Chương 16 Khi Myron bước ra khỏi phòng thẩm vấn, phát ra Claire và Erik Biel ở trong văn phòng ở cuối hành lang. Ngay cả từ khoảng cách xa và qua hình ảnh phản chiếu ô cửa sổ gắn kính dày, Myron vẫn có thể nhận thấy căng thẳng. dừng lại. “Chuyện gì vậy?” Loren Muse hỏi. hất hàm. “Tôi muốn chuyện với họ.” “Và chính xác gì?” lưỡng lự. “ muốn bỏ phí thời gian phân bua cho mình,” Loren Muse hỏi, “hay muốn giúp chúng tôi tìm Aimee nào?” ta có lý. Dù sao gì ngay lúc này đây? “Tôi làm hại con hai người? Tôi chỉ lái xe đưa nó đến ngôi nhà nào đó ở Ridgewood bởi vì tôi muốn nó xe cùng với đứa say?” Những thứ đó có ích lợi gì ? Hester hôn tạm biệt . “Cứ để cái bẫy của sập nhé.” nhìn ta. “Tốt thôi, sao cũng được. Cứ gọi tôi nếu họ bắt giữ , được chứ?” “Được.” Myron thang máy xuống gara với Lance Banner và Loren Muse. Banner lấy chiếc xe và ra ngoài. Myron nhìn Loren như ngầm hỏi. “Ông ấy trước để tìm cảnh sát địa phương cùng chúng ta.” “Ồ.” Loren Muse bước tới chiếc xe cảnh sát, có gắn thùng xe ở đằng sau. ta mở cánh cửa phía sau cho Myron. thở dài và trượt vào trong. ta ngồi vào ghế tài xế. Có chiếc máy tính xách tay gắn vào cái giá đỡ. ta bắt đầu gõ máy. “Giờ sao?” Myron hỏi. “Đưa tôi điện thoại di động của được ?” “Tại sao?” “Cứ đưa cho tôi.” đưa nó cho ta. ta liếc qua nhật ký cuộc gọi và sau đó thả nó lên ghế hành khách phía trước. “Chính xác gọi cho Hester Crimstein vào lúc nào?” ta hỏi. “Tôi gọi.” “Vậy làm sao...” “Chuyện dài lắm.” Win muốn tên ta bị nhắc đến. “Xem ra hay chút nào,” ta . “Gọi luật sư nhanh đến thế.” “Tôi bận tâm thấy việc đó thế nào.” “, tôi đoán bận tâm.” “Vậy tiếp theo là gì?” “Chúng ta lái xe đến Ridgewood. Chúng ta cố gắng tìm ra nơi bảo là cho Aimee xuống xe.” Họ bắt đầu . “Tôi biết ở đâu đó,” Myron . “Tôi sinh trưởng ở Livingston. Hồi bé, tôi đến xem vài trận trong số những trận đấu bóng rổ ở trường trung học của .” “ phải vậy,” . nhổm dậy. “Đợi , có xử lý vụ Hunter đó ?” “Tôi ” - ngập ngừng - “bị kéo vào.” “Là nó đấy. Vụ Matt Hunter.” “ biết ta hả?” “Tôi học cùng trường với em trai ta Bernie. Tôi tới dự đám tang ta.” ngồi trở lại. “Vậy tiếp theo là gì? Có phải xin lệnh khám nhà, khám xe của tôi, rồi gì nữa?” “Cả hai.” ta xem đồng hồ của mình. “Giờ chúng được tống đạt rồi.” “Có lẽ tìm được chứng cứ cho thấy Aimee từng ở trong cả hai nơi. Tôi kể cho về bữa tiệc, về việc ở trong tầng hầm của tôi. Và tôi kể cho là tôi lái xe đưa bé đêm trước đó.” “Tất cả đều rất ràng và rành mạch, phải.” Myron nhắm mắt lại. “ lấy luôn cả máy vi tính của tôi phải ?” “Tất nhiên.” “Tôi có rất nhiều thư từ cá nhân ở trong đó. Thông tin khách hàng.” “Họ cẩn thận.” “, họ cẩn thận đâu. Làm ơn , Muse. Tự mình kiểm tra chiếc máy vi tính , được ?” “ tin tôi sao? Tôi lấy làm hãnh diện đấy.” “Thôi được rồi, nhìn này, bài ngửa luôn nhé,” Myron . “Tôi biết tôi là đối tượng tình nghi rất thích hợp.” “Thế hả? Vì sao thế? Bởi vì là người cuối cùng nhìn thấy ấy ư? Bởi vì là cựu vận động viên độc thân sống mình trong căn nhà tuổi thơ của mình và đưa đón các mới lớn lúc hai giờ sáng ư?” ta nhún vai. “Tại sao phải là đối tượng tình nghi cơ chứ?” “Tôi làm chuyện đó, Muse.” ta vẫn tập trung vào đường . “Sao thế?” Myron hỏi. “Kể cho tôi về cái trạm xăng .” “Cái...” và rồi hiểu ra. “Ồ.” “Ồ gì?” “ có cái gì nào - băng video theo dõi hay lời khai của người tham gia?” ta gì. “Aimee giận tôi vì ấy nghĩ tôi mách với bố mẹ ấy.” “Tại sao ta lại nghĩ thế?” “Bởi vì tôi cứ luôn mồm hỏi ấy nhiều câu - ấy đâu, ấy với ai, chuyện gì xảy ra.” “Và hứa đưa ta tới bất cứ nơi nào ta muốn, hỏi câu nào.” “Đúng vậy.” “Vậy tại sao lại nuốt lời?” “Tôi nuốt lời.” “Nhưng?” “ ấy trông có vẻ ổn.” “Như thế nào?” “ ấy đứng ở khu của thành phố nơi bọn trẻ tới tụ tập uống rượu vào giờ đó. Trông ấy có vẻ say xỉn. Tôi ngửi thấy mùi rượu người ấy. ấy trông đau khổ hơn là bất cứ biểu gì khác. Vì vậy tôi nghĩ tôi cố gắng tìm hiểu là tại sao.” “Và ta thích điều đó?” “Phải. Vì vậy lúc ở trạm xăng, Aimee nhảy ra khỏi xe. ấy quay trở vào cho tới khi nào tôi hứa là hỏi thêm câu nào hay cho bố mẹ ấy biết. ấy thế.” - Myron cau mày, ghét việc phải phản bội niềm tin kiểu này - “ ấy rằng có vài vấn đề ở nhà.” “Với bố và mẹ?” “Phải.” “ gì?” “Chuyện đó là bình thường.” “Ôi trời,” Loren , “ thú vị đấy. còn khuyên được lời vàng ngọc nào khác ? ‘Thời gian chữa lành mọi vết thương’ chăng?” “Cho tôi nghỉ chút , Muse, được chứ?” “ vẫn là đối tượng tình nghi chính của tôi, Myron ạ.” “, phải vậy đâu.” ta nhíu mày. “Xin lỗi?” “ ngu đến thế đâu. Mà tôi cũng vậy.” “Thế nghĩa là sao?” “ vừa mới biết tôi kể từ đêm hôm qua. Vì vậy gọi vài cuộc. chuyện với ai?” “ nhắc đến Jake Courter trước đó.” “ biết ta chứ?” Loren Muse gật đầu. “Và Cảnh sát trưởng Courter gì về tôi?” “Rằng ở trong phạm vi ba bang, gây ra nhiều chuyện làm nhức bàn tọa hơn cả bệnh trĩ.” “Nhưng rằng tôi