Chương hai mươi tư VỢ CHỒNG NHÀ CAYMAN Bobby khó chịu khi thủ vai tài xế thấy mình Frankie xuất . - Hawkins ! - Frankie to - Chúng ta quay về Staverley thôi. Đến đoạn đường ngắn, Bobby cho dừng xe lại. - Thế nào, Frankie ? - Bobby, tình hình phức tạp rồi. Moira rồi. - rồi ư ? Ngay sáng hôm nay ư ? - Phải. Từ sáng sớm. - để lại cho chúng ta chữ ư ? - Tôi tin là có chuyện này. Ông chồng dối... tôi tin chắc là như vậy. Bobby tái mặt lẩm bẩm: - Muộn mất rồi ! Chúng ta ngốc quá. Đáng lẽ hôm qua chúng ta nên để ta trở về ngôi nhà ấy nữa. - nghĩ là ta ... chết rồi ư ? - - Bobby to như để trấn an mình. Cả hai cùng yên lặng lúc, sau đó Bobby bình tĩnh phán đoán: - Chắc chắn ấy còn sống vì người ta chưa phát ra xác chết. Người chồng tạo ra cái chết hoặc tự nhiên hoặc do tại nạn. Theo tôi, ấy hoặc bị săn đuổi, việc này là có khả năng, hoặc vẫn còn trong lâu đài La Grange. - Bây giờ chúng ta phải làm gì ? Bobby suy nghĩ lúc. - Tôi cho rằng có mặt của ở đây ích lợi gì nữa. trở về Londers chứ ? cần tìm những dấu vết của nhà Cayman. nên bắt tay vào viêc này. - Ô ! Bobby! - Bạn thân mến, nên ở lại đây. Mọi người biết , biết rất nữa là khác. mình về Londres, thể ở lâu đài Merroway mãi được, cũng thể đến trọ ở quán “Những người câu cá” được. Trong làng có những lời đàm tiếu. , hãy tin tôi, nên khỏi nơi này. Chắc chắn là Nicholson ngờ vực, nhưng hẳn là ông ta tin rằng chưa biết gì nhiều. về Londres còn tôi ở lại đây. - Vẫn ở quán “Những người câu cá” ư ? - , người lái xe cho biến mất rồi. Tôi tới Ambledever cách đây mười lăm ki-lô-mét và nếu Moira vẫn còn ở trong ngôi nhà khủng khiếp ấy thế nào tôi cũng có dịp gặp ta. - Bobby, hãy thận trọng. - Tôi thận trọng như con rắn ấy. Frankie đành phải đồng ý với . Lập luận của Robby khá khôn ngoan. hiểu vai trò của mình ở lâu đài Merroway kết thúc. Bobby đưa về Londres và Frankie trở về ngôi nhà của gia đình ở phố Brook Street. cảm thấy mình quá đơn độc. Nhưng vào ba giờ chiều hôm ấy, ăn vận sang trọng, mang kính kẹp mũi, tay cặp sách vào phố Saint LeonarcTs Gardens thuộc quận Paddington. Frankie dọc trước những ngôi nhà tồi tàn phố Saint LeonarcPs Gardens, hầu hết đổ nát sau những ngày tươi đẹp trước kia. Tới nhà số mười bảy, thất vọng khi nhìn thấy tấm bảng Nhà bán hoặc cho thuê treo trước cửa. Ngay lập tức Frankie nhấc kính kẹp mũi ra rồi thẳng. Người tuyên truyền cho Đảng bảo thủ có lý do gì ở lại đây nữa. kịp nhìn tấm bảng tên hai nhà môi giới về nhà cửa và ghi vào sổ tay. lập xong kế hoạch tác chiến là bắt tay vào công việc thực . Trước hết Frankie đến Công ty Gordon và Porter ở phố Praed Sreet. - Chào ông. Ông có thể cho chúng tôi địa chỉ mới của ông Cayman trước kia ở số nhà mười bảy, phố Saint -Leonard’s Gradens, quận Paddington ạ ? - Xin sẵn sàng, thưa - Người nhân viên trẻ tuổi trả lời - Nhưng ông ấy chỉ ở đây trong thời gian ngắn thôi, hiểu cho. Ông Cayman chỉ ký hợp đồng thuê nhà trong ba tháng, hết thời hạn, ông ấy ra nước ngoài rồi. - Vậy ông có địa chỉ mới của ông ta ? - , thưa . - Nhưng trước khi thuê ngôi nhà ấy, ông ta sống ở đâu ? - Ở khách sạn... hình như đó là khách sạn Great Westem Railway ở gần ga Paddingtorí phải. - Ông còn giữ lại những giấy tờ gì của ông ta ? - Ông ấy thanh toán đủ tiền nhà cùng tiền điện nước lần cho ba tháng rồi, có giấy tờ gì khác. - Ô ! - Frankie thở dài thất vọng. Chàng trai nhìn với vẻ ái ngại. - Ông ấy nợ tôi số tiền lớn- giải thích. Ngay lập tức ta tỏ vẻ bất bình. bèn lục thêm trong các tập hồ sơ nhưng vẫn thấy địa chỉ mới của Cayman. Công ty cho Cayman thuê nhà chưa nghĩ đến việc tìm người thuê mới. Frankie cầu được thăm ngôi nhà vì muốn có ngôi nhà để tiếp tục việc học hành. ra khỏi văn phòng Công ty với chiếc chìa khoá trong tay và đến thẳng số nhà mười bảy, phố Saint- LeonarcTs Gardens, quận Paddington. Đó là ngôi nhà ít được giữ gìn, tường dán loại giấy rẻ tiền, những lớp sơn bị tróc vảy, bẩn thỉu. Đầu tiên Frankie xuống xem tầng trệt. Căn phòng được quét dọn từ ngày chủ cũ dọn ; những đoạn giây thừng, những tập báo cũ, những mẩu gỗ vụn, những chiếc đinh... nằm rải rác mặt đất... nhưng có lấy tài liệu, lá thư cá nhân nào. Chỉ có thứ có thể có giá trị đó là tấm bản đồ đường sắt A.B.C để mở trước cửa sổ. tấm bản đồ có ghi số tên người. Frankie chép những tên đó vào cuốn sổ tay tuy chưa biết ý nghĩa của chúng ra sao. tự nhủ nếu chưa tìm ra vợ chồng nhà Cayman chưa thể làm việc gì khác được. Nếu phạm pháp họ có những đề phòng cần thiết để bị tóm cổ. vắng mặt của họ cũng có thể là chứng cứ phạm tội. trả lại chìa khoá cho người nhân viên và hứa gọi điện để trả lời sau đó ra công viên mà chưa biết mình phải làm tiếp việc gì nữa. suy nghĩ của bị cắt đứt bởi trận mưa rào. Xung quanh có chiếc tắc-xi nào. Gần đó có ga xe lửa ngầm, tới và mua vé để Piccadilly Circus và lấy thêm hai tờ báo. Vào giờ này xe lửa vắng khách, trong toa chỉ có mình Frankie. có điều kiện suy nghĩ và đọc báo. đọc được những tin vặt: những tai nạn xe hơi, những học sinh mất tích... dư luận xã hội, buổi tiếp khách của phu nhân Petehampton ở Claridge, việc ngài John Milkington bình phục sau tai nạn sông khi chiếc du thuyền nổi tiếng của ông John Savage, nhà tỉ phú quá cố. Chiếc thuyền đó mang tai hoạ đến cho ông này ư ? Người đóng thuyền bị giết cách bi thảm; ông Savage tự sát; bây giờ chủ nhân tại của nó là ngài John Milkington suýt bị chết đuối. Frankie đặt tờ báo xuống và cau mày nghĩ ngợi. hai lần nghe đến cái tên Savage: lần thứ nhất do bà Sylvia Bassington-ffrench khi về ông Alan Carstairs và lần thứ hai trong cuộc chuyện giữa bà Rivington với Bobby. Ông Alan Carstairs là bạn thân của ông John Savage. Bà Rivington cũng đến có mặt ở nước của ông Alan Carstairs có quan hệ đến cái chết của ông John Savage. Nhà tỷ phú tự sát vì cho rằng mình mắc bệnh ung thư. Nhưng nếu tin vào lời giải thích ấy, ông Carstairs trở về nước để điều tra về cái chết của bạn mình sao ?... Tấn thảm kịch mà Frankie và Bobby chứng kiến có phải là khúc dạo đầu trong câu chuyện về cái chết bí của ông Savage ? có điều gì bác bỏ giả thiết này, Frankie tự hỏi phải làm gì để có những chứng cứ. có thông tin gì về người bạn của ông Savage cả. Bất chợt tia sáng loé lên trong óc : bản di chúc ! Nếu cái chết của ông Savage có nghi vấn trước hết phải nghiên cứu những mong muốn cuối cùng của nhà tỷ phú ấy. Frankie nghe đến văn phòng ở Londres phục vụ cho việc nghiên cứu các bản di chúc miễn là người đọc trả cho văn phòng đồng xi-linh (tiền - ND) lần đọc. Nhưng nhớ địa chỉ của văn phòng này. Xe lửa đỗ lại và Frankie thấy mình đứng trước nhà Bảo tàng của nước . xuống xe và sau năm phút bộ đến văn phòng luật sư Jenkin và Spragge. được ông Spragge, người cổ đông chính của văn phòng, đón tiếp cách niềm nở. Ông Spragge là người đáng mến, có giọng dịu dàng khuyến khích khách hàng những điều tế nhi. Ông biết rất nhiều chuyện bí mật của Londres và nhất là những chuyện trong các gia đình quí phái. - Tiểu thư Frances, tôi rất lấy làm hân hạnh được đón tiếp . Xin mời ngồi xuống. Ngài quận công Marchington có được mạnh khoẻ ? Frankie trả lời và ông Spragge bỏ chiếc kính kẹp mũi ra, từ lúc này ông là cố vấn pháp lý cho thân chủ của mình. - Thế nào, tiểu thư Frances, có việc gì mà tới văn phòng nghèo nàn của chúng tôi ? - Tôi muốn xem qua bản di chúc - Frankie - Nhưng biết hỏi ai. Tôi nghe có văn phòng mà khách hàng chỉ cần mất đồng xi- linh có thể đọc được mọi tài liệu. - Phải, ở Somerset House - Ông Spragge trả lời - Bản di chúc nào vậy ? Tôi có thể cho biết nội dung mọi bản di chúc của gia đình . - Đây phải là di chúc của gia đình. - A ! Ông Spragge . Nhưng con người này rất mánh khoé trong việc moi các bí mật của người khác khiến Frankie quyết định phải giữ bí mật việc này cũng phải : - Tôi muốn xem bản di chúc của ông Savage... John Savage. - Thế ư ? - Vẻ tò mò thể mặt ông Spragge trước khi ông tiếp - là lạ lùng... rất lạ lùng. Frankie ngạc nhiên nhìn ông. - Tôi biết sao nữa - Ông spragge - Tiểu thư Frances, có thể cho tôi biết lý do của việc này ? - Xin lỗi, thưa ông Spragge, cái đó là thể được. Ông Spragge nhìn Frankie cách khác thường. - Tôi thấy - Ông Spragge tiếp - phải đề phòng cẩn thận. - Tôi phải đề phòng ư ? - Phải. Tôi có nhiều tin tức chưa ràng... tôi muốn dính líu vào công việc có nhiều nghi vấn. rất muốn trả lời rằng mình chìm sâu, ngập tới cổ, vào việc này rồi, nhưng chỉ nhìn ông cách dò hỏi. - Theo tôi, đây là trùng hợp khác thường - ông Spragge - Tuy nhiên tôi thấy có cái gì đó gian dối ở trong bản di chúc đó. Lúc này tôi thể gì hơn. Frankie vẫn đưa mắt thăm dò ông. - Tôi có trong tay tài liệu rất quan trọng - Ông Spragge tiếp với vẻ bất bình - Người ta đội tên tôi, thưa tiểu thư Frances. nghĩ thế nào về hành động bỉ ổi ấy ? Ngạc nhiên, Frankie đứng lặng lúc, trả lời. Cuối cùng lắp bắp: - Làm thế nào mà ông biết được ? Ngay lập tức Frankie thấy hỏi như vậy là ngu ngốc. Ông Spragge là nhà pháp luật tôi nếu hiểu lời thú nhận ấy. - biết việc này ư, tiểu thứ Frances ? - Vâng. thở dài rồi thêm: - Xin thú nhận thêm, tôi là kẻ xúi giục - Thưa ông Spragge. - Tôi ngạc nhiên về đấy. Trong giọng của ông Spragge có đấu tranh giữa người bảo vệ pháp luật với người cha chú của . - Câu chuyện xảy ra như thế nào ? - Đó là trò đùa - Frankie - Chỉ là để giết thời gian thôi. - Nhưng ai là người đội tên tôi ? Frankie nhìn ông, rồi từ cảm hứng ngẫu nhiên, trả lời: - Đó là ngài quận công trẻ... , thưa ông Spragge, tôi thể tên ông ấy ra đây. Đối với tôi đó là hành động trung thành. Ngay lập tức Frankie hiểu gió xoay sang hướng có lợi cho . Chắc chắn ông Spragge kiên quyết đối với người con trai của ông mục sư, nhưng ông lại mềm yếu trước ông quận công trẻ tuổi. Trở lại vẻ hiền lành, ông giơ ngón tay lên: - Ô ! tuổi trẻ tươi đẹp và đáng khen. chui đầu vào tổ ong vò vẽ nào vậy ? thấy nhiều chuyện phức tạp về mặt luật pháp đối với tinh nghịch vô tư như vậy. có biết mình có thể phải ra trước toà án ... nếu mang tên người khác chứ phải là tên tôi ? - Ông rất đáng mến, ông Spragge. Chỉ có trong ngàn người có hành động như ông. Thú tôi lấy làm ngượng vì gây ra chuyện