.

      Mặc dù giờ làm việc của Ahmed Sinai tràn ngập mơ tưởng về các nàng thư ký khỏa thân nhận lệnh, những viễn cảnh về các nàng Fernanda hay Poppy lại giữa phòng trong bộ trang phục ngày họ ra đời với vết ghế mây lằn ngang dọc mông, cái cơ quan kia của ông nhất định đáp ứng; và ngày, khi Fernanda hay Poppy ra về, ông chơi cờ cùng bác sĩ Narlikar, cái lưỡi (cũng như nước cờ của ông) bị các tửu tinh làm mềm ra, và ông vụng về thú nhận, “Narlikar, tôi có vẻ hết hứng thú với chuyện ấy rồi.”

      ánh vui mừng tỏa ra từ viên bác sĩ phụ khoa bừng sáng; gã cuồng hạn chế sinh đẻ trong con người viên bác sĩ da sậm, phát sáng nhào ra từ mắt ông ta và thốt nên bài diễn văn này: “Hoan hô!” Bác sĩ Narlikar kêu lên, “người em Sinai, phải thế chứ! – và, tôi xin phép, tôi – phải, và tôi, Sinai bhai, là những con người có phẩm giá tinh thần hiếm hoi! Những ô nhục hào hển của xác thịt dành cho chúng ta – há chẳng phải là điều tốt đẹp hơn sao, tôi hỏi , khi kiêng cữ sinh đẻ - khi tránh đưa thêm sinh linh khốn khổ nữa vào đám đông lúc nhúc ăn mày đất nước ta lúc này, thay vào đó, dồn sinh lực cho nhiệm vụ cho họ thêm đất để trú chân? Tôi hay, bạn ạ: và tôi và những khối tetrapod của ta: từ chính đại dương ta sản sinh ra đất!” Để thánh hóa bài diễn thuyết này, Ahmed Sinai lại rót rượu; cha tôi và Bác sĩ Narlikar nâng ly vì giấc mơ bê tông bốn chân của họ.

      “Đất, đúng! Tình, !” Bác sĩ Narlikar , giọng hơi run; cha tôi lại rót đầy cốc của mình.

      Cho đến những ngày cuối năm 1956, giấc mơ lấn biến với trợ giúp của hàng nghìn hàng nghìn khối tetrapod bê tông lớn – chính cái giấc mơ là căn nguyên gây ra vụ đóng băng – còn giờ đây là, với cha tôi, hình thức thay thế cho sinh hoạt tình dục mà hậu quả của cuộc đóng băng tước của ông – có vẻ thực sắp đơm hoa kết trái. Tuy nhiên, lần này, Ahmed Sinai thận trọng trong việc tiêu tiền; lần này ông giấu mặt sau hậu trường, và tên ông xuất giấy tờ nào; lần này, ông học được những bài học từ vụ đóng băng và quyết tâm gây chú ý về mình càng ít càng tốt; thế nên khi Bác sĩ Narlikar phản bội ông bằng cách lăn ra chết, để lại tài liệu gì về tham gia của cha tôi vào dự án tetrapod, Ahmed Sinai (người có xu hướng, như ta thấy, phản ứng tiêu cực trước tai họa) bị nuốt chửng vào miệng con rắn dài của suy sụp mà từ đó ông trỗi dậy được cho tới khi, vào những ngày cuối đời, ông rốt cuộc tìm thấy tình với vợ mình.



      Đây là câu chuyện đồn về đến Điền trang Methwold: Bác sĩ Narlikar đến thăm bạn gần Marine Drive; kết thúc chuyến thăm, ông quyết định thả bộ xuống Bãi biển Chowpatty làm đĩa bhel-puri và ít sữa dừa. thoăn thoắt dọc vỉa hè cạnh con đê biển, ông bắt kịp khúc đuôi đoàn diễu hành ngôn ngữ di chuyển chậm rãi, hát trong hòa bình. Bác sĩ Narlikar tới gần nơi, được cho phép của Hội đồng Thành phố, ông cho đặt khối tetrapod biểu trưng, độc nhất con đê biển, như hình thức biểu tượng chỉ đường đến tương lai; và ở đây ông để ý thấy chuyện khiến ông mất lý trí. toán phụ nữ ăn xin bu quanh khối tetrapod và làm lễ puja. Họ thắp đèn dầu dưới chân khối bê tông; người vẽ biểu tượng chữ Om lên đầu ngọn của nó; họ vừa cầu nguyện vừa tẩy rửa cho khối tetrapod cách kỹ lưỡng và thành kính. Điều kỳ diệu của công nghệ bị biến thành Shiva-linga; Bác sĩ Narlikar, địch thủ của sinh sản, điên dại lên trước cảnh tượng này, điều khiến ông cảm thấy như tất cả các lực lượng xa xưa đen tối cường dương của Ấn Độ cổ đại, phồn thực được giải phóng lên cái vẻ đẹp của bê tông vô sinh thế kỷ 20... xông thẳng đến, ông chửi rủa đám người hành lễ, tỏa sáng dữ dội trong cơn thịnh nộ; tới nơi, ông đá văng những ngọn đèn dia của họ; người ta kể ông còn toan đẩy họ. Và ông bị cặp mắt của những người diễu hành ngôn ngữ bắt gặp.

      Tai những người diễu hành ngôn ngữ nghe thấy tục tằn của lưỡi ông; chân những người diễu hành đứng lại, giọng họ cao lên phê phán. Những nắm đấm run lên; những tiếng chửi văng ra. Thế là ông bác sĩ tử tế, giận quá mất khôn, quay sang đám đông mà phỉ báng động cơ của họ, hậu duệ của họ, chị em của họ. Im lặng bao trùm và thực thi quyền lực của nó. Im lặng hướng những đôi chân người diễu hành về phía viên bác sĩ phụ khoa tỏa sáng, đứng giữa khối tetrapod và đám đàn bà rền rĩ. Trong im lặng những bàn tay diễu hành vươn tới Narlikar và trong câm nín ông bấu chặt khối bê tông bốn chân khi họ cố lôi ông về phía họ. Trong vô thanh tuyệt đối, cơn khiếp đảm cho Bác sĩ Narlikar sức mạnh của loài hà; tay ông dính chặt vào khổi tetrapod thể tách ra. Đám người diễu hành dồn sức lên khối tetrapod... trong lặng lẽ họ bắt đầu lắc nó; trong câm lặng sức mạnh của số đông áp đảo trọng lượng của nó. Trong buổi tối bị chế ngự bởi tĩnh lặng ma quỷ khối tetrapod nghiêng , chuẩn bị trở thành cá thể đầu tiên thuộc loại này hạ thủy và bắt đầu nghiệp lấn biển vĩ đại. Bác sĩ Suresh Narlikar, miệng há ra thành chữ A thành tiếng, bám vào nó như động vật thân mềm phát sáng... người và khối bê tông bốn chân rơi xuống tiếng động. Nước bắn lên phá tan ma thuật.

      Người ta bảo khi Bác sĩ Narlikar rơi xuống và bị nghiền chết dưới trọng lượng vật ám ảnh dấu của ông, ai gặp khó khăn gì để xác định vị trí thi thể bởi vì nó phát sáng lung linh xuyên qua làn nước như đống lửa.



      “Mày có biết chuyện gì ?” “Ê mày, vụ gì thế?” - bọn trẻ con, trong đó có tôi, tụ tập ngoài bờ rào khuôn viên Biệt thự Escorial, nơi có căn hộ độc thân của Bác sĩ Narlikar; và người hamal của gia đình Lila Sabarmati, lấy vẻ đau buồn trang trọng, thông báo với chúng tôi, “Họ đưa thi hài ông ấy về, liệm trong lụa.”

