1. QUY ĐỊNH BOX EBOOK SƯU TẦM

    Khi các bạn post link eBook sưu tầm nhớ chú ý nguồn edit và Link dẫn về chính chủ

    eBook phải tải File trực tiếp lên forum (có thể thêm file mediafire, dropbox ngay văn án)

    Không được kèm link có tính phí và bài viết, hay quảng cáo phản cảm, nếu có sẽ ban nick

    Cách tải ebook có quảng cáo

Những Đứa Con Của Nửa Đêm - Salman Rushdie (30 Chương)

Thảo luận trong 'Truyện Phương Tây'

  • ^^! Nếu bạn không gửi link bài viết trên Facebook được, hãy sử dụng link trong khung này để chia sẻ bài viết :
    1. banglangtrang123

      banglangtrang123 Well-Known Member Staff Member Super Moderator

      Bài viết:
      26,213
      Được thích:
      47,825
      Chương 4: Dưới tấm thảm




      Thế là kết thúc dịch bệnh lạc quan. Sáng ra bà lao công vào văn phòng của Hội nghị Hồi giáo Tự do và phát ra con Chim ngân nga, câm lặng, sàn nhà, xung quanh là vết chân chó và những mẩu vụn của bọn sát nhân. Bà ta rú lên; nhưng sau đó, khi nhà chức trách đến và , bà bị bắt quét dọn căn phòng. Sau khi quét vô số lông chó, đập chết vô khối bọ chét và hót từ thảm ra những mảnh vụn của con mắt thủy tinh vỡ nát, bà khiếu nại với viên quản lý lao công của trường Đại học rằng, nếu những chuyện kiểu này còn xảy ra, bà đáng được lên lương chút đỉnh. Bà có lẽ là nạn nhân sau chót của virus lạc quan, và trong trường hợp của bà căn bệnh kéo dài, vì viên quản lý, tay rất rắn, đá đít bà luôn.

      Đám sát thủ bao giờ được nhận dạng, kẻ chủ mưu bao giờ bị chỉ đích danh. Ông tôi được Thiếu tá Zulfikar, A.D.C. của Chuẩn tướng Dodson, mời đến trường viết giấy chứng tử cho bạn mình. Thiếu tá Zulfikar hứa đến gặp Bác sĩ Aziz để gút lại số tình tiết; ông tôi xì mũi và ra về. Ngoài quảng trường, những ngôi lều xẹp xuống như hy vọng xì hơi; Hội nghị bao giờ được tổ chức nữa. Quận chúa xứ Cooch Naheen ngã bệnh. Sau đời coi bệnh tật bà để chúng chế ngự mình, và nằm bất động nhiều năm, quan sát bản thân biến dần sang màu ga giường. Trong khi đó, tại ngôi nhà cũ đường Cornwallis, những ngày ấy đầy ắp các bà mẹ triển vọng và ông bố tiềm năng. Đấy nhé, Padma: sắp được biết đến nơi rồi.

      Sử dụng cái mũi (vì, mặc dù mất thứ năng lực từng giúp nó, chỉ mới đây thôi, làm nên lịch sử, nó có những năng khiếu khác để bù đắp lại) - hướng nó vào nội tâm, tôi đánh hơi thấy khí trong ngôi nhà của ông tôi những ngày sau cái chết của niềm hy vọng ngân nga của Ấn Độ; xuyên qua năm tháng phảng phất tìm đến mũi tôi là hỗn hợp mùi kỳ dị, tràn ngập nỗi bất an, hơi những điều giấu giếm trộn lẫn với hương áitình đương đâm chồi nảy lộc và mùi hôi gắt của tò mò và sức mạnh ở bà tôi... trong khi liên đoàn Hồi giáo mừng rỡ, tất nhiên là ngấm ngầm, trước gục ngã của đối thủ, chúng ta có thể tìm thấy ông tôi (mũi tôi lần ra ông) mỗi sáng đều ngồi thứ ông gọi là “thùng sấm sét”, nước mắt ứa ra. Nhưng đấy phải nước mắt đau buồn; đơn giản là Aadam Aziz trả cái giá của Ấn Độ hóa, và bị chứng táo bón hành hạ khổ sở. Ánh mắt hãi hùng, ông ngước nhìn cái dụng cụ thụt ruột treo tường nhà vệ sinh.




      Vì sao tôi lại xâm phạm riêng tư của ông tôi? Vì sao, trong khi tôi có thể thuật lại, sau cái chết của Mian Abdullah, Aadam vùi mình vào công việc ra sao, nhận về mình việc chăm sóc bệnh nhân ở những khu ổ chuột gần đường sắt - giải cứu họ khỏi những gã lang băm chuyên tiêm nước hạt tiêu cho họ và nghĩ rằng nhện nướng chữa được bệnh mù thế nào - trong khi vẫn tiếp tục hoàn thành chức phận của bác sĩ trường đại học; trong khi tôi có thể kể tường tận về tình vĩ đại bắt đầu nảy nở giữa ông và con thứ hai, Mumtaz, người mà nước da đen chen vào giữa và tình thương của mẹ, nhưng cái thiên tư hiền hậu, chu đáo và mong manh giành được dấu của người cha với những giằng xé nội tâm vốn thiết tha cần đến đức dịu dàng thắc mắc của ; tại sao, trong lúc tôi có thể chọn việc kể về cơn ngứa nay--thành-thường-trực trong mũi ông, tôi lại đắm mình vào hố phân? Vì đây là nơi Aadam Aziz có mặt, buổi chiều sau khi ông vừa ký tờ chứng tử, khi đột nhiên giọng - mềm, hèn nhát, lúng túng, giọng của gã thi sĩ vần - thốt lên với ông từ sâu trong cái tủ giặt to, cũ trong góc buồng, gây cho ông cú sốc mãnh liệt đến mức nó tỏ ra có tác dụng nhuận tràng, và cái dụng cụ thụt ruột khỏi cần phải gỡ từ giá xuống nữa. Rashid cậu trai chạy xe kéo cho Nadir Khan vào căn phòng chứa hộp-sấm-sét qua lối của người quét dọn, và gã trốn vào tủ giặt. Trong khi cái cơ vòng còn kinh ngạc của ông dãn ra, tai ông nghe thấy lời cầu xin nơi nương náu, lời cầu xin bị bóp nghẹt bởi vải lanh, đồ lót bẩn, áo cũ, và lúng túng của người . Và, Aadam Aziz quyết tâm che giấu Nadir Khan như thế.

      Giờ là mùi cuộc cãi cọ, vì Mẹ Bề Naseem nghĩ đến ba con , Alia hai mốt tuổi, Mumtaz da đen, lên mười chín và Emerald xinh tươi, phù động, chưa tròn mười lăm nhưng trong mắt ánh nhìn già dặn hơn tất cả những gì có ở hai chị. Trong thị trấn, giữa những người phụt-ống-nhổ và kéo xe, giữa những người đẩy xe áp phích cũng như sinh viên đại học, ba chị em được gọi là “Teen Batti”, ba tia sáng lung linh... làm sao Mẹ Bề có thể cho phép gã đàn ông lạ sống chung nhà với vẻ đoan trang của Alia, nước da đen, tươi sáng của Mumtaz, và đôi mắt của Emerald?... “Ông mất trí rồi: cái chết ấy tổn hại đến não ông.” Nhưng Aziz, kiên quyết: “Cậu ta ở lại.” Dưới hầm... vì che giấu luôn là yếu tố kiến trúc thiết yếu được tính đến tại Ấn Độ, nên ngôi nhà của Aziz có rất nhiểu phòng ngầm, chỉ có thể ra vào bằng cửa lật sàn nhà, được trải thảm bên ... Nadir Khan nghe thấy tiếng ầm ầm trầm đục của cuộc cãi cọ và sợ cho số phận của mình. Lạy Chúa (tôi ngửi ra suy nghĩ của gã thi sĩ có bàn tay ướt nhẹp), thế giới này điên rồi... chúng ta có còn là người ở xứ này ? Hay là súc vật? Nếu mình phải , chừng nào mấy lưỡi dao kia tìm đến mình?... Và trong óc gã lướt qua hình ảnh những cái quạt lông công và vầng trăng non nhìn qua cửa kính biến thành lưỡi dao đỏ lòm phập xuống... tầng, Mẹ Bề , “Nhà toàn con trẻ chưa chồng, cáigìkhôngbiết; đây là cách ông tôn trọng con mình à?” Và giờ là mùi hương của mất bình tĩnh; cơn thịnh nộ có sức tàn phá khủng khiếp của Aadam Aziz bộc phát, và thay vì chỉ ra rằng Nadir Khan ở dưới hầm, được quét xuống dưới thảm, nơi ta khó lòng phương hại được con bà[1]; thay vì đưa ra lời bảo chứng thích hợp cho ý thức của gã thi sĩ vần kia về nết đứng đắn, cái ý thức tiến bộ đến mức trong mơ gã cũng thể có hành động thiếu đứng đắn mà đỏ mặt trong giấc ngủ; thay vì những nẻo đường của lý lẽ ấy, ông tôi gầm lên, “Câm , mụ đàn bà! Cậu ta cần ta che chở: cậu ta ở lại.” Thế là bừng lên mùi hương khoan nhượng, đám mây quyết tâm dày đặc vây phủ bà tôi, bà , “Được lắm. Ông dám bảo tôi, cáigìkhôngbiết, câm . thế từ nay, chữ nào, cáigìkhôngbiết, ra khỏi môi tôi.” Và Aziz, rên rỉ, “Ôi, mẹ kiếp, đồ đàn bà, xin miễn cho mấy lời thề điên rồ của mụ!”

      [1] Quét xuống dưới thảm (sweep under the carpet) là thành ngữ, có nghĩa là tránh đến vấn đề gì đó, với hy vọng lâu ngày người ta quên nó . Ở đây câu này vừa mang nghĩa bóng vừa có nghĩa đen, vì Nadir bi giấu xuống dưới tấm thảm.

      Nhưng môi Mẹ Bề được khâu chặt, và im lặng buông xuống. Mùi của im lặng, như quả trứng ngỗng ung, lấp đầy mũi tôi; lấn át tất cả, nó ngự trị mặt đất... Trong khi Nadir Khan mình dưới thế giới ngầm mờ tối, bà chủ nhà của gã cũng mình, sau bức tường triệt của vô thanh. Đầu tiên ông tôi thăm dò bức tường, thử tìm kẽ hở; thấy gì. Cuối cùng ông bỏ cuộc, và chờ đợi những câu của bà hé lộ những hình ảnh về nội tâm bà, như lần ông khao khát từng mảnh cơ thể bà mà ông được thấy qua tấm ga khoét lỗ; và im lặng tràn ngập ngôi nhà, từ tường sang tường, từ sàn lên trần, đến nỗi ruồi hình như cũng thôi vè vè, muỗi cũng cố nín vo ve khi đốt; im lặng làm lắng tiếng xì xào của bầy ngỗng ngoài sân. Đầu tiên bọn trẻ thầm, thế rồi nín lặng: khi ở ruộng ngô, Rashid cậu trai chạy xe kéo hét “tiếng hét căm thù” trong lặng lẽ, và giữ lời thề im lặng của riêng cậu mà cậu thề mái tóc mẹ mình.

      Giữa đầm lầy câm lặng này, tối nọ, xuất người đàn ông thấp lùn, đầu bẹt như cái mũ đội đó; chân cong như cây sậy trước gió; mũi gần như chạm vào cái cằm vểnh ngược; và giọng , do vậy, mảnh và sắc - phải thế nó mới chui lọt cái khe hẹp giữa cơ quan hô hấp và xương hàm... người đàn ông mà chứng cận thị buộc ta phải bước đời mình từng bước , điều giúp ta được cái tiếng là kỹ lưỡng nhưng chậm chạp, và chiếm được cảm tình của thượng cấp nhờ tạo cho họ cảm giác được phục vụ chu đáo mà bị đe dọa; người đàn ông mặc bộ quân phục hồ cứng, ép phẳng lì, sặc mùi Blanco[2] và chính trực, khắp người dậy lên, bất chấp ngoại hình của nhân vật trong vở rối, mùi hương lẫn đâu được của thành công: Thiếu tá Zulfikar, người đàn ông có tương lai, đến để, như hứa, gút lại vài đầu mối. Vụ ám sát Abdullah và mất tích đáng ngờ của Nadir Khan choán hết tâm trí ta, và vì biết việc Aadam Aziz nhiễm virus lạc quan, ta nhầm tưởng im lặng của ngôi nhà với trầm mặc xót thương, và lưu lại lâu. (Dưới tầng hầm, Nadir ngồi thu lu với gián.) Ngồi lặng lẽ trong phòng khách cùng năm đứa trẻ, chiếc mũ và cây can đặt cạnh, cái đài hiệu Telefunken, chân dung to bằng người của các cậu nhà Aziz tường nhìn chàng đăm đăm, Thiếu tá Zulfikar đem lòng . ta cận thị, nhưng ta mù, và trong ánh mắt thành thục đến tưởng của thiếu nữ Emerald, tia sáng lung linh nhất trong “ba tia sáng lung linh”, thấy hiểu thấu tương lai mình, và, bởi vậy, tha thứ cho ngoại hình của ; và trước khi ra về, quyết định cưới sau thời gian thích hợp. (“Đấy à?” Padma đoán. “Con bé lẳng lơ ấy là mẹ à?” Nhưng vẫn còn các bà mẹ triển vọng, và các ông bố tương lai khác, thoang thoảng ra vào giữa chốn im lặng ấy.)

      [2] Tên thứ thuốc tẩy trắng chuyên dụng của quân đội .

      Trong thời gian lầy lội lời đó, đời sống tình cảm của Alia nghiêm nghị, chị cả, cũng bắt đầu phát triển; và Mẹ Bề , bị giam trong nhà kho và nhà bếp, môi bị khâu kín, thể - vì bà trót thề - bày tỏ nghi ngờ về gã lái buôn reccine và vải giả da trẻ tuổi hay đến chơi với con bà. (Aadam Aziz luôn bảo lưu quan điểm các con ông được phép có bạn trai.) Ahmed Sinai - “À ha!” Padma reo lên đắc thắng vì nhận ra - gặp Alia ở trường Đại học, và tỏ ra đủ thông minh với đầu óc, sách vở, với khuôn mặt mà đó cái mũi di truyền của ông tôi hình thành vẻ thông thái siêu trọng; nhưng Naseem Aziz yên tâm về chàng, bởi vì ta ly dị khi mới hai mươi. (“Ai mà chẳng lần sai lầm,” Aadam bảo vợ, và tí nữa gây nên trận cãi vã, vì bà thoáng cảm thấy có gì đó hơi quá riêng tư trong giọng điệu của ông. Nhưng rồi Aadam thêm, “Cứ để vụ ly dị của cậu ta nhạt độ hai năm ; rồi chúng ta cho ngôi nhà này được thấy đám cưới đầu tiên, với căn rạp lớn trong vườn, rồi ca sĩ và bánh kẹo các thứ.” Điều này, bất chấp tất cả, là ý tưởng hấp dẫn với Naseem.) Lúc này, thả bộ giữa những khu vườn quây tường của im lặng, Ahmed Sinai và Alia giao tiếp cần lời ; nhưng mặc dù tất cả đều chờ đợi lời cầu hôn, im lặng hình như lây sang cả , và câu hỏi ấy vẫn hề được hỏi. Thời gian này gương mặt Alia xuất nặng nề, vẻ bi quan xậm xị mà chẳng bao giờ rũ bỏ được hoàn toàn, (“Ơ kìa,” Padma trách tôi, “ai lại về người mẹ đáng kính của mình như thế.”)

      điều nữa: Alia thừa kế xu hướng tăng cân ở mẹ. rồi phình to dần lên theo năm tháng.

      Còn Mumtaz, người từ bụng mẹ chui ra đen như nửa đêm sao? Mumtaz chưa bao giờ thông minh; cũng xinh đẹp như Emerald; nhưng rất tốt, tận tụy, và độc. dành thời gian bên cha nhiều hơn cả trong ba chị em, bảo vệ ông trước tâm trạng cáu kỉnh lúc này tăng cường vì cơn ngứa dứt ở mũi; nhận về mình trách nhiệm chăm lo cho các nhu cầu của Nadir Khan, ngày ngày chui xuống thế giới ngầm của gã, mang theo thức ăn, chổi, và còn đổ cả “hộp sấm sét” cho gã, để đến người dọn vệ sinh cũng thế đoán ra có mặt của gã. Mỗi khi chui xuống, gã cụp mắt lại; và lời, trong căn nhà câm ấy, được thốt ra giữa họ.

      Mấy ông già phụt ống nhổ gì về Naseem Aziz? “Mụ ấy rình trộm giấc mơ của con , chỉ để biết chúng tính chuyện gì.” Phải, chẳng có lời giải thích nào khác, ai cũng biết quái vẫn xảy ra ở nước ta, cứ nhặt đại tờ báo là thấy những mẩu tin lá cải hằng ngày về chuyện lạ ở làng này hay làng kia - Mẹ Bề bắt đầu mơ giấc mơ của các con . (Padma chấp nhận điều này mà chớp mắt; nhưng cái người ta nuốt ngon lành như viên laddoo Padma lại bác bỏ dễ dàng kém. Mỗi thính giả đều có những đức tin kỳ quặc của riêng mình.) Đấy, thế : ngủ giường mình về đêm, Mẹ Bề ghé thăm giấc mơ của Emerald, và phát ở đây giấc mơ khác - mộng tưởng riêng tư của Thiếu tá Zulfikar, là được sở hữu biệt thự tiện nghi có bồn tắm cạnh giường. Đó là tham vọng tột đỉnh của viên Thiếu tá; và từ đó Mẹ Bề khám phá ra, chỉ chuyện con bí mật gặp gỡ Zulfy của , ở nơi họ có thể tâm tình, mà cả chuyện tham vọng của Emerald còn lớn hơn của người . Và (sao lại ?) trong giấc mơ của Aadam Aziz bà thấy ông sầu thảm leo lên ngọn núi ở Kashmir, với lỗ hổng to bằng nắm tay ở bụng, và đoán rằng ông còn bà nữa, và thấy trước cả cái chết của ông; nên nhiều năm sau, khi nghe tin, bà chỉ , “Ồ, ta biết mà, rốt cuộc cũng.”

      ... Giờ chẳng bao lâu nữa, Mẹ Bề nghĩ, con Emerald nhà ta cho tay Thiếu tá của nó biết về vị khách dưới hầm; và ta có thể chuyện trở lại. Nhưng rồi đêm bà lẻn vào giấc mơ của Mumtaz, con bé đen đúa mà bà chưa bao giờ được vì nước da dân chài Nam Ấn của nó, và nhận ra là rắc rối chưa dừng lại ở đây; vì Mumtaz Aziz - giống như kẻ si mê dưới thảm - cũng .



      có bằng chứng. xâm nhập giấc mơ - hay hiểu biết của người mẹ, hay trực giác của đàn bà, gọi nó là gì tùy quý vị - là điều có giá trị gì trước tòa, và Mẹ Bề biết rằng kết tội con làm trò bộc trong dâu dưới mái nhà cha mình là chuyện rất nghiêm trọng. Thêm vào đó, có gì sắt đá len vào Mẹ Bề ; bà quyết định làm gì hết, tiếp tục im lặng, để Aadam Aziz khám phá ra tư tưởng tân tiến của lão làm con cái hư hỏng đến mức nào - mặc cho lão tự phát ra, sau đời lão bắt bà im lặng với những quan niệm truyền thống đứng đắn của bà. “ người đàn bà cay nghiệt,” Padma ; và tôi tán thành.

      “Sao?” Padma hỏi. “Có ?”

      Phải: theo nghĩa nào đó: .

      “Có chuyện bộc trong dâu à? Dưới hầm? có cả người giám hộ?[3]”

      [3] Nguyên văn: chaperone, phụ nữ lớn tuổi chịu trách nhiệm tháp tùng các thiếu nữ chưa chồng.

      Hãy xét đến tình tiết - giảm , nếu quả là có những tình tiết ấy. Những điều dường như hợp lệ trong lòng đất, thành lố bịch hay thậm chí sai trái giữa thanh thiên bạch nhật.

      “Gã bệu đó làm chuyện ấy với đen khốn khổ? à?”

      Gã ở dưới đó cũng lâu rồi - đủ lâu để bất đầu chuyện với lũ gián bay vè vè và sợ ngày kia người ta đuổi gã và mơ thấy những lưỡi dao cong và bầy chó tru lên và ước giá như giá như con Chim ngân nga còn sống để khuyên gã phải làm gì, để phát ra rằng thể viết thơ trong lòng đất; rồi ấy xuất mang theo đồ ăn và nề hà đổ bô cho gã và gã cụp mắt xuống nhưng gã thấy mắt cá chân như thể phát ra ánh sáng của lòng nhân ái, đen như màu của đêm trong lòng đất...

      “Ai ngờ gã lại làm được chuyện đó.” Padma tỏ vẻ ngưỡng mộ. “Cái gã già béo vô dụng ấy!”

      Và rốt cuộc trong ngôi nhà ấy, nơi mọi người, kể cả kẻ tị nạn dưới hầm lẩn trốn những kẻ thù vô diện, thấy lưỡi mình khô rang dính sát vào vòm họng; nơi hai cậu con trai phải ra tận ruộng ngô với cậu trai kéo xe để giỡn cợt về điếm và đọ xem của ai dài hơn và lén lút thầm về ước mơ thành đạo diễn (giấc mơ của Hanif, làm kinh hãi bà mẹ chuyên xâm nhập giấc mơ của cậu, người tin rằng điện ảnh là mở rộng của kinh doanh nhà thổ); nơi cuộc đời bị biến thành dị dạng vì bị lịch sử đột nhập, rốt cuộc giữa cái tối tăm của thế giới ngầm gã nhịn nổi nữa, gã thấy mắt mình từ từ ngước lên, qua đôi dép xinh xắn đến cái quần thụng rồi đến chiếc kurta rộng rồi lên tấm dupatta, tấm vải của khiêm nhường, đến khi bốn mắt gặp nhau, thế rồi

      “Thế rồi? Ơ kìa, baba, thế rồi sao?”

      E thẹn, mỉm cười với gã.

      “Hả?”

      Và từ đó, thế giới ngầm xuất những nụ cười, và có gì đó bắt đầu.

      “Dào, sao? định là chỉ có thế thôi?

      Chỉ thế thôi: cho đến tận ngày Nadir Khan xin gặp ông tôi - lời gã gần như ai nghe trong màn sương của im lặng - và hỏi cưới con ông.

      “Khổ thân ,” Padma kết luận, “ Kashmir vốn trắng như núi tuyết, riêng lại hóa ra đen. Chà, chà, có lẽ nước da làm khó kiếm được đám nào tử tế, chắc thế; mà gã Nadir ấy đâu có ngốc. Giờ họ phải cho gã ở lại, cho gă ăn, cho gã mái nhà, còn gã chỉ việc chui nhủi như con giun béo mẫm dưới lòng đất. Ừ, có lẽ gã chả ngốc tẹo nào.”



      Ông tôi cố sức thuyết phục Nadir Khan rằng gã gặp nguy hiểm nữa; đám sát thủ chết rồi, Mian Abdullah mới là mục tiêu của chúng; nhưng Nadir Khan vẫn mơ thấy những lưỡi dao biết hát, và van nài, “Chưa đâu, Bác sĩ Sahib; xin ngài, thời gian nữa.” Vậy là đêm cuối hè 1943 - lần nữa trời lại hạn hán - ông tôi, giọng ông nghe xa xăm và ma quái trong ngôi nhà nơi chẳng có mấy lời được ra ấy, tập hợp các con trong phòng khách nơi treo chân dung chúng. Khi bước vào chúng mới thấy vắng mặt mẹ, bà quyết định tiếp tục giam mình trong phòng với tấm mạng nhện im lặng của mình; nhưng lại có luật sư và (dù miễn cưỡng, Aziz chiều theo ý nguyện của Mumtaz) giáo sĩ, đều do Quận chúa xứ Cooch Naheen đau ốm cử đến, và đều “cực kỳ kín đáo”. Và Mumtaz cũng có mặt trong váy áo dâu, bên cạnh chiếc ghế đặt trước cái đài là thân hình quá khổ, tóc xuôi, ngượng ngập của Nadir Khan. Và thế là đám cưới đầu tiên ở ngôi nhà là đám cưới lều bạt, ca sĩ, bánh kẹo và với số khách khứa tối thiểu; và sau khinghi lễ kết thúc và Nadir Khan vén mạng che mặt dâu - gây cho Aziz cú sốc đột ngột, làm ông trẻ lại trong giây lát, và trở về lại Kashmir, ngồi bục trong khi mọi ngưởi rắc tiền lên lòng ông - ông bắt các con thề tiết lộ diện dưới hầm của ông rể mới. Emerald, đầy miễn cưỡng, là người hứa cuối cùng.

      Sau đó, Aadam Aziz bảo các con trai giúp ông mang đủ thứ đồ đạc xuống qua cánh cửa lật ở phòng khách: nào rèm nào nệm nào đèn và chiếc giường lớn tiện nghi. Và cuối cùng Nadir cùng Mumtaz bước xuống căn hầm; cánh cửa lật khép lại, thảm trải ra và Nadir Khan, người vợ cách nhàng nhất trong đám đàn ông, đưa xuống thế giới ngầm của gã.

      Mumtaz Aziz bắt đầu sống cuộc đời hai mặt. Ban ngày thiếu nữ chưa chồng, sống trinh bạch cùng song thân, học hành tàm tạm ở trường đại học, nuôi dưỡng cái thiên tính ân cần, cao thượng và nhẫn nại trở thành phẩm chất đặc trưng suốt đời , cho tới tận cái ngày bị những chiếc tủ giặt biết của quá khứ công kích, rồi bị nghiền bẹp gí như tấm bánh tráng; nhưng về đêm, chui xuống qua ô cửa lật, bước vào căn phòng tân hôn biệt lập, thắp đèn mà vị hôn phu bí mật của vẫn gọi là Taj Mahal, vì Taj Bibi là cái tên từng được dùng để gọi Mumtaz khác - Mumtaz Mahal, vợ của Hoàng đế Shah Jehan, có nghĩa là “chúa tể thiên hạ.” Khi nàng mất, ông xây cho nàng lăng tẩm được biến thành bất tử bưu thiếp và hộp sô la, với những hành lang lộ thiên sực mùi nước đái và những bức tường phủ đầy graffiti, và có tiếng vọng vẫn được hướng dẫn viên hét thử cho du khách nghe dù có biển viết bằng ba thứ tiếng xin mọi người im lặng. Như Shah Jehan và Mumtaz của ông, Nadir và vị hôn thê da sậm của gã nằm kề bên nhau, và đồ vật khảm thanh kim thạch là đồng hành của họ vì nữ Quận chúa liệt giường sắp chết xứ Cooch Naheen gửi tặng họ làm quà cưới cái ống nhổ bằng bạc điêu khắc rất tinh xảo, khảm thanh kim thạch và dát đá quý. Trong cái biệt viện tiện nghi, thắp đèn ấy, đôi vợ chồng chơi trò chơi của mấy ông già.

      Mumtaz gói trầu cho Nadir, nhưng lại thích cái vị ấy. nhổ nước nibu pani[4]. Tia của gã đỏ, của xanh. Đây là thời gian hạnh phúc nhất đời . Về sau, , khi đợt im lặng dài kia chấm dứt, “Lẽ ra sau này chúng con có con; có điều chuyện ổn, vậy thôi.” Mumtaz Aziz suốt đời trẻ con.

      [4] Nước chanh.

      Trong khi đó, Mẹ Bề trải qua những ngày tháng lờ đờ trong gọng kìm của im lặng trở nên tuyệt đối đến mức cả những người hầu cũng nhận chỉ thị qua ngôn ngữ ký hiệu, và lần lão đầu bếp Daoud vì mải nhìn bà, cố hiểu những cử chỉ loạn xạ đến phát buồn ngủ của bà, và do đó nhìn vể nồi nước thịt sôi sục sắp sửa đổ xuống chân lão và nướng chín nó như quả trứng năm ngón; lão há miệng hét nhưng chẳng có tiếng gì thoát ra, và từ đó lão đinh ninh mụ già có phép phù thủy, và sợ hãi đến nỗi dám nghỉ việc ở chỗ mụ. Lão ở lại đến khi chết, cà nhắc quanh sân và bị lũ ngỗng đuổi đánh.

      Những năm ấy hề dễ dàng. Hạn hán dẫn đến chế độ khẩu phần, và với những ngày thịt và những ngày gạo kéo dài triền miên, khó khăn khi phải nuôi thêm miệng ăn lẩn trốn. Mẹ Bề buộc phải tiêu lạm vào cái kho của bà, nó khiến cơn giận của bà đặc lại như nước xốt bếp lửa. Râu bắt đầu mọc ra từ những nốt ruồi mặt bà. Mumtaz lo lắng nhận ra mẹ mỗi tháng phình to hơn. Những lời ra được trong bà thổi bà phồng lên... Mumtaz có cảm giác da mẹ mình bắt đầu căng ra như chực vỡ.

      Và Bác sĩ Aziz luôn vắng nhà ban ngày, lẩn tránh im lặng chết chóc, nên Mumtaz, người luôn ở dưới đất về đêm, hồi đó rất ít được gặp người cha thương; còn Emerald giữ lời, hề tiết lộ bí mật của gia đình cho viên Thiếu tá; nhưng ngược lại, cũng cho nhà biết về mối quan hệ của với ta, mà theo là công bằng; và ở ruộng ngô Mustapha với Hanif và Rashid cậu trai xe kéo bắt đầu nhiễm đờ đẫn của thời kỳ ấy; và rốt cuộc ngôi nhà đường Cornwallis trôi dạt đến tận ngày mồng 9 tháng Tám năm 1945, khi mọi thứ thay đổi.



      Lịch sử gia đình, dĩ nhiên, có những quy định cụ thể về chế độ dinh dưỡng. Người ta chỉ được nuốt và tiêu hóa phần nào được phép, những khẩu phần halal[5] của quá khứ, vắt kiệt sắc đỏ, kiệt máu. Tiếc thay, như vậy khiến câu chuyện mất ít nhiều hương vị; do đó tôi sắp trở thành thành viên đầu tiên và duy nhất trong gia đình mạo phạm luật halal. cho giọt máu nào thoát khỏi thân thể câu chuyện, tôi đến cái phần thể ra; và, chút e dè, tiếp tục.

      [5] Những loại thịt được phép ăn và được giết mổ theo đúng quy cách của luật đạo Hồi.

      kiện gì xảy ra vào tháng Tám năm 1945? Quận chúa xứ Cooch Naheen chết, nhưng đó phải là cái tôi định kể, dù lúc từ giã cõi đời bà trắng bợt như ga giường đến nỗi khó mà nhìn ra bà trong bộ đồ ngủ; hoàn thành phận của mình là lưu lại cho câu chuyện của tôi cái ống nhổ bằng bạc, bà tế nhị rút lui nhanh chóng... cũng năm 1945, mùa mưa vẫn về. Trong rừng già Miến Điện, Orde Wingate và lữ đoàn Chindit của mình, cũng như đạo quân về phe Nhật của Subhas Chandra Bose, đều bị dầm trong mùa mưa vừa trở lại. Những người biểu tình Satyagraha[6] ở Jullundur, nằm bất bạo động đường xe lửa, đều ướt sũng. Những vết nứt mặt đất khô hạn lâu bắt đầu khép miệng; khăn mặt được chèn vào cửa ra vào và cửa sổ của tòa nhà đường Cornwallis, và phải vắt và thay liên tục. Muỗi sinh sôi từ những vũng nước khắp các lề đường. Và căn hầm - lăng Taj Mahal của Mumtaz - trở nên ẩm thấp, đến nỗi cuối cùng đổ bệnh. Những ngày đầu giấu cho ai biết, nhưng khi mắt vằn đỏ và bắt đầu run lên vì sốt, Nadir, sợ viêm phổi, van nài gặp cha để ông khám bệnh. nằm liệt nhiều tuần sau đấy chiếc giường thời con , và Aadam Aziz túc trực bên giường con, đắp khăn lạnh lên trán khi lên cơn sốt. Ngày mồng 6 tháng Tám bệnh phát. Sáng mồng 9, Mumtaz đỡ hơn và ăn được ít thức ăn đặc.

      [6] Triết lý đấu tranh chính trị phi bạo lực của Mahatma Gandhi.

      Và giờ ông tôi lấy chiếc cặp da cũ có chữ HEIDELBERG đóng bằng sắt nung lên mặt da ở đáy cặp, vì ông quyết định rằng, do rất suy kiệt, tốt hơn ông nên khám sức khỏe toàn diện cho . Khi ông mở cặp, bắt đầu khóc.