này. - , , tiểu thư Frances. - Ô ! Đúng thế, tồi xin cam đoan với ông là như vậy. Chắc chắn là bà Rivington kể lại với ông. Bà ấy như thế nào ? - Tôi vừa nhận được bức thư. Frankie giơ tay ra và ông Spragge đưa lá thư cho với vẻ muốn : Để thấy mình dại dột như thế nào ! "Ông Spragge thân mến - Bà Rivington viết - Xin lỗi về quên lãng của tôi, nhưng lúc này tôi nhớ lại chi tiết để ông có thể xem xét sử dụng theo cầu của ông khi đến gặp tôi bữa nọ. Ông Alan Carstairs có cho chúng tôi biết ông ấy tới nơi có tên là Chipping Somerton. Tôi hy vọng tin mới này giúp ông tìm ra địa chỉ của ông ấy nay. Những việc mà ông làm trong vụ án Maltravers đối với tôi là rất thú vị. Xỉn ông nhận ở đây những tình cảm trân trọng của tôi. Edith Rivington ” - có thể tự nhận xét. Rất nghiêm trọng - Ông Spragge nghiêm khắc tuy có đôi chút mềm dịu - Tôi có thể hiểu đây là ý đồ gây ra vụ om xòm liên quan đến vụ Maltravers hoặc thân chủ của tôi là ông Carstairs... Frankie ngắt lời ông. - Ông Carstairs là trong những khách hàng của ông ư ? - Đúng. Ông ấy vừa đến hỏi ý kiến tôi trong khi trở về vào tháng trước. cũng quen ông Carstairs ư, tiểu thư Frankie ? - Có quen đôi chút. - con người đáng mến. Khi ông ấy tới văn phòng này, bầu khí tự do cùng vào với ông ấy. - Ông ta tới hỏi về chuyện bản di chúc của ông Savage, đúng ? - A ! Đây là chuyện muốn hỏi tôi ư ? Tiếc rằng tôi thể giúp gì cho ông ấy cả. - Ông ta hỏi ông những gì ? Có phải vì bí mật nghề nghiệp mà ông thể trả lời tôi ? - Trong trường hợp này phải như vậy. Theo tôi thể làm gì trong vụ này được... trừ phi gia đình ông Savage bỏ ra số tiền rất lớn để theo đuổi kiện tụng. Tiểu thư Frances, tôi khuyên bất cứ ai cũng nên ra trước cửa công cả. Luật pháp tung ra rất nhiều suy diễn làm hoang mang những người tinh thần vững. dàn xếp tồi còn hơn là bản án tốt, đó là khẩu hiệu của tôi. Frankie như ngồi đống lửa. rất sợ để lộ công việc mình làm. Đây là trường hợp hiếm thấy - ông Spragge tiếp. - Trường hợp tự sát ư ? - , , tôi muốn đến những chuyên bất chính. Ông Savage là nhà kinh doanh có tài, nhưng ông ta để mình bị mê hoặc bởi người đẹp mới gặp lần đầu. Đây là người đàn bà giảo quyệt... - Ô ! Tôi rất muốn ông kể về người phụ nữ ấy. Ông Carstairs thường nổi giận mỗi khi với tôi về người này mà cho tôi biết đầu đuôi câu chuyện ra sao ? - Cũng đơn giản thôi. Tôi có thể được nếu quan tâm. - Ô ! Vâng. - Ông Savage từ Hoa Kỳ trở về nước tháng năm ngoái. Như biết ông ấy là người rất giàu. Trong chuyến ông ta làm quen với bà Templeton. Người ta biết gì về người phụ nữ này ngoài việc bà ta rất đẹp và người chồng ở nơi nào đó nước . “Vợ chồng nhà Cayman” - Frankie nghĩ. - Những chuyến biển thường nguy hiểm - Ông Spragge tiếp - Bị mê hoặc bởi con người nghiêng nước nghiêng thành ấy, ông Savage nhận lời đến thăm bà trong ngôi nhà ở Chipping Somerton. Ông ấy tới đây bao nhiêu lần tôi , nhưng ràng là ông ấy bị bà Templeton thống trị rồi. Và sau đó tấn thảm kịch xảy ra. Ông Savage lúc này kêu ca về tình trạng sức khoẻ của mình. Ông sợ rằng mình mắc chứng bệnh nghiêm trọng... - Ung thư ư ? - Vâng; ông ấy rất sợ chứng ung thư. sợ hãi ấy trở thành nỗi ám ảnh. Thời kỳ ấy ông Savage sống với vợ chồng nhà Templeton. Họ khuyên ông nên mời nhà chuyên môn ở Londres về khám bệnh. Ông ấy làm theo. Tiểu thư Frances, đến đây tôi xin phép được tự do tưởng tượng. Nhà chuyên môn ấy rất đặc biệt, trước toà án ông ta thề mà rằng ông Savage hề mắc chứng ung thư. Ông ta với người bệnh như vậy, nhưng ông này lại khẳng đinh điều ngược lại, tin lời chuyên môn là sai . được chứng kiến, tiểu thư Frances, nhưng theo hiểu biết về cách chữa bệnh của mình tôi hiểu việc xảy ra có khác đôi chút. Nghe những triệu chứng bệnh tật do ông Savage kể, nhà chuyên môn tỏ vẻ nghiêm trang cách mạnh mẽ, vừa an ủi ngưòi bệnh vừa ám chỉ bệnh tật của ông này là nghiêm trọng. Ông Savage cho rằng nhà chuyên môn dối với mục đích làm ông yên tâm... Nhưng ông ông hiểu rằng mình mắc chứng ung thư. - Dù sao nữa ông Savage tới Chipping Somerton trong tình trạng tinh thần suy sụp. Ông ấy hình dung ra cơn hấp hối đau đớn và kéo dài. Hình như có nhiều người trong gia đình ông chết vì chứng ung thư và ông, quyết định để tái diễn những cảnh đau đớn mà ông chứng kiến. Ông Savage cho gọi người chưởng khế tới lập cho mình bản di chúc và ông ký vào đó và giao cho người đó giữ. Tới hôm ấy, ông uống liều lớn thuốc ngủ sau khi viết bức thư giải thích về cái chết nhanh chóng và đau đớn của mình. - Theo bản di chúc ông Savage để lại hầu hết gia sản của mình cho bà Templeton và phần còn lại cho công tác từ thiện. Hài lòng về chuyện kể của mình, ông Spragge ngả lưng ghế bành rồi tiếp: - Ông chánh án có bản kết luận thường thấy: “Tự sát trong lúc tinh thần cân bằng; nhưng chúng tôi thể căn cứ vào đó để xác định tính chất hợp pháp của các chữ ký xác nhận trong bản di chúc. Bản di chúc là được viết và được ký trước mặt viên công chứng trong lúc người qua đời trí óc minh mẫn. Chúng tôi thể chứng minh lúc ấy ông Savage bị áp lực bên ngoài. Ông Savage để lại cho những người thân của mình chút gì... cha mẹ, chị em ông ấy phải nhớ chứ. Tôi cho rằng họ ở Châu úc. - Và ai lên tiếng bác bỏ bản di chúc ấy sao ? - Như với , những người thân của ông Savage có mặt ở xứ sở này nên biết gì về bản di chúc. Chính ông Alan Carstairs khơi vấn đề này ra. Sau cuộc khai thác ở Trung Phi, sau khi biết mọi chi tiết của bản di chúc, ông Carstairs tới đây hỏi tôi cách bác bỏ bản di chúc ấy. Tôi với ông ấy có giải pháp nào cả. Với khả năng thành công chín phần mười theo pháp luật, bà Templeton hưởng gia tài ấy. Hơn thế, bà này bỏ để sống ở miền bắc nước Pháp và từ chối quan hệ với chúng tôi. Ông Carstairs hiểu rằng mình về quá chậm. - Người ta biết gì về bà Templeton ấy ư ? Ông Spragge lắc đầu. - người từng trải như ông Savage đáng lẽ nên để mình bị quyết rũ như vậy... nhưng... Frankie đứng lên. - Đàn ông lạ lùng - . đưa tay ra cho ông luật sư. - Tạm biệt ông Spragge. Ông rất đáng mến, tôi lấy làm tiếc... - Tạm biệt, tiểu thư Frances. Lần sau nên cẩn thận hơn. bắt tay ông rồi rời khỏi văn phòng của ông luật sư. Ông Spragge ngồi trước bàn giấy và nghĩ: “Vị quận công trẻ tuổi...”. Ông thấy có ai quận công ở nước lại tinh nghịch đến như vậy. Chương hai mươi sáu TRONG ĐÊM TỐI vắng mặt thể giải thích nổi của Moria làm cho Bobby bối rối. nhắc lại là kỳ cục khi tưởng tượng ra việc loại bỏ trong khu nhà đầy người như vậy. Chắc chắn là bị giam ở nơi nào đó trong lâu đài La Grange thôi. Bobby nghĩ đến việc Moria tự nguyện rời khỏi Staveryley. cũng tin chắc rằng mà để lại cho mấy chữ. Hơn nữa chẳng là mình có nơi nấp là gì ? Giữa những bức tường thê thảm của La Grange, Moira là tù nhân, sống cách biệt với thế giới bên ngoài. Bobby khẳng định: Nicholson muốn thủ tiêu người vợ bằng mọi giá. Mọi kế hoạch của thất bại. Cho người khác biết bộ mặt của , Moria nhanh chóng mang lại kết liễu đời mình. Nicholson có quyết định tức thời. Liệu có dám giết ? Phải, Nicholson chuẩn bị để sát hại vợ. Bobby tin chắc là như vậy. Người ta thấy xác của Moira ở nơi nào đó, có thể là dưới vực nếu bị sóng biển cuốn trôi. lần nữa giết người lại trở thành tai nạn. Nicholson là chuyên gia về loại việc này. Bobby cho rằng đạo diễn cảnh như vậy phải có thời gian, ít nhất là bốn mươi tám tiếng đồng hồ. Trước cái thời hạn ấy, tìm thấy Moira nếu còn ở trong lâu đài La Grange. - Để lại Frankie ở Brook Street, suy nghĩ về kế hoạch hành động. thấy tốt nhất là đến xưởng sửa chữa ô-tô nữa... Chắc chắn bọn chúng canh chừng ở đây. Khi là Hawkins gây nghi ngờ cho ai. Nhưng lúc này Hawkins cũng phải biến mất. Chiều hôm ấy, chàng trai có bộ ria, mặc bộ đồ xanh may đo tới Ambleveder, thị trấn . Người hành khách ấy đến trọ trong khách sạn ở gần nhà ga và ghi đăng ký dưới cái tên Goerge Paker. Sau khi sắp xếp hành lý, ta ra phố và vào cửa hiệu thuê chiếc xe gắn máy. Mười giờ đêm hôm ấy, người xe gắn máy đội mũ da, đeo cặp kính to tới làng Staverley và đỗ vào nơi kín đáo gần lâu đài La Grange. giấu chiếc xe trong bụi cây, nhìn lại hai bên đường rồi dọc theo bức tường và đến trước cánh cửa . Cũng như lần trước, cửa khoá. Sau khi dò xét xung quanh, Bobby bước vào. cho tay vào túi có khẩu súng lục và cảm thấy yên tâm. Bên trong vẫn yên tĩnh. Bobby mỉm cười khi nghĩ đến những câu chuyện cổ tích trong đó bọn cướp cho hổ báo canh gác nơi ở của chúng. Bác sĩ Nicholson thích khoá và then cài và có thể có những sơ xuất về mặt này... Bobby muốn có tin chắc. Mỗi khi nghĩ tói Moira tim thắt lại. như nhìn thấy hình bóng của , đôi mắt mở to, đôi môi run rẩy. Đây là nơi gặp lần đầu tiên. Lúc này Moira ở đâu ? Nicholson làm gì ta ? Chỉ cần còn sống... Bobby xung quanh trại giam. lầu nhiều phòng có ánh sáng đèn, dưới tầng trệt chỉ có phòng. Bobby bò tới dưới cửa sổ của căn phòng ấy. Màn gió được che kín chỉ còn khe hở . Bobby bám lấy gờ cửa sổ nhảy lên để nhìn vào bên trong. nhìn thấy bả vai và cánh tay của người đàn ông viết giấy. Cùng lúc ấy người đàn ông xoay người, thay đổi lại cách ngồi và Bobby nhìn ra mặt người ấy theo chiều nghiêng: bác sĩ Nicholson. Bobby có thời gian để quan sát kỹ ông ta. chú ý đến chiếc mũ to, cái cằm nhọn, cái tai , dái tai dính vào má. nghe những người có kiểu tai như vậy thường là những người có tài đặc biệt. Người bác sĩ vẫn viết... Đôi lúc ông ta ngừng lại như để suy nghĩ tìm từ nào đó... rồi ngòi bút lại tiếp tục lướt giấy. Có lúc ông ta nhấc và lau mắt kính rồi lại kẹp lên mũi. Cuối cùng Bobby nhảy xuống đất tiếng động. Hình như Nicholson còn viết nữa. Cần tranh thủ thời gian ấy để quan sát các nơi khác. lần nữa, xung quanh ngôi nhà và nhìn lên ô cửa sổ để ngỏ lầu . Phòng này có ánh sáng đèn; kết luận có ai ở trong phòng này. cây lớn có cành vươn ra trước cửa sổ ấy. lát sau, Bobby trèo lên cây, tất cả đều tốt đẹp, giơ tay bám lấy gờ cửa sổ. Cành cây mà Bobby ngồi bỗng nhiên gãy gục làm rơi xuống cái hố. Hố có nhiều lá cây nên bị thương. Cành cây này bị sâu ăn ruỗng từ lâu. Bobby nghe thấy tiếng kêu của người bác sĩ và nhìn thấy cánh cửa phòng của bật mở. Bobby đứng lên và chạy đến chỗ tối gần cánh cửa nhà mà vừa đột nhập rồi nấp sau lùm cây. nghe thấy tiếng người , tiếng chân chạy đến bên cành cây gãy. Bobby bất động, nín thở. Nếu chạy dọc theo con đường để ra ngoài cổng, thấy cổng bị mở toang chắc chắn họ cho rằng tên kẻ trộm cao chạy xa bay và tìm kiếm nữa. Lúc này thời gian trôi rất chậm và ai đến bên cả. Cuối cùng Bobby nghe thấy tiếng của Nicholson. nghe nên biết gì nhưng có tiếng trả lời: - Tất cả có gì suy xuyển, thưa ngài. Tôi cho người tuần tiễu. Dần dần tiếng động giảm bớt, ánh sáng tắt dần và mọi người trở vào trong nhà. Bobby thận trọng rời khỏi chỗ nấp. vừa vừa lắng tai nghe. Tất cả đều yên lặng. về phía ngôi nhà. Và trong đêm tối, vật nặng đập vào gáy . bất tỉnh và ngã xuống.
