1. QUY ĐỊNH BOX TRUYỆN SƯU TẦM :

    Đặt Title theo mẫu [Tên truyện] [dấu cách] - [dấu cách] [Tác giả] [Số chương]
    ----•Nội dung cần:
    - Hình minh họa (bìa truyện, hình ảnh,etc,...)
    - Nguồn
    - Tác giả
    - Tên editor +beta
    - Thể loại
    - Số chương
    Đặc biệt chọn canh giữa cho đoạn giới thiệu
    ---- Quy định :
    1. Chỉ đăng những truyện đã có ebook và đã được public trên các trang web khác
    2 . Chỉ nên post truyện đã hoàn đã có eBook.
    3. Trình bày topic truyện khoa học, bôi đen số chương để dễ nhìn
    4 . Cần có trách nhiệm post đến hết truyện. Nếu không thể tiếp tục post liên hệ Ad và Mod

  2. QUY ĐỊNH BOX EBOOK SƯU TẦM

    Khi các bạn post link eBook sưu tầm nhớ chú ý nguồn edit và Link dẫn về chính chủ

    eBook phải tải File trực tiếp lên forum (có thể thêm file mediafire, dropbox ngay văn án)

    Không được kèm link có tính phí và bài viết, hay quảng cáo phản cảm, nếu có sẽ ban nick

    Cách tải ebook có quảng cáo

Người đàn bà đích thực - Barbara Taylor Bradford

Thảo luận trong 'Truyện Phương Tây (Sưu Tầm)'

  • ^^! Nếu bạn không gửi link bài viết trên Facebook được, hãy sử dụng link trong khung này để chia sẻ bài viết :
    1. dinh huong

      dinh huong Member

      Bài viết:
      183
      Được thích:
      0
      Chương 54


      Paul McGill lại lại trong căn phòng khách của Emma ở Wilton Mews, lòng bồn chồn, đôi tay đút sâu trong túi, hai vai gồ lên. dừng lại bên cửa sổ, nhìn ra ngoài, và cuối cùng khi quay đầu lại, đôi mắt chăm chú nhìn Emma. quan sát nàng vẻ ngẫm nghĩ nét mặt bối rối.
      Cuối cùng . “ hiểu tại sao em đề nghị với Arthur ly hôn, Emma. Quả thực hiểu nổi. nhgĩ chúng ta đồng ý với nhau là em tìm tự do của em ngay lập tức. Tại sao em còn trùng trình? Có phải bởi vì Constance ly dị với ? Em tin sao? Em biết rằng có ý định ở với em mãi mãi sao? muốn lời giải thích, Emma?”.
      - “ hãy đến ngồi bên cạnh em, ”, Emma dịu dàng.
      Paul ngồi bên cạnh nàng sofa, cầm tay nàng trong tay . “Tất nhiên em tin , Paul. Quyết định của em liên quan gì tới trường hợp của . Em biết làm tất cả mọi điều để sửa chữa lại. Và em ly hôn Arthur. Nhưng sau khi đứa bé sinh, đăng ký và làm lễ rửa tội . Em muốn đứa bé có tên, Paul. Em muốn giấy chứng sinh ghi là con tự sinh”.
      - “Có phải em thực muốn là em muốn con được nuôi dưỡng dưới danh Ainsley ? thích điều ấy, Emma. chắc có chịu điều đó !”.
      Emma nhìn ngạc nhiên. Đây là lần đầu tiên nặng với nàng. Nàng phải làm cho hiểu lý do của mình. “Em biết cảm thấy như thế nào”, nàng xoa dịu. “Nhưng chúng ta phải nghĩ đến đứa bé, Paul. thấy …”.
      - “Chính nghĩ đến đứa bé. muốn nó có tình che chở của và tất cả những thứ khác có thể cho nó và muốn nó lớn lên mà biết . Hơn nữa muốn con được nuôi dạy dưới ảnh hưởng của chứ phải của đàn ông khác. để nó sống dưới mái nhà của Ainsley trong bất cứ hoàn cảnh nào. Em biết ý kiến của về ta rồi đó. nghĩ ý về chuyện này, Emma”.
      - “Vâng, đúng thế, . Em với là đứa bé ở London. Nhưng em phải che chở đứa bé. được để cho nó mang điều ô nhục làm đứa con tự sinh suốt đời”.
      Paul thở dài thiếu kiên nhẫn: “Tiền của cho chở cho đứa bé, Emma. Làm nó miễn dịch khỏi bêu diếu. Hơn nữa, với em là công nhận nó ngay tức Emma, xin em, em phải nghĩ tới việc lấy tên làm cha của đứa bé trong giấy chứng sinh. mong muốn nhận quyền làm cha”.
      - “! Chúng ta thể làm thế được!”, Emma thét lên dữ dội, mắt nàng bốc lửa. Nhận thấy nét đau đớn thoáng mặt , nàng nâng tay lên môi hôn. Nàng nhìn Paul lâu và chăm chú. Nàng hít hơi dài và rất thong thả, bằng giọng chắc chắn, nàng kể nghe.
      Trước tiên nàng kể cho cuộc đụng độ với Edwina ngày hôm trước và cách nàng giải quyết với Arthur. Nàng kể nghe cuộc đời làm đứa ở tại Fairley Hall. Nàng kể về Edwin Fairley, nàng có mang, việc ta cự tuyệt nàng, và chuyến đầu đau đớn của nàng tới Leeds lúc còn là bé khiếp đảm. Nàng kể cho vật lộn và cảnh đói nghèo thiếu thốn, những ngày lao động cực nhọc nàng trải qua. Nàng kể cho nghe Gerald Fairley toan cưỡng hiếp nàng như thế nào. Nàng kể cho nghe mọi chuyện, nàng cách bộc trực và hùng biện, tỏ vẻ hoặc bi thảm hóa. Rất đơn giản, nàng chỉ đưa ra những kiện biểu lộ xúc cảm.
      Paul lắng nghe chăm chú, mắt nhìn chằm chằm vào mặt nàng, cảm động như chưa bao giờ trong đời . Khi nàng xong, ôm lấy nàng, vuốt mái tóc nàng, kéo nàng lại gần hơn, tràn ngập tình cảm che chở và thương .
      - “Kẻ nào lại có thể đưa ra câu chuyện khôi hài, là thế giới chúng ta sống đây là thế giới văn minh?”. thầm trong tóc nàng và hôn lên trán nàng. yên lặng rồi cách nhàng. “Ồ, Emma, Emma. phải đền bù nhiều… tất cả những nỗi đau khổ em chịu đựng bao nhiêu năm trời. Và làm điều ấy. hứa với em như vậy”.
      Paul giơ nàng ra xa và nhìn sâu vào mắt nàng. “Tại sao trước đây em kể cho tất cả những điều đó?”. Khi nàng cúi mặt trả lời, nhàng tiếp. “Em cho rằng nghĩ khác ư?”. cúi xuống hôn lên đôi môi nàng. Em hiểu nếu em nghĩ rằng quá khứ của em là điều hệ trọng đối với . càng em hơn vì những điều em làm, những cái em vượt qua để trở thành như bây giờ. Và vì tính cách bất khuất và sức mạnh to lớn của em. Em là người phụ nữ rất đặc biệt, Emma!”.
      - “ phải em cố tình tránh với ”, Emma lặng lẽ . “Hình như bao giờ em có dịp thuận lợi”.
      Paul nhìn nàng, trái tim đầy thương. nghĩ: “Ôi, em , biết bao nhiêu tàn nhẫn và nhục nhã mà em hẳn phải chịu đựng và biết bao dũng cảm em đương đầu với cuộc đời”.
      Emma : “Bây giờ hẳn hiểu rồi, phải Paul? Em định về chuyện em chưa ly dị Arthur. Em muốn con của chúng ta ngày nào đó chống lại chúng ta. Em thể chịu nổi lặp lại của cảnh hôm qua với Edwina”.
      - “Điều đó bao giờ xảy ra. phải với con chúng ta”. Nhưng đúng, bây giờ hiểu, : “ làm bất cứ cái gì em muốn, Emma”.
      Đứa con của họ, đứa bé , sinh vào đầu tháng năm, năm 1925 tại nhà hộ sinh tư ở London. Chính Paul là người lại lại ở ngoài phòng đợi. Chính Paul là người ôm Emma trong tay sau khi nàng ở cữ. Chính Paul là người chọn tên cho đứa bé. Nó được đặt tên là Daisy theo tên của mẹ .
      Ngày hôm sau, Paul đến thăm Emma, vẻ mặt rạng rỡ, hai tay ôm đầy hoa và quà tặng: “Con của tôi đâu?”, hỏi.
      - “ ý tá mang nó vào ngay bây giờ”, Emma và mỉm cười tươi.
      ngồi xuống mép giường, ôm lấy Emma: “Còn em của thế nào?”.
      - “Em khỏe mạnh lắm, Paul. Nhưng được làm hư em”.
      - “Rồi em quen với những việc như thế này. Từ nay về sau luôn luôn là như thế”. cầm tay nàng trong tay và trước ngạc nhiên của nàng, tháo chiếc nhẫn cưới của nàng trước khi nàng kịp phản kháng, mở cửa sổ và ném nó ra ngoài.
      - “Trời ơi, Paul, làm gì vậy?”
      trả lời. thò tay vào túi lấy ra chiếc nhẫn bạch kim. lồng nó vào ngón tay nàng và thêm viên ngọc lục bảo McGill vuông lớn vốn của mẹ và bà trước đó.
      - “Chúng ta có thể có đạo, nhưng em là vợ của ”. : “Từ ngày hôm nay cho đến khi chết chúng ta mới lìa nhau”.
      Từ khi trở lại quốc năm 1923, Paul McGill để lộ tình cảm của mình với Emma rệt. nàng say đắm. còn thán phục nàng, và rất tự hào vì những thành tựu của nàng. Sau khi đứa con của họ ra đời, tình cảm của họ càng sâu đậm thêm. Nàng và đứa con của họ trở thành cốt lõi của đời , lý do của sống của . Nó tạo nên hình thù và ý nghĩa cho tất cả những cái làm, cho phương thức sống, cho công việc kinh doanh khổng lồ của . Tất cả những nỗi thất vọng và thất bại ngày xưa, những vết thương chồng chất qua bao năm tháng bị cuốn , và lòng tràn đầy những niềm hy vọng nở hoa. Daisy có thể mang tên , nhưng nó là con , máu và trong nó nhìn thấy tiếp nối của giòng họ nhà McGill và triều đại do ông thành lập, người đại úy hải quân Tô Cách Lan định cư ở Coonumble năm 1852.
      , tôn thờ Emma và Daisy, có ý định để cho bất cứ ai trong hai người xa , hoặc xa họ lâu mặc dù phức tạp của cuộc đời họ và những trở ngại gây ra bởi những mối ràng buộc về hôn nhân. nắm chắc công việc trong tay vào cuối mùa hè năm 1925 khi mua dinh thự cực kỳ lộng lẫy ở quảng trường Belgrave và lập tức trao quyền sở hữu cho Emma.
      Sau đó tu sửa lại thành hai ngôi nhà, hề tiếc tiền. Khu hơn ở tầng trệt dành cho mình. Ba tầng trở thành căn nhà xinh cho Emma, Daisy, người trông trẻ, người giữ nhà, người hầu . Đối với người quan sát bình thường, hai căn hộ này hoàn toàn tách biệt, riêng tư, mỗi căn hộ có lối riêng. Nhưng thực nó được nối bằng cầu thang riêng bên trong.
      Họ cùng chung sống nhưng kín đáo thận trọng, đúng với mọi khuôn phép bởi vì Emma muốn phô trương những mối quan hệ của họ trước những đứa con khác của nàng, và trách nhiệm làm mẹ của nàng. Paul luôn luôn ngạc nhiên trước tính chất hai mặt trong bản chất của nàng. trêu nàng, gọi nàng là mớ mâu thuẫn và rằng nàng, con người biết sợ là gì trong công việc và coi khinh những gì cuộc đời nghĩ về nàng lại nhạy cảm đến kỳ lạ đối với dư luận về đức hạnh cá nhân của nàng. “Khi nào ly dị rồi em chẳng cần quái gì hết”, nàng trì hoãn, Paul chỉ mỉm cười , nhận ra rằng cẩn tắc về cuộc sống của họ, nảy sinh từ những kinh nghiệm của cuộc sống thiếu thời của nàng.
      thể là, việc ly hôn đến sớm hơn người ta mong đợi. Vào tháng sáu, nhận thức được lòng ao ước của Emma muốn che chở đứa con của họ, Paul đồng ý để Emma đưa Daisy Yorkshire với Frank và Natalie. Với tư cách là người bạn lâu năm của gia đình, có mặt của có điều gì là bất tiện và, bởi vì kiện thay đổi bất ngời cho nên nó diễn ra ai chú ý tới. Vài ba hôm trước ngày làm lễ đặt tên thánh, bà mẹ của Arthur Ainsley bị quị và chết vì cơn đau tim. Lễ đặt tên thánh tiếp diễn với đám tang là niềm đau. Frederich Ainsley và Arthur đau buồn cũng chẳng thiết tha gì đến chuyện này. Daisy được rửa tội cách đầy đủ cố gì và ngày hôm sau, nàng đưa con trở lại London. Ba tháng sau, Frederich Ainsley, già nua, gầy gò và ốm yếu từ lâu theo vợ ông xuống mồ. Arthur được quyền thừa kế và với vẻ hào hiệp xưa nay chưa hề có, ta cho phép nàng ly dị mình vì có thông dâm. Emma ngạc nhiên. Nàng mua cái hào hiệp của Arthur mười nghìn pound.
      Khi quyết định ly hôn được đưa ra, cuộc đời của Emma thay đổi về căn bản. Nàng đem hai đứa sinh đôi, Robin và Elizabeth sống cùng với nàng ở quảng trường Bengrave và đúng như nàng đoán trước, Arthur phản đối gì. những sung sướng vì cuối cùng thoát nổi ta, nàng cũng rất thích khi hai đứa bé này lớn lên có ảnh hưởng của ta.
      Kit, sống ở ký túc về nghỉ hè với Emma, nó hề giấu giếm ý nghĩ tán thành Paul và mến , nó cũng chẳng giọt nước mắt nào về mất dạng thình lình của Arthur Ainsley ra khỏi cuộc đời thơ dại của nó. Emma cũng tổ chức lại công việc làm ăn của nàng về cơ bản, để có thể sống hầu hết thời gian ở London. Winston được chỉ định làm giám đốc điều hàng của những cửa hàng Yorkshire và các nhà máy, còn Emma giám sát những công nghiệp miền Bắc từ trụ sở của nàng ở cửa hàng Knightsbridge, mỗi tháng Leeds lần, ở đó nàng sống năm ngày hoạt động sôi nổi, làm việc nhiều tiếng với Winston.
      Nàng và Paul thận trọng đến mức, đặc biệt là trước mặt lũ trẻ, nhưng thời gian qua , và hình như ai để ý tới sắp xếp cánh sống bình thường của họ và ngôi nhà đầy những đứa con khác bố của nàng. Rất nhanh, Paul trở thành người chủ hộ danh nghĩa, và với sức mạnh của mình cộng với hòa nhã vốn có, vừa được lũ trẻ kính trọng vừa được mến và chẳng mấy chốc là người cha tinh thần của tất cả bọn trẻ. Dần dần Emma thấy thư thái. Paul kiên nhẫn giải thích với nàng là của cải kết hợp của hai người làm cho họ vượt lên những qui ước thông thường, làm cho họ được an toàn với xã hội và nàng thừa nhận điều . tự tin và lòng dũng cảm của nàng thắng được những điều nghi ngại trước đây.
      Paul và Emma rời nhau bước. mua cho nàng những đồ trang sức lộng lẫy, áo lông và áo ngủ xa hoa. tiêu cho nàng tiếc. Họ xem hát, nhạc kịch, hòa nhạc, ăn, hội hè. Họ giao thiệp với những người giàu có và thế lực nhất ở London và ở những thành phố khác khắp thế giới – các nhà chính trị, các tài phiệt, những người giao thiệp rộng, các nhà văn học nghệ thuật của ba lục địa. đưa nàng tới những thủ đô của châu Âu, những nơi hoặc công chuyện hoặc chơi. Nàng với tới New York và Texas nơi có những mỏ dầu, và hai lần nàng cùng trong những chuyến hàng năm của tới Úc. Paul vẫn cố gắng để tìm tự do, nhưng liên tục gặp phản đối khăng khăng mực của Constance, chị đồng ý ly dị. Đó là điều duy nhất làm phương hại đến hạnh phúc của . Mặc dù nhận Daisy theo đúng pháp luật, cung cấp cho cả hai mẹ con nàng nhưng vô cùng muốn lấy Emma và sắp xếp cuộc đời họ ổn định. Tuy nhiên, Emma thấy rất an toàn trong quan hệ nay của hai người, hàng thấy tình hình này có gì phải bận tâm và cố gắng làm giảm bới nỗi lo ngại của Paul. Giờ đây lại chính nàng là người bảo cứ bình tâm, đừng bực dọc như vậy, nàng nhận định cách lạc quan rồi cuối cùng mọi việc đâu vào đấy, nàng nhắc lại tình của mình đối với và cam đoan với là nàng hạnh phúc.
      Chỉ có điều duy nhất day dứt Emma là thái độ tiếp tục xa lánh của Edwina, bởi vì nàng vẫn chưa lấp được hố ngăn cách giữa hai mẹ con. giao lưu hãn hữu của nàng với đứa con cả là thông qua Winston người thay mặt Emma lo việc tài chính của Edwina. Sau hai năm để kết thúc trung học ở Thụy Sĩ, Edwina sống trong căn hộ ở Mayfair và sống cuộc sống xã hội hối hả đến chóng mặt với các bạn bè thân thuộc tầng lớp của ta, hưởng cái mức sống của con nhà giàu. Emma cắt bỏ chi tiêu của Edwina và lập quĩ tín dụng cho với nguồn thu nhập hàng năm . Emma mong muốn được nhìn thấy Edwina để lôi nó trở về trong lòng gia đình, nhưng nàng cũng đủ khôn ngoan để kìm mình làm bước dạo đầu, nàng hiểu rằng bước thứ nhất nhất thiết phải do con nàng bắt đầu.
