1. QUY ĐỊNH BOX TRUYỆN SƯU TẦM :

    Đặt Title theo mẫu [Tên truyện] [dấu cách] - [dấu cách] [Tác giả] [Số chương]
    ----•Nội dung cần:
    - Hình minh họa (bìa truyện, hình ảnh,etc,...)
    - Nguồn
    - Tác giả
    - Tên editor +beta
    - Thể loại
    - Số chương
    Đặc biệt chọn canh giữa cho đoạn giới thiệu
    ---- Quy định :
    1. Chỉ đăng những truyện đã có ebook và đã được public trên các trang web khác
    2 . Chỉ nên post truyện đã hoàn đã có eBook.
    3. Trình bày topic truyện khoa học, bôi đen số chương để dễ nhìn
    4 . Cần có trách nhiệm post đến hết truyện. Nếu không thể tiếp tục post liên hệ Ad và Mod

  2. QUY ĐỊNH BOX EBOOK SƯU TẦM

    Khi các bạn post link eBook sưu tầm nhớ chú ý nguồn edit và Link dẫn về chính chủ

    eBook phải tải File trực tiếp lên forum (có thể thêm file mediafire, dropbox ngay văn án)

    Không được kèm link có tính phí và bài viết, hay quảng cáo phản cảm, nếu có sẽ ban nick

    Cách tải ebook có quảng cáo

Người đàn bà đích thực - Barbara Taylor Bradford

Thảo luận trong 'Truyện Phương Tây (Sưu Tầm)'

  • ^^! Nếu bạn không gửi link bài viết trên Facebook được, hãy sử dụng link trong khung này để chia sẻ bài viết :
    1. dinh huong