      Tôi được vào xem thi hài Bác sĩ Narlikar khi nó nằm bọc trong hoa nghệ chiếc giường đơn cứng; nhưng kiểu gì tôi cũng biết hết, bởi tin tức về nó lan xa khỏi phạm vi căn phòng của ông. Chủ yếu tôi nghe từ đám người hầu ở Điền trang, những người thấy rất tự nhiên khi công khai về cái chết, nhưng lại hiếm khi gì nhiều về cuộc sống, vì trong cuộc sống mọi thứ đều hiển nhiên. Từ chính người hầu của Bác sĩ Narlikar, tôi biết rằng cái xác, do nuốt lượng lớn nước biển, tiếp thu các đặc tính của nước: nó trở thành khối lỏng, và nhìn vui, buồn hay vô cảm còn tùy thuộc vào cách ánh sáng rọi vào nó. Người làm vườn nhà Homi Catrack cụt lủn : “Nhìn xác chết quá lâu rất nguy hiểm; hoặc ta hấp thu phần của nó vào người, rồi còn hậu quả nữa.” Tụi tôi hỏi: hậu quả? hậu quả gì? hậu quả nào? ra sao? Và Purushottam vị giả, lần đầu tiên trong nhiều năm rời vị trí dưới vòi nước ngoài Biệt thự Buckingham, bảo: “Xác chết khiến người sống nhìn thấy bản thân quá ràng; sau khi đối diện với nó, họ bị phóng đại lên.” Kết luận khác thường này, kỳ thực, xuất phát từ thực tế, bởi sau đấy, Bi-Appah bảo mẫu của Toxy Catrack, người giúp tắm rửa cho xác chết, trở nên the thé hơn, cáu bẳn hơn và đáng sợ hơn bao giờ hết; và hình như bất kỳ ai thấy xác Bác sĩ Narlikar trong thời gian nằm quan đều bị ảnh hưởng, Nussie Ibrahim trở nên ngu ngốc hơn và vịt hơn, và Lila Sabarmati, ở căn hộ đầu người chết và giúp dọn dẹp phòng ốc, kể từ đó nhượng bộ thói trăng hoa vốn luôn tiềm trong ta, và dấn thân vào con đường kết thúc bằng những viên đạn, và ông chồng Trung tá Hải quân Sabarmati điều khiển giao thông con đường Colaba bằng cây dùi cui bất thường nhất...

      Gia đình tôi, tuy nhiên, tránh xa xác chết. Cha tôi nhất định viếng và bao giờ nhắc đến tên người bạn quá cố, chỉ gọi ông ta là: “quân phản bội”.

      Hai ngày sau, khi báo đưa tin, Bác sĩ Narlikar đột nhiên có gia đình khổng lồ toàn họ hàng là phụ nữ. Suốt đời là người độc thân và thù ghét đàn bà, ông lại bị nhận chìm, khi chết, dưới biển các mụ đàn bà đồ sộ, rầm rĩ, bát diện oai phong, bò ra từ mọi ngóc ngách của thành phố, từ chân vắt sữa bò tại công ty Sản phẩm sữa Amul đến các phòng vé rạp phim, từ những quầy soda vỉa hè đến những cuộc hôn nhân hạnh phúc; vào năm của những cuộc tuần hành những người đàn bà nhà Narlikar hình thành đoàn diễu hành của riêng họ, dòng chảy vĩ đại của nữ tính ngoại cỡ đổ lên ngọn đồi hai tầng nhà chúng tôi để nhồi vào căn hộ Bác sĩ Narlikar chật ních đến nỗi từ dưới đường nhìn lên có thể thấy khuỷu tay họ nhô ra khỏi cửa sổ và mông họ tràn ra hiên nhà. Suốt tuần mọi người đều mất ngủ vì khí ngập tràn tiếng than khóc của đám đàn bà Narlikar; nhưng bên dưới gào rú ấy, họ chứng tỏ oai phong đúng như bề ngoài. Họ chiếm quyền quản lý Nhà Hộ sinh; họ điều tra mọi thỏa thuận làm ăn của Narlikar; và họ cắt cha tôi khỏi dự án tetrapod cách lạnh lùng hết mức. Sau ngần ấy năm, cha tôi chẳng còn lại gì ngoài cái lỗ ở túi áo, trong khi đám đàn bà đem xác Narlikar đến Banares để hỏa thiêu, và những người hầu ở Điền trang thào với tôi rằng họ nghe tro của ông Bác sĩ được rải xuống dòng sông Hằng linh thiêng ở bậc thềm M anikarnika lúc trời sẩm tối, nhưng chúng chìm, mà lềnh bềnh mặt nước như đàn đom đóm li ti, và bị cuốn trôi ra biển, nơi ánh sáng kỳ dị của chúng hẳn làm kinh sợ thuyền trưởng của những con tàu.

      Về phần Ahmed Sinai: tôi thề rằng từ sau cái chết của Narlikar và xuất của những người đàn bà, ông bắt đầu, theo nghĩa đen, phai màu... dần dần, da ông bợt ra, tóc ông mất màu, đến khi chỉ sau vài tháng ông trở nên trắng tuyệt đối, trừ màu sẫm của đôi mắt (Mary Pereira bảo Amina: “Ông ta lạnh lẽo từ trong máu; nên giờ da ông ấy mới đóng băng, băng trắng như tủ lạnh.”) Tôi phải , với tất cả thành thực, rằng mặc dù tỏ vẻ lo âu vì biến đổi của mình thành da trắng, rồi khám bác sĩ này kia, ông lại ngấm ngầm hài lòng khi họ giải thích nổi vấn đề hay kê được đơn thuốc, vì từ lâu ông ghen ti với phân bổ sắc tố của người châu Âu. hôm, khi được phép cười đùa trở lại, ( khoản thời gian tương đối qua từ cái chết của Bác sĩ Narlikar), ông bảo Lila Sabarmati vào giờ cocktail: “Ai ưu tú dưới da đều trắng cả; tôi chỉ là ngừng giả bộ đấy thôi.” Hàng xóm của ông, da ai nấy đều sẫm hơn, cười lịch và cảm thấy hổ thẹn cách lạ lùng.

      Chứng cứ gián tiếp cho thấy cú sốc về cái chết của Narlikar là nguyên nhân mang đến cho tôi ông bố bạch tuyết để đặt cạnh bà mẹ đen huyền; nhưng (mặc dù tôi biết quý vị sẵn sàng nuốt được bao nhiêu) tôi đánh bạo đưa ra cách giải thích khác, lý thuyết được phát triển trong riêng tư trừu tượng của ngôi tháp đồng hồ của tôi... bởi vì qua những cuộc du hành tâm linh thường xuyên của mình, tôi phát điều khá kỳ lạ: suốt chín năm đầu Độc lập, tượng rối loạn sắc tố tương tự (mà bệnh nhân đầu tiên được ghi nhận có lẽ là Quận chúa xứ Cooch Naheen) hành hạ phần giới doanh nhân cả nước. khắp Ấn Độ, tôi chạm mặt nhiều doanh nhân người Ấn thành đạt, họ phát tài nhờ Kế hoạch Năm Năm lần , vốn tập trung xây dựng ngành thương nghiệp... những người hoặc trở nên rất, rất đỗi nhợt nhạt! Dường như những nỗ lực phi thường (thậm chí dũng) của việc tiếp quản từ người và trở thành chủ nhân vận mệnh của chính mình vắt kiệt màu sắc má họ... trong trường hợp này, có lẽ cha tôi là nạn nhân muộn màng của tượng phổ biến, tuy mấy ai chú ý. Giới doanh nhân Ấn Độ ngả trắng.

      Như vậy là đủ cho ngày nghiền ngẫm. Nhưng Evelyn Lilith Burns sắp tới; Pionee Café gần đến đau lòng và – thiết yếu hơn – những đứa trẻ khác của nửa đêm, trong đó có Shiva bản thể đối lập của tôi, với đôi đầu gối chết chóc, thúc ép dữ dội. Sớm thôi, những vết nứt đủ rộng để chúng thoát ra...

      Nhân tiện: đâu đó vào cuối năm 1956, có nhiều khả năng là hát rong kiêm người chồng mọc sừng Wee Willie Winkie cũng qua đời.