làm việc đó, đúng ?” ta gì. “Thôi nào, Muse. biết tôi thể ngu ngốc đến thế được. Danh sách các cuộc gọi, các giao dịch thẻ tín dụng, E-ZPass, nhân chứng ở trạm xăng... thế là chết chắc rồi. Cộng thêm việc biết câu chuyện của tôi ra sao. Những danh sách cuộc gọi cho thấy Aimee gọi cho tôi đầu tiên. Điều đó khớp với những gì tôi với .” Họ lái xe trong im lặng lúc lâu. Chiếc bộ đàm của xe rung lên. Loren nhấc nó lên. Lance Banner , “Tôi tìm được cảnh sát địa phương cùng. Chúng ta được rồi.” “Tôi gần tới đó rồi,” ta . Rồi với Myron: “ ra đường nào - Ringewood hay Linwood?” “Linwood.” ta nhắc lại câu đó vào chiếc microphone. chỉ vào ký hiệu màu xanh qua cửa kính xe. “Đại lộ Linwood Tây hay Đông?” “Cái nào ghi Ridgewood ấy.” “Thế là Tây.” ngồi lại. xuống dốc. “ có nhớ cách đây bao xa ?” “Tôi chắc. Chúng tôi thẳng lúc. Sau đó chúng tôi bắt đầu rẽ ngang rẽ dọc rất nhiều. Tôi nhớ nữa.” Loren cau mày. “ gây cho tôi ấn tượng là loại người hay quên, Myron.” “Thế tôi làm lầm rồi.” “ ở đâu trước khi ta gọi.” “Ở đám cưới.” “Uống nhiều ?” “Nhiều hơn mức tôi nên uống.” “ có say lúc ta gọi ?” “Tôi có thể qua được cuộc kiểm tra nồng độ rượu trong hơi thở đấy.” “Nhưng , thế nào nhỉ, cảm thấy nó à?” “Phải.” “ mỉa mai, nghĩ thế sao?” “Như bài hát của Alanis Morissette,” . “Tôi có câu hỏi dành cho .” “Tôi có hứng trả lời những câu hỏi của đâu, Myron.” “ hỏi tôi liệu tôi có biết Katie Rochester . Đó chỉ là thông lệ - hai mất tích - hay có lý do để tin rằng mất tích của họ có liên quan đến nhau?” “ đùa, phải ?” “Tôi chỉ cần biết.” “Chẳng có gì. chẳng cần biết gì. Giờ kể lại cho tôi toàn bộ việc lần nữa . Tất cả. Aimee gì, gì, những cú điện thoại, lúc cho xuống xe, tất cả.” kể. Ở góc Đại lộ Linwood, Myron nhận thấy chiếc xe cảnh sát Ridgewood phóng tới phía sau họ. Lance Banner ngồi ở ghế hành khách phía trước. “Họ cùng để áp dụng quyền thực thi pháp lý à?” “Giống như nghi thức hơn. có nhớ từ đây lái xe tới đâu ?” “Tôi nghĩ chúng tôi rẽ phải ở chỗ cái bể lớn kia.” “Được rồi. Tôi có cái bản đồ trong máy vi tính. Chúng ta cố tìm ra cái ngõ cụt và xem xem chuyện gì xảy ra.” Thành phố quê hương Livingston của Myron chỉ mới phất lên và hơi có chất Do Thái, nguyên là đất chăn nuôi trồng trọt nay bị cải tạo thành những cụm trông na ná như nhà chia thành nhiều gian nằm những mặt phẳng xếp theo kiểu bậc thang, với khu phố mua sắm lớn. Ridgewood nhà cửa theo kiểu Victoria cũ và mang chất của người Anglo-saxon theo đạo Tin lành, quang cảnh trù phú hơn, và là trung tâm thành phố thực thụ với những nhà hàng và cửa hiệu. Những ngôi nhà ở Ridgewood được xây ở nhiều thời kỳ khác nhau. Cây cối dàn hàng ở cả hai bên đường, năm tháng khiến chúng ngả về chính giữa để tạo thành mái vòm bảo vệ. Quang cảnh ở đây có ít trùng lặp hơn. Con phố này có quen nhỉ? Myron cau mày. thể chắc được. nhiều trùng lặp lúc ban ngày, nhưng vào ban đêm, tất cả đều trông như rừng. Loren xuống cái ngõ cụt. Myron lắc đầu. Rồi ngõ khác và ngõ khác. Các con đường vòng vèo dường như có nguyên do hay ý đồ gì, như thứ gì đó trong bức tranh trừu tượng. Lại thêm những ngõ cụt. “ là trông Aimee có vẻ say,” Loren . “Đúng vậy.” “ ta trông có vẻ như thế nào?” “Bấn loạn.” ngồi thẳng dậy. “Tôi nghĩ rằng có lẽ ấy vừa chia tay với bạn trai. Tôi nghĩ tên cậu ta là Randy. chuyện với cậu ta chưa?” “Chưa.” “Tại sao vậy?” “Tôi phải phân trần về bản thân với đấy chắc?” “ phải vậy, nhưng biến mất, điều tra.” “ có cuộc điều tra nào cả. ấy đến tuổi, có dấu hiệu nào của bạo lực cả, mất tích mới chỉ vài tiếng đồng hồ...” “Gặp tôi.” “Chính xác. Tất nhiên Claire và Erik gọi cho bạn ta. Randy Wolf, cậu bạn trai, chắc thể gặp ta đêm qua được. Cậu ta ở nhà cùng với bố mẹ.” Myron cau mày. Loren Muse nhận thấy qua kính chiếu hậu. “Sao?” hỏi. “Đêm thứ Bảy vào cuối năm trung học thứ tư của mình,” , “và Randy lại ở nhà với bố mẹ cậu ta sao?” “Giúp tôi nào, Bolitar. Tìm ngôi nhà , được chứ?” Ngay khi ta rẽ, Myron thấy nhói lên cảm giác ngờ ngợ. “Ở bên phải. Cuối ngõ.” “Kia hả?” “Tôi vẫn chưa chắc chắn lắm.” Rồi: “Phải. Phải. Nó đấy.” ta dừng ở đó và đỗ lại. Chiếc xe cảnh sát Ridgewood đỗ phía sau họ. Myron nhìn ra ngoài cửa xe. “Tiến lên vài thước nữa.” Loren làm theo lời . Myron vẫn rời mắt khỏi ngôi nhà. “Được chưa?” gật đầu. “Nó đây. ấy mở cánh cổng kia ở bên sườn ngôi nhà.” suýt nữa thêm vào Đó là lần cuối tôi nhìn thấy ấy, nhưng kìm lại. “Đợi ở trong xe nhé.” ta ra. Myron nhìn theo. ta vòng qua và chuyện với Banner và nhân viên cảnh sát với phù hiệu cảnh sát Ridgewood gắn bộ đồng phục. Họ trao đổi và ra hiệu về phía ngôi nhà. Sau đó Loren Muse dẫn đầu cả nhóm. nhấn chuông cửa. người phụ nữ ra mở cửa. Lúc đầu Myron thể nhìn thấy ta. Sau đó ta bước ra ngoài. , quen. ta mảnh mai. Mớ tóc vàng của ta thò ra từ chiếc mũ bóng chày. Trông ta như vừa mới tập thể thao ở ngoài về. Hai người phụ nữ chuyện với nhau suốt mười phút. Loren ngừng liếc nhìn về phía Myron như thể sợ rằng cố chạy trốn. hay hai phút nữa lại trôi qua. Loren và người phụ nữ bắt tay nhau. Người phụ nữ quay trở vào trong và đóng cánh cửa lại. Loren bước về phía chiếc xe và mở cửa sau ra. “Chỉ cho tôi chỗ Aimee .” “ ta gì?” “ nghĩ ta gì?” “Rằng ta chưa bao giờ nghe về Aimee Biel.” Loren Muse đưa ngón tay trỏ lên mũi và sau đó chỉ vào . “Đây chính là chỗ đó,” Myron . “Tôi chắc chắn đấy.” Myron lần theo đường của bé. Họ dừng lại ở cánh cổng. còn nhớ Aimee đứng đây như thế nào. còn nhớ cái vẫy tay của , rằng có điều gì ở đó, điều gì đó làm nhức nhối. “Lẽ ra tôi nên...” dừng lại. Chẳng ích gì. “ ấy vào đây. ấy biến mất khỏi tầm mắt. Sau đó ấy quay lại và vẫy tay ra hiệu rằng tôi nên .” “Và ?” “Phải.” Loren Muse nhìn vào khoảnh sân sau trước khi đưa trở lại chiếc xe cảnh sát khác. “Họ đưa về nhà.” “Tôi lấy lại điện thoại của tôi được ?” ném nó cho . Myron ngồi vào sau xe. Banner khởi động chiếc xe. Myron giữ lấy tay nắm cửa. “Muse?” “Sao thế?” “Có lý do khiến ấy chọn ngôi nhà này,” Myron . đóng cửa xe lại. Họ lái trong im lặng. Myron nhìn theo cánh cổng đó, nhìn nó dần cho tới khi cuối cùng, giống như Aimee Biel, nó mất hút.
Chương 17 Dominick Rochester, bố của Katie, ngồi ở ghế đầu bàn ăn. Ba thằng con của lão cũng ở đó. Vợ lão, Joan, ở trong bếp. Như vậy là có tới hai chiếc ghế để trống - của bà ta và của Katie. Lão nhai miếng thịt nhồm nhoàm và nhìn chằm chằm vào chiếc ghế, như thể dùng ý chí buộc Katie phải xuất . Joan ra từ nhà bếp. Bà mang đĩa thịt bò nướng thái lát. Lão ra dấu về phía cái đĩa gần hết sạch của mình, nhưng bà cũng sắp sửa lấy thêm thức ăn cho lão rồi. Vợ của Dominick Rochester ở nhà và chăm nom nhà cửa. có con hầu người ở gì cả. Dominick dùng tới cái của đó. Lão làu bàu mấy tiếng cảm ơn. Joan quay lại chỗ ngồi của mình. Mấy thằng bé cùng ngồi nhai thức ăn trong im lặng. Joan vuốt phẳng váy và cầm nĩa lên. Dominick quan sát bà. Bà ta từng đẹp tuyệt. Giờ bà ta trông vô hồn và nhu nhược. Bà cúi lom khom trong tư thế lúc nào cũng rúm ró. Cả ngày bà uống suốt, bà nghĩ rằng lão biết. hề gì. Bà vẫn là mẹ của các con lão và vẫn sống trong khuôn khổ. Vì vậy lão để mặc chuyện đó. Điện thoại reo vang. Joan Rochester đứng phắt dậy, nhưng Dominick phẩy tay ra hiệu cho bà ngồi xuống. Lão chùi mặt như thể đó là tấm kính xe và đứng dậy khỏi chỗ ngồi. Dominick đậm người. phải béo. Đậm. Cổ đậm, vai đậm, ngực đậm, cánh tay và đùi đậm. Cái họ Rochester - lão ghét nó. Ông bố của lão đổi nó vì ông muốn nghe đỡ vô thần hơn. Nhưng ông già của lão là kẻ yếu đuối và là kẻ thua cuộc. Dominick nghĩ đến chuyện đổi lại họ, nhưng chuyện đó cũng có vẻ yếu đuối. Kiểu như lão có vẻ lo lắng quá nhiều về điều người khác nghĩ. Trong thế giới của Dominick, bạn bao giờ bộc lộ yếu đuối của mình. Người ta đối xử với bố lão chẳng ra gì. Bắt ông ta đóng cửa tiệm hớt tóc. Chế giễu ông. Bố lão nghĩ rằng ông ta có thể vượt lên những chuyện đó. Dominick hiểu hơn. Mày đập vỡ đầu kẻ khác hoặc mày bị đập vỡ đầu. Mày đặt câu hỏi. Mày phải quấy với chúng - ít ra là phải ngay từ đầu. Đầu tiên, cứ phải đập vỡ đầu chúng . Mày đập vỡ đầu chúng ra và đấm đá cho tới khi chúng nể phục mày. Sau đó mày mới chuyện phải quấy với chúng. Mày cho chúng biết mày sẵn sàng chịu mất mát. Mày cho chúng thấy mày ngán máu me, thậm chí máu của chính mày. Mày muốn chiến thắng, mày phải cười ngay vũng máu của chính mình. Làm vậy khiến chúng phải chú ý. Chiếc điện thoại lại reo lên. Lão xem số người gọi. Số điện thoại bị , nhưng đa số những người gọi tới đây đều thích mọi người biết việc của mình. Lão vẫn nhai nhồm nhoàm khi lão nhấc cái ống nghe lên. Giọng phía đầu dây bên kia , “Tôi có thứ này cho ông.” Đó là người quen của lão ở sở công tố của hạt. Lão nuốt miếng thịt. “ .” “Lại con bé khác mất tích.” Chuyện đó làm lão chú ý. “Nó cũng ở Livingston. Cùng tuổi, cùng lớp.” “Tên?” “Aimee Biel.” Cái tên có nghĩa lý gì đối với lão, nhưng lão thực biết các bạn bè của Katie cho lắm. Lão đặt tay lên che ống . “Có ai trong số các người biết đứa con tên là Aimee Biel ?” ai gì. “Này, tôi đặt câu hỏi đấy nhé. Con bé đó bằng tuổi với Katie.” Mấy thằng con trai lắc đầu. Joan nhúc nhích. Đôi mắt lão bắt gặp mắt của bà. Bà chậm chạp lắc đầu. “Còn nữa,” người quen của lão . “Kiểu chuyện gì?” “Họ tìm thấy mối liên hệ với con ông.” “Mối liên hệ kiểu nào?” “Tôi biết. Tôi vừa mới nghe lén được. Nhưng tôi nghĩ nó liên quan đến nơi cả hai cùng bị mất tích. Ông có biết gã tên là Myron Bolitar ?” “Cựu ngôi sao bóng rổ hả?” “Phải.” Rochester nhìn thấy vài lần. Lão cũng biết rằng Bolitar có xích mích với vài đồng nghiệp khả ố hơn của Rochester. “ sao?” “ ta có liên quan.” “Như thế nào?” “ đón con bé mất tích kia ở trung tâm Manhattan. Đó là lần cuối cùng có người nhìn thấy nó. ta dùng cùng