      dinh huong Member

      Bài viết:
      183
      Được thích:
      0
      "Chắc chắn là tôi có thể dùng số tiền đó mua sắm, Henry ạ, tất nhiên là phụ thuộc vào chỗ tôi muốn mua chính xác cái gì". Emma cách gay gắt, lòng thầm nghĩ óc hài hước tuyệt vời của Henry hình như tan biến vào thinh khi ông bàn tới tiền.
      "Thôi Henry, xin ông đừng bàn tới tiền nữa; Ông hãy rút tiền phí tổn trong công việc bán và thuế phải trả, còn lại bao nhiêu để cả vào tài khoản cá nhân nay của tôi".
      Ông thở dài tuyệt vọng: Được lắm, tôi cho là bà biết điều bà làm. Xét cho tới cùng đó là tiền của bà cơ mà, Emma".
      "Ông đúng quá rồi", Emma nghĩ bụng
      Emma vạch kế hoạch chỗ ngồi cho bữa ăn gia đình vào tối thứ 7 và chuẩn bị thực đơn có tính gợi ý cho Hilda. Rồi sau khi khoá những tài liệu hợp pháp trong cặp, bà vào phòng ngủ để nghỉ ngơi. Đó ngày cuối tuần cực kỳ khó khăn, điều ấy bà hoàn toàn chắc. Tuy nhiên, bà lại cảm thấy nỗi lo ngại hoặc thoáng lo âu nào mà chỉ là thờ ơ lạnh lùng, lợm giọng tự nhiên khi bà nhìn thấy trước những cảnh buộc phải xảy ra tiếp theo bữa ăn gia đình đêm thứ 7.
      từng căm ghét những cảnh mà bản chất hung bạo và thói phù phiếm của họ vừa làm bà khó chịu vừa tức giận, bà cố gắng hết sức để tránh cho họ, đặc biệt là con cái họ. Mặc dù đoan chắc với Paula, bà biết thế nào cũng có cuộc đấu khẩu thể tránh khỏi trong vài ngày tiếp theo. Bà chấp nhận này cách cam chịu và tôi luyện cho cứng rắn để chuẩn bị. Bà chắc có đứa con nào của bà, ngoài Daisy, gần đây có phát triển được sức mạnh bên trong -giúp họ chịu đựng được khủng hoảng đột ngột với chút ít kiên cường. Nếu như chúng có được đây là điều ngạc nhiên choáng váng đối với bà, nhưng bà vui mừng đón tiếp phát triển này bởi vì nó ràng là làm chút điều mấy thú vị. Đồng thời bà phải dò xem lúc đầu chúng phản ứng như thế nào với tin tức bà đưa ra. Emma hiểu chúng quá để mà biết trước và đo được phản ứng của chúng. Ngoài Daisy, người dính dáng gì, còn lại tất cả bọn chúng lần lượt bị sốc, và tức giận vì cái tin bà thông báo. Bà nhận ra rằng bà sắp giáng đòn nhanh và khủng khiếp, đòn làm ảnh hưởng cả cuộc đời họ. Nhưng bà cảm thấy bất ổn hoặc thương hại, bởi vì đó đòn từ thanh gươm mà họ buộc bà phải cầm lên và sử dụng để tự vệ.
      Bà cũng cảm thấy cảm giác tội lỗi về những kế hoạch khôn cùng bà hoạch định cho tương lai. Và chắc chắn là chút xót thương nào cho những kẻ bị ảnh hưởng nặng nề nhất. Chỉ có nỗi buồn xé nát tâm can vùi chôn trong lòng bà, thỉnh thoảng nó lại như vành đai thép thít quanh ngực bà. Nó nảy sinh từ niềm đau, nỗi thất vọng trong các con cái của bà, và từ nỗi kinh hoàng lạnh sống lưng khi biết là họ mưu cách nhẫn tâm chống lại bà. Từ nhiều năm trước đây, Emma thôi còn trông đợi ở tình thương của họ, và bà cũng còn tìm tán thành của họ, nhưng dù vậy, bao giờ bà hình dung đưọc là bà lại có lý do để đặt dấu hỏi cho lòng trung thành của họ. Những mưu khủng khiếp của họ lúc đầu làm bà kinh hoàng, nhưng các phản ứng ban đầu này nhanh chóng được thay thế bằng căm giận tê dại và cuối cùng chỉ còn là khinh bỉ. Bà mỉm cười cách cay độc khi nghĩ tới lừa lọc của họ, lừa lọc non nớt, quá thiếu cái khéo léo và trí tưởng tượng mà bà biết ngay từ lúc bắt đầu.
      Ít nhất bà có thể tỏ được chút kính trọng tiết kiệm đối với chúng nếu chúng bớt lộ liễu và khôn ngoan lên chút trong mưu của chúng. Emma luôn có khả năng đứng lùi lại và chiêm ngưỡng đối thủ mạnh và quỷ quyệt, dù thán phục ấy có hằn học đến mức nào. Còn như đối với con cái của bà, bà kinh ngạc trước thiếu suy xét của chúng, khờ khạo đẩy chúng tới những hành động liều lĩnh tàn hại, ràng dẫn chúng tới chỗ đánh giá thấp bà.
      Bà cau mặt và hướng ý nghĩ của mình khỏi những thành viên chống đối trong gia đình bà, dồn tình thương cho Daisy, Paula và những đứa cháu khác. Cuối cùng bình tĩnh được lập lại, bà ngủ, giấc ngủ sâu gợn chút ám ảnh.
      Bữa uống trà chiều là nghi thức ở Penistol Royal trong nhiều năm nay. Đó là nghi thức mà Emma ưa thích, nhưng cho dù bà thích chăng nữa Hilda cũng cho phép nó được bỏ rơi. "Bước qua xác cháu, thưa bà", chị kêu to khi mấy năm trước Emma có ý kiến là hãy bỏ cái lệ đó . Emma nhún vai và cười cách vô vọng.
      Và như vậy là đúng 4h, Hilda lươts vào phòng khách tay bê khay trà Georgia bằng bạc trang trí thanh nhã, và đồ sứ tuyệt đẹp, trong suốt khi giơ lên ánh sáng. theo chị là trong hai người hầu trẻ hàng ngày đến làm việc nhà, cũng mang khay to tướng đầy thức ăn do đầu bếp chuẩn bị công phu.
      "Để nó lên bàn chút, Brenda", Hilda bảo, "và khiêng trong những chiếc bàn lại đây bên lò sưởi". Chị cũng để khay của mình xuống, thở hổn hển vì mệt, chị dừng lại chỉ chỗ cho Brenda để chiếc bàn thứ hai chỗ nào cho tiện lợi. Hai người đàn bà cẩn thận đặt những cái khay phía trước lò sưởi rồi Brenda lặng lẽ ra khỏi phòng, để Hilda sắp xếp lại cho hoàn chỉnh. Chị quan sát tác phẩm của người đầu bếp cách phê phán, rồi nở nụ cười thoả mãn cặp má hồng tròn trĩnh. Có những chiếc bánh nướng phết bơ nóng, những lát bánh mì mỏng và bơ, mứt dâu nhà làm lấy, kem cứng, bánh sandwich dưa chuột, cà chua, cá hồi hun khói, bích quy ngọt, bánh trái cây có hạnh nhân rắc lên . Đúng là bữa uống trà Yorkshire cổ xưa. Hilda cẩn thận gấp những chiếc khăn ăn bằng vải gai mịn để ở mỗi đĩa chiếc với con dao bạc cán ngọc và dĩa, cho thêm củi vào lửa, làm tròn trĩnh những chiếc gối, rồi nhìn quanh. Rồi chị tự nhủ là mọi thứ đâu vào đấy, chị hoàn toàn hài lòng, bèn gõ cửa phòng ngủ của Emma.
      "Bà có thức , thưa bà?"
      "Thức, Hilda à. Vào ".
      Hilda mở cửa thò đầu vào mỉm cười. "Trà xong", chị báo tin. "Và Paula chơi ngựa về. ấy dặn cháu với bà là ấy có mặt trong vài phút nữa. thay quần áo ngựa".
      "Cảm ơn Hilda. Tôi tới ngay".
      "Thưa bà, nếu bà cần gì xin cứ bấm chuông gọi", Hilda thêm, rồi xuống bếp để uống trà của mình và khen ngợi đầu bếp tiếng.
      lát sau Paula tới, đứng ở ngưỡng cửa và nín hơi, ngỡ ngàng trước cái đẹp của phòng khách. Nó yên ắng, y như thể thời gian qua đó. thanh duy nhất là tiếng lách cách của lửa cháy trong lò sưởi lớn. Ánh mặt trời chiếu vào qua cánh cửa sổ bọc chì cao màu vàng bụi, tắm những đồ đạc và những bức hoạ trong làn ánh sáng dịu xốp và gian ngát mùi hương hoa lan, dạ hương và hoa mùa xuân, tràn ngập bao bọc lấy trong mùi hương ngây ngất. Có cái gì nhoi nhói trong căn phòng cổ rộng lớn này. Kỷ niệm xôn xao trong lòng , thấp thoáng và đầy nhớ nhung. lặng lẽ lướt qua sàn như sợ dám chuyển động trong vùng yên tĩnh ấy, tiếng sột soạt của tà áo có thể làm ngắt quãng và phá vỡ yên bình êm dịu. ngồi xuống chiếc xôpha, mắt nhìn quanh phòng. Ở đây dễ có thể quên cái thế giới bên ngoài, thế giới đầy đau đớn, xấu xa và thất vọng. trôi nổi nhàng bên bờ kỷ niệm, nhớ lại tuổi thơ ở nơi này, thời kỳ sung sướng sống ở đây cùng cha mẹ, các chị em họ và bạn bè. Và Bà. Luôn luôn có Bà. Bà của bao giờ xa, luôn có mặt để lau nước mắt cho , cười những trò nghịch ngợm trẻ con của , thán phục những thành tựu bé của , mắng mỏ, chiều chuộng và thương . Bà tạo nên như ngày nay. Chính Bà với rằng đẹp, thông minh và là con người đặc biệt. người độc đáo, Bà vậy. Chính bà cho yên ổn bên trong, lòng tự tin và sức mạnh. Người dạy đối mặt với chút sợ hãi và trái tim dũng cảm.
      nghe thấy Emma bước vào, bước chân bà quá . Cả Emma nữa, cũng dừng lại để ngắm nhìn nhưng chú ý của bà chỉ tập trung vào Paula. Con bé trông dễ thương quá , Emma nghĩ trong lòng, như hình ảnh trong bức hoạ cổ nào đó, xa xôi, đăm chiêu, thiếu nữ với con kỳ lân.
      "Cháu đây rồi", Emma reo lên. "Trông cháu đẹp và tươi mát quá, sau khi ngựa về"
      Paula liếc nhìn lên nhanh, thoáng giật mình. "Ôi bà, bà làm cháu giật mình. Cháu ở tận đâu đâu".
      Khi Paula ngồi đối diện với Emma, mắt bà sáng lên bên khay trà: "Trời ơi, cháu hãy nhìn tất cả khay thức ăn này. Mà chỉ còn vài tiếng nữa là đến bữa ăn chiều rồi".
      Paula cười: "Cháu biết! Có lẽ bác ấy muốn bà thêm dồi dào sức khoẻ. Bà biết bác ấy rối rít lên như thế nào chung quanh bà. Bác ấy lên tỉnh hôm nay. Giống như bữa ăn bác ấy thường làm khi cháu còn ".
      "Bà đói chút nào", Emma lẩm bẩm. "Chị ấy phật lòng lắm nếu chúng ta ăn gì cả".
      "Cháu đói như cào đây này, bà đừng lo", Paula , tay cầm chiếc sandwich lên. đồng hoang trời lạnh, vì thế cháu phi ngựa nhiều dặm. Như vậy chắc ăn ngon miệng lắm".
      cắn miếng bánh. Emma nhìn tán thành.
      "Bà rất mừng thấy cháu hôm nay mới bắt đầu ăn. Hình như lúc nào cháu cũng chỉ gẩy gẩy thức ăn thôi. Thảo nào mà cháu chẳng gầy thế".
      Điện thoại reo. Paula nhảy lên: "Bà khỏi phải bận tâm", vừa vừa lao ngang phòng. "Có lẽ chỉ là người nào đó trong gia đình thôi".
      cầm máy lên: "Bác Hilda để cháu nghe cho. Alô, Paula đây. Dì muốn chuyện với bà à?". nghe rồi : "Ồ vâng. Vâng. Tốt. Tạm biệt.". Paula quay trở lại chỗ của mình ghế sôpha. "Dì Elisabeth. Dì đến sáng mai và mang hai con sinh đôi đến, cả chồng nữa".
      "Vậy là bây giờ chúng ta biết rồi", Emma nhận xét và cười. Điện thoại lại reo. "Trời ơi, bà hy vọng họ cùng gọi để mà với chúng ta khi nào họ tới. Như vậy tiếp tục suốt cả ngày", Emma thốt lên thiếu kiên nhẫn.
      Paula vội vã ngang phòng nghe điện mà lúc nào cũng là do Hilda nghe trước: "Emilie, khoẻ ?", kêu lên khi nhận ra tiếng của người chị em họ. Họ là bạn thân của nhau. "Ồ, tất nhiên là khỏe. Bà ở ngay đây". Paula đặt ống nghe xuống bàn và gọi Emma: "Emilie đấy bà ạ, nó muốn chuyện với bà".
      "Cháu biết Emilie rồi đó, đây có thể là câu chuyện rất rắc rối", Emma với nụ cười. Bà cầm tách trà của mình lên mang ra bàn giấy. Vừa ngồi xuống, bà nhấc ống nghe lên, nhanh nhẹn:
      "Chào cháu, cháu có..."
      "Cháu khoẻ, bà ạ", Emilie chen ngay bằng cái giọng trẻ trung hổn hển của , vẫn líu ríu như bao giờ. "Cháu thể dài được. Cháu vội lắm đây! Nhưng cháu chỉ muốn với bà rằng Sarah từ London bay về trưa hôm nay. Cháu đem xe đến đón Sarah tại sân bay Yeadon vào 6h30, như vậy chúng cháu nhất định tới ăn bữa tối. Ồ, mà Alexandre bảo cháu với bà rằng có thể đến chậm. Cậu Kit rất là hung hăng với cái máy đó. Cậu ấy bảo Alexandre phải xem xét lại tất cả những con số. Alexandre nổi cáu! Vâng, dù sao , ta nghĩ là có thể có mặt ở Penistol lúc 8h, nếu như vậy quá muộn. Cả Jonathan cũng xe lửa từ London tới Lidơ, nhưng Jonathan cần bảo Smith đem xe , ấy kiếm taxi".
      Tất cả những lời được tuôn ra thành tràng ngừng nghỉ, đúng kiểu của Emilie mà Emma quá quen thuộc. Bà ngồi lại thoải mái, ánh vui vui trong mắt, bà lắng nghe chăm chú thỉnh thoảng lại nhấp nháp trà. Emilie lúc nào cũng hấp tấp vội vàng, eo hẹp thời gian hơn cả bà. Emma thường nghĩ cháu láu táu liến thoắng của bà hình như với hàng loạt những dấu chấm than. Bà trêu: "Đối với ai vội, cuộc chuyện này hình như là rất dài, cháu Emilie của bà ạ".
      "Bà! Bà đừng thế. Cháu thể chịu được nếu tất cả những đứa cháu ngu ngốc của bà làm cái nơi ký thác những lời nhắn gửi của họ. Mà, cháu còn cái nữa. Philippe định cố gắng tới với cháu, nếu ta cùng lái xe với Alexandre. Bà thân ..."Emilie ngừng lại, giọng thấp xuống và bỗng nhiên êm dịu đầy sức hấp dẫn du dương: "Cháu có thể xin bà điều ?"
      "Tất nhiên, cháu ", Emma trả lời và cố nén nụ cười thú vị nhưng đầy âu yếm. Bà biết quá cái giọng phỉnh phờ ấy của Emilie khi muốn điều gì.
      "Bà có thể cho cháu mượn trong những chiếc áo dạ hội của bà được bà? Tuần trước khi cháu tới Bradford, cháu chỉ mua có vài thứ thôi. Cháu hề biết bà lại mở bữa tiệc gia đình lớn. Cháu chẳng có gì để mặc cả. Cháu ngó khắp các cửa hàng ở đây hôm nay và mọi thứ đều cổ lỗ quá . Mà cháu giờ để tới cửa hàng ở Lidơ".
      Emma cười: "Nếu cháu nghĩ là những quần áo trong cửa hàng là cổ lỗ bà cũng hiểu cháu có thể tìm gì được ở đây, cháu cưng!", bà , lòng phân vân hiểu hoạt bát tóc vàng 21 tuổi có thể thấy được cái gì thích hợp trong tủ áo của bà.
      "Cái áo sa đỏ đó! Cái áo từ Paris! Nó hợp với cháu đấy. Cả đôi giày lụa đỏ nữa", Emilie sôi nổi. "Cháu biết là bà phiền lòng để cháu thử, vì thế cháu mặc thử cuối tuần khi cháu ở Penistol. Cháu mặc trông tuyệt vời bà ạ. Bà ơi, cho cháu mượn nhé. Cháu giữ cẩn thận mà".
      "Bà quên cái áo ấy rồi đấy, Emilie ạ. Tất nhiên là cháu có thể mặc nếu cháu thích. Chính bà cũng hiểu tại sao bà lại mua nó nữa. Có lẽ cháu muốn có chiếc áo ấy", Emma gợi ý cách rộng lượng.
      Emilie xuýt xoa hít hà mạnh vì ngạc nhiên thú vị, nhưng lại : "Ôi, bà quý, cháu thể làm như thế được". Rồi ngừng lại chút: "Thế bà cần nó nữa, hở bà?"
      Emma cười thầm: " cần, Emilie ạ. Đối với bà nó hơi rợ quá. Cho cháu đấy".
      "Ôi, bà, trời ơi. Cám ơn bà, bà thương. Bà là thiên thần. Bà ơi...?"
      "Gì thế, Emilie. Còn gì nữa thế?"
      "Hỏi mượn bà đôi hoa tai kim cương cũ có phải là đòi hỏi quá đáng bà? Chiếc áo đó cần chút...vâng, cần chút gì đó phải bà?", Emilie kêu lên cách say sưa. "Nó cần đồ nữ trang tốt, bà có nghĩ thế ?"
      Emma bật cười."Emilie, cháu là buồn cười quá. Bà biết đôi hoa tai kim cương cũ là thế nào. Bà có vật như thế à?"
      "Vâng. Đôi bông tai đó. Đôi bông toòng teng đó. Bà bao giờ đeo chúng. Có lẽ bà quên chúng rồi". Emilie , giọng cất cao đầy hy vọng.
      "Ồ, cái đó hả. Cháu có thể đeo nó hoặc bất cứ cái gì khác cháu muốn. Mà mọi việc ở cửa hàng Bradfofd ra sao rồi?"
      "Cám ơn bà, về đôi hoa tai, cháu muốn thế. Mọi việc ở đây rất tốt đẹp. Khi nào gặp bà, cháu kể cho bà nghe số thay đổi. Còn tất cả đều yên tĩnh và buồn tẻ".
      "Ồ, tuần sau cháu ở Lidơ, và nó đến nỗi quá tồi đâu", Emma nhắc nhở. "Và chúng ta chuyện về những thay đổi của cháu tối nay. À, mà bọn con trai có đến muộn cũng sao đâu. Hilda luôn làm đồ ăn nguội để ăn buổi tối những ngày thứ sáu", Emma giải thích và tiếp: "Mẹ cháu vừa gọi điện xong. Ngày mai mẹ cháu tới..."
      "Bà, trời ơi, cháu quên mất!", Emilie chen. "cháu muốn báo động cho bà điều khủng khiếp. Mẹ cháu vừa cãi cọ trận ghê gớm với hai đứa sinh đôi, về chuyện bức tượng gì đó chúng làm cho bà. Chúng cứ đòi mang , còn mẹ cháu trông nó gớm ghiếc và để vào trong xe được. Nhưng điều đó cũng chẳng có gì đáng ngạc nhiên cả, với tất cả những hành lý bà ấy có mang theo. Dẫu sao chuyện um lên và hai đứa sinh đôi rất khổ sở, chúng muốn chuyển đến sống với bà. Cháu muốn bà biết để đón trước việc!". thở dài thê thảm: " cái gia đình gì như vậy?".
      "Cảm ơn cháu cho bà biết, "Emma cách tư lự. "Nhưng thôi đừng lo những chuyện ấy bây giờ vội. Bà chắc đến khi Elisabeth tới hai đứa bé sinh đôi trấn tĩnh trở lại. Chúng có thể ở với bà thời gian nếu chúng thích. Thế thôi chứ, Emilie?", Emma hỏi cách kiên nhẫn".
      "Vâng ạ. Trời! Cháu phải đây bà ạ. Cháu muộn lắm rồi. Tạm biệt bà, hẹn gặp bà tối nay"
      "Tạm biệt...", Emma nhìn chằm chằm vào ống nghe rồi cười to. Emilie đặt máy xuống. Bà ngả người trong ghế, lắc đầu và vẫn còn cười. "Bà ngạc nhiên chút nào thấy những người quản lý cửa hàng run lên khi Emilie tới. Nó là cơn lốc".
      Paula mỉm cười với Emma, gật đầu đồng ý. "Cháu biết. Nhưng nó hết sức thạo việc bà ạ. Cháu nghĩ bà nên xem xét việc đưa nó tới cửa hàn Paris trong thời gian. Nó là tuyệt".
      Emma rướn mắt ngạc nhiên: "Nhưng nó đâu có được tiếng Pháp, chứ nếu cân nhắc chuyện này rồi.
      "Nó có đấy, bà ạ", Paula ngồi thẳng lên. "Nó vẫn học", giải thích, cẩn thận thăm dò. " ấy muốn lắm và cháu nghĩ nó có thể là câu trả lời mà bà vẫn tìm kiếm"
      "Ờ, để bà nghĩ xem", Emma , khá hài lòng vì tin của Paula. Emilie cần mẫn, bà biết điều đó. Có lẽ đó là giải pháp. Emilie giống như tất cả các cháu khác của bà, đủ lớn khôn, đều làm việc trong các công ty của Hactơ và tỏ ra hề biết mệt mỏi và siêng năng trong công việc. Bà xem xét chuyện đó sau. Bây giờ bà hướng đầu óc mình vào những vấn đề cấp bách hơn. "Bà lập kế hoạch chỗ ngồi cho bữa ăn", Emma bắt đầu và tự rót cho mình tách trà nữa.
      Paula thích thú nhìn bà: "Vâng. Bà bảo với cháu là bà vạch kế hoạch mà". Paula chờ đợi.
      Emma hắng giọng: "Bà nghĩ là bà để cho mọi người ngồi đúng chỗ của họ. Bà cố gắng tách những người ưa nhau lắm, mặc dù, như bà , bà chắc mọi người cư xử với nhau tốt đẹp nhất". Bà để tay vào túi và những ngón tay của bà nắm chặt tờ giấy. Bà vẫn trù trừ muốn đem ra và đưa cho Paula.
      "Cháu hy vọng như vậy bà ạ. Đông người lắm và bà cũng biết là vài người rất khó tính". cười cách mai mỉa. " thể chịu đựng được, có phải bà thế ?"
      "Ờ, đúng thế", Emma trả lời. Bà ngả người vào xôpha,nhìn Paula chăm chú dò hỏi. "Bà cho là tất cả bọn họ đều nghĩ là bà trút hơi thở cuối cùng mấy tuần vừa rồi, có phải thế cháu?"
      Câu hỏi bất ngờ làm Paula ngạc nhiên. "Cháu biết", bắt đầu cách suy nghĩ. "Có lẽ...", do dự rồi bực bội với các bà , bà dì, ông chú, ông bác thắng thế. "Ồ, họ là những con đỉa hút máu, bà ạ", thốt lên cách tức giận. "Cháu hiểu vì sao bà lại bận tâm với họ làm gì. Cháu xin lỗi. Cháu biết họ là các con của bà, nhưng cháu rất tức giận mỗi khi cháu nghĩ tới họ".
      "Cháu cần phải xin lỗi bà làm gì, cháu cưng ạ. Bà biết quá họ là thế nào chứ", Emma mỉm cười gượng gạo. "Bà tự dối mình rằng họ tới thăm bà vì quan tâm tới bà. Họ nhận lời mời của bà chỉ vì tò mò thôi. Những con chim kền kền tới nhìn xác chết. Nhưng bà chưa chết và bà cũng lập những kế hoạch tức thời để chết". Bà kết thúc, thanh chiến thắng trong giọng của bà.
      Paula vội nghiêng người ra nhìn Emma chằm chằm: "Thế tại sao bà lại mời họ, nếu bà họ là thế nào?", hỏi bằng giọng cố tình.
      Emma mỉm cười cách bí và con mắt bà trở nên lạnh lùng. "Bà muốn gặp tất cả bọn họ cùng với nhau lần cuối cùng".
      "Bà đừng thế. Bà khỏe hơn rồi và lần này cháu trông nom bà cẩn thận. Kệ xác cửa hàng và công việc", Paula kêu lên cuồng nhiệt.
      " lần cuối cùng, bà muốn là lần cuối cùng bà mời họ đến đây trong ngày cuối tuần thế này", Emma tuyên bố. "Bà có chút công việc gia đình phải để mắt tới, và bởi vì họ có liên quan nên họ phải đến đây, tất cả bọn họ, cùng nhau". Miệng bà mím lại thành nét kiên quyết quen thuộc, mắt tối sẫm lại lóng lánh.
      Paula quan tâm: "Bà phải hứa với cháu là bà để họ làm bà khó chịu", và để ý thấy vẻ biểu nét mặt Emma. "Và bà cũng nên lo lắng về công việc gia đình cuối tuần này. Nó quan trọng đến nỗi thể chờ đợi được sao?", hỏi cách hung dữ.
      "Ồ, phải chuyện sống còn đến như vậy đâu", Emma và nhún vai cách thoái thác. "Chỉ là số chi tiết có liên quan tới quỹ tơrơt. Nó lâu đâu và bà để họ quấy rầy bà đâu". nụ cười nửa miệng thoáng qua nét mặt bà. "Thực ra mà , bà lại trông chờ nó".
      "Cháu chắc là cháu có mong đợi nó hay ", Paula cách thận trọng. "Cháu có thể xem bản sơ đồ chỗ ngồi ạ?"
      "Tất nhiên rồi, cháu ", Emma nhích người để tay vào trong túi. Bà sờ nắn mảnh giấy và do dự, rồi hít hơi dài, bà rút nó ra. "Đây", bà đưa cho Paula,chờ đợi, người cứng lại, dám thở nữa.
      Đôi mắt Paula lướt nhanh tờ giấy. Emma theo dõi chặt. Dôi mắt dừng lại, mở to. Các chuyển động tiếp. Lại quay trở lại chỗ cũ. nét nhìn hoàn toàn thể tin được lướt qua khuôn mặt . "Tại sao bà? Tại sao?", giọng cất cao lên giận dữ và tờ giấy bay sàn. Emma yên lặng, đợi cho ngạc nhiên ban đầu qua , cho Paula bình tĩnh trở lại.
      "Tại sao?", Paula chất vấn. nhảy lện mặt trắng bệch, miệng run run. "Bà có quyền mời Jim Feli tối mai. ta phải là người trong gia đình. Cháu muốn ấy ở đây. Cháu cho ấy đến đây. Cháu cho! Cháu cho! Tại sao bà có thể làm như vậy, bà ơi!"
      chạy ra cửa sổ. Emma có thể thấy vật lộn để trấn tĩnh. Đôi vai gầy của nhô lên, ép trán vào khung cửa kính, xương vai nhô lên dưới làn áo lụa. Trái tim Emma thắt lại vì thương, bà cảm thấy nỗi đau đớn của cháu cũng sâu sắc như chính đau đớn của mình.
      "Cháu lại đây, ngồi xuống. Bà muốn chuyện với cháu, cháu thân ", Emma nhàng.
      Paula quay nhanh người lại, đôi mắt sẫm trông như màu xanh nước biển. "Cháu muốn chuyện với bà, ít nhất là phải về Jim Feli". đứng sững bên cửa sổ, thách thức, oánh trách, giận dữ sục sôi. Người run lên, tay nắm vào nhau rồi lại mở ra hết sức kích động. Tại sao bà lại có thể vô ý đến thế? Mời Jim Feli đến dùng bữa tối là điều tàn nhẫn, đẹp và bao giờ biết bà lại là người như thế. quay lưng lại Emma và lại tì trán vào khung cửa sổ, nhìn ra những ngọn cây xanh, nhưng nhìn thấy gì hết, nuốt những dòng lệ ầng ậc trong mắt.
      Emma đột nhiên thấy trẻ trung, yếu ớt cách đáng thương. Nó là điều duy nhất có giá trị mà ta thương, Emma nghĩ, trái tim bà thắt lại trong thương. "Trong tất cả các đứa cháu của mình, nó là đứa ta quý nhất. Cuộc đời gian khổ khủng khiếp của ta chỉ đáng được đền bù lại vì niềm vui có nó. Đứa con này, đứa con mạnh mẽ, bất khuất, dũng cảm, trung thành, luôn luôn đặt những ước muốn của ta lên hạnh phúc riêng của nó.
      "Lại đây, cháu. Bà có chuyện phải với cháu".
      Paula ngó nhìn Emma mơ màng như trong cơn choáng. miễn cưỡng trở lại bên lò sưởi, như người mộng du, nét mặt trống rỗng. vẫn còn điên khùng nhưng run rẩy hết. Đôi mắt dửng dưng và đờ đẫn như hai viên đá da trời khuôn mặt xám màu tro. ngồi thẳng cứng ghế, có cái gì chất chứa nhượng bộ trong con người khiến Emma kinh hoàng, bà biết bà phải nhanh chóng giải thích để cho nét nhìn ấy rời khỏi cháu bà mãi mãi. Emma lựa chọn cách gián tiếp để thông báo cho Paula biết là bà mời Jim Feli đến ăn tối, bởi vì bà tự tin ở mình khi ra điều đó. Nhưng bây giờ bà phải . Giải thích. Đưa ra khỏi nỗi dày vò khủng khiếp.
      "Paula, bà mời Jim Feli ngày mai, bởi vì ta gián tiếp có dính dáng đến những công việc của gia đình ta, bà với cháu trước đó". Bà ngừng lại hít hơi rồi tiếp cách kiên quyết hơn, nhìn đăm đăm vào mặt Paula: "Nhưng đó phải là lý do duy nhất. Bà cũng mời ta đến cho cháu. Và bà có thể thêm là ta rất sung sướng nhận lời".
      Paula sững sờ, sao tin nổi. nét ửng sẫm nổi lên từ cổ làm mặt đỏ tía tai, miệng bắt đầu run rẩy. "Cháu hiểu...mời ấy đến cho cháu...", chếnh choáng và bối rối. Trong lúc kích động, tóc tung ra, gạt nó sang bên cách nóng nảy, lắc đầu bàng hoàng: "Bà gì hả bà? Bà bao giờ cũng căm ghét nhà Feli cơ mà? Cháu hiểu?".
      Emma cố gắng đứng lên, tới ngồi ghế xôpha. Bà cầm lấy bàn tay búp măng đẹp của Paula trong đôi bàn tay bé cứng rắn của bà. Bà nhìn Paula, tim thắt lại khi nhìn vào đôi mắt , những vùng nhợt nhạt khuôn mặt đầy những đau đớn. Emma sờ khuôn mặt xanh xao ấy, bà mỉm cười dịu dàng và bằng giọng thào khàn khàn: "Bà là người già nua, Paula ạ. bà già ngang ngạnh, chiến đấu từng phân để có được những thứ như bây giờ. Mạnh mẽ, đúng, nhưng cũng mệt mỏi. Cay đắng, có lẽ là như thế. Nhưng bà cũng thu được số khôn ngoan nào đó trong cuộc đấu tranh của bà với cuộc sống, cuộc đấu tranh để sống còn và hôm nọ bà tự hỏi mình tại sao lòng tự hào ngu ngốc của bà già ngang ngạnh lại cản đường người mà bà nhất đời này. Bà mới thấy là mình ích kỷ, ngu ngốc và để cho những việc của 60 năm trước đây che mờ phán đoán của mình ngày nay."
      "Cháu vẫn hiểu", Paula lẩm bẩm, con mắt lộ bối rối.
      "Bà định với cháu là bà còn phản đối việc cháu gặp Jim Feli nữa. Hôm qua bà chuyện rất lâu với nó, trong đó bà nhận thấy được rằng tình cảm của nó đối với cháu vẫn thế. Và bao giờ nó cũng có những ý định rất nghiêm chỉnh. Trưa hômm nay bà với nó rằng nếu nó muốn cưới cháu những nó được phép của bà, mà bà còn ban phước cho nó nữa. Bà ban phước cho cả hai con với tất cả tình của bà".
      Paula lặng người. Trí óc của nhận những lời của bà . Từ nhiều tháng nay, căn dặn mình được nghĩ tới Jim và cuối cùng thừa nhận rằng thể có tương lai gì cho hai người. khắt khe với mình, đẩy tất cả mọi xúc động, mọi tình cảm sang bên, dồn nghị lực của mình vào công việc trong nỗi đau khổ tột cùng. Qua màn mờ mờ của những dòng nước mắt, nhìn thấy khuôn mặt Emma, khuôn mặt từng nhìn và từng thương suốt đời mình. Bộ mặt ấy tin tưởng. Emma mỉm cười trìu mến chờ đợi, đôi mắt bà thông minh, thông cảm và đầy thương. Nước mắt lặng lẽ rơi má Paula, lắc đầu: "Cháu thể tin là bà lại thay đổi ý kiến", , giọng nghẹn ngào.
      "Bà thay đổi ý kiến".
      Mấy chữ đơn giản ấy được lên cách kiên quyết và chắc chắn cuối cùng lọt vào đầu óc đau đớn của Paula, vào trái tim tan nát của . bắt đầu thổn thức, cả thân hình rung lên, những tình cảm dồn nén được cởi bỏ. rũ người về phía trước, với lấy Emma cách mù loà, bà ôm trong tay như đứa trẻ, vuốt ve mái tóc , lẩm bẩm khe khẽ với y như bà vẫn từng làm ngày nào khi còn bé dại. " sao mà. Thôi nín con. Bà hứa với con là sao đâu".
      Cuối cùng tiếng nức nở lắng . Paula ngước lên nhìn Emma, nụ cười run rẩy mặt nàng. Emma lấy tay lau nước mắt cho nàng, nhìn nàng chăm chú và : "Bà bao giờ muốn thấy con bất hạnh nữa chừng nào bà còn sống. Bà có đủ nỗi bất hạnh cho cả hai chúng ta rồi".
      "Cháu còn biết thế nào. Cháu tê dại. Cháu thể nào tin được điều ấy", Paula trả lời lặng lẽ. "Jim. Jim ơi!".
      Emma gật đầu: "Bà biết tình cảm của cháu", bà , đôi mắt mệt mỏi của bà sáng lên. "Nào, sao bây giờ cháu giúp bà việc, gọi Jim nào. Nó vẫn còn ở chỗ toà báo đấy. là nó đợi cháu. Nếu cháu muốn mời nó đến ăn cơm tối nay. Hay là tốt hơn nữa hãy lái xe Lidơ, ăn bữa tối với nó. Bà có Emilie và Sarah đer chuyện rồi, và có lẽ Alexandre và những người khác cũng tới kịp để ăn bữa tối". Bà cưới , đôi mắt bà long lanh. "Bà còn có các cháu khác mà, cháu biết đó". Paula ôm và hôn bà, rồi , bay ra khỏi phòng thêm lời nào nữa.
      Cánh chắp cho đôi chân con bé, Emma nghĩ, để tới chỗ người . Bà ngồi lúc xôpha, đầu óc ngổn ngang những ý nghĩ về Paula, Jim và biết bao nhiêu điều khác. Rồi bà bất chợt đứng lên, đột ngột về phía cửa sổ, duỗi chân tay cứng lại của mình, lấy tay vuốt nếp áo, sửa lại mái tóc. Bà mở cánh cửa sổ bọc chì và nhìn ra ngoài.
      Phía dưới, ở trong vườn, các cây cối lung linh trong khí buổi chiều dịu mát, mọi thứ đều xanh sẫm và lặng ngắt như tờ. ngọn cỏ, chiếc lá nào lay động, chim muông cũng im tiếng hót. Bà có thể thấy những bông thủy tiên nhanh chóng bạc mất màu sắc rực rỡ, nhợt thành màu trắng khi mặt trời lặn và những hàng rào cây tạo hình dần dần ngả màu đen. Bà đứng đó lâu trong buổi chạng vạng, nhìn hoàng hôn dần xuống khi ánh sáng pha lê ở phương Bắc nhạt phai phía sau dãy đồi thấp ở chân trời. Sương mù bềnh bồng trôi vào trong vườn, bọc lấy tất cả mọi thứ trong tấm khăn san hơi nước màu trắng đục đột ngột dâng lên, làm tối lại những hàng cây, những bụi cỏ và hàng hiên cổ, cho đến khi tất cả những hình ảnh ấy hoà lại cùng nhau.
      Emma run run khép cửa sổ lại, quay trở vào cái ấm áp và tiện nghi của căn phòng. Bà bước qua tấm thảm, cầm que cời lửa và thêm những khúc củi vào lò sưởi để tạo nên ngọn lửa reo vang mà bà ưa thích.
      Bà ngồi bên lò sưởi nhìn vào ngọn lửa, hài lòng và yên ổn, những kỷ niệm quên lãng của tuổi trẻ ùa vào tâm trí bà trong khi bà chờ đợi những đứa cháu khác tới. Bà nghĩ đến gia đình Feli. Bọn họ giờ đây tất cả ra , chỉ trừ James Arthur Feli, người cuối cùng trong dòng họ. "Tại sao nó cần phải đau khổ, cả Paula nữa vì những sai lầm của thế hệ chết?", bà tự hỏi mình rồi nghĩ: "Mình làm như thế là phải. Đó là món quà tặng của ta cho con . Cho cả hai đứa chúng nó". Bên ngoài, trời tối hơn và trong căn phòng mờ mờ, ánh sáng lò sưởi hắt những chiếc bóng kỳ lạ và huyền bí, qua những bức tường, trần nhà và trong những bóng tối ấy, bà thấy nhiều bộ mặt xưa cũ quen thuộc. Bạn của bà. Kẻ thù của bà. Tất cả bọn họ đều chết từ lâu. Những bóng ma...chỉ là những bóng ma thể nào sờ được vào bà. Cuộc sống như vòng tròn, bà suy tư. Cuộc đời của ta bắt đầu với gia đình nhà Feli và nó kết thúc với họ. Hai điểm ấy bây giờ tiếp nối và làm thành vòng tròn.