    5. banglangtrang123

      banglangtrang123 Well-Known Member Staff Member Super Moderator

      Bài viết:
      26,213
      Được thích:
      47,825
      Chương 13: Tình ở Bombay




      Rong Ramzàn, tháng nhịn ăn, chúng tôi xem phim đều đặn hết mức có thể. Sau khi bị lay tỉnh lúc năm giờ sáng dưới bàn tay cần mẫn của mẹ tôi; sau bữa sáng trước bình minh với dưa hấu và nước chanh đường, và đặc biệt vào hằng sáng Chủ nhật, con Khỉ Đồng và tôi luân phiên (hoặc đôi khi đồng thanh) nhắc nhở Amina: “Buổi chiều mười rưỡi sáng! Hôm nay là ngày Metro Cub Club[1], Amma, mààà!” Sau đó là chuyến chiếc Rover đến rạp chiếu bóng nơi chúng tôi chẳng được chén Coca-Cola hay khoai tây chiên, kem Kwality hay samosa bọc trong giấy nhờn mỡ; nhưng ít nhất ở đó cũng có điều hòa, rồi phù hiệu Cub Club gắn quần áo, rồi các cuộc thi, rồi tuyên bố sinh nhật do người dẫn chương trình có hàng ria thưa thực ; và rốt cuộc, bộ phim, sau phần trailer với lời thiệu “Bom Tấn Tiếp Theo” hay “Sắp Khởi Chiếu”, rồi phim hoạt hình (“Sắp Đến Rồi, Bộ Phim Lớn, Nhưng Trước Hết...!”): Quentin Durward, có thể, Scaramouche. “Táo tợn!” bọn tôi bảo nhau khi hết phim, vào vai nhà phê bình; rồi, “ phim giải trí om sòm, tục tĩu!” – dù cả bọn chẳng biết thế nào là táo tợn với tục tĩu. Gia đình tôi siêng cầu nguyện lắm (trừ dịp Eid-ul-Fltr[2], khi cha tôi đưa tôi đến nhà thờ vào thứ Sáu để đón ngày lễ bằng cách thắt mùi soa quanh đầu tôi rồi gí trán tôi xuống đất) ... nhưng bọn tôi luôn sẵn lòng nhịn ăn, vì mê rạp chiếu bóng.

      [1] Metro là rạp chiếu phim lớn ở Bombay, ra đời năm 1938, có chính sách chiếu phim ưu đãi vào cuối tuần dành cho trẻ em (Cub Club có nghĩa là Câu lạc bộ Thiếu Nhi).

      [2] Kỳ lễ kéo dài ba ngày, kết thúc tháng ăn chay Ramadan.

      Evie Burns và tôi cùng nhất trí: ngôi sao điện ảnh vĩ đại nhất thế giới là Robert Taylor. Tôi thích Jay Silverheels trong vai Tonto; nhưng kenmo-sabay[3] của , Clayton Moore, theo ý tôi, quá béo để vào vai chàng Kỵ sĩ Độc hành.

      [3] Biệt danh Tonto dùng để gọi chàng Kỵ sĩ Độc hành.

      Evelyn Lilith Burns đến vào ngày đầu năm mới, 1957, cùng ông bố góa vợ của nàng dọn đến căn hộ ở trong hai tòa nhà bê tông chè bè, xấu xí mọc lên, mà hầu như ai để ý, ở mặt thấp hơn của ngọn đồi nhà tôi, và được phân chia cách kỳ lạ: người Mỹ và những người ngoại quốc khác sống (như Evie) ở Noor Ville; những câu chuyện thành công của người Ấn mới phất kết thúc ở Laxmi Vilas. Từ độ cao của Điền trang Methwold, chúng tôi trông xuống tất cả bọn họ, da trắng cũng như da nâu; nhưng chưa ai dám trông xuống Evie Burns – trừ lần. Chỉ duy nhất lần có người được leo lên nàng.

      Trước khi tôi xỏ vào chân chiếc quần dài đầu đời, tôi phải lòng Evie; nhưng tình , năm ấy, là điều kỳ lạ, phản ứng dây chuyền. Để tiết kiệm thời gian, tôi đặt cả bọn lên cùng hàng ghế trong rạp Metro; Robert Taylor được phản chiếu trong mắt bọn tôi khi cả bọn ngồi trong cơn đê mê chớp bóng – và theo thứ tự mang tính biểu tượng: Saleem Sinai ngồi-bên-cạnh-và-đem-lòng- Evie Burns người ngồi-bên-cạnh-và-đem-lòng- Sonny Ibrahim người ngồi-bên-cạnh-và-đem-lòng- con Khỉ Đồng người ngồi bên cạnh lối đói muốn chết... Tôi Evie trong khoảng sáu tháng cuộc đời mình; hai năm sau, nàng trở về Mỹ, cầm dao đâm bà già và bị gửi vào trường giáo dưỡng.

      bày tỏ ngắn gọn lòng biết ơn của tôi ở thời điểm này là thích hợp: nếu Evie đến sống giữa chúng tôi, câu chuyện đời tôi có lẽ chẳng bao giờ vượt khỏi những chuyến-du-lịch-trong-tháp-đồng-hồ và ăn gian ở lớp... và có cao trào ở nhà trọ cho góa phụ, có bằng chứng ràng về ý nghĩa của tôi, có hồi kết tại nhà máy nức mùi nơi có ngự trị của hình hài nhảy múa nhấp nháy, màu nghệ-và-lục của nữ thần Mumbadevi bằng đèn neon. Nhưng Evie Burns (nàng là rắn hay thang? Câu trả lời quá hiến nhiên: cả hai) đến, hoàn mỹ với chiếc xe đạp màu bạc giúp tôi chỉ khám phá ra những đứa trẻ nửa đêm, mà còn đảm bảo việc chia cắt Bombay thành thực.

      Để bắt đầu với buổi đầu: tóc nàng làm bằng rơm nhồi bù nhìn, da nàng rắc rải đầy tàn nhang và răng nàng ngụ trong lồng kim loại. Hàm răng này dường như là thứ duy nhất trái đất mà trước nó nàng bất lực – chúng mọc bừa bãi, chen chúc chồng lấn nhau cách hiểm ác, làm nàng đau ghê gớm mỗi khi ăn kem (tôi tự cho phép mình khái quát vấn đề: người Mỹ làm chủ vũ trụ, nhưng lại thể kiểm soát được miệng mình; trong khi đó Ấn Độ bất lực, nhưng những đứa con của nó lại có xu hướng sở hữu hàm răng hoàn hảo).

      Bị chứng nhức răng hành hạ, Evie của tôi hào hùng vượt lên khỏi cơn đau. Từ chối thần phục trước xương và lợi, nàng ăn bánh và uống Coca mỗi khi nhức răng; và lần ca thán. đứa trẻ cứng cỏi, Evie Burns: cuộc chế phục nỗi đau đớn khẳng định quyền uy của nàng với tất cả chúng tôi. Người ta tổng kết rằng mọi người Mỹ đều cần biên giới: đau đớn là biên giới của nàng, và nàng quyết tâm mở rộng nó.

      Có lần, tôi bẽn lẽn đưa cho nàng vòng hoa đeo cổ (bà-hoàng-của-đêm[4] cho Lily-of-the-eve[5] của tôi), mua từ bà hàng rong Scandal Point bằng tiền tiêu vặt của tôi. “Đây đeo hoa,” Evelyn Lilith , và tung chuỗi hoa bị hắt hủi lên trời, xé toạt nó trước khi rơi xuống bằng viên đạn từ khẩu súng hơi Daisy bách phát bách trúng của nàng. Tàn hủy hoa bằng khẩu Daisy[6],nàng chính thức tuyên cáo rằng nàng bao giờ chịu xiềng xích, dù chỉ bởi vòng hoa: nàng là lily-of-the-eve[7] đồng bóng quay cuồng của chúng tôi. Là Eva nữa. Trái táo của Adam trong mắt tôi[8].

      [4] tên gọi của hoa dạ hương, vốn rất phổ biến ở vùng Tây Ấn.

      [5] Hoa dạ bách hợp. Rushdie chơi chữ: Evie đọc gần giống eve, Lilith đọc gần giống Lily.

      [6] Nghĩa là hoa cúc.

      [7] Lill (Lilith) của ngọn Đồi (nơi tọa lạc của Điền trang Methwold).

      [8] Rushdie chơi chữ: trái táo của Adam liên hệ đến câu chuyện trái cấm trong Kinh Thánh. Đồng thời apple of one’s eyes trong tiếng có nghĩa là niềm kiêu hãnh tình của ai đó.