Chương hai mươi bảy “ TÔI BỊ SÁT HẠI” Sáng thứ sáu, chiếc xe Bentley màu xanh đậu trước khách sạn nhà ga ở Ambleveder. Frankie gọi điện thoại cho Bobby dưới cái tên giả, George Parker, báo tin đến dự phiên toà với tư cách là nhân chứng về cái chết của ông Henry Bassington-ffrench và qua Ambleveder. được trả lời, tới ngay khách sạn. - Ông Parker ư, thưa ? Người phục vụ khách sạn nhắc lại - Ở đây có ai có tên như vậy. Xin đợi chút để tôi hỏi thêm. ta trở lại sau đó vài phút. - Ông Parker đến đây tối thứ tư. Ông ấy để chiếc xắc lại và ngay. Đồ đạc hãy còn ở đây nhưng thấy ông ấy quay lại. Gần như bị ngất , Frankie phải chống tay lên bàn. Người phục vụ nhìn voi vẻ lo ngại. - bị mệt ư ? Frankie lắc đầu. - . Ông ấy có nhắn lại điều gì ? Người ấy lại bỏ để sau đó trở lại và lắc đầu - Có bức điện gửi cho ông ta. Đó là tất cả. Thấy vẻ mặt khác thường của Frankie người ấy hỏi. - có cần tôi giúp gì ? - Ồ ! . Cảm ơn. chỉ muốn ra ngay. lên xe và cho xe chạy về làng Staverley, đầu óc đầy những ý nghĩ trái ngược nhau. Tại sao Bobby quay lại khách sạn ? Có hai lý do: hoặc là bám sát mục tiêu... và mục tiêu ấy khiến phải xa Ambleveder... hoặc là có chuyện bất hạnh gì đó xảy đến với . Chiếc Bentley bị xóc mạnh. Ngay lúc ấy, Frankie lấy lại can đảm. là ngốc nghếch khi nghĩ tới điều đó. Bobby vẫn bình yên. theo đuổi mục tiêu. Đó là tất cả ! Trong thâm tâm lại xuất câu hỏi khác. Tại sao để lại cho vài chữ để yên tâm ? Câu trả lời khó lắm, nhưng có thể chấp nhận được. thiếu thời gian và điều kiện. Bobby hình dung được Frankie lại lo lắng đến như vậy. Tất cả tốt đẹp... tại sao lại có những lo ngại vô ích kia chứ ? Phiên toà diễn ra suôn sẻ. Roger có mặt với tư cách là nhân chứng trước toà. Bà Sylvia xinh đẹp trong chiếc khăn choàng màu đen cũng vậy. Thủ tục được diễn ra đúng luật và nhanh chóng. Mọi người đều biết và mến phục ông Henry Bassington-ffrench và người ta cố gắng làm tổn thương tình cảm của người vợ goá và em trai của người quá cố. Frankie và Roger lên khai báo, cả bác sĩ Nicholson cũng vậy... người ta đọc lá thư vĩnh biệt của ông Henry và toà nhanh chóng kết luận: Tự sát trong khi tinh thần mất cân bằng. Bản án vô tư và thường thấy như Spragge về cái chết của nhà tỷ phú John Savage. Hai vụ tự sát trong lúc điên rồ... Hai cái chết này có liên quan gì với nhau nhỉ ? Tuy nhiên cái chết của ông Henry có gì phải nghi vấn trước mắt Frankie. là nhân chứng. Bobby hẳn phải từ bỏ ý nghĩ cho đây là vụ giết người. Chứng cứ vô can của bác sĩ Nicholson được củng cố bằng lời khai của người vợ goá. Frankie và Roger là những người sau cùng rời khỏi phòng xử án. Ông chánh án bắt tay và an ủi bà Sylvia Bassington-ffrench. - Frankie - bà Sylvia - có thư tới sáng hôm nay. Xin lỗi, tôi về trước để nghỉ ngơi đôi chút, tôi vừa trải qua những giờ phút ghê rợn. Bà rùng mình và rời khỏi toà án. Bác sĩ Nicholson theo và khuyên bà nên dùng viên thuốc an thần. Frankie quay lại nhìn Roger sau mình. - Bobby biến mất - báo tin. - Biến mất ư ? - Phải. - Tại sao ? giải thích vắn tắt. - Và từ sau đó người ta thấy ta nữa ư ? - . Ông nghĩ về chuyện này như thế nào ? - có gì là tốt cả. Tim của Frankie đập rộn lên. - Ông cho rằng... - Ô ! có gì là quan trọng đâu... A ! Ông bác sĩ đây rồi. Nicholson nhàng bước tới. Ông ta tươi cười, xoa tay. - Cái đó diễn ra rất tốt... Bác sĩ Davidson tuyệt vời. May mắn là chúng ta có ông chánh án như vậy. - Đúng thế - Frankie đáp lại cách máy móc. - Cái đó rất quan trọng, tiểu thư Frances. Cách làm việc của toà án phụ thuộc vào ông chánh án. Ông ta có quyền lực rộng và có thể tạo ra mọi khó khản. Lần này mọi việc đều trồi chảy. - vở hài kịch được trình diễn tốt. Ông Nicholson ngạc nhiên nhìn . - Tôi hiểu tình cảm của tiểu thư Frances và tôi xin được chia sẻ với ý nghĩ ấy - Roger nhấn mạnh - Bác sĩ Nicholson, tôi bị sát hại. ta đứng sau ông bác sĩ nên thấy được phản ứng của ông này. Chỉ mình Frankie là thấy . - Tôi biết điều tôi muốn - Roger tiếp. Luật pháp có thể có ý kiến khác về cái chết, mặc dù đây là vụ giết người. Những kẻ gây tội ác đê tiện làm cho tôi trở thành nghiện ngập tức là giết tôi chẳng khác gì việc cắm dao vào gáy ấy. ta tiến lên vài bước, nhìn thẳng vào mắt người bác sĩ. - đến lượt chúng. Bác sĩ Nicholson lắc đầu. - Đến đây chúng ta đồng ý với nhau. Ông ta - Tôi biết hơn ông về tình trạng nghiện ma tuý của ông Henry Bassington-ffrench và kẻ đẩy ông ấy vào vòng nghiện ngập phạm vào tội các ghê tởm. Những ý kiến lộn xộn quay cuồng trong óc Frankie. “Có thể phải là ông ta - tự nhủ. Chứng cứ vô can của ông ta chỉ căn cứ vào lời của bà Sylvia. Trong trường hợp ấy...”. Khi ngẩng mặt lên ông Nicholson hỏi : - về đây bằng xe hơi chứ, tiểu thư Frances ? Lần này gặp tai nạn, đúng ? - . Lái xe là nghề chuyên môn mà tôi ham lắm. Còn ông ? Đôi mi mắt của ông Nicholson rung lên. - Chắc rằng lần này người tài xế của cầm lái ? - Người lái xe của tôi mất tích rồi - Frankie và nhìn thẳng vào mắt người bác sĩ. - Thế ư ? - Lần cuối cùng người ta nhìn thấy ấy là ở đường tới lâu đài La Grange. Nicholson nhướn mắt lên. - là lạ lùng... ai lôi kéo ta tới đây ? - Tôi chỉ biết lần cuối cùng người ta thấy ta ở đấy. - coi đây là tấn thảm kịch và quá chú ý đến những lời ngồi lê đôi mách trong làng, ở đây người ta đặt ra nhiều chuyện giật gân. Tôi còn được nghe người tài xế của đứng chuyện với vợ tôi ngoài bờ sông nữa kia... Đây là người được giáo dục tốt, đúng ? “Thế đấy - Frankie nghĩ - Bây giờ ông ta muốn vợ ông với người tài xế rồi. Mình thấy mánh khoé của ông ta”. : - Hawkins ít được giáo dục so với những người lái xe khác. Nicholson quay sang Roger. - Bây giờ tôi phải . Chúc ông và bà Sylvia mạnh khoẻ. Roger đưa ông ta vào phòng xép. Frankie theo. thấy bàn có hai phong thư đề tên mình. bì có hoá đơn. Bì kia... Tim đập rộn lên. nhận ra nét chữ của Bobby. Nicholson và Roger ra khỏi cửa. mở phong bì và đọc: "Frankie thân mến, Cuối cùng tôi có được mục tiêu. Hãy đến gặp tôi càng nhanh càng tốt ở Chipping Somerton. Hãy tới đấy bằng xe lửa. Chiếc Bentley của dễ bị chú ý. Xe lửa thuận tiện lắm, nhưng cố gắng tới nơi chậm trễ. Tới ngôi nhà có tên là Tudol Cottage. Tôi giải thích sau. hỏi ai về đường xá. chưa ? đươc chuyên này với ơi. Với bất cứ ai ! Người bạn thân thiết của . Bobby. Frankie vò nát bức thư tay. Mọi việc đều tốt đẹp. Bobby bình an vô . bám sát mục tiêu. trùng hợp kỳ lạ. Đây cũng là mục tiêu của Frankie. tới Somerset House để hỏi về bản di chúc của ông John Savage. Rose Emily Templeton được coi là vợ của Edgar Templeton cũng ở ngôi nhà có tên là Tudor Cottage ở Chipping Somerton. Hơn nữa cái tên Chipping Somerton được ghi tấm bản đồ đường sắt trong ngôi nhà vắng ở Saint Leonard’s Gardens. Vợ chồng nhà Cayman tới Chipping Somerton. Tất cả đều ăn khớp với nhau. Hai người sắp tới đích. Roger Bassington-ffrench đến bên Frankie. - Thư của có tin gì mới ? ngập ngừng. Chắc chắn là Bobby nghĩ đến Roger khi nhấn mạnh chuyện này với ai. nhớ lại những chữ gạch chân... cũng nhớ lại những nghi vấn của Bobby... Nếu đúng Roger phản bội lại họ. dám với Roger chuyện này. Frankie trả lời: - , có gì quan trọng. Hai mươi bốn tiếng đồng hồ sau đó lấy làm tiếc về quyết định ấy. cũng tiếc là mình làm đúng lời dặn của Bobby là chiếc Bentley ở lâu đài Merroway để bằng xe lửa. Theo đường chim bay Chipping Somerton xa lắm, nhưng xe lửa ba lần chuyển tàu, mỗi lần phải đợi rất lâu trong những ga xép ở nông thôn. Kiểu giao thông này thích hợp với , nhưng phải công nhận là Bobby có lý khi chiếc Bentley của rất dễ bị chú ý. Trời tối khi xe lửa của Frankie đến ga Chipping Somerton. Mưa rơi, phải kéo cổ áo khoác lên và lên đường. Đường dễ nhận ra. nhìn thấy ánh sáng trong làng khi rẽ trái và lên dốc. Tới đầu dốc, rẽ phải, cỏ thấy lơ thơ dưới chân đồi mấy nóc nhà trong đó có ngôi có hàng rào bằng gỗ rào xung quanh. bật diêm lên soi thấy có hàng chữ: Tudor Cottage. có ai ở gần đấy. Frankie kéo then cửa và bước vào. qua rặng thông, lờ mờ thấy ngôi nhà. Nấp sau thân cây, nhìn thấy cửa ra vào. Tim đập mạnh, làm giả tiếng cú kêu. vài phút trôi qua, vẫn thấy có chuyện gì xảy ra. kêu lần nữa. Cánh cửa ngôi nhà bật mở và thấy bóng người trong bộ đồng phục tài xế thận trọng nhìn ra. Người ấy ra hiệu cho vào trong nhà rồi biến mất, để ngỏ cửa đằng sau. Frankie rời chỗ nấp, chạy vào trong nhà. Bước qua ngững cửa, tới phòng xép tối om, nhìn xung quanh rồi gọi to: - Bobby ! ngửi thấy mùi lạ vừa nặng vừa hắc. Đúng lúc tự nhủ "Clô-rô-phoóc” hai bàn tay rắn chắc túm lấy vai . định kêu lên mảnh vải ướt bịt lấy miệng . chống cự mộ cách vô vọng... thất bại... yếu dần . Tiếng o o bên tai và có cảm giác như mình bị ngạt thở. Cuối cùng ngất . Chương hai mươi tám GIỜ THỨ MƯỜI Khi tỉnh lại, Frankie thấy trong người nôn nao vì phản ứng của Clô-rô-phoóc. nằm tấm gỗ, tay chân bị trói chặt. cựa mình và ngã xuống bên xô than. ở đâu ? nhanh chóng nhận ra đây là nhà kho, ánh sáng lờ mờ chiếu qua cửa sổ . Trong phòng có những bức tranh cũ dựa vào tường, chiếc giường sắt han rỉ, hai hoặc ba chiếc ghế gãy cùng những thứ khác và xô than. nghe thấy tiếng người rên trong góc phòng. Dây trói chặt lắm, Frankie có thể lê người sàn nhà đầy bụi. - Bobby ! Đúng là Bobby tay chân cũng bị trói chặt, hơn nữa, miệng bị nhét giẻ. Tuy bị trói nhưng Frankie cũng có thể giúp được việc gì đó. Cuối cùng Bobby cũng gọi được tên Frankie. - Tôi rất sung