    2. dinh huong

      dinh huong Member

      Bài viết:
      183
      Được thích:
      0
      Chương 5


      "Mẹ...mẹ ơi, mẹ tỉnh ngủ chưa?", Emma gọi khe khẽ từ ngoài cửa. có tiếng trả lời.
      dò dẫm gần cửa, tai căng ra để nghe từng thanh nhất, nhưng căn phòng yên lặng như nấm mồ. run run kéo chiếc khăn voan mỏng quanh đôi vai mảnh dẻ, run lên trong chiếc áo ngủ mỏng trước cái lạnh buốt da thịt trước lúc bình minh.
      "Mẹ, mẹ ơi , gọi trong tiếng thào thôi thúc và bò gần hơn vào trong phòng, nhích cách cẩn thận, dò dẫm loanh quanh giữa những đồ đạc rẻ tiền, mắt vẫn chưa quen với bóng tối. hầu như thở nổi, mùi khí là tanh tưởi. rùng mình, thoáng khó chịu vì mùi tường mốc, khăn trải giường bẩn và mồ hôi kết lại. ràng đó là mùi của nghèo khó, bệnh tật. nín hơn và bước lên. Khi đến bên chiếc giường sắt, trái tim như ngừng đập khi nhìn xuống người đàn bà ốm nằm bất động dưới đống chăn mền lộn xộn. Mẹ hấp hối. Có lẽ là chết rồi? hốt hoảng sợ hãi làm rung tấm thân gầy bé, run lên sao kiềm chế nổi. cúi xuống, áp mặt mình vào thân thể mẹ , ráng sức về phía cái hình hài mỏng manh đó y như để truyền cho nó sức mạnh mới, sức sống mới. nhắm nghiền mắt lại, đọc thầm bài kinh cầu, cuồng nhiệt và van lơn, tất cả sức tập trung của dồn cả vào đó.
      Rồi mở mắt và bắt đầu vuốt ve nhàng cái trán hầm hập của mẹ. Trong ánh sáng lung linh của ngọn nến xíu, nét mặt người đàn bà vốn xanh xao bây giờ chỉ là cái bóng màu xám tro và những giọt mồ hôi lóng lánh tạo thành màn ma quái trong ánh sáng yếu ớt. Mái tóc nâu thời dày và óng mượt, bây giờ trở thành những mớ rối bù vắt qua cái trán ẩm mồ hôi, xoã tung nét mặt mà cái đau đớn và khổ sở cũng hoàn toàn xoá được những dấu vết của vẻ đẹp dịu dàng thời thiếu nữ, bị tan tác tàn phá của nghèo khổ, cùng cực bởi những năm vật lộn để sống còn và cuối cùng bởi bệnh tật tàn khốc chết người này. Bà mới chưa đầy 34 tuổi.
      Căn phòng của bà là phòng của người ốm, bởi vì nó chứa đựng rất ít những thứ tiện nghi còn đẹp đẽ, chút thú vui nào của cuộc đời. Giường là thứ đồ đạc lớn nhất và chiếm gần hết chỗ dưới mái chìa dốc, nhưng nó được chăm nom cẩn thận vì Emma chỉ có thể thay khăn trải giường tuần lần khi từ Feli Hôn, nơi làm việc, trở về.
      Elisabeth cựa quậy thoải mái. "Có phải Emma đấy ?", giọng bà yếu ớt vì quá mệt mỏi và hầu như nghe thấy được.
      "Vâng mẹ ơi, con đây", kêu lên và nắm lấy tay mẹ.
      "Mấy giờ rồi con?"
      "4h mẹ ạ. Con xin lỗi làm mẹ thức giấc nhưng con muốn biết chắc là mẹ sao trước khi con Hôn"
      Elisabeth thở dài: "Ờ, con ạ, mẹ cũng ốm lắm đâu. Đừng cuống lên như thế, lát nữa mẹ dậy, và...", bà bắt đầu ho dữ dội, đưa bàn tay gầy guộc lên ngực cố giữ cơn ho làm rung động toàn thân. Emma rót thuốc vào chiếc bình bàn, vòng tay qua người mẹ đỡ bà lên để bà có thể uống từ bình. Dần dần tiếng khò khè ương bướng trong ngực mẹ giảm dần di và cuối cùng, dù bị hút hơi vì gắng sức nhưng bà cũng có thể được.
      "Tốt hơn hết là con nên xuống xem ba con và mọi người thế nào, con . Mẹ nghỉ chút và có lẽ trước khi con làm, con nên cho mẹ chút trà". Cơn sốt trong ánh mắt bà dịu , dà dường như nhận thức được những cái chung quanh mình, thấy được hơn người con đứng bên giường.
      Emma cúi xuống hôn má nhăn nheo của mẹ cách trìu mến, kéo mền đắp lên vai bà cách sàng: "Vâng, con mang lên". nhàng ra khỏi phòng, chạy lao xuống cầu thang đá hẹp. Những tiếng oang oang cao giọng cất lên đập vào tai giữa lưng chừng cầu thang. Emma đứng sững lại, hít hơi mạnh, tim như rụng xuống. Winston, trai , và ba lại cãi nhau và hung bạo của họ quá qua giọng . Cái ý nghĩ họ có thể làm phiền tới mẹ làm Emma lạnh toát người. nén cái tiếng hét kinh hãi thốt lên nửa chừng, lấy đôi bàn tay ráp bịt miệng và ngồi cách nặng nề xuống những bậc đá lạnh.
      "Đồ điên rồ", Emma to. "Những người lớn hành động như những đứa trẻ, họ quá ích kỷ nghĩ tới người mẹ khốn khổ của mình". Ý nghĩ này làm kích động, nhảy lên, nôn nao ốm yếu được thay thế bằng nỗi căm giận lạnh lùng ngày môt tăng. đẩy cửa bếp, đứng sững thẳng người ở bậc cửa, tay nắm chặt lấy khung cửa, mắt ánh lên màu đá.
      Giăc Hactơ là người đàn ông to lớn. ủng, chỉ với đôi chân tất, ông cao 6 fut 2 (mỗi fut = 0.3048m), người thẳng băng. Ông đứng cao vượt lên đứa con trai cả Winston của mình, nắm đấm giơ cao giận dữ và sẵn sàng giáng xuống mạnh. Khuôn mặt ông toát lên giận dữ của núi lửa, mắt loé lên cách nguy hiểm. "Mày có vào thuỷ quân gì hết, đây là lần cuối cùng tao nghe mày về chuyện ấy trong cái nhà này. Mày còn chưa đến tuổi và đừng hòng mày được phép của tao. Bây giờ hãy bỏ chuyện ấy và đừng bao giờ nhắc tới nữa, ông cả Winston của chúng tôi ạ, nếu ông thấy tôi quật ngang lưng ông đó. Ông chưa đủ tuổi để mà bỏ trốn đâu, ông cả ạ. Và chớ có quên điều đó".
      Winston trừng mắt nhìn cha, bộ mặt đẹp trai ửng lên và nhăn nhúm lại vì giận dữ điên khùng, đôi mắt xanh của cậu lạnh băng: "Nếu con muốn , con . Ba thể cản được con nếu con muốn bỏ , mà thế nào con cũng bỏ , khỏi cái lỗ bị Chúa quên lãng này. Ở đây bây giờ chỉ có nghèo khổ khốn cùng và hấp hối".
      "Con khỉ, mày cãi lại tao hử? Để rồi xem".
      Cậu con trai nhúc nhích trong giây, rồi cơn giận bung ra trong đầu, cậu bước lên, giơ cánh tay như định đánh cha. Nhưng qua màn sương choáng váng của cơn giận mù quáng, cậu nhìn thấy cái gì đe doạ trong đôi mắt ấy, cầu lùi lại, hoang mang kinh sợ vì sức mạnh của cha mình.Mặc dù cao và lực lưỡng như bố, nhưng Winston vóc người cân đối, khoẻ mạnh, cậu được tạo nên bởi chất liệu thanh tú hơn, giống mẹ của cậu hơn.Cậu bé 15 tuổi ngày càng nhận thấy vẻ ưa nhìn của mình và cậu biết đó là tài sản lớn nhất của cậu.
      "Cậu cả Winston, cậu đừng tưởng là tao biết điều đó. Tao dạy mày cách giơ tay đánh tao. Tao cho mày trận để nhớ đời, mà đời mày dài đấy", ông bố vừa vừa bắt đầu cởi thắt lưng da, rút nó cách vội vàng trong lúc nóng nảy và quấn nó quanh bàn tay phải, rồi tiến về phía cậu con trai cách hăm doạ với sức mạnh ghê gớm.
      "A, ba doạ được con đâu", Winston kêu lên, nhưng lại lùi lại phía sau bàn đứng, để chiếc bàn ngăn cách an toàn giữa hai người. "Ba dám đánh tôi đâu. Mẹ tôi bao giờ tha thứ cho ba nếu ba quật cái dây ấy vào người tôi", cậu cảnh cáo.
      Giăc Hactơ dường như nghe thấy những lời đó. Ông tiến lên nhanh nhẹn và khéo léo, chiếc thắt lưng da đen đung đưa cách ghê sợ trong bàn tay nắm chặt. Ông giơ cánh tay lên, và hẳn là giáng xuống cậu bé nếu như Emma chạy băng qua phòng đúng lúc và nhảy chồm lên trươc mặt cha mình. nắm lấy cánh tay ông, dùng hết sức mạnh của đôi tay giữ lại. Khuôn mặt hốc hác trong ánh lửa và run hết cả người vì giận dữ. đứng trước mặt cha hề nao núng. là người duy nhất dám thách thức ông, người có can đảm đương đầu với ông. Và thường làm dịu được cơn giận dữ của ông, làm ông nhu mì trở lại.
      Mặc dù giọng của lặng lẽ nhưng có sức mạnh trong từng từ: "Yên , ba. Ba làm sao thế? Hò hét, chửi bới vào cái giờ này trong khi mẹ nằm ốm nặng gác. Đáng lẽ ba phải biết hơn ai hết chứ. Ba phải tự xấu hổ chứ. Thôi hãy ngồi xuống mà uống trà chính con bỏ đấy, và lúc đó tất cả tan tác phương nào, hả?" giữ chặt cánh tay giơ lên của cha, dỗ dành bằng giọng nhàng hơn: "Nào, ba, đừng ương bướng nữa. Winston của chúng ta trốn vào thuỷ quân đâu. ấy khoác đấy thôi".
      " Bôxi Nichcơ, nghĩ vậy sao?", Winston chen vào cách giận dữ từ góc phòng bên kia. "Lần đầu tiên trong cuộc đời ngắn ngủi của , lầm, Emma ạ. Tôi đấy, phải, đấy".
      Emma quay lại, đối diện với , gắng để tự kiềm chế: "Thôi Winston" - rít lên- " giết chết mẹ. Mẹ ốm nặng. Và hãy ngừng cái câu chuyện ngu xuẩn vào thuỷ quân . Ba đúng đấy, còn quá trẻ. Và làm tan nát trái tim mẹ nếu bỏ . Vì thế mà thôi , thôi ngay".

      Đôi mắt Winston loé lên bực bội và thù hận xa lạ. " Bôxi Nichcơ, làm tôi phát ốm. Lúc nào cũng chen ngang vào. hãy lo lấy việc của , bây giờ chỉ là bé con, biết cái gì, Emma Hactơ?"
      nanh nọc trong giọng của cậu, nhưng cậu lùi lại dưới cái nhìn như xoáy và ánh mắt đầy lạnh lùng của . Dáng vẻ là dáng vẻ lãnh đạm, cố tình quay lưng lại cậu. Winston có nhận thức mơ hồ là cậu sợ em mình. giống sợ hãi với sức mạnh của cha cậu, nhưng ở cách hoàn toàn khác mà cậu thể hiểu nổi. Như để làm sai lạc tình cảm của mình, cậu hít hơi và kêu to: "Bà cụ non quá đấy, Emma Hactơ. là như thế đó".
      Emma phớt lờ cáu giận cuối cùng này, mím chặt môi, buộc mình trả lời. Ông Giắc mơ hồ cảm thấy trao đổi hung hăng giữa hai người con lớn, ông để vài giây cho nguôi cơn giận. Giờ đây, ông chậm chạp quay cái đầu như sư tử ngắm nhìn con trai với chăm chú soi mói: "Thế là đủ rồi, Winston. Để yên em mày đấy, hôm nay mày gây nhiều rắc rối rồi và tao quên điều đó trong thời gian rất dài đấy".
      "Nó cứ luôn luôn dính mũi vào công việc của con", Winston nhưng ngừng ngay lại khi nhìn thấy cơn tức giận trong đôi mắt cha. Ông Giăc cựa quậy bồn chồn trong bàn tay nắm lỏng dần của Emma, và Winston biết quá nên chọc tức ông them nữa. Cậu lén nhàng như con mèo tới cuối bếp, nơi Frank cậu em trai út rúm người lại vì sợ hãi, và rền rĩ trong buổi va chạm giữa cha và .
      Emma quay sang phía ba , nắm cánh tay ông và nhàng: "Nào, ba ngồi xuống ". Trong lúc, Giắc Hactơ chịu theo cái áp lực kiên quyết nhưng nhàng của đôi tay con thân thể cuồn cuộn cơ bắp của ông. Ông cúi nhìn con , thấy nó gầy quá, ông biết thoát khỏi vòng tay nắm giữ của nó mới dễ làm sao, chỉ cần hất cổ tay cái là ông có thể hất cái thân thể mỏng manh của bay sang bên kia phòng. Nhưng ông bao giờ đánh Emma, và bao giờ đánh . Ông buông lỏng người và cho phép dìu ông vào ghế. Ông nhìn vào khuôn mặt xanh xao ấy thường thường rất trang nghiêm và suy tư, vẫn còn méo mó vì buồn phiền. Ông xúc động. Tất cả các con cái ông, chỉ có mỗi Emma mới làm ông xúc động được. Và trong khi ngắm con , người con duy nhất dám thách thức ông, Giăc lớn bỗng nhận thức cách ràng ông đương đầu với ý chí thể lay chuyển được. ý chí đúc bằng sắt là đáng sợ. Cái dáng vẻ bé bất khuất ấy làm ông xúc động, xen lẫn tự hào và sợ hãi. Ông tự hào về sức mạnh của Emma và cũng thấy lo sợ thay cho vì cái sức mạnh ấy, nó đẩy vào tình thế khó khăn ngày nào đó, điều ấy ông hoàn toàn chắc. tinh thần độc lập, và trong cái thế giới của họ có chỗ cho những tinh thần độc lập. Giai cấp của họ thể tránh khỏi bị dẫm lên bởi gót giày những ông chủ. Ý chí hung bạo của Emma bị bẻ gãy và ông lo sợ cho cái ngày đó. Ông cầu nguyện mình có mặt để chứng kiến cái cảnh đó, bởi vì nó làm con tim ông tan nát cũng như trái tim con ông tan nát.
      Khi ông tiếp tục nhìn con mình, ông thấy nó cách ràng lần đầu tiên trong nhiều năm. Ông thấy cái thân thể thiếu ăn của nó, cái cổ gầy, đôi vai khẳng khiu dưới chiếc áo ngủ bé nhàu nát. Nhưng ông cũng nhìn thấy điều khác. Ông thấy cái trong suốt của làn da trắng như tuyết còn đọng lại những mỏm đá cao nhất. Ông nhìn thấy đôi mắt long lanh đầy ánh lửa màu ngọc lục bảo giống hệt đôi mắt ông. Ông thấy mái tóc dày màu nâu đỏ hất cao vầng trán kiêu kỳ, ông thấy trong thân hình trẻ con chưa nảy nở bắt đầu của vẻ đẹp. Nhưng biết có bao giờ vẻ đẹp ấy nở hoa ? Trái tim ông nhức nhối và hình như rung chuyển với cơn đau thể chịu nổi, và tràn đầy nỗi căm giận và đau buồn sâu xa khi ông nghĩ tới cuộc sống lao dịch phía trước. Bây giờ nó là kẻ lao dịch, ở đây và ở Feli Hôn, mà nó còn thế.
      Giọng của con nhàng đưa ông ra khỏi dòng suy nghĩ: "Ba ơi, ba thấy trong người thế nào?
      "Ba sao hết, con ạ. Con thăm mẹ chưa? Mẹ con thế nào?"
      "Mẹ hơi mệt chút trước khi con đến, nhưng bây giờ mẹ nghỉ. Lát nữa con mang lên cho mẹ ít trà"
      bắt đầu chỗ khác, ông mỉm cười với , hàm răng trắng loá lên, mắt âu yếm, nhưng đáp lại cách trìu mến thường lệ như ông mong đợi. chỉ vỗ vỗ vào cánh tay ông, nhìn ông lâu, và ông cảm thấy như bị trách móc và xấu hổ vì chính con ông, như thể ông là con là phụ huynh. Và điều ấy làm ông phiền lòng ghê gớm vì Emma là con cưng của ông, ông hiểu tình sâu sắc nhất đối với mình. Ông muốn hình ảnh của mình xấu trong mắt , quý trọng của là rất cần thiết. cách máy móc, ông nhấc đôi ủng của mình khỏi lò. bắt đầu muộn và ông phải tới lò gạch Feli nơi ông và Winston làm việc, mắt cả tiếng đồng hồ mới bộ đến đó được.
      Emma ngang qua bếp với nghị lực và mục đích mới. muốn xua tan cái khí này, đưa mọi việc trở lại bình thường. nhìn Frank ngồi bên bộ đồ trà, cậu lại bình tĩnh trở lại và hết sức chăm chú chuẩn bị bánh sandwich cho bữa trưa và bữa nghỉ uống trà mà họ mang làm. vội tới giúp em, xắn tay áo lên vẻ xăm xắn.
      "Frank, em làm gì thế?", kêu lên và mắt mở to ngạc nhiên, đầu lắc lư. "Gạt mỡ thịt quay kiểu gì như là có ngày mai nữa ". cầm lấy con dao từ tay cậu bé giật mình, tặc lưỡi vẻ bực bội, bắt đầu vét bớt ít bơ khỏi bánh mì. Những chỗ vét lại, cho cách tiết kiệm vào chiếc lọ đá nâu để cái thớt gỗ: "Chúng ta chưa phải tầng lớp quý tộc đâu Frank ạ", tiếp và khéo léo làm nốt những chiếc bánh.
      Frank lùi lại, môi dưới run run, đôi mắt hạt dẻ của cậu long lanh những giọt nóng bỏng, khuôn mặt bé của cậu dúm dó và sợ hãi. Frank 12 tuổi và bé . Cậu có mái tóc vàng hoe mềm như lông tơ vịt, nước da màu sữa, nét mặt dịu dàng đẹp như con . Cậu lấy làm hổ thẹn về cái bề ngoài dịu dàng của mình, làm cậu có những biệt danh như "Sissy, Nancy", ở nhà máy Feli, nơi cậu mót chỉ. Do huấn luyện thành thạo của Winston, cậu học cách đánh lại bằng nắm đấm, nhưng cậu thích bỏ , mặc những lời chế giễu, nhạo báng, đầu ngẩng cao, cậu phớt lờ tất. Đó là cung cách cậu áp dụng trong suốt cuộc đời, lúc nào cũng nhạy cảm và dễ chạm tự ái nhưng có khả năng nhẫn nhục cách tự hào và khinh miệt.
      Mớ tóc vàng xoã xuống mặt, cậu e dè gạt nó sang bên, quay lại phía Winston cách tội nghiệp: "Em có ý phá hại gì, Winston", cậu và nước mắt rơi xuống cặp má lốm đốm tàn nhang".
      Winston biết rằng cái chặc lưỡi càu nhàu của Emma về mỡ rán là vô hại. Cậu kéo Frank lại gần, ôm lấy nó cách an ủi trong vòng tay mình, giấu nụ cười và : " bao giờ nghĩ rằng mình lại sống tới cái ngày mà Emma của chúng ta trở thành cái tóp mỡ. nghĩ vài cái thói quen của cụ nhà Feli thấm vào Emma của chúng ta". Cậu cách hiền lành, tất cả thù hận biến khỏi mắt cậu.

