Chương 32 Bác sĩ Edna Skylar gặp Myron ở tiền sảnh của Trung tâm Y tế St. Barnabas. Bà vận đủ bộ - cái áo choàng trắng, cái thẻ tên với lôgô của bệnh viện, cái ống nghe đu đưa quanh cổ, cặp hồ sơ trong tay. Bà cũng có cả tác phong bác sĩ rất ấn tượng, được hoàn thiện với cái dáng điệu đáng ghen tị, nụ cười , cái bắt tay chặt-mà--siết. Myron tự giới thiệu về mình. Bà nhìn thẳng vào mắt và , “ cho tôi biết về mất tích .” Lời của bà dành chút khoảng thời gian nào cho việc tranh luận. Myron cần bà tin , nên vào đề ngay, tránh nhắc đến họ của Aimee. Hai người đứng ở giữa sảnh. Các bệnh nhân và khách khứa qua lại hai bên, số người sát cạnh. Myron : “Có lẽ chúng ta nên đến chỗ nào kín đáo hơn.” Edna Skylar mỉm cười, nhưng có chút vui vẻ nào cả. “Những người này bận tâm với những việc quan trọng của họ hơn là chúng ta.” Myron gật đầu. thấy ông cụ chiếc xe lăn với cái mặt nạ ôxy. thấy người phụ nữ xanh xao trong bộ tóc giả chẳng hợp tí nào đăng ký nhập viện với ánh mắt vừa cam chịu vừa hoang mang, như thể bà ta tự hỏi liệu có được đăng ký xuất viện và liệu điều đó thậm chí có còn quan trọng nữa . Edna Skylar quan sát . “Có rất nhiều người chết ở đây,” bà . “Làm sao bà làm được việc này?” Myron hỏi. “ muốn nghe những lời sáo rỗng phổ biến về chuyện có thể tách bạch vấn đề cá nhân và vấn đề chuyên môn chăng?” “ hẳn.” “ là, tôi biết. Công việc của tôi rất thú vị. Nó bao giờ cũ. Tôi nhìn thấy cái chết nhiều rồi. Điều đó cũng bao giờ cũ. Nó giúp tôi chấp nhận đạo đức của bản thân tôi hay bất cứ điều gì đại loại như thế. Trái lại. Cái chết là nỗi đau bất biến. Cuộc sống quý giá hơn những gì có thể tưởng tượng. Tôi thấy nó, giá trị thực của cuộc sống, chỉ là những thứ vô vị thông thường mà chúng ta vẫn nghe kể. Cái chết là kẻ thù. Tôi chấp nhận nó. Tôi chiến đấu với nó.” “Và việc đó bao giờ trở nên mệt mỏi?” “Chắc chắn là có. Nhưng tôi làm việc gì khác đây? Nướng bánh quy ư? Làm ở Phố Wall ư?” Bà nhìn quanh. “ nào, đúng - ở đây mất tập trung quá. theo tôi, nhưng tôi có lịch làm việc dày đặc, vì vậy cứ tiếp .” Myron kể cho bà phần còn lại của câu chuyện về biến mất của Aimee. cố kể câu chuyện ngắn gọn hết mức - tránh nhắc đến tên mình - nhưng vẫn đảm bảo có nhắc đến việc cả hai sử dụng cùng chiếc máy ATM. Bà hỏi vài câu, chủ yếu là những điểm cần làm . Họ đến văn phòng của bà và ngồi xuống. “Có vẻ như ta bỏ trốn.” Edna Skylar . “Tôi có tính đến điều đó.” “Ai đó tiết lộ cho tên của tôi, có đúng ?” “Đại loại vậy.” “Vậy biết chút gì về thứ tôi nhìn thấy ?” “Chỉ những điều cơ bản thôi. Những gì bà thuyết phục được các điều tra viên rằng Katie bỏ trốn. Tôi chỉ tự hỏi liệu bà có nhìn thấy cái gì đó khiến bà nghĩ khác .” “. Và tôi nghĩ về điều đó hàng trăm lần trong đầu.” “Bà biết ,” Myron “là các nạn nhân bị bắt cóc thường cùng với kẻ bắt cóc họ.” “Tôi biết tất cả những điều đó. Hội chứng Stockholm và tất cả những biến thể kỳ dị của nó. Nhưng nó có vẻ theo hướng đó. Katie trông có vẻ kiệt quệ cho lắm. Ngôn ngữ cơ thể thường đúng. có hoảng loạn trong mắt ta hoặc bất cứ loại biểu phấn khích kiểu sùng tín nào. Thực ra, đôi mắt ta rất trong. Tôi nhìn thấy dấu hiệu của ma tuý trong đó, mặc dù phải công nhận tôi chỉ nhìn thoáng qua.” “Chính xác bà nhìn thấy ta lần đầu ở đâu?” “Ở Đại lộ Tám gần Phố Hai mốt.” “Và ta đến chỗ ga tàu điện ngầm?” “Phải.” “Có hai chuyến tàu qua ga đó.” “ ta tàu C.” Tàu C thường theo hướng Bắc - Nam qua Mahattan. Điều đó chẳng giúp ích gì. “Kể cho tôi nghe về người đàn ông cùng ta .” “Tầm ba mươi tới ba nhăm. Chiều cao trung bình. Ưa nhìn. Tóc dài, sẫm màu. Râu để chừng hai ngày chưa cạo.” “Còn các vết sẹo, xăm, bất cứ thứ gì đại loại như thế?” Edna Skylar lắc đầu và kể cho câu chuyện, bà bộ phố với chồng ra sao, Katie trông khác như thế nào, già hơn, sành điệu hơn, kiểu tóc khác, và bà dám khẳng định đó là Katie cho tới khi Katie ra những lời cuối cùng: “Đừng với ai là thấy tôi nhé.” “Và bà ấy có vẻ sợ hãi?” “Phải.” “Nhưng phải là sợ người đàn ông ấy cùng sao?” “Đúng vậy. Tôi hỏi điều này được ?” “Được thôi.” “Tôi biết chút ít về ,” bà . “, tôi phải là fan hâm mộ bóng rổ, nhưng Google có thể làm nên những kỳ tích. Tôi dùng nó suốt. Với cả bệnh nhân nữa. Khi tôi mới gặp ai, tôi đều kiểm tra họ qua mạng.” “Rồi.” “Vậy câu hỏi của tôi là, tại sao phải cố tìm kiếm đó?” “Tôi là người bạn của gia đình.” “Nhưng tại sao lại là ?” “Khó giải thích lắm.” Edna Skylar nín lặng lát, có vẻ chắc chắn liệu bà có nên chấp nhận câu trả lời mập mờ của . “Bố mẹ của ấy chống chọi ra sao rồi?” “ tốt lắm.” “Con họ rất có khả năng vẫn an toàn. Như Katie.” “Có thể.” “ nên với họ như thế. Cho họ chút an ủi. Cho họ biết là con họ ổn thôi.” “Tôi nghĩ điều đó có chút tác dụng nào.” Bà nhìn xa xăm. Có cái gì đó vụt qua gương mặt bà. “Bác sĩ Skylar?” “ đứa con của tôi từng bỏ trốn,” Edna Skylar . “Lúc đó nó mười bảy tuổi. biết câu hỏi về bản chất chống lại nuôi dưỡng ? Chà, tôi là bà mẹ tồi. Tôi biết vậy. Nhưng thằng con trai tôi là mớ rắc rối ngay từ ngày đầu. Nó dính vào chuyện đánh lộn. Nó thó đồ trong cửa hàng. Nó bị bắt năm mười sáu tuổi vì tội ăn trộm cái ô tô. Nó nghiện ma tuý nặng, mặc dù tôi nghĩ là lúc đó tôi biết. Đó là vào những ngày trước khi chúng tôi chuyện về ADD(5 hoặc cho lũ trẻ uống Ritalin(59) hay những thứ tương tự. Nếu đó là lựa chọn nghiêm túc, có lẽ tôi làm rồi. Thay vào đó, tôi phản ứng bằng