      Và như vậy, chung Emma hài lòng, hơn bao giờ hết. Tình tận tụy của Paul, và tình của nàng đối với nâng đỡ nàng trong mọi lúc, Emma cũng tìm được an ủi lớn lao trong Daisy, nó là niền tự hào đặc biệt của nàng, và mặc dù nàng muốn thừa nhận điều đó với chính mình, nàng Daisy hơn bất cứ đứa con nào khác của nàng. Đây là đứa con của tình , đứa con duy nhất nàng vui mừng mang ở trong lòng. Có gần gũi giữa hai mẹ con mà nàng cảm thấy đối với những đứa con trước, với thời gian nó chỉ càng mạnh mẽ thêm. Có lúc khi nàng nhìn vào đứa bé lớn, trái tim Emma thắt lại với những tình cảm dịu dàng, thấy Paul phản chiếu trong đứa bé. Bởi vì Daisy đúng là con của bố nó, giống cha đủ đường. Luôn luôn bên cạnh bố, vô thức nó sao chép nhiều điệu bộ cử chỉ của bố, khi cười, mặt nó trở nên nghịch ngợm và thân thương. Về bản chất, Daisy dịu dàng dễ thương và vì trìu mến và chăm sóc của bố mẹ nên nó là bé tự tin và cởi mở, nhưng nó hoàn toàn phải là đứa trẻ hư hỏng, và rất tự nhiên đối với mọi người. Nó có tính cách vui vẻ, hoạt bát của mẹ, tính lạc quan và ý chí kiên cường của nàng.
      Khi Daisy lên năm, Paul khăng khăng đòi nó và Emma cùng về Úc. Sau tuần ở Sidney, đưa họ tới Coonumble và họ ở Dunoon bốn tuần. thông cảm lẫn nhau kỳ lạ nảy sinh giữa bé thông minh lanh lợi và cậu trai cùng bố khác mẹ, Howard khiến cả Emma và Paul đều cảm động vì mối quan hệ của hai em. Daisy hình như đến với của mình cách khác hẳn những người khác trước đây, tận tụy của bé đối với phụ thuộc của cậu đối với em làm ấm lòng họ. Từ đó về sau, hàng năm hai mẹ con trở về cùng với Paul, muốn tước niềm vui của Howard mà em cùng bố khác mẹ đem đến cho cuộc đời bị thu hẹp của cậu.
      Năm tháng trôi quá nhanh khiến Emma thường tự hỏi cái gì xảy ra với thời gian. Các con nàng đều lớn lên và rời ngôi nhà ở quảng trường Bengrave. Kit, chàng thanh niên đẹp trai rất giống Joe Lowther học tại trường Đại học Leeds còn hai người con sinh đôi học tại trường nội trú riêng của từng người, lần đầu tiên phàn nàn vì phải sống xa nhau. Nếu như Daisy là đứa con được thương nhất của Emma Robin ràng là đứa con trai được thích nhất của nàng và nàng nhớ nó hơn là nàng tưởng trong các học kỳ, Robin hề có thói quen hoặc tính cách khó chịu nào của Arthur Ainsley và lại hết sức giống Winston. Đó là cậu bé gầy đầy sức sống, trí tuệ, thông minh, duyên dáng bẩm sinh. Cậu là học sinh xuất sắc và Emma đặt nhiều hy vọng nơi cậu.
      em sinh đôi, Elizabeth cũng giống phía nhà họ Harte. Thỉnh thoảng Emma nhìn con và nín thở, nàng thấy tiếng vang vọng của mẹ nàng trong đứa con này, và thỉnh thoảng nàng bắt gặp thoáng của Olivia Wainwright trong khuôn mặt kiều của Elizabeth. Lúc ấy nàng lại trầm ngâm nhớ về quá khứ, gợi giống nhau huyền bí giữa hai người đàn bà từ hai thế giới biết bao là khác nhau làm nàng giật mình. Trong số tất cả các con của Emma, Elizabeth trang nhan sắc, dáng liễu, kiều, khuôn mặt thanh tú trong như ngọc với mớ tóc mây màu đen. cũng được tạo hóa phú cho quyến rũ. may, Emma còn phát ra những nét khác ở mà nàng cảm thấy nản lòng. Elizabeth tính tình nóng nảy, đồng bóng và thường là khó kiềm chế, Paul đồng ý với Emma là bé cần bàn tay kiên quyết, và họ hy vọng kỷ luật ở nhà trường ký túc làm cho ta dịu lại mà vẫn làm mất tinh thần của .
      Công việc kinh doanh của Emma vẫn tiếp tục phát triển. Cửa hàng Knightsbridge trở nên nổi tiếng thế giới, những cửa hàng Yorkshire trở thành tên cửa miệng của các gia đình, ở miền Bắc: các nhà máy mở mang; cả các nhà máy quần áo Kallinski cũng vậy; công ty Emeremm bây giờ là cơ sở kinh doanh Harte phát triển nở rộ thành tổ chức có nhiều chi nhánh khắp thế giới. Theo bản năng khôn ngoan của mình và nghe theo lời khuyên của Paul, Emma đầu tư tiền cách khôn ngoan và tăng vốn của mình lên nhiều lần, cũng như tiền của Winston, Frank, nàng cũng trông nom công việc tài chính của cả hai người này. Đến năm nàng bốn mươi sáu tuổi Emma triệu phú của nhiều triệu phú và là thế lực phải tính đến, phải chỉ ở London và miền Bắc nước mà còn ở phạm vi thế giới nữa.
      Mặc dù hạnh phúc của nàng và Paul và gia đình nàng, bận rộn như vậy với những công việc kinh doanh khổng lồ những mối quan tâm của Emma đối với gia đình nhà Fairley vẫn giảm mảy may. Công việc của họ vẫn tiếp tục ám ảnh nàng như bao giờ. Gerald Fairley, sau khi nàng làm cho phá sản năm 1923, sống vài năm khốn khổ của cuộc đời ta nhờ ở hào phóng của Edwin, vì lò gạch của ta còn kiếm được lời lãi gì nữa. ta chết năm 1926, ràng vì bản chất thái quá của ta, Emma nhận xét với Blackie như vậy khi nghe tin, và những năm tiếp theo đó, cái nhìn lạnh lùng của nàng chỉ nhằm vào Edwin. Nàng theo dõi công việc của ta cách chăm chú. Nàng mong cho ta thất bại! Nhưng ta làm cho tên tuổi của mình được nổi vì là luật sư xuất sắc bảo vệ cho những kẻ phạm tội, và tin đồn luôn loan là được chọn là làm luật sư cho nhà vua, mặc dù điều này vẫn chưa xảy ra. sống và tập nghề ở London, nhưng vẫn hoàn toàn cắt đứt liên hệ của với Yorkshire. thường ở Leeds nơi dành cố gắng và nghị lực cho tờ Yorkshire Morning Gazette, đúng như Adam Fairley làm trước đó. là chủ tịch hội đồng là người góp cổ phần lớn và như vậy nắm quyền hàng ở tòa báo.
      Emma muốn tờ báo ấy, và nàng từ điều gì để chiếm đoạt nó. Cả Winston và Blackie chỉ ra rằng nàng làm đủ để phá ảnh hưởng của nhà Fairley ở Yorkshire rồi, và khuyên can nàng hãy thôi chuyện phục thù và quên chuyện tờ báo . Nhưng Emma, bao giờ cũng khăng khăng làm theo ý mình và luôn mang chí phục thù với nhà Fairley. Nàng quyết tâm đoạt tài sản duy nhất còn lại của họ. Dần dần nàng bắt đầu các cổ phần chung làm theo cách nhàng thầm lặng của nàng và kiên nhẫn chờ đợi cho đến khi tìm được cơ hội thuận tiện để tấn công Edwin. Mặc dù tờ báo hụt tiền, bằng cách nào đó Edwin vẫn làm nó hoạt động, bám lấy các cổ phần của mình, trước bực bội của Emma. Trừ phi cho đến khi nào nàng giật được những cổ phần ấy từ nơi , nàng tài nào có thể tiến vào và chiếm lĩnh được nó. Nàng mơ ước tới cái ngày nàng hẩy được Edwin ra. Chỉ khi đó trả thù của nàng mới hoàn hảo.
      - “Và em có đủ kiên nhẫn của Job(1)” nàng với Winston ngày mùa hè năm 1935. “Em vẫn được nghỉ ngơi chừng nào em chưa làm chủ được tờ Yorkshire Morning Gazette, và thế nào cũng có ngày em làm chủ nó”.
      - “ biết em làm như vậy”, Winston và cựa mình ghế. châm điếu thuốc và tiếp: “Hôm qua Joe Fulton gọi điện cho . Ông ta sẵn sàng bán cho em những cổ phần còn lại trong tờ Ngôi sao Sheffield. Nếu em mua, em kiểm soát được. Em có muốn những cổ phần ấy ?”. “Có chứ”, Emma tuyên bố, mặt nàng sáng lên. “Em cũng nghĩ rằng nên hỏi chuyện lại với Harry Metcalfe. Ông ta thèm bán tờ Quan sát Yorkshire buổi sáng từ lâu. Em nghĩ em muốn làm chủ nó. Chắc chắn em có thể dùng nó làm phương tiện chống lại Edwin Fairley. Nếu chúng ta mua các cổ phần ở cả hai tờ báo em thực có chỗ đứng trong công việc in ở miền Bắc”. Mắt nàng sáng lên. “Chúng ta hãy bắt đầu công việc nữa, Winston. Chúng ta gọi nó là gì nhỉ? Chẳng hạn như Công ty Báo chí hợp nhất Yorkshire chăng?”, nàng gợi ý và tiếp trước khi Winston có thể trả lời, “phải đó, nghe cái tên được lắm. Chúng ta hãy làm như vậy!”.
      - “ hiểu lý do nào em chiếm lĩnh cả hai tờ báo, Emma”, Winston , đột nhiên bị lan lây cái nhiệt tình của nàng. Chúng ta có thể chuyển qua cách dễ dàng. Chỉ cần quản lý tốt, có tiền và vài nhà báo thượng hạng để thổi nguồn sinh khí mới. Có lẽ Frank có thể tiến cử được đúng người. Ngày mai tiến hành ngay việc này”.
      - “Giá như chúng mình nghĩ đến điều này từ trước”, Emma thốt lên, nàng kìm được thích thú trước cái viễn cảnh trở thành giám đốc nhà xuất bản bước vào cạnh tranh với Edwin Fairley.
      - “Những ý nghĩ thực rệt lại là những điều mà chúng ta nghĩ đến sau cùng, em ạ”, Winston nhận xét cách ngẫu nhiên và đứng lên.
      chầm chậm bước qua phòng khách tráng lệ ở Pennistone Royal, ngôi nhà lớn gần Ripon, mà Emma mua ba năm trước và đứng ở cửa sổ nhìn xuống mảnh đát phía dưới. Đó là ngày chủ nhật tháng tám đẹp trời, bầu trời xanh trong ngăn ngắt, thảm cỏ cắt tỉa gọn gàng, những hàng rào tạo hình cây cảnh, những bui cây sum suê, tươi tốt óng ánh trong trời hè. Những mảnh vườn ngoạn mục, sắp xếp theo thời Elizabeth và hết sức với màu xanh bát ngát và những luống hoa tươi rực rỡ.
      Xa xa, nghe thấy tiếng bồm bộp của những quả bóng tennis và ngạc nhiên hiểu sao Paul có thể chơi ba séc trong ngày mệt mỏi như thế này. Những ý nghĩ của hướng về cái tin mà phải báo cáo cho Emma biết, tìm cách đơn giản nhất với nàng. nhìn Emma ngồi ghế sofa đẹp thanh thoát trong chiếc áo trắng lụa và mái tóc màu hung đỏ rũ xuống hai vai. Ồ, có thể phải với nàng. , “Hôm qua chuyện với Edwina. Nó sắp lấy chồng”.
      - “Lấy chồng!” Emma nhắc lại và ngồi thẳng dậy sofa. Nàng đặt sổ chi thu nàng đọc xuống, và chú ý nghe. “Lấy ai thế?”.
      Winston hắng giọng. “Lấy Jeremy Standish”. Emma há hốc miệng nhìn. ‘Jeremy Standish? Bá tước Dunvale?”.
      - “Đúng rồi. Hai tuần nữa tổ chức đám cưới. Tất nhiên ở Ireland, tại điền trang của ông ta, Clonloughlin.”
      - “Nhưng ông ta hơn nó rất nhiều tuổi, Winston”, Emma . “Em dám chắc về đám cưới này”. Nàng cau mặt. “Theo ý em, nó phải là hôn nhân thích hợp cho lắm”. “Hoàn toàn thể làm được gì về chuyện này đâu, Emma”. Winston , người vì phản ứng hiền lành như vậy của em . “Xét cho cùng, nó cũng hai mươi chín tuổi rồi. Hơn nữa có lẽ nó cũng cần có được ảnh hưởng vững vàng. Và ông ta quả là có nhiều tiền”.
      - “Có lẽ đúng”, Emma trầm ngâm. Nàng nhìn Winston.
      - “Có lẽ nó mời ai trong gia đình?”.
      Winston lắc đầu. “Đúng. sợ là nó mời ai. Nhưng nó có với đưa nó về nhà chồng. Em thấy thế nào? Em có phiền lòng , cưng?”.
      Emma nghiêng người nắm lấy tay . “Ồ, thân mến, tất nhiên là . Em nghĩ để nó đề nghị như vậy là tuyệt vời. Em hết sức vui. Nếu có mặt ở đó cảm thấy đơn”. Emma dừng lại rồi hỏi cách ngập ngừng. “Nó có nhắc gì đến em ?”.
      - “, Emma ạ, . xin lỗi”.
      - “Tất nhiên em gửi quà tặng đẹp”. Emma lái câu chuyện sang hướng khác, nàng nhận ra rằng cần phải thêm điều gì nữa, nhưng đôi mắt nàng tư lự trong khi nàng vẫn bàn tiếp công việc kinh doanh với trai.
      Khi Winston từ Ireland trở về, Emma đầy những câu hỏi về Edwina, bá tước Dunvale và về đám cưới. Winston làm thỏa tính tò mò của em và làm dịu bớt nỗi lo ngại của nàng về đám cưới của Edwina với con người hơn nó hai mươi tuổi. thấy Edwina sung sướng mê cuồng, mặc dù biết chắc có phải vì trở thành bá tước Dunvale và trở thành thành viên của gia đình -Ireland cổ và nổi tiếng hay là bởi vì thực chồng. Dunvale về phần mình choáng váng vì Edwina và Winston có hoài nghi nào về tình cảm của dâu và chú rể.
      năm sau, Emma trở thành bà ngoại khi Edwina sinh con trai, đặt tên là Anthony George Michael. Vì là con đầu lòng, đứa bé có tước hiệu Lord Standish và là người thừa hưởng tước hiệu. Emma viết thư cho con chúc mừng , và gửi cho con món quà như nàng gửi nhân dịp cưới. Emma nhận được lời cảm ơn lịch nhưng lạnh lùng của Edwina, nàng hy vọng nó dẫn tới hòa giải hoàn toàn ngày nào đó. Và nàng quyết định cần tới giúp đỡ của Winston. Kit có tinh thần xây dựng cho lắm. Cảm thấy bị coi thường vì được mời tới dự tiệc cưới chị, cậu đưa ra những nhận đinh chê bai là chị coi thường gia đình, sĩ diện mỗi khi có dịp nào đó. Paul luôn luôn khuyên răn cậu, và cuối cùng bực tức cấm cậu được về Edwina với mẹ nữa. Bản thân vẫn khuyến khích niềm tin của Emma là rồi đây nàng lại hòa thuận trở lại với đứa con lớn, hiểu đó là cái khả năng duy nhất có thể được nàng chấp nhận, và dám phá niềm hy vọng ấy.
      trong những khả năng lớn lao nhất của Emma là bỏ xó những vấn đề thể giải quyết được, và cuối cùng nàng để Edwina ra khỏi trí óc mình. tại là ưu tiên hàng đầu của nàng, là mối quan tâm cấp bách của nàng. Cuộc sống của chính nàng luôn luôn là điều thôi thúc. Còn công việc của nàng, mối quan hệ của nàng với Paul và những đứa con khác. Nàng còn điều gì phàn nàn về chúng và chung yên ổn, hòa thuận. Kit làm việc ở nhà máy và học việc kinh doanh len. Robin trong những năm cuối cùng ở trường nội trú, chuẩn bị lên Cambridge để học luật. Elizabeth bày tỏ ý muốn theo bước chân Edwina và ở trong trường sang trọng ở Thụy Sĩ. Cuối cùng đến ngày Daisy rời nhà lên đường vào nội trú, Emma và Paul lần đầu tiên còn lại mình trong ngôi nhả ở quảng trường Belgrave.
      - “ sợ là bây giờ em phải gắn với , và chỉ với thôi”, trêu nàng buổi tối khi họ uống champage trong thư viện.
      - "Em nhớ tất cả chúng nó, đặc biệt là Daisy, nhưng em cũng sung sướng vì cuối cùng chúng ta có những thời gian bên nhau, Paul. Chỉ hai ta”.
      - "Và chúng ta có nhiều thời gian, Emma. Biết bao là năm tháng trải dài trước mắt”. cười. “ biết em cảm thấy như thế nào, em , nhưng thích nghĩ tới cái viễn cảnh già cùng với em”.
      Đó là tuần đầu tháng chín năm 1938. Họ ngồi trong thư viện đẹp đẽ và êm dịu, trò chuyện nhàng trong hoàng hôn buông xuống làm đầy căn phòng với những chiếc bóng nhàng trôi, Emma và Paul bao giờ nghĩ rằng có cái gì có thể xảy ra phá tan yên ấm của họ. Họ thanh thản với chính mình và với nhau, vẫn đương say đắm, trò chuyện hồi lâu về tương lai bên nhau, lập những kế hoạch cho những ngày nghỉ Giáng Sinh ở Pennistone Royal và chuyện Mỹ năm mới. Sau đó họ ăn tối ở Quaglino, cười và nắm tay nhau như đôi tình nhân trẻ, và đó là trong những buổi tối vô tư lự nhất bên nhau từ bao tháng nay.
      Nhưng bóng đêm của bọn phát xít trải dài qua Trung Âu. Hitler giành được quyền lực ở Đức sau khi đốt Reichstag năm 1933, tiến quân. Chiến tranh là thể tránh được. Chỉ còn là vấn đề thời gian.