      Emma lại như con thoi trước mặt họ, má ửng hồng trong ánh lửa từ lò sưởi bừng lên và làm cho tóc đầy ánh sáng vàng rực. hơ con dao trước mặt: " như thế được. Tôi phải là tóp mỡ. Có phải con là như thế , ba?", cầu cứu và lại tất tả chạy trước khi ông kịp trả lời. ", ông cụ Feli giàu đến nỗi chân vòng kiềng vì những đồ đồng, và có biết vì sao ? Bởi vì ông cụ bẻ quả lý làm đôi và cho con nửa. Thế đó". cách sôi nổi, mặc dù giận dữ, và vẻ bối rối nét mặt ửng hồng của . Winston biết trêu ghẹo của cậu trúng đích, vì Emma căm ghét keo kiệt và đây là buộc tội tệ hại nhất mà người ta có thể gán cho , dù là đùa chăng nữa.
      Hất đầu cách bực tức, cau có: "Cái mỡ đó dày đến 2 inch. thể ăn bánh sandwich như vậy được. Ăn như thế ốm mất. Nhất định ốm mất".
      Winston bắt đầu cười, thể kìm được vui thú của mình lâu hơn được nữa. Ông Giăc giật mình liếc nhìn cậu, đôi lông mày đen rậm nhíu lại khi nhìn cậu con trai cách bí . Nhưng ông thấy ngay là tiếng cười của cậu hề có ác ý khi ông cũng thấy Emma ngày càng bối rối. Khi ông nhìn từ cậu con trai này sang cậu khác, vui vẻ của các cậu bé lây sang ông. Ông bắt đầu cười khùng khục và vỗ đùi.
      Emma trợn mắt nhìn họ và dần dần nụ cười rụt rè lan ra khuôn mặt . Chính cũng cười. " là rùm beng cả lên vì chuyện mỡ", lẩm bẩm qua tiếng cười, lắc đầu và đặt con dao xuống. Frank ngỡ ngàng nhìn mọi người, lắc đầu hiểu và khi cậu nhận ra vui vẻ của họ là , cậu cũng cười, lau nước mắt bằng vạt áo sơ-mi xám. Emma ôm lấy em:" Đừng để tâm nhiều như vậy, Frank em. Chị có ý gì đâu, em quý ngốc nghếch ạ. Và đừng có lấy vạt áo mà chùi mũi", mắng em và vuốt tóc, hôn lên trán cậu cách âu yếm.
      khí thân mật và tình thương gia đình được lập lại cách thần kỳ. Emma thở dài nhõm và lại lăng xăng dọn dẹp. sờ vào bình trà. Hãy còn nóng. "Frank này, em mang hộ chị trà lên cho mẹ", và rót trà vào trong bình, cho thêm vào rất nhiều đường và sữa. "Ba xem hộ lửa cho con, ba nhé. Ba cứ tiếp lửa đợi đến khi dì Lily tới. Winston, hãy rửa những chiếc ấm cho em trong khi em chữa lại bánh xe cho . Ba nhớ đừng quên trông lửa nhé".
      đưa bình trà cho Frank: "Em hỏi mẹ xem mẹ có ăn bánh và mứt . Em nhanh lên nhé, còn bao nhiêu việc phải làm trước khi chị Hon". Frank cầm bình trà cẩn thận trong cả hai tay và vội vã qua phòng. Winston thu lượm những chiếc bình và đĩa bẩn bàn, đem chúng vào chậu rửa trong khi ông Giăc quay sang lò sưởi và xếp lại những khúc củi. Emma cười mình. Hoà bình được lập lại. bước về phía chảo và bắt đầu gói những chiếc bánh vào chiếc khăn ăn bông mà mẹ viền cách cẩn thận, thấm nước vào khăn để cho bánh khỏi bị khô.
      Ông Giăc nhìn Emma đứng bên chảo, hộp trà cầm trong tay ước lượng trà và đường cho họ, gói vào những mảnh giấy , buộc hai đầu lại với nhau cách chắc chắn để bị rơi vãi chút nào hết. "Con bị chết cóng trong cái áo ngủ mỏng manh ấy, Emma ạ, mà cái khăn ấy chẳng ấm áp gì đâu. Con mặc ấm vào, ở dưới này bây giờ mọi chuyện ngăn nắp đâu vào đấy rồi".
      "Vâng, con mặc, ba ạ. Con sắp đóng gói xong trà đường cho ba đây". và nở nụ cười rạng rỡ làm sáng ngời cả khuôn mặt nghiêm trang của . Đôi mắt , vốn sâu và xanh cách linh động, sáng lên, lóng lánh. chạy qua bếp tới chỗ cha. Ông cúi xuống mỉm cười với và hiểu rằng tình thương của với ông vẫn còn nguyên vẹn. Emma kiễng chân lên, vòng đôi cánh tay gầy vào cổ ông. kéo mặt ông xuống và hôn lên má ông: "Thứ 7 tới con lại gặp ba, ba nhé". Ông Giắc giữ lại lúc, đôi cánh tay gân guốc của ông vòng quanh , che chở, niềm âu yếm tràn ngập: "Ừ con, và hãy giữ sức khoẻ ở Hon đó nhé". Ông lẩm bẩm, giọng nghẹt . trước khi ông kịp lấy lại hơi thở, lướt qua phòng như tia chớp. Ông còn lại mình trong bếp.
      Ông thở dài, với lấy chiếc áo mắc sau cánh cửa. Ông lần tìm trong túi những sợi dây da , buộc quanh gấu quần để ngăn những bụi gạch bốc lên chân. Ông ngồi xuống bàn, thắt chúng lại, vừa làm vừa tự hỏi biết có nên cho Elisabeth biết là ông xin thôi việc ở nhà máy gạch . Ông cau mặt, đôi bàn tay khéo léo thít những chiếc nịt lại. Đây là quyết định khó khăn đối với ông, bởi vì công việc khan hiếm và nhiều người thất nghiệp. Ông phản đối công việc nặng nhọc, nhưng ông với Stan, trưởng kíp vào thứ 6 tuần trước: 18 shilling và 10 xu, chẳng có gì là nhiều để đem về nhà vào cuối tuần, Stan ạ. Mà tôi người có vợ và ba con. Tôi trách móc ai về các con tôi, ngoài chính tôi, ạ, nhưng cái ông lão Feli trả cho những đồng lương chết đói. Đúng là như vậy đó, Stan ạ, mà cũng biết". Ông , hăm hở nhưng lặng lẽ
      Stan lắc đầu, và mặc dù ông ta tỏ ra thiện cảm, ông cũng thể gặp cái nhìn chằm chằm của Giăc. "Đúng đó, bạn. Đó là tội ác chứ còn gì nữa. Nhưng có những kíp trưởng chỉ được 20 shilling tuần thôi. Tôi cũng được nhiều hơn. Tôi vẫn xoay xở được. Thôi, tuỳ cậu muốn làm gì làm, thôi thôi". Ông với Stan là ông thôi và ông miễn cưỡng đến nhà máy Feli vào sáng thứ bảy, mũ cầm trong tay, cố nuốt lòng tự hào của mình. Ông gặp người đốc công, bạn từ thở thơ ấu, người ký hợp đồng để ông bắt đầu làm việc trong tuần với tiền lương 20 shilling tuần, tuy được nhiều lắm nhưng cũng khá hơn. Ông suy nghĩ em có nên với vợ chuyện này , và ông đột ngột quyết định là . Bà biết ông ghét công việc ở nhà máy và như vậy chỉ làm bà buồn thêm, bệnh nặng thêm.
      Đồng hồ nhà thờ trong làng điểm 5 tiếng, ông đứng bật dậy, sải bước qua phòng nhàng như dáng của tất cả những người đàn ông cao lớn. Ông lên phòng vợ.
      Emma mặc quần áo đàng hoàng, đứng cùng Winston và Frank bên cạnh giường. Chúng như bộ ba bé thiểu não trong những bộ quần áo xám, cũ vá mạng. Những quần áo của chúng gọn ghẽ và sạch bong, với những khuôn mặt được kỳ rửa kỹ lưỡng, tóc chải cẩn thận. Và mỗi đứa trẻ, bề ngoài khác hẳn nhau, đều có vẻ tao nhã nổi bật lên , đến độ những áo quần sờn rách trở nên vô nghĩa. Chúng toát lên tư thế kỳ lạ khi chúng đứng đó với nét mặt trang nghiêm và lặng lẽ. Những đứa trẻ tách ra, lùi lại lấy lối cho Giăc khi ông bước vào phòng, đầy nghị lực, nụ cười vui vẻ môi.

      Elisabeth nằm tựa vào đống gối, xanh xao và suy nhược cách tội nghiệp, nhưng cái nhìn bừng bừng sốt mặt bà biến mất và bà tỏ ra bình thản hơn. Emma rửa mặt cho mẹ, chải tóc và quàng chiếc khăn san xanh quanh vai bà, càng làm tăng thêm màu xanh đôi mắt dễ thương, mớ tóc bà trải ra gối như những dải lụa mềm. vệt màu nào làm hoen ố màu trắng của khuôn mặt bà và đối với Giăc, trong ánh nến, nó giống như ngà khắc ông từng thấy ở châu Phi, được đẽo gọt sắc nét và thanh tao, gạt được những hình dáng thô lậu. Bà có dáng của hình tạc thu , thanh thoát. Mắt bà bừng lên khi thấy ông, bà duỗi đôi cánh tay gầy yếu ớt về phía ông và khi tới bên giường, ông kéo bà lại, gần như hung dữ áp chặt cái thân thể mỏng manh của bà vào tấm thân khoẻ mạnh cường tráng của ông, như thể bao giờ để cho bà nữa.
      "Trông em khỏe lên nhiều lắm, Elisabeth thân ", ông bằng giọng nhàng như ve vuốt làn khí. Hầu như còn nhận ra giọng của ông nữa.
      "Đúng thế, Giăc ạ", bà công nhận cách dũng cảm. "Tối nay khi làm về, em thức đợi . Em nấu cháo thịt cừu ngon cho , cả bánh hấp, cả bánh mì mới nướng".
      Ông buông bà ra nhàng và để lưng bà tựa vào gối. Khi ông nhìn vào bộ mặt hao mòn cách tội nghiệp, ông nhìn thấy nó như thực trạng lúc này, mà chỉ nhìn thấy người con đẹp ông từng giữ lại suốt đời mình. Bà nhìn ông với lòng tin và thán phục khiến trái tim ông thắt lại vì đau đớn, vì ông chẳng thể làm gì được để cứu bà. Và thôi thúc kỳ lạ ấy lại đến với ông, thôi thúc ngày càng mạnh mẽ khiến ông muốn bế bà lên trong đôi tay mình, đưa bà ra khỏi căn buồng nghèo hèn này và cùng bà chạy lên đỉnh đồi hoang, nơi bà vẫn hằng ao ước. Ở đó, những vùng đầm lầy, có mỏm đất cao, khí trong lành khoan khoái và bầu trời là ánh phản chiếu mênh mang của đôi mắt bà. Ông có cảm giác thể giải thích được, cái cảm giác huyền bí là mỏm ấy, cái căn bệnh này được cuốn khỏi thân thể bà, và bà được hồi sinh cách thần diệu.
      Nhưng màu oải hương và màn sương khói nhợt nhạt của những ngày mùa hạ dài dặc lúc này bị những cơn gió bấc xua tan. Nếu là mùa hạ, ông đưa bà lên đó. Đỉnh của Thế Giới, như bà vẫn gọi, và ông nằm xuống gò thạch nam giữa những cây dương xỉ và những lá việt quất non mềm mại. Họ ở bên nhau hài lòng trong vách đá Ramxđân cheo leo, được mặt trời sưởi ấm, chỉ có hai người bên nhau ngoài những con chim sẻ và sơn ca vỗ cánh trong ánh sáng vàng mờ mờ. thể làm như vậy được lúc này. Mặt đất cứng lại vì sương giá. Tháng Hai vùng đầm lầy man dại và hoang vu dưới bầu trời lạnh lẽo đầy mưa.
      " Giăc thân , có nghe em ? Đêm nay em thức, chúng mình cùng ăn bữa tối trước ngọn lửa lò như trước đây, trước khi em ốm". Có hoạt bát mới trong giọng của Elisabeth, kích động ràng là do có mặt của chồng.
      "Em được rời khỏi giường, em ", ông dặn dò với giọng khàn khàn. "Bác sĩ em phải nghỉ ngơi hoàn toàn. Lily của chúng ta lát nữa tới trông nom em và làm bữa tối cho chúng ta. Em phải hứa với được làm điều điên rồ. Nào, hứa với ".
      "Ôi, đừng cuống quýt lên như thế, Giăc Hactơ. Nhưng mà em hứa, nếu điều ấy làm vui. Em ở yên giường".
      Ông cúi xuống để chỉ mình bà nghe thấy: " em, Elisabeth. em", ông thào.
      Bà nhìn sâu trong mắt ông và thấy tình phản chiếu trong đó, hề thay đổi và vĩnh hằng. Và bà : "Em cũng , Giăc, cho đến ngày em chết và cả sau đó nữa".
      Ông hôn bà vội vàng, hầu như dám nhìn bà lần nữa và khi ông đứng lên khỏi giường, cử động của ông giần giật, ăn nhập, hình như ông còn làm chủ được thân thể to lớn của mình nữa. Ông qua phòng ngủ rảo ba bước . "Nào, Winston, hôn mẹ rồi ta làm. Chúng ta muộn rồi đó con", ông gọi to giật giọng.
      Winston và Frank mỗi người hôn mẹ cái rồi rời khỏi phòng, ra cửa lặng lẽ. Winston lời nào với Emma từ khi cậu trêu trong bếp trước đó, và bây giờ cậu mỉm nụ cười rất tươi và hồ hởi, từ đỉnh cầu thang: "Emma, hẹn gặp lại vào thứ Bảy. Tạm biệt em".
      vẫy tay và mỉm cười: "Tạm biệt Winston", rồi thêm như ý nghĩ chợt nảy ra: "Frank, em chuẩn bị làm . Chị xuống ngay và ta cùng ". Frank gật đầu, khuôn mặt xanh xao của cậu nghiêm chỉnh: "Vâng, chị Emma", cậu vừa vừa rảo bước xuống những bậc thang theo gót Winston.
      Emma ngồi nép bên giường: "Mẹ có cần gì trước khi con , mẹ?"
      Elisabeth lắc đầu: "Trà ngon lắm, con ạ. Mẹ chỉ cần có thế thôi cho đến khi dì Lily tới, mà mẹ cũng thấy đói".
      bao giờ đói hết. Bà khỏi bệnh làm sao được nếu như bà bao giờ ăn, Emma tự hỏi và với vui vẻ hề cảm thấy: "Vâng, nhưng mẹ phải ăn thức ăn dì Lily mang tới. Mẹ phải giữ gìn sức khỏe".
      Elisabeth cười yếu ớt: "Ừ, mẹ giữ gìn sức khỏe"
      "Con thổi tắt nến nhé", Emma hỏi, chuẩn bị .
      Elisabeth nhìn con âu yếm: "Ừ, khi nào con thổi tắt . Mẹ nghỉ chút. Con ngoan lắm, Emma ạ. Mẹ hiểu nếu có con mẹ biết làm sao. Thôi bây giờ con Hon . Bà Turner cho phép con về thăm mẹ vào giữa tuần, bà ấy tử tế và mẹ muốn cho con muộn".
      "Vâng, thưa mẹ", Emma thào, cố nuốt nước mắt. hôn mẹ hết sức âu yếm, kéo lại khăn trải giường, vỗ lại những chiếc gối, sắp lại mền khéo léo gọn gàng như thói quen. Khi kéo chăn trải giường chung quanh mẹ, : "Con cố gắng tìm cành thạch nam đường về vào thứ Bảy mẹ ạ. Có lẽ còn ít cành sương giá chưa kịp dập mất dưới vách đá".

    3. dinh huong

      dinh huong Member

      Bài viết:
      183
      Được thích:
      0
      Chương 6


      Giăc và Winston tới xưởng gạch, còn lại Frank mình trong bếp, bây giờ chỉ còn lờ mờ sáng bởi vì Giăc tắt ngọn đèn parafin như thói quen trước khi ông làm. Ánh sáng duy nhất từ ngọn nến đặt bàn, và ngọn lửa thỉnh thoảng loé lên làm căn phòng tràn ngập thứ ánh sáng óng ánh trong chốc lát. Những hình bóng mờ ảo lướt qua lướt lại trong bếp, gian ắng lặng trừ tiếng nổ lách tách của củi rít lên hoặc phùn phụt.
      Frank ngồi trong chiếc ghế dựa cao, bên lò sưởi, chiếc ghế làm người cậu như lùn , nó quá to, làm cậu thành bé và mong manh hẳn. Cậu xương, thanh tú, nhưng dẻo dai và kiên cường cách kỳ lạ, giống như con chó săn .
      Sáng hôm nay trông cậu hình như trơ trọi trong chiếc sơmi xám và chiếc quần lùng thùng mặc thừa của Winston, đôi chân cậu trong đôi bít tất xám mạng cẩn thận, đung đưa ở mép ghế trông tội nghiệp và quá yếu ớt để nâng đôi ủng lớn và xấu xí, cũng thừa hưởng từ ông trai. Nhưng thực tế mặc dù cái vẻ ngoài yếu đuối, Frank có chút gì là trơ trọi, bởi vì cậu có thế giới nội tâm đầy những hình ảnh đẹp, những giấc mơ bay bổng và những mong chờ làm cho cuộc sống hàng ngày của cậu hình như hoàn toàn quan trọng. Và cái thế giới hoàn hảo này chở che cho cậu khỏi cái khắc nghiệt của cuộc sống nghèo khổ, nuôi dưỡng cậu cách tuyệt diệu đến nỗi phần lớn thời gian cậu hoàn toàn quên lãng cái thiếu thốn và khắc khổ nơi cuộc sống của họ.
      Đứng về thực chất, Frank là cậu bé hạnh phúc, cậu hài lòng hoà vào cái thế giới tưởng tượng của mình, thế giới rực rỡ, phì nhiêu. Chỉ thời gian duy nhất cậu thấy thực u uất, đó là vào mùa hè năm ngoái khi cậu phải rời bỏ ngôi trường đạo trong làng. Cậu phải nhịn nhục đôi chút để chấp nhận cái thực trạng là cậu phải làm việc trong nhà máy cùng với những đứa trẻ khác, lượm những suốt chỉ hết. Cha cậu với cậu cách tiếc rẻ, nhưng cũng kiên quyết là họ cần thêm ít shilling cậu mang về hàng tuần, vì vậy cậu phải thôi học khi 12 tuổi. Cậu học sinh sắc sảo, ham học cách kỳ lạ, vươn tới tri thức cách nhanh chóng và thông hiểu đến độ làm giáo kinh ngạc. giáo nghĩ cậu là nhất, và rất buồn khi thấy số phận của cậu là ở nhà máy. biết cậu có những khả năng để có cuộc sống hơn thế nhiều lắm nếu được tạo cơ hội, nhưng cũng biết rằng cậu bị hoàn cảnh gia đình trói buộc.
      Mặc dù Frank còn được học nữa, nhưng cậu vẫn tiếp tục miệt mài tự học. Cậu đọc đọc lại bộ sưu tập sách ít ỏi, những cuốn sách sờn rách của mẹ và tất cả những gì cậu có thể kiếm được. Những từ ngữ đáng kinh hoàng và cũng thần kỳ đối với Frank, cậu chúng là sâu sắc đến độ gần như tôn kính. Cậu sắp xếp sắp xếp lại những câu cú trong đầu mình và liên tục viết những đoạn văn ngắn những mẩu giấy quý giá mà Emma đem về cho cậu từ Hon. Cậu luôn luôn bắt gặp những ý nghĩ trừu tượng, nó làm cậu bối rối và thách thức cậu, bởi vì, Frank Hactơ có trí tuệ thực , chân chính, trí tuệ được phát triển cách rực rỡ trong cuộc đời cậu sau này.
      Giờ đây, cậu ngồi nhìn chăm chú ngọn lửa, ca nước trà trong đôi tay vẻ sung sướng xuất thần nét mặt, đôi mắt mơ màng và xa xăm, nhìn thấy vô vàn những viễn cảnh trong ngọn lửa bập bùng.
      Cánh cửa kêu két, làm cậu giật mình ngẩng phắt lên nhìn quanh quất. Emma bước vào phòng lặng lẽ. Frank bắt đầu nhấm nháp nước trà, đôi mắt màu hạt dẻ nhìn lên mép ca, dõi theo những cử động của chị. dừng lại bên cửa sổ, vén rèm nhìn ra ngoài nhìn cậu: "Bên ngoài trời vẫn còn tối, chúng ta chưa cần phải vội. Chúng ta có thể đợi thêm chút nữa cho trời sáng hơn và chúng ta chạy đoạn đường tới Hon, như vậy chị bị chậm".
      Frank đặt chiếc ca lên lò sưởi và : "Ba đổ nước sôi vào đầy ấm và dặn em làm cho chị bánh sandwich, ở chảo đó".
      Emma nhìn chiếc bánh cách mệt mỏi, nhận thấy vẻ mặt chị, cậu cách chống chế: Em phết mỡ vào đâu, em đặt mỡ lên rồi gạt , đúng như chị bảo mà, chị Emma".
      nụ cười giấu nét mặt Emma, mắt nheo lại cách thích thú trong khi rót cho mình ca nước trà và để chiếc bánh lên đĩa. mang cả hai tới bên lò sưởi và ngồi đối diện Frank. nhai bánh cách lơ đãng, lòng vẫn còn lo lắng cho mẹ.
      Cậu em trai nhìn cách tư lự và hơi tò mò, bởi vì cậu có nhiều xúc cảm với Emma, người mà cậu kính phục. Cậu luôn tìm tán đồng của , nhưng trong lúc cố gắng chiều lòng , cậu thường làm những điều tức cười cách ngu ngốc khiến cậu cảm thấy bực tức. Tuy nhiên, điều đó cũng qua nhanh thôi. Có thán phục trong đôi mắt xám khi cậu ngả người về phía trước, cách tâm và hết sức nghiêm trang: "Em mừng là chị có thể ngăn được ba và đánh nhau. Em rất sợ khi họ la hét, chị Emma ạ".
      nhìn em lơ đãng, lạc trong những suy tư trong khi để đĩa xuống bệ lò sưởi: "Chị biết, nhưng mọi chuyện qua rồi mà em".
      "Ờ, nó vẫn làm em sợ", cậu nhanh. "Chính vì thế mà em mới phết mỡ lên quá nhiều, chị biết . Em run quá mà", cậu hết, cố gắng gỡ tội cho mình.
      Emma cười lớn: "Mù! láo biết ngượng mồm, Frankie", mắng.
      Cậu bé sửng cồ, thân hình gầy gò của cậu căng thẳng, đôi mắt hiền lành đột nhiên trở nên dữ tợn trong khi cậu kêu lên cách hăng hái: "Mẹ bảo chị được gọi em là Frankie cơ mà, chị Emma".
      Emma thấy cậu nghiêm chỉnh thực , mỉm cười : "Xin lỗi em, em đúng. Mẹ rất ghét những cái tên giễu cợt".
      Frank ngồi thẳng người ghế, làm vẻ tư thế quan trọng: "Mẹ em là con trai lớn, còn Frankie là cái tên trẻ con", cậu thốt lên bằng giọng the thé những hết sức nghiêm nghị.
      "Đúng, em lớn rồi", Emma trả lời và mỉm cười âu yếm. "Nào, chúng ta chuẩn bị ".
      mang cái đĩa ra chậu, rửa và lau khô nhanh, rồi quay lại bên lò sưởi. Emma cầm đôi ủng từ lòng lò nơi cha để vào cho ấm, ủng vào cách kiên quyết. trong khi buộc dây, Emma liếc nhìn Frank và nghĩ cách sốt ruột: "Đấy, nó lại mơ mộng rồi, nhưng mà những giấc mơ của nó rất tốt đối với nó". Emma ít có thời giờ đưa mình vào mơ tưởng, nhưng những lúc có thời giờ, những mơ tưởng ấy nó chắc chắn, thực tế và hề lãng mạn: áo ấm cho tất cả bọn họ; nhiều than đen đẹp trong hầm; tủ thức ăn đầy ắp thịt hun, những khoanh thịt bò, từng dãy hoa quả và rau đóng thành chai giống như phòng để thức ăn ở Hon. Và những đồng tiền vàng rủng rỉnh trong túi, đủ để mua tất cả những thức cần thiết và đồ xa xỉ cho mẹ , ủng mới cho cha . thở dài. Frank mơ ước có nhiều sách và thăm London, ngồi những chiếc xe sang trọng, xem hát, mơ ước những cuốn hoạ báo thỉnh thoảng mang từ Hon về. Và Winston mơ ước vào Hải quân, được khắp thế giới và những chuyến phiêu lưu ở những miền đất lạ. Frank và Winston mơ ước vui thú và vinh quang, Emma khi có giờ để mơ mơ ước được sống cho ra sống.
      lại thở dài. mong có thừa được vài shilling tuần để giúp đỡ họ, chẳng cần phải là những đồng tiền vàng. đứng lên dứt khoát, mặc áo khoác vào và gọi Frank: "Đừng ngồi đó ngây ra mà nhìn như con vịt con nữa, em. Mặc áo khoác vào. 6h kém 20 rồi đấy, và nếu chị gấp lên chị bị chậm mất".
      đưa cho Frank áo và khăn quàng, cậu quấn khăn quanh cổ. Emma chặc lưỡi, lắc đầu, lập tức tháo khăn của em ra rồi cuốn quanh đầu, buộc chặt dưới cằm cậu. nhặt chiếc mũ phớt đội chặt lên khăn, mặt kệ cậu dãy và phản đối.
      "Ôi, chị Emma, em thích quàng khăn cái lối này", cậu kêu lên. "Những thằng khác cười em, gọi em là thằng thò lò mũi".
      "Nếu ấm cái tai, và chị bảo với em là cần phải để ý đến những gì người ta về mình cơ mà, Frank. Nào, thôi nhanh nhẹn lên".
      quàng khăn của mình vào, đưa cho Frank chiếc hộp, nhìn quanh phòng lần nữa rồi thổi tắt nến. Nắm chặt lấy tay Frank, kéo em ra khỏi nhà.
      Chúng ngập ngay vào trong buổi bình minh đen, cái lạnh quất vào chúng từng đợt gió đầy sương giá. Hai đứa trẻ vội vã xuống con đường lát đá, qua những bụi uất kim hương và tử đinh hương héo hon băng giá trong khu vườn gầy guộc. Đất lạnh lẽo, cứng và trơ như đá. thanh duy nhất là tiếng rên rỉ của gió và giầy ủng của chúng nện đá lạnh. Căn nhà trong ngõ cụt nơi chúng sống ở cao làng Feli, phía sau là cái nền cao hơn của vùng đồng hoang mênh mông, quạnh hiu và mến khách, chỉ có những ánh sáng xanh xao loé lên nơi cửa sổ vài ba ngôi nhà là cho được người ta ý niệm có người ở. Khi chúng ra tới đầu đường, Frank ngước bộ mặt bé giá lạnh sang Emma và : "Em đến nhà dì Lily nhé".
      "Ừ, em với dì đến thăm mẹ sáng nay. với dì là mẹ có mê sảng chút, nhưng khi chị em mình mẹ yên rồi. Mà đừng chuyện với dì lâu quá đấy, em biết là đốc công của nhà máy đóng cửa lúc 6h đúng. Nếu em bị khoá ở ngoài em phải đợi cho đến 8h và họ trừ lương của em đấy. Chóng ngoan nhé. " hôn em rồi kéo chiếc mũ của cậu xuống cho chặt.
      "Chị có đợi cho đến khi em tới nhà dì Lily ?", Frank hỏi, hết sức cố gắng để khỏi tỏ ra sợ hãi. Emma gật đầu: "Ừ, cưng, em cứ ".
      Frank chạy vào sương mù, thỉnh thoảng lại trượt chân đá sỏi rất trơn. nhìn theo hình bóng nhoi của em lướt xuống phố cho đến khi cậu chỉ còn là cái bóng mờ trong làn ánh sáng đục. Nhưng có thể nghe thấy tiếng đôi ủng của cậu nện sỏi và khi chúng dừng lại, biết là em tới nhà dì. Tiếng gõ cửa to cùng với chiếc hộp thiếc làm an tâm là em mình thực đến nơi, cậu làm ồn đến nỗi đánh thức được cả người chết lẫn bà dì Lily, nghĩ, rồi lai ước giá như mình đừng nghĩ tới cái chết. Emma run lên khi quay hướng khác, về phía đồng hoang.
      hình bóng đơn nhưng thanh thoát trong chiếc váy dài màu đen và chiếc áo khoác cũ trở nên quá , khi bước cách lì lợm và can đảm về phía Feli Hon, thỉnh thoảng lại đưa mắt nhìn bầu trời nặng như chì và vùng đồng hoang u tối trải dài thành đường bất tận trước mắt.