cách rút lại và mong nó vượt qua chuyện đó. Tôi tham gia vào cuộc sống của nó. Tôi cho nó định hướng.” Bà tất cả những đều đó hoàn-toàn-thành-. “Dẫu sao, lúc nó bỏ . Tôi làm gì. Tôi gần như mong đợi điều đó. tuần trôi qua. Hai tuần. Nó gọi. Tôi biết nó ở đâu. Con cái là phúc lành. Nhưng chúng cũng làm tan nát trái tim theo nhiều cách mà chúng có thể bao giờ tưởng tượng nổi.” Edna Skylar ngừng lại. “Điều gì xảy ra với nó?” Myron hỏi. “ có gì quá ghê gớm. Cuối cùng nó cũng gọi. Nó ở vùng West Coast, cố gắng trở thành ngôi sao lớn. Nó cần tiền. Nó ở đó trong hai năm. Làm gì hỏng nấy. Rồi nó quay về. Nó vẫn chỉ là thằng nhếch nhác. Tôi cố gắng thương nó, chăm lo cho nó, nhưng” - bà nhún vai - “khả năng bác sĩ đến với tôi tự nhiên. Khả năng làm mẹ .” Edna Skylar nhìn Myron. có thể thấy bà vẫn chưa xong, nên vẫn chờ. “Tôi ước...” Họng bà nghẹn lại. “Đó là lời sáo rỗng kinh khủng, nhưng hơn tất cả, tôi ước tôi có thể bắt đầu lại lần nữa. Tôi con trai tôi, tôi thực nó, nhưng tôi biết phải làm gì cho nó. Có lẽ nó hết hy vọng rồi. Tôi biết điều đó nghe lạnh lùng biết bao, nhưng khi làm những chẩn đoán chuyên môn suốt ngày, có xu hướng làm những thứ đó cả trong cuộc sống riêng tư. Ý tôi là, tôi phát ra rằng mình thể kiểm soát nổi những người tôi . Vì vậy tôi kiểm soát những người tôi .” “Tôi chưa hiểu,” Myron . “Những bệnh nhân của tôi,” bà giải thích. “Họ là những người xa lạ, nhưng tôi chăm lo cho họ rất nhiều. phải vì tôi là người hào phóng hay tuyệt vời, nhưng bởi vì trong suy nghĩ của tôi, họ vẫn còn vô tội. Và tôi đánh giá họ, tôi biết điều đó là sai. Tôi biết tôi nên đối xử với mọi bệnh nhân như nhau, và về phương diện điều trị, tôi nghĩ tôi có làm như vậy. Nhưng là, nếu tôi Google người và thấy rằng họ có thời gian ngồi tù hoặc hình như có cuộc đời hèn hạ, tôi cố gắng đẩy họ tới chỗ bác sĩ khác.” “Bà thích những người vô tội hơn,” Myron . “Chính xác. Những người - tôi biết điều này nghe thế nào - những người tôi cho là trong sáng. Hoặc chí ít, trong sáng hơn.” Myron nghĩ về lý lẽ gần đây của riêng , rằng mạng sống của em song sinh có chút nghĩa lý gì đối với ra sao, rằng có thể hy sinh bao nhiêu dân thường để cứu đứa con trai của riêng . Lý lẽ đó có khác nhiều lắm ? “Vì vậy điều tôi cố gắng là, tôi nghĩ về cha mẹ của ấy, những người mà được ổn lắm, và tôi lo lắng cho họ. Tôi muốn giúp đỡ.” Trước khi Myron có thể trả lời, có chút tia sáng cánh cửa. Cửa mở ra, và mái đầu hoa râm ló vào. Myron đứng dậy. Người đàn ông tóc hoa râm bước vào và , “ xin lỗi, biết em tiếp ai đó.” “ sao đâu, ,” Edna Skylar , “nhưng có lẽ quay lại sau được ?” “Tất nhiên.” Người đàn ông tóc hoa râm cũng mặc chiếc áo choàng trắng. Ông nhận ra Myron và mỉm cười. Myron nhận thấy nụ cười đó. Edna Skylar phải fan hâm mộ bóng rổ, nhưng người đàn ông này có. Myron chìa tay ra. “Myron Bolitar.” “Ồ, tôi biết là ai. Tôi là Stanley Rickenback. Được biết nhiều hơn với tư cách là ông Bác sĩ Edna Skylar.” Họ bắt tay. “Tôi thấy chơi ở trường Duke,” Stanley Rickenback , “ đúng là khác biệt đấy.” “Cảm ơn ông.” “Tôi có ý làm phiền đâu. Tôi chỉ muốn biết liệu dâu e lệ của tôi có muốn cùng tôi hưởng niềm vui bếp núc bữa trưa, chính là quán ăn tự phục vụ ở bệnh viện của chúng tôi hay chăng.” “Tôi sắp đây,” Myron . Rồi: “Ông ở cùng vợ ông khi bà ấy nhìn thấy Katie Rochester phải ?” “Đó là lý do ở đây à?” “Phải.” “ là nhân viên cảnh sát à?” “.” Edna Skylar đứng dậy. Bà hôn vào má chồng. “Nhanh lên . Em có mấy bệnh nhân trong hai mươi phút nữa.” “Phải, tôi ở đó,” Stanley Rickenback với Myron. “Sao, quan tâm đến điều gì vậy?” “Tôi điều tra vụ mất tích của khác.” “Đợi , khác bỏ trốn à?” “Có thể. Tôi muốn nghe về những cảm tưởng của ông, bác sĩ Rickenback.” “Về cái gì?” “Có phải ông cũng cảm thấy là Katie Rochester bỏ trốn ?” “Có.” “Xem ra ông khá chắc chắn,” Myron . “ ấy cùng người đàn ông. ấy có hành động gì để chạy trốn. ấy bảo Edna được cho bất kỳ ai và - Rickenback quay sang bà vợ ông. “Em bảo ta chưa?” Edna nghiêm mặt. “ thôi .” “Bảo tôi cái gì cơ?” “Stanley quý của tôi trở nên già cả và lẫn cẫn,” Edna . “Ông ấy cứ tưởng tượng ra lắm chuyện.” “Ha, ha, khôi hài. Em có nhận định chuyên môn của em. cũng có chứ.” “Nhận định chuyên môn của ông?” Myron . “ có gì đâu,” Edna . “ phải là có gì,” Stanley khăng khăng. “Tốt thôi,” Edna . “Vậy cứ với ta cái mà nghĩ thấy.” Stanley quay sang Myron. “Vợ tôi với về việc ấy nghiên cứu các khuôn mặt như thế nào. ấy nhìn mọi người và cố gắng đưa ra các phán đoán. Cho vui thôi. Tôi làm thế. Tôi bỏ công việc lại ở sở.” “Chuyên ngành của ông là gì, bác sĩ Rickenback?” Ông mỉm cười. “Vấn đề ở đấy.” “Là gì?” “Tôi là bác sĩ sản - phụ khoa. Lúc đó tôi thực nghĩ đến nó. Nhưng khi chúng tôi về tới nhà, tôi tìm những tấm hình của Katie Rochester Web. biết đấy, những tấm được đưa ra cho các phương tiện truyền thông ấy. Tôi muốn xem xem liệu đó có đúng là chúng tôi nhìn thấy ở ga tàu điện ngầm . Và đó là lý do tại sao tôi khá chắc chắn về điều tôi thấy.” “Điều gì?” Stanley bỗng cảm thấy chắc chắn với chính bản thân mình. “Thấy chưa?” Edna lắc đầu. “ thứ hoàn toàn vớ vẩn.” “Cũng có thể,” Stanley Rickenback tán đồng. Myron , “Nhưng?” “Nhưng hoặc là Katie Rochester lên cân,” Stanley Rickenback , “hoặc có lẽ, chỉ có lẽ thôi, ấy có thai.”