      (Và giờ chúng ta tới đây. Padma: đến rồi đây.)

      Mười phút sau, quãng thời gian dài im lặng chấm dứt vinh viễn khi ông tôi gầm lên, xộc ra từ phòng người bệnh. Ông rống lên gọi vợ, các con , các con trai. Phổi ông rất khỏe và thanh này đến tai Nadir Khan ở dưới hầm. khó khăn gì để gã đoán ra được nguyên nhân náo loạn ấy.

      Cả gia đình tập hợp quanh chiếc đài trong phòng khách, dưới những bức ảnh có tuổi. Aziz bế Mumtaz vào phòng và đặt lên chiếc ghế dài. Mặt ông rất đáng sợ. Quý vị hình dung được mũi ông cảm thấy thế nào chứ? Bởi ông ôm trong lòng quả bom sắp phải ném xuống: đó là, hai năm sau ngày cưới, con ông vẫn là trinh nữ.

      ba năm từ ngày Mẹ Bề cấm khẩu. “Con , có đúng ?” Im lặng, vật vờ trong những góc nhà như tấm mạng nhện rách, cuối cùng cũng bị thổi bay; nhưng Mumtaz chỉ gật đầu: Vâng. Đúng.

      Rồi lên tiếng. bảo chồng và chuyện kia sau này rồi ổn. là người tốt và chừng nào việc có con trở nên khả thi nhất định làm được chuyện ấy. bảo hôn nhân nên phụ thuộc vào chuyện ấy, nghĩ vậy, cho nên mới muốn nhắc tới nó, và cha phải khi lớn tiếng cho cả nhà biết như thế. Lẽ ra còn nhiều hơn; nhưng Mẹ Bề bùng nổ.

      Ba năm lời lẽ trong bà tuôn trào (nhưng cơ thể bà, phải khẩn cấp căng ra để chứa chúng, hề co lại). Ông tôi đứng chết trân bên chiếc Telefunken khi bão tố trút xuống đầu. Đây là ý ai? Ai bày ra cái kế hoạch rồ dại, cáigìkhôngbiết, cho quân hèn hạ làm nổi đàn ông ấy đến ở cái nhà này? Cho gã ở đây, cáigìkhôngbiết, tự do như chim, cái ăn cái ở ba năm giời, ông quan tâm gì đến những ngày thịt, ông biết đâu gạo châu củi quế? Ai là kẻ nhu nhược, cáigìkhôngbiết, phải, kẻ nhu nhược đầu bạc cho phép cái đám cưới trái luân thường này? Ai dắt con mình vào, cáigìkhôngbiết, giường quân vô lại ấy? Đầu ai rặt những thứ ngu đần khốn nạn chẳng ma nào hiểu nổi, cáigìkhôngbiết, não ai mềm nhũn ra vì những tư tưởng ngoại quốc hoang đường đến nỗi đẩy con mình vào đám cưới bất bình thường đến thế? Ai cả đời xúc phạm Chúa, cáigìkhôngbiết, và đây là báo ứng lên đầu ai? Ai gieo tai ương vào chính nhà mình... bà nhiếc móc ông tôi đúng giờ mười chín phút, và khi bà chấm dứt mây cũng kiệt nước và ngôi nhà đầy những vũng nước . Và, trước khi bà kết thúc, út Emerald làm điều hết sức kỳ lạ.

      Hai tay Emerald giơ lên ngang mặt, gập lại thành nắm đấm, riêng ngón trỏ thò ra. Ngón trỏ thọc vào lỗ tai và dường như nhấc bổng Emerald khỏi ghế cho đến khi bỏ chạy, tay vẫn nút tai, chạy – HẾT TỐC LỰC! - mà có tấm dupatta, ra ngoài phố, qua những vũng nước, qua cái gác xe kéo, qua hàng trầu nơi mấy ông già mới vừa thận trọng ló mình ra giữa bầu khí trong lành sau cơn mưa, và tốc độ của làm kinh ngạc lũ nhóc vào vị trí, chờ bắt đầu trò né qua né lại giữa những tia nước trầu, vì tất cả đều rất xa lạ với việc thấy thiếu nữ, nhất lại là trong ba Teen Batti, hoảng hốt chạy mình qua những con phố sũng mưa với ngón tay nút tai và có dupatta vai. Ngày nay, ở thành thị thiếu gì các tiểu thư đại, thời trang, quấn dupatta; nhưng hồi ấy mấy ông cụ buồn bã chắt lưỡi, vì phụ nữ có dupatta là phụ nữ có danh giá, và vì sao Emerald Bibi lại quyết định để danh giá ở nhà? Mấy ông già thấy khó hiểu, nhưng Emerald hiểu. nhìn thấy, ràng, trong trẻo, trong bầu khí sau mưa, rằng căn nguyên những rắc rối của gia đình chính là gã phệ hèn nhát (phải, Padma) trốn trong lòng đất kia. Nếu trừ bỏ được gã mọi người lại hạnh phúc như xưa... Emerald chạy dừng bước đến khu Doanh trại. Nơi quân đội đồn trú; nơi Thiếu tá Zulfikar ở đó! Phá bỏ lời thề, dì tôi chạy đến văn phòng ta.

      Zulfikar là cái tên nổi tiếng với tín đồ đạo Hồi. Đó là tên thanh gươm hai mũi của Ali, cháu trai của Nhà Tiên tri Muhammad. Đó là thứ vũ khí thế giới chưa từng thấy bao giờ.

      Ồ, phải: còn chuyện nữa cũng xảy ra thế giới vào hôm đó. thứ vũ khí thế giới chưa từng thấy bao giờ được ném xuống người dân da vàng ở Nhật Bản. Nhưng tại Agra, Emerald sử dụng vũ khí bí mật của riêng . Nó có đôi chân vòng kiềng, lùn, đầu bẹt; mũi gần chạm cằm; nó ao ướcmột ngôi nhà lớn đại có bồn tắm lắp ngay cạnh giường.

      Chưa bao giờ Thiếu tá Zulfikar tuyệt đối tin chắc liệu Nadir Khan có đứng sau vụ ám sát con Chim ngân nga hay ; nhưng ta nôn nao chờ cơ hội làm sáng tỏ việc này. Khi Emerald kể cho ta về lăng Taj Mahal dưới lòng đất, ta phấn khích đến mức quên cả giận dữ, liền bổ đến đường Cornwallis đem theo tiểu đội mười lăm người. Họ xông vào phòng khách, dẫn đầu là Emerald. Dì tôi: phản bội mang gương mặt tuyệt mỹ, dupatta, mặc quần thụng hồng. Aziz chết lặng nhìn toán lính cuộn tấm thảm phòng khách rồi nâng cánh cửa sập lên trong khi bà tôi ra sức vỗ về Mumtaz. “Đàn bàthỉ phải lấy đàn ông,” bà bảo, “chứ lấy chuột, cáigìkhôngbiết! Con phải xấu hổ khi bỏ, cáigìkhôngbiết, con sâu ấy.” Nhưng con bà vẫn khóc.

      hề có Nadir dưới thế giới ngầm! Được tiếng gầm đầu tiên của Aziz đánh động, bị chôn vùi bởi nỗi bấn loạn tràn ngập lòng gã dễ dàng hơn trận mưa mùa gió chướng, gã biến mất. Cánh cửa lật của trong mấy nhà vệ sinh bị bật tung - phải, đúng nơi gã từng gọi Bác sĩ Aziz từ chỗ náu trong tủ giặt, sao lại . Chiếc “hộp sẫm sét” bằng gỗ - “ngai vàng” - nằm chỏng chơ, cái bô tráng men trống lăn lóc tấm thảm xơ dừa. Nhà vệ sinh có cửa thông ra con ngõ cạnh ruộng ngô; cửa mở toang. Nó vốn được khóa ở ngoài, nhưng chỉ bằng khóa Ấn Độ, nên rất dễ phá... và trong gian biệt viện dưới ánh đèn mờ của Taj Mahal, là cái ống nhổ sáng bóng và lời nhắn, gửỉ Mumtaz, do chồng ký, ba từ, sáu tiết, ba dấu chấm than:

      Talaaq! Talaaq! Talaaq!

      Tiếng thiếu cái hưởng sét đánh của tiếng Urdu, và dù sao quý vị cũng biết nó nghĩa là gì. Tôi ly dị em. Tôi ly dị em. Tôi ly dị em.

      Nadir Khan làm chuyện nên làm.

      Ôi cơn thịnh nộ kinh hồn của Thiếu tá Zulfy khi biết con chim bay khỏi tổ! Trước mắt ta chỉ có màu: đỏ. Ôi cơn giận có thể sánh ngang với trận lôi đình của ông tôi, dù chỉ hé lộ qua những cử chỉ nhặt! Thiếu tá Zulfy, đầu tiên, lồng lộn ra vào trong niềm tuyệt vọng; sau cùng trấn tĩnh lại; và lao ra qua nhà tắm, qua ngai vàng, dọc ruộng ngô, qua cánh cổng bức tường vành đai. Chẳng thấy tăm hơi gì của gã thi sĩ vần béo bệu, tóc dài vừa đào tẩu. Nhìn bên trái: có gì. Bên phải: cũng . Chàng Zulfy điên dại cân nhắc, rồi cắm đầu chạy qua dãy xích lô. Mấy ông già chơi phụt-ống-nhổ và cái ống nhổ để giữa đường. Lũ nhóc, né qua né lại giữa những tia nước trầu. Thiếu tá Zulfy chạy, cắmđầucắmcổ. Qua giữa mấy ông già và cái đích, song ta lại thiếu cái lanh lẹ của lũ nhóc. khoảnh khắc đen đủi: tia nước đỏ bay thấp và mạnh bắn ngay chóc vào háng chàng. vệt ố như bàn tay túm lấy đũng cái quần nhà binh; siết chặt; chặn ta lại. Thiếu tá Zulfy khựng lại trong cơn cuồng nộ. Ôi, còn đen đủi hơn; vì đấu thủ thứ hai, tưởng rằng lính điên dại chạy tiếp, phun ra tia thứ hai. Bàn tay đỏ thứ hai siết chặt bàn tay thứ nhất và trọn vẹn ngày đen đủi của Thiếu tá Zulfy... chậm rãi, quả quyết, ta bước tới cái ống nhổ mà đá nó , vào đám bụi. ta nhảy lên nó - ! hai! nữa! - giẫm nó bẹp rúm, và nhất định cho thấy nó làm đau chân . Rồi, với ít nhiều kiêu hãnh, ta tập tễnh bỏ , quay lại chiếc xe đậu trước nhà ông tôi. Mấy ông già nhặt lại cái đồ đựng vừa bị hành hạ tàn tệ ấy và bắt đầu gò nó lại hình dáng cũ.

      “Em sắp lấy chồng,” Emerald bảo Mumtaz, “nếu chị chịu khó vui vẻ lên chút bất nhã. Mà chị cũng phải dặn dò em này nọ chứ.” Lúc này, dù mỉm cười với em , Mumtaz tự nhủ ở địa vị Emerald vậy quá hỗn xược; và, có lẽ chỉ vô tình, gia tăng áp lực lên cây bút chì dùng để vẽ hoa văn bằng phẩm henna lên lòng bàn chân em . “Nào!” Emerald ré lên, “ cần phải cáu thế! Em chỉ nghĩ ta nên cố gắng làm bạn của nhau.”

      Quan hệ của mấy chị em có phần trở nên căng thẳng sau khi Nadir Khan mất tích; và Mumtaz hề thích việc Thiếu tá Zulfikar (người quyết định buộc tội ông tôi chứa chấp đối tượng bị truy nã, và dàn xếp việc ấy với Chuẩn tướng Dodson) đến xin phép, và được phép, cưới Emerald. “Như thế khác nào tống tiền,” nghĩ. “Gì gì, còn Alia sao? Con lớn nên lấy chồng sau chót, và xem chị ấy kiên nhẫn với lái buôn cùa mình thế nào.” Nhưng gì, chỉ nở nụ cười nhẫn nại, dành trọn đức chu đáo của cho việc chuẩn bị lẽ cưới, và bằng lòng chịu khó vui vẻ chút; trong khi Alia tiếp tục chờ đợi Ahmed Sinai. (“ ấy chờ đến hết đời,” Padma đoán: chính xác.)

      Tháng năm 1946. Lều rạp, bánh kẹo, khách khứa, hát hò, dâu ngất xỉu, chú rể đứng dơ như phỗng trước quá nhiều ánh mắt nhìn vào: đám cưới linh đình... tại đây, lái buôn vải giả da, Ahmed Sinai, thấy mình hút vào câu chuyện với nàng Mumtaz vừa ly dị. “Em trẻ con? - trùng hợp quá, tôi cũng thế...” “Em chưa có con à, tội nghiệp? À, thực tế là, vợ tôi thể...” “Ôi, ; khổ thân quá; tâm tính ấy chắc xấu lắm nhỉ!” “…Ôi, như địa ngục... xin lỗi em. Cảm xúc mãnh liệt nó cuốn tôi .” “- Có sao đâu; đừng nghĩ đến nữa. Chị ấy có ném bát đĩa các thứ ?” “Có ném ấy à? tháng liền chúng tôi phải ăn bằng giấy báo!” “, trời ơi, bốc phét ghê quá!” “Ôi, nào có ăn thua, có qua được mắt em đâu. Nhưng ấy có ném .” “Khổ thân quá.” “ - em. Em mới khổ chứ.” Và nghĩ: “Người đâu mà duyên thế, bên cạnh Alia lúc nào trông ấy cũng rất buồn chán...” Và, “ này, mình chả để ý bao giờ, nhưng trời ơi...” Và, “thấy ấy trẻ con; mà như vậy mình có thể...” Và, “… Ừm, quan trọng gì cái nước da...” Dễ nhận thấy là, khi cần phải hát, Mumtaz tìm được nhiệt tình để hòa vào mọi khúc ca; trong khi Alia vẫn im lặng. bị bầm tím còn nặng hơn cả cha mình hồi ở Jallianwala Bagh; nhưng quý vị thấy dấu vết gì ở .

      “Chà, em u sầu, cũng biết đời rồi đấy nhỉ.”

      Tháng Sáu năm ấy, Mumtaz tái giá. Chị - học theo mẹ mình - chuyện với em cho đến ngày, ngay trước khi cả hai qua đời, nhìn thấy cơ hội báo thù. Aadam Aziz với Mẹ Bề cố gắng, nhưng bất thành, thuyết phục Alia rằng chuyện như thế vẫn xảy ra, thà biết sớm còn hơn muộn, rằng Mumtaz bị tổn thương sâu sắc và cần người đàn ông giúp vượt qua... vả lại, Alia có đầu óc, ổn thôi.

      “Nhưng, nhưng,” Alia , “có ai lấy sách làm vợ đâu.”

      “Em đổi tên ,” Ahmed Sinai bảo. “ đến lúc bắt đầu cuộc đời mới. Hãy vứt Mumtaz và Nadir Khan của ta ra cửa sổ, chọn cho em cái tên mới. Amina. Amina Sinai: em thấy sao?”

      sao cũng được, ông xã,” mẹ tôi đáp.

      “Dào ôi,” Alia, đứa con khôn ngoan, viết trong nhật ký, “ai thèm dính vào ba cái trò cưới xin này? phải mình: ; đời nào.”

      Mian Abdullah là khởi đầu hụt của rất nhiều kẻ lạc quan; phụ tá của ông (cái tên được nhắc đến tại nhà ông tôi) là ngoặt sai lầm của mẹ tôi. Nhưng đó là những năm hạn hán; rất nhiều mùa màng gieo trồng vào giai đoạn ấy rốt cuộc chẳng thu được gì.

      “Chuyện gì xảy ra với gã bệu kia?” Padma bực bội hỏi, “ định bảo là kể đấy chứ?”

    2. banglangtrang123

      banglangtrang123 Well-Known Member Staff Member Super Moderator

      Bài viết:
      26,213
      Được thích:
      47,825
      Chương 5: Lời tuyên bố công khai




      Rồi đến tháng hư ảo, giai đoạn tĩnh lặng bề mặt đến mức tưởng như năm 1947 chưa hề bắt đầu. (Trong khi, dĩ nhiên, thực tế...) Khi mà Phái đoàn Nội các - gồm Pethick-Lawrence già cả, Cripps khéo léo, A.V. Alexander binh gia[1] - chứng kiến kế hoạch chuyển giao quyền lực của mình đổ bể. (Nhưng dĩ nhiên, thực tế, chỉ sáu tháng nữa là đến...) Khi mà đức ngài toàn quyền, Wavell, biết rằng mình thế là hết, xong phim, hay theo ngôn ngữ biểu cảm của ta, funtoosh, ( điều, dĩ nhiên, thực tế, chỉ đẩy nhanh mọi , vì nó mở đường cho vị toàn quyền cuối cùng xuất , người ...) Khi mà Ngài Attlee hình như còn mải định đoạt tương lai của Miến Điện với Ngài Aung Sam. (Trong khi, dĩ nhiên, thực tế, ông ta dặn dò viên toàn quyền cuối cùng, trước khi tuyên bố bổ nhiệm; vị toàn-quyền-cuối-cùng tương lai yết kiến đức vua và được trao đặc mệnh toàn quyền; cho nên sớm, sớm thôi...) Khi mà Hội đồng Lập hiến tạm ngừng hoạt động, dù chưa nhất trí được về bản Hiến pháp. (Nhưng, dĩ nhiên, thực tế, Bá tước Mountbatten, viên toàn quyền cuối cùng, đến với chúng ta bất kỳ lúc nào, với tiếng tích tắc vô tình, với lưỡi dao nhà binh có thể xẻ tiểu lục địa làm ba, với bà vợ chốt cửa nhà vệ sinh ăn vụng ức gà.) Và giữa cái tĩnh lặng như gương mà qua nó người ta thể thấy bộ máy khổng lồ đương rầm rập vận hành, mẹ tôi, tân Amina Sinai phu nhân, trông vẫn bình lặng và thay đổi mặc dù những điều lớn lao diễn ra dưới da bà, sớm tỉnh dậy, với cái đầu ong ong vì mất ngủ và cái lưỡi đóng dày lớp giấc-ngủ-chưa-ngủ, bỗng thấy mình buột miệng lớn, mà hề chủ định, “Mặt trời làm gì ở đây thế này, Allah? Mọc nhầm chỗ rồi.”

      [1] Năm 1946, chính phủ cử phái đoàn đại diện nội các sang Ấn Độ để đàm phán chuyển giao quyền lực với hy vọng thành lập thể chế liên bang. Dẫn đầu đoàn là ba nhân vật kể . Huân tước Pethick-Lawrence là Bộ trưởng Ngoại giao về Ấn Độ; Cripps là Chủ tịch Ủy ban Thương mại, Alexander là Chủ tịch Cao ủy Hải quân.

      ... Tôi phải ngắt lời mình. Hôm nay tôi định thế, vì dạo này Padma tỏ ra khó chịu mỗi khi câu chuyện của tôi trở nên tự tri; mỗi khi, như múa rối kém tài, tôi để lộ bàn tay điều khiển những sợi dây; nhưng tôi chỉ muốn lời phản đối. Vậy nên chen giữa chương mà, bằng tình cờ may mắn, tôi đặt tên là “Lời Tuyên bố Công khai”, tôi đưa ra (bằng ngôn từ mạnh nhất có thể) lời cảnh báo toàn diện về y học sau: “ lão Bác sĩ N.Q. Baligga nào đấy,” tôi muốn công bố - từ mái nhà! Từ loa của các thánh đường! - “là lão lang băm. Đáng bị nhốt lại, bị tước giấy phép và ném qua cửa sổ. Hay nặng hơn: phải hứng chịu trò lang băm của chính lão, phát cùi hủi vì viên thuốc kê sai. Đồ ngu dốt khốn kiếp,” tôi nhấn mạnh, “có mắt như mù!”

      Xả giận xong rồi, tôi phải tạm để mẹ mình nghĩ ngợi thêm chút nữa về hành vi kỳ quặc của mặt trời, để giải thích rằng Padma của chúng ta, kinh hãi vì tôi đề cập đến rạn nứt, bí mật phó thác cho lão Baligga - lão ju-ju này! lão lang vườn ấy! - và do đó, tên đại bịp ấy, kẻ tôi hạ mình tô điểm bằng cách mô tả lão, liền mò đến. Tôi, hoàn toàn ngây thơ và cũng vì Padma, đồng ý cho lão khám. Lẽ ra tôi phải sợ điều tồi tệ nhất; điều tồi tệ nhất là cái lão đem lại. Quý vị tin được cứ tin: lão lừa bịp ấy tuyên bố tôi nguyên vẹn! “Tôi thấy nứt gì cả,” lão trầm giọng như đưa đám, nhưng khác Nelson tại Copenhagen[2] ở chỗ lão có con mắt sáng nào, cái mù của lão phải là lựa chọn của thiên tài ngoan cường mà là tai ương tất yếu của ngu xuẩn! Đui mù, lão nghi vấn về tình trạng tâm lý của tôi, gieo nghi ngờ về độ tin cậy của tôi trong vai trò nhân chứng. Và còngìnữaChúamớibiết: “Tôi thấy nứt gì cả.”

      [2] Đô đốc Horatio Nelson của hải quân . Trong trận chiến Copenhagen năm 1801, Nelson nhận được tín hiệu rút lui, giơ ống nhòm lên bên mắt chột và : “Tôi thấy tín hiệu gì hết.” Kết quả quân giàng chiến thắng, buộc Đan Mạch phải ngồi vào đàm phán.

      Cuối cùng, chính Padma xua lão . “ sao đâu, Bác sĩ Sahib,” , “chúng tôi tự chăm lo cho ấy.” mặt tôi thấy tự ý thức vềlỗi lầm khờ dại của mình... Baligga thế là xéo, vĩnh viễn trở lại những trang sách này. Nhưng lạy Chúa! nào nghề y – nghề nghiệp của Aadam Aziz - tụt xuống đến mức ấy? Đến cái bể phốt rặt những Baligga này? Sau cùng, nếu thế , ai cũng tự lo thân được chẳng cần bác sĩ... điều đưa tôi trở về với lý do tại sao sáng nọ Amina Sinai thức giấc với mặt trời môi.

      “Nó mọc nhầm chỗ rồi!” bà buột miệng thốt lên; rồi, giữa cơn mụ mị tan dần của đêm khó ngủ, nhận ra trong cái tháng ảo giác này mình trở thành nạn nhân của trò ảo thuật ra sao, vì mọi chuyện chẳng qua là bà vừa thức dậy ở Delhi, tại nhà người chồng mới, nhìn ra hướng Đông, về phía mặt trời; nên của vấn đề là mặt trời vẫn ở đúng chỗ, chỉ có vị trí của bà là thay đổi... nhưng kể cả khi tiêu hóa xong suy nghĩ giản đơn ấy, và cất nó cùng nhiều nhầm lẫn tương tự bà gặp phải từ khi đến đây (vì lẫn lộn về mặt trời thường xuyên xảy ra với bà, như thể trí óc bà từ chối tiếp nhận thay đổi của hoàn cảnh, vị trí mới, mặt đất của giường bà), có gì đó trong ảnh hưởng lộn xộn của nó vẫn lưu lại và khiến bà thể thấy hoàn toàn thanh thản.

      “Cuối cùng, ai cũng có thể sống vắng cha,” Bác sĩ Aziz bảo con khi chia tay; và Mẹ Bề bổ sung, “Lại thêm đứa con côi trong nhà, cáigìkhôngbiết, nhưng có sao, Muhammad cũng là con côi đấy thôi; và con cũng có thể vậy về Ahmed Sinai của con, cáigìkhôngbiết, ít nhất nó cũng là dân Kashmir nửa.” Rồi, tự tay mình, Bác sĩ Aziz chuyển chiếc rương tôn xanh lên khoang tàu nơi Ahmed Sinai chờ dâu. “Món hồi môn này xét ra chẳng nhưng cũng quá lớn,” ông . “Chúng ta chẳng phải là crorepatis[3], con cũng biết. Nhưng chúng ta cho con đủ; Amina cho con nhiều hơn.” Trong chiếc rương xanh là: ấm trà bằng bạc, sari thêu kim tuyến, những đồng vàng của các bệnh nhân hàm ơn biếu Bác sĩ Aziz, viện bào tàng trong đó những vật trưng bày tượng trưng cho những căn bệnh được chữa và những sinh mệnh được cứu. Lúc này Aadam Aziz nhấc bổng con lên (bằng chính tay mình), trao , sau món hồi môn, vào vòng tay người đàn ông đổi tên và do đó tái sinh , bởi vậy theo nghĩa nào đó trở thành cha đồng thời là chồng ... ông (bằng chính chân mình) dọc sân ga khi đoàn tàu bắt đầu lăn bánh. Như tay chạy tiếp sức ở cuốivòng đua, ông đứng đó, bị vây phủ giữa khói bụi và những người bán truyện tranh và cái hỗn loạn của những cây quạt lông công và quà vặt và hết thảy cái huyên náo trì trệ của đám phu khuân vác ngồi xổm vàbầy thú thạch cao xe đẩy khi con tàu vào guồng chạy về hướng thủ đô, bắt tốc độ để vào vòng đua tiếp. khoang tàu Amina Sinai phu nhân ngồi (nguyên đai nguyên kiện) gác chân lên chiếc rương tôn xanh, vì cao hơn tấc nên nhét vừa gầm ghế. Với đôi xăng đan gác lên bảo tàng khóa kín đựng những thành tựu của cha mình, tăng tốc tiến vào cuộc đời mới, bỏ lại sau lưng Aadam Aziz để ông dồn hết tâm huyết cho nỗ lực kết hợp các kỹ thuật của Tây y và hakim[4], nỗ lực từ từ khiến ông kiệt quệ, khiến ông nhận ra rằng thống trị của mê tín dị đoan, sùng thần bái quỷ và vô số điều huyền bí khác bao giờ bị phá vỡ ở Ấn Độ, vì các hakim từ chối hợp tác; trong khi ông già và thế giới trở nên ít thực hơn, ông bắt đầu hoài nghi đức tin của mình, nên trước khi ông nhìn thấy Chúa mà chưa bao giờ ông có thể tin hay tin, có lẽ ông đợi chờ cuộc gặp gỡ ấy.

      [3] Triệu phú ( crore là 10 triệu rupee) .

      [4] Thầy thuốc điều trị theo phương pháp cổ truyền của đạo Hồi.

      Khi tàu rời ga Ahmed Sinai bật dậy chốt cửa khoang lại rồi sập cửa chớp xuống, trước ngạc nhiên của Amina; nhưng rồi bỗng có tiếng thình thịch ở ngoài, và có bàn tay vặn nắm đấm cửa cùng tiếng nài nỉ “Cho chúng con vào với, maharaj! Maharajin, bà có đấy , bảo ông nhà mở cửa .” Và luôn như thế, mọi chuyến tàu trong truyện này đều có những nắm đấm ấy, những giọng ấy đập cửa van nài; tuyến Frontier Mail Bombay và mọi tuyến tàu nhanh những năm ấy; và nó luôn luôn đáng sợ, cho đến khi rốt cuộc tôi là kẻ ở ngoài, cố sống cố chết bám chặt, cầu xin: “Kìa, maharaj! Cho con vào với, hỡi ngài tôn kính.”

      “Dân lậu vé Ahmed Sinai , nhưng đơn giản như vậy. Họ là lời tiên tri. sớm có những lời tiên tri khác.

      ... Và lúc này mặt trời ở nhầm chỗ. Mẹ tôi nằm giường và thấy thấp thỏm; nhưng cũng háo hức vì điều vừa xảy ra trong bà và, cho tới lúc này, vẫn là bí mật của riêng bà. Cạnh bà, Ahmed Sinai ngáy hết cỡ. Ông bị mất ngủ; hề, bất chấp những rắc rối khiến ông đem về nhà cái túi xám đựng đầy tiền và giấu dưới gậm giường khi tưởng Amina để ý. Cha tôi ngủ ngon lành, cuộn mình trong bao bọc êm ái của thiên tư vĩ đại nhất ở mẹ tôi, điều hóa ra còn giá trị hơn rất nhiều những thứ trong cái rương tôn xanh: Amina Sinai dành cho Ahmed món quà là ân cần mệt mỏi của bà.

      ai nhẫn nại như Amina. Đen sậm làn da, long lanh đôi mắt, mẹ tôi sinh ra là người tỉ mỉ nhất đời. Cần mẫn, bà cắm hoa từng hành lang, từng căn phòng của ngôi nhà ở thành Delhi cũ; thảm được chọn với cẩn thận vô biên. Bà có thể bỏ ra hai mươi lăm phút nghĩ ngợi về vị trí của cái ghế. Trước khi bà hoàn thành việc xây tổ ấm, tỉa tót chỗ này tí, sửa sang chỗ kia tẹo, Ahmed thấy chỗ ở của gã mồ côi là mình đây trở nên đầy dịu dàng và thương. Amina dậy trước ông, đức cần mẫn thôi thúc bà lau chùi mọi thứ, kể cả mấy tấm mành tre (đến khi ông bằng lòng thuê hamal làm việc đó); nhưng điều mà Ahmed bao giờ biết là năng khiếu của bà được áp dụng chuyên chú nhất và bền bỉ nhất phải lên những ngoại vật trong cuộc sống của họ, mà là lên chính bản thân Ahmed Sinai ông.

      Vì sao bà lấy ông? - Vì muốn nguôi ngoai, vì cần con cái. Nhưng đầu tiên chứng mất ngủ bao bọc não bà cản trở mục đích thứ nhất; còn con cái chẳng phải bao giờ cũng đến ngay. Vậy là Amina thấy mình mơ thấy khuôn mặt thi sĩ được phép mơ và tỉnh giấc với cái tên được phép ra môi. Quý vị hỏi: rồi bà làm thế nào? Tôi trả lời: bà nghiến răng và quyết tâm chấn chỉnh lại mình. Bà tự nhủ thế này: “Đồ ngu dốt vô ơn, mày thấy bây giờ chồng mày là ai sao? Mày biết người chồng đáng được nhận những gì sao?” Để tránh tranh cãi vô bổ quanh câu trả lời đúng cho hai câu hỏi này, tôi xin rằng, đối với mẹ tôi, người chồng đáng được nhận trung thành tuyệt đối, và tình toàn tâm toàn ý. Nhưng có khó khăn: Amina, đầu óc chất chứa Nadir Khan và bệnh mất ngủ, thấy mình thể mang lại cho Ahmed Sinai những điều đó cách tự nhiên. Vậy là, vận dụng cái thiên tư cần mẫn vốn có, bà bắt đầu rèn cho mình ông. Để làm được điều đó bà chia ông, trong đầu bà, thành từng bộ phận cấu thành riêng rẽ, cơ thể cũng như hành vi, phân loại ông thành nào môi nào khẩu tật nào định kiến nào sở thích... tóm lại, bà mắc phải bùa phép của tấm ga giường khoét lỗ của cha mẹ mình, vì bà quyết tâm đem lòng chồng theo từng mảnh .

      Mỗi ngày bà chọn mảnh của Ahmed Sinai, và tập trung toàn bộ thân tâm vào nó cho tới khi nó trở nên hoàn toàn quen thuộc; cho tới khi bà thấy ưa thích dâng lên trong lòng rồi hóa thành cảm mến và, cuối cùng, tình . Cứ như thế bà đến chỗ si mê giọng quá to của ông và cái cách nó chọc vào màng nhĩ bà làm bà rùng mình; và cái quái tật là luôn vui vẻ cho đến khi cạo râu xong - sau đó sáng nào cũng vậy, tính tình ông trở nên gay gắt, cục cằn, quy củ và xa cách; và đôi mắt kền kền chứa điều bà tin chắc là nội tâm nhân hậu sau cái nhìn mơ hồ u ám; và cái cách môi dưới ông trề ra so với môi ; và cả chiều cao khiêm tốn khiến ông cấm tiệt bà giày cao gót... “Lạy Chúa,” bà tự nhủ, “xem ra ở mỗi người đàn ông có cả triệu thứ để !” Nhưng bà sờn lòng. “Rốt cuộc,” bà thầm lý luận, “có ai hiểu người khác trọn vẹn?”, và tiếp tục học cách và ngưỡng mộ thói ưa đồ nướng, tài trích thơ Ba Tư của ông, nếp nhăn giận dữ nơi chân mày ông... “Cứ thế này,” bà thầm nhủ, “ luôn có gì đó mới mẻ ở ấy để ; và cuộc hôn nhân này chẳng thể nhàm chán được.” Cứ thế, cách cần mẫn, mẹ tôi ổn định cuộc sống ở thành phố cũ. Cái rương tôn nằm im chưa mở trong cái tủ cũ.