    4. dinh huong

      dinh huong Member

      Bài viết:
      183
      Được thích:
      0
      Chương 7


      Những ngọn đồi nhấp nhô trùng điệp chế ngự làng Fairley và dải thung lũng Aire phía dưới luôn tối tăm và trầm mặc ngay cả trong lúc thời tiết tốt nhất. Nhưng khi mùa đông tiến hành cuộc bao vây dài dặc và khủng khiếp cảnh tượng trùm trong bức tranh màu xám dưới những đám mây màu tro, vùng đồng hoang mang vẻ hoang vu man dại, những đồi đá, những ngọn đồi trọc bị bóc mọi màu sắc cuộc sống. Mưa và tuyết tuôn xuống ngừng, gió từ biển Bắc thổi vào hung dữ và tàn khốc. Những ngọn đồi cát, u ám hơn vùng đồng hoang xanh của miền thung lũng đá vôi bên cạnh, tất cả là miền yên lặng mênh mông ngoài tiếng than vãn của gió, vì ngay đến muôn vàn những con suối núi và những dòng suối cuồn cuộn chảy làm bớt cái đơn điệu trong mùa xuân và mùa hè, nay bị băng giá và lặng thinh. Vùng cao nguyên đầm lầy rộng lớn này trải dài biết bao nhiêu dặm có người ở về phía Shipley và thành phố công nghiệp sầm uất Leeds ở phía bên kia. Nó có hình nét gì hết chỉ trừ vài vách đá cheo leo cao hun hút, vài cái cây đen thui, những bụi gai co quắp, những căn nhà xo rụi bỏ điểm vào những khoảng lạnh lẽo trống vắng. Sương mù liên miên, toả khắp và dày đặc trôi nổi vùng phong cảnh gân guốc, làm mờ cả những đỉnh núi cao nhất, phá huỷ chân đồi, trời đất hoà làm thành màn xám bất tận bao trùm lên hết thảy. Ở đây ít có bằng chứng về con người, và ít có người dám lại trong khu vực.
      Nhưng Emma lại tiến về vùng đồng hoang nghiệt ngã cách khắc kỷ trong buổi sáng tháng Hai băng giá năm 1901. rùng mình khi rảo bước và thu mình hơn nữa trong chiếc áo khoác - đồ thải bỏ của nhà Hall, sờn rách, vá víu mỏng manh chẳng khác gì tờ giấy. Khi được cho chiếc áo vào mùa hè, nó cũ kỹ, thảm thê lắm rồi, nhưng Emma nhận nó cách biết ơn. kiên nhẫn mạng những lỗ thủng, nối thêm cho dài ra và đơm khuy mới. Nhưng lớn quá nhanh và nó chật căng ở phía lưng. Ống tay áo quá ngắn và cánh tay gầy của thò ra cách tội nghiệp như hình nộm rơm, phơi cái cổ tay trẻ con ra. Gió nhay cách phản phúc qua làn áo mỏng và khí ẩm làm ướt sũng, ngấm vào trong xương, đôi chân tê dại còn sức sống. kéo khăn quàng chặt hơn quanh đầu, thọc vội hai bàn tay nứt nẻ vào túi. Răng va lập cập vào nhau, mắt ứa nước vì những cơn gió băng giá, ao ước xiết bao là đến được Hall mặc dù ghét cái nơi ấy đến mấy.
      Cho tới khi Emma tới được cánh đồng xây tường đá dẫn ra đồng hoang, hết hơi. dựa vào ván mà nghỉ lát, hơi thở của vẫn còn hổn hển, tim đập thình thình trong lồng ngực. Dưới chân , bên kia, trong thung lũng, ánh sáng mờ mờ yếu ớt với là xưởng máy Fairley chuẩn bị cho công việc hàng ngày. Chẳng bao lâu nữa, còi tầm chói tai của nhà máy vang lên, phá tan yên lặng bằng giọng gay gắt, báo hiệu cửa mở. Trong thời gian ngắn, đàn ông, đàn bà Fairley hối hả xuống điểm danh và lại bắt đầu ngày buồn thảm, chải len sống, quay len, xe len chở khắp thế giới.
      Emma nhìn ngơ ngẩn vào làng, nơi có mẹ và đó cũng là dấu hiệu cuối cùng của cuộc sống cho đến khi tới Hall, rồi quay ngoắt . nghỉ lúc lâu và bây giờ phải nhanh chân lên 6 giờ mới tới được Hall. nhấc váy, trèo lên bậc, nhảy nhàng vào trong cánh đồng. làm việc ở Hall được 2 năm rồi, và thuộc lòng đường đến nó. Ý nghĩ hướng về cha trong khi vẫn bước . Emma cha và hiểu bản chất của ông, nhưng ông làm bị xáo trộn suốt mấy tháng nay. Cha còn như xưa kể từ khi ông trở về sau cuộc chiến tranh Bauer. Emma thấy hình như tất cả tinh thần toát hết khỏi con người ông, ông trở nên thầm, lặng lẽ, nhưng bất thình lình hay bùng lên những cơn giận thể nào kiềm chế được khi Winston hoặc bất cứ ai ngoài và mẹ làm ông bực bội.
      bất thường trong cách cư xử của cha và những tâm tính hoàn toàn trái ngược nhau làm cho Emma lúng túng. Khi ông nhìn trống rỗng, ông giống như đứa trẻ lạc loài. Đôi khi muốn nắm lấy ông, lắc mạnh để cố gắng giật ông trở lại với cuộc sống. Nhưng quá yếu ớt và mỏng manh để làm việc đó, vì thế, cố gắng lắc ông ra khỏi cơn ưu phiền với những câu hỏi và quấy rầy ông về chuyện tiền nong, nhắc ông tới cái ốm đau của mẹ . Khuôn mặt của ông vẫn luôn bất động và khép kín, nhưng đôi mắt ông đầy đau đớn. Chính cơn đau ốm của Elizabeth và nỗi sầu muộn của ông về vợ làm Jack Harter thay đổi và hoá đá linh hồn ông, làm cho ông trở thành vô dụng.
      Nhưng Emma, trong cái ngây thơ non trẻ của mình, hoàn toàn hiểu được điều này. Say mê với mục đích duy nhất là làm thay đổi cái tình cảnh khốn khó mà họ sống, và điều này làm thấy cái gì khác nữa. chỉ biết có điều là cha đáp ứng nào cho , có giải pháp nào cho những vấn đề của họ. Để cố gắng xoa dịu , ông lại bám vào cái câu xưa cũ mà gần đây ông hay dùng: "Mọi việc rồi tốt đẹp hơn, con ạ". Winston luôn luôn bị đánh lừa bởi cái tâm trạng tự tin và lạc quan của cha họ, và đôi mắt cậu lập tức chiếu sáng với nỗi mong chờ những ngày tháng tốt đẹp hơn. Cậu hỏi lại cách hồi hộp: "Bao giờ, ba? Bao giờ?" Đầu óc thực tế của Emma lại kêu lên: "Làm thế nào, ba? Làm thế nào?" mặc dù bao giờ thốt ra câu ấy. sợ dám ném ra lời thách thức này khi cha cố gắng cam đoan với Winston. cũng biết, cần phải hỏi, do những kinh nghiệm qua, rằng thể nào có câu trả lời thực và chẳng có ý nghĩa thực tế nào nảy sinh ra cả. Emma, vốn là người thực tế, hiểu cái điều thể tránh được này từ nhiều tháng trước và chấp nhận nó cách khuất phục, bởi vì hiểu làm cách nào để thắng được tính ỳ và bất lực của cha, chần chừ và thiếu năng động của ông.
      - " gì xảy ra để có thể thay đổi số phận của chúng ta bởi vì ba chúng ta chẳng làm gì để thay đổi nó cả", Emma to cách quyết liệt khi trèo qua bức tường thấp, tới con đường của đồng hoang phía bên kia cánh đồng. vẫn còn chưa hiểu được rằng khi người đàn ông mất hy vọng, ta còn lại gì, đôi khi còn ý chí muốn sống nữa. Và tất cả niềm hy vọng bị hất khỏi Jack Harter từ lâu.
      thổi vào đôi bàn tay lạnh giá, rồi lại đút nó vào túi, và bước lên cái dốc thấp dẫn tới Fairley Hall. Gần đây Emma nhắc tới vấn đề tiền với cha nữa, nhưng nó vẫn rời . Họ phải có thêm tiền để sống, nếu mẹ muốn hồi phục sức khoẻ. Emma biết, có tiền, họ là gì hết, chỉ là nạn nhân bất lực và bị áp lực của giai cấp thống trị, con vật bị đóng ách, bị xiềng xích vào cuộc đời buồn thảm và cuộc sống quá khốn khó, hy vọng, đầy kinh hoàng và thất vọng đến độ muốn nghĩ tới nó nữa, gì tới sống. có tiền, mình phải lệ thuộc vào những thói chất chưởng, những tâm tính, tính đồng bóng của những kẻ giàu vô tâm, bất cẩn, những thăng trầm của cuộc đời. có tiền, mình bị cuộc đời công phá.
      Từ khi làm việc ở Fairley Hall, Emma có óc quan sát nhạy bén, cũng được trời phú cho cái khôn ngoan sắc sảo, cái cảm thụ đáng ngạc nhiên so với tuổi . nhanh chóng thấy được và nhận ra khác nhau ghê gớm, quỷ quái giữa cuộc sống ở Fairley Hall và cuộc sống trong làng. Gia đình Fairley sống trong xa hoa, lộng lẫy, được nuông chiều và hoàn toàn cách biệt với thực tế đầy cay nghiệt của đời sống những người thợ, những người mà lao dịch triền miên, được chút xót thương cung cấp thế giới vàng son đầy thoải mái, dễ chịu cho họ.
      Quan sát gia đình Fairley và cung cách họ sống, Emma bắt đầu hiểu rằng tiền phải chỉ để mua những thứ cần thiết, mà còn rất nhiều thứ khác nữa. cũng tới chỗ nhận ra được rằng người có tiền cũng có quyền, điều đáng ao ước nhất đối với Emma, vì bây giờ biết được rằng, uy quyền làm cho mình bất khả xâm phạm. Đồng thời cũng nhận thức được cách cay đắng, có công lý, có tự do cho người nghèo. Đúng, nghĩ cách quyết liệt, tiền là câu trả lời cho mọi thứ.
      Phải có cách cho mình kiếm thêm tiền, quyết định. Có những người nghèo và những người giàu thế giới này. Và nếu như số người có thể giàu ràng những người khác cũng có thể như vậy, lý luận. Cha luôn đó là vấn đề số và may mắn. Emma thích những câu trả lời có sẵn, bởi vì tin ở đúng đắn của nó và vì thế từ chối chấp thuận chúng. Nếu người có kế hoạch xuất sắc và làm việc nhiều, nhiều hơn bất cứ người nào khác ràng người đó có thể kiếm được tiền. Rất nhiều tiền, cả cơ nghiệp, có lẽ vậy. Emma để mắt vào mục đích này, hề nao núng, bao giờ mất lòng dũng cảm, bởi vì dù thiếu kinh nghiệm cuộc đời nhưng bù lại, có những điểm còn giá trị hơn: trực giác, trí tưởng tượng và tham vọng. cách bản năng, Emma hiểu nhiều điều và trong những điều đó là tàn nhẫn, lạnh lùng rằng tiền nhất thiết có được bởi thừa kế hoặc do tình cờ. thở dài, thấy lạnh buốt thấu xương và đầy thất vọng về mẹ . Bà đơn độc có bạn bè, chiến đấu với cuộc đời bàn tay giúp đỡ hoặc lời khuyến khích của bất cứ ai. Nhưng từ nhiều tháng trước, quyết định, để chuyện đó đánh bại mình. tìm con đường để kiếm tiền, nhiều tiền, bởi vì chỉ đến lúc ấy mới được an toàn.
      Bàn chân Emma theo con đường hẹp và mặc dù sương mù dày đặc, biết mình tới đỉnh của con dốc thấp, bởi vì thở hổn hển và đôi chân đau nhức vì leo. rùng mình dưới cơn gió lộng từ đèo cao thổi xuống làm dựng cả cổ áo khoác. Đôi bàn tay lạnh cứng, nhưng chân ấm. Cha sửa lại đôi ủng cho tuần trước, ông mua hàng thuộc da và lông cho lần lót bên trong. đứng cạnh ông, xem ông cắt đế và đóng chắc vào cái phần mòn và đôi ủng cốt giày sắt trong nhà bếp. cũng nghĩ tới bát cháo nóng bốc hơi nghi ngút và hơi ấm của nhà bếp khổng lồ ở Hall, những thôi thúc này làm vội vã.
      vài cái cây khẳng khiu lù lù trước mặt trong khung cảnh tàn nhẫn, khắc nghiệt và ma quái nền trời xanh thuỷ tinh. Trái tim bắt đầu đập dồn dập phần vì mệt mỏi nhưng cũng vì sợ, bởi vì bên kia những hàng cây trơ trụi, con đường thẳng xuống Ramxđen Gim là thung lũng giữa hai quả đồi. Gim là nơi mà Emma ghét nhất cuộc hành trình tới Hon, bởi vì đó là nơi mê ám đầy những hình đá kỳ quái và những gốc cây đáng nguyền rủa. Sương mù, bị kẹt giữa hai đỉnh núi vút lên thung lũng, tụ lại, đóng thành khối đen xám nặng nề, hầu như thể qua nổi.
      Emma kinh sợ chốn này, nhưng vẫn rảo bước, tự mắng mình vì sợ hãi trong khi nhào xuống con đường vào Gim. sợ những bóng hình quỷ quái, những bóng ma của đồng hoang dường như trôi nổi như hơi nước mà lại đầy hăm doạ giữa những tảng băng lớn tạo nên bằng những sạn cát. cũng sợ những linh hồn lang thang mà dân làng cách mê tín là lởn vởn ở Gim. Để xua đuổi những hồn ma bóng quỷ và những linh hồn lạc loài, bắt đầu hát thầm trong đầu mình. bao giờ hát to vào giờ này đồng hoang vì sợ đánh thức người chết. biết nhiều bài hát, trừ vài bài học ở nhà trường, nhưng thấy chúng nhạt nhẽo và trẻ con. Vì thế, hát bài "Tiến lên, hỡi những người chiến sĩ Cơ đốc giáo" cách lặng lẽ và tiến bước cách dũng cảm theo nhịp quân hành trong đầu.
      Khi nửa đường tới Gim những lời bài hát đột nhiên bị quét . Emma dừng lại, đứng sững. lặng người, nghe ngóng chăm chú. Ngay dưới tầm gió, nghe tiếng ầm ì khe khẽ như của cái gì rất lớn và mạnh mẽ, được đẩy bằng sức khổng lồ từ phía kia Gim xuống con đường. rúm người sau tảng đá, nín thở, nỗi sợ ngấm vào người như nước đá. Rồi, ta đứng trước mặt , phải là con quỷ còn phôi thai như tảng đá hay cái cây, mà là cả con quỷ có hình thù, người đàn ông cao như khổng lồ, cúi xuống nhìn chằm chằm vào qua cơn lốc sương mù.
      Emma hít hơi, nắm chặt hai nắm tay trong túi. tự hỏi mình cách điên cuồng, biết có nên lao ra, chạy trở lại, nhưng quá tê liệt vì sợ hãi thể nhúc nhích nổi. Thế rồi con quỷ , và càng làm kinh sợ hơn.
      - "Số mình may mắn gặp được trẻ nhanh nhẹn ở cái vùng đồng hoang đáng nguyền rủa vào cái giờ còn thuộc về Chúa này. Đây là nơi của Quỷ, mình nghĩ thế, phải là miền đất để mà lang thang vào cái buổi sáng lạnh giá này..."
      Emma thốt được lời nào. ngước nhìn lên người đàn ông đứng sừng sững trước mặt, nhưng thể nào phân biệt được hình nét của ông ta trong ánh sáng mờ đục. nép sát vào khe giữa hai tảng đá, lòng thầm ước mình tan vào đó, mắt như bật ra khỏi tròng hốt hoảng.
      Người đàn ông lại , giọng ta ma quái như phải từ cơ thể phát ra, tới với qua sương mù: "À, sợ đây. Mà cũng đúng thôi, làm người ta giật mình như vừa rồi. Nhưng mình chỉ là gã ngu ngốc bị lạc đường trong cái đám sương mù đáng nguyền rủa này đường tới Fairley Hall. có thể chỉ cho tôi đường tới đó, và tôi có đúng đường ?"
      Tim bớt đập cuồng loạn, nhưng vẫn còn run sợ, bởi vì người lạ những vùng đồng hoang này, mà ta quả người lạ... cũng nguy hiểm như con quỷ. Cha từng dặn bao giờ được chuyện với bất cứ người nào biết, người phải ở thung lũng và vì thế là "người ngoại quốc" trong địa phương này, và là kẻ đáng ngờ. ép người vào những tảng đá, mong cho ta , môi mím chặt vào nhau. Có lẽ, nếu trả lời những câu hỏi của ta ta biến cũng đột ngột như lúc ta ra vậy.
      - "Đúng là con mèo lấy mất lưỡi của bé rồi. Đúng vậy", người đàn ông tiếp tục , y như là với người thứ ba. Emma cắn môi và nhìn chung quanh cách lo ngại. Hình như còn ai khác, mặc dù trong ánh sáng xanh xám cũng khó chắc điều đó.
      - "Tôi làm hại gì đâu, ạ", giọng lại tiếp tục. "Chỉ cho tôi con đường tới Fairley Hall thôi mà, rồi tôi đường tôi, chắc chắn là như thế".
      Emma vẫn nhìn thấy mặt người đàn ông bởi vì nó lạc trong sương mù lúc này nhấn chìm cả hai người. nhìn xuống. có thể nhận thấy đôi chân to lớn của ta trong giày ủng và cái dáng quần của ta. ta nhúc nhích ly khỏi chỗ ta dừng lại lúc ban đầu, đứng nguyên ở đó, cứ như thể ta có cảm giác bất cứ cử động đột ngột nào về phía làm lao ra khỏi chỗ náu, lao vào màn sương mù trong cơn kinh hoàng.
      hắng giọng và lại nhàng hơn: "Tôi làm gì hại đâu, ạ. Đừng sợ tôi".
      cái gì đó trong giọng của làm cho Emma buông lỏng cơ bắp căng thẳng của mình. Dần dần run rẩy của giảm . giọng lạ lùng nhưng dễ thương, khác với tất cả những giọng nghe trước đây. Rồi Emma nhận ra giọng của nhàng biết mấy, đầy nhân hậu và ấm áp. Nhưng vẫn là người lạ. Trước kinh hoàng và đôi chút ngạc nhiên của chính mình, lại nghe thấy tiếng mình bất giác hỏi: "Tại sao lại muốn tới Hall?"
      - "Tôi tới đó để sửa lò sưởi và ống khói. Tuần trước chính ông chủ đến gặp tôi. Điền chủ Fairley, phải, đúng thế. Ông ấy đến thăm tôi ở Leeds và cũng rất tử tế rộng lượng, kiếm việc cho tôi".
      Emma liếc nhìn người đàn ông cách ngờ vực, ngước bộ mặt ướt của mình cố gắng nhìn ta qua màn sương. người đàn ông cao lớn nhất từng thấy, mặc bộ quần áo thợ, cái túi vắt qua vai.
      - " là thợ đấu à?", hỏi cách thận trọng bởi vì vừa chợt nhớ là bà bếp bảo rằng người thợ đấu làm công việc sửa chữa và xây gạch ở Hall.
      Người đàn ông cười phá lên, tiếng cười từ bụng phát ra làm cả khung người đồ sộ của rung chuyển. "Đúng, tôi là thế đấy. Shane O’Neill là tên tôi, nhưng tất cả mọi người đều gọi tôi là Blackie".
      Emma lại ngước nhìn , cố quan sát bộ mặt trong gian mờ mờ và rung rinh hơi nước. " phải người da đen chứ? ", hỏi bằng giọng run run, rồi lập tức tự trách mình vì ngu ngốc. O’Neill là cái tên Ireland, điều đó giải thích cho cái lối như hát của , lối rất xa lạ với Emma nhưng nghe giọng địa phương Ireland và chắc chắn là nó đây.
      Câu hỏi của hình như làm cho cái con người khổng lồ này buồn cười hơn và ta lại vừa cười, vừa : ", tôi phải người da đen, chỉ là người Ireland thôi. Thế còn gọi là gì?"
      lại do dự, vì tin rằng người ta càng biết ít về mình bao nhiêu càng tốt cho mình bấy nhiêu, càng an toàn bấy nhiêu, bởi vì nếu họ biết họ thể làm hại được gì. Nhưng, trước ngạc nhiên của mình, lần nữa thấy mình :
      - "Emma. Emma Harte là tên của tôi".
      - "Rất hân hạnh được gặp , Emma Harte. Nào, bây giờ chúng ta quen nhau, như người ta vẫn như thế. có thể vui lòng chỉ cho tôi đúng đường tới Fairley Hall được ?"
      - "Chính là con đường , ở phía kia", Emma , lúc này hoàn toàn cóng vì đứng giữa thung lũng ẩm ướt và băng giá. Rồi lại lần nữa, trước bực bội của bản thân, nhưng cũng trước khi kịp ngăn mình lại, giải thích: "Tôi cũng Hall. có thể với tôi nếu muốn".
      - "Sao? Cảm ơn Emma, vậy chúng ta cùng . Ở đây lạnh và ẩm đến mức quỷ quái. Tệ hơn cả vùng đầm lầy vào mùa đông".
      Emma tuồn ra khỏi chỗ nấp giữa những tảng đá, dẫn đường lên dải đất đưa họ ra khỏi Ramsden Ghyll và tiếp tục tới vùng bằng phẳng của đồng hoang vươn dài tới Fairley Hall. Đó là dải đất hẹp khá chênh vênh, dốc thẳng đứng, và họ phải hàng . Emma vội vã trước người Ireland, líu ríu lướt ra khỏi thung lũng. Họ , bởi vì đây là ngọn đồi dốc quanh co khó , và nữa, bản thân con đường cũng gồ ghề, rải rác những tảng đá và những rễ cây cắm trong đất đóng băng hết sức phản phúc và nguy hiểm vào mùa đông.
      Khi họ tiến lên qua Ghyll vùng đất phẳng, sương mù tan, nó bị những cơn gió gầm rú từ những vách đá cao vút thổi bạt . khí buổi sáng nhuốm màu trắng đục, và bầu trời trong xanh đầy những ánh sáng rực rỡ dường như toát ra từ nguồn kín nào dưới chân trời thứ ánh sáng chói chang. dừng lại, thở hổn hển và quay lại nhìn vách đá Ramsden ở phía xa, như vẫn thường làm. "Hãy nhìn những con ngựa này", và chỉ vào những vách đá khổng lồ nhô lên trong cái lộng lẫy đơn nỏi bật nền trời.
      Blackie O’Neill nhìn theo ánh mắt của và nín thở. đúng. Những tảng đá quả là giống những con ngựa khổng lồ lồng lên đường chân trời những hình thù gồ ghề đột nhiên sinh động, y như thể chúng là những con thần mã khổng lồ trong thần thoại phi qua bầu trời, lóng lánh như vàng trong ánh sáng rực rỡ.
      - "Trời, cảnh tượng đẹp quá. Chỗ đó là chỗ nào?" Blackie hỏi.
      - "Ramsden Crags, nhưng dân làng đôi khi gọi nó là Ngựa bay. Mẹ tôi gọi nó là Đỉnh của Thế giới", Emma .
      - "Mà tôi trông nó hình như là vậy, ràng như thế", Blackie lẩm bẩm, đặt phịch cái túi xuống và hít thở khí trong lành.
      Emma chưa hề nhìn kỹ Blackie O’Neill. phía sau con đường dẫn ra khỏi thung lũng và lúc này đứng phía sau ở bên bờ của Ghyll. Mẹ luôn dạy cách cư xử, và bảo với là nhìn chằm chằm vào người ta là điều thô lỗ, nhưng bây giờ tính tò mò của thắng, và tự cho phép mình quay lại từ từ. nhìn lên người đàn ông làm quá sợ hãi lúc ban đầu và giật mình thấy ta còn rất trẻ, có lẽ quá 18 tuổi. Và ta là người hết sức bất bình thường chưa bao giờ nhìn thấy.
      Blackie nhìn trả lại, cười rộng miệng, và trong giây phút hiểu vì sao lại sợ ta nữa. Mặc dù vóc người to lớn, quần áo vải thô, nhưng có cái gì đó dịu dàng thanh nhã thể ra được về người đàn ông này, cả vẻ ngoài, cũng như về tư thế chung của ta. Nét mặt ta cởi mở thân thiện hoàn toàn thổ lộ và nụ cười mở rộng của ấm áp, đôn hậu và có đôi chút nghịch ngợm trong đôi mắt đen tử tế, hiểu biết. Emma thấy mình mỉm cười lại với , điều chưa hề có đối với tính cách luôn nghi ngờ những người lạ.