Chương 33 Harry Davis giao cho lớp bài tập đọc-chương-này-ngay-bây-giờ giả hiệu-vớ vẩn và ra ngoài. Sinh viên của ông rất ngạc nhiên. Các giáo viên khác vẫn diễn trò này suốt, cái bài làm-việc-im-lặng-bận-rộn--để-tôi-còn-hút-điếu-thuốc. Nhưng thầy D, Giáo viên của Năm trong suốt bốn năm liền, bao giờ làm trò đó. Những hành lang ở trường Livingston dài cách ngớ ngẩn. Khi ông đứng mình trong hành lang, như ngay lúc này, nhìn xuống phía cuối đường khiến ông xây xẩm. Nhưng đó là Harry Davis. Ông thích nó im ắng. Ông thích nó sống động, khi cái hành lang chính này tràn ngập thanh ồn ào huyên náo và những đứa trẻ, những chiếc ba lô, những lo lắng của tuổi mới lớn. Ông tìm thấy phòng học, gõ cửa nhanh, và ló đầu vào. Drew Van Dyne dạy chủ yếu là những đứa bất hảo. Căn phòng phản ánh điều đó. nửa bọn nhóc dán tai vào máy Ipod. Vài đứa ngồi mặt bàn. Những đứa khác ngồi tựa vào cửa sổ. chú chàng lực lưỡng hôn hít mân mê đứa con ở góc trong cùng, miệng hai đứa há to và rộng. Bạn có thể nhìn thấy cả nước bọt. Drew Van Dyne gác chân lên bàn, hai bàn tay chắp lại vạt áo. quay về phía Harry Davis. “Thầy Van Dyne? Tôi chuyện với thầy lát được ?” Drew Van Dyne ném cho ông nụ cười nhăn nhở tự mãn. Van Dyne có lẽ khoảng ba nhăm tuổi, trẻ hơn Davis mười tuổi. được tuyển vào làm thầy dạy nhạc tám năm về trước. Trông như thành viên, cựu ca sĩ nhạc rock ‘n’ roll, người có thể -lẽ ra leo lên hàng top ngoại trừ việc mấy công ty thu dốt nát bao giờ có thể hiểu được tài năng thực thụ của . Thế nên giờ đây dạy guitar và làm trong cửa hàng nhạc nơi phỉ báng thị hiếu CD hàng vỉa hè của bạn. Chuyện nhạc nhẽo dạo này bị gián đoạn đẩy Van Dyne vào bất kỳ lớp nào gần với nghề trông trẻ nhất. “Ôi tất nhiên, thưa thầy D.” Hai giáo viên rảo bước về phía sảnh trước. Những cánh cửa rất dày. Khi nó đóng vào, hành lang yên tĩnh trở lại. Van Dyne vẫn giữ nụ cười nhăn nhở tự mãn. “Tôi vừa mới chuẩn bị bắt đầu buổi học, thầy D ạ. Tôi làm được gì cho ông?” Davis thầm vì ở đây mọi thanh đều vọng ra ngoài. “ nghe về Aimee Biel chưa?” “Ai?” “Aimee Biel. học sinh ở đây.” “Tôi nghĩ đấy là học sinh của tôi.” “ ấy mất tích, Drew.” Van Dyne gì. “ có nghe tôi đấy?” “Tôi vừa là tôi biết ta.” “Drew...” “Và,” Van Dyne ngắt lời, “Tôi nghĩ chúng ta được thông báo nếu có học sinh mất tích, phải ?” “Cảnh sát nghĩ ấy là kẻ bỏ trốn.” “Và ông ?” Van Dyne giữ nụ cười nhăn nhở, có lẽ thậm chí còn kéo rộng ra thêm chút. “Cảnh sát muốn biết tại sao ông lại cảm thấy thế, thầy D ạ. Có lẽ ông nên đến gặp họ. Kể cho họ tất cả những thứ ông biết.” “Có lẽ tôi làm thế.” “Tốt.” Van Dyne ghé sát hơn và thầm “Tôi nghĩ cảnh sát dứt khoát muốn biết lần cuối cùng ông nhìn thấy Aimee, phải ?” Van Dyne ngả người ra sau và chờ đợi phản ứng của Davis. “Ông thấy đấy, thầy D,” Van Dyne tiếp tục, “họ cần biết mọi thứ. Họ cần biết ta đâu, ta chuyện với ai, họ về cái gì. Họ có thể điều tra tất cả những thứ đó, ông nghĩ vậy sao? Có khi là mở hẳn cuộc điều tra toàn diện về những công việc tuyệt vời về danh hiệu Giáo viên của Năm của chúng ta ấy chứ.” “Sao lại...?” Davis cảm thấy cơn run rẩy nổi lên dưới chân mình. “ có nhiều thứ để mất hơn tôi đấy.” “ hả?” Giờ đây Drew Van Dyne tiến sát đến nỗi Davis có thể cảm thấy cả nước bọt bắn lên mặt ông. “ cho tôi biết , thầy D. Chính xác tôi có gì để mất nào? Ngôi nhà đáng của tôi ở vùng Ridgewood xinh đẹp ư? Danh tiếng chân chính của tôi với tư cách là giáo viên được quý ư? Bà vợ hãnh tiến của tôi, người vẫn cùng tôi chia sẻ niềm đam mê giáo dục lớp trẻ ư? Hay có lẽ là đứa con dễ thương vẫn ngưỡng mộ tôi vô cùng?” Họ đứng đó trong giây lát, vẫn nhìn chằm chằm vào mặt nhau. Davis được lời nào. Ở đâu đó từ nơi xa, có lẽ là thế giới khác, ông nghe thấy tiếng chuông reo vang. Những cánh cửa bật mở. Học sinh ùa ra. Những hành lang tràn ngập tiếng cười và tiếng la hét của chúng. Tất cả những thứ đó tước chỗ dựa của Harry Davis. Ông nhắm mắt lại và để nó, để nó cuốn ông đến nơi nào đó xa rời hẳn Drew Van Dyne, nơi nào đó ông muốn đến hơn. Phố mua sắm Livingston già và vẫn gắng gượng cách khó khăn để làm lộ ra điều đó, nhưng những sửa sang gây ấn tượng về ca căng da mặt hỏng hơn là tuổi thanh xuân thực . Bedroom Rendezvous nằm ở tầng thấp hơn. Đối với số người, cửa hàng đồ lót phụ nữ đó giống như người em con chú con bác của khu bán hàng giá cao của Victoria Secret, nhưng là, những người em con chú con bác thực ra rất giống nhau. Tất cả là về cách phô bày. Những người mẫu gợi cảm các tấm áp phích lớn gần giống những ngôi sao phim khiêu dâm, với cái lưỡi uốn éo và vị trí đặt bàn tay đầy khêu gợi. Khẩu hiệu của Bedroom Rendezvous, được căng ngang ở chính giữa khe ngực của của những người mẫu nở nang, ghi: BẠN MUỐN ĐƯA LOẠI ĐÀN BÀ NÀO LÊN GIƯỜNG? “ nàng nóng bỏng,” Myron to. lần nữa, nó lại khác nhiều so với các quảng cáo của Victoria’s Secret, những đoạn quảng cáo có Tyra và Frederique cùng được xoa dầu bóng và hỏi, “Cái gì mới là gợi cảm?” Trả lời: Những nàng nóng bỏng. Chuyện quần áo dường như phải là vấn đề. Người phụ nữ bán hàng mặc cái áo in hình con hổ chật ních. Bà ta có bộ tóc to đùng và nhai kẹo cao su, nhưng trong đó có tự tin mà bằng cách nào đó khiến nó gây được ấn tượng. Chiếc thẻ của bà ta đề SALLY ANN. “ ngắm để làm vụ mua bán hả?” Sally Ann hỏi. “Tôi ngờ là bà có bất cứ thứ gì thuộc cỡ của tôi,” Myron . “ bất ngờ cho mà xem. Thế nào?” Bà hướng về phía cái áp phích. “ chỉ thích soi cái khe ngực thôi