      Nàng xuất ra sao: Sonny Ibrahim, Mắt Chẻ và Tóc Dầu Sabarmati, Cyrus Dubash, con Khỉ Đồng và tôi chơi cricket Pháp tại vòng xuyến giữa bốn tòa cung điện của Methwold. Cuộc chơi Đầu Năm Mới: Toxy vỗ tay cửa sổ có chấn song; ngay cả Bi-Appah cũng vui vẻ và, lần, rủa xả bọn tôi. Cricket – kể cả cricket kiểu Pháp, và kể cả do trẻ con chơi – vẫn là trò chơi lặng lẽ: hòa bình xức dầu lanh. Tiếng da và gỗ liễu chạm nhau; tiếng vỗ tay lác đác; tiếng thét thi thoảng[9] - “Ném! Ném , thưa ngài!” – “ seo??” Nhưng nàng Evie cưỡi xe đạp tiêu hóa được mấy thứ đó.

      [9] Da và gỗ liễu: quả bóng chơi cricket khâu bằng da, còn cây gậy làm bằng gỗ liễu.

      “Ê, mày! Kẻ lũ chúng mày! Ê lèmseothếhử? Bọn mày điếc rồi à?”

      Tôi vụt bóng (phong nhã như Ranji, dũng mãnh như Vinoo Mankad) khi nàng phóng lên đồi chiếc xe hai bánh, tóc rơm tung bay, tàn nhang rực cháy, niềng răng nhấp nháy những thông điệp dạng tín hiệu đèn dưới ánh mặt trời, con bù nhìn cưỡi viên đạn bạc... “Ê, đồ thò lò mũi xeng! Đừng xem quả bóng ngu ngấc ấy nữa, đồ hãm tài! Để tao cho mài xem cái đáng xem!”

      thể khắc họa Evie Burns mà vẽ nên chiếc xe đạp; và phải bất cứ chiếc xe hai bánh nào, mà là chiếc cuối cùng của dòng xe cổ trứ danh, chiếc Arjuna Indiabike mới coóng, tay lái kiểu xe đua quấn băng, năm tầng líp và yên bọc vải giả da báo. Và khung xe màu bạc (màu, tôi khỏi cần nhắc quý vị, con chiến mã của Kỵ sĩ Độc hành)... Mắt Chẻ nhếch nhác và Tóc Dầu chỉnh chu, Cyrus thần đồng và Khỉ Đồng, Sonny Ibrahim và tôi – lũ bạn chí cốt, những đứa con đích thực của Điền trang, những kẻ kế thừa hợp pháp từ khi ra đời của nó – Sonny với nết ngây thơ chậm chạp vốn có từ khi kẹp forcep bóp lõm não nó và tôi với hiểu biết bí mật đầy nguy hiểm của mình – phải, tất cả bọn tôi, võ sĩ đấu bò và đô đốc hải quân tương lai này nọ, đứng đờ ra, mắt chữ o mồm chữ a khi Evie Burns bắt đầu đạp xe, nhanhnữanhanhnữanhanhnữa chạy quanh chạy quanh vòng xuyến. “Nhìn đây nè: xem tao đây, lũ quê mùa!”

      Hết lên lại xuống cái yên da báo, Evie biễu diễn. chân yên, chân vươn ra sau, nàng lượn quanh bọn tôi; nàng tăng tốc rồi chồng cây chuối yên! Nàng có thể cưỡi lên bánh trước, mặt quay ra sau, và đạp pêđan ngược... trọng lực là nô lệ, tốc độ và môi trường của nàng, và chúng tôi biết quyền lực giáng hạ giữa chúng tôi, ma nữ bánh xe, và hoa bờ giậu rắc cánh lên nàng, bụi trong vòng xuyến trỗi dậy thành những đám mây hoan hô, bởi vì vòng xuyến cũng tìm thấy nữ chủ nhân của mình: nó là tấm toan dưới nét cọ của hai bánh xe quay tít của nàng.

      Lúc này cả lũ nhận ra nàng nữ kiệt của chúng tôi giắt cây súng hơi Daisy bên hông phải... “Chưa hết đâu, lũ vô dụng!” nàng hét lên, và rút súng ra. Đạn của nàng ban cho đá khả năng bay; chúng tôi liệng từng đồng anna lên và nàng bắn hạ chúng, chết cứng. “Mục tiêu! Thêm mục tiêu!” và Mắt Chẻ hy sinh bộ bài rummy dấu lời oán thán, để nàng có thể bắn rụng đầu những quân vua. Annie Oakley[10] đeo niềng răng – ai dám nghi ngờ tài thiện xạ của nàng, trừ lần, và đó là lúc mà triều đại của nàng kết thúc, trong cuộc đại xâm lược của loài mèo; và còn có những tình tiết giảm .

      [10] nhân vật có của miền Viễn Tây, nổi tiếng về tài thiện xạ.

      Mặt đỏ bừng, mồ hôi vã ra, Evie Burns xuống xe và tuyên bố: “Từ giờ trở , ở đây có thủ lĩnh mới. Được chứ, các chàng Indian? Có ý kiến gì ?”

      có ý kiến gì; lúc ấy, tôi biết là mình .

      Ở bãi biến Juhu cùng Evie: nàng thắng cuộc đua lạc đà, uống được nhiều sữa dừa nhất trong cả bọn tôi, mở được mắt dưới làn nước mặn cay sè của Biển Ả Rập.

      Lẽ nào sáu tháng lại tạo ra khác biệt lớn thế? (Evie lớn hơn tôi nửa tuổi). Lẽ nào nó cho phép ta chuyện bằng vai phải lứa với người lớn? Người ta thấy Evie tán gẫu với ông lão Ibrahim Ibrahim; nàng bảo Lila Sabarmati dạy nàng trang điểm; nàng đến thăm Homi Catrack để tán gẫu về súng ống. ( điều trớ trêu đầy bi kịch trong đời Homi Catrack là ông ta, người ngày bị súng chĩa vào, lại là kẻ đam mê súng ống đích thực... Ở Evie, ông ta thấy đồng bạn, đứa trẻ mẹ, như Toxy nhà ông, mà sắc sảo như dao và sáng láng như chai. Rất tình cờ, Evie phí chút thông cảm nào dành cho Toxy Catrack tội nghiệp. “Đầu có vấn đề,” nàng hờ hững nhận xét, “Nên bị trừ bỏ như chuột.” Nhưng Evie: chuột hề yếu! Mặt em toát lên nét của loài gặm nhấm còn nhiều hơn là từ cả người của con bé Tox bị em khinh miệt.

      Đó là Evelyn Lilith; và chỉ vài tuần từ khi nàng đến, tôi kích phát phản ứng dây chuyền mà rồi tôi bao giờ hồi phục hoàn toàn từ hệ quả của nó.

      Nó bắt đầu từ Sonny Ibrahim, Sonny-nhà-bên, Sonny đầu bẹp forcep, thằng kiên nhẫn ngồi trong cánh gà câu chuyện của tôi, đợi đến lượt mình. Hồi đó, Sonny là đứa suốt ngày bầm tím: chỉ forcep làm lõm nó. con Khỉ Đồng (mặc dù theo nghĩa lên-chín-tuổi của từ này) hề là chuyện dễ dàng.

      Như , em tôi, sinh sau và được tung hô, bắt đầu phản ứng dữ dội trước mọi lời tuyên bố đương. Dù rằng nó được cho là biết tiếng chim và mèo, nhưng những lời êm ấm của người tình chỉ khơi dậy trong nó cơn hung bạo gần như dã thú; nhưng Sonny quá thà để biết sợ mà tránh. mấy tháng nay, nó quấy rầy con bé bằng những tuyên bố như, “Em Saleem, ấy là mẫu người rất được đấy!” hay, “Nghe này, ấy có muốn làm bạn tớ ? Ta có thể xem phim cùng ayah của ấy, có thể...” Và cũng trong ngần ấy tháng, nó buộc thằng bé lãnh đủ vì tình của mình – đặt điều với mẹ thằng bé; đẩy nó vào vũng bùn cách vô-tình-có-chủ-ý; lần còn tấn công nó, để lại những vết cào dài bằng móng tay và vẻ tổn thương của con chó ốm trong mắt cu cậu; nhưng cu cậu vẫn khôn ra. Thế là, cuối cùng, con bé mưu cú báo thù ghê gớm nhất.