máy ATM với Katie nhà ông.” Lão thấy choáng váng. “ ta gì cơ?” Người quen của Dominick giải thích thêm chút nữa, về chuyện gã Bolitar này lái xe đưa Aimee trở về New Jersey như thế nào, người có mặt ở trạm xăng nhìn thấy họ cãi vã như thế nào và ta biến mất ra sao. “Cảnh sát chuyện với à?” “Phải.” “ gì?” “Tôi nghĩ là nhiều lắm. gọi luật sư đến.” “...” Dominick cảm thấy cơn cuồng giận bùng lên trong đầu lão. “Thằng chó đẻ. Bọn họ có bắt giam ?” “.” “Sao ?” “Chưa đủ chứng cứ.” “Thế, sao, họ cứ để thôi hả?” “Phải.” Dominick Rochester gì. Lão trở nên trầm lặng. Cả nhà dõi theo. Tất cả bọn họ trở nên im lặng, sợ dám cả cử động. Cuối cùng khi lão tiếp, giọng của lão bình tĩnh, cả nhà lão nín thở. “Còn gì nữa ?” “Giờ mới chỉ có thế.” “Cứ tiếp tục tìm hiểu .” Dominick gác điện thoại. Lão quay lại phía chiếc bàn. Cả gia đình dõi theo lão. Joan hỏi, “Dom?” “ có gì.” Lão thấy cần thiết phải giải thích. Chuyện này liên quan đến họ. Việc của lão là xử lý những thứ kiểu này. Người cha là người chiến sĩ, người thức trắng đêm để gia đình ta có thể yên giấc. Lão tiến vào gara. Khi vào bên trong, lão nhắm mắt lại và cố kìm nén cơn thịnh nộ. Nó bùng lên. Katie... Lão nhìn trừng trừng cây gậy đánh bóng chày bằng kim loại. Lão còn nhớ đọc tin về chấn thương đầu gối của Bolitar. Nếu nghĩ chuyện đó đau đớn, nếu nghĩ chấn thương đầu gối vớ vẩn là nỗi đau... Lão gọi vài cuộc, tìm hiểu chút lai lịch. Trước kia, Bolitar dính vào rắc rối với em nhà Ache, những kẻ hùng cứ New York. Bolitar có vẻ là thằng cha rắn mặt, giỏi dùng nắm đấm, giao du với thằng tâm thần tên là Windsor Gì Đó. Đấu lại với Bolitar xem ra dễ dàng gì. Nhưng nó cũng hẳn khó khăn tới mức ấy. khó nếu Dominick chiếm được thế thượng phong. Điện thoại di động của lão là đồ dùng lần rồi bỏ, loại bạn có thể mua bằng tiền mặt với cái tên giả và quẳng sau khi dùng hết thời gian. cách nào có thể qua đó mà lần ra lão. Lão giật chiếc mới tinh từ giá xuống. Trong chốc lát lão chỉ cầm chiếc điện thoại và cân nhắc bước tiếp theo của mình. Lão thở nặng nhọc. Khi còn phong độ, Dominick đập bể đầu khối thằng, nhưng nếu lão nhấn số điện thoại này, nếu quả thực lão gọi cho em song sinh, lão bước qua ranh giới mà trước đây lão chưa từng tới gần. Lão nghĩ tới nụ cười của con lão. Lão nghĩ về chuyện con bé phải đeo niềng răng như thế nào khi nó mười hai tuổi, nó buộc tóc ra sao và cái cách nó từng nhìn lão, cách đây rất lâu, khi nó vẫn còn là đứa bé bé xíu còn lão là người đàn ông hùng mạnh nhất thế giới. Dominick bấm số. Sau cuộc gọi này, lão phải hủy cái điện thoại . Đó là trong những nguyên tắc của em song sinh, và khi dính đến hai kẻ này, quan trọng bạn là ai, quan trọng bạn chiến đấu gian khổ và nghiệt ngã đến đâu để mua được căn nhà đẹp đẽ này ở Livingston, bạn đùa với em song sinh. Đến tiếng chuông thứ hai điện thoại được nhấc lên. alô. có câu chào hỏi nào hết. Chỉ có im lặng. Dominick , “Tôi sắp cần cả hai .” “Bao giờ?” Dominick nhấc cây gậy kim loại lên. Lão thích sức nặng của nó. Lão nghĩ về gã Bolitar này, kẻ chuồn với mất tích và sau đó gọi luật sư tới bảo vệ cho mình, kẻ giờ ung dung tự tại và có thể xem tivi hoặc thưởng thức bữa ăn ngon lành. đời nào bạn bỏ qua chuyện đó. Kể cả khi bạn phải lôi em song sinh vào cuộc. “Ngay bây giờ,” Dominick Rochester . “Tôi cần cả hai người ngay bây giờ.”
Chương 18 Khi Myron về tới căn nhà tại Livingston, Win ở đó. Win nằm dài chiếc văng ngoài bãi cỏ trước nhà. Chân bắt tréo. vận quần kaki, tất, chiếc áo sơ mi xanh lơ, chiếc cà vạt Lilly Putlizer màu xanh lục chói mắt. số người có thể mặc bất cứ thứ gì và khiến nó gây được ấn tượng. Win là trong số những người như thế. Mặt ngửa lên phía mặt trời, mắt nhắm nghiền. mở mắt ra khi Myron tiến lại gần. “Cậu vẫn còn muốn đến xem trận đấu của Knicks đấy chứ?” Win hỏi. “Tớ nghĩ là tớ bỏ thôi.” “Vậy cậu có phiền nếu tớ đưa người khác ?” “.” “Đêm qua tớ gặp em ở Scores.” “ ta là vũ nữ thoát y hả?” “Xin cậu.” Win giơ ngón tay trỏ lên. “ ta là vũ nữ khiêu dâm.” “ nàng chuyên nghiệp. Hay đấy.” “Tên ta là Bambi, tớ nghĩ thế. Hay có khi là Tawny.” “Đó có phải tên của ta ?” “Chả có cái gì của ta là cả,” Win . “Nhân tiện luôn, cảnh sát ở đây.” “Khám nhà à?” “Phải.” “Họ đem máy tính của tớ hả?” “Phải.” “Chết tiệt.” “Bực làm gì. Tớ đến trước họ và sao lại các file cá nhân của cậu rồi. Sau đó tớ xóa sạch ổ cứng.” “Cậu,” Myron . “Cừ lắm.” “Giỏi nhất,” Win . “Cậu cóp lại vào đâu?” “Ổ cứng USB trong chùm chìa khóa của tớ,” , giơ nó lên, mắt vẫn nhắm. “Làm ơn dịch sang bên phải chút. Cậu chắn mất mặt trời của tớ đấy.” “Điều tra viên của Hester phát được điều gì mới chưa?” “Có lệnh trừ tiền từ máy ATM thẻ của quý Biel trẻ tuổi,” Win . “Aimee lấy tiền mặt sao?” “Tiền mặt. ràng, Aimee Biel rút ngàn đô từ máy ATM chỉ vài phút trước khi ấy gọi cho cậu.” “Còn gì nữa ?” “Như?” “Họ kết nối vụ này