à?” “Chà, đúng thế. Nhưng đó phải là lý do tôi ở đây.” Myron rút ra tấm ảnh Aimee. “Bà có nhận ra này ?” “ là cớm à?” “Có thể.” “ đâu.” “Điều gì khiến bà vậy?” Sally Ann nhún vai. “Vậy theo vụ gì?” “ này mất tích. Tôi cố gắng tìm kiếm ấy.” “Đưa tôi xem nào.” Myron đưa bà tấm ảnh. Sally Ann ngắm nó. “ ấy trông quen quen.” “ khách hàng chăng?” “. Tôi nhớ các khách hàng chứ.” Myron với lấy cái túi nhựa và lôi ra bộ đồ màu trắng mà tìm thấy trong ngăn kéo của Aimee. “Cái này trông có quen ?” “Chắc chắn rồi. Cái này thuộc dòng Hư hỏng của chúng tôi mà.” “Có phải bà bán cái này ?” “Cũng có thể. Tôi bán vài chiếc.” “Cái mác vẫn còn dán đó. Bà nghĩ bà có thể lần ra người mua nó ?” Sally Ann cau mày và chỉ vào tấm hình Aimee. “ nghĩ là mất tích của mua nó à?” “Tôi tìm thấy nó trong ngăn kéo của ấy.” “Phải, nhưng mà.” “Mà cái gì?” “Nó quá là đĩ thoã và thoải mái.” “Và, thế nào, ấy trông lọc lõi lắm à?” “, phải vậy. Phụ nữ hiếm khi mua loại này. Đàn ông mới mua. Chất vải rất ngứa. Nó thít lên cửa mình ấy. Đấy là sở thích kỳ quặc của gã đàn ông, phải của phụ nữ. Hơi giống trong băng video khiêu dâm.” Sally Ann ngẩng mặt lên và nhai kẹo cao su. “ bao giờ xem phim khiêu dâm chưa?” Myron làm mặt ngẩn ngơ. “Chưa từng, chưa bao giờ,” . Sally Ann cười to. “Phải rồi. Dù sao, khi người phụ nữ chọn phim, nó hoàn toàn khác. Nó thường có câu chuyện hoặc có lẽ là tựa đề với từ “khoái cảm” hay “âu yếm” trong đó. Nó có thể dâm dục hay gì cũng được, nhưng nó thường phải là những thứ có tên gọi kiểu như Điếm bẩn 5. Ông biết tôi muốn gì chứ?” “Cứ cho là tôi biết . Thế còn bộ đồ này?” “Nó cũng tương tự.” “Như Điếm bẩn gì đó à?” “Đúng vậy. có phụ nữ nào chọn nó.” “Thế làm cách nào bà tìm ra người mua nó cho ấy?” “Chúng tôi ghi sổ hay bất cứ thứ gì đại loại như thế. Tôi có thể hỏi những khác, nhưng...” Sally Ann nhún vai. Myron cảm ơn bà và ra ngoài. Khi còn là cậu bé, Myron tới đây với bố . Hồi đó họ hay lui tới cửa hàng Herman’s Sporting Goods. Cửa hàng đó giờ đóng cửa. Nhưng khi rời khỏi Bedroom Rendezvous, vẫn nhìn xuống hành lang, nơi từng là cửa hàng của Herman. Và cách đó hai nhà, phát ra cửa hàng với với cái tên quen quen. PLANET MUSIC_. Myron vụt nhớ lại căn phòng của Aimee. Planet Music. Những cây guitar là từ Planet Music mà ra. Có mấy hóa đơn của cửa hàng đó trong ngăn kéo của Aimee. Và nó đây, hiệu nhạc thích của , nằm cách Bedroom Rendezvous hai cửa hàng. trùng hợp ngẫu nhiên khác chăng? Thời Myron còn trẻ, cửa hàng ở vị trí này bán đàn piano và organ. Myron vẫn luôn thắc mắc về điều đó. Cửa hàng bán piano-organ ở phố mua sắm. Bạn tới phố mua sắm để mua quần áo, cái đĩa CD, món đồ chơi, có thể là dàn máy hát. Ai lại đến phố mua sắm để mua chiếc piano cơ chứ? ràng là nhiều người. Những chiếc đàn piano và organ còn. Planet Music bán đĩa CD và những nhạc cụ hơn. Chúng có bảng hiệu cho thuê. Kèn trumpet, kèn clarinet, đàn viôlông - có thể làm ăn khá với các trường học. Thằng nhóc đứng sau quầy thu ngân có lẽ chừng hai mươi ba, mặc cái áo choàng chui đầu bằng sợi gai, và trông như phiên bản xơ xác hơn của chàng phục vụ quầy Starbucks trung bình. Cu cậu đội chiếc mũ đan bụi bặm cái đầu cạo trọc lóc. Cậu ta chưng ra cả đốm râu cằm hình như nay là điều kiện tiên quyết vậy. Myron ném cho cu cậu cái nhìn cú vọ và đập tấm hình đánh bẹt lên mặt quầy thu ngân. “Cậu biết ấy chứ?” Thằng nhóc ngập ngừng trong giây hơi lâu. Myron nhảy bổ vào. “Cậu trả lời tôi , cậu bị bắt.” “Bị bắt vì cái gì cơ?” “Cậu có biết ấy ?” Cu cậu gật đầu. “Đấy là Aimee.” “ ấy mua hàng ở đây hả?” “Phải, mua suốt,” cậu , đôi mắt nhìn láo liên khắp nơi trừ Myron. “Và ấy cũng hiểu biết về nhạc. Đa số những người đến đây, họ cầu các ban nhạc nam.” Cu cậu các ban nhạc nam theo cách mà hầu hết mọi người thú tính. “Nhưng Aimee, ấy cá tính.” “Cậu biết ấy đến đâu?” “ nhiều lắm. Ý tôi là, ấy đến đây vì tôi.” Thằng nhóc mặc áo choàng chui đầu im bặt ngay. “ ấy đến đây vì ai?” “Sao ông lại muốn biết?” “Bởi vì tôi muốn bắt cậu phải lột hết các túi ra.” Cu cậu giơ hai tay lên. “Này, tôi hoàn toàn sạch nhá.” “Thế tôi gán cho cậu cái gì đấy.” “Cái quái gì... Ông nghiêm túc đấy hả?” “Hết sức nghiêm túc.” Myron lại trừng mắt lần nữa. giỏi trò trừng mắt lắm. Căng mắt khiến thấy đau đầu. “ ấy tới đây để gặp ai?” “Phó giám đốc của tôi.” “Tên ta?” “Drew. Drew Van Dyne.” “ ta có ở đây ?” “. Trưa nay ta mới đến.” “Cậu có địa chỉ của ta ? Số điện thoại nữa?” “Này,” thằng nhóc . “Cho tôi xem phù hiệu của ông .” “Thôi chào nhé.” Myron biến khỏi cửa hàng. lại tìm đến Sally Ann. Bà ta đá lưỡi vào miếng kẹo cao su đánh tách. “Quay lại sớm thế?” “ xa được mà,” Myron . “Bà có biết thằng cha làm ở Planet Music tên Drew Van Dyne ?” “Ồ,” bà ta , gật gù như thể mọi thứ giờ trở nên hợp lý. “Ồ có.”