      - "Từ chỗ này nhìn thấy Hall đâu", Emma giải thích, "nhưng bây giờ còn xa nữa qua đồng hoang ở phía bên kia. Ta nào, em chỉ đường cho , Blackie", kêu lên phấn khởi, rất thích người bạn mới này.
      Blackie gật đầu, nâng cái túi lớn lên, lẳng nó qua vai cách dễ dàng y như thể nó là bọc chẳng nghĩa lý gì trong bàn tay to lớn khỏe mạnh của . nhịp bước theo Emma lúc này bước nhanh nhẹn đường phía trước, và bắt đầu huýt sáo, đầu ngả về phía sau, những búp tóc bay bay theo gió.
      Thỉnh thoảng Emma lại ngước lên nhìn . Trước đây bao giờ gặp người nào như , và hấp dẫn . Blackie cũng phải để ý thấy quan sát này, hết sức nhận biết được điều ấy và nó làm thích thú. thoáng nhìn , bởi vì nhanh nhẹn và có con mắt quan sát. đoán hẳn khoảng 14 tuổi khoảng như vậy, và chắc là địa phương chạy việc vặt tới Fairley Hall. quỷ quái? ràng làm kinh sợ trong sương mù. Khi họ cùng qua đường, mỉm cười, thán phục cái dáng mạnh mẽ của , cố gắng theo kịp sải chân dài của . chậm hẳn bước lại khi thấy dường như thở được nữa.
      Shane Patrick Desmond O’Neill thường được mọi người biết đến với cái tên Blackie, cao quá 6 foot 3 inch, nhưng trông vóc dáng to lớn, tấm lưng rộng và hai vai mạnh mẽ. nở nang cân đối có chút thịt thừa, tất cả con người là cơ bắp. toát lên sinh lực, sức mạnh gì chế ngự nổi. Chân dài, bụng thon dưới bộ ngực căng phồng. Cũng dễ hiểu vì sao mọi người gọi là Blackie. Mái tóc dày xòa ra phía sau, đen bóng như mun, đôi mắt cách xa nhau dưới đôi lông mày cong rậm, đôi mắt to dịu, khôn ngoan, mặc dù nó có thể loé lên giận dữ khi nổi cáu, cũng có thể dễ dàng trở nên sầu muộn và bi thảm khi tâm hồn Celtic của bị những tư tưởng đau buồn làm vẩn đục. Nhưng chung, lúc nào cũng vui vẻ. Da đen, nhưng phải đen sạm mà nâu nâu điểm chút ửng hồng hai gò má cao. Mũi thẳng và khá , cái miệng rộng và môi dài của người Ailen để lộ nguồn gốc Celtic của . Khi cười, vệt lẹm lên ở cằm, hai má lúm đồng tiền, cả khuôn mặt biểu lộ sức sống mãnh liệt.
      Thực tế mà , Blackie O’Neill là thanh niên rất đẹp trai, nhưng chính cách thức và thái độ của là cái hấp dẫn nhất và đứng về nhiều phương diện làm Blackie khác với những người đàn ông khác. Ở toát lên cái sinh động vui vẻ, nét mặt hoạt bát, linh động và ít tài trí. vẻ duyên dáng thoải mái hề màu mè là bản chất thứ hai của , tinh thần của sôi nổi, y như thể chấp nhận cuộc sống như nó có, và luôn được nó làm cho tươi vui. Có tự tin thoải mái trong con người , và Emma trong khi quan sát , thấy dường như thể bị chạm tới bởi mệt mỏi, sợ hãi, cái vô vọng ám ảnh những người dân bản địa, làm cho họ còng lưng xuống, già trước tuổi. Lần đầu tiên trong cuộc đời trẻ trung của mình, Emma gặp con người thể khuất phục được và linh hồn vui tươi, hiềm thù, con người đời, sống hết mình, có cảm giác mang máng về tất cả những điều đó, nó thôi thúc, làm hoang mang và hấp dẫn .
      Trong khi bước vội bên chàng khổng lồ đẹp trai, mắt thỉnh thoảng lại ngước nhìn thấy hết sức tọc mạch muốn biết về . người bạn đồng hành vui vẻ bằng cung cách kỳ quặc nhất và giải thích được, cảm thấy an toàn khi bên , ít, mỉm cười rạng rỡ, thỉnh thoảng huýt sáo vui vẻ, đôi mắt sáng bừng của nhìn đồng hoang, mong đợi đỉnh chóp Fairley Hall. Và cái gì đó của tính cách trong sáng và thân ái hình như chuyển sang cho Emma cách huyền bí, và nét mặt vốn nghiêm nghị căng thẳng quá sớm ở lứa tuổi của dịu vui vẻ tiềm tàng của .
      rất ngạc nhiên khi Blackie mở miệng và cất tiếng hát, giọng nam trung hùng mạnh của vang lên trong gian yên tĩnh với những thanh dịu ngọt du dương khiến giật mình. Lời bài ca đẹp.
      “Chú bé hát rong lên đường ra mặt trận
      tìm thấy chú trong số người chết
      Thanh gươm của cha, chú đeo bên mình
      Và chiếc đàn hạc lủng lẳng sau lưng...”
      Nghe Blackie hát, Emma thấy lòng nhói đau, nước mắt dâng lên, nỗi xúc động chưa hề có trước đây. Có cái gì buồn đến ám ảnh mà lại ngọt ngào tê tái trong lời bài hát và giai điệu thấm thía, cổ họng đau vì nước mắt, đột ngột quá, hề ngờ tới, cố nuốt chúng lại vì sợ tỏ ra trẻ con, mà còn hơi ngu ngốc nữa đối với người đàn ông này khi hát xong bài ca: "Chú bé hát rong".
      Blackie nhìn , thấy những giọt nước mắt lóng lánh, rưng rưng khoé mắt , hỏi nhàng: "Vậy em muốn tôi hát nữa sao?"
      Emma nuốt khan và hắng giọng mấy lần, cuối cùng mới lên được: "Ồ, có chứ. Em muốn hát. Có điều nó buồn quá". lấy tay quệt mắt, gạt vội những dòng lệ, để ý thấy cái nhìn quan tâm nét mặt , vội vã thêm: "Nhưng giọng hát hay quá, đấy". mỉm cười, hy vọng những giọt nước mắt làm phật ý.
      Blackie ngạc nhiên trước phản ứng nhạy cảm và xúc động của trước lời hát của , mỉm cười đáp lại và hết sức dịu dàng: "Ừ, đúng là bài hát buồn, nhưng nó rất đẹp, Emma ạ. Dù sao nó cũng chỉ là bài hát cổ thôi. Em nên xúc động. Và vì em tốt bụng là thích giọng hát của tôi, tôi hát bài chắc chắn làm em cười, tôi nghĩ thế".
      hát. Giọng hát đẹp, giàu nhạc điệu của tạo thành những thanh hết sức vui nhộn, những từ ngữ sinh động của điệu nhảy Ireland tuôn ra cách nhàng. cố ý chọn bài hát vô nghĩa lý, đầy những chữ phát đến trẹo lưỡi và chẳng mấy chốc Emma cười thích thú, nỗi buồn chốc lát của bị lãng quên trong niềm vui mới.
      Khi hát hết, kêu lên vui vẻ: " buồn cười quá . phải hát cho bà Turner, bà bếp ở Hall nghe. Bà rất thích, em chắc chắn thế. Và thể nào nó cũng làm cho bà cười".
      - "Nhất định rồi, mà tôi cũng sung sướng nữa, Emma". Blackie trả lời cách tốt bụng. Rồi hỏi cách tò mò: "Mà tại sao em đến Hall sớm thế, tôi có thể hỏi được ?"
      - "Em làm công ở đó", Emma trả lời cách long trọng, đáp lại cái nhìn thân mật của bằng cặp mắt chăm chú nao núng.
      - " à? Nhưng như em làm gì để kiếm sống?"
      - "Em là người hầu bếp"
      Nhìn thấy đôi mắt nửa như lảng tránh của , miệng trễ xuống và nét u ám lướt qua mặt, Blackie chắc rằng cũng thích công việc của ở Hall. gì thêm nữa, rút về sau cái vẻ mặt như có mạng che khuôn mặt bé. Cảm thấy được thoải mái của , hỏi thêm nữa và bước yên lặng, chút gì vui tươi mà họ vừa cùng chia sẻ bị bôi xoá vì tâm trạng thay đổi đột ngột của .
      Đối với Blackie, buồn cười, cái của vùng đồng hoang này mà gặp quá đỗi bất ngờ, sinh vật còm nhom chỉ có da với xương. thấy cái Emma Harte này cần bữa ăn ngon, nhiều bữa ăn ngon trong nhiều tháng tới. Đúng như vậy. nghèo khổ đáng lẽ phải ở nhà và nằm giường chứ phải lang thang ở những cánh đồng hoang bị Chúa ruồng bỏ và sống này vào lúc mới chớm bình minh giữa mùa đông giá rét.
      Mặc dù cũ kỹ, nhưng quần áo của gọn ghẽ, vá víu cẩn thận và có thể thấy mặt mũi sạch bong. Mặc dù chỉ nhìn thấy chút ít của khuôn mặt ấy vì nó được trùm kín trong chiếc khăn len đen dày. Nhưng đôi mắt mỗi lần quay sang nhìn , đẹp thể tưởng. Chúng to, xanh và sáng rực, đôi mắt xanh nhất chưa bao giờ thấy.
      Emma chen vào dòng suy nghĩ của Blackie khi hỏi: "Lúc trước là người Ireland đen, như thế là thế nào?". Blackie quay sang nhìn Emma và thấy cái nhìn căng thẳng biến khỏi khuôn mặt . Đôi mắt ánh lên vẻ tinh nghịch, : "Ồ, mavourneen, phải là chú da đen châu Phi như em ngờ đâu, mà chỉ là người có màu da, tóc đen, mắt đen nghe chúng tôi thừa hưởng của người Tây Ban Nha". định hỏi xem "mavourneen" nghĩa là gì, nhưng lời cuối cùng vừa rồi làm ngạc nhiên quá nên câu hỏi ấy lại buột . "Tây Ban Nha? Làm gì có người Tây Ban Nha ở Ireland. Em biết quá chứ", Emma với thái độ hung dữ, mắt loé lên. "Em cũng được học, biết ", báo cho biết cách tự hào, tự hỏi hiều có phải cho con ngốc .
      Blackie vui vui vì cái phản ứng của , nhưng vẫn tỉnh bơ: "Vậy trẻ có học thức, em phải biết rằng vua Philip của Tây Ban Nha cất đạo quân lớn tràn vào nước trong thời nữ hoàng Elizabeth. Sách còn , số thuyền buồm lớn bị chìm ở ngoài khơi Ireland và những người sống sót, tất cả đều là người Tây Ban Nha, định cư ở đảo Emerald. Người ta rằng những người Ireland nước da đen là con cháu của họ, và có thể đó là , tôi nghĩ thế".
      - "Em biết về những người Tây Ban Nha và Đạo quân ấy, nhưng em biết về những người Tây Ban Nha sống ở Ireland", Emma , ngước nhìn kỹ.
      hoài nghi biểu lộ trong mắt , đến nỗi Blackie vỗ đùi cười phá lên. "Tôi với em đó, Emma, thề đầu cách chư vị thánh thần, tôi xin thề là tôi , mavourneen".
      Lúc này Emma cách vô thức: "Này, cái chữ mavuorneen nghĩa là gì thế? chứ luôn mồm gọi em như thế, Blackie. Em chưa bao giờ nghe thấy cái chữ ấy trước đây cả. Nó thô lỗ chứ?"
      Blackie lắc đầu, những búp tóc của nhảy nhót khi làm như vậy, nụ cười tắt loé lên trong mắt , và qua khoé miệng rộng của . "Đó là từ Ireland, nghĩa là thân hay thân mến ấy mà, Emma ạ, cũng như chữ "" mà người Yorkshire luôn dùng. phải từ thô lỗ đâu, ạ. Trìu mến có lẽ là cách giải thích tốt nhất, tôi nghĩ thế. Hơn nữa, ai lại có thể thô lỗ với có học như em", bằng giọng nghiêm chỉnh nhất, điệu bộ hào hoa nhất.
      - "Ồ, à", Emma , thoáng hoài nghi của người Yorkshire có thể nhận thấy trong giọng của .
      yên lặng ngắn, rồi quay lại nửa chừng, chạm vào cánh tay theo bản năng, hỏi: "Blackie, vậy có sống ở Leeds ?". Nét mặt đột nhiên sinh động hẳn lên, và cảm thấy nỗi kinh động mới trong .
      - "Có, có. Mà đó là thành phố tuyệt vời. Emma, em bao giờ ở đó chưa?"
      Nét mặt xịu xuống: "Chưa. Nhưng thế nào rồi em cũng tới đó. Bố em hứa đưa em chơi ngày, và em biết thế nào ông cũng đưa em nếu ông có thời giờ". Thế còn tiền vé, Blackie nghĩ nhanh. Nhưng thấy giọng thiếu dứt khoát và cảm nhận được nỗi ưu phiền của , cách hăng hái và có vẻ cả quyết: "Chắc chắn ông đưa em , Emma ạ. Rồi em thấy đó là thành phố hấp dẫn nhất. Ấy, hết sức hấp dẫn, và nhộn nhịp. thủ phủ thực , tôi nghĩ thế. Nó có những đường vòm rất lớn với những cửa hàng kỳ diệu đầy những đồ trang sức lụa là cho phụ nữ và cho các quý ông nữa. Phải, lụa là như bà hoàng mặc ấy, Emma. Những chiếc áo dài lụa và satin đẹp thể tả. Những chiếc mũ đẹp có chùm lông vũ và mạng che mặt, những đôi tất nhiều màu, những đôi ủng da mềm có cái khuy, dù và túi lưới. Tất cả những gì mà trái tim bé của em có thể ao ước. Và những cravate lụa cho quý ông. Ấy, mà cả những ghim cài cravate bằng kim cương, những chiếc can bằng ngà bịt bạc và những chiếc mũ chóp cao mượt mà. Những đồ cao cấp mà cả đời mình mong thấy, tôi nghĩ vậy, Emma ạ"
      Blackie dừng lại, rồi thấy kinh ngạc trong mắt , rung động làm ngời sáng khuôn mặt và khao khát muốn nghe nữa, tiếp tục: "Có những tiệm ăn phục vụ những món ngon thể tưởng tượng nổi như khẩu vị của chúng ta, Emma ạ. Và những sàn nhảy, những thính phòng gọi là Tạp kỹ của thành phố, những rạp hát sang trọng, ở đấy họ diễn những vở kịch tận thành phố London đem tới. Ô, chính mắt tôi được thấy Vesta Tilley và Marie Lloyd sân khấu, mavourneen ạ. Rồi những xe điện mới. Những xe cộ chạy đường ray, cần ngựa kéo, chúng từ Corn Exchange đến mọi miền của thành phố. Tôi cũng chiếc xe rồi, đúng thế đấy. Tôi ngồi ở tầng cùng để ngỏ, xem thành phố như quý ông thực . là có rất nhiều điều kỳ diệu để xem ở Leeds, đấy".
      Mắt Emma sáng lên, tất cả những mệt mỏi và buồn phiền bao trùm lấy sáng sớm nay tan cách huyền diệu, trí tưởng tượng của bốc lửa, những xúc cảm được khuấy lên mãnh liệt bởi câu chuyện của Blackie. Theo như thói thường, cố gắng tự kiềm chế, nhưng trong nóng lòng muốn biết thêm về cái nơi kỳ diệu ấy, giọng cất cao và trở nên the thé: "Thế tại sao lại phải sống ở Leeds, cho em nghe thêm về thành phố ấy ".
      - "Tôi sống ở Leeds bởi vì có công việc ở quê hương Ireland của tôi", giọng thấp xuống, bây giờ tẻ và buồn nhưng cự nự hoặc hiềm thù, chỉ có cam chịu mơ hồ. "Ông cậu Pat của tôi sống ở Leeds từ nhiều năm, ông bảo tôi đến làm thợ đấu cùng với ông. Ở Leeds có nhiều việc lắm, nó là thủ phủ đáng phát triển như tôi với em, Emma ạ. Khi tôi thấy tất cả những xí nghiệp mới mọc lên cùng các nhà máy và các xưởng đúc cũng như những chiếc xe đẹp đẽ, những ngôi nhà thanh lịch của tầng lớp quý tộc , tôi tự nhủ thầm: "Blackie O’Neill, người thợ làm thuê sợ lao động nặng nhọc, khoẻ mạnh, dẻo dai, có thể đương đầu với bất cứ người đàn ông nào. Đấy chính là nơi để sống, bởi vì đường phố chắc chắn là lát bằng vàng. Người ta có thể làm nên sản nghiệp ở Leeds, tôi tin là thế, vì vậy mà tôi đến đó. Đó là 5 năm trước đây. Bây giờ cậu Pat và tôi có cơ sở riêng. Chúng tôi làm công việc sửa chữa và xây dựng cho các chủ xưởng và các tiểu quý tộc. Chúng tôi làm ăn được, ạ, bây giờ cũng chỉ nhoi thôi, nhưng tôi biết là nó lớn lên. Em có biết , rồi thế nào tôi cũng trở nên giàu có. Tôi có rất nhiều tiền và trở thành triệu phú".
      hất đầu ra sau cách kiêu căng và cười, nét mặt đầy lạc quan tươi trẻ. quàng tay qua vai , cách tâm và đầy tự tin: "Tôi mua cái ghim cài cravate bằng kim cương và trở thành quý ông lịch , người thượng lưu thực , nhất định thế mavourneen ạ, xin thề có các chư vị thánh thần".
      Emma chăm chú nghe. Lời của Blackie gây xúc động làm ngây ngất, khơi dậy tất cả những mong chờ trong lòng . Nhưng cái từ "sản nghiệp" gây ảnh hưởng sâu sắc nhất đối với . Những ý nghĩ về quần áo đẹp và nhà hát bị xua . Những thứ vô bổ đó vô nghĩa khi đem so sánh với những phát của Blackie về những cơ hội để lập sản nghiệp ở Leeds. Đây là con người nữa biết rằng tiền có thể kiếm được cũng như có thể được thừa hưởng. Trái tim Emma đập thình thịch quá lớn đến nỗi nghĩ lồng ngực mình có thể nổ tung, và giờ đây phải dùng tất cả sức lực của mình để giữ tư thế. cảm thấy thể thốt nên thành lời, cuối cùng hỏi: " người con như em có thể lập nên sản nghiệp ở Leeds ?"
      Đây là điều Blackie hề chờ đợi. ngây người cúi nhìn Emma và thấy bé chỉ đứng cao tới ngực , mỏng mảnh, xanh xao, thiếu ăn, trái tim thắt lại vì thương xót và bao dung. tội nghiệp, nghĩ, lý ra mình phải ngậm miệng. Mình là điên rồ, làm đầy đầu bé với những giấc mơ cho cuộc sống tốt đẹp hơn, thế giới mà bao giờ thấy được. sắp sửa trả lời cách phủ định thấy, với sáng tỏ ghê gớm, ánh mắt của - tham vọng, trâng tráo, gì lay chuyển được. nhìn khuôn mặt ấy, đột nhiên rất nghiêm nghị, đôi mắt loé lên ánh sáng xanh cứng rắn. Đó là khuôn mặt kiên cường nhất mà chưa bao giờ thấy, và bị choáng váng, cảm thấy ớn lạnh phía sau gáy và cái trực giác Celtic của với là lời hết sức nghiêm chỉnh. thể khuyến khích cái ý nghĩ phi lý về lập nghiệp ở Leeds của , nhưng phải cố gắng hoà giải. Và như vậy Blackie O Neill nuốt lại chữ "" sắp sửa thốt ra, hít hơi dài, mỉm cười và với tất cả hào hiệp mà có thể tạo ra: " tình là em có thể làm được, Emma, nhưng phải là bây giờ. Em mới chỉ là , em thể nào tới Leeds. Phải đợi lớn lên , tôi nghĩ vậy. Đó là thành phố đẹp, ràng như vậy, nhưng cũng khủng khiếp và nguy hiểm đối với như em".
      Emma làm như nghe thấy điều đó. Ít nhất cũng phớt lờ nó . "Em làm việc ở đâu để gây dựng cái sản nghiệp ấy", hỏi dồn "Em làm gì?"
      Blackie nhận ra rằng dễ gì có thể xoa dịu được . giả vờ cân nhắc vấn đề cách nghiêm túc, chẳng lẽ nhìn thấy vẻ quyết liệt nét mặt hay sao? Mọi thứ đều có thể được, những cánh đồng ma quái này, vào giờ này giữa mùa đông.
      - "Ồ, để tôi nghĩ kỹ xem sao", cách thận trọng. "Có lẽ em có thể làm việc tại trong những xí nghiệp may quần áo đẹp, hoặc trong những cửa hàng thanh lịch bán đồ trang sức cho phụ nữ. Có nhiều thứ em có thể làm được, nhưng như tôi trước đây, tôi phải suy nghĩ cẩn thận. Điều này rất quan trọng. Phải tìm cho em công việc thích hợp, đó là bí mật của thành công đó em biết , Emma, ít nhất tôi cũng nghe người ta như vậy.
      gật đầu, nhận ra điều là đúng và nghĩ xem có nên tâm tiếp với Blackie , nhưng tính dè dặt làm nảy sinh thận trọng làm im bặt. quyết định vậy bây giờ là đủ rồi, nhưng có câu hỏi nữa có tầm quan trọng quyết định với : "Nếu như ngày nào đó em tới Leeds, khi em lớn như , có chỉ cho em mọi thứ Blackie? ". ngước mắt nhìn , và lại thấy khuôn mặt của đứa trẻ, thở dài nhõm mặc dù cũng vì sao.
      - "Nhất định như thế rồi, Emma. Đó là điều hân hạnh cho . sống ở nhà trọ của bà Riley ở đường Ham and Shank, nhưng em luôn có thể tìm ở Murky Duck”.
      - “Cái gì? Ham and Shank?”. Lông mày nhíu lại ngơ ngác.
      cười, thích thú trước bối rối của . "Nhịp của “Ham and Shank” là cái gì nào?"
      - “Nhiều thứ lắm!”, thốt lên cách rắn rỏi và ném cho cái nhìn cay độc.
      - “Là cái bờ, chứ còn là cái gì nữa. Ham and Shank - The Bank. Thấy ? Nó nhịp với nhau đấy. Ở Leeds bọn tôi gọi là tiếng lóng nhịp. Tuy nhiên đây là bờ đường sắt, chứ phải là bờ sông, nó gần Leylands. Nhưng ở đây chung quanh hàng xóm láng giềng phải là tốt. Họ thô bạo lắm! phải là nơi để cho mình, nghĩ thế. Vì thế nếu em muốn tìm cứ tới Murky Duck ở đường York và hỏi Rosie. ấy bán bar và ấy biết ở đâu, nếu ở quán rượu. Em biết , có thể ở Golden Fleece ở Briggate. Em có thể viết lại mấy chữ cho qua Rosie, chắc chắn em có thể làm như vậy được và ấy đưa cho hoặc cho cậu của ngay ngày hôm ấy".
      - "Cảm ơn lắm, Blackie", Emma và thầm nhắc lại cách hết sức thận trọng những cái tên mà vừa tuôn ra để có thể nhớ được. Bởi vì quả có ý định Leeds và lập sản nghiệp.
      yên lặng. Họ cùng sóng bước thêm lời, cả hai đều chìm trong những ý nghĩ của mình, nhưng đó là yên lặng đồng điệu chút gì lúng túng ngượng ngập. Mặc dù là người lạ, họ thấy ưa nhau và thông cảm nảy sinh giữa hai người, tuy quen biết có ngắn ngủi. Blackie nhìn quanh, nghĩ, được sống niềm hạnh phúc, có công ăn việc làm, vài đồng shilling ấm túi và điều quan trọng hơn nữa là tương lai sắp tới. Ngay cả những cánh đồng hoang cũng có vẻ đẹp diệu kỳ, giờ đây khi được nhìn chúng cách cẩn thận, sương mù tan từ lâu, khí còn ẩm ướt nữa. Đó là ngày hanh khô, gió thổi vào những thân cây trụi lá, vốn khô cứng và còn sức sống vào mùa này, sức sống mới, khi chúng đong đưa trong gió. Bầu trời còn là màu chì buồn thảm nữa. màu xanh như kim loại loé ra.
      Họ gần tới cuối cao nguyên bằng phẳng của đồng hoang, và Blackie bắt đầu tự hỏi bao giờ họ tới Fairley Hall vừa lúc Emma tuyên bố: "Hall ở phía kia, Blackie ạ", y như thể đọc đưọc những ý nghĩ của . chỉ tay về phía trước.
      Đôi mắt hướng theo cánh tay . thể nhìn thấy gì hết ngoài cánh đồng hoang trống rỗng. "Ở đâu? Có lẽ mù hay sao ấy Emma ạ. chẳng nhìn thấy những chóp nhọn và ống khói gì cả, như ông ấy miêu tả cho nghe tuần trước".
      " nhìn thấy khi lên tới đỉnh dãy đồi kia", khẳng định, "rồi là dốc tuột xuống. Chỉ lát nữa chúng ta đến Baptist Field, nó ở ngay bên cạnh Hall".