sướng khi nhìn thấy chúng ta cùng bị nhốt ở nơi - Frankie - Nhưng mọi người cho chúng ta là đồ ngốc, tôi tin là như vậy. - Tôi cũng tin là như vậy - Bobby buồn bã theo. - Chúng bắt như thế nào ? Trước hay sau khi viết thư cho tôi ? - Tôi viết cho ư, tôi ấy ? Tin mới đấy. - Ồ ! Tôi ngu dại quá ! Đáng lẽ tôi phải nghi ngờ... cả việc dặn là cho ai biết chuyện này ! - Nghe đây, Frankie. Tôi kể chuyện mình cho nghe, sau đó đến lượt . về việc mình thâm nhập vào lâu đài La Grange mà đoạn cuối buồn thảm của câu chuyện là bị nhốt vào gác đựng đồ cũ này. - Tỉnh lại tôi thấy mình nằm ở đây. Có ít thức ăn, đồ uống đặt chiếc khay. Đói quá tôi đành phải dùng. Có lẽ trong thức ăn có thuốc ngủ nên ăn xong tôi lại thiếp . Hôm nay là thứ mấy ? - Thứ sáu. - Tôi bị đánh vào gáy đêm thứ tư. Từ bấy đến nay lúc nào tôi cũng ngây ngất. xem, có chuyện gì xảy ra với ? Frankie kể lại chuyện mình từ khi gặp ông Spragge đến lúc nhìn thấy bóng của Bobby trước cửa ra vào. - Chúng bắt tôi ngửi clô-rô-phoóc và tôi thấy tim mình đau nhói. - Bây giờ chúng ta phải làm gì. Frankie ? - Nếu tôi về bức thư của cho Roger hay quá ! Tôi cũng nghĩ đến chuyện này nhưng sau đó thấy cần làm đúng điều căn dặn. - Và lúc này ai biết chúng ta ở đâu nữa. Bạn thân mến, hoàn cảnh phải là kỳ cục đâu. - Chúng ta quá tự tin. - Có điều làm tôi băn khoăn. Tại sao họ giết chúng ta ? Nicholson run tay trước bất cứ tội ác nào. - Chắc rằng có kế hoạch nào đó. - Đúng thế. Chúng ta cũng có kế hoạch. Chúng ta phải ra khỏi đây. Làm thế nào nhỉ ? - Chúng ta kêu cứu sao ? - người nào đó có thể nghe thấy. Nhưng việc Nicholson nhét giẻ vào miệng chứng tỏ chúng ta có kêu cũng vô ích. trói tay lỏng hơn. Tôi cởi trói bằng răng có được ? “Trong tiểu thuyết những việc như thế này rất dễ dàng - Bobby thở dài tiếp - Nhưng tôi có cảm giác mọi cố gắng của mình đều có tác dụng gì” - Có chứ - Frankie cãi lại - Nút buộc lỏng ra rồi. Coi chừng ! Có người lên ! lăn ra xa. Những bước chân nặng nề cầu thang. ánh sáng chui qua khe cửa. Tiếng chìa khoá lạch xạch trong ổ và cánh cửa từ từ mở ra. - Hai con chim gáy non của tôi ra sao rồi ? - Bác sĩ Nicholson hỏi. cầm tay ngọn nến. Tuy vành mũ cụp xuống tận mắt, cổ áo khoác kéo cao lên che khuất nửa mặt, nhưng giọng của thể đánh lừa ai được. ngấc đầu rồi bằng giọng đùa cợt: - Tiểu thư thân mến, là thể tha thứ được khi làm cho sa bẫy cách dễ dàng như vậy. Frankie và Bobby lời. Lúc này ưu thế ngả về Nicholson và họ cũng biết trả lời ra sao. Nicholson gắn cây nến lên chiếc ghế. xem lại nút trói Bobby và gật đầu. Tiếp đó quay sang Frankie. - Thời thơ ấu tôi thường nghe người ta những ngón tay có trước cái dĩa và người ta dùng răng trước khi dùng các ngón tay. Tôi phải xác nhận răng của bạn phải làm việc rất nhiều. chiếc ghế lớn bằng gỗ sồi lưng gãy ở góc phòng. Nicholson nhấc Frankie đặt lên chiếc ghế đó sau khi xem lại các nút dây trói tay chân . - Tôi hy vọng là khó chịu. phải đợi hình phạt lâu đâu. Frankie lên tiếng. - Ông định làm gì chúng tôi ? Nicholson cầm lấy ngọn nến và ra cửa. - Tiểu thư Frances, chê trách tôi thích gây ra các vụ tai nạn. Có thể là đúng. Tôi chuẩn bị cho vụ nữa. - Ông muốn gì ? - muốn biết trước ư ? Vậy , thế này ! Tiểu thư Frances Denvent lái xe có người tài xế ngồi bên. cho xe vào con đường dẫn tới mô đá cũ. Chiếc xe lăn xuống vực. Tiểu thư Frances và người tài xế của chết ngay lập tức. - nhất thiết như vậy - Bobby nhận xét - Phải tính đến việc có người nhìn thấy. Kế hoạch ở Wales của ông chẳng thất bại rồi sao ? - thích ứng với moóc-phin của là kỳ diệu. Nhưng lần này với tiểu thư Frances chết, mãi sau đó người ta mới tìm thấy xác. Bobby rùng mình. Giọng của Nicholson có vẻ hài lòng... Người ta đây là nghệ sĩ ngắm nghía tác phẩm của mình. - Ông nhầm rồi - Bobby quả quyết - Nhất là đối với Frankie. - Đúng thế - Frankie nhấn mạnh - Trong bức thư giả mạo ấy, ông dặn tôi cho ai biết mình đâu. Nhưng tôi việc này với Roger Bassington- ffrench. ta biết cả rồi. Nếu có chuyện gì xảy ra với chúng tôi, ta tố cáo trước pháp luật. Tốt nhất là ông thả chúng tôi ra và rời khỏi nước ngay lập tức. Nicholson yên lặng lúc. - Tôi coi đây là loè bịp. và ra cửa. - Thế còn vợ ông sao ? Ông giết bà ta ư ? - Bobby hỏi. - Moira hãy còn sống. Bao lâu nữa tôi biết. Còn tuỳ thuộc vào hoàn cảnh. chào hai người vói vẻ giễu cợt. - Tạm biệt ! Tôi còn hai tiếng đồng hồ nữa để chuẩn bị mọi việc. Trong khi chờ đợi tôi cho phép hai người than thở về số phận của mình. Nhưng nếu các người kêu cứu, tôi đến để thanh toán các người. ra và khoá cửa lại. - đúng - Bobby - việc diễn ra như vậy. - Trong các cuốn tiểu thuyết, bao giờ cũng có người cứu giúp xuất vào giờ thứ mười - Frankie để nhen nhóm lại lòng can đảm của họ. - Đây là tình huống khác thường. Tôi can đảm thấy Nicholson cũng là người trong tưởng tượng. Tôi mong người cứu giúp đến vào giờ thứ mười . Nhưng tôi hiểu bằng cách nào người ấy có thể tới đây được. - Nếu tôi chuyện với Roger hay quá. - Có thể Nicholson nghĩ như vậy. - . nghĩ như vậy đâu. Con người ấy rất ranh ma. - Ranh ma hơn chúng ta. Frankie, có biết cái gì làm tôi khổ tâm nhất ? - . - Đó là trong lúc chúng ta vội vã sang thế giới bên kia, chúng ta vẫn chưa biết ai là Evans. - Tôi hỏi tên đao phủ của chúng ta... như là đặc ân. Có thể từ chối. Tôi cũng muốn biết như , Robby. Tôi muốn chết mà vẫn biết Evans là ai. Cả hai đều yện lặng, sau đó Bobby lên tiếng: - có nghĩ chúng ta nên kêu cứu ? Đây là may mắn cuối cùng... - Chưa đâu. Vì trước hết ai có thể nghe thấy... nếu , tại sao nhét giẻ vào miệng chúng ta. Chỉ đến phút cuối cùng chúng ta mới nên kêu thôi. Tôi cảm thấy mình được an ủi là có ở bên và được chuyện với , Bobby. Giọng của vỡ ra trong những tiếng cuối cùng. - Frankie, tôi là người đưa vào câu chuyện tồi tệ này. - nên tiếc nuối như vậy. Chính tôi muốn như thế. có tin là lập kế hoạch hành hình chúng ta ? - Tôi rất sợ. có gan làm mọi chuyện. - Cho đến lúc này có cho rằng là người giết ông Henry Rassington-ffrench ? - Nếu cái đó có thể... - Có thể ư... với điều kiện: Bà Sylvia là kẻ tòng phạm. - Frankie ! - Đúng thế. Ý nghĩ ấy làm tôi kinh tởm ngay từ đầu. Nhưng nghĩ lại, tại sao bà ta tỏ ra đui mù trước việc người chồng nghiện ngập như vậy ?... Tại sao bà ta lại phản đối mạnh mẽ khi người ta muốn đưa ông Henry đến lâu đài La Grange ? Hơn nữa bà ta dang ở trong nhà khi có tiếng súng nổ... - Có thể bà ta là người bắn súng. - Ô ! ! - Tại sao lại ? Rồi bà ta đưa chìa khoá cho Nicholson để nhét vào túi ông Henry sau đó. - Cần phải có những dấu hiệu đặc biệt để nhận ra những kẻ giết người. Mắt, tai... - Trời. - Gì vậy ? - Frankie, đây là Nicholson khác vừa đến gặp chúng ta. - điên rồi ư ? Kẻ ấy là ai ? - Tôi biết, nhưng đây phải là Nicholson. Tôi có cảm giác rằng đây phải là con người ấy nhưng thể giải thích được tại sao. vừa đến danh từ “tai” chi tiết chợt nảy ra trong óc tôi. Tối hôm nọ, trong khi nhìn thấy Nicholson qua cửa sổ, tôi chú ý tai của ông ta thấy dái tai dính liền với má. Còn tai của kẻ vừa tới gặp chúng ta như vậy. - Cái đó có nghĩa là gì ? - diễn viên có tài đóng vai Nicholson. Để làm gì ? là ai ? - Bassington-ffrench. Bobby trả lời - Roger Bassington-ffrench ! Ngay từ đầu chúng ta coi là thủ phạm rồi, sau đó, như những kẻ ngu ngốc, chúng ta thả mồi bắt bóng. Frankie suy nghĩ lúc. - Roger Bassington-ffrench, Bobby, tôi cho rằng có lý. Chỉ có thể là . có mặt trong lúc tôi ám chỉ về những vụ tai nạn với ông Nicholson. - Vậy chẳng còn gì để hy vọng nữa... ai biết chúng ta ở đâu. Chúng ta thất bại rồi, Frankie ! Khi Bobby vừa xong câu đó có tiếng động ngay đầu họ. lát sau người từ cửa sổ con trần nhà gọi xuống. - B-b-b-bobby ! - Trời ơi ! Badger ư ?
Chương hai mươi chín CÂU CHUYỆN CỦA BADGER thể để lỡ giây. nghe thấy tiếng chân người lên thang gác. - Nhanh lên, Badger ! Cởi giày ra ! Ném giày qua cửa sổ con trần nhà ! Làm theo và cấm được hỏi lại ! Chui vào gầm gường ! Nhanh lên, tôi bảo ! Có tiếng chìa khoá trong ổ. Nicholson - Nicholson giả - Đứng trước cửa, tay cầm cây nến. thấy Bobby và Frankie vẫn ở chỗ lúc nãy và những mảnh kính vụn sàn nhà. Ngạc nhiên nhìn chân Bobby. - Có lời khen , bạn - bằng giọng khô khan- Đây là tiết mục nhào lộn hấp dẫn. nhìn những nút giây và buộc thêm vài nút nữa cho chặt. - Tôi rất muốn biết làm thế nào có thể ném giày lên cửa sổ được. là kỳ diệu. nhìn hai tù nhân, nhìn lên cửa sổ rồi nhún vai và ra. - Nhanh lên Badger ! này từ gầm giường chui ra. Với con dao nhíp, cắt giây trói cho Bobby và Frankie. - Ô Bobby kêu lên - Tay chân tôi tê dại cả. Thế nào, Frankie, nghĩ thế nào về người bạn Nicholson của chúng ta ? - có lý, đây đúng là Roger Bassington- ffrench. Bây giờ tôi nhận ra . sắm vai bác sĩ Nicholson rất đạt. - Ít nhất là giọng và cặp kính. - Tôi biết ở Oxford có người tên là B-b-bass- ington-ffrench. diễn viên có t-t-tài, nhưng tư cách rất k-k-kém. ta làm tờ xéc g-g- giả mạo chữ ký của người c-c-cha. Ông già tống...tống ta ra khỏi nhà. Frankie và Bobby cũng nghĩ như vậy. Hai người mấy tin tưởng Badger nên giải thích cho ta nhiều. - Giả mạo chữ ký - Frankie - Lá thư đó cũng bắt chước chữ của Bobby. Bobby, làm thế nào mà biết nét chữ của được ? - Có quan hệ với nhà Cayman chắc chắn đọc bức thư của tôi gửi cho họ về Evans. Bobby lên tiếng than vãn. - Bây... bây giờ c-c-chúng... chúng ta phải l-l-làm gì ? - Chúng ta nấp sau cánh cửa này - Bobby - Khi bạn của chúng ta trở lại (chắc chắn là chưa trở lại ngay đâu), chúng ta quật ngã và trói lại để kịp kêu. nghĩ sao về việc này ? - Tôi tán thành. - Còn , Frankie, khi nghe thấy tiếng chân bước lên, ngồi lên chiếc ghế cũ. Khi mở cửa, nhìn thấy , nghi ngờ gì. - Rất tốt. Khi các quật ngã , tôi đến tiếp tay và bóp cổ . - là phụ nữ can đảm ! Bây giờ, Badger, hãy kể lại làm sao mà tới đây được ? Tuy lắp nhưng Badger cũng cố gắng kể lại đầy đủ câu chuyện cho các bạn nghe. Làm ăn thất bại, nợ nần chồng chất, bị vướng víu với các chủ nợ và các mõ toà... Bobby lại bỏ mà để lại địa chỉ mà chỉ mình lái chiếc Bentley Staverley. Thế là Badger đến Staverley. - Tớ hy vọng cậu cho tớ vay n-n-năm... năm li-vrơ. Bobby