Chương 34 Claire nhảy dựng lên khi nghe thấy tiếng điện thoại reo. ngủ kể từ khi Aimee mất tích. Trong hai ngày vừa qua Claire nốc đủ cà phê, do đó là chất caffeine, để có thể thính nhạy với thanh. vẫn hay nghĩ về chuyến viếng thăm của nhà Rochester, cơn giận dữ của ông bố, nhu nhược của bà mẹ. Bà mẹ. Joan Rochester. Dứt khoát là có chuyện gì đó xảy ra với người phụ nữ ấy. Claire dành cả buổi sáng vừa kiểm tra căn phòng của Aimee trong khi vừa tự hỏi làm sao để bắt Joan Rochester chuyện. Tiếp cận theo kiểu giữa hai bà mẹ với nhau, có lẽ vậy. Căn phòng của Aimee cất giữ điều bất ngờ mới nào. Claire bắt đầu kiểm tra những chiếc hộp cũ, những thứ đồ bé lưu giữ từ lúc hình như là hai tuần trước. Cái hộp đựng bút chì Aimee làm cho Erik từ hồi học mẫu giáo. Bảng điểm đầu tiên của bé - toàn điểm A, cộng thêm nhận xét của Rohbach rằng Aimee là học sinh có năng khiếu, mừng vì có em trong lớp, và có tương lai xán lạn. nhìn chăm chăm vào mấy chữ tương lai xán lạn, để thấy chúng giễu cợt mình. Chiếc điện thoại kêu váng óc. nhảy bổ tới chỗ nó, lần nữa mong rằng đó là Aimee, rằng tất cả những thứ này chỉ là hiểu lầm ngớ ngẩn, rằng có lời giải thích hoàn toàn hợp lý về việc con bé ở đâu. “Alô?” “ ấy khoẻ.” Giọng vô cảm. ra giọng đàn ông cũng chẳng ra giọng phụ nữ. Giống như phiên bản khó chịu của người vẫn với bạn là cuộc gọi của bạn có hiệu lực và hãy giữ máy cho tới khi có tổng đài trống tiếp theo. “Ai đấy?” “ ấy vẫn ổn. Cứ để kệ mọi chuyện . Tôi đảm bảo với bà đấy.” “Ai đấy? Cho tôi chuyện với Aimee.” Nhưng đáp lại chỉ có tiếng tút tút. Joan Rochester , “ giờ Dominick có nhà.” “Tôi biết,” Myron . “Tôi muốn chuyện với bà.” “Tôi á?” Cứ như là riêng cái ý nghĩ có ai đó muốn chuyện với bà ta là cú sốc ngang với cuộc đổ bộ lên Sao Hỏa vậy. “Nhưng tại sao?” “Làm ơn, bà Rochester, nó rất quan trọng.” “Tôi nghĩ chúng ta nên đợi Dominick về.” Myron lách qua người bà. “Tôi nghĩ thế.” Ngôi nhà rất gọn gàng và ngăn nắp. Tất cả đều là những đường thẳng và góc vuông. có đường cong nào, có mảng màu bất ngờ nào, tất cả đều thẳng thớm, như thế chính căn phòng này muốn lôi kéo chú ý về phía mình. “Tôi pha cho ông ít cà phê nhé?” “Con bà đâu, bà Rochester?” Bà ta chớp mắt có lẽ phải tới cả chục lần liên tục. Myron biết những người chàng hay chớp mắt như vậy. Họ luôn là những cậu bé bị bắt nạt ở trường lúc còn và bao giờ vượt qua được điều đó. Bà ta cố gắng lắp bắp, “Cái gì?” “Katie đâu rồi?” “Tôi... tôi biết.” “ dối.” Lại chớp mắt nữa. Myron kìm lòng để thấy thương xót bà ta. “Sao chứ... tôi dối.” “Bà biết Katie ở đâu. Tôi cho rằng bà có lý do để giữ im lặng về việc đó. Tôi cho rằng nó liên quan đến chồng bà. Đấy phải điều tôi quan tâm.” Joan Rochester cố đứng thẳng lưng. “Tôi muốn ông rời khỏi đây.” “.” “Thế tôi phải gọi cho chồng tôi.” “Tôi có danh sách các cuộc gọi,” Myron . Lại chớp mắt nữa. Bà ta giơ tay lên như thể bà tránh cú đánh. “Tới máy di động của bà. Ông chồng bà kiểm tra cái đó. Và kể cả nếu ông ta có làm chăng nữa, cuộc gọi tới từ bốt điện thoại công cộng ở Thành phố New York có lẽ có ý nghĩa gì nhiều. Nhưng tôi biết người phụ nữ tên Edna Skylar.” bối rối thay thế nỗi sợ hãi. “Ai cơ?” “Bà ấy là bác sĩ ở St. Barnabas. Bà ta phát ra con bà ở Manhattan. Cụ thể hơn, gần Phố Hai mươi ba. Bà nhận vài cuộc gọi vào lúc bảy giờ tối từ bốt điện thoại cách đó bốn tòa nhà, chỗ đó đủ gần.” “Những cuộc gọi đó phải từ con tôi.” “ à?” “Mà là của người bạn.” “A ha.” “Bạn tôi mua sắm thành phố. Bà ấy thích gọi điện khi bà ấy tìm thấy thứ gì đó hay hay. Để hỏi ý kiến của tôi.” “Từ cái điện thoại công cộng?” “Phải.” “Tên bà ấy?” “Tôi cho ông biết. Và tôi cầu ông rời khỏi đây ngay lập tức.” Myron nhún vai, hơi dang tay ra. “Tôi nghĩ tôi lâm vào ngõ cụt cho rồi.” Joan Rochester lại chớp mắt. Bà ta chuẩn bị bắt đầu chớp mắt thêm nữa. “Nhưng có lẽ chồng bà may mắn hơn tôi.” Mặt bà ta thất sắc. “Tôi cũng bảo ông ấy những gì tôi biết. Bà có thể giải thích về người bạn thích mua sắm của bà. Ông ấy tin bà, bà có nghĩ thế ?” Nỗi khiếp sợ khiến cặp mắt bà ta mở to. “Ông biết ông ấy như thế nào đâu.” “Tôi nghĩ là tôi biết. Ông ta thuê hai thằng ác ôn tra tấn tôi.” “Bởi vì ông ấy nghĩ ông biết chuyện gì xảy ra với Katie.” “Và bà để mặc ông ta, bà Rochester. Bà để cho ông ta tra tấn và có lẽ suýt giết tôi, dù bà biết tôi liên can gì tới việc đó.” Bà ta ngừng chớp mắt. “Ông đừng cho chồng tôi biết. Xin ông.” “Tôi chẳng có hứng thú làm hại con bà. Tôi chỉ quan tâm đến việc tìm kiếm Aimee Biel.” “Tôi biết gì về đó.” “Nhưng có lẽ con bà biết.” Joan Rochester lắc đầu. “Ông hiểu đâu.” “ hiểu cái gì cơ?” Joan Rochester bỏ , để mặc ở đó. Bà qua căn phòng. Khi bà quay trở lại với , đôi mắt bà tràn đầy nước mắt. “Nếu ông ta phát ra. Nếu ông ta phát ra con bé...” “ đâu.” Bà ta lại lắc đầu. “Tôi hứa đấy,” . Những lời - lại thêm lời hứa có vẻ rỗng tuếch - vang lên trong căn phòng tĩnh lặng. “ ấy ở đâu, bà Rochester? Tôi chỉ cần chuyện với ấy thôi.” Đôi mắt bà bắt đầu đảo quanh căn phòng như thể bà nghi rằng mấy thứ đồ gỗ có thể nghe lỏm họ. Bà bước tới cánh cửa phía sau và mở nó ra. Bà ra hiệu cho ra ngoài. “Katie ở đâu?” Myron hỏi. “Tôi biết. Đó là .” “Bà Rochester, thực tôi có thời gian...” “Những cuộc gọi.” “Chúng sao cơ?” “Ông là từ New York?” “Phải.” Bà ta nhìn xa xăm. “Sao vậy?” “Có lẽ con bé ở đấy.” “Bà thực biết sao?” “Katie cho tôi biết đâu. Mà tôi cũng hỏi.” “Tại sao ?” Đôi mắt của Joan Rochester chỉ còn là những vòng tròn hoàn chỉnh. “Nếu tôi biết,” bà , cuối cùng cũng nhìn vào mắt , “ ông ấy thể bắt tôi được.” Ở căn nhà bên cạnh cái máy xén cỏ bắt đầu khởi động, phá vỡ yên lặng. Myron chờ giây lát. “Nhưng bà biết tin của Katie?” “Phải.” “Và bà biết là ấy an toàn.” “ an toàn với ông ấy.” “Nhưng chung, ý tôi là thế. ấy bị bắt cóc hay bất cứ thứ gì đại loại như thế.” Bà ta gật đầu chậm rãi. “Edna Skylar phát ra ấy cùng người đàn ông tóc sẫm. ta là ai?” “Ông đánh giá thấp Dominick đấy. Xin đừng làm vậy. Hãy để chúng