      Chú thích của người dịch:
      (1) – (Theo Cựu ước) tộc trưởng người Do Thái phải chịu đựng bao nhiêu thử thách của Chúa, vẫn giữ vững lòng tin..

    2. dinh huong

      dinh huong Member

      Bài viết:
      183
      Được thích:
      0
      Chương 55


      - “ có chiến tranh ở Thái Bình Dương cũng chắc chắn như có chiến tranh ở châu Âu”, Paul McGill cách bình tĩnh. “ thể tranh cãi được. Nhật Bản công nghiệp hóa chậm như Đức, và thành công của hai nước này làm cho họ trở thành những dân tộc kiêu căng, hiếu chiến với những kế hoạch thống trị thế giớ”. ngừng lại, hút thuốc: “Tôi biết là tôi lầm Dan ạ. Mỹ chuẩn bị. Châu Âu may là chưa”. Daniel P. Nelson, trong những người có thế lực nhất thế giới và là cháu nội của nam tước lừng danh nhất gật đầu tư lự. mỉm cười nhưng đôi mắt lo lắng khi : “Tôi nghi ngờ , Paul. Tôi cũng như vậy nhiều tháng nay. với tổng thống mới tuần trước ở công viên Hyde Park là Nhật Bản có những mục đích thực của họ ở Thái Bình Dương. cho chính xác là từ những năm hai mươi. Roosevelt mù. Ông nhận ra tình thế. Mặt khác, đất nước này vẫn còn phục hồi sau thời gian đình trệ. phải là công nghiệp trong nước, vẫn còn mười triệu người thất nghiệp ở đây, Paul”.
      - “Có, tôi biết. Điều làm tôi lo ngại là Quốc hội thông qua ba đạo luật trung lập mấy năm trước, thái độ chung là vẫn theo chủ nghĩa biệt lập. Tôi sợ là bây giờ tình hình vẫn là như vậy. Tuy nhiên, nước Mỹ thể giữ trung lập nếu nước bước vào cuộc chiến tranh với Đức”.
      Dan : ‘Nhưng Roosevelt tôi biết, ông ấy phải là người theo chủ nghĩa biệt lập. Tôi cảm thấy ông ấy tới giúp nước nếu cần thiết. Chúng tôi là những đồng minh tự nhiên hơn thế kỷ nay, và ông ấy cũng nhận ra được rằng thể để cho phương Tây bị sụp. Nhưng- thôi, đến câu chuyện chiến tranh đáng buồn ấy thế là đủ rồi, Emma có vẻ nghiêm trọng quá”.
      - “Tôi rất quan tâm”, Emma , “như bất cứ người được biết tin tức ngày nay. Em tôi là người viết bài bình luận chính trị ở London, cậu ấy tin rằng Hitler muốn làm bá chủ toàn cầu và trừ việc gì để đạt được điều đó. may, giống như người bạn thân của cậu, Winston Churchill, Frank bị phớt lờ. biết đến ban giờ thế giới mới mở mắt ra để mà nhìn vào cái diễn biến”.
      Dan mỉm cười yếu ớt: “Cái viễn cảnh của cuộc chiến tranh thế giới mới là đáng kinh sợ. Có khuynh hướng là làm ngơ trước cái tai họa sắp xảy ra. Công chúng có cái tật xấu là rúc cái đầu tập thể của nó vào cát, cũng như số lớn chính khách”.
      - “Tôi nghĩ đó cũng là bản tính của con người – lòng ao ước gặp phải khủng khiếp như chiến tranh. Nhưng chúng ta phải chuẩn bị…” Nàng ngừng lời khi bắt gặp ánh mắt của Paul. Nhận thấy muốn bàn công chuyện với Dan P. Nelson, nàng lẩm bẩm: ‘Vâng, thôi tôi tạm biệt các . Xin thứ lỗi, tôi phải tiếp các vị khách khác của tôi”.
      Hai người đàn ông nhìn nàng lướt qua phòng khách, chiếc áo lụa trắng bồng bềnh, những viên đá quí ánh lên ở cổ và tai, cánh tay và bàn tay nàng. Dan : "Tôi tin rằng Emma là người đàn bà đáng chú ý nhất chưa bao giờ tôi được gặp. người may mắn”.
      - “Tôi biết”, Paul trả lời. hướng chú ý vào Dan P. Nelson và tiếp: “Tôi muốn chuyện với về những tàu chở dầu của tôi và số công việc cấp bách khác. Tôi nghĩ chúng ta vẫn còn đủ giờ trước khi xem nhạc kịch. Chúng ta hãy vào thư viện ”. Họ tuồn ra lặng lẽ.
      Trong khi Emma lại giữa những người khách khác, tụ tập trong tòa nhà sang trọng ở đại lộ số Năm, ý nghĩ về cuộc chiến tranh luôn luôn lẩn quẩn trong đầu nàng. Mới sáng hôm nay thôi, nàng nhận được lá thư đáng bận tâm của Frank, vừa từ Berlin về. có đầy những tiên đoán kinh khủng, và tin tưởng ở phán đoán của , nàng biết là cường điệu. nước bước vào chiến tranh cuối năm nay, và nàng tin em. Nàng liếc nhìn ba người đàn ông khác trong phòng. Họ cũng có những ảnh hưởng quốc tế to lớn và của cải kết hợp của họ lên tới hàng trăm tỉ dollar. Nàng thấy ánh mắt của họ để lộ sợ hãi, mặc dù họ cố vui vẻ đình đám thích hợp với hoàn cảnh này. Phải, họ biết rằng thế giới bờ của hủy diệt khác. Nàng nghĩ tới hai người con trai mà lòng nhói lên lo âu. Cả hai đứa đều có khả năng để bị gọi ra nhập ngũ. Lại thế hệ trai trẻ nữa trong tuổi hoa niên bị hy sinh cho bộ máy chiến tranh. Mặc dù hơi ấm của căn phòng, nàng vẫn run lên và nghĩ tới Joe Lowther, và nhớ tới cuộc đại chiến tàn phá ghê gớm nó mang lại. Phải chăng hai mươi mốt năm qua chỉ là hưu chiến?
      Sau khi hai người ngồi trong lô của rạp Metropolitan, Emma tạm thoát ra khỏi nỗi âu lo tràn ngập khí, mắt nàng lướt qua cái trang trí lộng lẫy đỏ và bắt gặp cái đẹp lóng lánh của những người phụ nữ đeo trang sức lộng lẫy và cái thanh lịch của những người đàn ông. Nàng nghĩ, họ hình như có vẻ bình thường biết bao, thậm chí còn vô tư lự y như thể quên lãng cơn bão tích tụ.
      Emma cúi nhìn tờ chương trình, quyết định xem nhạc kịch. Chính nhờ Blackie O’Neill mà nàng học được về nhạc, và khi cảnh nhà hát làm người ta ngạt thở mở ra sân khấu, nàng đột nhiên ao ước được Blackie ở cạnh họ để cùng chia sẻ. Nàng bắt đầu thư thái, lôi cuốn bởi vở “Mignon”, Rise Stevens, giọng ca nữ trung trẻ mới lên sân khấu được hai tháng và có lúc, giọng hát tuyệt vời của làm Emma xúc động muốn khóc. là giọng hát thiên phú, nàng để mình cuốn bởi khúc arias mê đắm bởi màn biểu diễn của Rise Stevens và Ezio Pinza, trong những bộ trang phục đắt tiền và trong mấy tiếng đồng hồ nỗi sầu muộn của nàng hoàn toàn bị quên lãng.
      Paul mời tám người khách của họ tới Delmonico để ăn chiều, và khi họ ngồi vào bàn, Emma nhìn sang Paul, cố gắng tìm hiểu tâm trạng của . Mặc dù cuộc chuyện nghiêm chỉnh với Dan P. Nelson trước đó, lúc này tỏ ra quan tâm và lúc nào cũng tỏ ra là chủ nhà cởi mở, gọi rượu Dom và Pérignon cùng trứng cá caviar, khiến tất cả mọi người khuây khỏa. con người rực rỡ và đẹp trai nhất ở đây, Emma nghĩ và thấy chút sở hữu của mình. Đó là ngày 3 tháng 2 năm 1939. Ngày sinh của . năm mươi chín tuổi, nhưng còn rất phong độ, chút đốm bạc mái tóc đen của chỉ làm tăng thêm vẻ phong sương. Đôi mắt vẫn mất màu xanh linh hoạt và đôi lông mày ở vẫn mang màu đen hạt huyền cũng như hàng ria mép của . Có những đường hằn quanh đôi mắt ấy, nhưng khuôn mặt rám nắng của hoàn toàn có vết nhăn, thân thể rắn chắc, nổi bắp như hai mươi năm trước đây. Emma lúc nào cũng hơi bàng hoàng vì hình dáng của , đôi vai rộng và bộ ngực nở nang. Đêm nay, trong chiếc cà vạt trắng và áo đuôi tôm, trông có dáng vẻ quyến rũ, hấp dẫn hơn bao giờ hết.
      Mắt bắt gặp ánh mắt nàng, nháy mắt rồi nhìn nàng, cái nhìn tán thưởng ngày xưa mà nàng từng quen thuộc. Sao, cái chàng quỉ sứ này lại ve vãn nàng. Và, sau bao năm tháng, nàng nghĩ, bản thân nàng đến tháng tư này là năm mươi tuổi. Hình như thể nào tin được. Mười sáu năm khó tin. phải lúc nào cũng là những năm dễ dàng. Paul có thể có thẩm quyền và bướng bỉnh như chính nàng, và thường cảm thấy cần thiết phai khẳng định mình cách ép buộc. hách dịch thường có vẻ ông chủ và thường làm ai là người có quyền trong ngôi nhà này. Nàng làm theo ý mình trong hầu hết mọi việc thuộc về cuộc sống riêng tư của họ và đến lượt mình cũng đủ khôn ngoan để can thiệp vào công việc kinh doanh của nàng. Paul cũng là người thích tán tỉnh ve vãn và che giấu gì việc thích phụ nữ. Emma ngờ có thể có những phụ nữ khác khi ra nước ngoài mình, nhưng bao giờ tạo cho nàng những lý do để đau lòng, hoặc bối rối và nàng bao giờ nghi ngờ lòng tận tụy của . Và, bởi vì nàng coi ghen tuông về xác thịt là xúc động vô ích, nên nàng ít khi xét đến chuyện thiếu chung thủy của , nếu như quả là có. say mê của đối với nàng giảm theo thời gian và nàng biết mình là phụ nữ may mắn.
      Emma ngả người trong ghế và giữa những ly champagne, đồ ăn ngon, trò chuyện sôi nổi, khí vui vẻ ngự trị lên khách khứa, bạn bè của họ, nàng đẩy được những ý nghĩ bận lòng về chiến tranh choán tâm hồn nàng chiều nay.
      Tuần lễ tiếp theo, Paul nhắc tới chiến tranh nữa và thích nàng cũng cẩn thận cái đề tài ấy. Họ tới Đông Texas nơi Paul mua những giao kèo cho thuê dầu lửa ở Odessa và Midland trước bực tức của Harry Marriott. Emma đặc biệt thích người canh ty của Paul và ngần ngại lên điều đó khi nàng gặp vài năm trước. đường trở về New York, nàng nhắc lại ý kiến của mình và hỏi Paul tại sao Marriott lại vui về chuyện mua mới này.
      Paul cười và : “Bởi vì ấy luôn luôn muốn đứng về phía an toàn. ấy bao giờ đánh bạc. ấy sợ mất hoặc làm giảm bới những cái chúng ta tích tụ được qua năm tháng. Thằng điên. Chúng ta là trong những công ty dầu lửa lớn nhất ở Mỹ ngày nay, nhưng bành trướng vẫn là cần thiết. , là sống còn. Hary có ý định tốt nhưng ấy thiếu trí tưởng tượng. Em nhớ ấy càu nhàu như thế nào khi mua những tàu chở dầu? chứng minh là ấy sai. Chúng là những tài sản khổng lồ của công ty và đem lại nhiều tiền hơn nhiều. có tài đánh hơi dầu lửa và bảo đảm với em nó được phát ở Odessa và Midland trong vòng vài ba năm nữa. có ý định bắt dầu khoan ở đó, , cuối năm nay”.
      - “Cũng may mà có đại cổ phần trong công ty đó, nếu hẳn có những vấn đề thể vượt qua nổi với Marriott”, Emma .
      - “Em đúng”, Paul cười. “Chắc em nghĩ là ngu đến nỗi tiêu hàng triệu để đầu tư ban đầu mà lại kiểm soát được công việc, phải ”.
      - “Vâng, nàng thừa nhận và cười. “ đủ cứng cáp và thông minh để làm điều đó”. Nàng ngập ngừng: “ có buồn vì Daisy phải là con trai ?”. “Trời, ! Cái gì khiến em hỏi như vậy, em ?”.
      - “Chẳng là Howard thể theo bước chân . Em thường có ý nghĩ có thể thất vọng vì người con trai để nối nghiệp , dòng họ nhà McGill”. “Cái gì khiến em cho rằng gạt bỏ ý nghĩ Daisy làm điều ấy? Xét cho cùng, nếu nó giống bà mẹ đẹp của nó trở thành phụ nữ kinh doanh tuyệt vời. Và ngày nào, nó lấy chồng, có con, em hãy nghĩ đến điều ấy, Emma”.
      Nàng có nghĩ đến và bao giờ quên lời của .
      hôm vào cuối tháng hai, Paul từ văn phòng Sitex New York trở về sớm và Emma hiểu ngay rằng có chuyện ghê gớm xảy ra. có vẻ bận tâm khác thường hôn nàng lơ đãng, tự rót ly rượu, điều ấy hơi lạ vì lúc ấy mới chỉ bốn giờ.
      phải là người rào đón, nàng hỏi ngay. “ có chuyện gì lo ngại, Paul. Cái gì vậy?”.
      - “ bao giờ có thể giấu nổi em điều gì, em ”. nhấm nháp ly rượu, châm điếu thuốc rồi : “ đặt chuyến tàu về cho em tàu Nữ Hoàng Elizabeth. may mắn kiếm được phòng riêng cho em dù vào thời gian muộn như thế này, như vậy em được thoải mái, em . Em thứ năm”.
      - “ cùng em ?”. Nàng hỏi cố gắng hết sức bình thản, nhưng cổ họng nghẹn lại.
      - “, em . thể được”.
      - “Tại sao lại , Paul? có kế hoạch trở về với em cơ mà?”.
      - “ muốn trở lại Texas vài ba ngày để lo vài chuyện và để làm cho mình yên tâm là Harry hoàn toàn hiểu muốn bắt đầu khoan dầu ở Odessa càng sớm càng tốt. Rồi về Úc”.
      - “Nhưng hình như cuối năm mới phải về đó cơ mà!”.
      - “Cuối năm có thể là quá muộn, Emma ạ. Bây giờ phải càng sớm càng tốt, Emma, để mà lo liệu những khoản lợi tức của ở đó và bàn bạc với những người điều hàng các công ty của . Em biết tâm trạng của về mối đe dọa của Nhật Bản đối với vùng Thái Bình Dương. thể phó mặc cho may rủi được”.
      Mặt Emma tái . “Em muốn !”, nàng kêu lên. “Em sợ… sợ bị kẹt lại ở Úc nếu như chiến tranh xảy ra trước khi có thể trở lại . Chúng ta có thể xa nhau hàng năm trời”. Nàng đứng lên quì dưới chân . Nàng ngước lên nhìn . “ đừng , em xin ”. Nàng chạm vào mặt , khuôn mặt thân nhất đời này đối với nàng, đôi mắt nàng mờ .
      - “Em biết là phải , Emma thân ”, dịu dàng nhất. vuốt mái tóc nàng và nhìn nàng âu yếm. “Nhưng ở lâu. Nhiều nhất là hai tháng. Ở đó mọi việc cũng tương đối ổn. Nó tồn tại nhiều năm nay rồi. Tuy nhiên muốn biết chắc là mọi chuyện vẫn trôi chảy dù vắng mặt lâu hơn bình thường hàng năm. Và phải như vậy. Chúng ta biết cuộc chiến này kéo dài bao nhiêu lâu khi nó nổ ra, có phải ?”. mỉm cười với nàng cách tin cẩn. “ trở lại nhanh, muốn ở bên em ở nước khi biến xảy ra. Chắc chắn là muốn phải ở lại mình. Thôi nào, vui lên, em . chỉ có tám tuần thôi mà. Có gì đâu”.
      Emma tranh luận với Paul, hoặc định thuyết phục bỏ ý định vì nàng biết làm như vậy là vô ích. Tài sản của lớn đến choáng váng và thể rũ bỏ trách nhiệm. Quyền lực có những đặc quyền thể phủ nhận nhưng nó cũng đem lại những gánh nặng sụn lưng. ràng là Paul thể làm ngơ với tình hình chính trị thế giới và ảnh hưởng của nó đối với công việc của . Emma là người ở công việc và vị trí có thể hiểu được những động cơ của và thừa nhận kế hoạch cần thiết của , mặc dù nàng thích nó.
      Và như vậy, nàng làm vẻ tươi vui vài ngày tiếp theo trước khi . Nhưng ý nghĩ chia ly với Paul làm nàng buồn hơn bao giờ hết và nỗi buồn chán quanh quất bên nàng trong suốt cuộc hành trình về . Ngay khi nàng về tới ngôi nhà ở quảng trường Belgrave nó cứ còn dai dẳng, gậm nhấm nỗi thanh thản của tâm hồn.