      Và Ahmed, hề biết hay nghi ngờ, thấy bản thân và cuộc sống của mình chịu ảnh hưởng của vợ, cho đến khi, từng chút , ông trở nên giống - và sống ở nơi giống - gã đàn ông ông chưa từng biết trong căn phòng dưới mặt đất ông chưa từng thấy. Dưới tác động của thứ nhẫn thuật mơ hồ đến nỗi có lẽ Amina ý thức được mình thực nó, Ahmed Sinai thấy tóc mình thưa dần, và phần còn lại trở nên xuôi và nhờn; ông nhận ra mình sẵn lòng để nó mọc chờm quá tai. Đồng thời, dạ dày ông bắt đầu căng ra, đến khi biến thành cái bụng nhão, mềm mà tôi rất thường chết ngạt trong đó và ai trong chúng tôi, ở mọi cấp độ của ý thức, so sánh với mập lùn của Nadir Khan. em họ xa Zohra bảo ông, lả lơi, “ phải ăn kiêng , giai, kẻo chúng em chả chạmđược đến mà hôn đâu!” Nhưng chẳng ăn thua gì... và từng chút Amina tạo dựng ở Delhi Cũ thế giới của nệm mềm vàrèm cửa sổ, để ánh sáng càng ít lọt vào càng tốt... bà lèn vải đen vào mành; và hết thảy những sửa đổi vụn vặt ấy góp phần vào cái kỳ công Hercules của bà, cái nhiệm vụ chấp nhận, từng mảnh , rằng bà phải người đàn ông mới. (Nhưng bà vẫn dễ tổn thương trước hình ảnh trong mơ cấm kỵ của... và luôn bị hấp dẫn bởi những người đàn ông bụng mềm, tóc dài và xuôi.)

      Từ thành phố cũ thể nhìn thấy thành phố mới. Ở thành phố mới, chủng tộc những kẻ chinh phục da hồng xây những cung điện đá hồng; nhưng nhà cửa những con ngõ hẹp của thành phố cũ đều nhoi ra, chen chúc, nhốn nháo, chắn hết tầm nhìn của nhau về những dinh thự của quyền lực nhuộm sắc hồng. Hơn nữa cũng chẳng ai nhìn về hướng ấy. Ở những muhalla, hay khu dân cư của người đạo Hồi, tập trung quanh Chandni Chowk, người ta thỏa mãn với việc nhìn vào mảnh sân biệt lập của đời mình; với việc buông mành xuống cửa sổ và hiên nhà. Ở những con ngõ hẹp, đám thanh niên rỗi việc nắm tay và ngoắc tay và hôn nhau khi gặp gỡ và đứng thành vòng tròn mông chìa ra, mặt quay vào. Nơi này có cây xanh, còn lũ bò tránh xa, biết rằng ở đây chúng chả thiêng gì. Chuông xe đạp réo liên hồi. Và vượt lên thanh chói tai ấy là tiếng rao của những hàng hoa quả rong: Ai hoa quả đê-Ê, chà là ngon đê-Ê!

      Cùng những thanh này, vào buổi sáng tháng khi mẹ tôi và cha tôi đều bí mật giấu người kia, còn có tiếng lẹp kẹp bồn chồn của bước chân Ngài Muscapha Kemal và Ngài S.P. Butt; và tiếng lốc cốc liên hồi từ cái trống dugdugee của Lifafa Das.



      Khi những bước chân lẹp kẹp đầu tiên vang lên những con hẻm ở muhalla, Lifafa Das cùng chiếc hộp vạn hoa và cái trống vẫn còn ở đâu đó khá xa. Bốn bàn chân lẹp kẹp xuống taxi và rảo bước mấy con ngõ hẹp; trong khi đó, ở ngôi nhà góc phố, mẹ tôi đứng trong bếp rang khichri cho bữa sáng và nghe lỏm cha tôi chuyện với em họ xa Zohra. Những bàn chân lẹp kẹp qua những người bán hoa quả và những kẻ rỗi việc nắm tay nhau; mẹ tôi nghe lỏm: “...Đôi vợ chồng son nhà , em chả nhịn đượccứ phải đến ngắm, sịu sàng khôn xiết!” Trong khi những bàn chân lại gần, cha tôi đổi màu . Hồi ấy ông ở vào độ chín của quyến rũ; môi dưới ông chưa trề lắm, nếp nhăn giữa hai hàng lông mày mới chỉ lờ mờ... và Amina, đảo khichri nghe thấy Zohra ré lên, “Ui, đỏ mặt kìa! Cơ mà trắng , giai ạ!...” Và ông cho ả nghe Đài phát thanh Toàn Ấn Độ tại bàn, điều Amina được phép; Lata Mangeshkar ca bản tình ca ai oán khi “Y như em, anhthấyhông,” Zohra tiếp tục “Chúng ta có những bé con hồng hào đáng , cặp trời sinh, nhỉ, giai, đôi vợ chồng da trắng đẹp đẽ?” Những bàn chân vẫn lẹp kẹp và bàn tay vẫn đảo chảo khi “Da đen khổ đấy, giai nhỉ, sáng ra thức dậy thấy nó nhìn mình chằm chằm, và soi gương là thấy bằng chứng thấp kém của mình! Tất nhiên là họ biết; ngay dân da đen cũng biết da trắng đẹp hơn, anhnghĩvậyhông?” Những bàn chân rất gần và Amina khệ nệ bước vào phòng ăn với cái nồi tay, hết sức tập trung kiềm chế bản thân, tự nhủ Sao ả phải đến đúng ngày mình có tin muốn kia chứ rồi lát mình còn phải xin tiền trước mặt ả. Ahmed Sinai thích bà ngọt khi xin tiền ông, thích bà phỉnh nó ra khỏi túi ông bằng mơn trớn và những lời âu yếm, đến khi cái khăn ăn trồi lên lòng ông khi trong quần ông có gì ngọ nguậy; còn bà màng, bằng cần mẫn bà học cách cả điều này, và mỗi khi bà cần tiền có những vuốt ve và “Janum, cuộc sống của em, nhé...” và “... Tí chút thôi, để em làm mấy món ngon và trả hóa đơn...” và “Mình rộng rãi mà, đưa bao nhiêu tùy mình, em biết là đủ”... những thủ đoạn của lũ ăn mày và bà phải làm vậy trước mặt ả mắt thô lố hay cười rúc rích và chuyện dân da đen oang oang ấy. Những bàn chân ở sát cửa và Amina trong phòng khách với món khichri nóng hổi sẵn sàng, hết sức gần cái đầu ngu ngốc của Zhora, vừa lúc ả thốt lên, “À, ai có mặt tính nhé, tất nhiên rồi!” để phòng xa, mình có bị nghe lỏm , và “Kìa, Ahmed, giai, quá tệ khi nghĩ ý em muốn cả chị Amina dễ thương của chúng ta, người quá đen mà chỉ như phụ nữ da trắng đứng dưới bóng râm thôi!” Trong khi Amina với cái nồi tay nhìn mái đầu xinh đẹp kia và nghĩ Có nên ? Và, mình có Dám ? Rồi tự vỗ về bản thân rằng: “Hôm nay là ngày quan trọng đối với mình; và ít nhất ả cũng nhắc đến chuyện con cái; bây giờ mình dễ ...” Nhưng quá trễ, tiếng nức nở của Lata đài nhấn chìm tiếng chuông nên ai nghethấy lãoMusa giúp việc ra mở cửa;Lata che lấp tiếng chân thấp thỏm lẹp kẹp lên cầu thang; nhưng thình lình chúng ở đây, bước chân của Ngài Musupha Kemal và Ngài S.P. Butt, lệt bệt dừng lại.

      Bèlũ bất lương vừa thực hành vi phá hoại!” NgàiKemal, người gầy nhất mà Amina Sinai từng thấy, châm ngòi, bằng thứ cổ ngữ kỳ lạ (bắt nguồn từ tính thích tranh tụng của ông ta, hệ quả là ông ta nhiễm cái giọng điệu chốn pháp đình), phản ứng dây chuyền của nỗi sợ hãi khôi hài, được ngài S.P. Butt thó, the thé, dặt dẹo, có gì hoảng loạn nhảy nhót như con khỉ trong mắt, làm gia tăng đáng kể khi thốt lên bốn chữ này: “Phải, bọn hỏa tặc!” Lúc này Zohra trong phản xạ kỳ quặc siết chặt cái đài vào ngực, bóp nghẹt Lata giữa hai bầu vú, rú lên, “Ôi Chúa ơi, Ôi Chúa ơi, hỏa tặc nào, ở đâu? Ở đây à? Ôi Chúa ơi tôi thấy rực lên rồi!” Amina đứng sững với khichri tay đăm đăm nhìn hai người đàn ông mặc âu phục trong khi chồng bà, bí mật giờ ném theo gió, râu cạo nhưng đồ chưa mặc, bật dậy hỏi, “Cái godown?”

      Godown, gudam, kho hàng, quý vị gọi sao cũng được; nhưng Ahmed vừa hỏi xong câm lặng vây phủ căn phòng, dĩ nhiên trừ giọng hát của Lata Mangeshkar vẫn vọng ra từ khe ngực Zohra; vì ba người đàn ông này cũng chung nhau sản nghiệp lớn như vậy, tọa lạc tại khu công nghiệp ở ngoại ô thành phố. “Xin đừng là cái godown, Chúa phù hộ,” Amina thầm cầu khẩn, bởi việc kinh doanh reccine và vải giả da thuận lợi - qua Thiếu tá Zulfikar, giờ là sĩ quan phụ tá của Sở chỉ huy Quân tại Delhi, Ahmed Sinai ký được hợp đồng cung cấp áo giả da và khăn trải bàn thấm nước cho chính Quân đội - và số lượng lớn thứ nguyên liệu mà cuộc sống của họ trông vào được chứa ở kho hàng ấy. “Nhưng ai lại làm chuyện đó?” Zohra rền rĩ song ca với cặp vú biết hát của mình. “Bọn điên rồ nào lại sổng ra xã hội giữa thời buổi này?”... và đây là lần đầu tiên Amina nghe thấy cái tên mà chồng mình giấu giếm, cái tên mà, vào thời ấy, gieo rắc nỗi khiếp sợ cho rất nhiều người. “Đó là Ravana,” S.P. Butt đáp... nhưng Ravana là tên con quỷ nhiều đầu; vậy , lẽ nào, mặt đất này đầy quỷ dữ? “Chuyện vớ vẩn gì thế?” Amina, thốt lên với lòng căm ghét mê tín dị đoan của cha mình, cầu câu trả lời; và Ngài Kemal đáp ứng. “Đó là tên bọn cùng đồ, thưa bà; phường những quân nghịch tặc đốt nhà. Giờ là thời loạn lạc; thời loạn lạc.”

      Trong godown: từng súc từng súc vải giả da; và hàng hóa được Ngài Kemal nhập vào, gạo trà đậu lăng - ông ta thu mua số lượng lớn khắp cả nước, như hình thức phòng vệ trước con quái vật đói khát lắm đầu nhiều mồm là quần chúng, bởi, bằng , với ngần ấy cái đầu, nó ép giá cả giữa thời buổi sung túc xuống thấp (đến nỗi những thương gia lòng kính Chúa chết đói trong khi con quái vật béo ra... Kinh tế học tức là khan hiếm” Ngài Kemal lập luận, “cho nên tích trữ của tôi chỉ duy trì giá cả ở mức phải chăng, mà còn củng cố chính cơ cấu kinh tế.” Và trong kho còn có hàng dự trữ của Ngài Butt, đóng trong từng hộp các tông in dòng chữ AAG BRAND. Tôi cần mách các vị rằng aag nghĩa là lửa. S.P. Butt là nhà sản xuất diêm.

      “Nguồn tin của chúng tôi, chỉ cho biết có đám cháy tại khu công nghiệp,” Ngài Kemal . “Kho hàng chính xác chưa được xác định.”

      “Nhưng sao lại là của ta.” Ahmed Sinai hỏi. “Tại sao, ta vẫn còn thời gian nộp tiền mà?”

      “Nộp tiền?” Amina ngắt lời. “Nộp cho ai? Nộp cái gì? Mình, janum, cuộc sống của em, chuyện gì xảy ra thế?”... Nhưng “Ta phải thôi,” S.P. Butt , và Ahmed Sinai luôn, vẫn mặc bộ đồ ngủ nhàu nhĩ, lẹp kẹp bổ ra khỏi nhà với ông bạn gầy và ông bạn dặt dẹo, bỏ lại món khichri chưa đụng đũa, mấy người đàn bà mắt trợn tròn, Lata nghẹt giọng, và lơ lửng trong khí cái tên của Ravana… “ băng đảng những kẻ bất hảo, thưa bà; lũ sát nhân vô đạo và táng tận lương tâm!”

      Và những lời run rẩy cuối cùng của S.P. Butt: “Đám hỏa tặc Hindu khốn kiếp, Begum Sahiba. Nhưng người đạo Hồi chúng ta làm gì được?”



      Người ta biết gì về Ravana? Rằng ngoài mặt nó tỏ ra là phong trào chống đạo Hồi cuồng tín, phong trào mà, vào cái thời trước bạo loạn Chia cắt, cái thời đầu lợn có thể được vứt ngang nhiên bị trừng phạt giữa sân những giáo đường Thứ Sáu, có gì là xa lạ . Rằng nó cho người, giữa nửa đêm, vẽ khẩu hiệu lên tường ở cả thành phố mới lẫn cũ: CHIA CẮT! HOẶC LÀ DIỆT VONG! DÂN HỒI LÀ BỌN DO THÁI CỦA CHÂU Á!,vân vân. Vàrằng nó đốt trụi những nhà máy, cửa hiệu, kho hàng của người đạo Hồi. Nhưng chỉ có vậy, và điều này ít người biết: đằng sau lớp mặt nạ hằn thù sắc tộc ấy, Ravana là tổ chức kinh doanh đượctrù tính khôn ngoan. Những cú điện thoại nặc danh, những thư cắt dán từ báo được gửi đến các thương gia đạo Hồi, cho họ lựa chọn giữa hoặc trả khoản tiến duy nhất, dứt điểm, hoặc nhìn cơ nghiệp của mình bị thiêu rụi. Điều lý thú là, chúng cho thấy mình rất giữ lời. Tuyệt có lần thứ hai. Và chúng chơi: vắng những chiếc túi xám đầy tiền bảo kê, lửa liếm đến cửa hiệu nhà máy kho hàng. Đa số đều nộp tiền, thà như vậy còn hơn giải pháp mạo hiểm là tin vào cảnh sát. Cảnh sát, vào năm 1947, phải là đối tượng người Hồi có thể trông cậy. Và người ta còn (tuy tôi dám chắc việc này) rằng, khi thư tống tiền đến, chúng gồm cả danh sách “khách hàng mãn nguyện”, những người đóng tiền và yên ổn làm ăn. Ravana - như tất cả dân chuyên nghiệp - có giấy giới thiệu đàng hoàng.

      Hai người đàn ông mặc âu phục, vận đồ ngủ, chạy qua những con hẻm ở muhalla đạo Hồi đến chiếc taxi đợi họ Chandni Chowk. Họ thu hút những ánh mắt tò mò: chỉ vì trang phục đa dạng của họ, mà còn bởi họ cố chạy. “Đừng tỏ ra sợ hãi,” Ngài Kemal , “Bình tĩnh thôi.” Nhưng chân họ cứ mất kiểm soát và chạy cuống lên. cách giật cục, cứ chạy hộc tốc được quãng lại bộ mấy bước chẳng theo lề lối gì, họ rời khỏi muhalla; và, đường, vượtqua mặt thanh niên với chiếc hộp vạn hoa bằng sắt sơn đen có bánh xe, tay cầm cái trống dugdugee: Lifafa Das, đường đến địa điểm sắp diễn ra lời truyền tin quan trọng[5] mang lại cái tên cho chương sách này. Lifafa Das lắc trống và rao: “Lại xem vạn vật , lại xem vạn vật , lại xem ! Lại xem Delhi, lại xem Ấn Độ, lại xem ! Lại xem, lại xem !”

      [5] Theo Kinh Thánh Đại thiên sứ Gabriel báo cho đức Mẹ Maria biết bà mang thai con của Chúa. Tín đồ Thiên Chúa giáo kỷ niệm kiện này bằng lễ Truyền tin (Annunciation) vào ngày 25 tháng Ba hằng năm.

      Nhưng Ahmed Sinai còn những thứ khác phải xem.



      Bọn trẻ con ở muhalla đặt biệt hiệu cho hầu hết cư dân ở đây. nhóm ba người hàng xóm được gọi là “ba gã gà chọi” vì họ gồm tay người Sindh và tay người Bengal, hai nhà bị ngăn cách bởi trong vài hộ người Hindu hiếm hoi của muhalla. Hai tay người Sindh và Bengal có rất ít điểm chung - họ cùng thứ tiếng hay nấu cùng loại thức ăn: nhưng họ đều là tín đồ đạo Hồi, và đều ghét tay người Hindu ở giữa. Họ đổ rác sang nhà gã từ sân thượng. Họ văng những câu chửi đa ngôn ngữ vào gã từ cửa sổ. Họ ném thịt vụn trước cửa nhà gã... trong khi gã, để trả đũa, thuê lũ nhóc ném đá vào cửa sổ hai nhà kia, những hòn đá gói trong những bức thông điệp; “Chờ đấy,” thông điệp viết, “rồi đến lượt mày”... lũ trẻ ở muhalla gọi cha tôi bằng tên . Chúng gọi ông là “người theo nổi cái mũi của mình”.

      Ahmed Sinai là người sở hữu khả năng định hướng kém cỏi đến nỗi, nếu để ông tự xoay xở, ông có thể bị lạc ngay giữa những ngõ ngách vòng vèo ở gần nhà. nhiều lần lũ nhóc bụi đời tình cờ bắt gặp ông lang thang trong tuyệt vọng, và được ông cho hẳn chavanni bốn anna[6] để hộ tống ông về nhà. Tôi nhắc đến điều này vì tôi tin rằng cái năng khiếu rẽ nhầm đường này của cha tôi chỉ hành hạ ông suốt đời; nó còn là lý do khiến ông say mê Amina Sinai (bởi vì nhờ có Nadir Khan, bà cho thấy mình cũng có thể rẽ nhầm đường); và, hơn thế nữa, bất lực thể theo cái mũi của chính mình ở ông rỏ sang tôi, trong chừng mực nào đó che mờ cái di sản khứu giác mà tôi thừa kế từ những nơi khác, và khiến tôi, suốt nhiều năm ròng rã, thể đánh hơi ra con đường đúng... Nhưng giờ thế đủ rồi, vì tôi cho ba thương gia đủ thời gian đến được khu công nghiệp. Tôi chỉ thêm rằng (theo quan điểm của tôi là hệ quả trực tiếp từ việc ông thiếu khả năng định hướng) cha tôi là người, ngay giữa thời điểm thắng lợi vẫn tỏa ra mùi hôi của thất bại ở tương lai, cái hơi hám của cú rẽ nhầm ở ngay góc phố trước mặt, thứ mùi thể gột sạch bằng những lần tắm rửa thường xuyên. Ngài Kemal, người ngửi ra nó, riêng với S.P. Butt: “Mấy gã Kashmir này, ông bạn ạ: có tiếng là tắm bao giờ.” vu khống ấy gắn kết cha tôi với lão lái đò Tai... Tai trong gọng kìm của cơn thịnh nộ tự diệt khiến lão từ bỏ việc làm người sạch .

      [6] rupee = 4 chavanni; chavanni = 4 anna.

      Tại khu công nghiệp, những người gác đêm ngủ ngon lành giữa tiếng ồn ào của xe cứu hỏa. Tại sao? Thế nào? Vì họ có giao ước với băng Ravana, và, khi được báo trước về cuộc viếng thăm sắp tới của chúng, lẽ làm liều thuốc ngủ và kéo mấy cái giường charpoy ra xa các tòa nhà trong khu công nghiệp. Bằng cách này, băng Ravana tránh được bạo lực, còn mấy tay gác đêm cải thiện được đồng lương bèo bọt. Đó là dàn xếp hữu hảo và chẳng phải là thông minh.

      Đứng giữa những người gác đêm ngủ, Ngài Kemal, cha tôi, và S.P. Butt nhìn chỗ xe đạp bị hỏa táng bốc lên bầu trời theo những đám mây đen kịt. Butt cha Kemal đứng bên mấy chiếc xe cứu hỏa, lòng ngập tràn nhõm, vì đó là godown của Arjuna Indiabike cháy - cái thương hiệu Arjuna, lấy tên vị hùng trong thần thoại Hindu, che giấu được là công ty này thuộc về người đạo Hồi. Tắm trong cảm giác nhõm, cha Kemal Butt hít thở bầu khí ngập ngụa xe đạp bị phóng hỏa, ho khạc sặc sụa khi khói từ lốp xe bị hỏa thiêu, bóng ma bị hóa hơi của xích chuông ghi đông xắc cốt, những bộ khung bị chuyển hóa về chất của Arjuna Indiabikes vào rồi lại ra khỏi phổi họ. tấm mặt nạ bìa thô thiển được cắm lên cột điện tín ở trước cái godown cháy - tấm mặt nạ của nhiều khuôn mặt - tấm mặt nạ quỷ dữ hình những bộ mặt gầm ghè, với đôi môi cong rộng ngoác và lỗ mũi đỏ lòm. Những bộ mặt của con quái vật nhiều đầu, Quỷ vương Ravana, giận dữ nhìn xuống thân hình những người gác đêm ngủ ngon lành đến nỗi ai, kể cả lính cứu hỏa, lẫn Kemal, lẫn Butt, lẫn cha tôi, nỡ làm phiền họ; trong khi tro của pêđan và săm xe từ trời rơi rắc lên người họ.

      “Làm ăn tệ quá,” Ngài Kemal . Khôngphải ông ta thông cảm. Ông ta phê phán chủ nhân của công ty Arjuna Indiabike.

      Trông kìa: đám mây của tai họa (cũng là của nhõm) bốc lên và tụ lại như khối cầu giữa bầu trời buổi sớm màu. Nhìn cách nó lao về phía Tây tới trung tâm của thành phố cũ; cách nó trỏ, lạy Chúa, như ngón tay, trỏ xuống muhalla đạo Hồi gần Chandni Chowk!... Nơi, đúng lúc này, Lifafa Das cất tiếng rao ở chính con ngõ nhà Sinai.

      “Lại xem mọi thứ , xem cả thế gian , lại xem !”



      sắp đến thời điểm của lời tuyên bố công khai. Tôi phủ nhận là mình háo hức: tôi quanh quẩn ở hậu trường câu chuyện của chính tôi quá lâu, và tuy vẫn còn lúc nữa tôi mới có thể tiếp quản, nhưng ngó vào cái cũng hay. Vậy là, với niềm kỳ vọng, tôi bám theo ngón tay trỏ giữa bầu trời và nhìn xuống khu của cha mẹ tôi, xuống những xe đạp, những hàng rong mời chào món đậu chiên cuộn trong giấy báo, những kẻ rỗi việc chìa mông, nắm tay phố, những mảnh giấy bay lả tả và những cơn lốc ruồi nho bu quanh mấy quầy bánh kẹo... tất cả được rút ngắn lại dưới góc nhìn từ tít cao của tôi. Có cả lũ nhóc, hàng đàn hàng lũ, bị hút ra đường bởi liếng lốc cốc mê hoặc từ cái trống dugdugee của Das và tiếng rao của , “Dunya dekho”, lại xem cả thế gian! Những cậu bé quần soóc, áo lót, và những đứa trẻ khác, bảnh bao hơn trong đồng phục trắng, quần soóc thắt thắt lưng chun có khóa con rắn hình chữ S, những thằng bé béo tròn ngón tay múp míp; tất cả ùa đến chiếc hộp đen có bánh xe, kể cả con bé nọ, con bé có hàng lông mày dài rậm liền đường che rợp hai mắt, đứa con tám tuổi của chính gã người Sindh thô lỗ, kẻ giờ thậm chí treo lá cờ của cái quốc gia vẫn là hư cấu, của Pakistan mái nhà, người giờ thậm chí văng tục với tay hàng xóm trong khi con gã lao ra đường với đồng chavanni tay, với nét mặt của bà hoàng con, và án mạng lẩn khuất sau khóe môi. Tên nó là gì? Tòi biết; nhưng tôi biết hàng lông mày ấy.

      Lifafa Das, vì tình cờ đen đủi bày cái hộp vạn hoa màu đen cạnh bức tường mà ai đó nguệch ngoạc vẽ chữ thập ngoặc (hồi ấy quý vị thấy nó khắp nơi; đảng cực đoan R.S.S.S. vẽ nó lên mọi bức tường; phải chữ thập Quốc xã, có chiều ngược lại, mà là biểu tượng quyền lực của đạo Hindu từ xa xưa. Svasti tiếng Phạn nghĩa là tốt lành)... chàng Lifafa Das mà xuất được tôi thổi kèn gióng tróng nãy giờ là chàng trai vô hình cho tới khi cười, khi trở nên đẹp đẽ, hoặc lắc trống, khi trở nên cưỡng lại được với trẻ con. Dân dugdugee: ở khắp Ấn Độ, họ rao, “Dilli dekho,” “lại xem Delhi!” Nhưng đây là Delhi, nên Lifafa Das sửa lại lời rao cho phù hợp. “Lại xem cả thế gian, lại xem vạn vật !” Câu sáo ngữ phóng đại này, sau thời gian, bắt đầu giày vò tâm trí ; bưu thiếp chui vào cái hộp vạn hoa của mỗi lúc nhiều, trong khi nỗ lực, cách tuyệt vọng, để mang lại điều hứa, để nhét mọi thứ vào cái hộp. (Tôi chợt nhớ đến bạn họa sĩ của Nadir Khan: có phải đây là căn bệnh của Ấn Độ, cái khao khát gói trọn cả thực này? Tệ hơn: có phải tôi cũng bị nhiễm rồi ?)

      Trong chiếc hộp vạn hoa của Lifafa Das là những bức ảnh Taj Mahal, Đền Meenakshi, và sông Hằng linh thiêng; nhưng cùng với những cảnh trí nổi tiếng này người chủ hộp vạn hoa cảm thấy nỗi thôi thúc phải đưa vào những hình ảnh đương đại hơn - Stafford Cripps rời dinh cơ của Nehru; tiện dân được người ta chạm vào[7]; từng đám đông trí thức nằm ngủ đường xe lửa; ảnh phim[8] của diễn viên người Âu đội núi hoa quả đầu - Lifafa gọi nàng là Carmen Verandah; thậm chí cả bức ảnh cắt từ báo, rồi dán lên bìa, của đám cháy ở khu công nghiệp. Lifafa Das tin vào việc bảo vệ khán giả của khỏi diện mạo phải lúc nào cũng dễ chịu của thời đại... và thông thường, khi vào mấy con ngõ này, cả người lớn lẫn trẻ con đều ra xem có gì mới trong cái hộp đặt bánh xe của , và trong số những khách hàng thường xuyên nhất chính là Begum Amina Sinai.

      [7] Đẳng cấp thấp kém nhất trong xã hội Ấn Độ. Theo quan niệm cũ, người ở đẳng cấp cao hơn nếu chạm vào tiện nhân bị ô uế, phải tắm kỹ để tẩy rửa nhơ bẩn ấy.

      [8] Publicity still, hoặc film still, là những bức ảnh chụp trực tiếp cảnh phim, hoặc khung hình cắt ra từ bộ phim, chủ yếu dùng cho mục đích quảng cáo.

      Nhưng hôm nay, có gì đó kích động trong khí; có gì đó dễ vỡ và đầy đe dọa phủ lên muhalla khi đám mây của những chiếc xe Indiabike bị hỏa thiêu lơ lửng đầu... và lúc này nó sổng ra, khi con bé với hàng lông mày liền kia ré lên, giọng nó ngọng líu vẻ ngây thơ mà nó sở hữu, “Tao tước! Tránh ra... cho tao them! Tao them được!” Bởi vì có những con mắt áp vào hàng lỗ hộp, có mấy đứa trẻ bị hút vào dòng bưu thiếp, và Lifafa (mà dừng tay - tiếp tục quay cái cần để giữ cho chuỗi bưu thiếp chuyển động trong hộp), “Chỉ mấy phút thôi, bibi; rồi ai cũng đến lượt; đợi tí thôi.” Nghe vậy bà hoàng con lông mày , “! ! Tôi muốn tước!” Lifafa ngừng cười - trở nên vô hình - và nhún vai. cơn thịnh nộ bạo phát gương mặt bà hoàng con. Và giờ lời thóa mạ trỗi dậy; câu sắc nhọn chết người run lên môi con . “Mày to gan đấy, mò thới muhalla này! Tao biết mày: bố tao biết mày: ai cũng biết mày là dân Hindu!!”

      Lifafa Das đứng im lặng, quay tay quay cái hộp; nhưng lúc này vị nữ thần valkyrie[9] tóc đuôi ngựa lông mày hát và chỉ những ngón tay múp míp vào , con lũ con trai mặc đồng phục trắng và khóa thắt lưng hình rắn hòa theo, “Hindu! Hindu! Hindu!” Rồi những tấm mành vọt lên; và từ cửa sổ bố con thò đầu ra, nhập cuộc, văng tục vào mục tiêu mới, rồi tay người Bengal cũng tham gia bằng tiếng Bengal... “Quân hiếp mẹ! Kẻ xâm hại con chúng tao!”... và sực nhớ là trước đó báo đứa tin về những vụ hãm hiếp trẻ em đạo Hồi, nên đột nhiên ai đó rú lên - giọng đàn bà, của ả Zhora ngu ngốc cũng nên, “Kẻ hiếp dâm! Arre lạy Chúa họ tìm ra thằng badmaash rồi! Nó kia kìa!”Và giờ điên dại của đám mây như ngón tay trỏ và toàn bộ phi thực hỗn loạn của thời kỳ ấy siết chặt muhalla, và những tiếng hét được vọng lại từ mọi ô cửa sổ, còn lũ học trò bắt đầu hát, “Hiếp dâm! Hiếp dâm! Hiếp-hiếp- hiếp-dâm!” mà thực biết mình gì; bọn nhóc lùi xa khỏi Lifafa Das và cũng , kéo lê cái hộp có bánh xe, cố rời khỏi đây, nhưng giờ bị bao vây giữa những giọng sặc mùi máu, mấy gã rỗi việc phố tiến về phía , đám đàn ông xuống xe đạp, cái bình lao trong khí rồi vỡ vụn bức tường bên cạnh ; dựa lưng vào cánh cửa khi gã tóc chải lật bóng nhẫy nhăn nhở cười ngọt ngào với và hỏi “Sao, ông bạn: có phải ông khônghả? Ông bạn Hindu, người dâm ô con tụi này? Ông bạn sùng bái ngẫu tượng[10], người ngủ với chị ruột?” Và Lifafa “, vì lòng kính...”, nở nụ cười ngớ ngẩn... thế rồi cánh cửa sau lưng bật mở, và ngã ra sau, ngồi bệt xuống hành lang lạnh tối bên cạnh mẹ tôi Amina Sinai.

      [9] Nữ thần trong thần thoại Bắc Âu, có nhiệm vụ tuyển chọn và tiếp dẫn các chiến binh tử trận vào cung điện của thần Odin.

      [10] Đạo Hindu sùng bái thần tượng, ngược với đạo Hồi là đơn thần giáo, chỉ có duy Chúa Trời.



      mình cả buổi sáng với ả Zhora cười rúc rích và với dư của cái tên Ravana, hay biết chuyện xảy ra ngoài khu công nghiệp, để đấu óc luẩn quẩn nghĩ về chuyện thế giới này dường như hóa điên; và khi cơn gào rú bắt đầu và, Zohra - trước khi bà kịp ngăn ả lại - hùa theo, có chút gì đó sắt lại trong bà, chút gì đó ý thức rằng bà là con của cha bà, chút gì đó bóng ma ký ức về Nadir Khan núp trong ruộng ngô trốn những lưỡi dao cong, chút gì đó cảm giác ngứa ngáy nơi đường mũi, và bà xuống nhà để sắm vai cứu tinh, mặc cho Zohra rú lên, “Chị làm gì thế, chị dâu, con quái vật ấy, vì Chúa, đừng cho vào đây, chị mất trí rồi à?”... Mẹ tôi mở cửa và Lifafa Das ngã vào.

      Hãy hình dung bà sáng hôm ấy, bóng đen giữa đám đông say máu và con mồi, cái bụng căng ra với bí mật vô hình chưa : “Nào, nào,” bà tán thưởng đám đông. “ hùng gớm nhỉ! hùng quá chứ, tôi thề đấy! Vỏn vẹn năm chục người chống lại con quái vật kinh khủng là cậu thanh niên! Allah, khiến mắt tôi ngời lên vì kiêu hãnh.”