ân hận là bỏ mặc bạn để chơi trò thám tử cùng Frankie trong khi Badger làm việc còn nhiều lúng túng. Câu chuyện của Badger như sau: Badger tò mò về việc làm của bạn; tưởng dễ dàng gặp được Bobby nếu về làng Staverley và tìm ra chiếc Bentley màu xanh của Frankie. Và trước khi đến làng Staverley gặp chiếc xe ấy đậu ở trước nhà trọ. “Mình phải làm cậu ta ngạc nhiên” Badger nghĩ như vậy. ghế sau của xe có chiếc chăn, xung quanh có ai, chui vào xe, nằm đắp chăn chờ bạn... Nhưng việc lại xảy ra khác hẳn. người đàn ông trong bộ đồng phục tài xế từ trong quán ra, lên xe và cho xe chạy. Badger hé mắt nhìn ra thấy đấy phải là Bobby. Trong lúc bối rối, Badger biết phải giải quyết ra sao. Giải thích và xin lỗi rất dễ dàng đối với người cho xe chạy tám chục ki-lô-mét-giờ. Badger quyết định mình lẻn ra khỏi xe khi xe đỗ lại. Đến nơi- tức là Tudor Cottage - người lái xe cho xe vào nhà xe và vào trong nhà sau khi khoá xe cẩn thận. Badger bị cầm tù. Nửa tiếng đồng hồ sau, qua ô cửa sổ của nhà để xe nhìn ra, Badger thấy Frankie vào trong nhà. Cảm thấy trong việc này có điều gì mờ ám, quyết định phải ra ngoài để thăm thú ngôi nhà. Với vài dụng cụ trong xe, mở cửa xe vào nhà để xe rồi vào trong nhà. Mọi cánh cửa tầng trệt đều gài chặt, Badger trèo lên mái nhà dự định vào trong nhà bằng ô cửa sổ nào đó lầu . Việc trèo lên mái nhà có gì là khó khăn vì có ống máng. mái nhà có ô cửa sổ lắp kính. Badger vô ý bước vào trong đó và rơi xuống kho chứa đồ cũ... Bobby thở dài sau khi Badger kể xong câu chuyện. - Badger thân mến, cứu mạng chúng tôi. có , tôi và Frankie là xác chết sau đây tiếng đồng hồ nữa. cho Badger biết công việc mình và Frankie làm. Vừa xong giật mình: - Có người tới. Frankie về vị trí. Đây là lúc chúng ta cho diễn viên Roger Bassington-ffrench bài học. Frankie ngồi chiếc ghế có lưng tựa, làm ra vẻ lo ngại. Bobby và Badger nấp sau cánh cửa chuẩn bị chiến đấu. Tiếng chân người nghe dần, tia sáng rọi qua khe cửa. Tiếng chìa khoá vặn trong ổ và cánh cửa mở rộng. Thấy Frankie ngồi ghế. Tên coi ngục tiến đến bên . Badger và Bobby nhảy bổ vào . Bị cú đòn bất ngờ, người ấy ngã xuống sàn nhà; cây nến văng ra xa và Frankie nhặt nó lên. phút sau, ba người bạn hài lòng đứng nhìn kẻ thù của họ bị trói chặt bằng chính những sợi giây dùng để trói họ. - Xin chào ông Roger Bassington-ffrench - Bobby - Đêm nay rất đẹp cho đám tang ! Chương ba mươi CHẠY TRỐN Người nằm sàn trân trân nhìn họ. Mũ và kính của rơi đâu mất trong cuộc vật lộn. thể cải trang lâu hơn nữa. Những nét vẽ lông mày bợt ra để lộ đây là Roger Bassington- ffrench. Lúc này bằng giọng nam cao rất đẹp: - Trời ! Tôi biết ! người bị trói như thể ném chiếc giày lên cửa sổ được. Nhưng vì chiếc giày của nằm những mảnh kính vỡ nên tôi chú ý nữa. Vì ai trả lời nên tiếp: - Các người thắng cuộc. Việc kết thúc bất ngờ và dễ chịu. Tôi làm cho các người hiểu lầm. - phải là thất bại hoàn toàn. Chính là người viết bức thư mạo danh Bobby, đúng ? - Tôi có tài bắt chước. - bắt cóc Bobby như thế nào ? Roger có vẻ thích chí khi kể lại câu chuyện. - Khi ta vào lâu đài La Grange tôi nấp trong bụi cây bên đường. Khi ta bị rơi từ cành cây xuống và chạy thoát ra ngoài, đợi cho yên tĩnh trở lại tôi đập vào gáy ta bằng chiếc dùi cui cao su. Tôi mang ta vào xe của tôi và cho xe chạy tới đây. Sáng sớm hôm sau tôi trở lại lâu đài Merroway. - Còn Moira ? - Bobby hỏi - bắt và mang ta đâu ? Roger lại cười. - Bobby, giả mạo là nghệ thuật có ích. - Đồ thú vật ! Frankie vội can thiệp. tò mò của chưa được thoả mãn và người bị cầm tù có vẻ chưa hết. - Tại sao lại cải trang thành bác sĩ Nicholson?! - Tại sao ư ? (có vẻ như Roger hỏi lại chính mình). Để xem tôi có thể đánh lừa được hai người . Các người cho Nicholson là kẻ có tội. Đơn giản chỉ vì ông ta hỏi cách nghiêm chỉnh về vụ tai nạn của các người. Đó là cái tật kỳ cục của ông ta: làm sáng tỏ mọi chi tiết. - Như vậy bác sĩ Nicholson vô tội ư ?- Frankie hỏi. - Vô tội như đứa trẻ mới sinh ra. Nhưng ông ta giúp đỡ tôi rất nhiều khi hỏi về vụ tai nạn của . buổi sáng, gọi điện thoại, tôi đứng gần đấy, tôi nghe thấy người tài xế gọi là “Frankie”. Tai tôi rất thính. Tôi hỏi nhờ xe, nhận lời, nhưng sau khi tôi mình nữa lại có vẻ như được an ủi. Tại sao thích ông ta về những nhầm lẫn của mình ? Người ta thể thấy trước được mọi vấn đề. Những kế hoạch lập ra đôi khi cũng bị đổ vỡ ví dụ như thất bại của tôi lúc này. - Tôi muốn biết thêm chi tiết nữa - Frankie hỏi - Ai là Evans ? - . biết ư ? - Roger Bassington- ffrench phá lên cười rồi hỏi lại - là kỳ cục ! Đó là điểm có thể chứng tỏ người ta còn quá ngu ngốc. - muốn ám chỉ điều gì ? - ... tôi tôi đấy thôi. Nếu các người biết ai là Evans, tại sao tôi lại phải giải thích cho các người ! Tôi giữ lại cho mình điều bí mật . Tình huống khác thường. Roger Bassington- ffrench là tù nhân của ho, bị trói chặt, nằm sàn nhà lại có vẻ là người thắng cuộc. - Tôi có thể biết dự kiến của các người ? - hỏi họ. Chưa ai nghĩ đến chuyện này. Bobby lẩm bẩm mấy câu trong đó có danh từ cảnh sát. - Đó là cách giải quyết đúng nhất - Roger công nhận - Hãy gọi điện thoại cho đồn cảnh sát gần nhất và nộp tôi cho họ. Người ta ghép tôi vào tội bắt cóc. là khó chối cãi nhưng tôi tôi theo đuổi mối tình thể cưỡng lại được. xong Roger nhìn Frankie làm đỏ mặt lên. - phải trả lời về vụ giết người ! - Chứng cứ đâu, các vị ? Các vị thể cung cấp chứng cứ nào cả. - Badger ! - Bobby bảo bạn - Cậu ở lại đây để canh chừng kẻ ranh mãnh này trong khi tôi gọi điện thoại cho cảnh sát. - Hãy cẩn thận - Frankie góp ý kiến - Có thể có bọn tay chân trong nhà này. - Ở đây chỉ có mình tôi thôi - Roger khẳng định. - Tôi tin - Bất chợt Bobby . cúi xuống để kiểm tra các nút giấy trói. - thể cựa quậy được nữa rồi. Chúng ta cùng và khoá cửa lại. - đa nghi quá, bạn - Roger - Nếu muốn cầm lấy khẩu súng trong túi tôi. Coi khinh giọng điệu chế giễu của tù nhân, Bobby cúi xuống lấy khẩu súng. - Coi chừng ! Súng nạp đạn rồi đấy. Bobby cầm lấy cây nến và cả ba cùng ra khỏi phòng để lại Roger mình trong đó. Bobby khoá cửa cẩn thận rồi cho chìa khoá vào túi, tay vẫn lăm lăm khẩu súng. - Tôi trước. - con c-c-chim kỳ ...kỳ cục - Badger về người nhốt trong kho đồ cũ. - Dù sao cũng là kẻ biết chơi - Frankie . Ngay lúc này vẫn còn chút cảm tình với con người kỳ lạ ấy. cầu thang dẫn lên lầu . đây hoàn toàn yên lặng. Bobby nhìn thấy chiếc máy điện thoại trong phòng xép. - Chúng ta hãy kiểm tra những căn phòng trước khi xa hơn. Coi chừng có kẻ đánh đằng sau chúng ta. Badger mở cửa từ căn phòng này đến căn phòng khác. Ba căn phòng đều trống , vào căn phòng thứ tư, họ thấy người nằm giường. - Đây là Moira ! - Frankie kêu lên. Hai chàng trai tiến lại. Moira hãy còn thở, có lẽ ta mới chỉ ngất thôi. - ta ngủ ư ? - Bobby lo ngại hỏi. - Tôi cho rằng người ta cho ấy uống thuốc ngủ - Frankie . quan sát căn phòng và thấy ống tiêm đặt chiếc đĩa để gờ cửa sổ. Bên cạnh là chiếc đèn cồn và hộp kim tiêm. - ta tỉnh lại thôi nhưng dù sao chúng ta cũng phải gọi bác sĩ. Cả ba người cùng xuống gác xép. Bobby gọi điện thoại cho cảnh sát địa phương tuy rất khó giải thích việc. Cảnh sát cho đây là chuyện bông đùa. Bobby gác máy và thở dài. cũng cầu bác sĩ, cảnh sát hứa mời giúp . Mười phút sau, chiếc xe hơi đậu trước ngôi nhà Tudor Cottage. viên thanh tra, viên công tố đứng tuổi xuống xe. Sau khi giải thích mọi chi tiết của việc, Bobby và Frankie dẫn họ lên kho đồ cũ. Bobby mở cửa... và đứng sững lại: giữa nhà chỉ có đống giây thừng và giường có chiếc ghế. Roger Bassington-ffrench còn ở trong phòng nữa. trốn thoát theo ô cửa sổ trần nhà. - Làm thế nào mà có thể cởi giây trói được - Bobby kêu lên. - Có thể trong túi có dao nhíp - Frankie nhận định. - Nhưng hai tay bị trói ở đằng sau kia mà ? Viên thanh tra húng hắng ho. Những nghi ngờ đầu tiên của ông xuất . Ông cho rằng cảnh sát bị mang ra để bông đùa. Bobby và Frankie phải giải thích lúc lâu nhưng chưa thuyết phục nổi ông thanh tra. Ông bác sĩ bắt tay vào việc. Sau khi xét nghiệm, ông tuyên bố người phụ nữ bị đầu độc bằng moóc-phin hoặc chất gì đó lấy ra từ thuốc phiện. Ông cho rằng ta tỉnh lại vào lúc bốn hoặc năm giờ tới. Ông cầu đưa người bệnh vào trạm cấp cứu gần đấy. Bobby và Frankie có ý kiến gì. Họ tên tuổi của mình cho viên cảnh sát ghi lại và rời khỏi Tudor Cottage. Theo mệnh lệnh của viên thanh tra, họ tới trọ tại khách sạn bảy ngôi sao. Bị mọi người coi là kẻ gian, ba người trở về phòng của mình; phòng hai giường cho Bobby, Badger và phòng hơn cho Frankie. vài phút sau Bobby nghe thấy tiếng gõ cửa. Frankie bước vào. - Tôi nghĩ đến việc - báo tin - Nếu viên thanh tra cảnh sát cứ khăng khăng cho rằng chúng ta bịa chuyện tôi có thể chứng minh là tôi bị đánh thuốc mê bằng clô-rô-phoóc. - Tại sao ? - Tôi vẫn như bị say sóng.