    3. dinh huong

      dinh huong Member

      Bài viết:
      183
      Được thích:
      0
      Chương 56


      Cơn mưa như thác trút xuống khi Paul rời viện an dưỡng ở ngoại ô Sydney. kéo cao cổ áo mưa và lao về phía chiếc Daimler. ướt sũng khi vào tới bên trong xe, cởi chiếc áo vét ướ, quẳng nó cách cẩu thả lên ghế sau. lấy chiếc khăn tay lau bộ mặt ướt đẫm nước trước khi châm điếu thuốc. để ý thấy bàn tay mình run. nổi trận lôi đình với Constance, vì vậy điều này lạ. Xuýt nữa đánh ta vài phút trước đây, phải vận dụng toàn bộ lý trí để tự kìm mình, để từ biệt ta với chút lịch . Những cơn xúc động mãnh liệt của làm ngạc nhiên. Trong đời chưa bao giờ đánh người phụ nữ, từ nhiều năm nay chưa hề giận dữ điên cuồng như vậy.
      Paul đút khóa vào công tắc, đánh xe ra khỏi bãi đỗ và lái ra dường chính quay trở về thành phố. kiên nhẫn của với Constance hết từ lâu cùng với lòng thương hại và bây giờ căm ghét ta. Căm ghét ta. Mẹ kiếp, bị trói buộc với ta lâu hơn nữa. tìm cách để ly dị. chuyện với cố vấn pháp luật của . Phải có khe hở pháp luật để gỡ ra khỏi cuộc hôn nhân lố bịch này, chẳng phải là hôn nhân gì hết trong hai mươi bảy năm trường. là phi lý khi người có quyền lực ai có thể chối cãi được lại ở trong tình trạng chông chênh như thế này, bị trói buộc bởi kẻ loạn trí cứ bám nhằng nhằng lấy chỉ vì ngang ngạnh. tự hỏi biết làm gì Constance để ta trừng phạt đến như thế.
      từng là người chồng tốt trong những năm đầu. Chính do nghiện ngập và lang chạ của len vào cuộc tình của hai người và giết chết tình của với . phải có được tự do của mình. Cho Emma và Daisy. Và dứt khoát phải đạt được nó, dù trời long đất lở. nắm chặt tay lái và lao cách cuồng nộ đường.
      Bầu trời trắng, nhợt vì ánh chớp, chao đảo vì tiếng sấm bên tai, cơn mưa to bất thần tới, nước mưa trút xuống hối hả, dòng dòng xuống cửa xe thoáng làm mắt mờ . lái quặt quá nhanh, nhìn thấy chiếc xe tải tiến lại quá chậm. Theo bản năng quẹo và phanh, nhưng chiếc xe với tốc độ quá nhanh và hình như nó cứ tiến theo vận tốc của nó. Nó trượt sao điều khiển nổi và lao vùn vụt con đường đẫm nước. cố gắng lấy lại tay lái, nhưng mặc dù sức mạnh ghê gớm của , vẫn thể làm nổi. Chiếc xe chồm lên lề đường, tung lên , lộn vòng tròn rơi trong rãnh va vào tảng đá lớn. cảm thấy mình bị đè bẹp trong tay lái, rồi sau đó ngất .
      Chính người lái xe tải lôi ra khỏi đống đổ nát chỉ giây trước khi chiếc xe kia bốc lửa. Paul vẫn bất tỉnh nhân khi xe cấp cứu tới bệnh viện Sydney vài tiếng đồng hồ sau đó. Và vẫn bất tỉnh nhiều ngày liền. còn sống được là nhờ điều thần diệu, các bác sĩ .
      Paul tự đẩy chiếc xe lăn của mình qua phòng làm việc cho đến khi đến ngay trước bàn giấy của . châm điếu thuốc rồi bắt đầu nghiên cứu kỹ lưỡng đống tài liệu về luật pháp mà Mel Harrison, cố vấn pháp luật của đưa cho tuần trước, ngay trước khi xuất viện. liên tục lần qua những trang giấy, tìm bất cứ chỗ thiếu sót nho nào, hoặc câu thiếu ràng mà cho đến nay, vẫn chưa tìm ra. Nhưng để cho tuyệt đối chắc chắn trước khi ký, đọc lại lần cuối cùng, đọc từng trang chậm chạp, cân nhắc từng chữ cách tỉ mỉ. Sau ba tiếng đồng hồ, hài lòng thấy chỗ nào có thể thuyết minh sai lạc. Như thường lệ Mel thảo tập tài liệu cách tài tình, tất cả đều kín kẽ, có thể chịu được thử thách ở bất cứ tòa án nào, bất cứ nước nào thế giới nếu như nó bị thách thức. chờ đợi điều đó xảy ra. chỉ quan tâm tới việc những ý định chính xác của là trong sáng, và quả thực chúng là như vậy. Lần đầu tiên sau nhiều ngày, Paul mỉm cười. Câu chuyện xem chừng ổn.
      gần sáu giờ, Mel sắp sửa đến. người bạn kiên cường, tận tụy trong ba tháng nay từ khi xảy ra tai nạn, luôn luôn có mặt mỗi khi cần tới và có mặt mỗi khi cần. Chuẩn bị những giấy tờ pháp lý; chăm nom những công việc quá cẩn mật thể trao cho bất cứ ai; hàng ngày đến thăm ở bệnh viện; thậm chí còn lơ là cả vợ và gia đình vào những ngày cuối tuần, ngồi với nâng đỡ lòng dũng cảm của , lôi ra khỏi tâm trạng đen tối khi nhận chìm . Từ khi băng được tháo, Paul muốn tiếp người khác nào trừ Mel và những người làm việc ở các Công ty McGill. ràng muốn những người bạn khác nhìn thấy bộ mặt vỡ nát của . thể chịu được thông cảm, hoặc lòng thương hại của họ.
      Nỗi thất vọng ngấm ngầm qua người , nhắm mắt lại, tự hỏi hiểu còn có thể tiếp tục được bao nhiêu lâu nữa. Đôi khi nghĩ thể tha thứ được ngày nào nữa của cuộc sống trong tình trạng khốn khổ này. Số phận cay nghiệt.
      Tai nạn chẳng bao giờ xảy ra nếu như nghe lời Emma ở lại New York, đừng trở về Sydney. Giờ đây, như thế này, bị buộc vào xe lăn và phụ thuộc vào người khác trong hầu hết mọi việc cần. Đó là tình trạng mấy dễ dàng đối với . vốn là người thích uốn cuộc sống theo ý thích của mình, đảo lộn tình thế cho hợp ý mình. Nhưng từ khi xảy ra vụ tai nạn cảm thấy nỗi bất lực quá lớn, quá tai hại. Nỗi buồn bực trở thành cơn giận bốc lửa. Ngay cả tiền và ảnh hưởng của , ngày xưa vốn là vũ khí mạnh mẽ bây giờ cũng hoàn toàn vô hiệu lực.
      Smithers, người quản gia làm việc với trong nhiều năm, gõ cửa vào phòng làm việc cắt đứt dòng suy nghĩ của Paul, gõ cửa vào phòng làm việc cắt đứt dòng suy nghĩ của Paul: “Thưa ngài, ông Harrison tới. Tôi đưa ông ấy vào đây, hay ngài muốn gặp ông ấy trong phòng khác ạ?”.
      - “Làm ơn đưa ông ấy vào đây, Smithers”.
      lát sau, Mel nắm tay : “Paul có khỏe ?”.
      - “Tôi cảm thấy khá hơn nhiều, dù tin hay ?”, Paul và chỉ tay về phía người quản gia: “Làm ơn chuẩn bị cho chúng tôi như thường lệ, Smithers”.
      - “Có ngay, thưa ngài”.
      Paul quay chiếc xe lăn ra khỏi bàn giấy: “Chúng ta hãy ngồi bên ngọn lửa. Dạo này tôi luôn luôn thấy lạnh thấu xương”.
      Khi người quản gia khỏi. Paul : “Đáng lẽ mấy tuần trước tôi phải buộc các bác sĩ cho tôi xuất viện lúc đó. Tôi nghĩ ở trong môi trường quen thuộc là có lợi cho tôi rất nhiều”. “Đúng như vậy”, Mel vui vẻ, “Chúc mừng, bạn”.
      - “Chúc mừng”, Paul trả lời. Họ chạm ly và Paul tiếp: “Tôi để nhiều thời gian nghiên cứu giấy tờ, Mel. Bây giờ chúng đâu vào đấy. Chúng ta có thể ký chúng sau đó”.
      - “Tốt, Paul. Nhân tiện, tôi với Audrey tôi về nhà ăn cơm chiều. Nếu có thể chịu nổi có mặt của tôi hai đêm liền, tôi nghĩ tôi ở bên . Có được ?”.
      - “Tất nhiên. Tôi rất sung sướng có ăn tối với tôi”. lăn xe qua bên quầy rượu, rót ly Scotch nữa. “Ly của thế nào, Mel. Tôi rót thêm nhé?”. “Cám ơn, hãy khoan chút. Này, Paul này, bây giờ về nhà rồi mấy hôm nay tôi lại cứ luôn luôn nghĩ tới Emma. Tôi nghĩ chúng ta nên chị ấy đến. Tôi bàn chuyện này với Audrey và ấy đồng ý với tôi”.
      - “!”, Paul quay ngoắt chiếc xe lăn lại. nhìn vào mặt Mel, đôi mắt bốc lửa. “Tôi tuyệt đối cấm điều ấy!”. Giọng đanh lại: “Tôi muốn nàng nhìn thấy tôi trong tình trạng như thế này. Hơn nữa, tin tức mỗi ngày xấu . Chúng ta có thể có chiến tranh với Đức nay mai. Tôi muốn nàng nửa thế giới vào môt thời điểm nguy hiểm như bây giờ”.
      Mel nhìn Paul cách thận trọng. “Tôi hiểu những tình cảm của . Nhưng tôi lo sợ điều nàng làm đối với những bức thư của tôi, cũng như trong những lá thư của . cũng dùng những ảnh hưởng đáng kể của để những chi tiết của tai nạn đưa lên mặt báo vì thế nàng hay biết về tình trạng trầm trọng của . Nhưng phải chăng đến lúc viết cho nàng biết ? Nàng nên biết”.
      Paul lắc đầu: “Nàng được biết. Trong bất cứ tình huống nào”. dịu giọng lại: “Chưa nên. Tôi quyết định lúc nào là lúc nên với nàng”. Mặt trở nên rầu rĩ. “Làm sao người đàn ông có thể kể cho người đàn bà sôi nổi, say đắm như Emma là nàng gắn bó đời mình với kẻ tàn tật từ thắt lưng trở xuống, mất nửa mặt và…”. dừng lại nhìn Mel chăm chú. “Và liệt dương. mãi mãi liệt dương. Điều ấy dễ dàng đâu, bạn ơi, dễ dàng chút nào”.
      Mel biết trả lời thế nào, niềm thông cảm mãnh liệt tràn ngập, vội đứng lên khi Paul kịp nhìn thấy nỗi thương hại đầy mắt . bước ra quầy rượu, nhấc chai Scotch. : “Tôi nghĩ là đánh giá thấp Emma. Đúng vậy, tôi chắc chắn là như thế. Nàng muốn ở bên . Cho tất cả ủng hộ và tình . Chúng ta hãy điện cho nàng, Paul. Ngay bây giờ”.
      - “”, Paul , giọng đột nhiên thấm đầy mệt mỏi. “Tôi muốn nàng phải nặng gánh với tôi. Tôi có ích lợi gì với nàng. Nếu cần phải biết , tôi cũng chẳng có ích gì với bản thân tôi”.
      Mel trở lại lò sưởi, moi óc, tìm cách thuyết phục Paul gọi Emma. “Lúc này cần nàng hơn lúc nào hết trong đời, nhưng con quỷ ngang ngạnh và tự kiêu. Emma nhìn việc như vậy. Nàng . Sau nữa, nàng tôn thờ mảnh đất…”. Mel vội vàng chữa và hắng giọng. Thế rồi nét mặt rạng rỡ khi ý nghĩ khác chợt đến. nhanh. “Này, nếu muốn Emma phải lại, tại sao chính mua vé tới ? tháng là có thể tới nơi”.
      - “Điều ấy thể thực được. Tôi phải bệnh viện điều trị hầu như hàng ngày, tàu có phương tiện y học, cái loại tôi cần”. Paul nuốt ngụm rượu và đặt ly xuống bàn. lại nhìn Mel, đôi mắt hết sức trang nghiêm, giọng lạnh lẽo. “Còn điều tôi chưa với , Mel. tiên lượng về bệnh là xấu. Thực tế là rất xấu. Các bác sĩ biết là có thể tránh được nhiễm trùng vào thận bao nhiêu lâu. Nó thường giết chết những người bị chứng liệt hai chi - suy thận”.
      Mel nhìn Paul, vẻ mặt hồng hào của tái mét. “B…ao… lâu?” – lắp, thể hỏi hết câu.
      - “Chín tháng… là nhiều nhất”, Paul trả lời giọng vụ. điều chỉnh bản án tử hình của mình. còn lối thoát.
      Mel giọng thôi thúc đến tuyệt vọng. “Tôi nghĩ chúng ta phải mời thêm các chuyên gia, Paul. Chắc chắn phải có phương án để…”. “, còn phương cách nào hết”. Paul . “Nếu như tôi bị gãy xương sống, các bác sĩ có thể nối lại được. Nhưng đoạn cuối giây thần kinh xương sống bị dập nát. nay chưa có cách nào để làm việc đó”.
      Mel nhìn vào ngọn lửa. có lời nào để an ủi Paul. Tai nạn này là thảm họa, nhưng cứ tin là Paul có nhiều năm ở trước mặt, mặc dù phải gắn mình trong xe lăn. Nhưng bây giờ… Ôi, Trời ơi, là phí hoài quá, con người quí giá và xuất sắc đến như vậy. Cuối cùng, sau hồi dài yên lặng, : “Tôi có thể làm được gì , Paul? chút gì ? Chỉ cần báo tôi thôi”.
      Paul mỉm cười hiền hậu: “, bồ ơi. Cám ơn bồ. Đừng xem nó quá đau đớn như vậy. Và lạy Chúa, đừng bắt đầu trở nên yếu đuối về tôi như thế. Tôi cần cái tính vui vẻ của , cái lạc quan của . Vả nữa, trở thành cánh tay phải của tôi, ở bên tôi rất nhiều. Tôi muốn bộ mặt sầu thảm ngó nhìn tôi. Thôi nào, chúng ta hãy uống chầu nữa rồi ăn. Tôi có loại rượu Chambertin tuyệt hảo mà cha tôi để dành từ nhiều năm. Chúng ta làm vài chai cùng với bữa ăn. Có thể uống ngay bây giờ, trong khi vẫn còn…”. Paul im bặt. nhặt những chiếc ly uống hết, thả chúng vào lòng rồi lăn xe ra quầy.
      Mel lại thể nào năng được cho mạch lạc. tìm chiếc khăn tay và hỉ mũi ầm ĩ. nhìn qua đôi vai rộng và tấm lưng lớn của Paul nổi lên chiếc ghế, mắt mờ với nỗi buồn vô tận. là đau lòng khi cái thân thể đẹp đẽ ấy bị vỡ nát cách khủng khiếp như vậy, bộ mặt hết sức đẹp trai ấy bị biến dạng cách ghê sợ. Và con người này chịu đựng tất cả những nỗi đau khổ ấy cách khắc kỷ làm sao. thán phục Mel luôn luôn dành cho người bạn thân nhất và xưa nhất của mình lại tăng thêm. Can đảm và sức mạnh phi thường của trước thất bại vô bờ. tự hỏi biết ở địa vị mình, mình có đủ dũng cảm và bất khuất như thế hay . dám chắc. Có điều biết, Paul cần tấy cả ủng hộ và làm bất cứ điều gì chút dè dặt.
      Cũng buổi tối hôm ấy, rất lâu sau khi Mel về, Paul ngồi trong phòng làm việc mờ mờ sáng, ấp ủ vò rượu và hút thuốc ngừng. Mặt bình tĩnh, đôi mắt tư lự khi nhớ cuộc chuyện trước đó. Có lẽ Mel đúng. Có lẽ nên viết thư cho Emma, kể cho nàng . Trong những lá thư trước, giảm tai nạn và dùng công việc làm cái cớ để giải thích chậm trễ quay trở lại của . Phải, mắc nợ nàng điều đó. . Vì tất cả những năm tháng bên nhau và vì họ vẫn còn có ý nghĩa đối với nhau. Và, phải là tuyệt đối. gì khác đứng nổi với Emma. lăn xe đến bàn, kéo tờ giấy đến bên và bắt đầu bức thư.
      Sydney, 24, tháng bảy, 1939
      Emma thân nhất đời
      Em là cuộc sống của
      Đôi mắt ngước lên nhìn vào tấm ảnh nàng lồng khung ở góc bàn làm việc. cầm nó lên, nhìn chăm chú. Ảnh chụp sau khi sinh Daisy, trông Emma rạng rỡ, nàng mỉm nụ cười tươi chỉ riêng mình nàng có. nghĩ tim mình muốn vỡ tung vì thương, những giọt nước mắt bất chợt dâng lên mắt , xuống má sao ngăn được. Paul ấp ủ tấm ảnh vào ngực hồi lâu, ghì lấy nó như thể chính nó là Emma ôm trong vòng tay mình, nhớ tới quá khứ, nghĩ về tương lai. Và viết lá thư đó.