      ... Và Zohra, “Vào , chị dâu!” Và gã tóc mượt, “Bênh thằng goonda này làm gì, Begum Sahiba? Làm thế này đúng đâu.” Và Amina, “Tôi biết cậu ta. Cậu ấy là người tử tế. Thôi, , tất cả hết việc làm rồi hay sao? Giữa muhalla đạo Hồi mà định xé xác con người ta à? Thôi, giải tán hết .” Nhưng đám đông hết bất ngờ, và lại xô về phía trước... và giờ. Giờ nó đến.

      “Nghe đây,” mẹ tôi quát lên, “Nghe cho đây. Tôi sắp có con. Tôi là người mẹ sắp sinh con, và tôi che chở cho người đàn ông này. Tiến lên , nếu các người muốn giết, giết luôn người mẹ để cả thế giới biết các người là hạng người gì!”

      Đấy là đầu đuôi vì sao xuất của tôi - giáng hạ của Saleem Sinai - lại được tuyên bố trước tập hợp đông đảo quẩn chúng trước khi bố tôi biết chuyện. Có vẻ như, ngay từ thời khắc được hoài thai, tôi là tài sản công cộng.

      Nhưng mặc dù mẹ tôi đúng khi bà thực lời tuyên bố công khai, bà lại cũng sai. Đây là lý do: đứa bé bà mang trong bụng cuối cùng phải là con bà.



      Mẹ tôi đến Delhi; cần mẫn chuyên tâm vào việc chồng; bị ả Zohra và món khichri và những bước chân lẹp kẹp cản trở kịp báo tin cho ông; nghe tiếng gào rú; thực lời tuyên bố công khai. Và nó hiệu nghiệm. Lời truyền tin về tôi cứu mạng người.

      Sau khi đám đông tản , lão Musa giúp việc ra đường cứu nốt cái hộp vạn hoa của Lifafa Das, trong khi Amina đưa cho thanh niên có nụ cười đẹp đẽ hết cốc nước chanh này đến cốc nước chanh khác. Có vẻ như chuyện vừa qua hút kiệt chỉ chất lỏng mà có cả chất ngọt trong , vì mỗi cốc đều bỏ bốn thìa đưòng đầy, trong khi Zohra rúm ró vì khiếp hãi chiếc sofa.

      Và, hồi lâu sau, Lifafa Das (được bổ sung nước nhờ nước chanh, được làm ngọt vì đường) : “Begum Sahiba, bà là phụ nữ cao quý. Nếu bà cho phép, tôi xin chúc phúc cho gia đình bà; cho cả em bé chưa ra đời. Nhưng - xin bà đồng ý - tôi muốn làm việc nữa cho bà.”

      “Cảm ơn cậu,” mẹ tôi , “nhưng cậu phải làm gì cả.”

      Nhưng tiếp (đường làm ngọt giọng). “ họ tôi Shri Ramram Seth, là nhà tiên tri tài ba, Begum Sahiba. Xem tay, chiêm tinh, đoán số... Nếu bà vui lòng đến gặp ấy, ấy tiết lộ cho bà tương lai của cậu nhà.”

      Thầy bói tiên đoán về tôi... tháng năm 1947, mẹ tôi Amina Sinai được đề nghị món quà là lời tiên đoán để đền đáp món quà sinh mạng của bà. Và bất chấp Zohra: “Có họa điên mới cùng thằng cha này, chị Amina, đừng nghĩ đến việc đó, dù chỉ giây, thời buổi này là phải cẩn thận”; bất chấp hồi ức về hoài nghi của cha bà và của ngóncáivàngóntrỏ nắm quanh tai vị maulvi, lời đề nghị ấy chạm tới nơi trong mẹ tôi trả lời rằng Có. Mắc trong niềm phấn khích phi logic của tình mẫu tử tinh khôi mà bà chỉ vừa trở nên chắc chắn, “Có,” bà đáp, “Lifafa Das, mấy ngày nữa, cậu vui lòng gặp tôi ở cổng Thành Đỏ. Rồi cậu dẫn tôi đến gặp họ cậu.”

      “Tôi đợi mỗi ngày,” chắp tay lại; rồi .

      Zohra choáng váng đến nỗi, khi Ahmed Sinai quay về, ả chỉ biết lắc đầu rồi , “Vợ chồng son các vị; điên như cú ấy; thôi tôi mặc kệ chị với nhau!”

      Musa, lão giúp việc già, cũng giữ miệng. Lão luôn giữ mình ở hậu trường cuộc sống của gia đình tôi, luôn như vậy, trừ có hai lần... lần khi lão bỏ ; lần khi lão quay về để hủy hoại cả thế giới cách tình cờ.

    3. banglangtrang123

      banglangtrang123 Well-Known Member Staff Member Super Moderator

      Bài viết:
      26,213
      Được thích:
      47,825
      Chương 6: Những con quái vật nhiều đầu




      Trừ phi, tất nhiên, chẳng có gì là tình cờ hết; khi ấy Musa - bất chấp mọi già nua tận tụy của lão - là gì khác hơn trái bom hẹn giờ khẽ khàng tích tắc đến thời điểm định trước; nếu vậy, chúng ta nên - cách lạc quan - đứng dậy reo mừng, bởi nếu mọi đều được sắp đặt trước, tức là tất cả chúng ta đều có ý nghĩa, và được giải thoát khỏi nỗi khiếp sợ khi biết mình chỉ là ngẫu nhiên, hề có tại sao; hoặc là, dĩ nhiên, chúng ta có thể - như những kẻ bi quan - buông xuôi ngay tại đây ngay lúc này, nhận thức được vô ích của suy nghĩ quyết định hành động, vì ta có nghĩ gì cũng chẳng đem lại khác biệt nào; tất cả vẫn xảy ra như nó xảy ra. Vậy , lạc quan ở đâu? Trong định mệnh hay trong hỗn độn? Cha tôi lạc hay bi quan khi mẹ tôi báo tin cho ông (sau khi tất cả xóm giềng biết), và ông trả lời, “Tôi bảo mình rồi; đó chỉ là vấn đề thời gian”? Việc mẹ tôi có thai hình như được vận mệnh an bài; ra đời của tôi, tuy vậy, phần lớn là hệ quả của tình cờ.

      “Đó chỉ là vấn đề thời gian,” cha tôi , với mọi vẻ mãn nguyện; nhưng thời gian vốn bất ổn, theo kinh nghiệm của tôi, phải thứ có thể tin cậy. Nó thậm chí có thể bị chia cắt: đồng hồ ở Pakistan chạy nhanh hơn các đồng nghiệp Ấn Độ nửa tiếng... Ngài Kemal, người muốn dây dưa gì đến chuyện Chia cắt, rất hay : “Đây là minh chứng cho dớ dẩn của kế hoạch ấy! Bọn Liên đoàn này định chuồn với hẳn ba mươi phút đây mà! Thời Gian Chia Cắt,” Ngài Kemal kêu lên, “Phải thế mới đượcl” Và S.P. Butt , “Nếu chúng có thể thay đổi thời gian như thế, còn gì là thực nữa đây? Tôi hỏi ông? Còn gì là ?”

      Đó hình như là ngày của những câu hỏi lớn. Tôi trả lời, xuyên qua những năm tháng đáng tin cậy, cho S.P. Butt, người bị cắt cổ trong đợt bạo loạn Chia cắt và đánh mất hứng thú vời thời gian: “Cái gì là thực và cái gì là nhất thiết phải là .” , với tôi, là điều gì đó từ những buổi đầu đời trong những câu chuyện Mary Pereira kể tôi nghe: Mary ayah của tôi, người phải mẹ, nhưng còn hơn cả mẹ; Mary người biết hết về tất cả chúng tôi. là điều ngay sau đường chân trời mà ngón tay lão đánh cá chỉ về, ở bức tranh tường phòng tôi, khi cậu bé Raliegh lắng nghe những câu chuyện của lão. Giờ đây, viết ra chuyện này dưới quầng sáng Anglepoise của mình, tôi đo lường dựa những gì xa xưa ấy: Liệu Mary có kể như vậy ? tôi tự hỏi. Liệu ông lão đánh cá kia có thế này chăng?... Và theo tiêu chí ấy, thể phủ nhận là, vào ngày tháng năm 1947, mẹ tôi được nghe hết về tôi, sáu tháng trước khi tôi chào đời, trong khi cha tôi gặp phải quỷ vương.

      Amina Sinai vẫn đợi thời điểm thích hợp để chấp nhận đề nghị của Lifafa Das; nhưng hai ngày liền sau vụ cháy nhà kho của Indiabike, Ahmed Sinai ở lì trong nhà, hề đến văn phòng ở Connaught Place, như thể tôi luyện mình cho cuộc chạm trán lấy gì làm dễ chịu. Hai ngày liền túi tiền màu xám vẫn yên vị những tưởng trong bí mật dưới gầm giường phía ông. Cha tôi tỏ ra hề muốn về lý do xuất cái túi xám; nên Amina tự nhủ, “Kệ ấy; ai mà thèm?” vì bà cũng có bí mật của mình, kiên nhẫn đợi bà cạnh cổng Thành Đỏ đỉnh Chandni Chowk. Trề môi ra trong cơn giận hờn bí mật, mẹ tôi giữ Lifafa Das cho riêng bà. “Trừ phi và trừ khi ấy cho mình biết ấy tính chuyện gì, việc gì mình phải ?” bà lý luận.

      Và rồi buổi tối tháng lạnh giá, khi Ahmed Sinai bảo “Tối nay tôi phải ra ngoài”; rồi mặc bà van nài “Trời lạnh đấy - mình ốm mất...”, ông khoác lên người bộ âu phục và tấm áo choàng, bên dưới chiếc túi xám bí nọ lồi lên cục lộ liễu đến mức kỳ quái; nên rốt cuộc bà bảo, “Mặc ấm vào,” và thả cho ông đâu , và hỏi “Mình về muộn à?” Và ông trả lời, “Ừ, tất nhiên.” Năm phút sau khi ông , Amina Sinai lên đường đến Thành Đỏ, thẳng tiến vào trung tâm cuộc phiêu lưu của bà.



      cuộc hành trình bắt đầu ở tòa thành; cuộc kia lẽ ra phải kết thúc ở tòa thành, nhưng lại . Cuộc này dự báo tương lai, cuộc kia xác định vị trí địa lý cho tương lai ấy. hành trình, lũ khỉ nhảy múa mua vui; trong khi, ở nơi kia, con khỉ cũng nhảy múa, nhưng mang đến tai ương. Ở cả hai cuộc phiêu lưu, đều có vai trò của lũ kền kền. Và những con quái vật nhiều đầu núp ở cuối cả hai con đường.

      Từng chuyện , nhỉ... và đây là Amina Sinai dưới những bức tường cao của Thành Đỏ, nơi các Mughal từng trị vì, từ tầm cao ấy, quốc gia mới được tuyên bố thành lập... dù phải đế vương hay tín sứ, mẹ tôi vẫn được chào đón nồng nhiệt (bất chấp thời tiết). Trong ánh sáng cuối ngày, Lifafa Das hoan hỉ, “Begum Sahiba! Ôi, bà đến là hay quá!” Làn da đen trong tấm sari trắng, bà ra hiệu cho lên taxi; đưa tay định mở cửa sau; nhưng tay tài xế búng tay, “Mày nghĩ gì thế? Mày nghĩ mày là ai? Mau, lên ghế trước mà ngồi, thằng ranh vặt, để bà đây ngồi ghế sau!” Vậy là Amina ngồi chung ghế với chiếc hộp vạn hoa màu đen có bánh xe, trong khi Lifafa Das tạ lỗi, “Xin lỗi nhé, Begum Sahiba? Ý tốt tính là mạo phạm.”

      Nhưng đây, dứt khoát chờ đến lượt, là chiếc taxi khác, dừng lại ngoài tòa thành khác và thả xuống ba ông khách mặc âu phục, mỗi người xách chiếc túi xám cộm lên dưới lần áo khoác... dài như đời người và mảnh như lời dối, người thứ hai nhìn như xương xống, và người thứ ba môi dưới trề ra, cái bụng có chiều nhão phệ, mái tóc thưa dần, nhờn và chờm quá đỉnh tai, giữa hai hàng lông mày là nếp nhăn mách bảo rằng, khi ông ta về già, nó rồi hằn sâu thành vết sẹo của người đàn ông cay nghiệt, cáu kỉnh. Tay tài xế tỏ ra hồ hởi, bất chấp cái lạnh. “Purana Qila!” ta xướng to, “Mời quý khách xuống! Thành Cổ, đến nơi rồi!”... Có rất, rất nhiều thành phố Delhi, và Thành Cổ, đống đổ nát đen ngòm ấy, là Delhi xa xưa đến nỗi đặt cạnh nó, Thành phố Cũ của chúng tôi chỉ như đứa trẻ còn quấn tã. Phế tích của thời đại cổ xưa đến mức hoang đường này chính là nơi Kemal, Butt và Ahmed Sinai bị cú điện thoại nặc danh triệu đến, “Tối nay. Thành Cổ. Sau lúc mặt trời lặn. Nhưng cấm báo cảnh sát... bằng cái godown funtoosh!” Ôm chặt mấy cái túi xám, họ tiến vào cái thế giới cổ xưa, đổ nát ấy.

      ... Ôm chặt túi xách, mẹ tôi ngồi cạnh chiếc hộp vạn hoa, trong khi Lifafa Das ngồi ghế trước cạnh tay tài xế cáu kỉnh lấy làm khó hiểu, dẫn đường cho xe chạy vào những con phố ở đằng sau Bưu điện Trung tâm; và khi tiến vào những con đường đắp cao nơi cái nghèo ngốn dần lớp tarmac[1] như trận hạn hán, nơi con người ta sống cuộc đời vô hình (bởi vì họ chịu chung lời nguyền vô hình với Lifafa Das, và chẳng phải ai cũng có nụ cười rạng rỡ), có điều gì mới mẻ dồn dập ùa đến trong bà. Dưới áp lực của những con phố mỗi phút chật chội hơn, mỗi tấc đông đúc hơn, bà đánh mất “con mắt thành thị” của mình. Khi có con mắt thành thị, quý vị thể nhìn thấy những con người vô hình, những người mắc chứng phù tinh hoàn và đám ăn mày ngồi xe hộp có tác động đến quý vị, và những đoạn ống bê tông của cống thoát nước tương lai nhìn ra hình hài những cư xá.[2] Mẹ tôi đánh mất con mắt thành thị và mới mẻ của những gì bà thấy khiến bà đỏ mặt, mới mẻ như trận mưa đá đâm lên má bà. Kìa, trời ơi. lũ trẻ xinh xắn kia có hàm răng đen sì! Ai mà tin nổi... những bé phơi trần đầu vú! Kinh khủng quá mất! Và, Allah-tobah, xin Chúa chở che, những người đàn bà quét rác với - ! - gớm ghiếc quá! - cột sống sụm xuống, dăm bó chổi tre, đẳng cấp; tiện dân, lạy đức Allah!... và người què nhan nhản khắp nơi, được những bậc cha mẹ con làm cho tàn phế để đảm bảo cho chúng nguồn thu nhập trọn đời từ ăn xin... phải, ăn mày ngồi xe hộp, những người trưởng thành với đôi chân con nít, trong những hộp gỗ có bánh xe, làm bằng giày trượt patanh vứt và thùng đựng xoài cũ; mẹ tôi kêu lên, “Lifafa Das, quay lại !”... nhưng cười nụ cười rạng rỡ của , rồi , “Từ đây ta phải bộ.” Thấy rằng thể quay lại được nữa, bà bảo chiếc taxi đợi, và tay tài xế cáu bẳn nọ đáp, “Vâng, tất nhiên, với quý bà còn có việc gì khác ngoài đợi, bà khi bà về tôi phải đánh xe chạy lùi ra tận đường lớn, vì ở đây làm gì có chỗ quay đầu!”... Trẻ con giật vạt sari của bà, những cái đầu ở khắp nơi chằm chằm nhìn mẹ tôi, bà tự nhủ, cứ như mình bị con quái vật gớm ghiếc vây quanh, sinh vật toàn đầu là đầu; rồi bà tự đính chính, , tất nhiên phải quái vật, những con người khốn khổ này - vậy là cái gì? dạng quyền lực, lực lượng nhận thức được sức mạnh của mình, sức mạnh thối rữa thành bất lực vì chưa hề được sử dụng... , đây phải là những con người thối rữa, dầu gì nữa. “Mình sợ,” mẹ tôi thấy mình nghĩ vậy, đúng lúc bàn tay chạm vào tay bà. Quay lại, bà thấy mình nhìn vào gương mặt của - thể nào! - người đàn ông da trắng, bàn tay rách rưới chìa ra, và giọng như bài hát nước ngoài cao vút, “Bố thí chút gì , Begum Sahiba...” rồi cứ lặp lặp lại như đĩa hát bị vấp trong khi bà bối rối nhìn khuôn mặt trắng trẻo với hàng mi dài và chiếc mũi khoằm quý phái - bối rối, vì ta da trắng, mà ăn xin vốn phải dành cho người da trắng. “… Lặn lội từ tận Calcutta lên đây, bộ,” ta , “tro phủ đầy người, bà thấy đấy, Begum Sahiba, vì nỗi nhục nhã có mặt ở đó trong vụ Thảm sát - tháng Tám năm ngoái, bà nhớ , Begum Sahiba, hàng nghìn người bị đâm chết trong bốn ngày ngập tiếng kêu gào...” Lifafa Das bất lực đứng đó, biết phải xử ra sao trước người da trắng, dù là ăn xin, rồi “... Bà có nghe tới gã người Âu ?” người ăn xin hỏi, “... Phải, trong đám sát nhân, Begum Sahiba, ngoài phố giữa đêm với tấm áo vấy máu, gã da trắng, phát điên vì tương lai vô định của những kẻ như gã; bà có nghe ?” Và giờ, giọng như hát khó hiểu ấy tạm dừng, thế rồi: “ là chồng tôi.” Đến bây giờ mẹ tôi mới nhìn bộ ngực bị ép chặt dưới mớ áo rách... “Bố thí cho nỗi nhục của tôi.” Kéo tay bà. Lifafa Das kéo tay kia, thào, Hijra, lại cái ấy mà, thôi Begum Sahiba; và Amina đứng bất động khi bị kéo về hai hướng ngược nhau, những muốn Đợi đấy, người phụ nữ da trắng, đợi tôi xong việc , tôi đưa bà về nhà, cho bà ăn cho bà mặc, trả bà về thế giới của bà; nhưng đúng lúc đó người đàn bà nhún vai và tay bỏ xuống con phố hẹp dần, dần thành điểm cho đến khi biến mất - ngay tức ! - vào cái bần tiện xa xăm của con đường. Và giờ Lifafa Das, vẻ kỳ quái ra mặt, , “Họ funtoosh rồi! Xong hẳn! Rồi họ sớm thôi; khi đó chúng ta được tự do mà giết lẫn nhau.” Khẽ đặt bàn tay lên bụng, bà theo tiến vào ô cửa tối om, trong khi khuôn mặt bà bừng cháy.

      [1] Thứ vật liệu lát đường là hỗn nhợp của nhựa đường (tar) và đá dăm (marcadam). Rushdie chủ ý dùng những từ có gốc (tarmac và reccine đều là hai thương hiệu ở ) để thể xâm thực toàn diện của đất Ấn Độ.

      [2] Những đoạn ống bê tông cỡ lớn dùng làm đường ống thoát nước là nơi trú ngụ của những người vô gia cư.

      ... Trong khi đó, tại Thành Cổ, Ahmed Sinai chờ đợi Ravana. Cha tôi giữa buổi hoàng hôn: đứng giữa khung cửa tối om của cái từng là căn phòng giữa những tường thành đổ nát, môi dưới trề ra dày thịt, tay chắp sau lưng, đầu ngổn ngang chuyện tiền nong. Ông chưa bao giờ là người hạnh phúc. Ông mơ hồ ngửi thấy mùi thất bại từ tương lai; ông xử tệ với người hầu; có lẽ ông ước rằng, thay vì theo chân người cha quá cố vào ngành kinh doanh vải giả da, ông có dũng khí đeo đuổi cái hoài bão ban đầu của mình, sắp xếp lại kinh Quran theo trình tự thời gian chuẩn xác. (Có lần ông bảo tôi: “Khi Muhammad tiên tri, họ chép lời Ngài lên lá cọ, cất tạm bợ trong cái hộp. Lúc Ngài mất, Abu Bakr và những người khác cố nhớ lại cho đúng thứ tự; nhưng trí nhớ của họ được tốt cho lắm.” cú rẽ nhầm nữa: lẽ ra viết lại cuốn sách thiêng, cha tôi nấp trong đống đổ nát, chờ đợi lũ quái. Chẳng có gì lạ khi ông hạnh phúc; vì tôi chẳng giúp được gì. Vừa ra đời, tôi làm giập nát ngón chân ông.)... Người cha bất hạnh của tôi, tôi nhắc lại, luôn cáu kỉnh khi nghĩ về tiền bạc. Đến vợ ông, người phỉnh từng đồng rupee từ ông, và móc túi ông hằng đêm. Đến bà vợ cũ (sau cùng chết bất đắc kỳ tử, khi cãi vã với người đánh xe lạc đà và bị con lạc đà cắn vào cổ), người viết cho ông những lá thư xin xỏ bất tận, dù có khoản bồi thường ly dị. Và đến em họ Zohra, người cần tiền hồi môn từ ông, để ả có thể nuôi con mình lớn lên, cưới con ông, và nhờ thế càng đào mỏ ông được nhiều hơn. Rồi những lời hứa hẹn tiền nong của Thiếu tá Zulfikar (thời kỳ này, Thiếu tá Zulfy và cha tôi rất hợp nhau). Ngài Thiếu tá viết những lá thư , “ cần phải quyết định vì Pakistan khi nó ra đời, vì nó nhất định ra đời. Đó chắc chắn là mỏ vàng cho những người như chúng ta. Hãy để em giới thiệu với chính M.A.J,” nhưng Ahmed Sinai tin ở Muhammad Ali Jinnah, và đáp ứng đề nghị của Zulfy; nên khi Jinnah trở thành Tổng thống Pakistan, có thêm cú rẽ nhầm nữa để ta ngẫm nghĩ. Và, cuối cùng, những lá thư từ bạn cũ của cha tôi, Bác sĩ phụ khoa Narlikar, ở Bombay. “Bọn lũ lượt bỏ , Sinai bhai... Nhà đất rẻ như bèo! Bán hết ; lên đây; mua; và sống xa hoa đến hết đời!” Các tiết kinh Quran có chỗ trong cái đầu đầy tiền đến thế... và, trong lúc đó, ông ở đây, cạnh S.P. Butt người chết chuyến tàu tới Pakistan, và Mustapha Kemal người bị côn đồ giết hại trong ngôi nhà đồ sộ của ông ta ở đường Cột Cờ, ngực là dòng chữ “quân đầu cơ hiếp mẹ” viết bằng chính máu ông... cạnh hai nhân vật xấu số này, chờ đợi trong bóng tối bí mật của gian phòng đổ nát, theo dõi kẻ tống tiền đến lấy tiền. “Góc Tây Nam,” cú điện ra lệnh, “Tháp canh. Cầu thang đá bên trong. Leo lên. Chiếu nghỉ cùng. Để tiền lại. Rút. Hiểu chưa?” Coi thường mệnh lệnh, họ núp trong căn phòng đổ nát; đâu đó đầu họ, giữa chiếu nghỉ cùng của tháp canh, ba chiếc túi xám nằm chờ giữa bóng tối đổ về.

      ... Giữa bóng tối đổ về lối cầu thang ngột ngạt, Amina Sinai leo đến với lời tiên tri. Lifafa vỗ về bà; bởi vì giờ đây khi bà taxi vào cái chai chật chội nơi đến lượt có quyền thương hại bà, cảm thấy thay đổi ở bà, hối hận về quyết định của mình; trấn an bà khi họ trèo lên. Lối cầu thang tối tăm ấy đầy những mắt, những con mắt lấp loáng sau cửa chớp trước cảnh tượng người phụ nữ da đen leo cầu thang, những con mắt liếm láp người bà như những cái lưỡi mèo linh hoạt, thô ráp; và trong khi Lifafa Das , êm dịu, mẹ tôi cảm thấy ý chí bà xẹp dần, Cái gì đến, đến, sức mạnh ý thức và tự chủ rỉ từ bà vào khối bọt biển đen ngòm của bầu khí ở cầu thang. Chân bà lê từng bước nặng nề theo chân , lên những tầng cùng của tòa chawl[3] đồ sộ tù mù, khu chung cư xập xệ nơi Lifafa Das và mấy ông họ có góc , tít mái... ở đây, sát mái, bà thấy ánh sáng tối tăm len xuống đầu những người què xếp hàng. “ họ thứ hai của tôi là thầy lang bó xương,” Lifafa Das . Bà trèo qua những người đàn ông gãy tay, những người đàn bà bàn chân bị quặt ngược thành những góc khó tin, qua những người lau cửa sổ bị ngã và thợ nề rạn xương, con bác sĩ bước vào thế giới cổ xưa hơn bơm tiêm và bệnh viện; cho đến khi, rốt cuộc, Lifafa Das , “Đến nơi rồi, Begum,” và dẫn bà qua gian phòng nơi ông thầy lang bó xương buộc cành và lá cây vào những chân tay giập nát, băng những cái đầu vỡ bằng lá cọ, cho đến khi bệnh nhân bắt đầu giống những cái cây nhân tạo, cành lá trồi ra từ vết thương... rồi ra đến mảnh sân thượng rộng và bằng phẳng trát xi măng. Amina, mắt hấp háy trong bóng tối trước ánh sáng của những ngọn đèn lồng, nhận ra những hình thù quái dị sân thượng: khỉ múa may; cầy nhảy nhót; rắn lắc lư trong sọt; và bức tường bao, bóng những con chim lớn, hình dáng cũng khoằm và dữ tợn như cái mỏ của chúng: kền kền.

      [3] kiểu chung cư rẻ tiền, tiện nghi sơ sài, chỉ có ở tiểu lục địa Ấn Độ.

      “Arre baap,” bà kêu lên, “cậu đưa tôi đến đâu thế này?”

      phải lo đâu, Begum,” Lifafa Das đáp. “Đây là các họ của tôi. thứ ba và thứ tư. kia là người múa khỉ...”

      “Tập luyện ấy mà, Begum!” giọng thốt lên. “Bà xem: khỉ ra trận và hy sinh vì tổ quốc!”

      “... còn kia, xiếc chồn với rắn.”

      “Xem chồn nhảy kìa, Sahiba! Xem rắn múa kìa!”

      “... Còn lũ chim?...”

      sao đâu, thưa Bà: chẳng qua có Tháp Im lặng[4] của Bái hỏa giáo ở ngay gần đây; khi đó có người chết, lũ kền kền lại đến. Giờ chúng ngủ rồi; ban ngày chúng thích xem cấc tôi luyện tập,” tôi nghĩ vậy.

      [4] Kiến trúc thiên táng của Bái Hỏa giáo, thi hài được đặt lộ thiên đỉnh tháp.

      căn phòng , ở đầu kia sân thượng. Ánh sáng trào ra qua cánh cửa khi Amina tiến vào... và thấy, trong nhà, người đàn ông trạc tuổi chồng mình, người to béo có mấy tầng cằm, mặc chiếc quần trắng ố bẩn, áo ca rô đỏ, giày, bỏm bẻm nhai hạt hồi và uống chai Vimto, ngồi xếp bằng trong căn phòng tường là tranh vẽ mọi hóa thân của thần Vishnu, và mấy thông báo: BIẾT VIẾT, và KHÁCH NHỔ NƯỚC BỌT LÀ TẬT XẤU. Chả có đồ đạc gì... và Shri Ramram Seth ngồi xếp bằng, cách mặt đất hai mươi xăng ti mét.

      Tôi phải thừa nhận: xấu hổ thay, mẹ tôi rú lên...

      ... Trong khi, tại Thành Cổ, bầy khỉ rú lên giữa những thành lũy. Thành phố đổ nát này, bị con người bỏ hoang, giờ là nơi trú ngụ của langoor. Đuôi dài và mặt đen, lũ khỉ bị ám ảnh bởi ý niệm tối thượng về sứ mệnh. Lênlênlên chúng trèo, nhảy lên những đỉnh cao nhất của tòa thành, đánh dấu lãnh địa, rồi toàn tâm toàn ý vào việc tháo dỡ, từng hòn đá , toàn bộ pháo đài. Padma, đấy: em chưa bao giờ đến đó, chưa bao giờ đứng dưới ánh hoàng hôn nhìn những sinh vật lông lá, quyết tâm, tận lực ấy xoay xở với từng viên đá, kéo rồi lại lay, lay rồi lại kéo, gỡ từng viên ra... ngày ngày, dưới tay lũ khỉ, từng viên đá lăn xuống những bức tường, nảy lên ở chỗ góc và mặt lồi, lao xuống con hào bên dưới. ngày kia còn Thành Cổ nữa; cuối cùng, chẳng còn gì ngoài đống gạch vụn nằm dưới chân lũ khỉ reo hò chiến thắng... và đây là con khỉ, chạy dọc những bức tường thành - tôi gọi nó là Hanuman, lấy tên vua khỉ giúp Hoàng tử Rama đánh bại gã Ravana đầu tiên, Hanuman của những cỗ chiến xa biết bay... Quan sát nó khi nó lại gần ngọn tháp này - lãnh địa của nó; khi nó nhảy kêu chạy từ góc này sang góc kia giữa vương quốc của mình, chà mông lên đá; rồi dừng lại, đánh hơi thấy gì đó đáng lẽ có ở đây... Hanuman bổ về phía hốc tường này, ở chiếu nghỉ cùng, nơi ba người đàn ông bỏ lại ba vật xám mềm kỳ lạ. Và trong khi lũ khỉ nhảy nhót gác thượng đằng sau nhà bưu điện, chú khỉ Hanuman nhảy nhót đầy cuồng nộ. Vồ lấy mấy vật xám nọ. Rồi, chúng buộc khá lỏng thôi, chẳng tốn công lay kéo lại, kéo lay lại lắm đâu... xem Hanuman đây, kéo lê từng viên đá xám mềm ra mép dốc đứng của bức tường thành ngoài. Nhìn nó xé chúng ra: rột! rẹt! roạt!... Nhìn nó thành thạo bốc giấy từ bên trong mấy vật xám ra, rắc chúng xuống như trận mưa bồng bềnh để gột rửa những viên đá rơi dưới hào!... Giấy rơi xuống với vẻ duyên dáng lười nhác, miễn cưỡng, chìm xuống như hồi ức tươi đẹp vào hàm răng của bóng tối; và giờ, đạp! thụi! lại đạp! ba hòn đá xám mềm lăn khỏi mép tường, rơirơi vào bóng đêm, và cuối cùng vọng lên tiếng tõm khe khẽ đầy sầu muộn. Hanuman, công việc xong xuôi, hết hứng thú, hối hả chạy đến chóp tháp xa xa trong vương quốc của mình, bắt đầu lay hòn đá.

      ... Trong khi, bên dưới, cha tôi trông thấy hình thù kỳ quái nhô ra từ bóng tối. hay biết tí gì về tai họa vừa xảy ra đầu mình, ông quan sát con quái vật từ bóng tối của căn phòng đổ nát: sinh vật mặc quần thụng rách rưới trong cái mão hình tinh, thứ đầu ác quỷ bằng giấy bồi mỗi mặt đều là những bộ mặt cười nhăn nhở... đặc phái viên của băng Ravana. Kẻ nhận tiền. Tim đập thình thịch, ba thương gia nhìn con ma chui ra từ ác mộng của bác nông dân ấy biến mất vào lối cầu thang dẫn lên chiếu nghỉ; và lát sau, giữa cái tĩnh lặng của đêm trống trải, vang lên tiếng chửi thề vô cùng người của con quỷ. “Quân hiếp mẹ! Bọn hoạn quan từ lỗ nẻ chui lên!”... hiểu chuyện gì, họ thấy kẻ hành hạ quái dị của họ ra, lao thẳng vào bóng đêm, biến mất. Những lời chửi rủa của gã... “Lũ giao hợp đằng đít! Quân lợn đè! Đồ ăn phân chính mình!”… lởn vởn trong gió. Giờ họ leo lên, bối rối khiến tâm thần họ hoảng loạn; Butt tìm thấy mẩu vải xám bị xé rách; Mustapha Kemal cúi xuống đồng rupee nhàu nát; và có lẽ, phải, sao lại , cha tôi thoáng liếc thấy bóng đen lông lá của con khỉ... và họ đoán.