      Con Khỉ Đồng học trường nữ sinh Walsingham Đường Biển Nepean; ngôi trường toàn người Âu cao lớn, cơ bắp cực kỳ, bơi như cá và lặn như tàu ngầm. Vào giờ nghỉ, tôi có thể thấy họ từ cửa số phòng ngủ của mình, họ nô giỡn trong cái bể bơi hình bản đồ của Câu lạc bộ Breach Candy, nơi chúng tôi bị, dĩ nhiên, cấm cửa... và khi tôi phát ra con Khỉ Đồng biết vì sao gắn bó với đám vận động viên bơi cách biệt thiên hạ ấy, như kiểu linh vật, có lẽ lần đầu tiên trong đời tôi thực thấy ấm ức với nó... nhưng có tranh cãi với nó cũng chẳng để làm gì; nó cứ đường nó. Lũ con da trắng đô con mười lăm tuổi cho nó ngồi cùng chiếc xe buýt của trường Walsingham. Ba đứa như thế đợi nó mỗi sáng tại đúng nơi Sonny, Mắt Chẻ, Tóc Dầu, Cyrus đại đế và tôi chờ xe buýt của trường Cathedral.

      sáng nọ, vì lý do gì đấy tôi quên rồi, chỉ có Sonny và tôi là hai đứa con trai ở bến xe buýt. Hình như lúc ấy có dịch ốm hay sao đó. Con Khỉ Đồng chờ đến khi Mary Pereira ra về để bọn tôi lại, dưới săn sóc của đám vận động viên bơi đô con; và rồi bỗng nhiên của điều nó mưu tính lóe lên trong đầu tôi khi, vì lý do cụ thể, tôi bắt vào suy nghĩ của nó; và tôi hét lên: “Này!” – nhưng quá muộn. Con Khi Đồng rít lên, “ đừng có dính vào!”, thế rồi nó và ba đứa vận động viên bơi đô con nhảy bổ vào Sonny Ibrahim, đám vô gia cư và ăn mày và thư ký đạp xe đứng xem với vẻ thích thú công khai, bởi bọn nó xé từng mảnh quần áo khỏi người thằng bé... “Mẹ kiếp, mày cứ trơ mắt ra nhìn thế à?” Sonny kêu cứu, nhưng tôi bị bất động, làm sao tôi có thể chọn phe giữa em và thằng bạn chí cốt, và nó, “Tao mách bố tao!”, giọng đầy nước mắt, trong khi con Khỉ “Cho mày chừa thói năng bố láo - cho mày chừa nhé,” giày nó, văng mất; sơ mi còn nữa; áo vét, bị đứa vận động viên nhảy cầu giật ra, “Cho mày chừa trò viết thư tình ướt át”, giờ tất cũng chẳng còn, và nước mắt giàn giụa, và “Kìa!”, con Khỉ kêu lên; chiếc xe buýt trường Walsingham chạy tới và những kẻ tấn công cùng em tôi nhảy lên phóng , “Ta-ta-ba-ta, đồ tình lang!” chúng ré lên, và Sonny bị bỏ lại giữa đường, ở vỉa hè đối diện hiệu Chimalker và Thiên Đường của Độc giả, trần truồng như ngày mới lọt lòng; hõm forcep lấp loáng như hai hốc nước đá, vì Vaseline từ tóc chảy xuống; và mắt nó cũng ướt đẫm, khi nó mếu máo, “Vì sao nó lại làm thế hở mày? Vì sao, tao chỉ rằng tao thích...”

      “Tao chịu,” tôi , biết nhìn đâu, “Nó cứ thế đấy.” Và cũng hề biết rằng, ngày nó đối xử với tôi còn tồi tệ hơn.

      Nhưng đó là chín năm sau... trong khi đấy, đầu 1957, các chiến dịch tranh cử bắt đầu: phe Jan Sangh vận động xây nhà nghỉ dưỡng cho bò thiêng về già; ở Kerala, E.M.S. Namboodiripad hứa hẹn rằng Chủ nghĩa Cộng sản đem đến cái ăn việc làm cho mọi người; ở Madras, đảng Anna-D.M.K. của C.N. Annadurai thổi bùng lên ngọi lửa của chủ nghĩa vùng miền; đảng Quốc đại phản công bằng các cải cách như Luật thừa tự Hindu, cho phụ nữ Hindu có quyền thừa kế bình đẳng... tóm lại, mọi người đều mải mê cầu xin cho mục đích của mình; tôi, tuy thế, bị cứng lưỡi trước mặt Evie Burns, và phải tìm đến Sonny Ibrahim để nhờ nó ra mặt cầu xin giúp tôi.

      Ở Ấn Độ, chúng tôi luôn dễ tổn thương trước người Âu... Evie mới chỉ ở cùng bọn tôi có mấy tuần, vậy mà chưa gì tôi bị hút vào trò mô phỏng kỳ cục văn học châu Âu[11] (chúng tôi học Cyrano, dạng giản lược, ở trường; tôi cũng đọc sách tranh Tác phẩm kinh điển có Minh họa.) Có lẽ có gì quá đáng khi bảo rằng châu Âu lặp lại chính mình, ở Ấn Độ, dưới dạng hí kịch... Evie là người Mỹ. Cũng thế thôi.

      [11] Trong vở kịch Cyrano de Bergerac, nhân vật chính (Cyrano) được người bạn nhờ tỏ tình hộ với trong khi chính Cyrano cũng đem lòng đó. Tình cảnh của Sonny và Saleem cũng vậy.

      “Ơ kìa, ông bạn, thế công bằng, sao mày tự ?”

      “Nghe này, Sonny,” tôi nài nỉ, “mày là bạn tao, đúng ?”

      “Đúng, nhưng mày có thèm giúp...”

      “Nó là em tao, Sonny, làm sao tao có thể?”

      , cho mày tự mà làm cái trò bẩn...”

      “Này, Sonny, ông bạn, nghĩ xem. Nghĩ thôi. Với bọn con cần phải khéo léo, hả. Mày thấy con Khỉ nổi cơn tam bành rồi đấy. Mày có kinh nghiệm rồi, ờ, mày kinh qua chuyện đó. Lần này mày biết phải nhàng ra sao. Tao biết gì đâu, ông bạn? Khéo nó còn chả thích tao tẹo nào. Hay mày muốn tao bị xé rách hết quần áo? Như thế làm mày hả dạ?”

      Và thằng Sonny ngây thơ, tốt tính, “...Ờ, ...”

      “Thế được rồi. Mày . Ca tụng tao tí. Bảo đừng để ý đến mũi tao. Tính cách mới là quan trọng. Mày làm được chứ?”

      “...Ừừừừmmm... tao... thôi được, nhưng mày cũng phải với em mày nữa, hả?”

      “Tao , Sonny. Tao biết hứa gì bây giờ. Mày biết tính nó rồi đấy. Nhưng nhất định tao .”

      Quý vị có thể bào binh bố trận kỹ lưỡng bao nhiêu tùy ý, nhưng đàn bà chỉ cần nhấc tay cái thôi là hủy sạch luôn. Bao nhiêu chiến dịch tranh cử thắng lợi, có gấp đôi chỗ ấy thất bại... từ hiên Biệt thự Buckingham, qua khe nan của tấm mành sáo, tôi theo dõi Sonny Ibrahim vận động đối tượng bầu cử tôi lựa chọn... và tôi nghe thấy tiếng cử tri, cái giọng mũi lên cao của Evie Burns, rạch nát khí bằng vẻ khinh miệt: “Ai? á? Seo cậu biểu nó mà xì mũi ? Thằng cả khịt ấy? Mỗi xe đạp mà cũng biết!”

      Quả có thế .

      còn tồi tệ hơn thế; bởi vì lúc này (dù tấm mành chia cảnh tượng ra thành từng khe hẹp) tôi có thấy nét mặt Evie bắt đầu dịu lại và thay đổi? – Evie có đưa tay (bị tấm mành chẻ theo chiều dọc) về phía nhân viên vận động tranh cử của tôi? – và các ngón tay của Evie (móng bị cắt cụt lủn) có chạm vào hai lõm thái dương Sonny, đầu ngón tay phủ lớp Vaseline rỏ xuống? và Evie có hay bảo rằng: “Còn cậu, như cậu đây này, cậu rất đáng ”? Tôi xin buồn bã xác nhận rằng tôi có; nó có; chúng có; nàng có.

      Saleem Sinai mê Evie Burns; Evie Sonny Ibrahim; Sonny phát cuồng lên vì con Khỉ Đồng; nhưng con Khỉ sao?