    4. dinh huong

      dinh huong Member

      Bài viết:
      183
      Được thích:
      0
      Chương 57


      Frank Harte rời quán El Vino, xuống phố Fleet về phía tòa soạn của tờ Daily Express, suy nghĩ về bài viết buổi chiều nay. NÓ vẫn Ở bàn của bời vì muốn khỏi văn phòng tiếng đồng hồ để suy nghĩ về giọng điệu của bài đó.
      giờ Ở El Vino được thư thái chút nào. Quán rượu chật ních phóng viên của tất cả các tờ báo, nét mặt họ u ám, giọng của họ rầu rĩ, khi họ về tình hình chính trị ngày xấu , và điểm lại tin tức đáng buồn ập đến từ mọi miền của châu âu. Giờ đây tự hỏi biết mình có quá mức khi nghĩ tới bài viết cho trang Ý kiến tòa soạn. Nhưng cái tên Neville Cham- berlain ngu ngốc cần phải đá ra khỏi cương vị. Winston Churchill, còn nghi ngờ gì nữa, là người cần giữ chức vụ thủ tướng khi chiến tranh là điều thể tránh khỏi. hiểu ông già cũng đồng ý với vấn đề này. Brawbrook ( 1) và Churchill là bạn từ lâu.
      Frank qua phố Fleet, nhìn lên tòa nhà của tờ Daily Express, khối kính và thép đen lóng lánh, kiến trúc đại thích hợp kế sát những tòa nhà cổ kính bao quanh tứ phía.
      Hình như ông già cố tình biểu lộ khinh bỉ đối với truyền thống. Và ai có thể hơn Lord Brawbrook, người bảo vệ mệt mỏi cho đế chế và tất cả những cái nó đưa đến. Những người cạnh tranh ghen ghét coi tòa nhà là điều gai mắt, xúc phạm đối với Phố Mực lịch sử, nhưng Frank lại thích. thấy nó như tang vật cho nghề báo chí đại về thời thế đổi thay. ông già đúng khi xây dựng nó, vì chắc chắn nó là cái mốc rệt phố Fleet.
      Len qua những cánh cửa bật ra bật vào của tòa báo Express, Frank qua hành lang và lên thang máy đến phòng làm việc của mình. quăng mũ lên ghế, ngồi xuống, nhặt bài báo lên, gác hai chân lên bàn. đọc những lời mình viết ra với con mắt hết sức phê phán. NÓ tốt hết sức tốt, chính cũng phải thốt ra như vậy. đăng nó. nhảy lên, và đưa nó vào cho Arthur Christiansen.
      Chris, chủ bút trẻ của tờ Daily Express người được ưa chuộng của phố Fleet là người được bảo hộ của Brawbrook, là người có trách nhiệm làm thay đổi diện mạo và khuynh hướng chung của báo chí . Mặc sơ mi trần, mặt ửng đỏ, tóc rối bù, trông hốc hác nhưng vẫn hoàn toàn làm chủ được mình đẳng sau chiếc bàn giấy má ngổn ngang. chào Frank bằng nụ cười vui vẻ "Tôi hiểu chuyện gì xảy ra với . Tôi vừa định sai cậu sửa bài tới Elvino kiếm ".
      Frank đưa cho bài báo. "Tôi muốn có thời gian để suy nghĩ kỹ. Tôi nghĩ có thể là tôi viết hơi quá mạnh".
      con mắt sáng của Chris chăm chú vào những trang giấy. đọc nhanh: "Tốt quá. Hết sức thông minh, Frank. Chúng tôi giữ nguyên để in. cần thay đổi gì hết. Nếu viết dịu mất tác dụng. ông già thích lắm đấy. Như thường lệ, đánh trúng.
      - " có chắc là quá ?".
      Chris lại cười: "Tôi chắc. tôi là người rất thăng bằng. Nhưng tất cả những điều viết về tình hình thế giới gần đây đều nặng suy tư. Và mẹ kiếp, chúng ta hãy nhìn thẳng vào nó, đương đầu với . ai có thể phủ nhận điều đó".
      Chris viết lên trang đầu: "In đúng như thế. thay đổi". "Chú !". gọi cậu bé sửa bài vớ vẩn gần cửa văn phòng: "Mang cái này cho thư ký tòa soạn".
      Frank : "Nếu cần đến tôi, tôi . Chị tôi đợi tôi. Nếu có chuyện gì, gọi điện tới nhé".
      Chris gật đầu: "Tốt, Frank". nhấc trong những chiếc điện thoại reo to. "Christian- sen đây. Xin chào ngài". lấy tay che miệng ống nghe và với Frank "Lord Brawbrook gọi từ Cherkley. Xin lỗi Frank".
      Frank lấy mũ trong phòng làm việc của mình, qua phòng tin tức, như lệ thường nấn ná Ở đó lúc. hối hả rộn ràng và hoạt động lên tới đỉnh điểm khi hạn chót in đầu tiên của báo tới và tiếng ồn ào điếc tai. vẻ rộn rã trong gian, khí hắc mùi mực in còn ẩm luôn luôn làm cho mạch máu Frank run lên. Mặc dù là nhà viết tiểu thuyết nổi tiếng và thành công, vẫn thể bỏ nghề báo cũng như thể ngừng thở.
      NÓ Ở trong máu của . Và nơi khác hoàn toàn giống như văn phòng của tờ báo hàng ngày vào giờ này, ngay trước khi những chiếc máy in khổng lồ quay: đó là mạch máu, nhịp tim của thế giới.
      Frank dừng lại bên chiếc máy liếc nhìn cách thích thú những bài báo tuôn ra. Tin tức rất đáng ngại, báo trước chiến tranh. cậu bé đưa báo ngang qua, lấy những bản tin mới nhất của Reuters và lao . Mắt Frank bất chợt gặp bài. chú ý của dồn vào đó. đứng bất động hồi lâu, choáng váng tin là . lát sau, tới nhìn Ở máy điện báo của báo chí Liên bang. Rất cả đều cùng chuyện như vậy, rên lên tiếng. ràng là còn nghi ngờ gì nữa. chút nghi ngờ nào hết. xé bản tin của Báo chí Liên Bang, lời với thư ký tòa soạn, người này đồng ý khi Frank đề nghị mang tờ giấy . Nhét giấy vào túi, bước ra khỏi phòng tin tức người ngây dại và nôn nao.
      Trong vòng vài ba phút ra đến phố và vẫy taxi. Mặc dù thời tiết tháng tám ấm, vẫn run lên tay vững khi châm thuốc lá. tự hỏi, hiểu làm thế nào để tìm được sức mạnh để làm cái phải làm.
      winston công việc Ở Lon don và Ở với Emma, theo lệ thường. HỌ ngồi Ở phòng khách, uống cà phê sau bữa ăn tối khi người giúp việc đưa Frank vào mấy phút sau đó.
      Mặt Emma rạng rỡ khi nhìn thấy em, nàng đứng lên ôm Frank. "Chị và Winston định đợi em nữa!", nàng vừa ôm lấy em vừa .
      - "Em xin lỗi đến muộn", Frank lẩm bẩm. Emma : "Ðể chị kiếm cho em cái uống. Em thích uống gì Frank?".
      - "Rượu mạnh, chị Emma". quay sang Winston: " Ở lại được bao lâu?".
      - "Vài ba ngày. Em có muốn ăn bữa trưa ngày mai ?".
      Emma đưa cho Frank ly rượu và ngồi xuống ghế đối diện. Nàng nhìn chăm chú rồi cau mặt.
      "Trông em xanh tái ghê gớm. Frank . Em có chuyện gì chứ, em?".
      - ", e m chỉ mệt thôi". nốc ly rượu và đứng lên .
      - "Em muốn ly nữa được . Ðêm nay em cần".
      - "Tất nhiên rồi". Mắt Emma hướng về Winston, nàng dướn mi dò hỏi.
      Winston để ý thấy dáng vẻ mệt mỏi của em trai. "Frank em có chắc là em ốm ?
      Emma đúng, trông em bình thường".
      Frank quay ngoắt lại, cố gắng mỉm cười. "Em nghĩ đó là do tình hình quá căng thẳng", lẩm bẩm, và quay lại ghế. "Bọn đức sắp sửa tiến vào Ba Lan. Tất cả bọn chúng tôi đều tin chắc điều ấy"
      Winston và Emma hỏi liên tục, Frank trả lời như cái máy, cố gắng để khỏi rời rạc. Emma nghe cách suy tư, nàng quay lại nhìn Winston, pha cho mình scotch và soda, nàng :
      "Em nghĩ chúng ta nên bắt đầu nghĩ tới những người làm cho chúng ta. NÓ bị xẹp nhiều khi thanh niên bị gọi nhập ngữ . Nàng nín thở, đưa nhanh tay lên cổ. "Trời ơi! Còn lũ trẻ sao đây! Kit và Ro bin phải ra . Cả Randolph nữa, Winston. NÓ cũng đến tuổi rồi".
      - "Ðúng rồi. , nó muốn gia nhập hải quân. Ngay tức ", miệng Winston mím lại. "Nó quyết định làm như vậy. ngăn nổi nó".
      Emma nhìn lo âu. Ðứa con trai duy nhất của là con ngươi của mắt . "Randolph rất ương ngạnh, em thấy thế và cả hai đứa con trai nhà em cũng thế. Chúng nó nghe chúng ta đâu. Em nghĩ chúng ta thể làm được gì. Cuối cùng chúng nó có được giấy tờ".
      Bây giờ nàng quay sang với Frank: "ồ, ít nhất Simon nhà em cũng chưa đủ tuổi để bị gọi "
      - " nay đúng thế", Frank và đứng lên. róc ly rượu lớn và đem lại cho Emma:
      "Chị nên uống cái này. Em nghĩ chị phải cần đến nó".
      Emma nhìn em trai bối rối. "Tại sao em lại thế?". Nàng cau mặt: "Và em biết là chị thích rượu. NÓ làm tim chị xốn xang".
      - "Xin chị cứ uống ", Frank .
      Emma đưa cốc rượu lên miệng, uống ngụm, chun mũi khó chịu. Nàng để cái cốc xuống khay của người quản gia trước mặt và chú ý tới Frank. lần nữa, nàng lại chú ý tới xanh tái của . Và khi nhìn thấy nỗi lo âu lúc này hằn khuôn mặt nhạy cảm của em, nàng hốt hoảng.
      cảm giác kinh hoàng của thảm họa sắp xuống. Emma chắp hai tay chặt để trong lòng.
      "Có chuyện gì khủng khiếp xảy ra, có phải , Frank?".
      Frank thấy miệng mình khô đắng, giọng khàn , cuối cùng : "Em nhận được tin rất xấu Ngay vừa rồi, trước khi em rời sở". Mặc dù hết sức kiềm chế, giọng vẫn run lên bần bật.
      - "Frank , có chuyện gì thế", Emma hỏi, bản năng của nàng nhận thấy chuyện chằng lành.
      Winston vội vã : " báo có chuyện gì rắc rối chứ?".
      - "", Frank trả lời khẽ. "Ðó là... đó là về Paul". "Paul! Em có tin chẳng lành về Paul? ấy làm sao?" Emma vặn hỏi .
      "Em biết với chị như thế nào, Emma..." Frank ngừng lại. Sau giây lát yên lặng khủng khiếp, tiếp, giọng đứt quãng: " ấy... ấy... ấy qua đời rồi".
      Emma nhìn em ngây dại tin, nàng bàng hoàng lắc đầu: "Em gì thế?", nàng hỏi, thể hiểu nổi lời em. "Chị hiểu em gì. Chị vừa nhận được thư của ấy mà. Hôm qua.
      Em gì với chị vậy?" Mặt nàng cắt còn hột máu, trông như sắp chết và khắp người run lên bần bật.
      Frank quì dưới chân chị. ngước nhìn chị trang nghiêm và nắm lấy tay Emma. hết sức dịu dàng. "Paul chết rồi, Emma ạ. Tin đưa tới theo đường điện báo đường em tới đây".
      - "paul", Emma thầm hoài nghi, dáng vẻ vừa ngây dại vừa khiếp hãi. Nàng kêu lên giọng run rẩy. "Em có chắc là lầm ? Chắc là lầm ".
      Frank lắc đầu buồn thảm. "Tất cả đường điện báo đều đưa cùng tin. Em kiểm tra tất cả".
      - "ôi trời ơi", Em ma rên rỉ, máu nàng đông lại. Winston xám ngắt như xác chết, gượng : "Làm thế nào mà Paul chết, Frank?
      Frank ngó nhìn Emma, vẻ thê lương khuôn mặt khi tìm những từ thích hợp. Nhưng có gì làm dịu nổi cơn đau này. Frank thấy mình nên lời.
      Emma nắm chặt, những ngón tay nàng cắm vào bàn tay em trai: "Có phải Paul... CÓ phải những vết thương của ấy? CÓ phải nó trầm trọng hơn là ấy kể với chị ?", giọng nàng nghe yếu ớt.
      - "à, vâng, em tin là có trầm trọng hơn là ấy làm cho chị hiểu..."
      Tiếng chuông cửa làm mọi người giật mình, đôi mắt Emma mở to lo âu, nàng cầu cứu Winston.
      gật đầu và cố nhấc mình ra khỏi ghế . Khi rời phòng khách, cầu nguyện là phải báo chí muốn tường trình. Winston người khi ông quản gia mở cửa cho Henry Rossiter, người chung vốn Ở ngân hàng thương nghiệp tư doanh, người điều khiển tất cả những công việc kinh doanh của Paul Ở và cả của Emma nữa. Nét mặt Henry cũng đau đớn như Winston. bắt tay Winston và hỏi: "Chị ấy có biết ?". Winston cúi đầu. "Chị ấy chịu đựng như thế nào? ", Henry lầm bầm .
      Winston : " ấy choáng váng. Cái tin đó vẫn còn chưa ngấm. Tất nhiên phản ứng đến chậm, Henry. Tôi run sợ khi nghĩ tới điều đó".
      Henry gật đầu thông cảm : "Ðúng. HỌ rất gần gũi nhau. là bi thảm. Làm sao mà Emma biết chuyện?".
      Winston giải thích nhanh và chỉ vào phòng khách. "Chúng ta nên vào trong, Henry, ấy cần chúng ta".
      Henry vào phòng khách và ngồi cạnh Emma. "Tôi đau buồn, hết sức đau buồn. Tôi đến đây nhanh. Ngay khi tôi biết tin".
      Cổ họng Emma thắt nghẹn, nàng đưa tay để lên đầu đau giần giật. Nàng : "Có người nào Ở Sydney liên hệ với , Henry?"
      - Có, Mel Harrison. ấy gọi điện cho tôi suốt ngày. may, lúc ấy tôi Ở lại nông thôn".
      - "Tại sao ấy lại gọi cho tôi nhỉ?". Nàng hỏi giọng đau buồn.
      - " ấy muốn tôi đích thân báo tin cho chị, Em mạ. ấy muốn chị chỉ có mình khi nghe..." "Paul chết lúc nào?". Nàng ngắt lời, tim thắt lại. "Thân thể ấy được tìm thấy tối chủ nhật. Bây giờ Ở đó là sáng thứ hai. Mel gọi điện cho tôi khi ấy đến nhà. ấy thấy là thể hoàn toàn ngăn được giới báo chí, bởi vì cảnh sát phải...". "Cảnh sát!", Emma thốtlên: " sao? Tại sao cảnh sát lại Ở đó?".
      Henry nhìn Frank buồn thảm . HỌ nhìn nhau cách lo ngại và cả hai đều yên lặng. Lúc này Frank nghĩ đến chuyện dối Emma, nhưng che đậy chẳng ích gì. Tốt hơn hết là . nhàng. "Paul tự sát, Emma ạ".
      - "ôi, trời ơi! ! ! đúng! Tôi tin! Paul làm như thế. đời nào".
      Emma kêu lên.
      - "Em sợ dó là , chị ạ", Frank và quàng tay ôm chị.
      Emma lắc đầu cách điên dại, phủ nhận lời Frank. Nàng nhìn như chìm sâu: " ấy làm thế nào...". Nàng thể tiếp tục.
      Mcgill được coi là người giàu có nhất thế giới, là chủ tịch Hội đồng của số công ty úc gồm Công ty Mcgill điều hành trại cừu, Công ty bất động sản Mcgill và Smythson, Công ty mỏ Mcgill và Công ty than Mcgill. ông cũng là chủ tịch Hội đồng Công ty U Sitex Của Mỹ đóng trụ sở tại Texas, chủ tịch và quản trị trưởng của ngành hàng hải Mcg ll-marnott làm chủ và điều hành trong những hạm tàu chở dầu lớn nhất thế giới".
      Frank dừng lại. "Còn rất nhiều về công việc, về gia đình, về những chiến tích và học vấn của .
      Chị có muốn đọc tiếp , Emma?".
      - "", nàng thầm. Nàng quay về phía Henry cách khổ sở. "Tại sao ấy kể cho tôi biết về chuyện liệt Mặt của ấy? Ðáng lý tôi phải tới chỗ ấy ngay. Ðáng lẽ ấy nên cho tôi biết, Henry". Nước mắt ứa ra hai bên khóe mắt nàng, lặng lẽ chảy xuống má, " ấy nghĩ tình trạng của ấy làm tôi khác đối với ấy sao? Ðáng lẽ tôi phải Ở bên ấy". Nàng bắt đầu khóc tức tưởi. "Tôi ấy".
      Giọng Henry thương cảm : "Mel muốn ấy gọi chị đến nhưng chị biết Paul ương bướng và tự hào như thế nào rồi đó. Hình như ấy khăng khăng chịu theo Mel, ấy muốn chị nhìn thấy ấy như vậy hoặc biết trầm trọng của vết thương hoặc phải nặng gánh với ấy".
      Emma nên lời. nặng gánh với ấy, nàng nghĩ, nhưng tôi ấy hơn cả chính cuộc sống. ôi, Paul, tại sao lại xa lánh em trong lúc cần em nhất? Nàng hình dung cơn đau đớn của Paul và nỗi thất vọng khủng khiếp đẩy tới hành động đó và nỗi buồn mênh mông nhận chìm nàng.
      Emma thấy hình như cả thế giới này đột nhiên ngừng lại. Trong phòng tiếng động, ngoại trừ tiếng tích tắc của cái đồng hồ bệ lò sưởi. Nàng nhìn xuống chiếc nhẫn ngọc lục bảo Mcgill lấp lánh Ở ngón tay và chiếc nhẫn cưới Paul tặng nàng lúc Daisy mới sinh, nước mắt kìm được của nàng rơi đôi tay bắn lên hai chiếc nhẫn. Và nàng nhớ những lời ngày ấy. Chỉ có cái chết mới chia ly được chúng ta. Nàng đau nhói Ở trong tim.
      Nàng ngẩng đầu liếc nhìn chung quanh, người nàng tê dại cách khủng khiếp. Nàng cảm thấy chính mình bị liệt và hoàn toàn thể nhúc nhích nổi. Cơn đau bắt đầu và nàng hiểu với thoáng ràng bao giờ thoát khỏi nó. Nàng nghĩ, mình thể sống ấy. ấy là cuộc đời mình. Bây giờ còn lại gì nữa. Chỉ còn là những năm trống rỗng Ở phía trước để mà chịu đựng cho đến khi cả chính mình cũng chết.
      Winston và Frank đều bất lực trong cơn tuyệt vọng của nàng. Winston thể chịu đựng được trong thấy em đau khổ và gọi điện cho bác sĩ gia đình, mười lăm phút sau, ông này tới. Emma uống viên an thần, người giúp việc giúp nàng vào giường. Nhưng những tiếng nức nở tiếp tục làm người nàng co quắp và hai tiếng đồng hồ, cuối cùng thuốc an thần ru nàng trong trạng thái yên tĩnh hơn.
      và em trai nàng, Henry Rossiter và bác sĩ đều Ở lại với Em ma cho đến khi cuối cùng nàng chìm trong giấc ngủ. Khi họ rời phòng ngủ, Winston : "Nỗi buồn của ấy chỉ là bắt đầu.
      Bi kịch giáng xuống Emma nhiều lần trong đời nàng. NÓ làm nàng loạng choạng, nhưng chưa bao giờ làm cho nàng quị ngã. Cái chết của Paul quật ngã nàng chỉ bằng cú đánh mau lẹ.
      Tất cả các con của nàng, trừ Edwina, về nhà với mẹ. Chúng từng mến và kính phục Paul, chúng kinh hoàng, và đau đớn nhất là Daisy, người gần gũi với nhất. Mỗi đứa, theo cách riêng của mình, đều cố gắng an ủi mẹ, nhưng những cố gắng của chúng đều vô ích.
      Vợ của Frank, Natalie, đến ngay lập tức, Charlotte vợ của Winston và con trai của họ, Randolph từ Leeds lên Lon don với Blackie và con trai, Bryan,cả bốn người họ cùng với David Kallinski và hai người con trai, Ronnie và Mark. ai có thể tới bên Emma và sau cuộc viếng thăm ngắn ngủi trong phòng ngủ của nàng, họ tụ tập trong thư viện, nét mặt ai nấy đều lo âu.
      Blackie cố gắng làm nỗi lo ngại của họ. : "Ngay cả trái tim mạnh mẽ nhất cũng có thể bị tan vỡ, các cháu ạ. Nhưng trái tim mạnh mẽ luôn lành lại. Bác có thể đánh cuộc.