      Và giờ là tiếng rền rĩ của họ và tiếng rủa the thé của ngài Butt vọng lại lời chửi bới của con quái vật; và trận chiến nổ ra, lời, trong đầu bọn họ: tiền hay godown hay godown hay tiền? Ba thương gia cân nhắc, trong nỗi sợ hãi câm lặng, câu đố trọng yếu này - nhưng mà, dù họ có phó mặc chỗ tiền cho đàn chó và người chuyên bới rác, làm sao chặn được những kẻ châm lửa? - và rốt cuộc, sau khi ai hé răng gì, quy luật khó cưỡng của tiền tươi thóc chiếm lĩnh họ; họ bổ xuống cầu thang đá, dọc bãi cỏ, qua những lần cổng đổ nát, rồi chạy - TÁN LOẠN! - xuống đường hào, bắt đầu vốc rupee nhét vào túi, xúc lực cào lực vơ lực, mặc kệ những bãi nước đái và quả thối, ôm niềm tin trái ngược mọi khả năng rằng đêm nay - nhờ hồng ân của... - chỉ lần đêm nay thôi, băng cướp thể giáng xuống đòn báo thù của mình như hứa. Nhưng, tất nhiên...

      ... Nhưng, tất nhiên, Ramram Nhà Tiên tri phải lơ lửng giữa trung, cách mặt đất hai mươi xăng ti mét. Tiếng hét của mẹ tôi lắng ; bà nhìn kỹ lại; và bà nhận thấy cái giá , chò ra từ trong tường. “Trò rẻ tiền,” bà tự nhủ, và, “Mình làm gì ở đây thế này, ở cái xó xỉnh tồi tàn của kền kền ngủ và thợ múa khỉ, chờ nghe những thứ dớ dẩn gì biết từ lão guru[5] bay lên bằng cách ngồi giá?”

      [5] Bậc đạo sư thông thái, người hướng dẫn về tinh thần cho tín đồ Hindu.

      Điều Amina Sinai biết là, lần thứ hai trong lịch sử, tôi chuẩn bị buộc thế giới cảm thấy diện của mình. (: phải con nòng nọc giả mạo trong bụng bà đâu: tôi muốn bản thân tôi, trong vai trò lịch sử của mình, vai trò mà các vị thủ tướng viết “... đấy là, theo nghĩa nào đó, tấm gương của hết thảy chúng ta.” Đêm hôm đó, những thế lực vĩ đại vận động; và tất cả những ai có mặt sắp cảm nhận được quyền năng của chúng, và khiếp sợ.)

      Mấy em họ - từ đến bốn - vây quanh ô cửa người phụ nữ da đen vừa bước vào, bị thu hút như những con ngài tới ánh nến là tiếng hét của bà... Lặng lẽ quan sát bà dưới hướng dẫn của Lifafa Das tiến đến ông thầy bói ra dáng thầy bói, là ông lang bó xương người dụ rắn và xiếc khỉ. Giờ là những tiếng thào khích lệ (và có phải cả tiếng khúc khích sau những bàn tay thô kệch?): “Ôi số mệnh tuyệt vời lắm đấy, Sahiba!” và, “Kìa, , bà đây chờ!”... Nhưng tay Ramram này là ai? tên buôn bán cò con, gã xem tướng hai hào, kẻ ban phát mấy lời tiên đoán bùi tai cho những phụ nữ khờ khạo - hay là hàng xịn, người nắm giữ chìa khóa? Và Lifafa Das: có phải chỉ thấy, ở mẹ tôi, phụ nữ có thể thỏa mãn với trò bịp hai rupee, hay nhìn thấy sâu hơn, tới tận trái tim dưới lòng đất của nỗi yếu đuối trong bà? - Và khi lời tiên tri đến, có phải mấy em họ cũng kinh ngạc? - Rồi vụ sùi bọt mép? Cái đó sao? Và có thực là mẹ tôi, dưới tác động xáo trộn của buổi tối kích động này, từ bỏ kiểm soát đối với bản ngã quen thuộc của bà - mà bà vừa cảm thấy tuột khỏi mình rơi vào khối bọt biển hút nước của bầu khí ánh sáng cầu thang - và bước vào trạng thái tâm lý mà chuyện gì cũng có thể xảy ra và đáng tin? Và còn khả năng khác, kinh khủng hơn; nhưng trước khi lên nghi vấn của mình, tôi phải miêu tả, chính xác hết mức có thể, bất chấp tấm màn mờ đục của những mơ hồ này, điều xảy ra: tôi phải mô tả mẹ tôi, tay nghiêng ra chìa về phía người xem tướng lại gần, mắt thao láo như chú cá chim - còn mấy em (khúc khích?), “Lời đoán số bà sắp nghe hết sảy, Sahiba!” và, “ , , !” - nhưng tấm màn lại buông xuống, nên tôi dám chắc - có phải ông ta bắt đầu giống gã xiếc rong rẻ tiền, nhai lại lượt những kết hợp rỗng tuếch của đường sinh đường tâm và những đứa con trở thành triệu phú, trong khi các ông em họ tung hô, “Chà, chà!” và “Phán chuẩn quá, yara!” - thế rồi, có phải ông ta biến đổi? - có phải Ramram bỗng đờ ra - mắt trợn ngược đến khi chỉ còn lòng trắng - có phải ông ta, bằng giọng kỳ quái như tấm gương, hỏi, “Bà cho phép tôi chạm vào đó chứ, thưa Bà?” - trong khi mấy ông em họ lặng như kền kền ngủ - và có phải mẹ tôi, cũng kỳ quái như thế, đáp, “Phải, tôi cho phép,” biến ông ta thành người đàn ông thứ ba trong đời chạm vào bà, ngoài người thân trong gia đình? - và có phải, đúng thời khắc ấy, luồng diện như chớp giật nhoáng qua giữa những ngón tay múp míp và làn da người mẹ? Và mặt mẹ tôi, nghệt ra như thỏ, nhìn nhà tiên tri mặc áo ca rô bắt đầu xoay tròn, mắt vẫn trắng dã cái mềm mại của khuôn mặt; rồi chợt cơn rùng mình lan qua người ông ta và vẫn giọng cao vút kỳ dị kia phát ra từ đôi môi ông ta (tôi phải miêu tả cả đôi môi ấy nữa - nhưng để sau, vì giờ...) “Con trai.”

      Mấy em nín lặng - lũ khỉ cổ tròng dây ngừng chí chóe - rắn hổ mang cuộn mình trong giỏ - và người thầy bói vòng tròn, thấy lịch sử cất tiếng qua môi mình. (Phải thế chăng?) Bắt đầu, “Con trai... gớm thay đứa con trai!” Và nó đến, “ đứa con trai, Sahiba, bao giờ già hơn tổ quốc mình - già hơn cũng chẳng trẻ hơn.” Và giờ, nỗi sợ thực trong lòng người dụ rắn người múa chồn người bó xương và chàng hộp vạn hoa, bởi vì chưa bao giờ họ thấỵ Ramram như thế, trong lúc ông ta tiếp tục, ngân nga, cao vút lên: “Có hai cái đầu - nhưng bà chỉ thấy - có đầu gối và mũi, mũi và đầu gối.” Mũi và gối và gối và mũi... nghe kỹ nhé, Padma; ông ta cấm có sai! “Báo chí ca ngợi nó, hai mẹ nuôi dạy nó! Tụi đạp xe mê nó - nhưng đám đông chê nó! Chị em khóc; hổ mang ngóc...” Ramram, vẫn chạy vòng quanh nhanhnữanhanhnữa, trong khi bốn em xi xầm, “Gì thế này, baba?” và, “Lạy Chúa, Shiva, phù hộ chúng con!’ Trong khi Ramram, “Đồ giặt che khuất nó, giọng dẫn dắt nó! Bạn bè thương tổn nó - máu phản bội nó!” Và Amina Sinai, “Thế nghĩa là sao? Tôi hiểu - Lifafa Das - ông ấy bị sao thế?” Thế nhưng, mắt trắng dã và người xoay tít quanh bà đờ ra như tượng, Ramram Seth vẫn dừng lại: “Ống nhổ tẩy não nó, bác sĩ hút kiệt nó - rừng già chiếm nó - phù thủy tái chiếm nó! Lính tráng kết án nó - bạo chúa rán nó...” Trong khi Amina cầu xin lời giải thích và mấy em rơi vào cơn kinh hãi xoắn xuýt tay chân kìm nổi vì có gì đó chi phối tất cả và ai dám chạm vào Ramram Seth khi ông xoay tít đến đỉnh điểm: “Nó có con trai mà có con trai! Nó già trước khi nó già! Và nó chết... trước khi nó mất.

      Có phải vậy chăng ? Có phải khi đó Ramram Seth, bị tàn phá có sức mạnh lớn hơn sức mạnh của ông ta lưu chuyển qua cơ thể, đột nhiên ngã vật ra đất và sùi bọt mép? Có phải cây gậy của người múa chồn được nhét vào giữa hàm răng lập cập? Có phải Lifafa Das . “Begum Sahiba, xin bà cho: tôi đổ bệnh rồi”?

      Và cuối cùng người dụ rắn - hay tay múa khỉ, hay ông lang bó xương, hay cả Lifafa Das của chiếc hộp vạn hoa có bánh xe - , “Tiên đoán nhiều quá, giời ạ. Tối nay Ramram nhà ta tiên đoán nhiều quá đây mà.”

      Nhiều năm sau, khi ngấp nghé bước vào thời kỳ lẩm cẩm, khi đủ thứ bóng ma trào ra từ quá khứ mà nhảy múa trước mắt bà, lần nữa mẹ tôi gặp lại chàng hộp vạn hoa, người được bà cứu mạng bằng cách tuyên bố về giáng hạ của tôi và báo đáp bằng cách dẫn bà đến với quá nhiều tiên đoán, và bình thản bảo , chút cay đắng. “Cậu quay lại rồi à,” bà , “Ừm, để tôi cậu nghe điều này: tôi ước gì khi ấy mình hiểu được điều cậu - về máu, đầu gối và mũi. Vì biết đâu đấy? Tôi có thể có đứa con trai khác.”

      Như ông tôi vào buổi đầu, giữa hành lang đầy mạng nhện trong ngôi nhà người mù, rồi lần nữa vào hồi kết; như Mary Pereira sau khi mất Joseph của mình, và như tôi, mẹ tôi có biệt tài nhìn thấy ma.

      ... Nhưng giờ, bởi vẫn còn nhiều câu hỏi và mơ hồ nữa, tôi buộc phải lên vài điều nghi ngờ. Nghi ngờ cũng là con quái vật với quá nhiều đầu; vậy , vì sao tôi thể ngăn mình thả nó xông vào mẹ ruột của tôi?... Từ nào, tôi tự hỏi, miêu tả khách quan cái bụng của lão thầy bói? Và ký ức - cái ký ức mới mẻ, biết tuốt của tôi, chứa đựng hầu hết cuộc đời của cha mẹ ông bà và tất cả mọi người - đáp lời: mềm; nhão như bánh bột ngô. lần nữa, miễn cưỡng, tôi hỏi: tình trạng đôi môi lão ta thế nào? Và câu trả lời hiển nhiên: đầy; dày thịt; thi sĩ. Và lần thứ ba tôi lục vấn ký ức của mình: thế còn mái tóc? Đáp án: thưa; đen; xuôi; chờm qua tai. Và giờ nỗi nghi ngờ vô căn cứ của tôi đặt câu hỏi tối hậu... phải chăng Amina, trong trắng nhường kia, kỳ thực ... bởi yếu lòng trước những người đàn ông giống Nadir Khan, có thể nào bà lại... trong tâm trạng kỳ dị ấy, và xúc động trước bệnh tình của lão thầy bói, lẽ nào bà ... “!” Padma quát lên, thịnh nộ. “Sao dám ám chỉ? Về người phụ nữ tốt bụng ấy - mẹ đẻ ra ? Rằng bà ấy ? chẳng biết cái gì mà cũng dám thế?” Và, tất nhiên, như mọi khi, đúng. Nếu mà biết, rằng chẳng qua tôi chỉ muốn báo thù, vì điều tôi đích xác thấy Amina làm, nhiều năm về sau, qua ô cửa sổ bụi bặm của Pioneer Café; và có lẽ cái ý niệm phi lý của tôi sinh ra từ đó, nảy nở cách phi logic ngược thời gian, rồi chín muồi khi tìm đến cuộc phiêu lưu sớm hơn và, phải, hầu như chắc chắn là trong sạch này. Phải, hẳn là như thế. Nhưng con quái vật chịu nằm xuống... “À,” nó bảo, “thế còn chuyện bà ấy nổi cơn tam bành - cái hôm Ahmed thông báo họ chuyển xuống Bombay?” Giờ nó nhại lại bà: “ - lúc nào cũng quyết. Còn tôi sao? Nhỡ tôi muốn sao... Tôi chỉ vừa thu xếp cái nhà này tinh tươm xong và vừa mới...!” Nào, Padma: có phải đấy là tâm huyết của người nội trợ - hay là ngụy trang?

      Phải - ngờ vực vẫn lẩn quất đâu đây. Con quái vật chất vấn, “Tại sao bà ấy , bằng cách này hay cách khác, kể cho chồng về chuyến của mình?” Câu trả lời của bị cáo (Padma của chúng ta lên tiếng thay cho mẹ tôi vắng mặt): “Nhưng thử nghĩ xem ông ấy tức giận thế nào, lạy Chúa! Ngay cả khi có vụ hỏa tặc khiến ông ấy đau đầu! đám đàn ông lạ; bà ấy thân mình; ông ấy lại chả điên lên! Điên hẳn ấy!”

      Những nghi ngờ đáng... tôi phải gạt bỏ chúng; phải gìn giữ nghiêm khắc của mình lại cho sau này, khi, thiếu vắng mơ hồ, còn tấm rèm che phủ, bà trao cho tôi những bằng chứng ràng, xác thực, thể chối cãi.



      ... Nhưng, tất nhiên, khi cha tôi trở về nhà đêm ấy, với mùi cống rãnh lấn át thứ hơi hám quen thuộc của thất bại tương lai, mắt và má ông nước mắt hòa tro chảy thành dòng; lỗ mũi ông đầy lưu huỳnh còn đầu đầy thứ bụi xám của vải giả da ám khói... vì tất nhiên là chúng đốt trụi cái godown.

      “Nhưng còn đám gác đêm?” - ngủ, Padma, ngủ. Được cảnh báo trước rằng hãy uống thuốc ngủ để phòng khi... Mấy gã lala dũng cảm, mấy tay chiến binh Pathan ấy, những kẻ, sinh ra ở thành thị, chưa từng thấy đèo Khyber[6], mở những gói giấy , trút thứ bột màu gỉ sắt vào ấm chè sôi sục. Họ kéo mấy cái giường bạt ra xa khỏi godown của cha tôi để tránh xà nhà rơi và cơn mưa tàn lửa; rồi nằm dài giường bạt họ nhấp nước chè và tiến vào cơn mụ mị ngọt đắng của thuốc ngủ. Đầu tiên họ om sòm cả lên, lớn tiếng tán tụng những ả điếm ưa thích của mình bằng tiếng Pushtu; rồi lăn ra cười rinh rích khi những ngón tay mềm mại của thuốc ngủ ngó ngoáy cù vào sườn họ... đến khi tiếng cười nhường chỗ cho giấc mơ và họ lang thang những con đèo ở biên giới của thuốc ngủ, cưỡi bầy ngựa của thuốc ngủ, và cuối cùng đạt đến trạng thái vô giác mộng mị mà đời có thể đánh thức họ dậy chừng nào thuốc ngủ còn chưa chạy hết vòng dược lực.

      [6] Lala - người nhút nhát, ngại va chạm. Pathan, tộc người cư trú tại vùng biên giới giữa Afghanistan và Pakistan. Đèo Khyber nằm ở đây.

      Ahmed, Butt và Kemal đến nơi bằng taxi - lái xe, phát hoảng vì ba người đàn ông tay siết chặt từng nắm tiền nhàu nát bốc mùi gớm ghiếc hơn cả địa ngục vì những vật chất chẳng thơm tho gì mà chúng tiếp xúc dưới hào nước, lẽ ra chờ họ, có điều nếu vậy họ từ chối trả tiền . “Tha cho tôi, các ngài ơi,” nài nỉ, “tôi là kẻ bé mọn; đừng bắt tôi ở đây...” nhưng lúc đó lưng họ xa khỏi , tiến về ngọn lửa. nhìn họ chạy, tay siết chặt những đồng rupee nhoe nhoét cà chua và cứt chó; miệng há hốc, trân trối nhìn cái godown cháy, nhìn từng đám mây giữa trời đêm, và như tất cả những người có mặt, buộc phải hít thứ khí ngập ngụa vải giả da và diêm và gạo cháy. Tay bưng mắt, dòm qua kẽ tay, tài xế bé râu quặp thấy Ngài Kemal, mảnh như cây bút chì điên loạn, quật đá túi bụi lên thân hình say ngủ của những người gác đêm; và suýt nữa bỏ cả tiền xe mà chạy trong kinh hoàng vào lúc cha tôi hét lên, “Coi chừng!”... nhưng, vẫn ở lại bất chấp tất cả, thấy cái godown vỡ tung ra dưới sức mạnh của những lưỡi lửa liếm vào, thấy trào ra khỏi cái godown cả dòng dung nham tưởng của gạo đậu lăng đậu xanh áo khoác thấm nước hộp diêm và rau quả dầm nấu chảy, thấy từng bông hoa nóng đỏ của ngọn lửa nở bung lên trời khi các thứ trong nhà kho chảy tràn ra nền đất cứng vàng như bàn tay cháy đen của tuyệt vọng. Phải, tất nhiên cái godown bị đốt trụi, nó hóa thành than hồng từ trời trút lên đầu họ, nó xộc vào những cái miệng há hốc của đám gác đêm mình mẩy thâm tím song vẫn ngáy... “Chúa cứu vớt chúng ta,” Ngài Butt , và Mustapha Kemal, thực tế hơn, trả lời: “Ơn Chúa là ta được bảo hiểm cẩn thận.”

      “Đúng lúc đó,” về sau Ahmed Sinai bảo vợ, “đúng lúc đó tôi quyết định từ bỏ nghề buôn vải giả da. Bán cả văn phòng, cả thương hiệu, quên sạch những gì tôi biết về kinh doanh reccine. Lúc đó - trước, sau, tôi cũng đến quyết định, nghĩ ngợi gì về vụ Pakistan dớ dẩn của gã Zulfy chồng con bé Emerald nhà mình nữa. Giữa hơi nóng hầm hập của đám cháy ấy,” cha tôi thổ lộ - và giải phóng cơn tam bành của bà vợ - “tôi quyết định dọn đến Bombay, chuyển sang kinh doanh bất động sản. Nhà cửa ở đấy rẻ như bèo,” ông bảọ bà trước khi bà kịp lên tiếng phản đối, “Narlikar biết.”

      (Nhưng đến lúc, ông gọi Narlikar là quân phản bội.)

      Trong dòng họ nhà tôi, bao giờ chúng tôi cũng khi bị xô đẩy - mùa đông băng giá năm 48 là ngoại lệ duy nhất. Lão lái đò Tai đuổi ông tôi khỏi Kashmir; Mercurochrome xua ông khỏi Amritsar; tan vỡ của cuộc sống dưới thảm trực tiếp dẫn đến việc mẹ tôi rời bỏ Agra; và những con quái vật nhiều đầu đẩy cha tôi tới Bombay, để tôi có thể ra đời ở đó. Đến cuối tháng năm ấy, lịch sử rốt cuộc , bằng loạt cú xô đẩy, tự dẫn mình đến thời điểm gần như sẵn sàng để tôi xuất đầu lộ diện. Có những điều bí thể giải đáp được chừng nào tôi chưa bước lên sân khấu... chẳng hạn như điều bí trong lời nhận xét khó hiểu nhất của Shri Ramram: “ có cái mũi và đầu gối: đầu gối, và cái mũi.” Món tiền bảo hiểm đến; tháng kết thúc; và trong quãng thời gian cần thiết để đóng cửa hoạt động kinh doanh ở Delhi và dọn đến thành phố mới, nơi - như Bác sĩ phụ khoa Narlikar biết - nhà đất tạm thời rẻ như bèo, mẹ tôi chuyên tâm vào cái kế hoạch phân đoạn để học cách chồng của bà. Bà bắt đầu cảm thấy niềm say mê sâu sắc với hình dấu hỏi của đôi tai ông; với độ sâu đặc biệt của rốn ông, nơi ngón tay bà có thể vào đến hết đốt thứ nhất, mà chưa cần phải ấn; dần dần bà cả cái lồi của đầu gối ông; nhưng, dù cố gắng đến mấy (và vì dành cho bà ưu đãi do thiếu bằng chứng, tôi đưa ra đây lý do khả dĩ nào), có bộ phận ở ông bà bao giờ nổi, dù đó chính là thứ ông sở hữu, hoạt động hoàn toàn bình thường, còn Nadir Khan chắc chắn là thiếu; vào những đêm ông nhấp nhổm bụng bà - khi đứa bé trong tử cung bà chỉ bằng con ếch - bà có chút khoái cảm nào.

      ... “Đừng, đừng nhanh thế, janum, cuộc sống của em, lâu hơn chút nữa ,” bà ; và Ahmed, nhằm kéo dài thời gian, cố nghĩ đến đám cháy, đến điều cuối cùng xảy ra vào cái đêm rực lửa ấy, ngay khi quay đầu bỏ ông nghe thấy tiếng kêu ghê rợn , và, ngẩng lên, kịp thấy con kền kền - giữa đêm! - con kền kền từ Tháp Im lặng bay đầu, và vừa đánh rơi bàn tay Parsee[7] ăn dở, bàn tay phải, cái bàn tay - lúc này! - tát thẳng vào mặt ông khi rơi xuống; trong khi Amina, nằm dưới ông ở giường, tự trách mình: Sao mày thích được, đồ đàn bà ngu xuẩn, từ nay mày phải cố vào.

      [7] Nguyên văn: Parsee, tín đồ Bái hỏa giáo, đặc biệt là hậu duệ của những người từ Ba Tư chạy sang Ấn Độ trong khoảng thế kỷ 7-8 Công nguyên.

      Ngày mồng 4 tháng Sáu, đôi vợ chồng đổng sàng dị mộng rời Bombay chuyến tàu Frontier Mail. (Có tiếng đập cửa, tiếng người cố sống cố chết cầu xin, tiếng nắm đấm kêu gào, “Maharaj! Mở cửa , tích tắc thôi! Trời ơi, từ dòng sữa của lòng nhân từ, hỡi ngài tôn quý, làm ơn cứu vớt!” Và có cả - giấu dưới đống hồi môn trong chiếc thùng tôn xanh - chiếc ống nhổ cấm kỵ bằng bạc, khảm thanh kim thạch, chế tác tinh xảo.) Cùng ngày, Bá tước Mountbatten xứ Miến Điện tổ chức họp báo, tại đó ông ta tuyên bố việc Chia cắt Ấn Độ, và treo tờ lịch đếm ngược của mình lên tường: bảy mươi ngày nữa là đến thời điểm chuyển giao quyền lực... sáu mươi chín... sáu mươi tám... tích, tắc.

    4. banglangtrang123

      banglangtrang123 Well-Known Member Staff Member Super Moderator

      Bài viết:
      26,213
      Được thích:
      47,825
      Chương 7: Methwold




      Ngư dân đến đây đầu tiên. Trước tiếng tích tắc của Mountbatten, trước lũ quái vật và những lời tuyên bố công khai; khi hôn nhân dưới lòng đất vẫn là điều tưởng và ống nhổ còn chưa ai biết đến; sớm hơn Mercurochrome; xưa hơn các nữ đô vật chăng những tấm ga giường khoét lỗ; và trước, trước nữa, xa hơn Dalhousie và Elphinstone, trước khi Công ty Đông Ấn xây Pháo đài, trước William Methwold đầu tiên; vào buổi bình minh của lịch sử, khi Bombay vẫn là hòn đảo hình quả tạ tay, thắt lại ở giữa thành dải bờ hẹp lung linh mà từ đó ta có thể thấy cảng biển tự nhiên đẹp và rộng nhất châu Á, khi Mazagaon và Worli, Matunga và Mahirm, Salsette và Colaba vẫn còn là đảo - cách khác, trước thời kỳ lấn biển, trước khi tetrapod[1] và cọc chìm biến vùng Bảy Đảo thành bán đảo, dài như bàn tay tham lam xòe rộng, vươn về phía Tây ra biển Ả Rập; ở thế giới ban sơ trước thời của những tháp đồng hồ, ngư dân - được gọi là Koli - chèo những chiếc dhow Ả Rập, giương những cánh buồm đỏ nền mặt trời sắp lặn. Họ bắt cá chim cùng cua bể, và biến tất cả chúng ta thành dân mê cá. (Hay gần như tất cả. Padma quy phục dưới ma thuật huyền ngư của họ; nhưng tại nhà tôi, chúng tôi bị lây tính khác người từ huyết thống Kashmir, với lãnh đạm băng giá của bầu trời xứ Kashmir, và tiếp tục là dân ăn thịt.)

      [1] Những khối bê tông lớn có bốn chân, được sử dụng để lấp đất lấn biển.

      Khi ấy cồn có cả dừa và lúa. Và, hết, có ngự trị từ ái của nữ thần Mumbadevi, mà tên tuổi - Mumbadevi, Mumbabai, Mumbai - hẳn có thể trở thành tên thành phố. Nhưng hồi ấy, người Bồ Đào Nha đặt tên nơi này là Bom Bahia vì cảng biển của nó, chứ phải vì vị thần của ngư dân bắt cá chim… người Bồ Đào Nha là những kẻ xâm lăng đầu tiên, sử dụng cảng để che chở cho tàu buôn và chiến hạm của mình; nhưng rồi, ngày năm 1633, nhân viên ở Công ty Đông Ấn tên là Methwold hình dung ra viễn cảnh. Viễn cảnh này - giấc mơ về Bombay thuộc , thành lũy kiên cố, bảo vệ dải Tây Ấn trước mọi kẻ xâm nhập - đó là ý tưởng có sức mạnh ghê gớm đến mức khiến thời gian chuyển động. Lịch sử dâng trào; Methwold chết; năm 1660, Charles II nước đính hôn với Catharine của Gia tộc Braganza Bồ Đào Nha - chính cái bà hoàng Catharine suốt đời đóng vai đào phụ cho ả Nell bán cam[2]. Nhưng bà có niềm an ủi này - rằng chính món hồi môn của mình đem Bombay đặt vào tay người , hẳn là trong chiếc thùng tôn xanh, và đem viễn cảnh của Methwold bước nữa đến gần thực. Sau đó bao lâu, là đến ngày 21 tháng Chín năm 1668, khi Công ty Đông Ấn rốt cuộc chạm được tay vào hòn đảo... và rồi họ bắt tay làm, với Pháo đài và dự án lấn biển, và trong chớp mắt thành phố ra đời, Bombay, mà có bài ca cũ hát rằng:

      Prima in Indis,


      Cửa ngõ vào Ấn Độ


      Ngôi sao của phương Đông


      Mặt ngoảnh về phương Tây


      [2] Gwyn Nell, người bán cam chuyển nghề làm diễn viên, sau này trở thành tình nhân của Charles II.

      Bombay của chúng ta, Padma! Hồi ấy nó khác lắm có hộp đêm hay nhà máy rau quả ngâm hay khách sạn Oberoi-Sheraton hay phim trường; nhưng thành phố phát triển với tốc độ chóng mặt, có nhà thờ và bức tượng kỵ mã của vị vua chiến binh Sivaji xứ Mahratta (mà chúng tôi nghĩ là) sống dậy về đêm và phóng sầm sập những nẻo đường thành phố - dọc Đại lộ Marine Drive! bãi biển Chowpatty! Qua những ngôi nhà đồ sộ Đồi Malabar, quanh Góc phố Kemp, ngả nghiêng dọc bờ biển tới tận Scandal Point! Và phải, sao lại , chạy mãi chạy mãi, xuống đường Warden nhà tôi, dọc những bể bơi chia khu của Breach Candy, ngược lên Đền Mahalaxmi nguy nga và Câu lạc bộ Willington cũ kỹ... Suốt thời thơ ấu của tôi, mỗi khi Bombay rơi vào thời kỳ đen tối, kẻ mất ngủ đêm nào đó kể rằng mình thấy bức tượng phóng qua; tai họa, ở thành phố thời thơ ấu của tôi, nhảy múa theo điệu nhạc ma quái từ những chiếc móng bằng đá xám của con ngựa.

      Và giờ họ ở đâu, những cư dân đầu tiên ấy ? Trong số họ dừa là khá nhất. Dừa vẫn bị chặt đầu hằng ngày bãi biển Chowpatty; trong khi ở bãi Juhu, dưới ánh mắt uể oải của các minh tinh màn bạc ngụ tại Khách sạn Sun ’n’ Sand, những cậu bé vẫn thoăn thoắt trèo dừa và hái xuống thứ quả râu xồm. Dừa có cả lễ hội của riêng mình, Ngày Dừa, được tổ chức chỉ vài hôm trước ngày sinh đồng thời điểm của tôi. Về phần dừa, quý vị có thể yên tâm. Lúa may mắn thế; những ruộng lúa giờ đây vùi dưới bê tông; chung cư mọc lên nơi lúa từng ngâm mình trong bùn và từ đó ta có thể nhìn thấy biển. Thế nhưng, ở thành phố, chúng ta vẫn là dân nghiền gạo. Gạo Patna, Basmati, Kashmiri, ngày ngày vẫn đổ về thành thị; cho nên thứ gạo gốc, nguyên thủy vẫn lưu dấu ấn tất cả chúng ta, và thể chết vô ích. Về phần Mumbadevi - ngày nay bà được ưa chuộng lắm, bị thay thế bằng thần Ganesh đầu voi trong sùng bái của cư dân. Lịch lễ hội cho thấy suy vi của bà: Ganesh - “Ganpati Baba” - có lễ hội Ganesh Chaturthi của mình, khi những đám rước hoành tráng được tiền hô hậu ủng, diễu hành đến Chowpatty mang theo tượng thạch cao của vị thần, rồi ném xuống biển. Ngày Ganesh là dịp lễ cầu mưa, nó gọi gió mùa về, nó cũng được tổ chức vài ngày trước khi tôi xuất cuối kỳ tích tắc đếm ngược - nhưng còn ngày của Mumbadevi ở đâu? Nó có trong lịch. Lời nguyện cầu của dân đánh cá chim, câu khấn vái của người săn cua bể về đâu?... Trong số những cư dân đầu tiên, ngư dân Koli có kết cục thê thảm nhất. Ngày nay bị nhồi vào ngôi làng tí hon ở ngón cái của bán đảo hình bàn tay, họ được công nhận là đãmang đến cái tên cho quận - Colaba. Nhưng hãy đến cuối Đê Colaba - qua những hàng quần áo rẻ tiền và quán ăn Iran và những căn hộ hạng xoàng của giáo viên, nhà báo và thư ký - quý vị tìm thấy họ, mắc kẹt giữa căn cứ hải quân và biển cả. Và đôi khi những phụ nữ Koli, tay tanh mùi ruột cá và thịt cua, lại ngạo nghễ chen lên hàng người chờ xe buýt ở Colaba, với tấm sari màu gấc (hay tím) xắn lên đầy khiêu khích giữa hai chân, với ánh nhìn nhói lòng của những lần thất bại và bị tước đoạt xa xưa trong đôi mắt lồi có phần giống cá của họ. pháo đài, rồi đến thành phố, cướp đất của họ; máy đóng cọc (rồi tetrapod ) đánh cắp từng mảnh biển của họ. Nhưng những chiếc dhow Ả Rập vẫn đây, vẫn chiều chiều dong buồm bóng hoàng hôn... tháng Tám năm 1947, người , kẻ chấm dứt thống trị của chài lưới, dừa, lúa và Mumbadevi, chuẩn bị đến lượt mình ra ; thống trị nào là vĩnh cửu.

      Và ngày 19 tháng Sáu, hai tuần sau khi đến nơi bằng tàu Frontier Mail, cha mẹ tôi bước vào cuộc mặc cả kỳ quái với người sắp ra như vậy. Tên ông ta là William Methwold.