tôi yên. Ông cố tìm kiếm khác. Katie chẳng liên can gì đến ta cả.” “Họ cùng sử dụng chiếc máy ATM.” “Đó chỉ là trùng hợp ngẫu nhiên thôi.” Myron buồn tranh cãi. “Bao giờ Katie gọi lại?” “Tôi biết.” “Vậy bà còn có ích lắm cho tôi rồi.” “Như thế là có ý gì?” “Tôi cần chuyện với con bà. Nếu bà giúp được tôi, tôi thử vận may xem chồng bà có thể .” Bà ta chỉ lắc đầu. “Tôi biết ấy có thai,” Myron . Joan Rochester rên lên. “Ông hiểu đâu,” bà ta lại . “Vậy hãy cho tôi biết .” “Người đàn ông tóc sẫm... Tên ta là Rufus. Nếu Dom phát ra, ông ấy giết ta. Đơn giản thế thôi. Và tôi biết ông ấy làm gì với Katie.” “Vậy kế hoạch của họ là gì? Lẩn trốn suốt đời chắc?” “Tôi ngờ rằng chúng có kế hoạch.” “Và Dominick biết tí gì về những điều này?” “Ông ấy ngu đâu. Ông ấy nghĩ có thể Katie bỏ trốn.” Myron suy nghĩ về điều đó. “Vậy tôi hiểu chuyện gì đó rồi. Nếu ông ta nghi ngờ Katie bỏ trốn, sao ông ta lại tìm đến báo chí?” Joan Rochester mỉm cười, nhưng đó là nụ cười buồn bã nhất mà Myron từng thấy. “Ông thấy sao?” “.” “Ông ấy thích chiến thắng. Bằng bất cứ giá nào.” “Tôi vẫn ...” “Ông ấy làm vậy để gây áp lực với bọn trẻ. Ông ấy muốn tìm Katie. Ông ấy quan tâm đến thứ gì khác. Đó là sức mạnh của ông ấy. Ông ấy ngại bị tổn thất. Tổn thất nặng nề nữa kia. Dom biết xấu hổ. Ông ta bao giờ cảm thấy hổ thẹn. Ông ấy sẵn sàng chịu mất mát hoặc đau đớn để làm phải bị tổn thương và đau đớn nhiều hơn. Ông ấy là loại người đó.” Họ im lặng. Myron muốn hỏi tại sao bà vẫn chung sống với ông ta, nhưng đấy phải việc của . Có rất nhiều trường hợp phụ nữ bị bạo hành ở đất nước này. muốn giúp, nhưng Joan Rochester chấp nhận điều đó - và có nhiều vấn đề cấp bách hơn trong đầu. nghĩ về em song sinh, về việc mình áy náy bởi cái chết của chúng, về Edna Skylar và cách bà đối xử với cái mà bà nghĩ là những bệnh nhân trong sạch hơn của bà. Joan Rochester lựa chọn. Hoặc có lẽ bà ta chỉ kém ngây thơ hơn chút so với những người khác. “Bà nên báo với cảnh sát,” Myron . “Báo cái gì cơ?” “Là con bà là kẻ chạy trốn.” Bà khịt mũi. “Ông hiểu, phải ? Dom phát ra. Ông ấy có những nguồn tin ở sở. Ông nghĩ làm thế nào ông ấy phát ra ông nhanh như vậy?” Nhưng, Myron nhận ra, lão phát ra Edna Skylar. Chưa. Nên những nguồn tin của lão phải là thể sai lầm được. Myron tự hỏi liệu mình có thể tận dụng điều đó , nhưng chưa biết làm cách nào. tiến lại gần hơn. cầm lấy đôi bàn tay Joan Rochester và bắt bà nhìn vào mắt mình. “Con bà được an toàn. Tôi đảm bảo. Nhưng tôi cần chuyện với ấy. Thế thôi. Chỉ chuyện. Bà hiểu ?” Bà ta nuốt nước bọt. “Tôi có nhiều lựa chọn, phải ?” Myron gì. “Nếu tôi hợp tác, ông đến gặp Dom.” “Phải,” Myron . “Tối nay Katie chắc gọi cho tôi vào lúc bảy giờ,” bà . “Khi đó tôi để ông chuyện với nó.”
Chương 35 Win gọi vào máy di động của Myron. “Drew Van Dyne, tay phó giám đốc Planet Music của cậu, cũng là giáo viên ở trường trung học Livingston.” “Chà, chà,” Myron . “ đấy.” Myron đường đón Claire. kể với về cú điện thoại báo “ ấy vẫn ổn”. Myron liên hệ ngay lập tức với Berutti, người , như hộp thư thoại báo cho biết, “ ngồi ở bàn làm việc.” cho việc cần trong tin nhắn. Giờ Myron và Claire tới trường Livingston để kiểm tra tủ đồ của Aimee. Myron cũng hy vọng có thể đón lõng bạn trai cũ của , Randy Wolf. Và “Thầy D” Harry Davis. Và giờ đây, hết, là Drew “Thầy dạy nhạc - Khách mua đồ lót” Van Dyne. “Cậu có biết gì khác về ta nữa ?” “Van Dyne kết hôn, có con. bị buộc phải lái xe dưới giám sát hai lần trong bốn năm qua và lần bị bắt giữ vì có liên quan đến ma túy. có tập hồ sơ tiền án tiền nhưng bị niêm kín. Đó là tất cả những gì tớ có được cho tới giờ.” “Vậy mua đồ lót cho học sinh như Aimee Biel để làm gì?” “Khá ràng, tớ có thể vậy.” “Tớ vừa chuyện với bà Rochester. Katie có thai và bỏ trốn với bạn trai của ta.” “ chuyện hiếm gặp.” “. Nhưng gì cơ - chúng ta nghĩ Aimee cũng làm như vậy sao?” “Bỏ trốn với bạn trai của ta hả? hẳn. Chưa có ai báo Van Dyne mất tích cả.” “ chẳng cần phải mất tích làm gì. Có lẽ bạn trai của Katie sợ Dominick Rochester. Đó là lý do tại sao ta cùng ta. Nhưng nếu ai biết về Aimee và Van Dyne...” “Ngài Van Dyne chẳng phải lo sợ mấy.” “Chính xác.” “Vậy thử xem, sao Aimee phải bỏ trốn?” “Bởi vì ấy có thai.” “Ối chà,” Win . “Ối chà cái gì?” “Chính xác Aimee Biel phải sợ cái gì cơ chứ?” Win hỏi. “Erik phải là loại người như Dominick Rochester.” Win có lý. “Có lẽ Aimee bỏ trốn. Có lẽ con bé có thai và muốn giữ lại. Có lẽ nó cho bạn trai nó, Drew Van Dyne...” “Có ai,” Win tiếp lời, “đường đường là giáo viên, mà lại bị tổn hại nếu câu chuyện vỡ lở cơ chứ.” “Phải.” Điều đó cực kỳ hợp lý. “Nhưng vẫn còn lỗ hổng lớn,” Myron . “Đó là?” “Cả hai bé đều sử dụng cùng máy ATM. Xem nào, những thứ còn lại thậm chí đạt đến mức trùng hợp ngẫu nhiên. Hai có thai trong ngôi trường với gần ngàn ư? Điều đó có ý nghĩa thống kê. Kể cả nếu cậu thêm vào hai bỏ trốn cùng vì lý do đó, cũng được, điều kỳ lạ là mối liên hệ tăng lên, nhưng bảo họ có liên quan gì đến nhau còn cả hợp lý, cậu muốn vậy chứ gì?” “Đúng thế,” Win tán đồng. “Nhưng sau đó cậu thêm vào là cả hai sử dụng cùng cái máy ATM. Chúng ta giải thích điều đó ra sao nào?” Win , “Phép phán đoán thống kê nho của cậu vượt ngưỡng trần.” “Vậy chúng ta bỏ sót thứ gì đó.” “Chúng ta bỏ sót mọi thứ. Ở ngưỡng này, toàn bộ vấn đề quá hời hợt để có thể dán mác giả thuyết.” Win lại có