      Emma là người sống tốt bẩm sinh và mẹ các cháu sống qua tổn thất này. Và nữa, bác nghĩ tốt hơn là cứ để mẹ các cháu bộc lộ nỗi sầu thương. Bác biết bà vượt qua được". thế và nghĩ thế, bởi vì biết nàng được tạo thành bằng chất liệu như thế nào.
      Nhưng nhiều ngày liền, Emma nằm phủ phục, nửa mất trí, và thiếu mạch lạc vì đau khổ. Nàng trở nên suy nhược đến nỗi Winston suy tính cách nghiêm chỉnh đưa nàng vào nằm viện. Vào những giờ lúc tảng sáng là những lúc tồi tệ nhất đối với Emma. Nàng nằm bất động giường, trơ trọi và còn hy vọng, ngắm nhìn tia sáng màu xám lạnh lẽo bò vào, đợi mở đầu của ngày mới trống rỗng và dài vô tận, chăm chăm ngó như người lòa vào khoảng .
      Nhưng trí óc hoạt động và nhạy bén của nàng luôn luôn xôn xao và đầy ắp những ý nghĩ rắc rối và trái ngược nhau. Nàng tự hỏi biết mình có thiếu sót điều gì với Paul. Qua bao năm tháng ấy chuyển đến được cho chiều sâu và chân thành về tình của nàng.
      Nàng tự trừng phạt mình vì úc ngay khi gặp tai nạn, vì nàng tin mình có thể ngăn khỏi nâng khẩu súng tàn hại ấy. Nếu như nàng nghe lời có phải nàng cứu được , điều này nàng hoàn toàn chắc. Gánh nặng của tội ác nàng quá lớn, thất vọng và nỗi khổ của nàng chỉ càng tăng thêm.
      Henry Rossiter kể cho nàng nghe về những chẩn đoán tối tân của các bác sĩ và dần dần, khi cơn choáng lùi lại, nàng lờ mờ hiểu rằng người như Paul, khỏe mạnh, cường tráng lại coi tự tử là giải pháp duy nhất, có thể thực đối với thế kẹt khủng khiếp của , thế nhưng đôi khi nàng cảm thấy hoàn toàn bị bỏ rơi, và bị phản bội. Tuy nhiên, chung nàng có thể loại trừ cảm giác này coi như những biểu của lòng thương thân, của cơn giận kỳ cục và cảm giác bất lực của chính mình.
      Nàng thấy hầu như là thể hiểu nổi tại sao Paul lại viết thư, bởi vì nàng thể chấp nhận là có thể tự tử mà để lại lời cho nàng, và ngày ngày nàng đều ngóng chờ lá thư đến .
      Winston trông nom nhà cửa và cửa hàng Knightsbridge. quyết định giữ Daisy Ở nhà, Ở nội trú, sau khi tất cả mọi người khác trong gia đình hết. Chính cuối cùng tới được với Emma, đem đến cho nàng chút yên ổn. Ðứa con nhất của Emma chín chắn cách đáng ngạc nhiên và hiểu biết vượt tuổi mười bốn của . Nỗi buồn của chính mãnh liệt, nhưng cẩn thận giấu kín nó trong hầu hết mọi lúc, cuối cùng đạt được thông cảm thực với mẹ.
      thuyết phục Emma mỗi ngày ăn chút ít và dần dần giúp đẩy lùi những dòng nước mắt với diện đầy thương của . Thỉnh thoảng Em ma lại nhìn chăm chú vào Daisy và nàng thấy Paul phản chiếu cách ràng trong khuôn mặt của đứa bé, nước mắt nàng lại rưng rưng, nàng ôm lấy đứa con của hai người, gọi tên Paul. Daisy lại lau nước mắt của mẹ và dùng những lời âu yếm an ủi dỗ dành mẹ, ru nàng trong đôi tay y như thể là mẹ và Emma là con .
      đêm, sau khi Emma lại suy sụp, Daisy dịu dàng dỗ dành nàng vào tâm trạng thanh thản, và lần đầu tiên Em ma chìm vào trong giấc ngủ tự nhiên, nặng và sâu. Mấy tiếng đồng hồ sau đó khi nàng thức dậy, nàng cảm thấy được nghỉ ngơi và thậm chí còn đạt được đôi chút bình tĩnh. Nàng lập tức để ý thấy Daisy cuộn tròn ghế ngủ gật. Với tia sáng lóe lên trong đầu, Emma nhận ra rằng nàng chồng chất gánh nặng lên Daisy với nỗi buồn của riêng mình trong khi chính đứa bé cần tình chăm sóc. Với cố gắng phi phàm của nàng, nàng rũ mình khỏi trạng thái hôn mê thờ thẫn, mà chút sức mạnh đó, luôn luôn mạnh mẽ khủng khiếp bắt đầu lại trong thân thể mệt mỏi của nàng.
      Emma đứng lên khỏi giường cần phải giúp đỡ, chầm chậm tới gần chiếc ghế dài, hai chân nàng run rẩy, vững. Daisy lập tức tỉnh dậy và khi thấy mẹ cúi xuống , vội nắm lấy tay mẹ, đôi mắt lo âu. "Mẹ có chuyện gì thế? Mẹ lại thấy ốm à?".
      - " con ạ. , mẹ nghĩ là mẹ có khá hơn chút". Emma ôm lấy Daisy vuốt ve mái tóc óng mượt của con: "Daisy ạ, mẹ rất sai trái, đặt gánh nặng buồn phiền lên con. Sai trái quá, con hãy tha lỗi cho mẹ, con . Bây giờ mẹ muốn con chuẩn bị ngủ và ngủ giấc ngon. Mẹ muốn con lo lắng về mẹ nữa. Mẹ khỏe. Và ngày mai mẹ gửi con vào nội trú.
      Daisy co người lại, nhìn Emma ngạc nhiên, đôi mắt xanh lóng lánh của đầy nước mắt. "Nhưng con muốn Ở lại với mẹ. Ðể trông nom mẹ. Ba Paul chắc là muốn thế. Ðúng là thế. Ba muốn mẹ Ở mình mà".
      Emma mỉm cười dịu dàng: "Con trông nom chăm sóc mẹ rất cẩn thận, bây giờ đến lượt mẹ trông nom con. Mẹ sao đâu con ạ. đấy".
      Daisy khóc và vùi đầu vào ngực Emma, nức nở như muốn vỡ tung con tim. "Nín con, cưng. Nín con". Emma thầm : "Chúng ta phải mạnh và can đảm, và giúp đỡ lẫn nhau trong những năm tháng tới".
      - "Con sợ quá, mẹ ơi". Daisy nức nở, nước mắt của ướt đẫm chiếc áo ngủ nhàu nát của Emma. "Con cứ nghĩ là mẹ chết mất".
      ***.
      Ðó là buổi chiều đẹp trời tháng chín, có nắng, ấm áp với bầu trời mây rực rỡ sáng, nhưng Emma run người khi nàng bước mệt mỏi qua phòng khách, nàng co ro ngồi trong chiếc ghế trước ngọn lửa, sưởi ấm, ý nghĩ của nàng hướng tới những đứa con trai . Chiến tranh tuyên bố ngày 3 tháng 9, và mặc dù nàng quá bạc nhược để mà chú ý, nhưng tình hình cũng thể làm ngơ. Nước động viên với cùng tốc độ và tính hiệu quả y như hồi nàng còn trẻ và nàng hiểu là họ còn bị bao vây thời gian dài.
      Cảm thấy ấm hơn, nàng cựa mình trong ghế. Khi làm như vậy vài ánh sáng chiếu lên tàn phá mà nỗi đau buồn của nàng đưa lại. Nàng sụt cân nhiều và trông gầy guộc cách đau lòng trong chiếc áo dài len đen đơn giản, khắc khổ của nó hề được các đồ trang sức làm giảm . Ðồ trang sức duy nhất của nàng đeo là những chiếc nhẫn của Paul và cái đồng hồ. Nhưng tóc nàng sáng và ánh lên chất sống.
      - " đây em", Blackie gọi to từ ngưỡng cửa, làm nàng giật mình. Nàng đứng lên đón , cố mỉm cười. " Blackie, rất mừng được gặp ", Emma và ôm lấy .
      ôm nàng trong đôi tay, giữ chặt lấy nàng trong bộ ngực to lớn của mình, nghẹn ngào khi thấy thân thể mỏng manh của nàng. Nàng chỉ còn xương và da. đưa nàng lùi ra, nhìn xuống mặt nàng và để tay dưới cằm nàng. "Em là xinh đẹp, em . Thấy em khỏe khoắn và lại được là sung sướng".
      HỌ ngồi trước ngọn lửa, trò chuyện lúc về chiến tranh và khả năng lũ con trai phải đăng ký vào quân đội. "Bryan Ở Lon don với ", Blackie với nàng. "Cháu nó muốn đến cùng với hôm nay, nhưng dám chắc là em khỏe hay chưa?"
      - "ôi, Blackie, em thất vọng quá. Em rất muốn gặp cháu, nàng kêu lên, nét mặt rạng rỡ.
      "Ngày mai cháu có đến được ? biết Bryan thân thiết đối với em như thế nào".
      - "Tất nhiên là nó có thể đến. đích thân mang cháu đến", Blackie nhìn nàng cách cảnh giác : "Em nghĩ là bao giờ em hồi phục hằn để có thể quay lại cửa hàng?".
      - "Tuần sau. Thực ra, bác sĩ phản đối điều này. ông ấy muốn em Yorkshire nghỉ ngơi. Nhưng quả thực em thể sao lãng công việc lâu hơn nữa, và như vậy công bằng với Winston. ấy phải gánh chịu mọi trách nhiệm. Vả lại, ấy cũng phải trởlại Leeds. Chúng tôi phải tổ chức lại nhiều.
      - " ấy hiểu em. Chính cũng phải gặp những vấn đề như thế. Dù sao, nghĩ quay trở lại với công việc cũng là điều hay đối với em, để em khỏi nghĩ vẩn vơ".
      Mặt nàng thoáng u ám, "phải, đúng thế". Người hầu gõ cửa và mang khay trà vào. Emma đưa mắt nhìn bình trà Georgian cách mệt mỏi, tự hỏi hiểu mình có đủ sức để nâng nó lên . Nhiều ngày nay, nàng như người bị bệnh tê liệt, luôn đánh rơi, đánh đổ các thứ.
      Nàng nâng bình nước lên cách cẩn thận và róc ra hai tách nàng thấy nhõm trong người, lần đầu tiên tay nàng run.
      Nàng : "Hôm qua em với David. ấy có vẻ rất chán nản. Ronnie và Mark gia nhập quân đội. ấy nhớ chúng kinh khủng. Chúng là tất cả cuộc đời từ khi Rebecca chết".
      quan sát thấy mù sương trong mắt nàng và nhanh. " ấy sao đâu, Emma.
      chú ý đến ấy khi trở lại Leeds. Ðưa ấy ra khỏi cái lăng tẩm vĩ đại nơi ấy sống trong lộng lẫy đơn. Lại bắt đầu sống với xã hội có lợi cho ấy".
      - "Em mong làm như thế, thân . Em quả là lo lắng cho ấy". Em ma nhìn vào ngọn lửa cách trầm tư và khi nàng quay về Blackie, vẻ mặt nàng buồn thảm : "Làm sao người ta có thể tiếp đường đời, Blackie? NÓ nặng nề quá, phải thế ?", - "Ðúng thế, nhưng phải là thể được, Em ma. phải đối với người có lòng dũng cảm như em".
      - "Mấy tuần lễ vừa rồi e m được khỏe lắm", nàng cách buồn bã.
      - "Em thể quá vội vã được đâu, Emma. Em còn phải làm cho quen dần. Em phải cho mình có thời gian, em thân .
      - " biết sau khi Lau ra mất làm thế nào?", nàng hỏi.
      - "Lúc ấy cũng thỉnh thoảng hỏi mình như vậy", mỉm cười yếu ớt. "Sau khi trở lại mặt trận, cố gắng làm sao để nhận viên đạn, để được chết . Nhưng Chúa lòng lành che chở cho khỏi rồ dại của mình. Sau chiến tranh, phải mãi mới tha thứ được cho sao vẫn cứ còn sống, nhưng khi tha thứ cho mình lại bắt đầu sống lại. nhìn chung quanh và nhận thức được trách nhiệm của mình, trách nhiệm của với Bryan. NÓ nâng đỡ nhiều, Emma. Nguồn cổ vũ lớn lao, cũng như Daisy là như vậy đối với em, tính cách giống em nhất. NÓ hiểu em và tôn sùng em, em ".
      - "Vâng, em biết", Emma trả lời lặng lẽ và lại nhìn ... "Em quả là... quả là biết em có thể tiếp tục sống như thế nào, có Paul..."
      Blackie cầm lấy bàn tay nàng và nắm chặt lấy. "E m có thể, em thân . Em sống . Linh hồn của con người có chịu đựng ngoan cường". ngừng lại, đôi mắt đen của lướt qua khuôn mặt thảm thương của nàng. dịu dàng: "Em có nhớ Laura gì với em khi chị ấy hấp hối ? bao giờ quên những lời ấy từ khi em nhắc lại cho nghe và nó giúp nhiều lần. Em có nhớ chị ấy như thế nào về cái chết , Emma?"
      Emma gật đầu. "Có, em nhớ những lời của chị ấy như thể mới hôm qua. Laura trong vốn từ vựng của mình có chữ gì gọi là chết và chừng nào em sống và sống tức là chị ấy vẫn còn, bởi vì chúng ta mang kỷ niệm của chị ấy trong tim mãi mãi".
      Blackie : "Ư, em ạ, và chị ấy là người đàn bà từng trải, Laura của . Chị ấy thành thực tin điều ấy, cũng như tới chỗ tin điều ấy, cũng như em phải tin nó. NÓ giúp em, biết. Và cũng như có Bryan em có con của Paul. NÓ là phần máu thịt của ấy, phần của ấy, và em phải trung thành với ý nghĩ đó, tìm thấy sức mạnh Ở đó".
      Những lời của hình như cho nàng niềm an ủi, tiếp. "Em cũng với là Laura Chúa bao giờ cho ta gánh quá nặng thể mang nổi. Chị ấy đúng, Emma.
      Em hãy nghĩ tới điều đó". thở dài khe khẽ. " biết em đau lòng lắm, và em cảm thấy lạc lõng, đơn. Nhưng chúng ta ai đơn cả, Emma. Tất cả chúng ta đều có Chúa, và Chúa cứu giúp qua năm tháng. Tại sao em thử hướng tới Người?"
      Ðôi mắt Emma mở to : " biết là em tin Ở Chúa". Quan sát vẻ mặt của nàng, Blackie kìm lại bình luận gì thêm và khôn khéo sang chuyện khác.
      Nhưng sau đó, sau khi rời nhà Emma, Blackie tới nhà thờ Brompton Oratory. làm dấu thánh giá khi bước vào tòa nhà thờ cổ và đẹp đó, ngồi xuống chiếc ghế dài có tựa ngước nhìn lên bệ thờ. cầu nguyện Chúa đem đến cho Emma niềm an ủi và lòng dũng cảm trong mất mát khủng khiếp này, và cầu nguyện cho linh hồn nàng.
      Ðêm hôm đó trước khi ngủ, Em ma ngồi bên cửa sổ phòng ngủ của nàng hàng giờ nghĩ tới những lời của Lau ra. bầu trời xanh thẳm, trong sáng lấp lánh muôn nghìn vì sao, mặt trăng màu bạc nhạt ngự bầu trời. Vẻ đẹp của nó lộ ra hoàn hảo khiến nàng muốn ngạt thở, và nàng đột nhiên bị choáng ngợp bởi cảm giác của cõi vô cùng. Ðây là cảm giác mà trước đây nàng chưa hề có, nàng cảm động cách kỳ lạ khi ngồi nhìn vào bầu trời đem, thể nào tưởng tượng được nổi ấy. Thế rồi nàng thấy hình như Paul Ở trong phòng này cùng với nàng. Và nàng nghĩ, mà tất nhiên là như thế, bởi vì ấy mãi mãi trong trái tim mình.
      Và nàng lấy được sức mạnh từ nguồn hiểu biết ấy, đêm ấy nàng ngủ giấc sâu và ngon lành.
      Hai ngày sau, Em ma nhận được lá thư của Paul. Thư được gửi ngày trước hôm chết và phải mất ba tuần nó mới đến nơi. Nàng nhìn nó hồi lâu trước khi có đủ can đảm mở phong bì và lấy lá thư ra đọc.
      "Em thân nhất của . Em là cuộc sống của . thể sống có cuộc sống của . Nhưng lại thể sống với em. và vì thế phải kết thúc tồn tại khốn khổ của , bởi vì bây giờ còn tương lai gì cho chúng ta Ờ bên nhau nữa rồi. Sợ rằng em nghĩ tự tử của hành động yếu đuối, hãy để cho bảo đảm với em rằng nó phải như thế đâu. đÓ chính là hành ng của sức mạnh và ý chí bởi vì làm việc này nghiã là lấy lại được tự chủ đối với bản thân mà mất trong mấy tháng vừa qua. ÐÓ là hành động cuối cùng của sức mạnh với ch nh số mệnh của .
      Ðó là con đường thoát duy nhất cho , em . và chết với tên em Ờ môi , với hình ảnh của em trước mắt , với tình dành cho em mãi mãi Ờ trong tim mình. Chúng ta may mắn, Emma. Chúng ta có bao nhiêu năm tháng tốt đẹp bên nhau, chia sẻ cho nhau nhiều, và những kỷ niệm hạnh phúc trong lòng cũng như biết nó sống trong lòng em và còn chừng nào em còn sống. cảm ơn em cho những năm tháng tốt đẹp nhất của .
      gọi em đến bởi vì muốn em bị bó buộc vào mẻ tàn phế vô phương cứu chữa, dù chỉ nhiều nhất là vài ba tháng. CÓ lẽ lầm chăng. mặt khác, muốn em nhớ tới như ngày trước, chứ phải là sau ngày gặp tai nạn. hư danh chăng? CÓ lẽ. Nhưng em hãy gắng hiểu những lý do của , và, hãy gắng, em , tìm trong lòng em niềm tha thứ.
      hết sức tin tưởng Ờ em, Emma thân nhất. Em phải là con người yếu đuối . Em khỏe mạnh và bất khuất em tiếp tục Cách dũng cảm. Em phả sống vì còn con chúng ta. đó là thân về tình chúng ta và biết em thương, chăm sóc nó, nuôi dạy nó lớn lên cũng dũng cảm, kiên cường, kiều như chính em. ký thác nó cho em, em .
      khi em nhận được thư này chết rồi. Nhưng tiếp tục sống trong Dasy . Bây giờ nó là tương lai của em, Emma của . Tương lai của nữa.
      em với tất cả lòng , cả hồn , tình , và cầu nguyện Chúa ngày nào chúng ta được đoàn tụ trong cõi vô cùng.
      hôn em, em thân .
      Paut.
      Emma ngồi bất động ghế, tay nắm chặt lá thư, nước mắt ứa ra và lặng lẽ lăn đôi gò má xanh xao. Nàng nhìn thấy trong tâm tưởng, cao lớn, đẹp trai, đôi mắt màu tím của tươi cười và nàng nhớ lại như muốn nàng nhớ. Nàng nghĩ những năm tháng, niềm vui và tình cho nàng. Và nàng tha thứ cho , thương giờ đây khi hiểu cả tình thế tiến thoái lưỡng nan và những động cơ của . ***.
      Ðầu tháng mười, Mel Harrison chuyến máy bay Qantas từ sydney đến Karachi và từ đó đáp máy bay . Mấy hôm sau đến . Mục đích của : gặp E in ma và đưa chúc thư của Paul Mcgill cho các cố vấn pháp luật của Mcgill Ở và Châu âu.
      Emma mặc đồ màu đen khắc khổ trông xanh xao và mong manh như thế khi nàng tới Price, Ellis, và Watson để nghe đọc chúc thư cuối cùng của Paul Mcgill. Winston, Frank và Henry Rossiter cùng với nàng.
      - "paul trao cho chị là người thi hành về tài sản của ấy", Mel thông báo cho nàng khi nàng vừa ngồi xuống. Nàng ngạc nhiên, nhưng chỉ gật đầu, lúng túng tìm được từ gì.
      CÓ chúc thư cho các gia nhân, cho những người làm công cũ trung thành và quỹ tín dụng hai triệu pound để cung cấp cho vợ và con trai khi họ còn sống. Khi nào họ chết quỹ để cho từ thiện. Toàn bộ gia sản của mình, để cho Emma vĩnh viễn, chuyển sang cho Daisy sau khi nàng chết và từ Daisy chuyển qua con cháu. Trước ngạc nhiên của Emma, Paul để lại cho nàng mọi thứ có, trị giá hai trăm triệu pound. làm nàng trở thành trong những người phụ nữ giàu có nhất thế giới và con của họ là người thừa kết cơ đồ lớn. Nhưng điều làm Em ma cảm động nhất là Paul dành cho nàng kính trọng mà người ta thường để cho người vợ hợp pháp chứ phải là vợ bé. Trong cái chết hay trong cuộc sống, paul dã tuyên bố lòng tận tụy và tình của đối với nàng, dã công nhận nàng với toàn thể mọi người. Và tài sản dòng họ nhà Mcgill chuyển vào tay nàng.