với vụ mất tích khác. tên là Katie Rochester.” “Hai mất tích thuộc cùng khu vực. Tất nhiên họ kết nối hai người với nhau.” Myron cau mày. “Tớ nghĩ còn có điều gì khác nữa.” Win hé mắt ra. “Rắc rối.” “Gì cơ?” Win gì, chỉ nhìn chằm chằm. Myron quay lại và hướng theo tia nhìn của và cảm thấy cú hẫng trong dạ dày. Đó là Erik và Claire. Trong phút chốc ai nhúc nhích. Win , “Cậu lại chắn mất mặt trời của tớ rồi đấy.” Myron nhìn thấy khuôn mặt Erik. Khuôn mặt biểu lộ phẫn nộ. Myron bước về phía họ, nhưng có cái gì đó khiến dừng lại. Claire đặt tay lên cánh tay chồng. thào điều gì đó vào tai ta. Erik nhắm mắt lại. bước về phía Myron, đầu ngẩng cao. Erik đứng lại. Claire về phía cửa nhà Myron. chạy theo . Myron , “Em biết ...” “Vào nhà,” Claire vẫn bước về phía cửa trước nhà . “Em muốn kể cho em mọi chuyện khi chúng ta vào trong nhà.” Uỷ viên công tố Hạt Essex, Ed Steinberg, sếp của Loren, chờ khi về đến sở. “Thế nào?” tường trình việc cho ông nghe. Steinberg là người đàn ông to béo, khúc giữa mềm mềm xôm xốp, nhưng ông ta luôn có vẻ gì đó trông-chỉ-muốn-siết--chặt, kiểu gấu-bông-Teddy. Tất nhiên ông ta có vợ. từ lâu Loren chưa gặp người đàn ông đáng mơ ước nào mà chưa có vợ. Khi xong, Steinberg , “Tôi kiểm tra thêm chút về Bolitar. có biết ta và bạn Win của ta từng dính mấy vụ với nhân viên FBI ?” “Có tin đồn thế,” . “Tôi chuyện với Joan Thurston.” Thurston là luật sư đại diện cho chính phủ ở bang New Jersey. “Rất nhiều chuyện trong số đó bị bưng bít, tôi đoán vậy, nhưng tóm lại, mọi người đều nghĩ Win là gã lắm mưu nhiều kế_ - nhưng chàng Bolitar kia khá trung thực.” “Đó cũng là cảm giác của tôi,” Loren . “ tin câu chuyện của ta hả?” “ chung, phải, tôi nghĩ là tôi có tin. Nó chỉ quá là điên rồ. Thêm nữa, như ta tự chỉ ra, liệu gã với kinh nghiệm của ta có thể ngu ngốc đến mức bỏ lại nhiều manh mối như thế ?” “ nghĩ ta bị giăng bẫy à?” Loren nghiêm mặt. “Điều đó cũng phù hợp. Aimee Biel tự gọi cho ta. ta phải có chủ ý, tôi đoán vậy.” Steinberg lồng hai tay vào nhau mặt bàn. Tay áo của ông ta được xắn lên. Cánh tay ông ta to bè và được phủ lớp lông rậm rì như lông thú. “Như vậy điều bất thường là, gì chứ, ta là kẻ bỏ trốn à?” “Bất thường ở chỗ đó,” Loren . “Còn thực tế là ta sử dụng cùng máy ATM với Katie Rochester?” nhún vai. “Tôi nghĩ đó là trùng hợp ngẫu nhiên.” “Có lẽ họ biết nhau.” “Theo bố mẹ của từng người phải như vậy.” “Chuyện đó chả có nghĩa lý gì cả,” Steinberg . “Các bậc cha mẹ chẳng biết khỉ gì về con cái họ cả. Vụ này cứ tin tôi , tôi có mấy đứa con tuổi mới lớn. Những ông bố bà mẹ khẳng định rằng họ biết tất cả mọi thứ về con cái mình thường là người biết ít nhất.” Ông ta nhấp nhổm ghế. “ tìm thấy gì trong vụ khám nhà hay xe của Bolitar à?” “Họ vẫn làm vụ đó,” Loren . “Nhưng họ có thể tìm thấy cái gì đây? Chúng ta biết ta ở trong căn nhà và trong chiếc xe đó mà.” “Cảnh sát khu vực lo chuyện khám xét à?” gật đầu. “Vậy chúng ta hãy để cảnh sát khu vực lo nốt phần còn lại. Dù sao chúng ta thực cũng chưa có hẳn vụ án - đủ tuổi rồi, phải ?” “Phải.” “Tốt, như thế là vụ này xong xuôi. Cứ bỏ nó lại cho cảnh sát khu vực. Tôi muốn tập trung vào mấy vụ giết người ở East Orange.” Steinberg thêm với về vụ việc. lắng nghe và cố gắng tập trung. Đây là vụ quan trọng, nghi ngờ gì nữa. Hai người bị giết trong vụ. Có lẽ tên xạ thủ nguy hiểm quay trở lại trong khu vực này. Đó là loại vụ án rất ưa thích. Nó chiếm toàn bộ giờ của . biết vậy. Và biết những điều bất thường. Aimee Biel rút tiền mặt trước khi gọi cho Myron. Điều đó có nghĩa là có thể ta bị bắt cóc, có thể ta vẫn ổn - và dù trong trường hợp nào Loren Muse cũng thực nên can dự vào thêm nữa. Người ta lo lắng và đau buồn làm bạn già , nhưng với Claire Biel hầu như ngược lại. Làn da của bị kéo căng ra xung quanh gò má - căng đến nỗi máu như ngừng chảy. có nếp nhăn nào mặt . tái nhợt và gần như chỉ còn da bọc xương. Myron nhớ lại kỷ niệm nho . Phòng học, năm cuối. Họ ngồi đó chuyện và làm cho cười. Claire bình thường vẫn trầm tính, lắm lúc bất cần. chuyện bằng giọng . Nhưng đến khi trêu chọc , khi nhại lại những pha thích trong các bộ phim ngớ ngẩn, Claire cười ngặt cười nghẽo đến chảy nước mắt. Myron cũng chịu dừng lại. tiếng cười của . việc được nhìn thấy niềm vui thuần khiết khi bộc lộ mình như thế. Claire chăm chú nhìn . Thỉnh thoảng khi bạn cố lần giở cuộc đời mình để trở lại những thời khắc như vậy, khi tất cả mọi việc đều tốt đẹp. Bạn cố gắng quay lại và tìm hiểu xem nó bắt đầu như thế nào, con đường bạn và tại sao rốt cuộc bạn lại ở đây, nếu có lúc nào đó bạn có thể quay trở lại và bằng cách nào đó thay đổi và bùm, bạn ở đây, bạn ở nơi khác tốt đẹp hơn. “ cho em nghe,” Claire bảo. . bắt đầu bằng bữa tiệc ở nhà , nghe lỏm chuyện của Aimee và Erin dưới tầng hầm, lời hứa, cuộc gọi lúc nửa đêm. kể hết tất cả những chuyện đó. kể cho về