lý. Có lẽ họ đặt ra giả thuyết quá sớm, nhưng họ tiến đến rất gần. Có những yếu tố khác nữa, như các cuộc gọi đe dọa “thằng khốn” của Roger Chang chẳng hạn. Điều đó có thể có liên quan, có thể . cũng chưa biết Harry Davis dính líu vào như thế nào. Có thể ông ta là mối nối giữa Van Dyne và Aimee, nhưng điều đó có vẻ là suy đoán thôi. Và Myron nên xử lý thế nào với cuộc gọi tới Claire báo “ ấy vẫn ổn”? Myron phân vân về thời điểm được chọn và động cơ - để xoa dịu hay hăm dọa; và nếu rơi vào trong hai động cơ đó, tại sao? - nhưng đến lúc này, chưa nghĩ ra điều gì. “Thôi được rồi,” Myron với Win, “tối nay chúng ta gặp nhau chứ?” “Chúng ta hẹn gặp nhau mà.” “Lúc đó tớ chuyện với cậu sau.” Win gác máy khi Myron vòng vào đường dành cho xe của nhà Erik và Claire. Claire đứng ở cửa trước trước khi Myron dừng hẳn xe. “Em ổn chứ?” hỏi. Claire buồn trả lời điều hiển nhiên. “ liên lạc được với người quen của ở công ty điện thoại chưa?” “Chưa. Em có biết giáo viên ở trường trung học Livingston tên là Drew Van Dyne ?” “.” “Cái tên đấy gợi lên điều gì à?” “Em thấy thế. Tại sao vậy?” “Em có nhớ bộ đồ lót tìm thấy trong phòng con bé ? nghĩ có lẽ mua cho con bé.” Khuôn mặt đỏ ửng lên. “ giáo viên ư?” “ làm việc ở cửa hàng nhạc phố mua sắm.” “Planet Music à.” “Phải.” Claire lắc đầu. “Em chẳng hiểu gì cả.” Myron đặt bàn tay lên cánh tay . “Em phải ở bên , Claire, được chứ? cần em bình tĩnh và tập trung.” “Đừng vỗ yên em, Myron.” “ có ý đó, nhưng xem này, nếu em manh động khi chúng ta đến trường...” “Chúng ta để vuột mất . Em biết vậy. Chuyện gì khác xảy ra vậy?” “Em hoàn toàn đúng về Joan Rochester.” Myron kể lại cho mọi chuyện. Claire ngồi đó và nhìn chăm chăm về phía cửa sổ. Chốc chốc lại gật đầu, nhưng cái gật đầu hình như có liên quan tới bất cứ thứ gì . “Vậy nghĩ Aimee có thể có thai?” Giọng của giờ đây quả thực rất bình tĩnh, quá thản nhiên. cố gắng thả lỏng. Đó có lẽ là điều tốt. “Phải.” Claire đặt tay lên môi và bắt đầu day day. Giống như hồi ở trường trung học. Tất cả những điều này kỳ quặc, lại vào con đường họ hàng ngàn lần hồi trẻ. Claire day day môi giống như sắp thi môn đại số. “Được rồi, ta hãy xem xét chuyện này lý trí chút.” “Phải đấy.” “Aimee chia tay cậu bạn trai của nó ở trường trung học. Nó với chúng em. Con bé kín tiếng lắm. Nó xóa các email. Nó còn là nó nữa. Nó có đồ lót ở trong ngăn kéo, thứ có thể được mua bởi giáo viên làm việc ở cửa hàng nhạc mà nó hay lui tới.” Những lời nặng nề thả từng tiếng vào gian. “Em có ý nghĩ khác,” Claire . “ xem.” “Nếu Aimee có thai - lạy Chúa, em thể tin nổi em ra điều này - con bé có thể tới phòng khám loại nào đó.” “Có thể. Nhưng có khi nó chỉ cần mua cái dụng cụ thử thai tại nhà.” “.” Lời của Claire đầy quả quyết. “ phải lần cuối cùng. Em và con bé về những chuyện kiểu như thế này. lần đứa bạn của nó nhận được kết quả dương tính sai từ trong những dụng cụ đó. Aimee kiểm tra lại. Có lẽ nó cũng tìm đến bác sĩ nữa.” “Rồi.” “Và quanh đây, phòng khám duy nhất là ở St. Barnabas. Ý em là, đó là phòng khám mọi người vẫn tới. Nên chắc con bé tới đó. Chúng ta nên gọi điện và xem xem liệu có ai có thể kiểm tra các hồ sơ . Em là mẹ nó. Điều này có thể có chút giá trị.” “ biết các luật lệ về mấy thứ đó giờ ra sao.” “Chúng thay đổi suốt.” “Đợi .” Myron nhấc máy di động lên. nhấn số của tổng đài bệnh viện. xin gặp bác sĩ Stanley Rickenback. Myron cho người thư ký biết tên mình. vòng xe vào vòng tròn phía trước trường trung học và đỗ lại. Rickenback nhấc điện thoại lên, nghe giọng có phần hào hứng vì cuộc gọi. Myron giải thích điều muốn. hào hứng biến mất. “Tôi thể làm thế được,” Rickenback . “Tôi có mẹ ấy ở ngay đây.” “ vừa với tôi là ấy mười tám tuổi. Như thế là trái luật.” “Nghe này, ông đúng về Katie Rochester. ấy có thai. Chúng tôi cố gắng tìm hiểu xem liệu Aimee có như vậy .” “Tôi hiểu điều đó, nhưng tôi thể giúp ông được. Các hồ sơ bệnh án của ấy là bí mật. Theo tất cả những luật lệ HIPAA mới, hệ thống máy tính theo dõi mọi thứ, kể cả ai mở hồ sơ của bệnh nhân và khi nào. Thậm chí nếu tôi nghĩ điều đó là vô đạo đức, nó có lẽ là rủi ro cá nhân quá lớn, tôi xin lỗi.” Ông ta gác máy. Myron nhìn chăm chăm ra ngoài cửa sổ. Rồi gọi lại cho tổng đài. “Xin cho gặp bác sĩ Edna Skylar.” Hai phút sau, Edna , “Myron à?” “Bà có thể tiếp cận các hồ sơ của bệnh nhân từ máy tính của bà, phải ?” “Phải.” “Tất cả các bệnh nhân trong bệnh viện?” “ hỏi về chuyện gì vậy?” “Nhớ cuộc chuyện của chúng ta về những người vô tội ?” “Có.” “Tôi muốn bà giúp đỡ người vô tội, bác sĩ Skylar.” Rồi, suy nghĩ về điều đó, , “Trong trường hợp này, có lẽ là hai người vô tội.” “Hai người?” “ mười tám tuổi tên Aimee Biel,” Myron , “và nếu chúng tôi đúng, đứa bé mà ấy mang.” “Lạy Chúa. Có phải với tôi là Stanley đúng ?” “Làm ơn, bác sĩ Skylar.” “Thế là vô đạo đức.” để cho yên lặng bao trùm lấy bà. xong lý lẽ của mình. thêm nữa là cần thiết. Tốt hơn hết là để bà tự mình nghĩ kỹ về điều đó. mất nhiều thời gian lắm. Hai phút sau, nghe tiếng bàn phím máy vi tính lách cách. “Myron?” Edna Skylar . “Vâng.” “Aimee Biel có thai ba tháng.”