Chương ba mươi mốt CÂU CHUYỆN CỦA FRANKIE Suốt ngày mệt nhọc sáng hôm sau Frankie dậy muộn. Mười giờ ba mươi xuống nhà để ăn sáng. Bobby đợi . - Cuối cùng đây rồi, Frankie - Bobby . - Xin chào, bạn - Frankie và lấy chiếc ghế - Sáng nay gọi món ăn đấy. - dùng gì ? Trứng hay là thịt nguội ? - Tôi muốn có trà và vịt quay... Nhưng làm sao vậy ? - Đó là hậu quả của cú đánh vào gáy... chắc chắn nó ảnh hưởng đến não. Tôi cảm thấy như mình là con người mới, suy nghĩ nhanh chóng, sáng suốt mọi vấn đề. - Chúng tôi muốn biết kết quả suy nghĩ của . - Có đây. Tôi vừa làm việc trong nửa tiếng đồng hồ với thanh tra Hammond. Lúc này, Frankie, đến lượt đùa rỡn đấy. - Bobby, nên nghĩ... - Tôi lúc này kia mà. Chúng ta phải tìm ra cái bí mật căn bản của vụ này. Chúng ta tóm cổ Roger Bassington-ffrench về tội bắt cóc... Tôi muốn người ta bắt về tội giết người. - Chúng ta đạt được cái đó đâu. Frankie tuyên bố. - Đây là điều tôi - Bobby xác nhận - dùng trà nữa . - Moira ra sao rồi ? - Tình hình xấu. ta sợ chết khiếp khi tới trạm cấp cứu. Người ta gửi Londres để vào trại điều dưỡng ở Queen’s Gate. Ở đấy ta được an toàn. - Chị ta vốn thiếu can đảm. - Ai cũng phải sợ kẻ giết người như loại Roger Bassington-ffrench. - tìm cách giết chị ta đâu. muốn sát hại chúng ta kia. - Bây giờ, Frankie, chúng ta bắt tay vào việc. Việc trước tiên là điều tra về cái chết và bản di chúc của ông John Savage... - Nếu thủ phạm là Roger Bassington-ffrench đó là bản di chúc giả... vì có tài bắt chước nét chữ. - vừa phạm tội giả mạo, vừa phạm tội giết người. Frankie gật đầu. - Tôi được xem bản di chúc. Những người làm chứng là Rose Cludleigh, người nấu bếp và Albert Mere, người làm vườn. Chúng ta dễ dàng tìm ra những người này. Cũng có cả các ông Elford và Leigh là các công chứng viên xác nhận bản di chúc. Ông Spragge hai ông này là những người đứng đắn. - Tốt. Chúng ta bắt đầu từ đây. Frankie, gặp các ông ấy. biết loại việc này hơn tôi; tôi, tôi tim bà Rose Cludleigh và ông Albert Mere. - Badger ra sao rồi? - chàng dậy trước buổi trưa được đâu. - Chúng ta phải giúp ấy về mặt công ăn việc làm Frankie - ấy cứu chúng ta thoát chết. - Khốn thay, chàng giỏi về tính toán kinh doanh, lại lúng túng thôi... Bây giờ, Frankie, nghĩ thế nào về cái này? đưa cho bạn mẩu giấy dày hơi nhem nhuốc... tấm ảnh. - Lão Cayman - Frankie ngay - thấy nó ở đâu ? - Tôi nhặt được nó dưới máy điện thoại đêm hôm qua. - ràng là vợ chồng nhà Cayman còn có tên là Templeton nữa. Cùng lúc ấy người hầu mang thức ăn tới. Frankie cho ta xem tấm ảnh. - có biết ai đây ? - hỏi. Cái đầu bé cúi xuống, ngưòi hầu nhìn tấm ảnh. - Tôi nhìn thấy người này, nhưng tôi nhớ đây là ai... A ! đúng rồi, đây là người sống ở Tudor Cottage... Ông Templeton. Ông ta và vợ ra nước ngoài rồi. - biết những gì về ông này ? - nhiều lắm. Ít khi họ tới đây... chỉ vài lần vào dịp cuối tuần thôi. Bà Templeton là phụ nữ xinh đẹp. Họ ở Tudor Cottage khoảng sáu tháng... cho đến khi ông giàu có chết để lại toàn bộ gia tài cho bà Templeton. Sau đó họ rời khỏi làng. Nhưng họ chưa bán nhà. Hình như họ cho bạn bè mượn lại để nghỉ cuối tuần. Có bạc triệu ai sống ở đây. - Gia đình họ có bà nấu bếp tên là Rose Coudleigh, đúng ? Nhưng hầu bàn biết. bỏ sau khi trả lời mình biết ai là người nấu bếp trong ngôi nhà ấy. Điều đó ràng là vợ chồng nhà Cayman rời khỏi đây, nhưng chúng còn để lại chỗ ở cho bè lũ. Theo phân công của Bobby. Frankie mua bán vài thứ về tắm giặt sau đó lên chiếc Bentley và phóng còn Bobby tìm ông Albert Mere, người làm vườn. Hai người trở về khách sạn vào giữa trưa. - Thế nào ? - Bobby hỏi. Frankie lắc đầu. - Có lẽ đây phải là di chúc giả. Tôi chuyện với ông Elford, ông già đáng mến. Ông ấy hỏi thăm chúng ta sau việc đêm hôm qua. Sau đó tôi hỏi ông về ông Savage. Tôi rằng mình gặp thân nhân của ông này, họ cho rằng đây là di chúc giả. Ngay lập tức, ông già nổi giận. Ông thể như vậy được. Chính ông ngồi chuyện với ông Savage... Ông Elford còn cầu ông Savage đến văn phòng của mình để hoàn chỉnh lại bản di chúc nữa.. biết , đây là công việc phải viết nhiều trang giấy chứ đến việc... - Tôi biết. Tôi chưa bao giờ viết di chúc. - Còn tôi hai lần rồi. Lần cuối cùng là sáng hôm nay. Tôi phải kiếm cớ để gặp ông chưởng khế. - để lại gia tài của mình cho ai ? - Cho ... - là dại dột ! Nếu Roger Bassington-ffrench cho về chầu với tiên tổ tôi cũng bị treo cổ. - Tôi khồng nghĩ như vậy. Như , sốt ruột muốn cho chóng xong việc này, ông Savage gọi người nấu bếp và người làm vườn đến làm chứng. Sau đó ông Elford mang bản di chúc về bảo quản cẩn thận trong két sắt của mình. - Tố cáo việc làm di chúc giả đứng vững nữa. - thể tố cáo làm giả khi chính mắt thấy người ta ký tên vào văn bản. Cũng rất khó tố cáo tội giết người vì ông bác sĩ chứng kiến giây phút cuối cùng của ông Savage cũng qua đời. Những người mà chúng ta quen biết mới đây chừng hai tháng thôi. - Danh sách những người chết ngày càng dài thêm - Bobby nhận xét. - Còn ai nữa ? - Ông Albert Mere. - Và nghĩ rằng bọn chúng giết những người này ư? - Đúng thế. Riêng về ông Albert Mere dám khẳng định. Đó là ông già bảy mươi hai tuổi rồi. - Có thể đây là cái chết tự nhiên. Thế còn bà Rose Cludleigh sao ? - Phải, sau khi thôi việc ở nhà Templeton, bà ta lên phía bắc nước để lấy chồng, người chồng chưa cưới sau bảy năm chờ đợi. Nhưng bà bị mọi người quên lãng. Có lẽ thử tìm cách hỏi chuyện bà ta xem sao. - Tôi cố gắng... Badger đâu nhỉ ? - Trời ! Tôi hoàn toàn quên mất ấy. Bobby đứng lên và chạy ra khỏi phòng. vài phút sau, trở lại. - chàng vẫn còn ngủ nhưng sắp dậy bây giờ. - Nào chúng ta thăm bà nấu bếp. Bà Rose Cludleigh nay tên là bà Pratt sống trong ngôi nhà có đồ gỗ chắp vá và những con chó bằng sứ. Bà Pratt là phụ nữ to béo. - Bà thấy , tôi trở lại - Bobby báo tin. Bà Pratt thở mạnh, nhìn hai người mà gì- - Chúng tôi quan tâm đến việc bà giúp việc gia đình bà Templeton thời gian - Frankie giải thích. - Đúng thế, thưa . - Bây giờ họ sống ở nước ngoài - Frankie tiếp cố gắng tỏ ra mình là người bạn của gia đình. - Người ta như vậy. - Bà làm việc với gia đình này lâu chưa? - Gia đình nào, thưa ? - Gia đình bà Templeton. - Ồ ! ... chỉ có hai tháng thôi. - Tôi tưởng rằng bà ở đấy lâu hơn. - Có lẽ về Gladys, bà hầu phòng. Bà ta làm việc ở đấy sáu tháng. - Hai người cùng chung sống với nhau ư ? - Vâng, bà ấy làm hầu phòng, tôi nấu bếp. - Bà ấy ở đâu khi ông Savage qua đời ? - gì ? - Bà có ở Tudor Cottage khi ông Savage qua đời ? - Ông Templeton chết... đó là điều tôi biết. Ông ấy ra nước ngoài. - phải là ông Templeton mà là ông Savage kia. Bà Pratt ngơ ngác nhìn họ. - Người để lại toàn bộ tài sản cho bà Templeton ấy. tia chớp thoáng qua óc bà Pratt. - A ! Vâng thưa ... Cái ông mà người ta đến làm biên bản sau khi chết ấy ư ? - Đúng là ông ấy. Ông ta thường đến Tudor Cottage, đúng ? - Tôi biết. Tôi mới tới đây làm việc. Bà Gladys biết đấy. - Nhưng bà ký làm chứng vào bản di chúc kia mà ? Bà Pratt có vẻ hiểu gì. - Bà có nhìn thấy ông Savage ký vào tờ giấy và sau đó bà ký tiếp ? Lại tia chớp nữa. - Vâng, thưa . Tôi và ông Albert. Chưa bao giờ tôi làm việc này nên tôi muốn, nhưng bà Gladys bảo tôi sao cả khi ông Elfort có mặt ở đấy. Đó là ông chưởng khế đứng đắn. - Ai cầu bà ký tên ? - Bobby hỏi. - Bà chủ, thưa ông. Bà chủ vào bếp bảo tôi tìm ông Albert lên căn phòng rất đẹp lầu với bà ấy (bà ta nhường phòng này cho khách). Ông khách nằm... ông ta từ Londres đến và đến nơi ông ta nằm ngay. Đây là lần đầu tiên tôi thấy ông ta. Ông Elfort cũng đứng trong phòng. Ông chưởng khế bảo tôi nên sợ hãi gì, chỉ việc ký tên vào dưới chữ ký của ông khách... Ký xong tôi còn ghi thêm địa chỉ nữa. Ông Abert cũng là như vậy. Trở về tôi với bà Gladys là trông ông ta quá ốm yếu. Bà Gladys bảo trước kia ông ta rất mạnh khoẻ, sau bị tai nạn gì đó ở Londres. - Và ông Savage, cái ông ký vào tờ giấy như bà , chết khi nào ? - Ngay sáng hôm sau, thưa . Đêm trước ngày chết ông ta vào phòng và cầu ai làm phiền ông. Sáng hôm sau, Bà Gladys vào trong phòng để quét dọn ông ta tất thở, giường có bì thư đề: “Kính gửi ông Chánh án”. Ô ! Bà Gladys bị phen hú vía. Sau đó điều tra, biên bản và mọi việc khác. Hai tháng sau, bà Templeton bảo tôi bà ấy ra nước ngoài và sắp xếp cho tôi việc ở miền bắc nước . Trước khi bà ta còn tặng tôi kỷ niệm rất đẹp. Đến đây bà Pratt tỏ ra thích chuyện. Frankie đứng lên. - Tôi xin cảm ơn bà về những tin tức ấy. Xin phép bà... (Frankie nhét vào tay bà tờ giấy bạc). Chúng tôi làm mất giờ của bà. - Cảm ơn . Chúc và chồng may mắn. Frankie đỏ mặt và vội vàng ra. Bobby ở lại hỏi thêm bà nấu bếp vài câu gì đó rồi theo Frankie. - Tôi tin rằng làm cho bà Pratt tất cả những gì bà ta biết. - Phải, tất cả đều ràng. nghi ngờ gì nữa, ông Savage tự tay ký vào bản di chúc và nỗi lo sợ mắc chứng ung thư là thực tế. Người bác sĩ giỏi ở Harley Street có thể bị mua chuộc. Vì ông Savage ký bản di chúc rồi nên chúng nhanh chóng loại bỏ ông ta, sợ rằng ông thay đổi ý kiến. - Nhưng làm thế nào chứng minh được điều này ? - Chúng ta có thể giả thiết mụ Templeton cho ông Savage “uống cái gì đó”, nhưng chúng ta có chứng cứ. Có thể Roger Bassington-ffrench là người viết bức thư gửi ông chánh án. lần nữa, làm thế nào để chứng minh được ? lâu như vậy bức thư ấy có thể bị huỷ sau khi đưa ra trước toà. - Và chúng ta cùng đến câu hỏi hóc búa: Roger Bassington-ffrench quỉ quyệt cùng bè lũ giấu giếm chúng ta điều gì ? - Cái đó làm đặc biệt quan tâm ư, Frankie ? - ... Nhưng dù sao có chi tiết làm tôi bãn khăn mãi. Vì lý do nào mà mụ Templeton lại tìm người làm vườn để ký vào bản di chúc trong khi bà hầu phòng vẫn ở trong nhà ? Tại sao là bà hầu phòng ? - ai cho câu trả lời ư, Frankie ? Bobby hỏi câu đó bằng giọng rất lạ lùng khiến Frankie quá đỗi ngạc nhiên. - Khi ra khỏi nhà tôi ở lại hỏi bà Pratt về tên họ của bà Gladys. - Rồi sao nữa ? - Bà hầu phòng tên là Evans ! Chương ba mươi hai EVANS Fankie sững sờ. - Bây giờ hiểu chứ ! - Bobby như bị kích động kêu lên - Câu hỏi của rất giống câu hỏi của ông Alan Carstairs. Tại sao là bà hầu phòng ? Tại sao là Evans ? - Ồ ! Bobby, chúng ta thành công rồi ! - Cái điều nghịch thường ấy cũng xuất trong tâm trí của ông Alan Carstairs và thế là ông ấy tìm nhưng chuyện khác thường trong bản di chúc. Theo tôi, ông ấy đến Wales cũng vì lý do ấy. Gladys Evans là cái tên thường thấy ở Wales và chắc hẳn bà Evans là người vùng này. Ông Carstairs về Marchbolt tìm bà Evans nhưng bị kẻ nào đó theo dõi... và ông ta gặp được bà này. - Nhưng tại sao người ta gọi bà Evans đến ký vào bản di chúc ?