      “Đừng làm em buồn nôn, Allah,” con bé bảo khi tôi cố gắng – khá cao thượng, nếu xét đến cái cách nó phụ tôi – bào chữa cho trường hợp của Sonny. Các cử tri phủ quyết cả hai chúng tôi.



      Tôi vẫn chưa bỏ cuộc. Những cám dỗ mị từ Evie Burns – mà tôi phải thừa nhận là chả bao giờ để ý đến tôi – dẫn tôi đến cú ngã bất khả kháng. (Nhưng tôi giận gì nàng; vì cú ngã lại dẫn đến trỗi dậy.)

      Trong bí mật, ở tháp đồng hồ của mình, tôi tạm dừng những cuộc lang thang xuyên tiểu lục địa để cân nhắc việc tán tỉnh nàng Eve tàn nhang. “Quên trò mai mối ,” tôi tự khuyên mình, “việc này cậu phải tự làm.” Cuối cùng, tôi lên kế hoạch: tôi phải chia sẻ những quan tâm của nàng, phải biến đam mê của nàng thành của tôi... súng ống chưa bao giờ hấp dẫn tôi. Tôi bèn hạ quyết tâm học xe đạp.

      Evie, ngày ấy, nhượng bộ trước nhiều đề nghị của bọn trẻ đồi xin nàng dạy nghệ-thuật-đạp-xe; thế nên việc tôi phải làm chỉ đơn giản là xếp hàng theo học. Chúng tôi tề tựu giữa vòng xuyến. Evie, nữ chủ nhân tối cao của vòng xuyến, đứng giữa năm đứa nhóc đạp xe lẩy bẩy, tập trung cao độ... trong khi tôi đứng bên nàng, xe đạp. Cho đến khi Evie xuất , tôi chưa tỏ ra hứng thú với xe đạp bao giờ, nên chẳng ai mua cho tôi cái... khiêm nhường, tôi cam chịu đòn roi từ cái lưỡi của Evie.

      “Mày sống ở xó nào thế hả, mũi bự? Tính mượn xe tao sao?”

      ,” tôi dối với vẻ biết lỗi, và nàng dịu lại. “Thôi được, thôi được,” Evie nhún vai, “Lên yên , để xiem trình mày đến đâu nào.”

      Tôi xin tiết lộ ngay rằng, khi cưỡi lên chiếc Arjuna Indiabike bạc, lòng tôi ngập tràn cơn phấn khích thuần khiết nhất; rằng, khi Evie vòng vòng, tay giữ ghi đông xe, than thở, “Thăng bằng chưa? Chưa à? Giờii, mất thời gian quá!” – khi Evie và tôi sánh đôi cùng bước, tôi thấy... sao nhỉ... hân hoan...

      Vòngnàyrồivòngkhác... Cuối cùng, để nàng đẹp ý, tôi lắp bắp, “Được rồi... tớ nghĩ là tớ... để tớ,” và lập tức tôi còn lại mình xe, nàng ban cho tôi cú đẩy tiễn biệt, và sinh vật màu bạc ấy lấp lánh phóng qua vòng xuyến sao điều khiển được... Tôi nghe nàng hét to: “Cái phanh! Bóp cái phanh chết tiệt , đồ nhà quê!” – nhưng tay tôi cử động được, người tôi đờ ra như khúc gỗ, và kìa COI CHỪNG trước mặt là hai chiếc bánh màu xanh của Sonny Imbrahim, đường va chạm, TRÁNH RA ĐỒ ĐIÊN, Sonny yên, cố chuyển hướng và tránh, nhưng màu xanh vẫn lao về phía sắc bạc, Sonny đánh lái phải nhưng tôi cũng hướng ấy UIIIIDA XE CỦA TAO và bánh bạc chạm bánh xanh, khung hôn khung, tôi bay lên qua ghi đông về phía Sonny trong khi nó cũng theo đường cong đồng dạng bay về phía tôi RẦM xe đạp đổ xuống đất bên dưới bọn tôi, khóa chặt nhau trong vòng tay thắm thiết RẦM lơ lửng giữa trung Sonny và tôi gặp nhau, đầu nó chào đón đầu tôi.. Hơn chín năm trước tôi chào đời với hai thái dương lồi, và Sonny được forcep ban cho hai hốc lõm; tất cả dường như đều có lý do của nó, vì lúc này thái dương lồi của tôi tìm thấy đường vào hốc lõm của Sonny. Vừa như in. Đầu lắp khít vào nhau, chúng tôi bắt đầu trở lại mặt đất, may mắn thay rơi trúng hai chiếc xe, SẦMM trong chốc lát cả thế gian biến mất.

      Rồi Evie và đám tàn nhang của nàng bốc hỏa, “Giời ơi thằng đần kia, đống cứt mũi kia, mày làm hỏng xe t...” Nhưng tôi nghe gì hết, bởi tai nạn trong vòng xuyến hoàn thành điều mà tai họa trong tủ giặt bắt đầu, và chúng ở đó trong đầu tôi, giờ lên phía trước, còn là thanh yếu ớt ở hậu trường tôi chưa từng nhận thấy, tất cả bọn chúng, phát tín hiệu tôi-ở-đây của mình, từ Đông Tây Nam Bắc... những đứa trẻ khác chào đời vào thời khắc nửa đêm ấy, gọi vang: “Tôi”, “Tôi”, “Tôi” và “Tôi”.

      “Này! Này, đầu cứt mũi! Mày có sao ?... Này, mẹ nó đâu rồi?”



      Gián đoan, lúc nào cũng gián đoạn! Các phần khác nhau của cuộc đời có phần phức tạp của tôi, với thái độ ương ngạnh hoàn toàn vô lý, từ chối yên vị trong từng ngăn riêng rẽ. Những giọng tràn ra khỏi tháp đồng hồ của chúng để xâm chiếm vòng xuyến, nơi đáng lẽ là lãnh địa của Evie... và giờ, chính vào thời điểm lẽ ra tôi phải miêu tả những đứa trẻ phi thường của tiếng tích tắc, tôi lại bị chuyến tàu Frontier Mail giằng ra – lôi biến vào thế giới mục nát của ông bà tôi, vậy là Aadam Aziz lại chen ngang vào lúc câu chuyện của tôi hé mở tự nhiên. Đành vậy. Cái gì chữa được phải chịu thôi.

      Tháng năm ấy, trong quá trình tôi hồi phục từ cú sang chấn nghiêm trọng sau vụ tai nạn xe đạp, bố mẹ đưa chúng tôi đến Agra dự cuộc đoàn tụ gia đình mà sau đó hóa ra còn tồi tệ hơn vụ Lỗ đen Calcutta đầy tai tiếng (và có thể là hư cấu)[12]. Suốt hai tuần chúng tôi buộc phải nghe Emerald với Zulfikar ( lên Thiếu tướng nhưng cứ đòi được gọi là Đại tướng) khoe quan hệ và bóng gió về giàu sang ghê gớm của họ, nay leo lên thứ bảy trong các gia sản tư nhân lớn nhất Pakistan; thằng Zafar nhà đấy toan (nhưng chỉ đúng lần!) giật cái đuôi sam đỏ nhạt dần của con Khỉ. Và chúng tôi buộc phải chứng kiến trong khiếp đảm câm lặng, cảnh chú Công chức Nhà nước Mustapha và bà vợ lai Iran Sonia đánh và quật lũ ranh con tên tuổi giới tính nhà ấy đến mức ai nhận ra; và cái mùi vị cay nghiệt từ phận già của Alia ngập trong khí làm hỏng hết đồ ăn; và cha tôi rút lui sớm để bắt đầu cuộc chiến ban đêm bí mật chống lại các tửu tinh; và còn tồi tệ hơn nữa, hơn nữa, hơn nữa.

      [12] nhà tù ở Pháo đài William, Calcutta. Theo số tư liệu lịch sử, năm 1756, Thống đốc Belgal giam giữ số tù nhân chiến tranh người ở đây, dẫn đến cái chết của nhiều người trong số họ.