chuyện dừng lại ở cây xăng. Thậm chí còn kể cho về chuyện Aimee bố mẹ bé trục trặc ra sao. Thái độ của Claire chút thay đổi. gì. Có chút rung động gần khóe miệng . Thỉnh thoảng nhắm mắt lại. hơi cau mày, như thể nhìn thấy cú đánh tới gần nhưng buồn tự vệ. Khi xong vẫn gì. Claire hỏi thêm câu nào. chỉ đứng đó, trông mong manh. Myron bước bước về phía , nhưng ngay lập tức có thể thấy đó là hành động sai lầm. “Em biết là bao giờ làm con bé tổn thương mà,” . đáp. “Claire?” “ có nhớ lúc chúng ta gặp nhau ở Little Park gần vòng tròn ?” Myron đợi lúc. “Chúng ta gặp nhau ở đó rất nhiều lần mà, Claire.” “Ở ngoài sân chơi, Aimee mới ba tuổi. Chiếc xe tải Good Humor tới. mua cho con bé cây kẹo quả hạnh nướng.” “Con bé ghét thứ đó.” Claire mỉm cười. “ còn nhớ sao?” “ vẫn nhớ.” “ có nhớ hồi đó em thấy thế nào ?” nghĩ về câu đó. “ biết em định điều gì.” “Aimee biết tới giới hạn của mình. Nó thử tất cả mọi thứ. Nó muốn cái cầu trượt cao. Có cái thang lớn. Nó còn quá để leo cái thang đó. Hoặc chí ít đó là điều em nghĩ. Nó là đứa con đầu lòng của em. Lúc nào em cũng rất lo lắng. Nhưng em thể ngăn nó được. Vì thế em để cho nó leo lên cái thang, nhưng em vẫn đứng ngay sau nó, nhớ ? chế nhạo chuyện đó.” gật đầu. “Trước khi con bé ra đời, em thề là em bao giờ trở thành trong số những ông bố bà mẹ hay bảo vệ con cái thái quá. Thề là như thế. Nhưng Aimee trèo lên cái thang đó và em ở ngay sau nó, hai tay em đỡ sau mông nó. Đề phòng thôi. Đề phòng khi nó trượt chân bởi vì bất cứ nơi nào, kể cả nơi vô hại như sân chơi, tất cả những gì ông bố bà mẹ tưởng tượng ra bao giờ cũng là những điều tồi tệ nhất. Em cứ tưởng tượng ra cảnh cái chân bé xíu của nó bị hụt mất bước. Em cứ thấy những ngón tay của nó trượt khỏi tay vịn và thân hình bé của nó ngửa ra và rồi con bé ngã đập đầu xuống đất, cổ vẹo ...” Tiếng tắt lịm. “Vì thế em đứng sau nó. Và em chuẩn bị sẵn sàng cho mọi chuyện.” Claire ngừng lại và nhìn chằm chằm. “ bao giờ làm con bé tổn thương,” Myron . “Em biết,” nhàng. Lẽ ra phải thấy được an ủi vì câu này. thấy thế. Có cái gì đó trong giọng điệu của , cái gì đó làm vẫn thấy căng thẳng. “ làm hại con bé, em biết vậy.” Đôi mắt bỗng bùng lên những tia giận dữ. “Nhưng cũng phải có lỗi gì.” biết phải lại thế nào. “Tại sao lại kết hôn?” hỏi. “Chuyện đó có liên quan quái gì cơ chứ?” “ là trong những người đàn ông tử tế nhất, dễ thương nhất mà em biết. trẻ con. trung thực. Vậy tại sao vẫn chưa kết hôn?” Myron kìm nén lại. Claire sốc, tự bảo mình. Con mất tích. chỉ xả hết bức bối thôi. “Em nghĩ đó là bởi vì đem tới mất mát, Myron ạ. Bất cứ nơi nào tới, mọi người đều bị tổn thương. Em nghĩ đó là lý do tại sao chưa bao giờ kết hôn.” “Em nghĩ - sao hả? - rằng bị nguyền rủa chắc?” “, phải như vậy. Nhưng đứa con bé bỏng của em biến mất.” chậm, gằn từng chữ . “ là người cuối cùng nhìn thấy nó. hứa rằng bảo vệ nó.” chỉ đứng đó. “Lẽ ra có thể cho em biết,” . “ hứa” “Đừng,” , giơ bàn tay lên. “Đấy phải cách bào chữa. Có lẽ Aimee chưa hề biết. có thể kéo em qua bên và , ‘Này, bảo Aimee rằng nó có thể gọi cho nếu nó gặp vấn đề.’ Có khi em hiểu cho chuyện đó. Thậm chí có lẽ em còn thích thế, bởi vì sau đó em vẫn có thể sẵn sàng giúp đỡ nó, như với cái thang ấy. Em có thể bảo vệ nó vì đó là việc người làm cha làm mẹ vẫn làm. người làm cha làm mẹ, Myron, chứ phải người bạn của gia đình.” muốn biện hộ cho mình, nhưng tranh cãi cũng chẳng ăn thua gì. “Nhưng làm thế,” tiếp, những câu của trút xuống đầu . “Thay vào đó hứa rằng cho bố mẹ nó biết. Sau đó lái xe đưa nó đâu đó và thả nó xuống, nhưng trông chừng nó như em lẽ ra làm. có hiểu điều đó ? chăm nom cho con em. Và giờ nó biến mất.” gì. “ định xử lý chuyện đó ra sao đây?” hỏi. “Gì cơ?” “Em hỏi là định xử lý chuyện đó ra sao.” mở miệng ra, lại ngậm tăm, rồi thử lần nữa. “ biết.” “Có, biết đấy.” Đột nhiên đôi mắt Claire dường như tập trung và sáng . “Cảnh sát làm trong hai việc. Em có thể thấy trước rồi. Họ rút lui. Aimee rút tiền từ chiếc máy ATM trước khi gọi cho . Vì vậy hoặc họ coi nó như kẻ bỏ trốn hoặc họ nghĩ có liên quan. Hoặc cả hai. giúp nó bỏ trốn chẳng hạn. là bồ của nó. Dù theo cách nào nữa nó cũng mười tám tuổi. Họ tìm kiếm gắt gao làm gì. Họ tìm ra nó. Họ còn có những ưu tiên khác nữa.” “Em muốn làm gì?” “Tìm ra con bé.” “ cứu vớt mọi người. Chính em chỉ ra rồi cơ mà.” “Vậy tốt hơn hết là bắt đầu ngay . Con em biến mất là tại . Em muốn phải có trách nhiệm.” Myron lắc đầu. Nhưng thèm để ý. “ bắt nó hứa. Ngay tại đây trong căn nhà này. bắt nó hứa. Giờ cũng làm như vậy , khốn kiếp . Hứa với em tìm ra con em. Hứa với em đưa nó về nhà.” Và lát sau - câu hỏi “ ra sao nếu” cuối cùng - Myron hứa.