      Lối vào Điền trang Methwold (ta bước vào vương quốc của tôi, tiến vào trái tim của tuổi thơ tôi; cổ tôi bỗng dưng nghẹn lại) rẽ khỏi đường Warden ở đoạn giữa bến xe buýt và dãy cửa hàng . Hiệu đồ chơi Chimalkers; Thiên Đường của Độc giả[3]; hiệu kim hoàn Chimanbhoy Fatbhoy; và, hết, Bombelli hàng Bánh kẹo, với bánh Hầu tước, với Sô La Dài Cả Mét! Những cái tên lừng lẫy; nhưng giờ chưa phải lúc. qua cậu bé thị đồng bằng bìa giơ tay chào ở Hiệu giặt là Band Box, con đường đưa ta về nhà. Ngày ấy tòa cao ốc màu hường của đám đàn bà nhà Narlikar ( mô phỏng xấu xí cột sóng phát thanh ở Srinagar!) thậm chí còn chưa có trong suy nghĩ của bất kỳ ai; con đường lên quả đồi thấp, cao hơn ngôi nhà hai tầng là mấy; nó lượn vòng ra biển, nhìn xuống Câu lạc bộ Bơi lội Breach Candy, nơi dân da hồng có thể bơi trong cái bể hình Ấn-Độ-thuộc- mà chẳng sợ cọ xát phải làn da đen; và kia, bề thế tọa lạc xung quanh vòng xuyến , là bốn tòa cung điện của William Methwold, đó treo những tấm biển rồi - nhờ tôi - tái xuất nhiều năm sau, những tấm biển hai chữ; hai thôi, nhưng lùa được cặp cha mẹ khờ khạo của tôi vào trò chơi quái dị của Methwold: BÁN NHÀ.

      [3] Tên hiệu sách.

      Điền trang của MethwoId: bốn tòa nhà giống hệt nhau có phong cách kiến trúc tương xứng với những chủ nhân đầu tiên (nhà của kẻ chinh phục! Biệt thự La Mã; những ngôi nhà ba tầng của các vị thần, đỉnh Olympus hai tầng, ngọn Kailash[4] lùn!) - những dinh thự rộng, vững chãi có mái đỏ chữ A và tháp canh bốn góc, những ngọn tháp trắng ngà đội mũ ngói đỏ chóp nhọn (rất hợp để nhốt các nàng công chúa!) - những ngôi nhà có hàng hiên, nối với khu của người hầu bằng cầu thang sắt xoắn ốc khuất ở mặt sau - những ngôi nhà mà chủ nhân của chúng, William Methwold, đặt tên cách vương giả theo những cung điện châu Âu: Biệt thự Versailles, Biệt thự Buckingham, Biệt thự Escorial và Sans Souci. Hoa giấy bò khắp nơi; cá vàng bơi giữa những bể nước xanh lợt; xương rồng mọc trong thạch viên; những cây xấu hổ bé xíu chen chúc dưới mấy gốc me; có bướm và hoa hồng và cả ghế mây thảm cỏ. Và vào cái ngày giữa tháng Sáu ấy, Ngài Methwold bán những cung điện trống của mình với cái giá thấp đến kỳ cục - nhưng có số điều kiện. Và bây giờ, dền dứ thêm nữa, tôi giới thiệu ông ta với quý vị, vẹn nguyên với đường ngôi nằm giữa mái tóc... vị thần Titan cao mét tám, tay Methwold này, mặt tươi màu hoa hồng và tuổi trẻ vĩnh cửu, ông ta có mái tóc đen dày chuốt dầu thơm, rẽ ngôi ở chính giữa. Rồi ta về cái ngôi giữa này, mà thẳng thớm như cây thông nòng súng khiến MethwoId trở nên cưỡng nổi trước đàn bà, khiến họ sao kiềm chế được nổi ham muốn vò tung nó lên… Mái tóc của Methwold, rẽ ngôi giữa, liên quan rất mật thiết đến ra đời của lôi. Đó là trong những đường viền mái tóc mà dọc theo nó lịch sử và tình dục vận động. Như diễn viên xiếc dây. (Nhưng bất chấp tất cả, ngay cả tôi, người chưa từng gặp ông ta, chưa từng quan sát hàm răng sáng loáng ung dung hay mái tóc chải chuốt cầu kỳ ấy, cũng thể đem lòng oán hận ông ta được).

      [4] đỉnh núi thuộc dãy Himalaya, được coi là nơi ở của thần linh.

      Còn mũi ông ta? Trông nó thế nào? Nổi bật? Phải, hẳn rồi, di sản của người bà quý tộc Pháp - từ Bergerac! - mà dòng máu chảy trong huyết quản ông ta biếc màu bích thủy và khiến nét hào hoa phong nhã ấy tối lại với điều gì đó độc địa hơn, ánh ngọt ngào chết chóc của ngải đắng.

      Điền trang của Methwold được bán với hai điều kiện: rằng mỗi ngôi nhà được mua kèm theo tất cả mọi thứ bên trong, và toàn bộ đồ đạc phải được chủ nhân mới lưu giữ; việc chuyển giao thực diễn ra cho đến nửa đêm 15 tháng Tám.



      “Mọi thứ?” Amina Sinai hỏi. “Em thể vứt cả cái thìa? Allah, cái chụp đèn kia... Em thể bỏ cái lược?”

      “Thượng vàng hạ cám,” Methwold . “Đấy là điều kiện của tôi. Ngẫu hứng, Ngài Sinai... ngài cho phép tay thực dân sắp cuốn gói chơi trò chơi của chứ? Bọn tôi còn gì mấy để làm nữa đâu, dân bọn tôi, ngoài việc chơi trò chơi.”

      “Mình nghe này, nghe này, Amina,” sau này Ahmed , “Mình muốn sống ở cái phòng khách sạn này suốt đời à? Cái giá ấy rất tuyệt; quá tuyệt là đằng khác. Và ông ta còn làm gì được sau khi bàn giao giấy tờ? Lúc đó mình thích vứt cái chụp đèn nào vứt. Có chưa đầy hai tháng...”

      “Các vị uống cocktail trong vườn nhé?” Methwold , “Sáu giờ chiều hằng ngày. Giờ cocktail. Hai mươi năm nay chưa từng sai trật.”

      “Nhưng lạy Chúa, cái màu sơn... tủ đồ chật ních quần áo cũ, janum... ta phải sống với đống vali, chẳng có chỗ để cất lấy bộ quần áo!”

      “Làm ăn quá tệ, Ngài Sinai ạ,” Methwold nhấp ngụm Scotch giữa xương rồng và hoa hồng, “Chưa thấy thế bao giờ. Mấy trăm năm chính quyền tử tế, thế rồi đột nhiên, cắp đít luôn. Ngài phải thừa nhận là chúng tôi phải cái gì cũng xấu: làm đường sá. Trường học, tàu hỏa, và chế độ nghị viện, toàn những thứ tốn kém. Taj Mahal Mahal cứ đổ nát dần cho đến khi người chịu để mắt đến nó. Và giờ, đột nhiên, độc lập. Bảy mươi ngày để cuốn gói. Tôi cực lực phản đối việc này, nhưng biết làm gì bây giờ?”

      “… Nhìn mấy vết ố thảm mà xem, janum; suốt hai tháng ta phải sống như những người ấy à? Mình ngó vào nhà tắm chưa? có nước cạnh hố xí. Trước giờ em có tin đâu, nhưng hóa ra đúng , lạy Chúa, họ chỉ chùi đít bằng giấy thôi!...”

      “Ngài xem, Ngài Methwold,” giọng Ahmed Sinai biến đổi, trước mặt người nó biến thành bắt chước kệch cỡm chất giọng Oxford lè nhè, “sao nhất thiết phải trì hoãn? Kể ra, bán luôn là hay nhất. Giải quyết dứt điểm .”

      “… Rồi tranh vẽ mấy mụ già người ở khắp nơi, baba! Đến chỗ để treo ảnh cha tôi tường cũng chẳng còn!...’’

      “Dường như, Ngài Sinai,” Ngài Methwold rót thêm rượu vào cốc khi mặt trời lao xuống biển Ả Rập ở phía sau bể bơi Breach Candy, “bên dưới cái ngoại hình quốc cứng nhắc này chứa tâm hồn mang nỗi thèm khát dụ rất Ấn Độ.”

      “Và uống rượu nhiều quá, janum... như thế tốt.”

      “Tôi hiểu lắm - Ngài Methwold, ừm - chính xác ngài muốn ...”

      “... Chà, ngài biết đấy: ở mức độ nào đó, tôi cũng chuyển giao quyền lực. Ngứa ngáy muốn làm điều đó cùng lúc với đức ngài Raj. Như tôi ấy: trò chơi. Chiều ý tôi chứ, Sinai? cho cùng: cái giá này, chính ngài thừa nhận, hề tệ.”

      “Ông ta điên rồi à, janum? Mình nghĩ sao: giao dịch thế có an toàn , nếu ông ta bị dở hơi ?”

      “Nghe này, bà xã,” Ahmed Sinai , “ta chuyện này thế đủ rồi. Ngài Methwold là người tử tế; con nhà dòng dõi; nguời có phẩm giá; tôi để tên ông ấy bị... Và hơn nữa, những người mua khác chẳng ai làm rộn như mình đâu, tôi đảm bảo... Chưa kể, tôi nhận lời rồi, việc này chấm dứt ở đây.”

      “Làm cái kẹo giòn,” Ngài Mehwold , chìa ra cái đĩa. “Tự nhiên , Ngài S.. Phải, chuyện kỳ quái. Chưa từng thấy gì như thế. Mấy tay hàng xóm cũ của tôi - toàn dân ở nát đất Ấn Độ này rồi - tự nhiên, cắp đít luôn. Chả ra gì. Thấy Ấn Độ mất ngon. Sau đêm. Quá khó hiểu với gã đơn giản như tôi. Như thể họ phủi sạch tay - muốn mang theo mẩu nào. “Thôi bỏ ,” họ bảo. Về quê, làm lại từ đầu. Mà có thiếu tiền đâu, chẳng ai thiếu cả, ông biết đấy, nhưng ngay cả thế vẫn quá Dị. Bỏ tôi lại, ôm cả cái nhà. Rồi tôi nảy ra ý tưởng.”

      “… Phải, quyết định, quyết định,” Amina kích động , tôi ngồi đống ở đây với đứa bé, tôi còn làm được gì nữa? Tôi phải sống ở nhà người lạ với đứa bé lớn dần, sao ?... Ôi, mình bắt tôi làm những gì thế này...”

      “Đừng khóc,” Ahmed , tới lui trong phòng, “Ngôi nhà ấy tốt mà. Mình biết là mình cũng thích nó. Mà có hai tháng… chưa đầy hai tháng... sao, nó đạp à? Để tôi xem nào... Đâu? Đây à?”

      “Đấy,” Amina , lấy tay quẹt mũi, “Đạp khiếp lên được ấy.”

      “Ý tưởng của tôi,” Ngài Methwold giải thích, mắt đăm đăm nhìn mặt trời sắp lặn, “là dàn dựng việc chuyển giao tài sản của riêng tôi. Bỏ lại tất cả, ngài thấy đấy? Chọn những người thích hợp, như ngài chẳng hạn, Ngài Sinai! - rồi bàn giao tất cả nguyên vẹn tuyệt đối: trong tình trạng hoạt động hoàn hảo. Thử nhìn xem: mọi thứ đều ngon nghẻ, ngài có công nhận ? Chuẩn cẩn chỉnh, tụi tôi vẫn . Hay, như các vị trong tiếng Hindu: Sabkuch ticktock hai. Mọi thứ đều ngon lành.”

      “Mấy ngôi nhà này cũng toàn người tử tế mua thôi,” Ahmed đưa cho Amina cái khăn mùi soa, “hàng xóm mới, tử tế... nhà ông Homi Catrack bên Điện Versailles, người Parsee, nhưng là chủ ngựa đua. Sản xuất phim này kia. Rồi nhà Ibrahim bên Sans Souci, Nussie Ibrahim cũng có thai, hai người có thể là bạn bè... và ông lão Ibrahim, có mấy đồn điền sisal[5] hoành tráng ở châu Phi. Gia đình tử tế.”

      [5] loài cây cho sợi, dùng để bện dây thừng.

      “…Và sau đó tôi muốn làm gì với ngôi nhà cũng được...?”

      “Ừ, sau đó, tất nhiên, ông ta rồi còn đâu...”

      “… Tất cả được thu xếp đâu vào đấy,” William Methwold . “Ngài có biết ông tổ tôi là người có ý tưởng xây dựng cả thành phố này ? kiểu Raffles của Bombay[6]. Là hậu duệ của cụ, trong thời khắc trọng đại này, tôi thấy, tôi biết, cần phải đóng vai của mình. Phải, tuyệt vời... bao giờ ngài dọn đến? câu là tôi dọn ra Khách sạn Taj ngay. Mai à? Tuyệt lắm. Sabkuch ticktock hai.”

      [6] Sir Thomas Stamford Raffles, người thiết lập thương cảnh ở Singapore năm 1818.



      Đây là những người sống quanh tôi thời thơ ấu: Ngài Homi Catrack, đại gia điện ảnh và chủ ngựa đua, có đứa con ngớ ngẩn Toxy, phải bị nhốt cùng bà bảo mẫu, Bi-Appah, người đàn bà đáng sợ nhất tôi từng biết; rồi nhà Ibrahim ở Sans Souci, ông lão Ibrahim Ibrahim có chòm râu dê và sisal, hai ông con trai Ismail và Ishaq, và vợ Nussie thó le te đen đủi của Ismail, mà tụi tôi vẫn gọi là Nussie-vịt-bầu vì cái dáng lạch bạch, chủ nhân của cái tử cung trong đó thằng Sonny bạn tôi lớn dần, ngay lúc này, càng lúc càng đến gần hơn cái tai ương vối chiếc kẹp phụ khoa... Biệt thự Escorial được chia thành nhiều căn hộ. Tầng trệt là nhà Dubash, chồng là nhà vật lý trở thành ngọn hải đăng của trung tâm nghiên cứu nguyên tử Trombay, vợ là phụ nữ tầm thường mà dưới vẻ nhạt nhẽo giấu cuồng tín tôn giáo thực thụ - nhưng tôi để nó nằm yên đó, chỉ đề cập đến việc họ là bố mẹ thằng Cyrus (mà vài tháng nữa mới được thụ thai), sư phụ đầu tiên của tôi, đứa chuyên đóng vai con trong những vở kịch ở trường, và biệt hiệu là Cyrus-đại-đế. Tầng là bạn của bố tôi Bác sĩ Narlikar, người cũng mua căn hộ ở đây... ông ta cũng đen như mẹ tôi: có khả năng tỏa sáng rực rỡ mỗi khi hưng phấn hay hứng tình; ghét trẻ con, dù chính ông ta đưa chúng tôi ra đời; và giải phóng ra thành phố, khi ông ta chết, đám đàn bà có thể làm mọi chuyện và chướng ngại gì cản được bước tiến của họ. Và, cuối cùng, ở tầng cao nhất, là Trung tá Sabarmati và Lila - Sabarmati, ngôi sao lên của Hải quân, cùng vợ với những sở thích đắt tiền; ta vẫn chưa tin nổi vận may của mình khi kiếm được cho nàng căn nhà rẻ thế. Họ có hai con trai, mười tám tháng và bốn tháng, lớn lên thành hai thằng nhóc chậm chạp hiếu động, biệt hiệu Mắt Ghẻ và Tóc Dầu; cả hai biết (sao mà biết được?) rằng tôi hủy hoại cuộc đời tụi nó... Được William Methwold lựa chọn, những người hình thành trung tâm thế giới của tôi dọn đến Điền trang, và chịu đựng ngẫu hứng kỳ quặc của người nọ - vì cái giá, cho cùng, quá tốt.

      ... Ba mươi ngày nữa là đến ngày chuyển giao quyền lực và Lila Sabarmati chuyện điện thoại, “Làm sao chị chịu được hả, Nussie? Ở đây phòng nào cũng có lũ vẹt biết , và trong almirah[7] tôi thấy đầy váy bị nhậy cắn với xu chiêng cũ!’’... Rồi Nussie mách Amina, “Cá vàng, Allah, tôi chịu nổi bọn nó, nhưng Methwold sahib tự mình đến cho chúng ăn... rồi mấy nồi Bovril[8] dở mà ông ấy bảo tôi được vứt ... điên rồi, chị Amina ạ, chúng ta làm gì thế này?”... Còn ông lão Ibrahim nhất định chịu bật cái quạt trần trong phòng ngủ, lủng bủng, “Cái máy ấy rơi - nó chặt đầu tao xuống giữa đêm - thứ nặng như thế dính trần được bao lâu?”... Còn Homi Catrack, dạng nhà tu khổ hạnh, buộc phải nằm chiếc đệm to và êm, ông ta bị đau lưng và mất ngủ, còn những vòng đen hệ quả của giao phối cận huyết trong mắt ông ta bị bao quanh bởi từng quầng thâm mất ngủ, và đám người làm bảo nhau, “Thảo nào các sahib ngoại quốc đều bỏ , sahib ạ, họ chắc là thèm ngủ chết được.” Nhưng tất cả vẫn kiên gan bám trụ; và ngoài những vấn đề cũng có cả những ưu điểm. Hãy nghe Lila Sabarmati (“ ả ấy - đẹp đến nỗi khó mà đứng đắn được” mẹ tôi )... “ chiếc pianola[9], chị Amina! Và nó vẫn chạy. Suốt ngày em chỉ ngồi và ngồi, bật đủ thứ trời dưới biển! “Đôi Tay Trắng Xanh Em Bên Vườn Shalimar... vui , vui lắm ấy, chị chỉ cần nhấn cần đạp!”... Còn Ahmed Sinai tìm thấy tủ cocktail ở Biệt thự Buckingham (vốn là tư gia của chính Methwold trước khi trở thành nhà tôi); ông khám phá hưng phấn đến từ whisky Scotch hảo hạng và , “ sao? Ngài Methwold chỉ hơi lập dị chút, thế thôi - chả lẽ chúng ta chiều nổi ông ấy? Với nền văn minh lâu đời của mình, chả lẽ chúng ta thể văn minh như ông ấy?”... và làm hơi cạn cốc. Ưu và nhược điểm: “Cả lũ chó phải trông nom, chị Nussie,” Lila Sabarmati cằn nhằn. “Em ghét chó, ghét lắm ấy. Và em mèo bé bỏng choochie của em, dễ sương lắm cơ, nó sợ chết khiếp ấy!”... Và Bác sĩ Narlikar, lung linh lên vì bực bội, “Ngay đầu giường tôi! Toàn tranh trẻ con, Sinai! Đấy xem: Béo! Hồng! Ba đứa! Nghe có được ?”... Nhưng giờ khi chỉ còn hai mươi ngày nữa, tình hình lắng dịu dần, mặt gai góc của mọi việc cũng nhòa , nên tất cả ai nhận thấy điều diễn ra: tòa Điền trang, Điền trang của Methwold, thay đổi họ. Tối tối cứ sáu giờ họ lại ra vườn, bày tiệc cocktail, và khi William Methwold ghé thăm, họ vào rất ngọt những vai giả giọng Oxford lè nhè; và họ học, về quạt trần và bếp ga và chế độ ăn thích hợp cho lũ vẹt đuôi dài, còn Methwold giám sát biến đổi của họ, lầm rầm khe khẽ. Nghe cho kỹ: ông ta gì? Phải, đúng vậy. “Sabkuch ticktock hai,” William Methwold lầm rầm. Ngon lành cả.

      [7] Tủ quần áo

      [8] nhãn hiệu nước thịt hầm của

      [9] Loại đàn piano tự động, chơi những cuộn nhạc bấm lỗ



      Khi ấn bản Bombay của tờ Thời báo Ấn Độ vốn tìm kiếm phóng chân dung hấp dẫn nhằm chào mừng ngày Độc lập sắp tới, tuyên bố trao giải thưởng cho bất kỳ bà mẹ Bombay nào có thể sắp xếp sinh em bé đúng vào thời điểm ra đời của quốc gia mới, Amina Sinai, vừa tỉnh dậy sau giấc mơ bí về giấy bẫy ruồi, bèn dán mắt vào tờ báo. Tờ báo được gí vào mũi Ahmed Sinai; và ngón tay Amina, đắc thắng chọc vào trang báo, nhấn mạnh quả quyết tuyệt đối trong giọng bà.

      “Thấy chưa, janum ?” Amina tuyên bố. “Chính là em đấy.”

      lên, trước mắt họ, là viễn cảnh về những dòng tít in đậm loan tin “ Tấm hình Duyên dáng của Bé Sinai - Đứa trẻ của Giờ phút Huy hoàng này!” - viễn cảnh về những tấm-hình-em-bé A-1 thượng-hạng trang-nhất cỡ-đại; nhưng Ahmed bắt đầu phản bác, “Thử tính đến khả năng trượt xem, Begum,” cho đến khi bà mím chặt môi lại đầy bướng bỉnh, và lặp lại, “ có nhưng nhị gì cả; chắc chắn đó là em; em biết chắc là như thế. Đừng hỏi sao em biết.”

      Mặc dù Ahmed thuật lại lời tiên đoán của vợ mình cho William Methwold như chuyện cười bên bàn cocktail, Amina vẫn lay chuyển, kể cả khi Methwold bật cười, “Trực giác của phụ nữ - tuyệt , bà S.! Nhưng quả , bà khó có thể chờ đợi chúng tôi ...” Ngay cả trước áp lực từ ánh mắt khó chịu của ả hàng xóm Nussie-vịt-bầu, người cũng có thai, và cũng đọc tờ Thời báo Ấn Độ, Amina vẫn sờn lòng, vì lời tiên tri của Ramram ngấm sâu vào tim bà.

      Thành thực mà , càng về sau trong thời kỳ mang bầu, Amina càng thấy lời thầy bói mỗi lúc đè nặng hơn lên vai bà, đầu bà, quả bóng căng tròn của bà, nên khi mắc vào mạng nhện của nỗi lo âu sinh ra đúa trẻ hai đầu, bà bằng cách nào đó thoát khỏi cái ma lực vi diệu của Điền trang Methwold, và miễn nhiễm với tiệc cocktail, vẹt đuôi dài, pianola và giọng . Ban đầu, có gì đó mơ hồ trong quả quyết của bà rằng mình giành được giải thưởng của tờ Thời báo, bởi bà thuyết phục bản thân rằng nếu phần này trong lời đoán mệnh của ông thầy bói ứng nghiệm, nó chứng tỏ rằng những gì còn lại cũng chính xác như vậy, bất kể ý nghĩa của chúng là gì. Cho nên đó hề là sắc của niềm tự hào và mong đợi thuần túy khi mẹ tôi đáp, “Chẳng trực giác gì hết, Ngài Methwold ạ. Đây là được bảo đảm.”

      Với chính mình bà thêm: “Còn điều này nữa: ta đứa con trai. Nhưng nó cần được chăm sóc rất nhiều, nếu ...”

      Tôi cảm thấy, sâu trong huyết quản mẹ tôi, có lẽ sâu hơn bà nghĩ, những tư tưởng siêu nhiên của Naseem Aziz bắt đầu tác động tới suy nghĩ và hành động của bà - những tư tưởng thuyết phục Mẹ Bề rằng máy bay là phát minh của quỷ dữ, rằng máy ảnh có thể đánh cắp linh hồn ta, rằng hồn ma cũng là phần tất yếu cùa thực như Thiên Đường, rằng đặt những vành tai rất thánh nào đấy giữa ngón cái và ngón trỏ là tội lỗi hơn kém, lúc này thầm vào cái đầu tối lại của con bà. “Dù chúng ta ngồi giữa đống rác quốc này,” mẹ tôi bắt đầu nghĩ, “đây vẫn là Ấn Độ, và những người như Ramram Seth vẫn biết cái mà họ biết.” Cứ thế, thái độ hoài nghi của người cha kính của bà bị thay thế bằng tính cả tin của bà ngoại tôi; và, đồng thời, đốm lửa phiêu lưu Amina thừa kế từ Bác sĩ Aziz bị dập tắt bởi sức nặng khác, có trọng lượng tương đương.

      Tới khi mùa mưa đến vào cuối tháng Sáu, cái bào thai thành hình trọn vẹn trong tử cung bà. Đầu gối và mũi xuất ; và có bao nhiêu cái đầu bấy nhiêu vào vị trí. Thứ từng (vào buổi ban đầu) bằng dấu chấm to dần lên thành dấu phẩy, từ, câu, đoạn, chương; lúc này nó bùng nổ với những bước phát triển phức tạp hơn, trở thành, có thể , quyển sách - hẳn là cuốn bách khoa toàn thư - thậm chí cả ngôn ngữ... như vậy để rằng cái khối u người mẹ tôi phát triển quá to, và trở nên quá nặng, đến nỗi trong khi đường Warden dưới chân ngọn đồi hai tầng nhà tôi ngập đầy nước mưa vàng khè bẩn thỉu và những chiếc xe buýt bỏ bắt đầu hoen gỉ và bọn trẻ con bơi giữa con đường chất lỏng còn những tờ báo ướt sũng chìm trong nước, Amina thấy mình trong gian tháp canh hình tròn dưới tầng , hầu như thể di chuyển dưới trọng lượng của trái bóng nặng như chì.

      Mưa dứt. Nước ngấm vào dưới những ô cửa nơi từng đóa tulip thủy tinh màu nhảy múa các ô kính nẹp chì. Khăn tắm, được ốp vào khung cửa, hút nước cho đến khi nặng trĩu, sũng nước, vô dụng. Biển: xám xịt và trĩu nặng và vươn dài để gặp những quầng mây nơi chân trời bị co hẹp. Mưa đánh trống vào tai mẹ tôi, góp phần vào hỗn loạn của thầy bói và tính cả tin kế thừa từ mẹ và diện gây xáo trộn của những vật thuộc sở hữu người lạ, khiến bà tưởng tượng ra đủ thứ kỳ quái. Nằm chết gí dưới đứa con lớn dần, Amina hình dung ra bà là tên giết người bị kết án dưới thời đại đế Mughal, cái thời mà chết vì bị nghiền nát dưới tảng đá là hình phạt phổ biến... và những năm sau này, mỗi lần nhìn lại giai đoạn ấy, ở cuối thời kỳ trước khi bà làm mẹ, giai đoạn khi tiếng tích tắc của những tờ-lịch đếm ngược hối thúc mọi người đến ngày 15 tháng Tám, bà bảo: “Tôi chẳng biết gì về chuyện ấy cả. Với tôi, cứ như thể thời gian dừng lại hoàn toàn. Đứa bé trong bụng tôi dừng hết đồng hồ lại. Tôi tin chắc là thế. Đừng cười: chị có nhớ cái tháp đồng hồ dưới chân đồi ? Tôi chị nghe, sau mùa mưa năm ấy, nó bao giờ chạy nữa.”

      ... Và Musa, lão bộc của cha tôi, người theo hai vợ chồng đến Bombay, chạy khoe với những người hầu khác, dưới bếp của những cung điện ngói đỏ, dưới dãy nhà của người hầu, đằng sau Điện Versailles và Escorial và Sans Souci: “Đó là đúa bé mười-rupee hẳn hoi; phải rồi! con cá chim mười-đồng cỡ bự, chờ mà xem!” Đám người hầu rất vui; vì sinh nở là chuyện tốt và đứa bé bụ bẫm là điều tốt hơn cả...

      ... Còn Amina, chủ nhân cái bụng dừng tất cả đồng hồ lại, ngồi bất động trong căn phòng ở ngọn tháp và bảo chồng, “Mình sờ thử xem... đấy, mình thấy ?... thằng bé to khỏe chưa; mảnh trăng bé bỏng của chúng ta.”

      Mãi tới khi mùa mưa kết thúc, và Amina trở nên nặng đến nỗi hai người hầu nam phải đan tay thành cái ghế để nâng bà lên, Wee Willie Winkie mới trở lại hát ở sân khấu tròn giữa bốn ngôi nhà; và mãi đến lúc ấy Amina mới nhận ra bà chỉ có , mà đến hai kình địch (hai người bà biết) cho giải thưởng của tờ Thời báo Ấn Độ, và rằng, tiên tri hay , nó cũng cú về đích cực kỳ khít khao.

      “Wee Willie Winkie đó là tên , ca hát kiếm ăn trước giờ lừng danh!”

      Cựu ảo thuật gia và chủ hộp vạn hoa và ca sĩ... ngay từ trước khi tôi ra đờỉ, cái khuôn định hình. Các nghệ sĩ tạp kỹ thao túng đời tôi.

      “Hy vọng rằng quý vị thấy thoải máỉ... Hay quý vị thấy thoải trống? Ôi, đùa đấy, quý bà và quý nương, hãy cười lên xem nào.”[10]

      [10] Nguyên văn: Ladies and ladahs. Ladies tiếng là quý bà, quý , đọc gần giống như ladah, tiếng Hindi nghĩa là người dấu, cưng.

      Caođenđiểntrai, gã hề với chiếc phong cầm, đứng giữa vòng tròn sân khấu. Trong vườn của Biệt thự Buckingham, ngón chân cái của cha tôi ngọ nguậy (cùng chín bạn đồng nghiệp) bên cạnh và bên dưới cái ngôi giữa của William Methwold... xăng đan, tròn xoe và hay biết mình sắp đến hồi mạt vận. Còn Wee Willie Winkie (mà tên ta bao giờ biết) pha trò và hát. Từ hiên nhà ở tầng Amina xem và nghe; và, từ hiên nhà hàng xóm, cảm thấy sắc nhọn trong ánh mắt ganh đua tị nạnh của Nussie-vịt-bầu.

      ... Trong khi tôi, ở bàn mình, cảm thấy châm chích từ thái độ nôn nóng của Padma. (Tôi, đôi khi, ao ước có thính giả sắc sảo hơn, người hiểu được cần thiết của nhịp điệu, tiết tấu và màn dạo đầu vi tế của những hợp thứ về sau nổi lên, trỗi dậy, chiếm lĩnh cả giai điệu; người biết, chẳng hạn, rằng cho dẫu sức nặng của em bé và mùa mưa làm câm lặng chiếc đồng hồ tháp của Điền trang, song nhịp đập trầm ổn từ tiếng tích tắc của Mountbatten vẫn ở đấy, êm dịu nhưng quyết tuyệt, và chỉ còn là vấn đề thời gian trước khi nó lấp đầy tai ta bằng tiếng nhạc giữ nhịp đều đặn, thùng.) Padma : “Giờ tôi chả muốn biết gì về gã Winkie này sất; cả ngày lẫn đêm tôi chờ đợi mà vẫn chưa chịu ra đời!” Nhưng tôi khuyên kiên nhẫn; mọi thứ đều ở đúng chỗ của nó, tôi khiển trách bông sen-phân của mình, vì cả Winkie nữa, cũng có mục đích và vị thế của , giờ chọc ghẹo các bà mang thai đứng hiên nhà họ, ngừng hát để , “Hẳn các bà nghe về giải thưởng? Tôi cũng thế. Vanita nhà tôi cũng sắp đến kỳ sinh nở, sắp rồi; biết đâu chính ấy chứ phải các vị được lên báo!”... và Amina nhún vai, còn Methwold mỉm cười (có phải là nụ cười gượng gạo? Vì sao?) dưới cái ngôi giữa, và môi cha tôi trề ra vẻ hiểu biết trong khi ngón chân cái ngọ nguậy và ông , “Thằng cha này hỗn; đùa quá trớn rồi.” Nhưng giờ Methwold với thái độ rất giống với bối rối - thậm chí ăn năn - trách Ahmed Sinai, “Vớ vẩn, ông bạn. Chức nghiệp của thằng hề, ông biết đấy. Được phép khiêu khích và nhạo báng. Chiếc van an toàn quan trọng của xã hội.” Và cha tôi nhún vai, “Hmm.” Nhưng ta rất khôn ngoan, tay Winkie này, bởi ta xoa dịu tình hình, , “Sinh nở là chuyện tốt; hai ca là hai chuyện tốt! Quá tốt[11], các bà, đùa đấy, thấy ?” Và khí thay đổi khi đưa ra ý tưởng độc đáo, suy nghĩ quyết định, có sức mạnh áp đảo: “Quý bà, quý ông, quý vị phải làm gì để thấy thoải mái ở nơi này, giữa quá khứ dài lâu của Methwold sahib? Tôi các vị nghe: nghe có thể kỳ lạ; thực; nhưng đây giờ là ngôi nhà mới, thưa quý bà, quý nương, và ngôi nhà mới nào là chừng nào nó còn chưa chứng kiến đứa trẻ ra đời. Đứa trẻ làm quý vị thấy đây là nhà mình.” Sau đó, là bài hát: “Daisy, Daisy...” Và Ngài Methwold, hòa theo, nhưng vẫn có gì đó u ám nhuốm bẩn chân mày ông ta…

      [11] Hai chuyện tốt (two fine) đồng với quá tốt (too fine).