      đêm tôi tỉnh dậy đúng mười hai giờ đêm và thấy giấc mơ của ông ngoại ở trong đầu tôi, và vì thế thể tránh khỏi nhìn ông theo cách ông nhìn nhận bản thân – ông già lụ khụ mà ở giữa cơ thể, khi ánh sáng thích hợp, có thể thấy cái bóng khổng lồ. Khi niềm tin tiếp cho tuổi trẻ của ông sức mạnh khô kiệt dần dưới tác động tổng hợp của tuổi già, Mẹ Bề thiếu vắng bạn bè chung chí hướng, cái lỗ cũ tái xuất chính giữa người ông, biến ông thành ông già dăn deo, trống rỗng như bao ông già khác, nơi Chúa (và các mê tín khác) mà ông đối đầu bấy lâu nay bắt đầu tái lập thống trị của Người... trong khi đó, Mẹ Bề dành trọn hai tuần tìm đủ mọi tiểu xảo để sỉ nhục vợ diễn viên bị khinh miệt của cậu Hanif tôi. Và đó cũng là lúc tôi được chọn vào vai con ma trong vở kịch trẻ con, và tìm thấy, trong chiếc cặp da cũ gác xép của ông tôi, tấm ga giường bị nhậy cắn, nhưng cái lỗ to nhất lại do người gây ra: vì phát này tôi được đền đáp (quý vị còn nhớ) bằng tiếng gầm từ cơn thịnh nộ của ông bà.

      Nhưng cũng có thành tựu. Tôi được làm bạn với chú Rashid kéo xe (chính là người, hồi còn trẻ, hét lên trong im lặng ở ruộng ngô và dẫn Nadir Khan trốn vào nhà vệ sinh của Aadam Aziz): xòe cánh ra ấp tôi – và cho bố mẹ tôi biết, sau tai nạn của tôi họ chắc hẳn cấm tiệt vụ này – chú dạy tôi xe đạp. Đến khi ra về, tôi giấu bí mật này cùng những cái khác: chỉ có điều, tôi định giữ bí mật vụ này quá lâu.

      ... Và tàu về nhà, có những giọng bấu víu phía ngoài khoang: “ mà, maharaj! Mở , thưa ngài tôn kính!” – giọng những kẻ lậu vé giao tranh với những giọng tôi muốn nghe, những giọng mới trong đầu tôi – thế rồi về đến Nhà ga Trung tâm Bombay, rồi tới chuyến xe về nhà, qua trường đua và ngôi đền, và giờ Evelyn Lilith Burns đòi hỏi tôi kết thúc phần của nàng trước khi tập trung vào những thứ cao hơn.

      “Về nhà rồi!” con Khỉ kêu lên. “Hu raa... Bay-về-Bom!” (Nó bị thất sủng. Ở Agra, nó hỏa thiêu đôi bốt của ngài Đại tướng.)



      Do cầu về lưu trữ nên Ủy ban Tái cơ cấu Liên bang đệ trình báo cáo lên Ngài Nehru bắt đầu từ tháng Mười năm 1955; năm sau đó các khuyến nghị của nó được thực . Ấn Độ được chia mới, thành mười bốn bang và sáu “vùng lãnh thổ” trực thuộc trung ương. Nhưng đường biên giới các bang này được cấu thành bởi sông, hay núi, hay bất cứ đặc điểm địa hình tự nhiên nào; mà chúng là, thay vào đó, những bức tường từ ngữ. Ngôn ngữ chia cắt chúng tôi: Kerala là của những người tiếng Malayalam, ngôn ngữ duy nhất thế giới có tên đọc xuôi hay ngược đều như nhau; ở Karnataka nghĩa là quý vị phải tiếng Kanarese; còn bang Madras bị cắt cụt – ngày nay gọi là Tamil Nadu – chứa đựng những người am hiểu tiếng Tamil. Tuy nhiên, do sơ suất nào đấy, ai động chạm đến bang Bombay; và tại thành phố của Mumbadevi, các đoàn diễu hành ngôn ngữ ngày dài hơn và ồn ào hơn và cuối cùng chuyển hóa thành những đảng phái chính trị, Samyukta Maharashtra Samiti (“Đảng Maharashtra thống nhất”) đại diện cho tiếng Marathi và đấu tranh đòi thành lập bang Deccan của người Maharashatra, và Maha Gujarat Parishad (“Đảng Gujarat Vĩ đại”), diễu hành dưới khẩu hiệu của ngôn ngữ Gujarat và mơ về bang phía Bắc Thành phố Bombay, trải dài đến tận Bán đảo Kathiawar và Đầm muối Kutch… Tôi hâm nóng món lịch sử nguội ngắt này, những cuộc đấu tranh xưa cũ giữa cái gai góc khô khan của tiếng Marathi ra đời từ oi bức khô cằn vùng Deccan và sắc mềm mại lầy lội, rất Kathiawa của tiếng Gujarat, để giải thích vì sao, vào ngày tháng Hai năm 1957 ngay sau khi chúng tôi trở về từ Agra, Điền trang Methwold lại bị chia cắt với thành phố bởi dòng người hò hát bao phủ đường Warden kín hơn cả nước mùa mưa, đoàn diễu hành dài đến mức mất hai ngày mới hết, và có tin đồn rằng pho tượng Sivaji sống dậy để dẫn đầu đoàn với vẻ lạnh lẽo của đá. Người biểu tình mang cờ đen; nhiều người trong đó là chủ cửa hàng đóng cửa[13]; nhiều người là thợ dệt đình công từ Mazagaon và Matunga; nhưng ở ngọn đồi nhà mình, chúng tôi chẳng biết gì về công việc của họ; với trẻ con bọn tôi, những vệt kiến bò bất tận của ngôn ngữ đường Warden có hấp lực mãnh liệt kém gì bóng đèn với lũ thiêu thân. Đó là cuộc biểu tình mãnh liệt, cuồng nhiệt đến độ nó làm cho mọi cuộc diễu hành trước biến mất khỏi tâm trí như thể chúng chưa từng xảy ra – và bọn tôi đều bị cấm xuống đồi dù chỉ để ngó nghiêng tí đỉnh. Vậy ai là đứa táo tợn nhất hội? Ai giục cả bọn lẻn xuống ít nhất nửa đường, đến chỗ con đường đồi lượn vòng lao vào đường Warden ở khúc quanh dốc chữ U? Ai bảo, “Việc gì mà sợ? Mình chỉ xuống nửa đường để ngó tí thôi”?... Lũ nhóc Ấn vâng lời, mắt tròn xoe, theo nữ thủ lĩnh Mỹ mặt tàn nhang. (“Họ giết bác sĩ Narlikar – chính họ đấy,” Tóc Dầu cảnh báo bọn tôi với giọng run rẩy. Evie nhổ lên giày nó.)

      [13] Hartal, hình thức đóng cửa hàng kinh doanh để bày tỏ thái độ đau buồn hoặc phản kháng.