- Frankie nhắc lại - chắc chắn có lý do, mà là lý do quan trọng. có hai bà giúp việc trong nhà, tại sao lại gọi ông làm vườn ? - Thế này: Rose Cludleigh và Albert Mere là những kẻ ngốc nghếch, còn Evans là phụ nữ thông minh. - Còn vấn đề nữa. Ông Elford lúc ấy cũng có mặt tại đấy, chắc chắn ông ấy nhận ra những chuyện gian dối nếu có. Bobby, đây là cái nút phải gỡ cho ra: Tại sao người ta dùng bà Cludleigh và ông Mere làm nhân chứng chứ dùng bà Evans ? Mọi điều bí mật là ở đấy... Khoan ! Có phải do... Frankie đứng yên, nhìn thẳng phía trước nhưng hình như trông thấy gì cả, sau đó lại nhìn Bobby, mắt sáng lên cách khác thường. - Bobby, khi được mời đến nghỉ tại ngôi nhà có hai bà hầu cho ai tiền thưởng trước ? - Cho bà hầu phòng. Người ta thưởng bà nấu bếp vì đơn giản là người ta nhìn thấy bà này bao giờ. - thường xuyên nhìn thấy thôi. Nếu ở lâu ở nhà bạn và hay lại đôi khi cũng nhìn thấy bà nấu bếp. Còn bà hầu phòng hàng ngày mang bữa ăn sáng vào phòng cho , phục vụ bàn ăn cho ... - muốn dẫn tôi đâu đây, Frankie ? - Người ta gọi bà Evans đến ký tên vào bản di chúc vì bà ta nhận ra người để lại di chúc phải là ông Savage. - Frankie, vậy người đó là ai ? - Roger Bassington-ffrench ! đóng giả và thế chân ông Savage. Tôi cũng khẳng định là chính Roger khám bác sĩ và sáng tác ra câu chuyện ung thư. Sau đó cho người mời ông chưởng khế, người chưa bao giờ biết mặt ông Savage nhưng lại sẵn sàng thề chứng kiến ông này ký tên vào bản di chúc trước hai nhân chứng mà người lần đầu tiên nhìn thấy “ông Savaga" còn người kia mắt kém và chưa chắc gặp người ký di chúc lần nào. hiểu chứ ?... - Nhưng lúc ấy ông Savasa ở đâu ? - Ông ta ở Londres. Nhưng tôi giả thiết rằng ông ta bị nhốt ở kho đồ cũ trước đó để Roger Bassington-ffrench có đủ thời gian làm trò lừa đảo của mình. Sau đó giết ông bằng clô-rô-phoóc và đặt ông lên giường để bà Evans thấy ông chết vào sáng hôm sau. - Frankie, tôi công nhận ý kiến là đúng, nhưng làm thế nào để chứng minh được ? - Tôi biết...ít nhất là đưa cho bà Rose Cludleigh, tức là bà Pratt, xem bức ảnh của ông Savage. Có thể bà này : “Đày phải là người ký bản di chúc !” - Tôi tin vì bà ta quá ngu dại. - Chính vì thế nên người ta mới chọn bà ấy. Nhưng nếu có nhà chuyên môn có thể biết chữ ký giả sao ? - Nhưng toà án làm được việc này. - Vì ai nêu vấn đề này lên. Cho đến lúc này ai nghĩ đây là bản di chúc giả. Bây giờ khác rồi. - Trước hết - Bobby - Chúng ta phải tìm cho ra Gladys Evans. Chắc chắn bà này biết nhiều chuyện. Xin nhớ là bà ấy làm việc cho nhà Templeton trong sáu tháng. - Tìm bà ta ở đâu ? - Chúng ta thử hỏi trạm bưu điện xem - Bobby gợi ý. Hai người cùng tới trạm bưu điện. Frankie bước vào và bắt chuyện. Trong trạm chỉ có nhân viên nhận và phát thư, mũi dài cách kỳ cục. Frankie mua vài con tem, chuyện thời tiết rồi cuối cùng thêm: - Ở đây thời tiết dễ chịu hơn địa phương chúng tôi. Tôi ở Wales...tại làng Marchbolt. biết ở vùng chúng tôi trời mưa như thế nào đâu. mũi dài ở đây cũng trong mùa mưa và chủ nhật trước trời mưa tầm tã suốt ngày. Frankie : - Ở làng Marchobolt tôi có dịp gặp người sinh trưởng tại đây. Bà ta tên là Evans... Gladys Evans. Có thể biết bà này, đúng ? Người thu phát thư trả lời chút nghi ngờ: - Đúng thế. Tôi biết bà này. Bà ấy làm việc ở Tudor Cottage. Bà ấy phải là người ở đây mà từ Wales tới. Bà ấy trở lại đấy để lấy chồng. Bây giờ bà ấy là bà Roberts. - có biết chính xác bà ta ở đâu ? Tôi mượn của bà ta chiếc áo mưa nhưng quên chưa trả lại. Nếu biết địa chỉ tôi gửi trả theo đường bưu điện. - Dễ thôi. Thỉnh thoảng bà ấy có gửi cho tôi tấm bưu ảnh. Vợ chồng bà ấy làm việc cùng nơi. Xin đợi phút. lục trong đống giấy tờ. Sau đó đặt tờ giấy lên quầy. - Đây. Bobby và Frankie cùng cúi xuống đọc. Họ đợi bất ngờ như vậy: “Bà Roberts, nhà xứ làng Marchbolt, Wales”.
Chương ba mươi ba QUÁN CÀ PHÊ PHƯƠNG ĐÔNG Khi còn ở trong trạm bưu điện Bobby và Frankie chưa dám gì với nhau. Ra đến ngoài, họ nhìn nhau và cười phá lên. - Ở nhà xứ - Bobby kêu lên. - Thế mà tôi mất công đọc bốn trăm tám mươi địa chỉ của những người có tên là Evans trong danh bạ điện thoại - Frankie than thở. - Bây giờ tôi hiểu tại sao Roberts Bassington- ffrench thách thức chúng ta tìm ra người có tên là Evans liên quan đến vụ này. - Chúng ta phải trở về làng Marchbolt ngay. - Nhưng chúng ta phải làm cái gì đó cho chàng Badger khốn khổ . có tiền đấy , Frankie ? lấy trong túi xách tay ra nắm giấy bạc. - Đưa cho ấy để về trả nợ. Cha tôi mua lại xưởng sửa chữa ôtô ấy và cử ấy làm người quản lý. Chúng ta thôi ! - Tốt - Bobby xác nhận - Tôi gặp Badger còn ra xe cho nổ máy . Năm phút sau, hai bạn nhanh chóng rời khỏi làng Chipping Somerton. Bất chợt Frankie kêu to: - cho xe chạy nhanh thế, Bobby ! Kim đồng hồ chỉ trăm hai mươi kilômét/giờ. - Nhưng biết làm thế nào được ? - Chúng ta bằng máy bay. Chỉ còn cách phi trường Medeshot mười kilômét nữa thôi. Chúng ta tới đó trước hai giờ. - Được ! máy bay ! Tới Medeshot, Frankie cầu được gặp ông Donald King. người trẻ tuổi, áo quần nhàu nát ra. ta ngạc nhiên khi trông thấy Frankie. - Chào Frankie. thế kỷ nay chúng ta gặp nhau. muốn gì ? - chiếc máy bay. Hình như phụ trách loại phương tiện vận chuyển này, đúng ? - Phải. đâu ? - Tôi muốn về nhà càng nhanh càng tốt. Donald King cau mày: - Có vậy thôi ư ? - Phải. Lúc này như vậy. - Chúng tôi thoả mãn cầu của ngay lập tức. - Tôi gửi tấm séc. Năm phút sau họ ở trung. - Tại sao lại phải bằng máy bay, Frankie ? - Tôi có dự cảm rằng chúng ta được để mất giây đồng hồ nào. sao ? - kỳ lạ. Tôi cũng thấy như vậy nhưng thể giải thích được tại sao. Bà Roberts của chúng ta có thể bay mất... - Ai mà biết được ? Chúng ta thể đoán trước được ý đồ của Roger Bassington-ffrench. - Đúng thế. Máy bay hạ cánh xuống bãi cỏ bên cạnh lâu đài, và vài phút sau, Bobby và Frankie tới làng Marchbolt bằng chiếc xe của ngài quận công Marchington. Họ cho xe dừng lại bên hàng rào của nhà xứ. Bobby và Frankie xuống xe và chạy vào trong nhà. Khi tới cổng họ bắt gặp phụ nữ dong dỏng cao. Bobby và Frankie nhận ra người ấy ngay. - Moira ! - Frankie kêu lên. Moira bước lại, dáng điệu ung dung. - Ôi ! Tôi rất sung sướng được gặp lại hai bạn! Tôi biết vị thánh nào phù hộ mình. - Nhưng tại sao chị lại ở đây ? - Chắc chắn là vì cùng lý do như hai bạn ! - biết ai là Evans rồi ư ? - Bobby hỏi. - Vâng. Nhưng chuyện dài lắm... - Chúng ta vào trong nhà - Bobby đề nghị. - - Moira phản đối ngay lập tức - Có quán cà phê nào để chúng ta yên ổn chuyện . Tôi cần cho các bạn biết vài việc ! - Có đấy - Bobby bực mình - Nhưng tại sao ở đây ? Moira giậm chân. - hiểu khi nghe tôi xong. Ô ! Xin đừng để mất giây nào. Hai người đành nhượng bộ ta. Giữa phố có quán cà phê Phương Đông... cái tên rất đẹp nhưng mấy phù hợp với trang bị trong quán. Cả ba người trong quán. Lúc này sáu giờ rưỡi. Họ ngồi bên chiếc bàn trong góc quán hàng. Bobby gọi ba tách cà phê. - Thế nào ? - Đợi nhà hàng mang đồ uống đến . hầu bàn xuất và đặt ba tách cà phê xuống bàn. - Moira, chúng tôi nghe chị đây - Frankie bằng giọng khô khan. - Tôi biết nên bắt đầu từ đâu. Tôi về Londres bằng xe lửa, và khi tôi trong hành lang của xe ngẫu nhiên lạ lùng... Bỗng ta im bặt. Từ chỗ ngồi ta nhìn ra cửa. ta hơi cúi mình xuống, mở to mắt. - theo dõi tôi - Moira . - Ai ? - Hai bạn cùng hỏi. - Roger Bassington-ffrench ! - nhìn thấy ư ? - ở ngoài kia. với ngưòi phu nữ tóc đỏ. - Mụ Cay man ! - Frankie kêu lên. cú nhảy, hai bạn chạy ra ngoài cửa. Họ nhìn xuôi, nhìn ngược nhưng thấy Bassington- ffrench đâu cả. Moira đến bên họ. - rồi ư ? - ta run rẩy hỏi. Hãy coi chừng. Đây là con người nguy hiểm... rất nguy hiểm. - Nào, Moira. Chị can đảm lên chút ! Frankie khuyên. nên sợ hãi như vậy. - Bây giờ có đuổi theo cũng vô ích - Bobby và trở về bàn. Nào, Moira, kể chuyện của . cầm lấy tách cà phê. Khi ngồi xuống, Frankie vô ý vấp vào bàn, ngã vào Bobby làm cà phê đổ tung toé. - Xin lỗi. đưa tay sang bàn bên có khách lấy chiếc bình đựng giấm. đổ giấm và rót cà phê trong tách của mình vào. Hành động khác thường ấy làm Bobby hoảng hốt. - điên rồi ư, Frankie ? - Tôi cần mẫu cà phê này để nhờ bác sĩ George Ailbuthnot phân tích. quay sang Moira. - Thế là hết. Moira ! Đây là ý nghĩ đến với tôi như tia chớp. Khi đánh đổ tách cà phê, tôi quan sát nét mặt của chị. Chị đổ cái gì đó vào hai tách cà phê của chúng tôi trong khi chúng tôi ra ngoài cửa để tìm Roger Bassington-ffrench do chị bịa ra. Tôi biết mưu của chị, bà Moria Nicholson hoặc bà Templeton hoặc bất cứ cái tên gì mà chị muốn. - Templeton ư ? - Bobby kêu lên. - Phải, hãy nhìn bộ mặt chị ta, Bobby. Nếu chị ta chối cãi, chúng ta hãy điệu chị ta đến nhà xứ để bà Roberts nhận mặt. Bobby nhìn Moria, đúng là vẻ dịu dàng của mụ biến thành vẻ giận dữ. Cái miệng xinh xắn thốt ra hàng tràng chửi rủa. Moria lục tìm cái gì đó trong túi xách tay của mình. Rất kịp thời, Bobby hất bàn tay cầm khẩu súng lục của mụ lên. Cùng với tiếng nổ chát chúa, viên đạn vọt qua đầu Frankie và cắm vào tường của quán cà phê Phương Đông. Lần đầu tiên trong quán cà phê, hầu bạn chạy lại. Chạy ra ngoài phố, kêu thét lên: - Cứu tôi với ! Có kẻ giết người ! Cảnh sát ! Nhanh lên ! Chương ba mươi tư BỨC THƯ TỪ NAM MỸ Nhiều tuần lễ qua . buổi sáng Frankie nhận được phong thư có tem của nước Cộng hoà ở Nam Mỹ. Đọc xong, mang đến cho Bobby ở trong nhà xứ xem. Dưới đây là nội dung của bức thư: “Frankie thân mến, cho phép tôi gửi những lời khen ngợi chân thành nhất. và người bạn lính thuỷ cũ của phá huỷ những tham vọng của đời tôi. Tôi chuẩn bị những kế hoạch vững chắc. có muốn biết những chi tiết của chúng . phụ nữ cố tình chống lại tôi có lẽ coi thường những điều tôi muốn . Hơn nữa tôi có cuộc sống mới. Roger Bassington-ffrench chết rồi. Xỉn thú nhận từ lâu tôi là kẻ bỏ . Thời kỳ ở Oxford tôi can tội giả mạo chữ ký của cha tôi. Ông già từ bỏ tôi và gửi tôi sang thuộc địa. Ở đây tôi gặp Moira và băng nhóm của ta. ta có thể làm mọi việc từ năm mười lăm tuổi. Khi gặp tôi, ta có ý định trở về nước vì bị cảnh sát truy lùng. Sau khi sống chung với nhau, chúng tôi lập số kế hoạch hành động. Trước hết ta lấy bác sĩ Nicholson. Qua cuộc hôn nhân ấy, ta vào tầng lớp thượng lưu của xã hội. Cảnh sát mất dấu vết của ta. Nicholson tới nước với ý định lập trại cai nghiện ma tuý. Ông ta muốn tìm ngôi nhà nhiều tiền lắm. Moira gợi ý cho chồng mua lại lâu đài La Grange. ta vẫn làm việc với băng nhóm trong việc buôn bán chất ma tuý. biết gì, ông Nicholson trở thành người có ích cho vợ. Tôi vẫn ấp ủ hai tham vọng: trở thành giàu có và là chủ nhân lâu đài Merroway. Thời vua Charles đệ nhị, dòng họ Bassington-ffrench vốn được trọng vọng. Sau đó gia đình bị phá sản. Tôi cảm thấy mình cần có vai trò lớn trong xã hội. Muốn vậy, tôi phải có rất nhiều tiền. Moira tới Canada rất nhiều lần để “thăm gia đình”. quý vợ, ông Nicholson tin vào tất cả những gì ta . Để buôn lậu, ta mang cái tên giả: Bà Templeton. Dưới cái tên này ta gặp ông