      Chú thích của ncjười dịch :
      -Brawbrook - Nam tước thứ nhất tước hiệu của William Maxevelil Ai ken 1879-1964, chủ báo của và nhà chính trị bảo thủ. sinh Ở Canada. báo của ông gồm tờ Dai ly Express, bộ trưởng bộ thông tin 1918.

    5. dinh huong

      dinh huong Member

      Bài viết:
      183
      Được thích:
      0
      Chương 58


      Nỗi đau buồn của Emma là tấm áo bằng sắt, nhưng dần dần nàng phải đương đầu với nỗi đau lòng của mình. nỗi sầu của nàng thực giảm bớt, nàng nhớ Paul và mong mỏi thường xuyên, nhưng nàng làm chủ được xúc động của mình, những tuần lễ qua , nàng bắt đầu hoạt động như xưa. Vả lại, nỗi khổ não của nàng bị câm nín bởi hoàn cảnh đời nàng và cuộc khủng hoảng của thế giới.
      Nàng bị choáng bởi những vấn đề cấp bách khi nước nhào vào cuộc xung đột châu Âu, do đó nghị lực của nàng phải dồn vào, còn giờ và sức lực cho suy nghĩ riêng tư. Các con trai nàng vào quân ngũ, Kit vào bộ binh, Robin vào quân.
      Elizabeth ghi tên học ở Hàn lâm viện nghệ thuật kịch mùa hè năm 1936 lặng lẽ lấy Tony Barkstone trong mùa Giáng Sinh. Mặc dù Elizabeth mới mười tám tuổi và hãy còn quá phù phiếm để mà lấy chồng, nhưng theo ý của Emma, nàng đủ can đảm để mà phản đối. Mỗi người đều phải nắm bắt hạnh phúc khi họ có thể, đặc biệt là trong cái thời gian khủng khiếp này, và mặc những mối nghi ngại của mình, nàng cũng vẫn ban phước. Đôi bạn trẻ này ràng là phải lòng nhau. Emma đồng ý Tony, bạn của Robin ở trường Cambridge và cũng là phi công của lực hoàng gia .
      Mặc dù tình thế khẩn trương, khí vui vẻ vẫn ngự trị trong đám cưới và cả gia đình lại có thời gian ngắn ngủi để đoàn tụ, trừ Edwina, vẫn ghẻ lạnh với Emma, và Kit được phép về. June, vợ mới cưới được năm của cậu cũng tới London để dự đám cưới và ở lại với Emma đến hết năm mới. Tháng giêng năm 1940, Elizabeth bỏ Hàn lâm Hoàng Gia để trở thành y tá của hội Hồng thập tự, trước ngạc nhiên của Emma. “Mẹ cứ nghĩ con luôn mơ ước trở thành diễn viên nổi tiếng và được đọc tên con ánh đèn quảng cáo”, nàng thốt lên khi nghe được tin này. “Ồ, giã từ tất cả những trò nhảm nhí ấy”. Elizabeth vội trả lời. “Con cảm thấy con cũng phải là bộ phận của những cố gắng chiến tranh mẹ ạ”, Emma có ấn tượng tốt đẹp đối với nghiêm chỉnh của Elizabeth và lòng tận tụy của đối với công việc y tá, nàng bắt đầu nghĩ rằng cuộc hôn nhân ảnh hưởng làm ổn định đứa con ương bướng nhất của nàng.
      Tin tức ngày xấu , và đến tháng ba, Emma nghĩ đến chuyện cho Daisy Mỹ để sống với gia đình Nelson ở điền trang Hudson River của họ. Nhưng càng nghĩ đến chuyện này, nàng cảm thấy nản lòng, nàng thừa nhận việc vượt đại dương có thể nguy hiểm, nàng quyết định là chỗ ở nay của đứa bé trong trường nội trú ở Ascot có lẽ là chỗ an toàn nhất.
      Những tháng tiếp theo, Emma lao vào công việc cách hăm hở, nhưng nàng cũng tiếp nhận thú tiêu khiển. Henry Rossiter trước đây phụ trách số công việc kinh doanh của nàng. Bây giờ làm cố vấn tài chính chủ chốt, bởi vì bây giờ nàng phải cai quản tất cả tài sản của McGill cũng như của nàng. Nàng tiếp xúc thường xuyên với Mel Harrison ở Sydney và Harry Marriott ở Texas, ngày của nàng dài hơn và căng thẳng hơn bao giờ hết bởi vì trách nhiệm của nàng nhiều hơn. Nàng là máy phát điện như trước đây hồi còn trẻ và hồi thế chiến lần thứ nhất khi nào cũng phải đơn thương độc mã với đời. Nếu như qua năm tháng nét mặt của Emma có nghiêm nghị hơn tất cả những khuôn mặt khác ở nước cũng vậy, bởi vì cả đất nước ở trong tuyệt vọng khi cuộc tấn công ồ ạt như vũ bão của Hitler tiếp tục giảm.
      Khoảng cuối tháng năm, ngay sau ngày sinh thứ năm mươi tư, David Kallinski tới London để bàn về lãi suất chung của với Emma. vẫn là con người đẹp trai, đôi mắt xanh sắc sảo của vẫn bị mờ , mặc dù tóc điểm bạc và bụng hơi to. Lòng tận tụy của đối với Emma thay đổi qua năm tháng và luôn luôn quan tâm đối với nàng. nhõm trong lòng khi nàng đón tại ngôi nhà ở quảng trường Belgrave, thấy ngay rằng khuôn mặt ấy mất vẻ hốc hác và nhan sắc của nàng trở lại và nàng cũng béo ra được chút. lát sau, Blackie cũng đến và sau bữa ăn tối , họ dời sang thư viện để uống cà phê.
      - “Các có nghĩ rằng chúng ta có khả năng đưa lũ thanh niên ra khỏi bãi biển ?”. Emma hỏi, nàng phải chỉ nghĩ tới Kit hay Ronnie và Mark Kallinski mà là tới hàng ngàn binh lính mắc cạn ở Dunkirk.
      - “Nếu như có người nào có thể làm được việc đó, lạy Chúa, người đó chính là Winston Churchill”. Blackie khẳng định. cựa mình ghế và tiếp: “Ông tập hợp đội tàu mà thế giới chưa bao giờ có, mặc dù là đội pha tạp. Nhưng do được gắn bó với nhau trong cùng mục đích – đưa những thanh niên của chúng ta an toàn về Deal và Ramsgate trước khi bị bọn Đức tiến qua những nước thấp về Pháp tiêu diệt”.
      - “Tôi đọc thấy họ tới từ khắp nước để yểm trợ cho tàu khu trục của Hải quân hoàng gia”, David vừa lập bập điếu cigar vừa xen vào. “Những người tình nguyện của mọi giai tầng xã hội với đủ các loại thuyền, thuyền mái chèo, thuyền đánh cá, thuyền du lịch và ngay cả sà lan nữa. Đó là biểu lộ của lòng nước và chủ nghĩa hùng tốt đẹp nhất chưa từng thấy suốt cuộc đời tôi”.
      Blackie gật đầu. “Ừ, đúng thế, David. Bảy trăm chiếc thuyền đủ mọi hình dáng, kích thước, tất nhiên là gồm cả khu trục. Hình như những người tình nguyện đón các thanh niên và đưa họ vào những con tàu lớn hơn thể đến gần bãi biển. Những con người là dũng cảm biết mệt mỏi”.
      - “Các nghĩ rút phải mất bao lâu?”, Emma hỏi khẽ, nàng hết nhìn Blackie lại đến David cách kinh hoàng.
      David ít nhất cũng phải vài ngày nữa. Có đến hàng trăm ngàn quân và Pháp phải đưa ra.
      - “Hôm nay em đọc báo thấy quân Đức vẫn tiếp tục oanh tạc dữ dội vùng bờ biển”, Emma , “Em lo sợ khi nghĩ đến những tổn thất”.
      - “Nhất định là phải chút ít tổn thất, Emma”, Blackie . “Nhưng lực hoàng gia cất cánh những chiếc phi cơ chiến đấu, giáng những đòn chí tử cho…” “Bryan, Robin và Tony ở trong số đó, Blackie”, Emma xen vào và nhìn chỗ khác.
      - “Tất cả chúng ta ngồi ở London này đều cảm thấy thất vọng và khổ sở. Nhưng chúng ta chỉ còn biết cầu nguyện cho con cái chúng mình. Và chúng ta phải vui vẻ lên", Blackie : “Nào thôi, chúng ta uống chút nữa. Như vậy tốt đấy”. Trong khi Emma pha rượu, con mắt Blackie nhìn vơ vẩn lên chiếc đồng hồ bệ lò sưởi. “Chúng ta vặn radio được , Emma? Winston Churchill sắp sửa ”.
      - “Vâng, tất nhiên”. Emma cũng muốn nghe ông ấy . Nàng đứng lên, mở nút, dò đài BBC, phút sau, giọng quen thuộc mạnh mẽ vang lên: ‘Chào các quí vị. Đây là đài Thủ tướng”. Ba người bạn cũ, những người chia sẻ với nhau rất nhiều trong ba mươi năm qua, ngồi lại nghe, họ càng gắn bó với nhau trong nỗi lo sợ cho những đứa con trai của nước . Khi Thủ tướng xong, mắt Emma cay cay, giọng nàng run run khi : “Con người ấy đem lại cho chúng ta truyền cảm to lớn làm sao. Nếu có Churchill chỉ có Chúa mới giúp nổi chúng ta thôi”.
      Thiên hùng ca Dunkirk làm choáng ngợp trí tưởng tượng của nước và các đồng minh của nó. Như từ địa ngục trở về, những con thuyền và những thuyền có mái chèo, những con tàu du lịch đưa những người sống và những người bị thương trở về.
      Cuộc rút diễn ra trong mười ngày và 340,000 quân đội Đồng minh được cứu lúc quân Đức chiếm thành phố biển của Pháp. Chỉ còn 40,000 hầu hết là người Pháp còn đọng lại phía sau. Emma và David may mắn. Trong số những người được đưa vào bờ có Tony và Mark, và ngày 3 tháng sáu, Kit bước ra khỏi sà lan đưa cậu đến Deal qua biển Manche bập bềnh sóng vỗ và chất lên thuyền những vật đổ nát. Sau đó Kit với Emma khi cậu nghỉ phép về: “ là hút chết, mẹ ạ. Chắc con phải có thiên thần hộ mệnh phù hộ cho con”. Cậu ôm chặt mẹ. Bám lấy con, nàng nghẹn ngào nghĩ đến cha nó chết ở Pháp năm 1816, ràng là vô ích.
      Ngày 4 tháng sáu, Winston Churchill tới Hạ nghị viện và đọc bài diễn văn về Dunkirk. Có đoạn, ông : “Chúng ta chiến đấu, bãi biển, chúng ta chiến đấu bãi hạ cánh của máy bay, chúng ta chiến đấu ngoài cánh đồng, trong các phố, chúng ta chiến đấu đồi, chúng ta bao giờ đầu hàng”.
      Sáu ngày sau đó, chính phủ Pháp và bộ chỉ huy quân bỏ chạy khỏi Paris khi quân đội Quốc xã tiến đến gần hơn. Bốn ngày sau đó, thủ đô Pháp bị Đức chiếm đóng mà tốn viên đạn. Nước Pháp thất thủ.
      đứng mình.
      Mùa hè ấy là mùa hè tồi tệ nhất mà Emma có thể nhớ được. Tháng bảy, cuộc chiến ở bắt đầu khẩn trương. Hitler ra lệnh tổng tấn công lực hoàng gia , đặc biệt là các nhà máy, máy bay của , và những căn cứ chiến đấu chung quanh London.
      Ngày qua ngày, đêm qua đêm những tốp máy bay ném bom khổng lồ Dornier và Heinkel lướt qua biển Mache để tán vụn nước , trong khi những chiếc máy bay chiến đấu Messerschmitt đánh bại những chiếc Hurricane và Spitfire của lực hoàng gia .
      Ban đêm thức giấc vì tiếng còi báo động phòng rú lên, Emma trở dậy đứng bên cửa sổ trong căn phòng ngủ tối tăm của nàng, nhìn ra bầu trời đêm lấp lánh sao và chiếu sáng bởi những ánh đèn pha rọi máy bay và tiếng ầm ĩ vang lên ngớt của máy bay ném bom và máy bay chiến đấu, tim nàng đau đớn khi nghĩ đến Robin, Tony, và Bryan cùng những phi công trẻ khác ở cao kia, tính mạng bị đe dọa. vài đêm, Elizabeth cũng ở bên nàng, bỏ ngôi nhà ở những ngày ở Hàn lâm Hoàng Gia để ở nhà. “Mẹ thức đấy hở mẹ?”, luôn luôn thào như vậy và lướt vào phòng trong chiếc áo ngủ. “Ừ, con à”, Emma trả lời và cả hai đứng bên nhau, hai tay vòng ôm nhau, nhìn máy bay gầm rú bay qua.
      đêm, Elizabeth nắm lấy cánh tay mẹ cách dữ dội, giọng khàn khàn cách khác thường khi kêu lên. “Tại sao, tại sao? Tại sao cuộc chiến tranh kinh khủng này lại cứ phải xảy ra? Mục đích của nó là cái gì? Tất cả bị giết chết! Tony, Robin, Bryan, và tất cả những thanh niên khác của chúng ta!”.
      Emma có câu trả lời nào cho con , hay cho chính mình. Elizabeth trở nên điên cuồng, khóc nức nở sao kìm được. Emma ôm vai Elizabeth và dẫn con tới bên giường. “Họ bị giết chết đâu, con ạ”, nàng an ủi, “họ làm sao đâu. Mẹ hứa với con như thế. Chúng ta phải dũng cảm lên. Vào giường mẹ và ngủ với mẹ đêm này. Chúng ta làm bạn bên nhau”.
      - “Vâng, con nghĩ thế, mẹ ạ”, Elizabeth và chui vào trong chăn. Emma ôm chặt con y như hồi còn và sợ bóng tối. “Đừng khóc và hãy cố đừng lo lắng Elizabeth”.
      - “Nếu Tony bị giết con thể nào chịu được đâu”, Elizabeth qua những dòng nước mắt. “Con ấy lắm. Và nếu Robin…”
      - “Im con. Cố ngủ . Con phải nghỉ ngơi”.
      - “Vâng, con cố. Cám ơn mẹ. Chúc mẹ ngủ ngon”.
      - “Chúc con ngủ ngon”.
      Emma nằm trong bóng tối, đợi cho thân thể căng thẳng của Elizabeth trùng xuống và mềm rũ ra trong giấc ngủ. Nhưng nó và Emma hiểu rằng con nàng qua đêm mất ngủ nữa lo lắng về chồng và đứa em trai cũng như chính nàng.
      Emma có thói quen bộ tới cửa hàng Knightsbridge hàng ngày và khi mùa hè bồng bềnh trôi , nàng vẫn như vậy trong tiếng súng phòng , tiếng còi báo động rền rĩ, những đống đổ nát những tấm kính vỡ. Nàng chùn bước khi thấy mốc đường nào đó bị phá hủy, những nơi nàng và Paul hay lui tới ngày trước bị san bằng. Thế nhưng mặc dù nét hoang tàn của London, vẻ lạnh lẽo của nó, dáng mệt mỏi những nét mặt qua phố, Emma kinh ngạc trước cái kiên cường, bất khuất của đồng bào nàng cả nam lẫn nữ. Thường thường giọng Cockney vui vẻ lại cất lên bài ca, có lẽ là người lính cứu hỏa vun đống gạch bốc khói, hoặc người công nhân dọn đống hoang tàn, hoặc người lái taxi buông lời đùa bỡn và họ làm trái tim nàng thêm dũng cảm. Vào những lúc như thế này nàng lại nhớ đến những lời ca của Churchill: “Chúng ta bao giờ đầu hàng”, và sức mạnh của nàng lại phục hồi, dáng nhảy nhót, lưng thẳng lại, đầu ngẩng cao tự hào. Và những gánh nặng của nàng hình như hơn, dễ mang hơn.
      Mùa hè gần hết. Tháng chín, phần lớn những vũng tàu đậu ở miền cuối Đông bị phá hủy trong trận oanh tạc khổng lồ. Những trận ném bom hàng ngày vẫn tiếp tục, các phi công của lực hoàng gia dốc hết sức lực, hay những phi vụ ngừng nghỉ. Những hạn nghỉ phép hai, ba ngày bị bãi bỏ và hàng tuần nay Emma nhìn thấy Robin. lực hoàng gia là khâu phòng ngự cuối cùng của , và mặc dù là tróc ba, các chiến sĩ áo xanh trong những chiếc Spitfire và Hurrican của họ vượt lên những chiếc Luftwaffe. Đến tháng mười kế hoạch của quốc trưởng tiêu diệt lực hoàng gia và bẻ gãy tinh thần của dân , tỏ ra là thất bại. , Hitler chịu thất bại to lớn đầu tiên. Nhưng máy bay ném bom của Đức vẫn tiếp tục những trận ném bom đêm những thành phố lớn, san phẳng nhiều thành phố và những năm đen tối kéo dài vô tận. Những năm của những trận oanh tạc dữ dội: phiếu mua hàng, phiếu thực phẩm và xếp hàng, khan hiếm và thiếu thốn, sầu não, buồn khổ khi những người bạn cũ bị giết hoặc có tên trong danh sách những người mất tích trong chiến đấu. Nhưng ở giữa đống hoang tàn vẫn có tái sinh kỳ diệu. Năm 1942, June vợ của Kit sinh đứa con . Emma June và sung sướng có đứa cháu thứ hai, nàng lên Leeds để dự lễ rửa tội cho đứa bé được đặt tên là Sarah.
      Cùng năm ấy, mỗi học kỳ mùa hè, Daisy rời nội trú, về nhà sống với mẹ và Elizabeth ở quảng trường Belgrave. Giờ đây ngôi nhà dường như còn hiu quạnh, và thậm chí có những giây phút vui vẻ và tiếng cười, đặc biệt khi Robin từ Bigginhill, nơi cậu đóng quân trở về. Bao giờ cậu cũng đem theo hoặc hai chiến hữu của lực hoàng gia đội bay 111 về và giải thích với Emma: “Các cậu này ở lại với chúng ta mẹ ạ. Được chứ mẹ? Tất cả các khách sạn đều chật ních cả rồi”. Emma đồng ý. , nàng sẵn lòng mở rộng cửa và trái tim mình cho những phi công trẻ tuổi bất khuất này.
      Vào ngày Giánh sinh, Robin may mắn được nghỉ ba ngày vào phút cuối và cậu trở về báo trước vào đêm Noel, như thường lệ, đem theo ba người bạn. Lúc David Amory bước vào phòng khách, Emma thót tim. Cậu cao lớn da ngăm đen, đôi mắt xanh sáng và nụ cười lóe sáng, cái gì trong dáng vẻ và điệu bộ của cậu làm nàng nhớ đến Paul McGill. David đẹp trai như Paul trước đây khi còn trẻ, cậu cũng có được vóc dáng đồ sộ hoặc táo tợn của , nhưng cậu vẫn gợi kỷ niệm của Paul trong Đệ nhất thế chiến, David hai mươi tư tuổi, mới đến Bigginhill mà có vẻ như người hùng trong chiến đấu. Với vẻ chân đáng mến, cậu làm cho Emma mến ngay.