      … Và đây là lý do: phải, đó là tội lỗi, bởi Winkie nhà ta có thể khôn ngoan và hài hước đấy, nhưng vẫn chưa đủ khôn ngoan, và giờ đến lúc tiết lộ bí mật đầu tiên của cái ngôi giữa đầu William Methwold, bởi nó giọt xuống và nhuốm bẩn mặt ông ta: ngày nọ, từ lâu trước tiếng tích tắc và vụ rao bán thượng vàng hạ cám, Ngài Methwold mời Winkie và Vanita của đến, hát riêng, trong căn phòng giờ là phòng khách chính của nhà tôi; và sau lúc ông ta bảo, “Này, Wee Willie, giúp ta việc nhé, bạn: ta cần mua thuốc theo đơn này, đau đầu kinh khủng, cầm nó ra Kemp’s Corner rồi bảo tay dược sĩ bán cho, người hầu nhà này lăn ra cảm hết rồi.” Winkie, nhà nghèo, bảo Dạ sahib ngay đây sahib rồi chạy ; và thế là Vanita còn lại mình, với cái ngôi giữa, cảm thấy nó phát ra sức hút thể cưỡng lại lên những ngón tay mình, và khi Methwold ngồi bất động chiếc ghế mây, mặc bộ vét mỏng màu kem với nhánh hồng ve áo, thấy mình lại gần ông ta, ngón tay xòe ra, cảm thấy ngón tay mình chạm vào mái tóc; tìm thấy cái ngôi giữa, và bắt đầu vò rối nó.




      Thế nên giờ đây, chín tháng sau, Wee Willie Winkie đùa cợt vì đứa trẻ sắp ra đời của vợ mình và vết nhơ lên vầng trán người .

      sao?” Padma . “ việc gì đến tôi, cái tay Winkie và vợ mà còn chưa kể tôi nghe bao giờ này?”

      Có những người chẳng bao giờ thỏa mãn; nhưng riêng Padma , sớm thôi.

      Và giờ sắp thấy bực bội hơn; vì rằng, rứt ra khỏi những kiện ở Điền trang Methwold theo vòng xoắn ốc bay vút lên cao - khỏi cá vàng và chó và thi trẻ sơ sinh và ngôi giữa, khỏi ngón cái và mái ngói - tôi bay ngang thành phố tươi tắn và sạch sau những cơn mưa; bỏ Ahmed và Amina lại với những bài hát của Wee Willie Winkie, tôi bay về Thành Cổ, qua Đài phun nước Flora, đến tòa nhà lớn chìm trong ánh sáng mờ đục của đèn vải thô và mùi thơm của những lư hương đung đưa... bởi vì ở đây, tại Nhà thờ Thánh Thomas, Mary Pereira tìm hiểu về màu sắc của Chúa.



      “Xanh,” vị linh mục trẻ thành kính . “Mọi bằng chứng có, con ta, đều cho thấy Đức Christ Jecsus là sắc pha lê mỹ lệ nhất của màu trời xanh nhạt.”

      Người phụ nữ bé phía sau ô cửa sổ gỗ mắt cáo của phòng xưng tội lặng trong giây lát. im lặng của băn khoăn, ngẫm nghĩ. Rồi: “Nhưng sao lại thế, thưa Cha? Con người đâu có xanh. Cả thế gian rộng lớn này đâu có ai màu xanh!”

      ngỡ ngàng của người phụ nữ bé, gặp phải bối rối nơi vị linh mục... bởi được chờ đợi phản ứng như thế. Đức Giám mục dặn, “Thắc mắc của người vừa cải đạo... khi hỏi về màu sắc hầu như lúc nào họ cũng... quan trọng là phải tạo ra cầu nối, con ạ. Hãy nhớ,” Đức Giám mục tiếp tục, “Chúa tức là tình ; mà Krishna, thần ái tình của đạo Hindu, luôn được vẽ với làn da xanh. Bảo họ là xanh; nó như cây cầu nối hai đức tin; cách khéo léo, con hiểu chứ; mà hơn nữa xanh là màu trung tính, tránh được những rắc rối thường gặp về màu sắc, tránh cho con khỏi chuyện da đen da trắng: phải, chung ta chắc chắn đó là câu trả lời đúng.” Cả Đức Giám mục cũng có thể sai, đức cha trẻ tuổi tự nhủ, nhưng lúc này cha lâm vào thế bí, bởi người phụ nữ ràng mất bình tĩnh, và bắt đầu thốt ra lời quở trách nghiêm khắc qua khung cửa gỗ: “Câu trả lời gì mà lại là xanh, thưa Cha, sao lại tin vào thứ như thế? Cha nên viết cho Đức Thánh Cha Giáo hoàng ở Rome, người nhất định chấn chỉnh cha; nhưng chẳng cần phải là Giáo hoàng mới biết con người đời nào có màu xanh!” Vị linh mục trẻ tuổi nhắm mắt lại; thở sâu; phản kích. “Họ nhuộm da xanh,” ông ngập ngừng. “Người Pict; dân du mục Ả Rập da xanh: nếu được học hành con thấy, con ạ...” Nhưng giờ cái khịt mũi quyết liệt vang lên trong phòng xưng tội. “Sao, thưa Cha? Cha đem Chúa ra so sánh với những kẻ man di mọi rợ? Lạy Chúa, con đến phải bịt tai lại vì hổ thẹn!”… Và còn nhiều, nhiều nữa, trong khi vị linh mục trẻ bị cái dạ dày hành hạ khốn khổ đột nhiên nảy ra phán đoán rằng còn gì đó nghiêm trọng hơn sau câu chuyện da xanh này, và lên tiếng hỏi; vậy là bài phê bình nhường chỗ cho nước mắt, còn vị linh mục trẻ hốt hoảng , “Nào, nào, chắc chắn Hào quang Thần thánh của Đức Chúa chỉ thuần túy xuất phát từ màu da”... Và giọng giữa dòng lũ nước mặn: “Vâng, thưa Cha, cho cùng cha cũng qụá tệ; con cũng bảo ấy thế, chính xác chỉ có vậy thôi, nhưng ấy văng tục loạn lên và thèm nghe...” Thế đấy, ấy bước vào câu chuyện, và giờ tất cả tung tóe ra, và Mary Pereira, bé đồng trinh bấn loạn, thực lời thú tội mang đến cho chúng ta manh mối quan trọng về động cơ của khi, vào cái đêm tôi chào đời, thực đóng góp sau cùng và quan trọng nhất đối với toàn thể lịch sử Ấn Độ thế kỷ 20 kể từ thời ông tôi vập mũi cho đến thời tôi trưởng thành.

      Lời thú tội của Mary Pereira: như mọi nàng Mary,; có Joseph của mình. Joseph D’Costa, hộ lý ở phòng khám đường Pedder tên là Nhà Hộ sinh của Bác sĩ Narlikar (“À há!” Padma cuối cùng thấy liên hệ), nơi làm bà đỡ. Ban đầu mọi chuyện rất tốt đẹp; gã đưa uống trà hay lassi hay falooda và ngon ngọt với . Gã có cặp mắt như hai mũi khoan đường, cứng và kêu lọc cọc, song gã ăn dịu dàng dễ nghe. Mary, nhắn, tròn trịa, đồng trinh, ngất ngây trước quan tâm của gã; nhưng giờ mọi chuyện thay đổi.

      “Thình lình thình lình ấy cứ khịt mũi ngửi khí liên tục. cách buồn cười lắm, mũi hếch lên. Con hỏi, ' bị cảm hay sao, Joe?’ Nhưng ấy bảo ; , ấy đáp, ngửi gió Bắc. Nhưng con bảo, Joe, ở Bombay gió thổi từ biển vào, từ hướng Tây cơ mà, Joe...” Bằng giọng chực vỡ òa, Mary Pereira thuật lại cơn thịnh nộ sau đó của Jospeh D’Costa, gã bảo, “ chả hiểu gì hết, Mary, bây giở gió thổi từ phương Bắc, và nó sặc mùi chết chóc. Nền độc lập này chỉ dành cho bọn nhà giàu; người nghèo buộc phải giết lẫn nhau như ruồi. Ở Punjab,vở Bengal. Bạo loạn bạo loạn, dân nghèo giết dân nghèo. Nó ở trong gió ấy.”

      Và Mary: “ gì điên khùng thế, Joe, sao lại nghĩ đến những chuyện tồi tệ ấy? Ta vẫn có thể sống yên bình kia mà?”

      “Thôi bỏ , chả hiểu gì hết.”

      “Nhưng Joseph, cho dù chuyện giết chóc ấy có , họ là người Hindu và đạo Hồi thôi mà; sao lại kéo ngựời Thiên Chúa tử tế vào cuộc chiến ấy? Đám người kia họ chém giết nhau từ đời nảo đời nào.”

      với lão Christ của . Chẳng lẽ nhồi nổi vào đầu cái đó là tôn giáo của dân da trắng à? Thần da trắng để cho dân da trắng. Ngay lúc này dân mình chết. Chứng ta phải đánh trả; phải chỉ cho họ thấy đâu là kẻ thù thực , hiểu chưa?”

      Và Mary, “Thế nên con mới hỏi về màu sắc, thưa Cha... và con khuyên Joseph, con khuyên, khuyên mãi, đánh nhau là xấu, bỏ những ý nghĩ điên rồ ấy ; nhưng rồi ấy chuyện với con nữa, và bắt đầu giao du với những kẻ dữ dằn, và họ bắt đầu đồn đại về ấy, thưa Cha, rằng họ chính mắt thấy ấy ném gạch vào xe tải, rồi đốt chai xăng nữa, ấy phát điên rồi, thưa Cha, họ bảo ấy giúp đốt xe buýt và đánh bom tàu điện, và gì nữa con biết. biết làm sao, thưa Cha, con kể hết cho em . Em con Alice, tốt lắm, thưa Cha. Con : ‘ Joe, ấy ở gần lò mổ, biết đâu cái mùi ấy xông lên mũi và làm ấy lú lẫn.’ Thế là Alice đến tìm ấy, ‘Em giúp chị,’ con bé ; nhưng rồi, Chúa ơi điều gì xảy ra với thế giới này... con thú với Cha... Ôi baba...” Và cơn lũ nhấn chìm lời , những bí mật rỉ ra mặn chát từ mắt , bởi Alice trở về bảo rằng theo ý mình Mary mới là người đáng trách, vì giảng đạo với Joseph đến khi gã chán ngấy , trong khi đáng ra phải ủng hộ cái nghiệp ái quốc thức tỉnh người dân của gã. Alice trẻ hơn Mary; và xinh xắn hơn; và sau đó còn có thêm những tin đổn, chuyện Alice-và-Joseph, và Mary đâm ra quẫn trí.

      “Con bé ấy,” Mary , “Nó biết gì ba thứ chính trị chính em này? Nhưng để quắp được Joseph của con nó nhại lại bất cứ điều nhăng nhít gì ấy , y như con chim mynah ngu ngốc. Con thề, thưa Cha...”

      “Cẩn thận, con ta. Con rất gần báng bổ đấy...”

      , thưa Cha, con thề có Chúa, con biết có gì là mình làm để giành lại ấy. Phải: bất chấp... mặc cho những gì ta... trời-ơi-trời-ơiiii!”

      Nước mắt ướt đẫm sàn phòng xưng tội... và giờ, phải chăng xuất mâu thuẫn mới nơi vị linh mục trẻ? Có phải cha, bất chấp những cơn quằn quại của cái dạ dày bất ổn, cân nhắc chiếc cân vô hình thiêng liêng của nghi lễ xưng tội và mối đe dọa đối với xã hội văn minh của kẻ như Joseph D’Costa? Có phải cha , thực tế, hỏi Mary địa chỉ Joseph của , để rồi tiết lộ... Tóm lại, liệu đức cha trẻ tuổi dạ dày đảo lộn, bị giám mục ám ảnh này hành xử giống, hay giống, Montgomery Clift trong Tôi thú tội? (Xem nó mấy năm trước tại rạp Đế chế Mới, tôi chắc lắm.) - Nhưng ; lần nữa, tôi phải bóp nghẹt những nghi ngờ vô căn cứ của mình. Điều xảy ra với Joseph có lẽ kiểu gì cũng xảy ra. Và trong mọi tình huống, mối liên quan duy nhất của vị linh mục trẻ với lịch sử của tôi là việc ông là người ngoài cuộc đầu tiên nghe về lòng căm thù người giàu dễ lây của Joseph D’Costa, và nỗi khổ đau vật vã của Mary Pereira.

      Ngày mai tôi tắm gội cạo râu; tôi mặc chiếc kurta mới, bóng loáng và hồ cứng, thêm quần pajama cho đủ bộ. Tôi đôi dép sáng như gương, mũi cong vút, tóc chải gọn gàng (mặc dù rẽ ngôi giữa), răng trắng bóc... tóm lại, tôi bảnh bao hết cỡ. (“Ơn Chúa” từ Padma bĩu môi.)

      Ngày mai, cuối cùng, đến lúc kết thúc những câu chuyện mà tôi ( có mặt khi chúng ra đời) phải lôi ra từ chốn sâu kín quay cuồng trong đầu óc mình; vì tiếng nhạc cầm nhịp từ cuốn lịch đếm ngược của Mountbatten thể bị phớt lờ lâu hơn nữa. Tại Điền trang Methwold, lão Musa vẫn tích tắc như trái bom hẹn giờ; nhưng chẳng ai nghe thấy, vì lúc này tiếng động khác trỗi dậy, vang rền, giục giã; tiếng từng giây trôi qua, tiếng cái nửa đêm định mệnh tới gần.

    5. banglangtrang123

      banglangtrang123 Well-Known Member Staff Member Super Moderator

      Bài viết:
      26,213
      Được thích:
      47,825
      Chương 8: Tích, tắc




      Padma có thể nghe thấy nó: gì dồn nén hồi hộp như đếm ngược. Tôi quan sát đóa hoa-phân của tôi làm việc hôm nay, quấy những vại rau quả dầm như cơn lốc, như thể làm thế khiến thời gian trôi nhanh hơn. (Mà có lẽ là có; thời gian, theo kinh nghiệm của tôi, cũng biến thiên và bất ổn như nguồn điện của Bombay. Nếu quý vị tin, cứ gọi cho dịch vụ báo giờ tự động biết - gắn với lưới điện, nó thường bị sai vài tiếng. Trừ phi kẻ sai là chính chúng ta... dân tộc nào có từ chỉ “hôm qua” và “ngày mai” là lại được coi là nắm chắc về thời gian cả[1])

      [1] Trong tiếng Hindi, chữ kai trong mệnh đề tương lai nghĩa là “ngày mai,” nhưng trong mệnh đề quá khứ lại có nghĩa là “hôm qua.”

      Nhưng hôm nay, Padma nghe thấy tiếng tích tắc của Mountbatten... Do sản xuất, nó đập với chính xác lạnh lùng. Và giờ nhà máy trống ; hơi còn lởn vởn, nhưng những vại rau quả dầm lặng; và tôi giữ lời. Ăn vận chỉn chu, tôi chào đón Padma khi xô đến bàn tôi, ngồi phệt xuống sàn cạnh tôi, ra lệnh: “Bắt đầu.” Tôi nở nụ cười thỏa mãn; cảm thấy đàn con của nửa đêm xếp hàng trong đầu mình, chen lấn xô đẩy như mấy mụ dân chài Koli; tôi bảo tụi nó đợi, lâu nữa đâu; tôi hắng giọng, khẽ lắc cây bút cái; rồi bắt đầu.

      Ba mươi hai năm trước thời điểm chuyển giao quyền lực, ông tôi vập mũi vào mặt đất Kashmir. Hồng ngọc và kim cương xuất . Và có lớp băng của tương lai, chực chờ dưới làn nước. Và có lời thề: cúi đầu trước thần hay người. Lời thề ấy tạo ra lỗ hổng, tạm thời được lấp đầy bởi người đàn bà sau tấm ga khoét lỗ. lão lái đò từng tiên đoán về những vương triều nấp trong mũi ông tôi giận dữ chở ông qua hồ nước. Có những lão chúa đất mù và những nữ đô vật. Và tấm ga trong gian phòng tăm tối. Ngày hôm đó, di sản của tôi bắt đầu hình thành - màu xanh của bầu trời Kashmir - vào mắt ông tôi; sức chịu đựng của cụ bà tôi rồi biến thành tính nhẫn nại của chính mẹ tôi và sắt đá sau này của Naseem Aziz; năng lực trò chuyện với chim của cụ ông tôi rồi thèo dòng huyết thống quanh co di truyền vào mạch máu của con Khỉ Đồng em tôi; xung đột giữa chủ nghĩa hoài nghi rằng ông ngoại và tính cả tin đằng bà ngoại; và hết là bản chất ma quái của tấm ga giường khoét lỗ, định cho mẹ tôi phải học người đàn ông theo từng mảnh, và kết án tôi phải nhìn cuộc đời mình - ý nghĩa của nó, cấu trúc của nó - cũng theo từng mảng ; thế nên khi tôi hiểu được nó, là quá muộn.

      Năm tháng tích tắc trôi - và di sản của tôi lớn dần, bởi giờ đây tôi có túi răng vàng huyền thoại của lão lái đò Tai, và chai rượu của lão báo hiệu về những tửu tinh của cha tôi; tôi có Ilse Lubin cho chuyện tự tử và rắn ngâm rượu cho chuyện bổ dương; tôi có Tai-ủng-hộ---thay-đổi đối nghịch với Aadam-cổ-xúy-tiến-bộ; rồi, còn nữa tôi có mùi hôi của lão lái đò tắm đuổi ông bà tôi xuôi Nam, và khiến Bombay trở thành điều có thể.

      ... Và giờ, bị Padma và tiếng tích tắc thôi thúc, tôi tiếp tục, thu thập Mahatma Gandhi và phong trào hartal của ông, tiêu hóa ngón-cái-và-ngón-trỏ, nuốt trọn thời khắc Aadam Aziz biết mình là người Kashmir hay Ấn Độ; giờ tôi uống Mercurochrome và nhuộm hình những bàn tay tái trong bãi nước trầu lênh láng, và tôi nốc cạn Dyer, bộ ria và các thứ; ông tôi được cái mũi cứu sống và vết bầm xuất ngực ông, vĩnh viễn tan biến, nhờ vậy ông và tôi tìm thấy trong cơn nhức nhối bất tận của nó câu trả lời cho câu hỏi kia, Ấn Độ hay Kashmir? Bị nhuộm màu bởi vết bầm của chiếc khóa cặp Heidelberg, chúng tôi quyết định chung số phận với Ấn Độ; nhưng xa lạ của cặp mắt xanh vẫn còn đó. Tai chết, song ma thuật của lão vẫn đeo đuổi chúng tôi, biến chúng tối thành tách biệt.

      ... Chạy hộc tốc, tôi dừng lại để nhặt trò phụt-ống-nhổ. Năm năm trước ngày quốc gia ra đời, di sản của tôi lại lớn lên, để bao gồm dịch bệnh lạc quan bùng phát lần nữa vào thời của tôi, và những vệt nứt mặt đất rồi---được tái sinh dưới da tôi, và con Chim ngân nga cựu ảo thuật gia người khởi đầu hàng dài các nghệ sĩ xiếc rong vẫn luôn song hành với cuộc đời tôi, và cặp nốt ruồi như núm vú phù thủy và thù ghét ảnh chụp và câu cáigìkhôngbiết của bà tôi, và những cuộc chiến của chết đói và im lặng, và thông thái của bác Alia tôi biến thành kiếp già và nỗi cay đắng để rồi cuối cùng bùng nổ trong đòn báo thù chết chóc, và tình của Emerald và Zulfikar rồi cho phép tôi bắt đầu cuộc cách mạng, và những lưỡi dao cong, những vầng trăng sát nhân được lặp lại trong cái tên mẹ “gọi ” tôi, chand-ka-tukra thơ ngây cùa bà, mảnh tr... dấu của bà... giờ đây, lớn dần, bồng bềnh trong bể nước ối của quá khứ, tôi được nuôi lớn bởi tiếng ngân vút lên caomãicaomãi cho đến khi đàn chó tới cứu viện, bởi cuộc đào tẩu vào ruộng ngô và giải cứu xuất phát từ Rashid, cậu trai kéo xe với trò khỉ Gai Wallah khi cậu chạy - HẾT TỐC LỰC! - và hét lên trong im lặng, khi cậu tiết lộ bí mật của những ổ khóa Ấn Độ và đưa Nadir Khan vào buồng vệ sinh có chứa cái tủ giặt; phải, tôi nặng lên theo từng giây, béo ra nhờ tủ giặt và tình dưới-tấm-thảm của Mumtaz và gã thi sĩ vần, phính lên khi nuốt giấc mơ của Zulfikar về chiếc bồn tắm đặt cạnh giường và lăng Taj Mahal trong lòng đất và cái ống nhổ bằng bạc khảm thanh kim thạch; cuộc hôn nhân tan rã, và nuôi lớn tôi; bà dì phản bội chạy giữa phố phường Agra, bỏ quên lòng tự trọng, và nó cũng nuôi lớn tôi; giờ đây những khởi đầu hụt chấm dứt, và Amina thôi là Mumtaz, còn Ahmed Sinai trở thành, theo nghĩa nào đó, cha và đồng thời là chồng ... di sản của tôi gồm cả năng khiếu này, cái năng khiếu tự tạo ra cha mẹ mới cho mình mỗi khi cần thiết. Cái quyền năng cho ra đời những ông bố và bà mẹ: cái điều Ahmed muốn nhưng bao giờ có được.

      Qua dây nhau của mình, tôi hấp thu những kẻ lậu vé và nguy hiểm của việc mua quạt lông công; cần mẫn của Amina rỉ vào tôi, và những thứ đáng ngại hơn - tiếng bước chân lộp cộp, nhu cầu của mẹ tôi phải nài tiền cho tới khi cái khăn ăn trong lòng cha tôi bắt đầu run rẩy và dựng lên túp lều - rồi tro hỏa táng của những chiếc Arjuna Indiabike, rồi cái hộp vạn hoa mà Lifafa Das cố nhét mọi thứ đời vào, rồi bè lũ bất lương thực hành vi phá hoại; những quái vật nhiều đầu căng phình trong tôi - những quỷ vương Ravana đeo mặt nạ, những con bé tám tuổi có tật ngọng và hàng lông mày liền, những đám đông gào thét Kẻ hiếp dâm. Những lời tuyên bố công khai nuôi dưỡng tôi lớn dần đến thời khắc của mình, và chỉ còn bảy tháng nữa thôi.

      Biết bao nhiêu vật con người ý tưởng chúng ta mang theo vào thế giới này, bao nhiêu khả năng và cả giới hạn của khả năng! - Bởi hết thảy những điều này đều là cha mẹ của đứa trẻ ra đời nửa đêm hôm đó, và với mỗi đứa trẻ nửa đêm là lại thêm ngần ấy nữa. Trong số cha mẹ của nửa đêm: thất bại của kế hoạch của Phái đoàn Nội các; quyết tâm của M.A. Jinnah, kẻ sắp chết và muốn thấy Pakistan ra đời khi ông ta còn sống, và làm bất kỳ việc gì để đảm bảo điều đó - chính tay Jinnah mà cha tôi, rẽ nhầm như thường lệ, từng từ chối gặp; rồi Mountbatten với hối hả bất thường và bà vợ khoái ức gà; rồi còn nhiều, nhiều nữa - Thành Đỏ và Thành Cổ, khỉ và kền kền đánh rơi những bàn tay, rồi những gã lại cái da trắng, rồi thầy lang bó xương và người luyện chồn và Shri Ramram Seth người tiên đoán quá nhiều. Và giấc mơ sắp xếp lại kinh Quran của cha tôi cũng có chỗ của mình; rồi vụ đốt godown biến ông thành lái buôn bất động sản thay vì vải giả da; rồi cái mẩu của Ahmed mà Amina thể nào . Để hiểu được chỉ cuộc đời thôi, quý vị phải nuốt cả thế giới. Tôi bảo rồi.

      Rồi ngư dân, rồi Catharine xứ Braganza, rồi Mumbadevi dừa gạo; tượng Shiva và điền trang của Methwold; cái bể bơi hình Ấn Độ thuộc và ngọn đồi cao bằng tòa nhà hai tầng; cái ngôi giữa và cái mũi thừa kế từ Bergerac; ngọn tháp đồng hồ hoạt động và vòng xuyến ; nỗi thèm khát dụ Ấn Độ ở người và hành động quyến rũ vợ nghệ sĩ phong cầm. Vẹt đuôi dài, quạt trần, Thời báo Ấn Độ đều là phần của hành trang tôi mang vào đời... vậy quý vị có lấy làm lạ rằng tôi là thằng bé nặng ? Jesus da xanh rỉ vào tôi; và nỗi tuyệt vọng của Mary, và dã tính cách mạng của Joseph, và dạ của Alice Pereira... tất cả đều tạo ra tôi.

      Nếu tôi có vẻ hơi kỳ dị, hãy nhớ tới phong phú điên rồ của di sản của tôi… có lẽ, nếu muốn giữ mình là cá nhân giữa đám đông lúc nhúc, người ta phải tự biến mình thành dị dạng..

      “Rốt cuộc,” Padma với vẻ thỏa mãn, “ học được cách kể chuyện thực nhanh rồi đấy.”



      13 tháng Tám, 1947: bất hòa thiên giới. Sao Mộc, sao Thổ và sao sao Kim kỳ xung khắc; chưa hết, ba ngôi xung tinh này di chuyển vào cung hãm nhất. Các nhà chiêm tinh thành Benares gọi tên nó đầy sợ hãi: “Karamstan! Chúng vào Karamstan!”

      Trong khi các nhà chiêm tinh đưa ra những thông báo hoảng loạn cho các thủ lĩnh đảng Quốc đại, mẹ tôi ngả mình ngủ trưa. Trong khi Bá tước Mountbatten hối tiếc vì Ban Tham muu của mình thiếu những chuyên gia thần bí học, cái bóng quay chầm chậm của chiếc quạt trần ru Amina vào giấc ngủ. Trong khi M.A. Jinnah, yên trí rằng Pakistan của mình ra đời sau chỉ mười tiếng nữa, tròn ngày trước Ấn Độ độc lập, vốn còn tận ba mươi lăm tiếng, giễu cợt những lời phản đối của các ông thầy tử vi, lắc đầu với vẻ khoái trá, đầu Amina cũng quay qua quay lại.

      Nhưng bà ngủ. Và suốt những ngày mang thai nặng như đeo đá ấy, giấc mơ kỳ quái về giấy bẫy ruồi ngừng ám ảnh giờ ngủ của bà... trong đó, lúc này, như mọi lần, bà lang thang trong quả cầu thủy tinh đầy những dải giấy nâu dính đu đưa, bám chặt vào quần áo bà và xé toạc chúng ra khi bà vấp lên vấp xuống giữa rừng giấy thể xuyên thủng ấy; và giờ bà vật lộn, xé giấy, nhưng nó túm lấy bà, tới khi bà trần truồng, với đứa trẻ quẫy đạp trong bà, và đám xúc tu dài của giấy dính ruồi vươn ra chụp lấy cái bụng phập phồng của bà, giấy dính chặt vào tóc mũi răng vú đùi bà, và khi bà há miệng toan kêu nùi giấy nâu dính chẹn ngang đôi môi vừa hé mở.

      “Amina Begum!” Musa gọi. “Dậy ! Ác mộng, Begum Sahiba!”

      Những kiện của vài tiếng cuối cùng ấy - chỗ cặn cuối cùng trong di sản của tôi: khi còn ba mươi lăm tiếng nữa, mẹ tôi mơ thấy bà bị dính vào thứ giấy nâu như con ruồi. Và vào giờ cocktail (ba mươi tiếng nữa) Wiiliam Methwold đến thăm cha tôi ở khu vườn của Biệt thự Buckingham. Ngôi giữa sải bước bên cạnh và bên ngón cái, Ngài Mechwold hồi tưởng lại. Những câu chuyện về Methwold đầu tiên, người mơ thành phố này thành thực, lấp đầy bầu khí buổi tối trong ánh hoàng hôn sau chót ấy. Và cha tôi - bập bẹ giọng Oxford lè nhè, nóng lòng gây ấn tượng với tay người sắp ra - bèn đáp, “ ra, nhà tôi cũng là dòng họ khá danh giá. ông bạn già ạ.” Methwold lắng nghe: đầu ngửa lên, hoa hồng đỏ nơi ve áo màu kem, mũ rộng vành che mái tóc rẽ ngôi, tia thích thú kín đáo trong mắt... Ahmed Sinai, được whisky bôi trơn, bị ngạo mạn thôi thúc, hào hứng tiếp tục đề tài ấy. “Dòng dõi Mughal, thực tế là vậy.” Thế là Methwold, “! à? Ông bỡn tôi chứ hả?”Và Ahmed, trót quá xa, đành phải tiếp tục. “Ngoại hôn, tất nhiên; nhưng Mughal, chắc chắn đấy.”

      Đó là chuyện, ba mươi tiếng trước khi tôi ra đời, cha tôi cho thấy ông cũng khát khao những tổ tiên hư cấu ra sao... ông đến chỗ sáng chế ra cây phả hệ mà, nhiều năm sau đó, khi whisky xóa mờ ký ức và những chai-tửu-tinh làm ông lẫn lộn, xóa sạch mọi vết tích của thực ra sao... và, để gia cố cho luận điểm của mình, ông mang vào đời chúng tôi ý tưởng về lời nguyền của dòng họ như thế nào.

      “Chính thế,” cha tôi khi Methwold ngửa mái đầu u ám cười, “nhiều gia tộc lâu đời có những lời nguyền như thế. Trong dòng họ nhà tôi nó được truyền từ con trai cả cho con trai cả - chỉ bằng chữ viết, bởi ra thôi cũng đủ giải phóng quyền năng của nó, ông biết đấy.” Và giờ Methwold: “Hay ! Và ông biết những lời ấy?” Cha tôi gật đầu, môi trề ra, ngón chân bất động khi ông gõ trán để nhấn mạnh. “Ở đây cả; nhớ nằm lòng hết. Chưa có ai động đến từ khi cụ tổ cãi lộn với Hoàng đế Babar và buông lời nguyền lên chính con trai mình Humayun... câu chuyện kinh khủng, mà... bọn học trò ai cũng biết.”

      Và rồi đến lúc cha tôi, vật lộn trong lẩn tránh tuyệt đối khỏi thực, tự nhốt mình trong căn phòng màu xanh và cố nhớ lại lời nguyền ông mơ ra vào buổi tối trong vườn nhà mình khi ông đứng gõ tay lên thái dương cạnh hậu duệ của William Methwold.

      Giờ đây, bị trói cùng những giấc mơ về giấy bẫy ruồi và các tổ tiên tưởng tượng, tôi vẫn còn hơn ngày nữa mới ra đời... nhưng giờ tiếng tích tắc lạnh lẽo kia tái lập vị thế của mình: còn hai mươi chín tiếng, hai mươi tám, hai mươi bảy...

      Còn những giấc mơ nào được mơ vào cái đêm cuối cùng ấy? Có phải là - phải rồi, sao lại ? - Bác sĩ Narlikar, hề biết về tấn kịch sắp xảy ra ở Nhà Hộ sinh của mình, lần đầu tiên mơ về tetrapod? Có phải vào cái đêm cuối cùng ấy, trong khi Pakistan ra đời ở phía Bắc và Tây của Bombay - cậu Hanif tôi, người chuyển (giống chị mình) đến Bombay, và đem lòng nữ diễn viên, nàng Pia thần thánh (“Gia tài của nàng là gương mặt!” tờ Illustrated Weekly từng viết), lần đầu tiên tưởng tượng ra cái thiết bị điện ảnh rồi sớm mang đến cho ông bộ phim đầu tiên trong ba phim bom tấn của ông?... Có vẻ lắm; thần thoại, ác mộng, truyền kỳ đều có trong khí. Có điều này là chắc chắn: vào cái đêm cuối cùng ấy, ông tôi Aadam Aziz, giờ còn lại mình ở ngôi nhà cổ lớn đường Cornwallis - ngoại trừ bà vợ mà sức mạnh ý chí dường như tăng lên trong khi Aziz kiệt quệ vì tuổi tác, và con , Alia, mà đồng trinh cay đắng kéo dài đến ngày quả bom chẻ bà làm đôi mười tám năm sau đó - bỗng nhiên bị giam cầm trong những đai kim loại khổng lồ của hoài niệm, và nằm thao thức khi chúng đè siết lên ngực ông; đến khi cuối cùng, vào năm giờ sáng 14 tháng Tám - còn mười chín tiếng nữa - ông bị sức mạnh vô hình đẩy khỏi giường và kéo tới trước cái thùng tôn cũ. Mở nó ra, ông thấy: những tạp chí tiếng Đức cũ; cuốn Làm gì? của Lenin; tấm thảm cầu nguyện được gấp lại; và cuối cùng là thứ mà ông vừa cảm thấy nỗi thôi thúc cưỡng nổi phải nhìn lần nữa - trắng, được gấp lại và tỏa sáng yếu ớt dưới ánh bình minh - ông tôi lấy ra, từ chiếc thùng tôn của quá khứ, tấm ga giường ố bẩn và khoét lỗ, và phát thấy cái lỗ to ra; thấy có những lỗ khác, hơn mặt vải xung quanh; và bị bóp nghẹt trong cơn thịnh nộ điên cuồng của niềm hoài nhớ ông lay vợ dậy và làm bà sửng sốt khi ông vừa quát lên vừa vung vẩy lịch sử của bà trước mũi bà:

      “Nhậy cắn! Nhìn xem, Begum: nhậy cắn! Bà quên bỏ băng phiến rồi!”