Chương 19 Ali Wilder cuối cùng cũng thôi nghĩ ngợi về cuộc ghé thăm sắp tới của Myron để gọi cho biên tập viên của mình, người đàn ông mà nàng vẫn hào phóng coi là Caligula(35). “Tôi vẫn chưa thông qua đoạn này được, Ali.” Nàng cố nén tiếng thở dài. “Đoạn đó sao thế, Craig?” Craig là cái tên mà ông biên tập của nàng vẫn dùng khi giới thiệu về mình, nhưng Ali chắc chắn tên ông ta là Caligula. Trước vụ 11/9, Ali có công việc cố định với tạp chí lớn ở thành phố. Sau cái chết của Kevin, nàng cách nào giữ được công việc đó nữa. Erin và Jack cần có nàng ở nhà. Nàng xin nghỉ phép và sau đó trở thành phóng viên tự do, chủ yếu viết bài cho các tạp chí. Ban đầu, ai cũng đưa việc đến cho nàng. Nàng từ chối họ chỉ vì cái mà giờ nàng nhìn nhận là lòng kiêu hãnh ngu ngốc. Nàng ghét phải nhận những công việc “bố thí”. Nàng khinh bỉ trò đó. Bây giờ nàng lại thấy hối hận. Caligula dặng hắng, sắp sửa trình bày bài diễn văn, và đọc to bài viết của nàng: “Thị trấn ở gần nhất là Pahrump. Cứ hình dung ra cảnh Pahrump, hiệp vần với dump - vứt bỏ, giống như những gì còn lại đường sau khi con ó chén sạch Las Vegas và khạc ra những phần tệ hại. tồi tàn là loại hình nghệ thuật. cái nhà thổ được trang trí cho giống nhà hàng White Castle, có vẻ là trò chơi chữ tồi. Những biển hiệu với hình các chàng cao bồi khổng lồ đua chen cùng biển hiệu của cửa hàng bán pháo hoa, sòng bạc, bãi đỗ xe moóc, và thịt bò khô. Tất cả pho mát đều là loại American singles.” Sau khoảng im lặng đầy ý nghĩa, Caligula , “Ta bắt đầu với câu cuối cùng nhé.” “À, ừm.” “ là loại pho mát duy nhất của thị trấn là American singles hả?” “Phải,” Ali . “ có chắc ?” “Sao cơ?” “Ý tôi là, đến siêu thị chưa?” “Chưa.” Ali bắt đầu cắn móng tay. “Đấy phải là phát biểu thực tế. Tôi cố gắng tạo cho ông ấn tượng về thị trấn này.” “Bằng cách viết ra những điều sai ấy hả?” Ali biết là ông ta sắp gì. Nàng chờ đợi. Caligula để nàng phải thất vọng. “Làm sao mà biết, Ali, rằng trong cái thị trấn đó họ có những loại pho mát khác? kiểm tra giá hàng trong tất cả các siêu thị chưa? Và kể cả nếu làm vậy rồi, liệu có nghĩ tới chuyện ai đó có thể mua hàng ở các thị trấn xung quanh và đem loại pho mát khác về Pahrump hay ? Hoặc có khi họ đặt hàng qua dịch vụ chuyển phát chẳng hạn? có hiểu những gì tôi đấy?” Ali nhắm mắt lại. “Chúng ta đăng bài này, bảo rằng American singles là loại pho mát duy nhất có trong thị trấn, rồi đột nhiên chúng ta nhận được cú điện thoại từ ông thị trưởng và ông ta , ‘Này, thế là đúng đâu. Ở đây chúng tôi có vô số chủng loại khác nhau kia. Chúng tôi có loại Gouda và loại Thụy Sĩ, loại pho mát dày và loại Provolone...” “Tôi hiểu rồi, Craig.” “Và loại Roquefort và loại xanh và loại Mozzarella...” “Craig...” “... và khỉ , còn loại kem sao?” “Kem á?” “Pho mát kem ạ, còn phải nữa. Đấy là loại pho mát, phải ? Pho mát kem. Đến vùng khỉ ho cò gáy còn có pho mát kem nữa là. hiểu chưa?” “Đúng thế, à, ừm.” Lại cắn móng tay nữa. “Tôi hiểu rồi.” “Vì vậy dòng này phải bỏ .” Nàng có thể nghe thấy tiếng bút mực của ông ta xoẹt ngang dòng đó. “Giờ chúng ta về dòng trước đó, cái dòng về các bãi đỗ xe moóc và thịt bò khô nhé.” Caligula lùn tịt. Ali ghét mấy tay biên tập lùn. Nàng từng pha trò về chuyện đó với Kevin, Kevin luôn là độc giả số của nàng. Việc của là với nàng rằng bất cứ thứ gì nàng viết bừa ra đều tuyệt vời cả. Ali, như đa số các cây viết khác, rất dễ dao động. Nàng cần phải nghe những lời tán tụng của . Bất cứ câu phê bình nào trong lúc nàng viết đều làm nàng cụt hứng. Kevin hiểu. Vì vậy cứ khen tràn . Và khi nàng tranh cãi với biên tập viên của nàng, nhất là những kẻ có tầm nhìn và vóc người đều ngắn như nhau kiểu Caligula, Kevin luôn đứng về phe nàng. Nàng tự hỏi biết Myron có thích các bài viết của nàng . đề nghị xem vài bài nàng viết, nhưng nàng gạt . Người đàn ông đó từng cặp với Jessica Culver, trong những tiểu thuyết gia hàng đầu trong cả nước. Jessica Culver từng được phỏng vấn trang nhất tờ The New York Times Book Review. Tác phẩm của ta được đưa vào danh sách đề cử của tất cả các giải thưởng văn học lớn. Và như thể thế vẫn còn chưa đủ, như thể Jessica Culver chưa ăn đứt hẳn Ali Wilder về mặt chuyên môn, ta còn kiều diễm cách vô lý. Làm sao Ali có thể so bì được cơ chứ? Chuông cửa reo vang. Nàng nhìn đồng hồ. Quá sớm so với giờ hẹn của Myron. “Craig, tôi gọi lại cho ông sau được ?” Caligula thở dài. “Ừ, thế cũng được. Trong khi chờ đợi, tôi chỉ chỉnh sửa đoạn này chút xíu thôi.” Nàng nhăn mặt khi ông ta câu đó. Có mẩu chuyện cười cũ về việc bị bỏ lại hoang đảo với biên tập viên. Bạn đói rã ruột. Tất cả những gì bạn còn là cốc nước cam. Nhiều ngày trôi qua. Bạn cận kề cái chết. Bạn chuẩn bị uống cốc nước lão biên tập viên giật cái cốc khỏi tay bạn và đái vào đấy. Bạn nhìn lão, choáng váng. “Cái đó,” lão biên tập viên , đưa lại cho bạn cốc nước. “Nó chỉ cần được chỉnh sửa chút xíu thôi mà.” Chuông lại reo lên. Erin chạy ào xuống cầu thang và hét to: “Con mở cho.” Ali gác máy. Erin mở cửa. Ali thấy con bé đờ người ra. Nàng