      Nhưng tôi, Saleem Sinai, còn chuyện hệ trọng hơn phải làm. “Evie,” tôi với giọng nhàng hờ hững, “Muốn xem tớ xe đạp chứ?” trả lời. Evie chìm đắm vào cảnh tượng ấy... và có phải đó là vân tay nàng trong hõm forcep bên trái của Sonny Ibrahim, hằn lên Vaseline cho cả thế gian nhìn thấy? lần nữa, và hơi có ý nhấn mạnh, tôi , “Tớ làm được mà, Evie. Để tớ lấy xe con Khỉ. Cậu thích xem chứ?” Và giờ Evie, tàn nhẫn, “Tao xem cái này. Cái này hay. Sao tao phải xem mày?” Và tôi, giờ hơi rơm rớm, “Nhưng tớ biết rồi, Evie, cậu phải...” Tiếng gầm gào từ đường Warden phía dưới nhận chìm lời tôi. Lưng nàng quay về tôi; rồi lưng của Sonny, lưng của Mắt Chẻ và Tóc Dầu, rồi phần hậu trí thức của Cyrus-đại-đế... em tôi, cũng thấy dấu vân tay, tỏ ra bất bình, xúi tôi: “Làm . Làm , cho ả xem. ả tưởng mình là ai?” Tôi leo lên xe nó... “Tớ này, Evie, xem này!” Đạp theo hình tròn, vòng vòng quanh lũ nhóc. “Thấy chưa? Cậu thấy chưa?” giây phút hả hê đắc thắng; và rồi Evie, cụt hứng hết kiên nhẫn chán chả buồn chết, “Lạy Thánh Peter, mày có xê ra bẩu? Tao muốn xem cái đó!” Ngón tay, móng bị gặm cụt các thứ, trỏ xuống về cuộc biểu tình ngôn ngữ; tôi bị hắt hủi vì đoàn diễu hành của Samyukta Maharashtra Samiti! Và mặc dù con Khỉ, người rất trung thành, “Như thế công bằng! ấy làm giỏi đấy chứ.” – và bất chấp hưng phấn trong bản thân việc đó – trong tôi có gì đó rối tung lên; và tôi đạp vòng quanh Evie, nhanhnữanhanhnữanhanhnữa, nước mắt nước mũi dạt dào “Rốt cuộc cậu bị làm sao thế hả? Tớ phải làm gì để...” Thế rồi có gì đó lấn át tất cả, bởi tôi nhận ra tôi chẳng cần hỏi nàng, mà chỉ cần chui vào cái đầu tàn nhang, miệng nẹp kim loại ấy mà tìm kiếm, chỉ lần là tôi biết điều gì diễn ra... thế là tôi vào, vẫn tiếp tục đạp xe, nhưng ở phía trước tâm trí nàng chỉ toàn những người diễu hành tiếng Marathi, mấy bài hát pop Mỹ kẹt trong góc các suy nghĩ của nàng, nhưng có điều tôi quan tâm; và lúc này, chỉ lúc này, lúc này lần đầu tiên đời, lúc này bị thôi thúc bởi nước mắt của tình được đáp lại, tôi bắt đầu dò dẫm... Tôi thấy mình xô đẩy, ngụp lặn, dùng vũ lực tìm đường vào sau phòng tuyến của nàng... vào chốn bí mật nơi có bức ảnh mẹ nàng mặc áo ngủ hồng, cầm đuôi con cá tí xíu giơ lên, và tôi còn sục sạo sâunữasâunữasâunữa, nó đâu rồi, cái hấp dẫn nàng, nàng bỗng giật mình quay ngoắt lại chằm chằm nhìn vào tôi trong khi tôi đạp xe vòngquanhvòngquanhvòngquanhvòngquanhvòng...

      “Ra ngay!” Evie Burns hét lên. Tay giơ lên trán. Tôi đạp xe, mắt đẫm lệ, ngụp vàovàovào: đến nơi Evie đứng ở ngưỡng cửa phòng ngủ ốp ván, tay cầm , thứ gì đó sắc và lóe sáng với màu đỏ rỏ xuống, ngưỡng cửa , lạy Chúa và giường có người đàn bà mặc áo hồng, lạy Chúa, và Evie cầm , và đỏ vấy lên hồng, và có người đàn ông xuất , lạy Chúa, và ...

      “CÚT RA CÚT RA CÚT RA!” Bọn nhóc ngơ ngác nhìn Evie hét lên, đoàn diễu hành ngôn ngữ bị quên , rồi lại bất ngờ được nhớ đến, vì Evie nắm lấy đuôi xe của con Khỉ CẬU LÀM GÌ THẾ EVIE rồi đẩy nó CÚT RA MAU ĐỒ VÔ DỤNG CÚT XUỐNG HỎA NGỤC ! – Nàng đẩy tôi lực, và tôi mất kiểm soát sầm sập lao xuống dốc vòng qua khúc cua chữ U xuốngxuống, LẠY CHÚA ĐOÀN BIỂU TÌNH qua tiệm giặt là Band Box, qua Noor Ville và Laxmi Vila, AAAAA và lao xuống miệng đoàn diễu hành, nào đầu nào chân nào người, những làn sóng biểu tình rẽ ra khi tôi đến, kêu gào thảm thiết, đâm thẳng vào lịch sử chiếc xe đạp mất lái, của con .

      Những bàn tay nắm lấy ghi đông khi tôi chậm lại giữa đám đông cuồng nhiệt. Những nụ cười đầy răng chắc khỏe vây quanh tôi. Nhưng phải cái cười thân thiện. “Chà chà, có cậu laad-sahid từ ngọn đồi giàu có xuống gia nhập với chúng ta này!” Bằng tiếng Marathi mà tôi gần như chả hiểu gì, đó là môn bết bát nhất của tôi ở trường, và những nụ cười hỏi, “Cậu muốn gia nhập S.M.S hử, tiểu hoàng tử?” Và tôi, đại khái cũng biết họ gì, nhưng choáng quá đâm ra nghĩ gì nấy, lắc đầu . Và những nụ cười, “Ô hô! Cậu nawab trẻ thích tiếng của ta! Thế cậu ta thích gì?” Lại nụ cười nữa, “Chắc là Gujarati! Cậu tiếng Gujarati chứ, cậu chủ?” Nhưng tiếng Gujarati của tôi cũng chả hơn gì Marathi; tôi chỉ biết có câu chuyện của thứ tiếng ẩm thấp vùng Kathiawar; và những nụ cười, giục giã, và những ngón tay, đâm thọc, “ , cậu chủ ! vài câu Gujarati !” – thế là tôi vài câu tôi biết, câu vè tôi nghe được ở trường từ Keith Colaco Nội tiết, mà thằng đấy hay dùng khi nó bắt nạt mấy đứa người Gujarat, câu vè để chế nhạo ngữ điệu của thứ tiếng này:

      Soo che? Saru che!

      Danda le ke maru che!

      Mi thế nào? – Tau khỏe re! – Để tau lấy gậy nện tòe đầu mi! câu tầm phào; bài vớ vẩn; chín từ vô nghĩa... song khi tôi lên, những cái cười mỉm chuyển thành cười phá; thế rồi những giọng ở gần tôi rồi xa hơn rồi xa hơn nữa bắt đầu hát tiếp câu vè MI THẾ NÀO? TAU KHỎE RE!, và họ hết hứng với tôi, “Thôi đạp xe tiếp , cậu cả,” họ giễu, ĐỂ TAU LẤY GẬY NỆN TÒE ĐẦU MI, tôi chạy biến lên đồi trong khi bài vè của tôi lan ra phía trước và sau, lên tận đầu và xuống tận cuối đoạn người kéo-dài-hai-ngày, trở thành, đường của nó, bài hát chiến tranh.

      Buổi chiều hôm đó, đầu đoàn diễu hành của Samyukta Maharashtra Samiti va chạm tại Góc Phố Kemp, với đầu đoàn biểu tình của Maha Gujarat Parishad; những giọng S.M.S. cất lên “Soo che? Saru che!!” và những cổ họng M.G.P. há ra phẫn nộ; dưới những tấm poster Tiểu vương Hàng Ấn Độ và Cậu bé Kolynos, hai bên đâm bổ vào nhau với bầu máu nóng hề , và theo nhịp điệu câu vè bé của tôi, cuộc bạo loạn ngôn ngữ đầu tiên nổ ra, mười lăm người chết, hơn ba trăm người bị thương.

      Theo cách này, tôi trở thành người trực tiếp chịu trách nhiệm về việc khơi mào làn sóng bạo lực kết thúc bằng chia cắt bang Bombay mà hệ quả của nó là thành phố trở thành thủ phủ của bang Maharashtra – vậy là ít nhất tôi cũng về phe thắng cuộc.



      Cái gì ở trong đầu Evie? Tội ác hay giấc mơ? Tôi bao giờ tìm ra; nhưng tôi học được thứ khác: khi ta sâu vào đầu người khác, họ có thể cảm thấy ta ở đó.

      Sau ngày hôm ấy, Evelyn Lilith Burns muốn dính gì với tôi nữa; nhưng, kỳ lạ thay, tôi cũng hết bệnh tương tư. (Đàn bà luôn là người thay đổi đời tôi: Mary Pereira, Evie Burns, Jamila Ca sĩ, Parvati phù thủy phải trả lời câu hỏi tôi là ai; và cả Mụ Góa phụ, người tôi giữ lại cho cái kết; và sau cái kết, là Padma, nữ thần phân của tôi. Đàn và nhào nặn đời tôi ra trò, song có lẽ họ chưa bao giờ ở trung tâm – có lẽ vị trí lẽ ra họ phải lấp đầy, cái lỗ giữa người tôi mà tôi thừa kế từ ông ngoại Aadam Aziz, bị những giọng trong tôi chiếm giữ quá lâu. Hoặc cũng có lẽ - cần phải tính đến mọi khả năng – họ luôn luôn làm tôi hơi e sợ.)

    6. ^^! Nếu bạn không gửi link bài viết trên Facebook được, hãy sử dụng link trong khung này để chia sẻ bài viết :