      Nhưng giờ tiếng đếm ngược chối bỏ được nữa... mười tám tiếng; mười bảy; mười sáu... và tại Nhà Hộ sinh của Bác sĩ Narlikar, có thể nghe thấy tiếng thét của phụ nữ đau đẻ. Wee Willie Winkie ở đây; với vợ Vanita; ở trong tình trạng đau đẻ kéo dài, có kết quả tám tiếng đồng hồ. Cơn đau đầu tiên nhói lên đúng lúc, cách đấy hàng trăm cây số, M.A. Jinnah tuyên bố ra đời vào nửa đêm của quốc gia Hồi giáo... nhưng vẫn quằn quại cái giường trong “buồng từ thiện” của Nhà Narlikar (dành riêng cho con nhà nghèo)... mắt lồi phân nửa ra khỏi đầu; người bóng nhẫy mồ hôi, nhưng đứa bé tỏ vẻ gì là sắp chui ra, và bố nó cũng có mặt; lúc này là tám giờ sáng, nhưng, theo tình hình này, vẫn có khả năng là đứa bé chờ đến nửa đêm.

      Tin đồn trong thành phố: “Đêm qua bức tượng lại phi!”… “Và các tinh tú thuận!”... Nhưng bất chấp những điềm chẳng lành này, thành phố vẫn bình thản, với huyền sử mới lóe lên nơi khóe mắt, Tháng Tám ở Bombay: tháng của hội hè, tháng của sinh nhật Krishna và Ngày Dừa: riêng năm nay - mười bốn tiếng nữa, mười ba, mười hai - lịch còn có thêm ngày lễ nữa, huyền sử mới để ăn mừng, vì đất nước trước đây chưa từng tồn tại sắp sửa giành được tự do, phóng chúng ta vào thế giới mà dù có năm ngàn năm lịch sử, dù phát minh ra cờ vua và thông thương với Ai Cập thời Trung đế chế[2], vẫn chỉ hoàn toàn là tưởng tượng vào xứ sở huyền bí, đất nước chẳng bao giờ tồn tại nếu có những nỗ lực của ý chí tập thể phi thường - nếu phải trong giấc mơ mà chúng ta đều sẵn lòng mơ; đó là ảo tưởng tập thể được chia sẻ từ nhiều góc độ giữa người Bengal và Punjab, Madras và Jat, và theo định kỳ cần được thánh hóa và tái sinh, điều chỉ có thể thực được bằng những nghi lễ của máu. Ấn Độ, huyền sử mới - tiểu thuyết tập thể mà trong đó mọi thứ đều là có thể, ngụ ngôn mà chỉ hai huyền thoại vĩ đại khác mới xứng là đối thủ: tiền và Chúa.

      [2] Nguyên tác: Middle Kingdom Egypt, vương quốc Ai Cập thời kỳ 2080-1640 trước Công nguyên.

      Tôi là, trong thời của tôi, bằng chứng sống cho bản chất hoang đường của giấc mơ tập thể này; nhưng tạm thời, tôi phải chia tay với những ý tưởng khái quát, vĩ mô này để tập trung vào nghi lễ riêng tư hơn; tôi miêu tả những vụ đổ máu tập thể diễn ra ở biên giới tỉnh Punjab bị tách (nơi những quốc gia bị chia cắt tắm mình trong máu của nhau, và tay Thiếu tá Zulfikar mặt hề Punchinello[3] mua lại điền sản của dân tị nạn với giá thấp đến lố bịch, đặt nền tảng cho gia tài cạnh tranh được với Thủ hiến bang Hyderabad); tôi ngoảnh mặt nhìn cảnh lực ở Bengal và cuộc bộ dài vì hòa bình của Mahatma Gandhi. Ích kỷ? Đầu óc hẹp hòi? À, có thể; nhưng theo ý tôi có thể thông cảm được. cho cùng, ai cũng chỉ sinh ra có lần.

      [3] Nhân vật trong hài kịch dân gian của Ý, có cái mũi khoằm và nhọn.

      Còn mười hai tiếng nữa. Amina Sinai, vừa tỉnh dậy khỏi cơn ác mộng giấy bẫy ruồi, ngủ lại cho đến sau... Ramram Seth choán hết đầu bà, bà lênh đênh giữa vùng biển động nơi những con sóng của niềm háo hức xen lẫn với những hố thẳm đen ngòm, váng vất, đẫm nước của nỗi sợ hãi. Nhưng còn gì đó khác cũng hoạt động. Hãy nhìn tay bà - khi, hề có chỉ dẫn của ý thức, chúng ấn mạnh lên bụng bà; hãy nhìn môi bà, mấp máy mà bà hề biết, “Nào, rùa con, con muốn bị hụt lên báo chứ!”

      Còn tám tiếng nữa... vào bốn giờ chiều hôm đó, William Methwold lái chiếc 1946 Rover đen lên ngọn đồi cao bằng hai tầng nhà. Ông ta đỗ xe ở vòng xuyến giữa bốn tòa biệt thự quý tộc; nhưng hôm nay ông ta thăm ao cá hay vườn xương rồng; ông ta chào Lila Sabarmati với câu cửa miệng, “Cái pianola sao rồi? Mọi thứ ngon lành cả chứ” - và ông ta cũng chào ông lão Ibrahim ngồi dưới bóng râm của mái hiên tầng trệt, đu đưa chiếc ghế đu và ngẫm ngợi về cây sisal; nhìn đến cả Catrack lẫn Sinai, ông ca đứng vào vị trí chính giữa vòng xuyến. Hoa hồng ve áo, mũ màu kem áp cứng trước ngực, ngôi giữa lấp lánh dưới nắng chiều, William Methwold đăm đăm nhìn ra trước mặt, qua tháp đồng hồ và đường Warden, vượt bể bơi hình bản đồ của Breach Candy, qua những con sóng vàng lúc bốn giờ chiều, và giơ tay chào; trong khi ngoài xa, phía chân trời, mặt trời bắt đầu đường lặn dài về phía biển.




      Còn sáu tiếng nữa. Giờ cocktail. Những người kế tục William Methwold ở ngoài vườn - trừ Amina ngồi trong phòng-tháp, né tránh những cái liếc mắt ganh đua nhàng được ném về phía bà từ Nussie-nhà-bên, ta cũng thúc giục Sonny của mình tụt xuống và chui ra giữa hai chân ta, hẳn thế; cách tò mò họ quan sát tay người , đứng bất động và cứng đơ như cây thông nòng súng mà trước đây chúng ta so sánh với cái ngôi giữa của ông ta; tới khi họ bị thu hút vào nhân vật mới xuất . người đàn ông cao, mình dây, cổ đeo ba vòng hạt, lưng quấn cái đai bằng xương gà; làn da đen nhem nhuốc bồ hóng, tóc thưa và dài - mặc gì trừ chuỗi nạt và bồ hóng, vị sadhu sải bước giữa những biệt thự lợp ngói đỏ. Musa, lão đầy tớ già, bước xuống định xua ông ta ; nhưng ngần ngừ, biết phải ra lệnh cho tu sĩ ra sao. Rẽ qua bức màn lưỡng lự của Musa, vị sadhu tiến vào khu vườn của Biệt thự Buckinghan; thẳng qua mặt cha tôi ngỡ ngàng; ngồi yên vị, xếp bằng tròn, dưới cái vòi nước giọt trong vườn.

      “Cụ muốn gì ở đây, sadhuji ?” - Musa, tránh khỏi tôn kính; vị sadhu, bình thản như mặt hồ: “Ta đến để chờ đón giáng hạ của Người. Của Mubarak - Kẻ được Ban phước. Nó sắp xảy ra rồi.”

      Tin hay tùy; tôi được tiên đoán hai lần liền! Và vào cái ngày mọi thứ đều đặc biệt đúng lúc, nhạy cảm về thời điểm của mẹ tôi phụ lòng bà; lời cuối cùng vừa rồi môi vị sadhu lập tức vang lên, từ căn phòng-tháp tầng với những bông tulip thủy tinh nhảy múa cửa sổ, tiếng hét chói tai, ly cocktail gồm ba phần bằng nhau của sợ hãi, háo hức và đắc thắng… “Arre Ahmed!” Amina Sinai hét lên, “Janum, đứa bé! Nó sắp ra rồi - cực đúng giờ!”

      Điện phập phù khắp Điền trang Methwold... và đây là Homi Catrack, với dáng chạy hối hả hốc hác mắt trũng sâu, đề nghị: “Chile Studebaker của tôi ngài cứ tùy nghi sử dụng, Sinai Sahib; lấy luôn - ngay !”… và khi vẫn còn năm tiếng ba mươi phút nữa, nhà Sinai, chồng và vợ, lái xuống quả đồi cao bằng hai tầng nhà trong chiếc xe mượn; kia là ngón chân cái cha tôi ấn xuống chân ga; kia là tay mẹ tôi ấn xuống cái bụng vầng trăng; và giờ họ khuất, vòng qua khúc quanh, qua Hiệu giặt là Band Box và Thiên Đường của Độc giả, qua nữ trang của Fatbhoy và đồ chơi của Chimalker, qua những thanh Sô la Dài Cả Mét và những cánh cổng ở Breach Candy, phóng đến Nhà hộ sinh của Bác sĩ Narlikar, nơi, trong buồng từ thiện, Vanita của Wee Willie vẫn hổn hển và rặn, cột sống cong lại, mắt lồi ra, và bà đỡ tên gọi Mary Pereira cũng đợi đến thời khắc của mình... thế nên cả Ahmed của môi trề và bụng nhão và tổ tiên hư cấu, lẫn Amina da sậm bị tiên tri ám ảnh đều có mặt khi mặt trời lặn xuống lần cuối cùng Điền trang của Methwold, và vào đúng thời khắc của lần biến mất sau cùng ấy - còn năm tiếng hai phút nữa - William Methwold giơ cánh tay trắng, dài lên quá đầu. Bàn tay trắng lơ lửng mái tóc đen vuốt dầu thơm; những ngón tay trắng thon dài xoắn về phía cái ngôi giữa, và bí mật thứ hai và sau chót được tiết lộ, vì những ngón tay cong lại, vồ lấy mái tóc; khi rút khỏi đầu ông ta, chúng nhả con mồi ra; và vào khoảnh khắc khi mặt trời vừa biến mất Ngài Methwold đứng trong ánh ngày tàn ở Điền trang của mình với mái tóc tay.

      gã hói!” Padma thốt lên. “Mái tóc bóng lộn của gã... tôi biết mà; đẹp quá hóa rởm!”

      Hói, hói; đầu bóng lộn! Bị tiết lộ: trò lừa đảo bịp được người vợ nghệ sĩ phong cầm. Như Samson, sức mạnh của William Methwold nằm ở mái tóc; nhưng giờ, mảng đầu hói lung linh giữa chiều chạng vạng, ông ta ném mái tóc qua cửa sổ vào xe; phân phát, với thái độ có vẻ bất cần, giấy chứng nhận sở hữu ký tên cho các cung điện của mình; rồi lái xe . ai ở Điền trang Methwold gặp lại ông ta nữa; nhưng tôi, người chưa gặp ông ta lần nào, lại thấy thể quên được con người này.



      Bỗng nhiên tất cả đều màu nghệ và xanh lục. Amina Sinai ở căn phòng có tường màu nghệ và đồ gỗ màu xanh. Trong buồng bên cạnh, Vanita của Wee Willie Winkie, da xanh, lòng trắng mắt vẫn màu nghệ, đứa bé rốt cuộc bắt đầu chui ra bằng lối bên trong, nơi cũng có, hẳn rồi, màu sắc tương tự. Từng phút màu nghệ và từng giây màu xanh trôi những chiếc đồng hồ treo tường. Bên ngoài Nhà Hộ sinh của Bác sĩ Narlikar, có pháo hoa và đám đông, cũng tuần theo những màu sắc của đêm - pháo bông màu nghệ, mưa lấp lánh màu xanh; đàn ông mặc áo màu zafaran, đàn bà quấn sari màu chanh. tấm thảm màu nghệ-và-xanh, Bác sĩ Narlikar bảo Ahmed Sinai. “Tôi đích thân chăm sóc cho Begum của ,” ông ta , với giọng nhàng mang màu sắc của buổi tối, “ phải lo gì cả. chờ ở đây; phòng rộng tha hồ mà lại.” Bác sĩ Narlikar, mặc dù ghét trẻ con, lại là bác sĩ phụ khoa lành nghề. Khi rảnh rỗi ông ta giảng bài viết lách phát truyền đơn nhiếc móc cả nước về chủ đề tránh thai. “Ngừa Thai,” ông ta , “là Ưu Tiên Số Của Cộng Đồng. ngày kia tôi nhồi được điều đó vào những cái đầu ngu dốt của thiên hạ, thế là tôi rảnh nợ.” Ahmed Sinai mỉm cười, gượng gạo, thấp thỏm. “Riêng tối nay,” cha tôi , “quên bài giảng - đỡ đứa giùm tôi.”

      Hai mươi chín phút nữa là tới nửa đêm. Nhà Hộ sinh của Bác sĩ Narlikar hoạt động với nhân tối thiểu; có nhiều người vắng mặt, nhiều nhân viên thích ăn mừng ra đời sắp đến của đất nước hơn, nên trợ giúp ra đời của lũ trẻ đêm nay. Áo màu nghệ, váy màu xanh, họ tụ tập những con phố trang hoàng, dưới những dãy ban công bất tận của thành phố, nơi những ngọn đèn dia bằng đất nung đổ đầy thứ dầu bí ấn; bấc nổi trong những ngọn đèn nối liền mọi ban công và mái nhà, và những ngọn bấc này cũng tuân theo kiểu phối màu hai tông của chúng ta: phân nửa số đèn cháy màu nghệ, nửa kia rực màu xanh.

      Luồn lách xuyên qua con quái vật nhiều đầu tức đám đông kia là chiếc xe cảnh sát, sắc vàng và lam của những bộ cảnh phục bị ánh đèn kỳ bí biến thành màu nghệ và xanh. (Ta đường đê Colaba, chỉ giây lát thôi, để hé lộ rằng hai mươi bảy phút trước nửa đêm, cảnh sát truy lùng tên tội phạm nguy hiểm. Tên gã: Joseph D’Costa. Gã hộ lý vắng mặt, vắng mặt mấy ngày nay, khỏi công việc ở Nhà Hộ sinh, khỏi căn phòng của gã gần lò mổ, và khỏi cuộc đời nàng Mary đồng trinh sầu muộn.)

      Hai mươi phút trôi qua, với những tiếng aaah từ Amina Sinai, mỗi lúc gắt hơn và gấp hơn, và những tiếng aaah yếu ớt mệt nhoài từ Vanita ở phòng bên cạnh. Con quái vật đường phố bắt đầu ăn mừng; huyền sử mới chảy trong huyết mạch nó, thay máu cho nó bằng thứ huyết cầu màu nghệ và xanh. Và ở Delhi, người đàn ông gân guốc nghiêm nghị ngồi trong Nhà Quốc hội chuẩn bị phát biểu. Ở Điền trang Methwold, cá vàng lửng lơ bất động trong ao khi mọi người từ nhà này sang nhà kia mang theo hạt dẻ cười và kẹo viên, ôm nhau và hôn nhau - hạt dẻ cười cười màu xanh được đánh chén, và những viên laddoo màu nghệ. Hai đứa trẻ chui ra theo lối bí mật trong khi ở Agra ông bác si già ngồi bên vợ, người có hai nốt ruồi mặt như núm vú phù thủy; và giữa bầy ngỗng say ngủ và những hồi ức bị nhậy cắn, vì sao đó họ đâm ra nín lặng chẳng biết phải gì. Và ở mọi thành phố mọi thị trấn mọi làng mạc, những ngọn đèn dia cháy cổng vòm bậu cửa hiên nhà, trong khi tàu hỏa cháy ở Punjab, với những lưỡi lửa xanh của sơn phồng rộp và màu nghệ rừng rực của nhiên liệu bị đốt cháy, như những ngọn dia lớn nhất thế gian.

      Và thành phố Lahore, cũng cháy.

      Người đàn ông gân guốc nghiêm nghị rời khỏi ghế. Người xức nước thiêng từ sông Tanjore, ông ta đứng dậy, trán bôi tro thánh, ông ta hắng giọng. hề có văn bản trong tay, hề học thuộc câu chữ chuẩn bị trước nào, Jawaharlal Nehru bắt đầu: “… Nhiều năm về trước, chúng ta có lời ước định với vận mệnh; và giờ đây tới lúc chúng ta thực cam kết của mình - dù trọn vẹn hay đến tận cùng, nhưng hết sức thực chất...”

      Hai phút nữa là mười hai giờ. Tại Nhà Hộ sinh của Bác sĩ Narlikar, viên bác sĩ da đen phát sáng, với trợ giúp của bà đỡ tên là Flory, phụ nữ mảnh mai nhân hậu đóng vai trò gì quan trọng, động viên Amina Sinai: “Rặn ! Mạnh nữa!... Tôi thấy cái đầu rồi!...” trong khi ở phòng bên ông Bác sĩ Bose - với Mary Pereira bên cạnh - đảm trách giai đoạn cuối của cơn đau đẻ dài hai mươi bốn tiếng của Amina... “Thế, rồi; lần nữa thôi, cố lên; sắp rồi, và sau đó là xong...!” Đàn bà rên rỉ và la hét trong khi ở căn phòng khác đàn ông im lặng. Wee Willie Winkie - hát nổi nữa – ngồi bệt trong góc nhà, người gật gù lên xuống, lên xuống... còn Ahmed Sinai tìm cái ghế. Nhưng trong phòng này có ghế; đó là căn phòng được bố trí để lại; thế là Ahmed Sinai mở cánh cửa, tìm thấy cái ghế ở bàn tiếp tân bỏ , nhấc nó lên, đem nó về căn phòng lại, nơi Wee Willie Winkie gật gù, gật gù, đôi mắt trống rỗng như người mù... ấy sống? hay là ?... và giờ, cuối cùng, tới nửa đêm.

      Con quái vật đường phố bắt đầu cất tiếng gầm, trong khi ở Delhi người đàn ông gân guốc , “… Vào đúng thời khắc nửa đêm, khi cả thế giới chìm trong giấc ngủ, Ấn Độ tỉnh giấc để được sống và tự do...” Và dưới tiếng gầm của con quái vật còn có hai tiếng la, thét, gầm rống, tiếng gào khóc của hai đứa trẻ mới chào đời, tiếng phản đối vô hiệu của chúng trộn lẫn với tiếng ồn ào của độc lập lơ lửng màu-nghệ-và-xanh giữa bầu trời đêm - “ thời khắc đến, đến lần hiếm hoi trong lịch sử, khi chúng ta từ cái cũ bước sang cái mới; khi thời đại kết thúc; và khi linh hồn dân tộc bị áp bức lâu nay cất lên tiếng ...” trong khi ở căn phòng trải thàm màu nghệ-và-xanh, Ahmed Sinai vẫn bưng cái ghế khi Bác sĩ Narlikar bước vào thông báo: “Vào đúng nửa đêm, người em Sinai ạ, Begum Sahiba của sinh hạ đứa bé to khỏe: đứa con trai!” Lúc này cha tôi bắt đầu nghĩ về tôi ( biết rằng...); với hình ảnh khuôn mặt tôi lấp đầy suy nghĩ ông quên mất cái ghế; bị tình với tôi ám ảnh (mặc dù...), bị nó lấp đầy từ đỉnh đầu đến ngón tay, ông đánh rơi cái ghế.

      Phải, là lỗi tại tôi (bất chấp tất cả)... chính sức mạnh của khuôn mặt tôi, của tôi chứ ai khác, khiến tay Ahmed Sinai buông cái ghế ra; và khiến cái ghế rơi xuống, với gia tốc mười mét giây, và khi Jawaharlal Nehru tuyên bố trước Nhà Quốc hội, “Hôm nay chúng ta chấm dứt thời kỳ bất hạnh,” khi những vỏ ốc xà cừ loa lên tin tức về tự do, chính tại tôi mà cha tôi cũng hét lên, vì cái ghế rơi xuống làm giập nát ngón chân ông.

      Và giờ chúng ta đến với nó; tiếng hét khiến tất cả xô đến; cha tôi và vết thương của ông cướp khoảnh khắc huy hoàng ngắn ngủi của hai bà mẹ đau đớn, của hai ca sinh nở đồng thời lúc nửa đêm - vì Vanita cuối cùng cũng cho ra đời đứa bé có kích cỡ lạ thường: “ tin nổi đâu,” Bác sĩ Bose , “Nó cứ chui ra mãi, mỗi lúc lại thấy thằng bé quẫy đạp ra thêm, cu cỡ bự mười đồng hẳn hoi!” Và Narlikar, rửa ráy: “Của tôi cũng thế.” Nhưng đó là chuyện lúc sau - ngay bây giờ Narlikar và Bose chăm sóc ngón chân cho Ahmed Sinai; các bà đỡ được chỉ đạo tắm và quấn tã cho đôi trẻ sơ sinh; và giờ Mary Pereira đóng góp phần mình.

      ,” bảo Flory tội nghiệp, “xem chị có giúp được gì , ở đây để em lo được rồi.”

      Và khi còn lại mình - hai đứa trẻ trong tay - hai sinh linh trong quyền hạn của mình - làm điều đó vì Joseph, hành động cách mạng bí mật của riêng , thầm nghĩ ấy nhất định sê mình vì điều này, khi đổi thẻ tên của hai đứa trẻ khổng lồ, ban cho đứa trẻ nghèo cuộc đời đầy đặc quyền và đày đọa đứa trẻ nhà giàu bằng phong cầm và đói khổ... “Hãy em, Joseph!” là điều Mary Pereira nghĩ trong đầu, và sau đó là xong. Nơi cổ chân đứa bé cỡ bự mười đồng có đôi mắt xanh như bầu trời Kashmir - cũng là đôi mắt xanh như Methwold - và cái mũi ấn tượng như của người ông quê Kashmir - cũng là cái mũi của người bà từ Pháp - buộc vào cái tên này: Sinai.

      Màu nghệ bảo bọc tôi khi, nhờ có tội ác của Mary Pereira, tôi trở thành đứa trẻ được chọn của nửa đêm, người mà cha mẹ phải cha mẹ mình, người mà đứa con phải con mình... Mary đem đứa trẻ nằm trong bụng mẹ tôi, đứa trẻ trở thành con bà, con cá chim mười đồng khác, nhưng có đôi mắt kịp ngả màu nâu, và đầu gối cũng lồi như Ahmed Sinai, bọc nó vào màu xanh, rồi trao nó cho Wee Willie Winkie người nhìn đờ đẫn, người hầu như thấy đứa con mới chào đời, người bao giờ hay biết chuyện những cái ngôi giữa... Wee Willie Winkie, người vừa biết rằng Vanita qua nổi cơn vượt cạn. Lúc mười hai giờ ba phút, khi các bác sĩ rối rít với ngón chân giập nát, Vanita bị băng huyết và qua đời.

      Thế là tôi được trao cho mẹ tôi; và bà hề nghi ngờ tính chân thực của tôi dù chỉ giây. Ahmed Sinai, ngón chân bó nẹp, ngồi bên giường khi bà : “Xem kìa, janum, thằng bé tội nghiệp, nó có cái mũi của ông ngoại.” Ông nghệt mặt nhìn khi bà kiểm tra cho chắc là chỉ có cái đầu; rồi bà thở phào nhõm, hiểu rằng cả thầy bói cũng chỉ có năng lực giới hạn.

      “Janum,” mẹ tôi hớn hở , “mình phải gọi bên báo . Gọi chỗ tờ Thời báo Độ ấy. Em bảo mình thế nào? Em thắng rồi.”

      “… Đây phải lúc để phê phán hẹp hòi hoặc thiếu tính xây dựng,” Jawaharlal Nehru với Quốc hội. “ phải lúc để hận thù. Chúng ta phải xây ngôi nhà tráng lệ của Ấn Độ tự do, nơi mọi người con của đất nước có thể an cư.” lá cờ trải ra: nó màu nghệ, trắng và xanh.



      người ?” Padma thốt lên kinh hãi. “ cái gì thế? là người Ấn gốc à? Tên phải là của à?”

      “Tôi là Saleem Sinai,” tôi bảo , “Thò Lò, Mặt Nhọ, Cả Khịt, Hói, Mảnh Trăng. Ý em là sao - phải của tôi?”

      “Bấy lâu nay lừa tôi,” Padma tức giận than vãn. Mẹ , gọi bà; cha , ông , dì . là cái thứ gì mà chẳng buồn ngay cả ra bố mẹ mình là ai ? chẳng buồn quan tâm rằng mẹ chết khi sinh ra ? Rằng bố khéo vẫn còn sống đâu đó, xu dính túi, đói khổ? là quái vật hay là gì?”

      : tôi phải quái vật. Tôi cũng phạm tội lừa đảo. Tôi cung cấp manh mối... nhưng có điều quan trọng hơn thế. Đó là: về sau khi chúng tôi khám phá ra tội ác của Mary Pereira, tất cả đều nhận ra rằng chẳng có gì thay đổi! Tôi vẫn là con trai họ: họ vẫn là bố mẹ tôi. Trong kiểu thất bại tập thể của trí tưởng tượng, chúng tôi hiểu ra mình đơn giản thể nghĩ vượt ra ngoài quá khứ củamình... nếu quý vị có hỏi cha tôi (ngay cả ông, bất chấp mọi chuyện xảy ra!) con trai ông là ai, điều gì đời có thể khiến ông chỉ về phía thằng bé lem luốc, đầu gối gõ nhau của người chơi phong cầm. Cho dù thằng Shiva này, nó lớn lên thành người hùng thực thụ.

      Thế đấy: có đầu gối và cái mũi, cái mũi và đầu gối. Kỳ thực, khắp nước Ấn Độ mới ra đời, giấc mơ mà chúng tôi đều chia sẻ ấy, những đứa trẻ được sinh ra chỉ có phần là hậu duệ của cha mẹ chúng - những đứa trẻ của nửa đêm cũng là những đứa con của thời đại: được hoài thai bởi lịch sử, quý vị hiểu chứ. Điều ấy có thể xảy ra. Đặc biệt là ở đất nước mà bản thân nó cũng là thứ giấc mơ.



      “Đủ rồi,” Padma hậm hực. “Tôi muốn nghe nữa.” Chờ đợi đứa trẻ hai đầu kiểu này, bực bội khi nhận được kiểu khác. Dù sao chăng nữa, dù có nghe hay , tôi vẫn có nhiều chuyện cần ghi lại.

      Ba ngày sau khi tôi ra đời, Mary Pereira bị giằng xé trong nỗi ăn năn. Joseph D’Costa, đường lẩn trốn xe cảnh sát săn lùng, hiển nhiên bỏ rơi Alice em cũng như Mary; và người phụ nữ bé tròn trịa - thể, giữa niềm kinh hãi, thú nhận tội ác của mình - nhận ra rằng mình con ngốc. “Đồ lừa ở đâu biết!” tự rủa; nhưng vẫn giữ bí mật. Tuy nhiên, quyết định làm việc gần như bồi thường. thôi việc ở Nhà Hộ sinh và tiếp cận Amina Sinai bằng “Thưa bà, mới gặp em bé của bà lần tôi thấy . Bà có cần ayah ?” Và Amina, ánh mắt ngời lên tình mẫu tử, “Có”. Mary Pereira (“ gọi bà là mẹ cũng sai đâu,” Padma chen vào, chứng tỏ vẫn quan tâm, “Bà tạo ra còn gì”), từ giờ phút ấy, dành trọn đời để nuôi nấng tôi, và do đó ràng buộc phần đời còn lại với ký ức về tội ác của mình.

      Ngày 20 tháng Tám, Nussie Ibrahim nối gót mẹ tôi vào bệnh viện đường Pedder, và thằng Sonny nối gót tôi ra đời – nhưng nó chần chừ khỏng chịu ló đầu ra; cặp forcep buộc phài vào mà lôi nó ra; Bác sĩ Bose, trong lúc nóng vội, ấn hơi mạnh tay, và Sonny xuất với hai vết lõm ở hai bên thái dương, hai hốc forcep nông khiến nó trở nên hấp dẫn cưỡng nổi như mái tóc của William Methwold làm với tay người . Bọn con (Evie, con Khỉ Đồng, những đứa khác) vươn tay ra vuốt ve hai thung lũng xinh của nó... điều dẫn đến rắc rối giữa bọn tôi.

      Nhưng tôi để dành mẩu tin thú vị nhất đến phút chót. Vậy giờ tôi xin tiết lộ rằng, ngày sau khi tôi ra đời, mẹ tôi và tôi được viếng thăm tại phòng ngủ màu nghệ và xanh bởi hai nhân vật từ tờ Thời báo Độ (ấn bản Bombay). Tôi nằm trong chiếc cũi xanh, bọc trong màu nghệ, ngước mắt nhìn họ. Có tay phóng viên, này để hết thời gian phỏng vấn mẹ tôi; và tay thợ ảnh cao, mũi khoằm, này dành trọn chú ý cho tôi. Hôm sau, tin tức cùng hình ảnh xuất báo...

      Vừa mới đây thôi, tôi đến khu vườn xương rồng nơi có lần, từ nhiều năm trước, tôi chôn quả địa cầu đồ chơi bằng thiếc bị móp nặng và được dính lại bằng Scotch Tape[4]; và lấy ở bên trong ra những thứ tôi nhét vào ngần ấy năm về trước. Giờ đây, cầm chúng tay trái, khi viết, tôi vẫn thấy được - dù cả hai ngả vàng và lên mốc - thứ là lá thư, lá thư gửi riêng cho tôi, ký tên Thủ tướng Ấn Độ; còn kia là mảnh giấy cắt ra từ báo.

      [4] nhãn hiệu băng dính của .

      Nó có tiêu đề: ĐỨA TRẺ CỦA NỬA ĐÊM

      dòng chữ: “ tấm hình duyên dáng của Bé Saleem Sinai, ra đời đêm qua đúng vào thời khắc độc lập của Đất nước ta - Đứa Trẻ hạnh phúc của Giờ Phút huy hoàng ấy!”

      bức hình lớn: bức-hình-em-bé A-l thượng-hạng trang-nhất cỡ-đại, đó đến giờ tôi vẫn có thể nhìn ra đứa trẻ có những vết bớt hoen má và cái mũi thò lò lấp lánh. (Bức hình có chú thích: Ảnh: Kalidas Gupta.)

      Bất kể cái tiêu đề, dòng chữ và bức hình, tôi phải kết án hai vị khách vì tội tầm thường hóa; những nhà báo đơn thuần, tầm nhìn vượt quá số báo hôm sau, họ hề có khái niệm gì về tầm quan trọng của kiện mình đưa tin. Với họ, đó chỉ là câu chuyện giật gân hấp dẫn độc giả hơn.

      Làm sao tôi biết được? Bởi vì, cuối buổi phỏng vấn, tay thợ ảnh cho mẹ tôi tấm séc - trị giá trăm rupee.

      trăm rupee! Có thể nào tưởng tượng ra con số bé mọn, rẻ mạt đến thế ? Đó là con số mà người có thể, nếu là người có đầu óc để thấy như vậy, thấy bị sỉ nhục. Tôi, tuy thế, chỉ cảm ơn họ vì tán tụng ra đời của tôi, và tha thứ cho họ vì thiếu nhạy cảm lịch sử thực thụ.

      “Đừng tinh tướng,” Padma dằn dỗi . “ trăm rupee cũng bé lắm đâu; cho cùng, ai mà chẳng ra đời, có gi là to tát kia chứ.”



    6. ^^! Nếu bạn không gửi link bài viết trên Facebook được, hãy sử dụng link trong khung này để chia sẻ bài viết :