Chương 36 Hiệu trưởng trường trung học Livingston, Amory Reid, bận chiếc quần Haggar, chiếc áo sơ mi ngắn tay màu trắng nhạt may từ chất vải đủ mỏng để làm nổi bật chiếc áo phông hạ-gục-các-bà-vợ mặc bên trong, và đôi giày đen đế dày có lẽ làm bằng vinyl. Ngay cả khi chiếc cà vạt được nới lỏng ra, trông nó cứ như siết chặt cổ ông ta. “Phía nhà trường, tất nhiên là rất quan tâm.” Đôi bàn tay Reid chắp lại bàn. tay ông ta đeo chiếc nhẫn của trường đại học với cái phù hiệu bóng đá đó. Ông ta thốt ra câu đó như thể ông tập dượt trước gương vậy. Myron ngồi bên phải, Claire bên trái. vẫn còn bàng hoàng bởi lời xác nhận rằng con , đứa con vẫn thấu hiểu, thương và tin tưởng, có thai được ba tháng. Tuy nhiên có cảm giác gần như là nhõm. Điều đó là hợp lý. Nó giải thích cách cư xử gần đây. Nó có thể đưa ra lời giải đáp cho những thứ, cho tới tận bây giờ, tưởng giải thích nổi. “Tất nhiên, bà có thể kiểm tra tủ đồ của ấy,” ông hiệu trưởng cho họ biết. “Tôi có cái chìa vạn năng có thể mở tất cả các ổ khóa.” “Chúng tôi cũng muốn chuyện với hai giáo viên của ông nữa,” Claire , “và sinh viên.” Mắt ông ta nheo lại. Ông ta nhìn sang Myron, rồi nhìn lại Claire. “Những giáo viên nào?” “Harry Davis và Drew Van Dyne,” Myron . “Thầy Van Dyne hôm nay vắng. ta hôm thứ Ba lúc hai giờ chiều.” “Còn thầy Davis?” Reid rà lại thời khóa biểu. “Ông ấy ở phòng B-202.” Myron biết chính xác nó ở đâu. Sau ngần ấy năm. Các sảnh vẫn được đánh dấu từ A đến E. Các phòng bắt đầu bằng số 1 nằm ở tầng , số 2 nằm ở tầng hai. còn nhớ giáo viên lúc cáu tiết với cậu sinh viên lù đù rằng cậu có khi còn phân biệt được nổi sảnh E và - đoán xem - sảnh A. “Tôi có thể xem xem liệu tôi có kéo thầy D ra khỏi lớp được . Liệu tôi có thể hỏi tại sao ông bà lại muốn chuyện với những giáo viên này ?” Claire và Myron liếc nhìn nhau. Claire , “Có lẽ giờ chúng tôi chưa được.” Ông ta chấp nhận điều đó. Công việc của ông ta có tính chính trị. Nếu ông ta biết điều gì đó, ông phải báo cáo lại. ngờ nghệch, trong chừng mực nào đó, có lẽ là điều sung sướng nhất. Myron vẫn chưa biết gì nhiều về cả hai giáo viên, chỉ là những điều bóng gió. Cho đến khi biết thêm, chẳng có lý do gì để cho ông hiệu trưởng trường biết. “Chúng tôi cũng muốn chuyện với Randy Wolf,” Claire . “Tôi e rằng tôi thể để bà làm vậy.” “Tại sao ?” “Ở ngoài khuôn viên trường, bà có thể làm gì tuỳ ý. Nhưng ở đây, tôi phải xin ý kiến cho phép của phụ huynh.” “Tại sao?” “Đấy là luật.” “Nếu đứa trẻ bị bắt quả tang trốn tiết, ông có thể chuyện với chúng.” “Tôi có thể, phải. Nhưng bà . Và đây cũng phải trường hợp trốn tiết.” Reid chuyển hướng nhìn. “Thêm nữa, tôi hơi bối rối về việc tại sao chính ông, thưa ông Bolitar, lại ở đây.” “Ông ấy là đại diện của tôi,” Claire . “Tôi hiểu điều đó. Nhưng nó cũng cho ông ấy quyền hạn được phép chuyện với sinh viên - hoặc, trong trường hợp này, giáo viên nhiều lắm. Tôi cũng thể bắt thầy Davis chuyện với bà, nhưng chí ít tôi có thể đưa ông ấy đến văn phòng này. Ông ấy là người lớn. Tôi thể làm việc đó với Randy Wolf.” Họ bắt đầu xuống hành lang tới tủ đồ của Aimee. “Còn điều nữa,” Amory Reid . “Điều gì vậy?” “Tôi chắc nó có liên quan , nhưng mới đây Aimee dính vào chút rắc rối.” Họ dừng lại. Claire , “Như thế nào?” “ bé bị bắt gặp ở trong văn phòng hướng dẫn, sử dụng máy vi tính.” “Tôi hiểu.” “Chúng tôi cũng vậy. trong những thầy hướng dẫn phát ra bé ở đó. bé in ra bản sao lý lịch học tập. Hóa ra, đấy là bản sao lý lịch học tập của bé.” Myron nghĩ về điều đó. “Chẳng lẽ các máy tính đó lại có mật khẩu bảo vệ hay sao?” “Có chứ.” “Vậy làm sao bé xâm nhập vào được?” Reid có phần hơi quá thận trọng. “Chúng tôi chắc lắm. Nhưng giả thuyết là, có người trong ban quản trị gây ra lỗi gì đó.” “Lỗi như thế nào?” “Chắc ai đó quên chưa thoát ra.” “ cách khác, họ vẫn còn đăng nhập nên bé có thể truy nhập vào được?” “Đúng, đó là giả thuyết.” giả thuyết khá ngớ ngẩn, Myron nghĩ. “Tại sao tôi được báo lại?” Claire hỏi. “Đấy phải là vụ to tát lắm.” “Xâm nhập vào hệ thống quản lý lý lịch học tập của trường mà phải việc to tát sao?” “ bé in ra bản sao lý lịch học tập của mình. Aimee, ông bà cũng biết đấy, vốn là học sinh xuất sắc. Trước đó bé chưa bao giờ dính vào rắc rối. Chúng tôi quyết định tha cho bé sau khi cảnh cáo nghiêm khắc.” Và giữ cho mình chút thể diện, Myron nghĩ. Chẳng ích gì khi để vỡ lở chuyện học sinh tìm cách xâm nhập vào hệ thống máy tính của trường. Thà rằng cứ đóng cửa bảo nhau. Họ đến chỗ tủ đồ. Amory Reid dùng chiếc chìa vạn năng của mình để mở nó ra. Khi ông ta mở cánh cửa, tất cả bọn họ đều đứng lùi lại trong giây lát. Myron là người đầu tiên bước lên phía trước. Tủ đồ của Aimee mang dấu ấn cá nhân khủng khiếp. Những tấm hình tương tự như những tấm nhìn thấy trong phòng tô điểm cho bức vách kim loại. Lại có Randy. Có những tấm hình của các tay chơi guitar thích của . cái mắc là chiếc áo thun ngắn tay màu đen từ tour diễn của Green Day American Idiot; cái mắc còn lại, là cái áo thun lạnh ngắn tay New York Liberty. Sách giáo khoa của Aimee chất đống ở phía dưới cùng, được đựng trong các hộp cứng bảo quản. Có nhiều dây buộc tóc ở ngăn cùng, cái lược, cái gương. Claire chạm vào chúng nhàng. Nhưng có thứ gì ở đây có vẻ giúp ích được gì. có tang vật nào, có dấu hiệu to tướng nào ghi ĐÂY LÀ CÁCH TÌM THẤY AIMEE. Myron cảm thấy hụt hẫng và trống rỗng, và nhìn chằm chằm vào tủ đồ, thứ rất Aimee - nó chỉ làm cho vắng mặt của Aimee thêm kinh khủng. Tâm trạng đó bị phá vỡ khi điện thoại di động của Reid reo vang. Ông ta nhấc lên, nghe lát, rồi gác máy. “Tôi tìm được người dạy thay lớp thầy Davis. Ông ấy đợi ông bà ở văn phòng.”