      Mùa Giáng sinh ấy là vui, ngôi nhà vang lên tiếng cười. Những người đùa nghịch tuy thân ái nhưng rất gay gắt giữa các thanh niên của lực hoàng gia và các con của nàng, tiếng nhạc ngớt của máy quay đĩa và tiếng cốc chạm nhau.
      Emma tiếp đãi rất vui vẻ, che chở tất cả cho mọi người, nàng cũng thích thú y như bọn trẻ. Nhưng dù nàng chiêu đãi mọi người, hoặc lặng lẽ ngồi góc nhìn hoặc đan mũ len, nàng vẫn để ý tới David Amory. Nụ cười của nàng nhân từ, nhưng đôi mắt nàng cảnh giác khi nàng quan sát con mười bảy tuổi Daisy bị quyến rũ, bị bùa mê của chàng sĩ quan quân đẹp trai. Và David hình như cũng mê đắm Daisy như mê đắm chàng và cậu lúc nào rời xa . Emma nín thở, biết rằng hai đứa nhau và nàng thể làm gì để ngăn chặn điều ấy. Nàng cũng chắc là mình có muốn can thiệp hay . Sau kỳ nghỉ, David Amory trở thành khách thường xuyên ở quảng trường Belgrave hoặc đến với Robin hoặc mình và qua nhiều tháng, Emma quí cậu. Cậu xuất thân từ gia đình Gloucestershire cổ, có giáo dục, được học hành, học luật chiến tranh bùng nổ. Emma nhanh chóng thấy cậu tính tình cương trực, đầu óc thông minh và dịu dàng, nàng sửng sốt và rất tán thành cậu cho Daisy. Nàng ngạc nhiên khi David xin phép nàng cho cậu được lấy con út của nàng. Cậu cưới Daisy tháng năm năm 1943, ngay sau ngày sinh thứ mười tám của . “Nhưng nó còn trẻ quá mà. David thân ”. Emma thốt lên, định bụng thuyết phục hai người chờ đợi thêm chút nữa. Nhưng thay vào đó, nàng lại thấy mình : “Bao giờ hai con định làm đám cưới?”
      Daisy lúc này lại cách hồi hộp quanh quẩn lò sưởi, ôm lấy mẹ cách điên cuồng khiến Emma nhăn mặt. Mặt Daisy rạng rỡ, mắt long lanh: “Cuối tuần sau, mẹ ạ, nếu mẹ đồng ý”.
      Đám cưới lặng lẽ, đúng như đám cưới Elizabeth trước đây do điều kiện thời chiến và Emma cũng muốn phô bày giàu có của mình trong thời buổi nhiễu nhương này. Daisy mặc chiếc áo lụa xanh, đội mũ và mang bó hoa mùa hè. Winston đưa dâu, Robin phù rể và Elizabeth là phù dâu. Bố mẹ của David từ Gloucestershire lên dự cưới và sau đó ở nhà có bữa tiệc chiêu đãi . Đôi vợ chồng trẻ hưởng tuần trăng mật đêm ở khách sạn Ritz trước khi David trở về Bigginhill và Daisy trở về nhà mẹ.
      Và sau đó, hầu như trước khi Emma kịp thở, Robin cưới Valerie Ludden, bạn y tá của Elizabeth, vào tháng giêng năm 1944 và vài tuần sau đó, Elizabeth sinh con trai, đặt tên là Alexander. Elizabeth muốn ở gần Tony, tìm được ngôi nhà gần sân bay và chuyển tới đó khi đứa bé được tháng.
      - “Hầu như thể tin được rằng, tất cả bọn nó lấy vợ lấy chồng”, Emma với Winston ngày mùa xuân khi hai người cùng ăn trưa. “Cũng tin là em có ba cháu gọi bằng bà. Em cảm thấy quá già nua”.
      - “Vớ vẩn”, Winston : “Em là người đàn bà đẹp nhất chưa bao giờ được thấy. Và em bao giờ già. Em có nhan sắc gì tàn phá nổi”. nhìn nàng cười trìu mến. “Hơn nữa, Frank với chàng thiếu tá người Mỹ em gặp ở nhà cậu ấy mê em lắm đó. Em thấy có người theo đuổi mình mà em biết đâu”.
      - “ đừng có vớ vẩn, Winston”, Emma buông xõng nhưng nàng mỉm cười khi .
      - “ vớ vẩn đâu”, Winston đáp. “Mà xét cho cùng, tháng tới em cũng chỉ mới năm mươi lăm. Vả lại trông em trẻ hơn tuổi nhiều lắm”. dừng lại nhìn nàng cách cẩn thận. “Và Paul mất được gần năm năm rồi”.
      Emma yên lặng, Winston thay đổi chủ đề. và Frank luôn luôn đến khả năng Emma có thể kết hôn với người khác và họ giới thiệu nàng với những người bạn có đủ tư cách của họ. Nhưng quả thực nàng hề quan tâm. Nàng bao giờ thay thế Paul trong đời mình, nàng muốn như vậy.
      Năm 1945 bắt đầu cách thuận lợi cho Emma. Daisy sinh đứa con đầu lòng vào tháng giêng. Đó là bé .
      - “Con thấy thế nào?”, Emma hỏi khi nàng bước vào phòng riêng của Daisy ở bệnh viện London.
      - “Yếu”, Daisy và cười. ôm lấy Emma: “Con may mắn ghê gớm. Con đẻ dễ”.
      - “Ừ, mẹ biết. Bác sĩ với mẹ”. Emma vuốit mớ tóc xòa xuống mặt Daisy và hôn con. “mẹ vừa mới chuyện với David ở Bigginhill. Nó sướng run người. Ăn mừng với các bạn ở đội bay, lên mặt ông bố. Chút nữa nó gọi điện cho con. Và có tin mừng nữa đây này. Nó được phép nghỉ hai mươi bốn tiếng. Ngày mai chồng con có mặt ở thành phố”.
      - “Ôi, tuyệt vời quá, mẹ. Con nóng lòng muốn gặp ấy”. Daisy chun mũi: “Con cũng biết đứa bé giống ai. Nó rúm ró và đỏ hon hỏn tội nghiệp. Nhưng tóc nó đen và con nghĩ kiểu tóc của nó rồi sau này giống kiểu của mẹ. Mà mắt nó màu tím. Mẹ nghĩ là rồi nó đổi màu ?”.
      - “Có thể”, Emma và ngồi xuống. “Thường là như vậy. Nhưng mắt của con vẫn là màu xanh”.
      - “Con chọn hai tên đầu cho cháu, mẹ ạ”. Daisy tuyên bố.
      - “Con gọi cháu là Paula McGill. Đặt theo tên bố con”.
      Nét mặt của Emma vốn là thể thăm dò, nhưng lần đầu tiên trong đời nó có thể đọc được và Daisy bật cười. “Mẹ đừng choáng váng như vậy. Thành , đối với người phụ nữ tinh tế như mẹ, đôi khi mẹ cũng rất là ngây thơ. Mẹ nghĩ rằng con biết Paul là cha con chắc?”.
      Emma : “Mẹ… mẹ…” và dừng lại…
      Daisy lại cười nhưng là cái cười hiền lành và đầy tình thương mến. “Ngay cả khi con còn bé tí con nghĩ rằng Paul là ba con. Xét cho cùng, ba luôn luôn với chúng ta và chúng ta khắp mọi nơi với ba. Thế rồi khi con lớn hơn, con nhận ra con giống ba đến thế nào. Và chúng ta hãy nhìn thẳng vào , con bao giờ biết Arthur Ainsley, người mà con mang tên là ai”, Daisy ngừng lời, đôi mắt xanh trong sáng của nhìn chăm chú vào Emma. “mà, khi con mười hai tuổi, chính Paul với con điều ấy”. Quai hàm Emma trễ xuống. “Paul bảo với con ông ấy là cha con sao? Mẹ thể tin được điều ấy!”.
      Daisy gật đầu. “Vâng, đúng thế. Ba ba muốn con biết và con đủ lớn khôn để có thể hiểu được. Nhưng ba hãy để là điều bí mật trong vài năm. Ba lo là mẹ sầu muộn. Ba giải thích tất cả mọi điều với con cách trực tiếp, cẩn thận và hết sức dịu dàng. Ba vì sao ba và mẹ thể lấy nhau và ba hy vọng ngày nào đó giải quyết được vấn đề này. Ba cũng với con ba chính thức nhận con, ba ba cả hai mẹ con hơn bất cứ cái gì đời”. Mắt Daisy ươn ướt. hắng giọng và nốt. “ thực, con lấy gì làm ngạc nhiên hết, mẹ ạ, bởi vì đến lúc đó con đoán được rồi. Con với ba như thế và ba cười. Ba ba biết công chúa của ba là thông minh nhất đời”.
      - “Con có… bây giờ con có phiền lòng khi biết mình là con tư sinh ?”. Emma gượng hỏi.
      - “Ồ, mẹ, đừng cổ hủ như thế. Tất nhiên là . Con thà là tư sinh của Paul McGill còn hơn là con hợp pháp của Arthur Ainsley cho dù chỉ là ngày”.
      Nước mắt dâng lên mắt Emma, nàng loay hoay tìm khăn tay. “Mẹ… mẹ… biết như thế nào”, nàng ngập ngừng.
      Daisy nghiêng người về phía trước, giơ tay về phía Emma. “Con mẹ, mẹ ơi. Và con Paul. Nếu cho con tự chọn con cũng chọn được bố mẹ như thế. Và mẹ là người mẹ tuyệt vời nhất đời”.
      - “Nhưng tại sao con với mẹ là con biết trước điều đó?”, Emma hỏi giọng tắc nghẹn, mặt nàng áp vào vai Daisy. “tại sao con với mẹ khi Paul chết?”.
      - “Con nghĩ đó phải lúc. Nỗi quan tâm chính là cố gắng làm giảm nỗi đau khổ của mẹ”.
      Emma ngồi ngả trong ghế, hỉ mũi. Nàng mỉm cười yếu ớt với Daisy, mặt đầy thương. “Mẹ sung sướng là con biết, con . Đáng lẽ tự mẹ phải với con. Nhưng mẹ cứ nghĩ là con phản ứng như… con buồn và ghét mẹ và Paul”.
      - “Mẹ ngốc nghếch quá, mẹ ơi. Con bao giờ có thể ghét hoặc chỉ trích mẹ hoặc ba con vì việc hai người làm. Bố mẹ nhau”. Daisy cầm lấy tay Emma và nắm chặt lấy. “Con tự hào được làm con của mẹ”. Daisy nhìn Emma cái nhìn dò hỏi: “Mẹ có chắc là phiền lòng con lấy tên ba đặt cho cháu?”.
      - “Mẹ thấy rộn ràng”, Emma .
      Y tá vào làm họ ngắt quãng. Emma ôm đứa bé trong tay, mặt nàng rạng rỡ khi nhìn xuống cái bọc nép bên vai nàng. Đây là cháu ngoại đầu tiên của Paul, nàng nghĩ, tim nàng đập rộn ràng. Phải chi còn sống để nhìn thấy nó. Paula McGill Amory thế hệ mới đầu tiên của giòng họ McGill.
      tuần sau, Daisy về nhà ở quảng trường Belgrave. Hầu như ngay lập tức, đứa bé trở thành trung tâm thế giới của Emma, thỉnh thoảng nó làm đảo lộn vai trò làm mẹ của Daisy, lấy thế làm phiền lòng chút nào. sung sướng thấy Emma vui vẻ, tươi cười. nhiệt liệt khuyến khích mẹ khi bà tới kế hoạch của mình cho Paula và tương lai của con bé.
      - “Hình như Paula sinh ra là điềm may”. buổi sáng tại bữa ăn sáng, Emma , tay chỉ về phía tờ báo đọc. “Đồng minh đấ thực chọc thủng trận tuyến, mẹ nghĩ chiến tranh sắp kết thúc”.
      Nàng đúng trong giả định này. Khi năm mới chuyển qua mùa xuân khắp nước rộn ràng. Tháng ba, đội quân thứ nhất của Mỹ vượt qua sông Rhine qua cầu ở Remagen lập mũi tấn công ở Đức. Khoảng từ 20 đến 25 tháng tư, người Nga vào Berlin, năm ngày sau đó, Hitler và Braun tự tử. Đế quốc thứ ba mà quốc trưởng kéo dài ngàn năm tan rã trong thất bại nhục nhã. Ngày 7 tháng năm, Đức đầu hàng vô điều kiện tại Reims ở Pháp.
      Emma ở Leeds ngày 8 tháng năm, đó là ngày chiến thắng ở . Tối hôm ấy, nàng ăn cùng Winston, Charlotte và họ uống hai chai champagne để ăn mừng. Nhưng mặc dù cờ treo ngòai cửa sổ, phần phật những cột cở khắp Leeds, và hội hè tiếp nối chung quanh họ, Emma cảm thất nhõm hơn là vui sướng. Và nàng thở hơi nhõm đầu tiên trong sáu năm. Các con trai của nàng đều an toàn, kể cả con rể, các con trai của nàng và của những người bạn thân thiết nhất của nàng, Blackie O’Neill và David Kallinski. mất mát gì trong gia đình của họ, và Emma hết sức biết ơn vì điều đó.
      Rồi dần dần tất cả đều về nhà.
      *
      * *
      - “ chỉ tạt vào để chúc mừng em thôi, Emma”. Blackie O’Neill vừa vừa sải bước vào trong phòng khách ở Pennistone Royal. “Winston với là Công ty báo Yorkshire kiểm soát được tờ Yorkshie Morning Gazette. Như vậy là cuối cùng em thắng”.
      Emma mỉm cười yếu ớt với . “Vâng, em thắng. Nhưng mà từ trước cũng biết là em thắng cơ mà”.
      - “Có, biết”. nhìn nàng sắc sảo và hỏi: “Em làm như thế nào vậy, Emma? rất tò mò muốn biết”.
      - “Kiên nhẫn, và địch thủ yếu”. Nàng đặt tay vào lòng, nhìn xuống chiếc nhẫn lục bảo McGill rồi tiếp nhanh nhẹn. “Những tờ báo của em là những tờ báo thành công nhất ở Yorkshire và dần dần chiếm lĩnh được tất cả mọi số phát hành của tờ Gazette. Tờ báo đó thất thu từ sau chiến tranh. Thành , em cố đẩy tờ Gazette xuống bùn đen và em làm như vậy hề hối tiếc. Edwin Fairley phải là người kinh doanh tốt. Đáng lý ta phải bám vào luật pháp”. Nàng cười khô khan: “Và ta mắc vài sai lầm nghiêm trọng, trong những sai lầm đó là bán cổ phần của ta hai năm trước đây. ta làm suy yếu vị trí của mình. Từ lâu ta còn đứng ở thế mạnh để giải quyết công việc rồi”.
      - “Nhưng ấy vẫn là chủ tịch hội đồng”, Blackie xen vào.
      - “Vâng, đúng thế. Nhưng ta nhận ra cái tinh tế, vị trí của mình và ta cũng đánh giá thấp những cổ đông khác cả cũ lẫn mới. ta hình như hiểu rằng trung thành cũng bay ra ngoài cửa sổ khi sô tiền lớn rình rập. Ban giám đốc lo lắng về thua thiệt của những tờ báo trong nhiều năm nay và khi các Công ty Harte xáp vô để mua các cổ phần của họ họ sẵn sàng bán ngay chút do dự. Em thu thập được các cổ phần ở công ty trong nhiều năm, những cái đó cùng với những lần mua cuối của em đem lại cho em nhiều quyền lực. Những người cổ phần lúc đầu bán cho em, sau lại quăng gánh nặng của họ cho em. Hết sức đơn giản. Edwin Fairley bị thua phiếu ở cuộc họp lãnh đạo lần cuối và phải thôi làm chủ tịch nữa. Công ty Harte đề nghị mua cổ phần còn lại và ngạc nhiên, ta bán”.
      - “ đòn cho ta, Emma hả?”, Blackie nhận định. “Nhưng ngạc nhiên em có mặt ở cuộc họp lãnh đạo đó để mà chứng kiến chuyển nhượng của ấy. Winston chính ấy đại diện cho em”.
      Nét mặt của Emma thay đổi nhanh và lạnh lùng len vào đôi mắt của nàng. Nàng : “Bốn mươi lăm năm trước đây em với Edwin chừng nào em còn sống em gặp ta nữa và em gặp. nghĩ là bây giờ em lại muốn để mắt tới ta chứ?”.
      Blackie nhún vai: “ chắc là ”, trả lời lặng lẽ. Winston có kể cho em nghe Edwin phản ứng như thế nào khi ấy biết em là người đứng sau mọi chuyện ?”.
      Emma gật đầu: “ ràng ta mặt phớt tỉnh. Tất cả các trạng sư đều là những diễn viên giỏi mà”. Rồi : “ hiểu. Nhưng Winston kể với là Edwin có nét mặt rất đặc biệt khó mà có thể hiểu được là thế nào”. dừng lại và nhìn thẳng vào mặt Blackie. “Winston nghĩ Edwin có vẻ hài lòng. Lạ, phải nhỉ?”.
      - “Ừ, đúng thế. hiểu tại sao Edwin Fairley lại hài lòng khi em chiếm đoạt tờ báo của ấy”. lắc đầu, bàng hoàng. “Tờ báo thuộc về gia đình ấy ba thế hệ nay”.
      - “Có Trời biết”, Emma : “Đó là điều huyền bí đối với em. Winston hình như được chứng kiến thấy Edwin người”, nàng cười cách hài hước. “Đúng về mặt nào đó, có thể nó được rằng em nhấc gánh nặng khỏi vai Edwin”.
      - “Đúng thế, em ”. Blackie , nét mặt thể đọc được khi châm điếu xì gà. Có lẽ nàng đúng, nghĩ. Có lẽ Edwin Fairley nhõm trong người, nhưng phải với lý do nàng nghĩ đâu.
      Emma đứng lên: “Em phải tìm Paula đây. đến giờ cho cháu ăn trưa rồi. Em quay lại ngay. Blackie, xin lỗi”.
      Blackie gật đầu và theo nàng ra ngoài sân hiên. nhìn nàng bước vội xuống vườn, mắt dõi theo và nheo lại vì mặt trời tháng tám sáng chói. Emma đứng sững bên ao hoa huệ ở cuối vườn và cúi xuống chuyện với Paula chơi con búp bê. Emma vẫn đẹp dáng như bao giờ, và xa xa, trong chiếc áo dài mùa hè mỏng , mớ tóc vẫn còn óng mượt điểm ánh vàng- đỏ của thời trẻ trung, trông nàng như trẻ gặp lần đầu tiên đồng hoang từ những ngày xa xưa và trong khoảng khắc, những năm tháng trôi . nhớ lại cách ràng hầu bé của Fairley Hall, và nụ cười chậm chạp nở mặt . Gần nửa thế kỷ qua, bao nhiêu điều xảy đến, những điều bao giờ mơ có thể xảy ra. Cuộc sống lạ kỳ. Và Emma cứ tiếp tục mãi, giờ đây vẫn bất khuất như bao giờ. chớp chớp và lấy tay che mắt. thấy nàng xoa đầu đứa bé, rồi nàng đứng thẳng lên và quay về sân hiên, bước mạnh mẽ.
      Blackie mỉm cười trìu mến với nàng: “ ràng em là người bà đẹp nhất đời này”, nhận xét và cười “còn đứa kia, nó trở thành cái bóng của em”.
      - “Em nghĩ bà cháu em là đôi lạ lùng, bà già và đứa bé lên năm, nhưng chúng tôi hiểu nhau”. Nàng quay lại nhìn đứa bé, mặt nàng dịu lại. “Tất cả những mơ ước, những hy vọng, những mong chờ của em đều tập trung vào nó, Blackie ạ. Nó là tương lai của em”.

    6. ^^! Nếu bạn không gửi link bài viết trên Facebook được, hãy sử dụng link trong khung này để chia sẻ bài viết :