Savage. ta biết công cuộc kinh doanh và tài sản kếch xù của ông này. Moira quyến rũ ông nhưng để ông quá đỗi mê muội. Chúng tôi lập kế hoạch chi tiết như . Người đàn ông có tên là Cayman đóng vai người chồng. Moira mời ông Savage đến Tudoy Cottage. Lần thứ ba tới đây, ông ta bị chúng tôi sát hại... Xong việc, có tiền, trước mắt mọi người, ta ra nước ngoài... Thực tế là ta về làng Staverley và sống trong lâu đài Groege. Trong lúc ấy tôi thực kế hoạch của mình. Trước hết tôi muốn loại trừ Henry và đứa con trai của ta. Tôi gặp may, hai vụ tai nạn giả để làm chết thằng bé Tommy thành công. Tôi quay lại Henry. Sau vụ ngã ngựa trong cuộc săn, ta đau đớn vì chứng thấp khớp. Tôi khuyên ta dùng moóc-phin và ta mắc nghiện. ta nghi ngờ gì cả... Đây là con người có tâm hồn trong trắng. Mục đích của tôi là đưa ta tới lâu đài La Grange để chữa bệnh. Moira tạo ra "vụ tự sát” mới. Còn tôi, tôi ở ngoài mọi nghi ngờ. Nhưng rồi cái lão Carstairs mất dạy xuất . Hình như Savage viết thư cho Carstairs, bạn mình, ở tàu: ông ta về bà Templeton và kèm theo tấm ảnh của người này. Lúc đó ông Carstairs tham gia cuộc săn bắn lớn. Khi trở về châu Phi, ông ta nhận được tin về cái chết và những ý định cuối cùng của ông Savage. Ông Carstairs tin rằng bạn mình mắc chứng ung thư và nội dung bản di chúc phù hợp với tính cách của bạn mình. Ông Savage là nhà kinh doanh, tinh thần vững vàng. Nếu mê người phụ nữ ông ta cũng coi thường gia sản của mình, tặng hết cho người phụ nữ ấy và phần làm công tác từ thiện. Ý kiến tặng tài sản cho hội từ thiện là của tôi, cái đó để tránh mọi nghi ngờ. Carstairs trở về nước để làm sáng tỏ vụ này. Từ đầu chúng tôi ít quan tâm đến lão. Bạn bè đưa lão tới lâu đài Merroway. Thấy chiếc đàn dương cầm có tấm ảnh của Moira lão nhận ra đây là người phụ nữ mà Savage gửi cho lão. tới Chipping Somerton để bắt đầu điều tra. Moira và tôi bắt đầu lo ngại... Tôi hy vọng mọi chuyện dần lắng dịu , nhưng Carstairs rất bướng bỉnh và rất khôn khéo. Tôi theo dõi lão ở Chipping Somerton. Lão chỉ tìm được bà nấu bếp Rose Cludleigh, mà còn biết bà hầu phòng Evans ở phía bắc nước kết hôn và sống ở làng Marchbolt. Tình huống đối với tôi là gay cấn. Nếu lão Carstairs biết được Templeton và Moira Nicholson chỉ là người vấn đề càng phức tạp hơn nhiều. Tôi quyết định thủ tiêu Carstairs; lần này may mắn thuộc về tôi. Tôi sau lão khi sương mù từ dưới biển bốc lên. Tôi tiến đến gần lão và bằng cú đẩy tôi ném lão vào trung... Nhưng lại có vấn đề khác đặt ra: Tôi muốn biết trong người lão có giấy tờ gì nguy hiểm cho chúng tôi . May mắn là bạn của tạo thuận lợi cho ý định của tôi; ta để mình tôi ngồi bên xác chết trong thời gian ngắn. Carstairs có tấm ảnh của Moira trong túi. Tôi lấy tấm ảnh ấy và thay vào đó tấm ảnh của phụ nữ đồng bọn của ta. Tất cả diễn ra tốt đẹp. Người em giả và người em rể tới nhận xác người . Lần này Bobby, bạn , làm hỏng kế hoạch của chúng tôi. Hình như trước khi tắt thở Carstairs vài lời gì đó. Lão đến cái tên Evans... và Evans lại làm việc ở nhà xứ. Chúng tôi bắt đầu lúng túng. Moira muốn rằng con trai ông mục sư thể gây khó khăn cho chúng tôi được nữa; chúng tôi quá xa. Kế hoạch của chúng tôi thất bại. Thế là Moira chịu trách nhiệm loại bỏ ta. ta đến làng Marchbolt bằng xe hơi và đợi dịp để hành . ta cho lượng lớn mooc-phin vào chai bia trong khi ta ngủ. Nhưng chàng ngu ngốc ấy chết. Đúng là vận đen bám riết lấy chúng tôi. Như , câu chuyện giữa với bác sĩ Nicholson gây ra cho tôi vài nghi ngờ. cũng có thể hình dung ra sững sờ của Moira trong cái đêm giáp mặt với Bobby. ta nhận ra ngay đây là ai vì nhìn thấy ta lúc ngủ. lạ lùng gì khi biết ta run sợ đến phát điên lên, nhưng lấy lại lòng can đảm ta chơi vở hài kịch. Moira tới quán trọ thú nhận với Bobby rằng ông Carstairs và chồng , người ghen ghê gớm, đe doạ . ta cố gắng chứng minh tôi là người vô tội. Về phần mình tôi mô tả ta là con người yếu đuối, có khả năng tự vệ, và Moira có thể tự kết liễu đời mình nếu ai đó đe doạ tính mạng . Tình huống ỉà nghiêm trọng. Chúng tôi có tiền. Với thằng bé Tommy có gì phải vội vàng. Nhưng và Bobby là mối đe doạ thực với chúng tôi vì những nghi ngờ của quay về lâu đài La Grange. Có thể cho rằng Henry tự sát. , chính tôi giết ta ! Khi chuyện với ở ngoài vườn, tôi biết là thể để lỡ thời gian... tôi vội vã hoàn thành kế hoạch của mình. Chiếc phi cơ bay ngang trời lúc ấy tạo thuận lợi cho tôi. Tôi vào văn phòng, ngồi bên Henry viết. Tôi : “ nghe đây...!” và bắn thẳng vào người ta. Tiếng máy bay át tiếng súng. Sau đó tôi viết bức thư tuyệt mệnh, lau dấu vân tay khẩu súng lục rồi nhét súng vào tay Henry. Tôi nhét chìa khóa vào túi ta và ra khỏi cửa sau khi khoá cửa bằng chìa khoá phòng ăn. Hai chiếc chìa khoá này có thể dùng chung được. Tôi đặt quả pháo trong lò sưởi, ngòi pháo dài, chỉ nổ bốn phút đồng hồ sau đó. Mọi việc diễn ra theo đúng ý đồ của tôi. Tôi ở trong vườn với có tiếng nổ. vụ tự sát " bàn cãi được nữa”. Bác sĩ Nicholson khốn khổ bị nghi ngờ. Có là ông ta tới để lấy chiếc can để quên ? hăng hái theo tinh thần hiệp sĩ của Bobby làm phiền Moira và ta bỏ nơi khác. Những lời gỉải thích về vắng mặt của vợ mình của Nicholson làm cho nghi ngờ ông ta hơn Nơi Moira tỏ ra kiệt xuất là ở Tudor Cottage. Theo động tĩnh, ta biết là tôi bị trói chặt. ta uống liều moóc-phin và nằm lên giường. Khi và Bobby xuống nhà gọi điện thoại ta lên kho đồ cũ cắt dây trói cho tôi rồi lại trở về giường nằm. Thuốc ngấm và ta mê . Khỉ tỉnh lại, sợ rằng và Bobby biết chỗ ở của bà Evans. Gặp bà ta biết đây là vụ tự sát và bản di chúc là giả. Hơn nữa ta cũng nghi ngờ lão Carstairs viết thư cho bà Evans trước khi tới làng Marchbolt. Moira mình tới bệnh viện ở Londres nhưng thực tế là trở về làng Marchbolt và với Bobby gặp ta ở cổng nhà xứ. Kế hoạch của Moira có giản đơn phần nào và ta cho rằng mình thoát tội. người hầu thể mô tả người ngồi cùng bàn với và Bobby được trong khi đó ta vẫn nằm trong bệnh viện ở Londres. Nhưng và Bobby lột mặt nạ của Moira... Trong quá trình điều tra, có thể ta lún sâu vào vụ này. Tôi bắt đầu mệt mỏi về ta, tôi hiểu là ta có nghi ngờ gì về điều đó ... Bây giờ tôi có tiền... tiền của tôi ! Sau đám cưới của chúng tôi, tôi tìm cách xa lánh ta. Tôi sẵn sàng sống cuộc sống khác... nhờ vào và chàng Bobby ngốc nghếch của Tôi có thành công ? Tôi hy vọng là như vậy... Dù sao cũng nên tin rằng tôi làm lại từ đầu cho đến khi thành công mới thôi. Vĩnh biệt Frankie, cũng có thể là tạm biệt, biết đâu đấy ? Kẻ thù, tên phản trắc và con người bỉ ổi của . Roger Bassiligton-ffrench. Chương ba mươi nhăm TIN MỚI Ở NHÀ XỨ Bobby trả lại bức thư cho Frankie. - Đây là con người đáng chú ý - Frankie . - ta có cái năng khiếu làm hài lòng - Bobby lạnh lùng . - ta có vẻ đáng mến và Moira cũng vậy. Bobby đỏ mặt. - Điều kỳ cục nhất là suốt thời gian ấy, bà Evans vẫn ở trong nhà xứ... Theo chắc chắn ông Carstairs viết thư cho bà Evans tức là bà Roberts, đúng ? - Đúng. Ông ấy báo tin về đến thăm của mình để hỏi về mụ Templeton mà ông cho rằng là người trong băng nhóm lừa đảo quốc tế bị cảnh sát truy nã. Bà ta nghi ngờ gì về người rơi từ vách núi xuống dưới vực có cái tên là Pritchard. Cái căn cước giả ấy khôn ngoan. Bà ta làm thế nào biết được đây lại là ông Alan Carstairs. Đây là lập luận của tâm hồn trong trắng. - Bà Evans cũng nhận ra đây là ông Cayman - Bobby . Xem báo xong bà ta với chồng: “ là lạ lùng - Bà ta - Người này rất giống với cái ông gặp chúng ta”. - phức tạp. Roger Bassington-ffrench cũng bị lột mặt nạ đôi lần, nhưng vì ngốc nghếch nên tôi chú ý đến. - Thế nào ? - Khi bà Sylvia người trong tấm ảnh báo rất giống với ông Carstirs tới nhà chơi nhưng Roger lại thiếu gì người giống nhau. - Frankie, làm thế nào mà nhận ra bộ mặt của Moira ? - Nhờ vào ý kiến người ta về mụ Templeton. Ai cũng bảo: “Bà ta rất đẹp, rất khêu gợi...” Khi gặp mụ ở nhà xứ, tôi có ý nghĩ: nếu Moira là Templeton sao ? - Xin có lời khen ngợi, Frankie ! - Bà Syliva khốn khổ vì báo chí nhưng bác sĩ Nicholson vẫn trung thành với bà. Tôi ngạc nhiên nếu việc này kết thúc bằng đám cưới. - Tất cả kết thúc tốt đẹp - Bobby - Nhờ vào cha , xưởng sửa chữa ôtô của Badger được phục hồi và tôi có tương lai rạng rỡ ở thuộc địa... nghĩ xem: giám đốc đồn điền trồng cà phê ở Trung Phi ? Tôi vẫn mơ cái địa vị đó. nghỉ lát rồi tiếp: - Khách du lịch đến thăm Kenya. - Cũng còn những người khác tới đó nữa - Frankie thêm với vẻ chất phác. Bobby đỏ mặt. ngập ngừng và hỏi lại: - Đúng như vậy chứ, Frankie ?... sợ chuyến ấy sao ? - sợ chút nào. Tôi quyết định để mình. - Frankie, em, nhưng đau đớn trong câm lặng vì đây là mối tình thể có ! - Vì vậy mà khó chịu trong khi chúng ta chơi gôn ư ? - thất vọng. - Hừ ! Thế còn chuyện với Moira sao ? Bobby tỏ vẻ bối rối: - Bộ mặt của mụ ta mê hoặc ... - Mụ ta đẹp hơn em. - đúng... Bộ mặt mụ ta quyến rũ cách nào đấy. Nhưng khi chúng ta bị nhốt trong nhà kho, thấy can đảm của em. chỉ nghĩ đến em. Lúc ấy em rực rỡ ! - Xin thú nhận là em biết cái đó... nhưng em muốn làm tăng say mê của . - say mê em, em . say mê em và bao giờ hết say mê. Em tin chắc rằng em buồn khi tới Kenya chứ ? - Em rất hài lòng khi được sống bên canh, Bobby. Em sống khắc khoải khi có . - Frankie ! - Bobby ! (sến nhỉ ?) Ông mục sư mở cửa để các nữ tín đồ vào làm lễ. - Xin mời các bà vào đây ! Nhưng rồi cha lại đóng sập ngay cửa lại rồi lẩm bẩm: - ... trong những đứa con trai của tôi. Nó là... chồng chưa cưới. người trong số nữ tín đồ cười ranh mãnh. - chàng trai tốt - Cha xứ tiếp - Và rất đứng đắn... Nó quản lý đồn điền trồng cà phê ở Kenya bên Trung Phi. nữ tín đồ vói bà khác: - Bà thấy ? chàng hôn tiểu thư Frances Denvent, đúng ? tiếng đồng hồ sau, tin về lễ đính hôn của Bobby và Frankie bay khắp làng Marchbolt. HẾT Chịu trách nhiệm xuất bản Ts. LÊ VAN ĐỆ Chịu trách nhiệm nội dung PHÙNG THIÊN TÂN Biên tập : THU TRANG Bìa và trình bảy LƯU QUANG THỤY Sửa bản in : PHƯƠNG CHI In 1.000 bản - Khổ 12 cm X 19 cm - Tại Công ty cổ phần In và bao bì Sơn La Gấy chấp nhận đăng kí kế hoạch xuất bản số 22/2006/CXB/180-1883/CAND In xong và nộp lưu chiểu Quý 11/2006.