    5. dinh huong

      dinh huong Member

      Bài viết:
      183
      Được thích:
      0
      Chương 8


      Emma và Blackie bây giờ đứng đỉnh dãy đồi mà chỉ. Đằng sau họ, mênh mông đến tận bầu trời gợn mây là những đồi đá cao nơi những lớp tuyết cuối cùng lấp lánh đây đó như những lớp satanh trắng uốn lượn trong ánh sáng mặt trời tẩm nước. Ở phía dưới là thung lũng , đặc điểm của miền Tây Raiđinh nằm trong đôi cánh tay của vùng đồng hoan bao quanh trải dài đến tận chân trời
      Và trong thung lũng mờ mờ này, tất cả đều xám mỡ, than củi phủi bụi, màu nâu đất, là Fairley Hall. Chỉ có đỉnh của những chop nhnj và ống khói là có thể được nhìn thấy từ nơi họ đứng, bởi vì bản thân ngôi nhà cũng bị bãi cây làm cho mờ tối. giống những cây cằn cỗi thỉnh thoảng phá vỡ cái trơ trụi của đồng hoang, nhũng cây này là những cây sồi cao, đường bệ, những cành cây lan rộng đan vào nhau tạo nên những hình màu phức tạp. Những cuộn khói từ lò sưởi uốn lượn lên cao phúa sau nhữn hàng cây làm cho bầu trời xanh băng giá đầy những dấu hỏi bằng khói xám. Đột nhiên, đàn quạ vỗ cánh bay ra khỏi bụi cây, vút lên cao, bay theo đường lượn như cuộn giây thừng màu đen dày treo lơ lửng ở cái gian. Ngòai ra còn dấu hiệu nào của cuộc sống trong thung lũng chìm trong giấc ngủ bị phá vỡ vào cái giờ sớm sủa này, quang đãng và yên bình trong cái ắng lặng khôn cùng.
      đáng ngạc nhiên, đỉnh đồi Emma và Blackie đứng dốc người xuống như Blackie nghĩ mà thoai thoải về phía bờ của cánh đồng . Những bức tường đá, được các chủ trại xây dựng từ lâu bao quanh cánh đồng này và những thứ khác ở phía xa, cắt thành hình mẫu chắp vá neefn của thung lũng, hình mẫu mà Blackie thấy hình như rất ngăn nắp để cạnh nhau nổi vùng đòng hoang man dại. Y như có bàn tay lồ khắc mảnh đất cách chính xác, rồi đóng mỗi phần đất lại bằng những dãy tường cũ kỹ và lởm chởm.
      Emma chạy trước, vừa chạy vừa gọi Blackie: “Nào, em chạy đưa tới cổng”. băng xuống dốc với tốc độ làm choáng lúc, vừa vì nhanh nhẹn thể tưởng tượng nổi vừa vì hăng hái đột ngột của . Cái con người này là dẻo dai. Nắm chắc lấy cái túi trong tay, Blackie nhảy theo sau , lúc đầu cách đoạn khá xa. Với sức mạnh thể lực lớn và đôi chân dài, hẳn là vượt cách dễ dàng, nhưng khi gần đuổi kịp , chậm lại, giảm bớt tốc độ, để cho có thể thắng cuộc đua.
      Emma đứng bên cổng cách chiến thắng: “ phải nhanh nhẹn hơn lên nếu muốn thắng được em”, với chút khoác lác. “Em chạy giỏi lắm, ạ”. thêm và thở hổn hển.
      Blackie cười rộng miệng trước phù phiếm này rồi làm vẻ thán phục. “Ờ đúng thế, có thể thấy được điều đó, mavuốcnin ạ! Em chạy nhanh như con chó săn thỏ, nghĩ thế. Hôm nào có cuộc chạy thi, đánh cá em”.
      Emma nở nụ cười biết ơn với ánh mắt mãn nguyện thoáng lướt qua mặt . Rồi quay nhanh , mở then cổng, đẩy nhè , nhảy lên thanh thang thứ nhất, bám riết lấy nó khi cánh cổng đưa về phía bãi đất, đem theo. Liếc nhìn Blackie qua vai, gọi to: “Em luôn luôn đánh đu ở cánh cổng này, mặc dù em được làm như thế”. Khi cánh cổng kêu rên rỉ dừng lại, nhanh nhẹn bước ra và đẩy nó trở lại, ràng là muốn làm lại lần nữa, mặt ửng hồng, đôi mắt vui vẻ.
      Blackie ném chiếc túi xuống: “Nào, Emma để đẩy cho”.
      Gật đầu cách phấn khởi, lại trèo lên thang đầu, bám chặt lấy cánh cổng bằng hai bàn tay nứt nẻ xíu khi Blackie đẩy nó mạnh vút vào trong bãi đất. Chiếc áo khoác sờn rách của bay tung về phía sau và tiếng cười lướt qua mặt . Blackie nhìn , thích thú với trong niềm vui đơn giản này. Phải, chỉ là bé con, niềm ấm áp dâng lên trong lòng. Tại sao mình có thể hình dung khác thế được? Đúng thế và mình là ngu ngốc.
      Emma buông cánh cổng ra và vẫy gọi . “Nào, ta thôi! Em chậm quá mất rồi và em bị bà Turner bà ấy cho”.
      Blackie cầm túi lên và theo . quàng tay qua vai như người , sóng bước cùng tiến về cuối bãi đất: “ phải thú với em là hết sức tò mò muốn biết về những người ở Fairley Hall. Họ ra sao, mavourneen”.
      chút yên lặng ngắn.
      - “ phút nữa thấy”, Emma mỉm cười là lạ. “Bây giờ chúng ta gần đến nơi rồi đấy”. gỡ tay ra, chạy lên phía trước, lời.
      Blackie nhìn theo cau mặt, bối rối vì nụ cười lạ lùng đó. hình bóng con đường trước mặt , nhảy nhót trong dáng điệu vô tư. phải thừa nhận là làm lạ lùng khó hiểu. Mới phút trước, đứa trẻ, nét mặt dịu dàng và tươi cười,; phút sau hình như giống bà già, nét mặt đúc thành đồng. Phải, tất cả những người dân Yorkshire này đều kỳ quặc, với giọng khàn khàn khó nghe, tính nết độc lập, bản chất ương bướng, cứng đầu cứng cổ của họ và nghi ngại đối với người lạ, láu lỉnh và mẫn cảm của họ. Và lòng kính trọng đối với đồng tiền của họ. Nhưng vẫn có thể thấy được họ rộng lượng, mến khách và họ có óc hài hước, mặc dù thỉnh thoảng nó có trắng trợn và gay gắt. Quả họ là những người thú vị và có lẽ những nét rất đặc biệt thấy được ở Emma chỉ là những vết tích của những đặc tính Yorkshire này… Phải, đúng là như vậy, nghĩ, và rảo bước để theo kịp .
      Emma đợi ở rặng cây cuối bãi đất. “Hall đây nè, Blackie ạ”, bằng giọng hoàn toàn có xúc cảm.
      Blackie đứng sững lại và buông ra tiếng huýt sáo dài khẽ và kinh ngạc. Fairley Hall ở thẳng trong tầm mắt của họ và nó giống với cái hình ảnh mang trong đầu sau buổi chuyện với điền chủ Fairley ở Leeds.
      - “Giêxuma, lạy Chúa tôi!”. kêu lên, đôi mắt mở to, tin là . thể được mavourneen. ai lại có thể xây ngôi nhà như thế! nhắm mắt lại thảng thốt và khi mở mắt ra thấy rằng mình chỉ thất vọng trước cái mình thấy mà còn hoàn toàn kinh hoàng nữa.
      - “Hall là ngôi nhà lớn nhất vùng này, Emma chỉ tay, cũng bằng giọng ra lời ấy. Cha em gọi nó là điên rồ của nhà Fairley”. nhận thấy thoáng cay đắng môi .
      - “Tôi có thể hiểu được vì sao”, Blackie lẩm bẩm, nghĩ đây là ngôi nhà kỳ cục nhất chưa bao giờ thấy. Trong khi ngắm nhìn nó, quai hàm của trễ xuống, miệng há ra, khó chịu nhận ra rằng nó đường nét nào để đền bù lại cả. Bởi vì Blackie O’Neill có con mắt cực kỳ chính xác đối với cân đối và đường nét, thực tế mà giấc mơ duy nhất của trong đời là khọa kiết trúc. Điều này thể được, nhưng được khuyến khích bởi cha đạo, cha O Donovan, khi còn là chú bé, tự học rất nhiều từ vài cuốn sách, và bởi lòng ham học cộng với tài năng rất tự nhiên của , trở nên hết sức hiểu biết về thiết kế và xây dựng.
      Lúc này nhìn ngôi nhà bằng đôi mắt sắc sảo và phê phán. Họ càng đến gần Blackie càng thấy được thế nào là quái dị. Nó khum mình như con quỷ giữa những mảnh vườn được sắp xếp cẩn thận nhưng trái ngược nhau cách kỳ quái. thấy tòa nhà trung tâm này là phần cổ nhất, có lẽ từ cuối những năm 1790 và nếu như nó chỉ đứng mình vẻ đĩnh đạc bề thế, thậm chí còn oai vệ nữa. Nhưng những chái nhà khác ràng là được thêm vào qua năm tháng, hình như được suy nghĩ gì nhiều cho lắm, chúng nảy lên từ hai phía bất chấp hình thức và thiết kế. Bây giờ có thể thấy nó bắt chước kiểu mẫu Regency và Victoria, tất cả nháo nhào vào với nhau tạo nên hỗn loạn.
      Về thực chất Fairley Hall là hổ lốn của các thời kỳ khác nhau, cạnh tranh nhau để tạo nên bề mặt cân đối, hài hoà, thiếu cái đẹp. Nhà rộng, chắc chắn, giàu có, tòa nhà thực , thế, nhưng mâu thuẫn trong kiến trúc của nó làm nó gớm ghuốc. Blackie thở dài. cái đơn giản và nghĩ tới những ngôi nhà Georgian ở Ireland với những đường nét nhịp nhàng, cân đối hoàn hảo. ngờ là lại thấy ngôi nhà như thế này vùng đồng hoang Yorkshire nhưng phải nhận thấy tồn tại, tầm quan trọng của gia đình Fairley, giàu có ghê gớm của họ, và chờ đợi cấu trúc trang nhã và có khiếu thẩm mỹ hơn thế.
      Họ gần tới ngôi nhà Emma cắt dòng ý nghĩ của khi thấy thế nào?” nhìn lên tò mò và kéo ống tay áo của .
      - “ nhiều lắm! Đúng là điên rồ, đúng như ba em . Có thể đây là ngôi nhà lớn nhất trong vùng này, nhưng nó hợp với khiếu thẩm mỹ của ”.
      - “Vậy, ngôi nhà như Hall này khi bước lên thế giới thượng lưu, thành triệu phú ngày nào đó như ?” thăm dò và nhìn cách láu lỉnh, “em cứ nghĩ tất cả các triệu phú đều sống trong những ngôi nhà vĩ đại như Fairley”.
      - “Đúng thế! Đúng thế!”, nhanh. “Đúng là họ sống trong những ngôi nhà vĩ đại, nhưng phải luôn luôn là những ngôi nhà xấu xí như Fairley Hall này, Emma ạ. bao giờ muốn ngôi nhà như vậy cho mình. Nó làm chướng mắt , đúng là như thế, bởi vì nó đẹp hài hòa, theo kiểu nào hết”, Blackie liếc nhìn phía trước và cười vì cái ý nghĩ có cái lăng kỳ quái như thế.
      nụ cười cay đắng lại lướt khóe miệng Emma và trong mắt ánh lên hài lòng hiểm ác. Mặc dù được tiếp xúc với thế giới ngoài vùng đồng hoang, vì thế có cơ sở để mà so sánh, vẫn hằng luôn hiểu theo bản năng của mình rằng Hall khó chịu cho con mắt của người ta, chút duyên dáng, vẻ đẹp. Cha và dân làng có thể gọi nó cách mỉa mai là điên rồ của Fairley nhưng dù thế nào, nó vẫn gây ấn tượng. cười mình, hơi hằn học đôi chút. Blackie vừa mới xác nhận những ý kiến của đối với Fairley Hall và điều này làm vui.
      quay sang Blackie, lúc này càng được kính trọng hơn và hỏi: “Thế thích sống trong ngôi nhà như thế nào, nếu trở thành nhà triệu phú như thế này?”
      Vẻ u ám khuôn mặt giãn ra và ngay lập tức được thay thế bằng rạo rực mãnh liệt. Đôi mắt đen của sáng lên khi thốt. “Nó theo kiểu Georgian, được xây dựng bằng đá trắng thuần khiết với cửa đẹp, những chiếc cột lớn cao vút, những bậc thềm rộng rãi. có rất nhiều cửa sổ cao sáng chói nhìn ra những thảm cỏ và những khu vườn xanh. Nó có rất nhiều căn phòng rộng thênh thang, trần cao ngất, và tất cả đều tràn ngập ánh sáng và khí. Sàn nhà được làm bằng gỗ sồi và những lò sưởi tất cả theo kiểu Robert Adam. Ở tiền sảnh rất rộng, cho lát đá cẩm thạch và cầu thang hình vòng cung dẫn tới tầng . Ở mỗi phòng đều dùng phấn màu xanh nhạt, màu ve nhạt, làm dịu và mát mắt, Và mua những bộ đồ đẹp cho tất cả những căn phòng ấy. Ừ, đúng thế! chọn kiểu tốt nhất của Sheraton và Hepplewhite và có thể chút Chippendale. Cả những bức họa nữ, cũng có và rất nhiều những thứ khác đẹp và sang. A mavourneen ơi, nó ngôi nhà làm cho em phải nín thở, là như thế. hứa với em điều đó. xây lấy theo thiết kế của , chắc chắn là như thế!”
      - “ xây lấy theo thiết kế của ”, nhắc lại bằng giọng tắc nghẹn, mặt đầy kinh ngạc.
      - “ làm thế nào mà biết được cách thiết kế nhà, Blackie?”
      - “Ờ, biết chứ”, trả lời cách kiêu hãnh. học, lớp buổi tối ở Leeds, học vẽ đồ án và như vậy là rất cần với kiến trúc. Rồi em thấy, Emma ạ, thế nào rồi cũng xây dựng ngôi nhà như thế và rồi em tới thăm khi em là phu nhân”.
      Emma nhìn Blackie trong kinh hoàng: “Ai cũng có thể tới trường buổi tối đó mà học sao?” hỏi, lòng nghĩ tới đứa em trai Frank của mình.
      Blackie nhìn xuống nét mặt mong chờ của , chứa chan hy vọng và với cách tự tin.
      - “Tất nhiên thế rồi. Ở lớp học ban đêm, người ta dạy cho mình mọi thứ mình cần học”.
      Câu trả lời của làm Emma sung sướng và ghi nhớ thông tin này để sau này kể cho Frank nghe, và hỏi với tò mò: “Vậy cái ông Robert Adam này là ai vậy và cả những người vừa nhắc tên đó? Sheraton, Hepplewhite và Chippendale?”
      Nét mặt Blackie rạng rỡ lên vì họ đề cập đến vấn đề thân thiết với . “Robert Adam là nhà kiến trúc lớn nhất của thế kỷ mười tám, Emma ạ. Ông xây dựng nhiều nhà lớn và đẹp cho tầng lớp quý tộc, trông tuyệt vời. A, nhưng mà Adam còn hơn thế nữa, nghĩ vậy, bởi vì ông hoàn thành nó đầy ý vị. Chưa ai vượt được ông ấy, mavourneen ạ. Những người khác mà nhắc tên, tiếp cách hăng say, là ba nhà đóng đồ vĩ đại nhất của thời kỳ Georgia, đúng là như thế. Những thợ thủ công bậc thầy làm đồ cho tầng lớp thượng lưu”.
      nhe răng cười và nháy mắt với . “Em biết , có những cái tốt nhất khi trở thành gã giàu có. Bởi vì thường tự nhủ: “Có tiền mà làm gì, Blackie O’Neill, nếu như mình chẳng được thú vị gì do giàu có đó?” Vì thế tiêu nó. Tiền là để như thế, nghĩ vậy. Em có đồng ý với ?”
      Emma nhìn cách tỉnh táo. Hầu hết khi nghĩ đến tiền, đó là dùng vào những việc cần thiết của cuộc sống. Blackie đưa ra những khả năng mới đối với . “Vâng, em cũng nghĩ thế”, cách thận trọng “chừng nào mình có đủ tiền thừa để mua tất cả những cái đẹp”.
      cười phá lên. Cười đến nỗi nước mắt vui ứa ra từ khóe mắt : “Em là Yorkshire thận trọng, có thể thấy được điều đó”, qua tiếng cười. “Nhưng thế nào là đủ, Emma? nghe số người bao giờ có đủ tiền để làm cho họ thỏa nguyện”.
      Như ngài điền chủ Fairley, nghĩ cách chua chát, nhưng lại : “Thế xây nhà của ở đâu, Blackie, nó có ở Leeds ?”
      lấy vạt áo lau nước mắt, nỗi vui sướng của giảm , lắc đầu: “, nghĩ nó ở đó. tính xây nó ở Harrogate, nơi tất cả những người thượng lưu sống”, cách quan trọng. “Ừ, chính là ở nơi đó, nghĩ thế”, tiếp, giọng vang lên chắc chắn: “Đó là thành phố đẹp. miền suối khoáng. Đúng là nơi cho gã lang bạt như . Em có nghe tới chỗ đó , Emma?”
      - “Có, mẹ em từng ở Harrogate cách đây lâu khi bà tới thăm Freda, người họ hàng của bà ở Ripon. Mẹ em với em về nơi đó lần. Bà quả nơi rất sang trọng”.
      cười: “Đúng thế, đúng thế, mà Emma này, em có thích lời miêu tả ngôi nhà mà xây dựng cho mình trong những ngày đẹp trời nào đó ?”
      - “Ô, em thích lắm, Blackie ạ! Ngôi nhà của tuyệt vời, em biết nhất định nó là như thế. giống như chỗ này. nên nhìn ngôi nhà này vào ban đêm. Nó làm cho em khiếp sợ hơn là khi em phải qua nghĩa địa”, thú .
      Blackie cau mày, nhìn quanh khuôn mặt bé của , nó trẻ con và đáng tin cậy, mỉm cười an ủi: “Ồ, nó chỉ là ngôi nhà thôi, em bé bỏng ạ. ngôi nhà thể làm hại gì em được”.
      đáp lại lời bình phẩm này, nhưng mím môi và rảo bước khi họ đột nhiên ngập trong những bóng xanh xám khổng lồ do Fairley Hall tỏa xuống. Giờ đây khi họ tới gần, Blackie nhận ra khía cạnh khác của ngôi nhà và chính là cái khía cạnh đó làm bối rối. Khi ngắm nhìn nó, Blackie thấy hình như tòa nhà lớn này trầm tư và thù địch cách lạ lùng y như thể nó chưa từng được biết đến cuộc sống, tiếng cười hay niềm vui. cảm giác kỳ quặc nhất là tất cả những người bước qua ngưỡng cửa đều bị nó giam cầm vĩnh viễn.
      nhìn lên. Những cửa sổ mênh mông nhìn xuống họ, những chiếc cửa sổ bịt kín với cuộc đời và đối với Blackie, chúng dường như đôi mắt của những người mù, trống rỗng, sâu, chết. vệt ánh sáng đập vào những bức tường đen và những cửa sổ mờ mờ, bí đó, thứ ánh sáng này, mạnh và chói dường như là để tô đậm thêm cái trơ trơ gì lay chuyển nổi và cái lạnh lẽo của Fairley Hall. Blackie tự nhủ là mình buồn cười và quá tưởng tượng, nhưng những xúc đông này giảm khi Emma dẫn qua góc nhà, ra khỏi bóng tối. Họ qua sàn ngựa rải sỏi, chan hòa ánh nắng và trời xanh về phía lối vào cửa của các đầy tớ. máy móc quàng tay qua vai rồi cười vì phi lý trong hành động của . tới đây lâu hơn và chắc chắn cần đến che chở. Mà che chở chống lại cái gì chứ? tự hỏi, khó hiểu với chính mình.
      Emma ngước nhìn và mỉm cười, y như thể lại lần nữa đọc được ý nghĩ của . Nhưng khi họ bước lên bậc thềm, nụ cười ấy lay động, ánh sáng trong mắt mờ . nét cảnh giác đọng mặt khi xoay quả đấm sắt cửa và bước vào bếp.

    6. ^^! Nếu bạn không gửi link bài viết trên Facebook được, hãy sử dụng link trong khung này để chia sẻ bài viết :