bước mau hơn. Có hai người đàn ông đứng ở cửa. Cả hai cùng mang phù hiệu cảnh sát. “Tôi có thể giúp gì được cho các ông?” Ali . “Các là Ali Wilder và Erin Wilder phải ?” Chân Ali nhũn ra. , đây phải hình ảnh hồi tưởng lúc nàng biết tin của Kevin. Nhưng ở đây vẫn có chút cảm giác ngờ ngợ nào đó. Nàng quay sang con mình. Khuôn mặt Erin trắng bệch. “Tôi là thanh tra cảnh sát Livingston Lance Banner. Đây là thanh tra Kasselton John Greenhall.” “Có chuyện gì vậy?” “Chúng tôi muốn hỏi cả hai người vài câu, nếu có thể.” “Về việc gì?” “Chúng tôi vào nhà được ?” “Trước tiên tôi muốn biết tại sao các ông lại đến đây .” Banner . “Chúng tôi muốn hỏi vài câu về Myron Bolitar.” Ali gật đầu, cố gắng đoán ra chuyện này. Nàng quay sang con . “Erin, lên gác chút để mẹ chuyện với cảnh sát, nhé?” “Thực ra , ờ, thưa bà?” Là Banner . “Vâng?” “Những câu chúng tôi muốn hỏi,” ông ta , bước qua cửa và quay đầu về phía Erin. “là dành cho con bà, chứ phải bà.” Myron đứng trong phòng ngủ của Aimee. Ngôi nhà của gia đình Biel cách nhà Myron quãng bộ. Claire và Erik lái xe trước . Myron chuyện với Win trong vài phút, nhờ ta nếu có thể tìm giúp tất cả những gì cảnh sát biết được về cả Katie Rochester và Aimee. Sau đó cuốc bộ theo sau. Khi Myron bước vào nhà, Erik . “ ấy lái xe loanh quanh,” Claire , dẫn xuống hành lang. “Erik nghĩ rằng nếu ấy đến những chỗ nó hay la cà, ấy có thể tìm thấy nó.” Họ dừng lại trước cửa phòng Aimee. Claire mở nó ra. “ định tìm cái gì?” hỏi. “Chết tiệt, giá mà biết,” Myron . “Aimee có quen bé tên là Katie Rochester ?” “Đó là bé khác cũng bị mất tích, phải ?” “Phải.” “Em nghĩ vậy. Thực ra, em hỏi con bé về chuyện đó, biết , lúc con bé kia xuất bản tin ấy?” “Đúng rồi.” “Aimee rằng con bé vẫn hay trông thấy ta nhưng nó biết. Katie học cấp hai ở Mount Pleasant. Aimee học ở Heritage. còn nhớ mà.” nhớ. Đến khi cả hai bé vào trung học những nhóm bạn của chúng cố kết rồi. “ có muốn em gọi điện cho các nơi và hỏi bạn nó ?” “Như vậy có lẽ có ích đấy.” Trong giây lát cả hai đều nhúc nhích. Claire hỏi, “Em có nên để lại mình trong này ?” “Lúc này nên.” làm theo. đóng cánh cửa lại sau lưng mình. Myron nhìn quanh. - có đầu mối để xác định phải tìm gì ở đây - nhưng đoán rằng đó là bước khởi đầu tốt. Đây là mới lớn. Chắc hẳn phải cất giữ những bí mật trong phòng mình, đúng ? Việc có mặt ở đây cũng có vẻ đúng đắn. Ngay từ giờ phút hứa với Claire, toàn bộ quan điểm của bắt đầu thay đổi. Các giác quan của cảm thấy hòa hợp cách kỳ lạ. lâu rồi chưa làm việc này - điều tra - nhưng sức mạnh của ký ức vào cuộc và phát huy tác dụng. Việc đứng trong căn phòng của bé giúp lấy lại được phong độ. Trong môn bóng rổ, bạn cần phải vào sân để có thể phát huy được hết khả năng của mình. Làm những việc như thế này cũng gây ra cảm giác tương tự. Đứng đây, trong căn phòng của nạn nhân, như thế. Đặt vào sân chơi. Có hai cây đàn guitar trong phòng. Myron biết gì về các nhạc cụ, nhưng cái ràng là guitar điện, cái còn lại là guitar thường. Có tấm poster của Jimi Hendrix treo tường. Các móng gẩy dành cho guitar được cất cẩn thận trong hộp mica. Myron đọc qua. Đó đều là những chiếc móng gẩy tuyển chọn của người sưu tầm. là của Keith Richards - những cái còn lại của Nils Lofgren, Eric Clapton, Buck Dharma. Myron gần như mỉm cười. bé rất có gu. Chiếc máy vi tính bật sẵn, hình bể cá bảo vệ màn hình trôi ngang qua. Myron phải chuyên gia máy vi tính, nhưng biết đủ nhiều để có thể bắt đầu. Claire cho biết mật khẩu của Aimee và kể cho chuyện Erik xem hết e-mail. Dù sao cũng cứ kiểm tra. mở AOL ra và đăng nhập. Ồ, tất cả các e-mail bị xóa hết. mở Windows Explorer và sắp xếp các file của theo thứ tự thời gian, để xem gần đây nhất làm việc với file nào. Aimee viết nhiều bài hát. nghĩ về điều đó, về trẻ đầy sáng tạo này, về việc giờ ở đâu. lướt qua những tài liệu đánh máy gần đây nhất. có gì đặc biệt. thử kiểm tra các dữ liệu tải xuống. Có mấy tấm ảnh mới chụp. mở ra. Aimee và lũ bạn ở trường, đoán vậy. Hiển nhiên chúng cũng có gì đặc biệt nhưng có lẽ cho Claire xem. Những cậu mới lớn, biết, dùng tin nhắn nhanh qua mạng cực nhiều. Từ chiếc máy tính tương đối cố định của mình, chúng chuyện với cả tá người nhiều khi là cùng lúc. Myron biết rất nhiều bậc cha mẹ vẫn than vãn về chuyện này, nhưng vào thời của , họ có thể dán tai vào điện thoại để tán dóc với nhau hàng giờ liền. Chát chít có gì là tệ hại hơn chuyện đó đâu? mở list bạn bè của ra. Có ít nhất là 50 cái tên hiển thị kiểu như SpazaManiacJackII, MSGWatkins, và YoungThangBlaine742. Myron in hết ra. để Claire và Erik xem xét kỹ cùng với các bạn của Aimee, để xem có cái tên nào phải của đám bạn, có cái tên nào ai biết . Đó là phần việc tốn nhiều thời gian, nó khiến bọn họ bận rộn. buông con chuột máy vi tính ra và bắt đầu tìm kiếm theo kiểu cũ. Đầu tiên là cái bàn học. lục lọi các ngăn kéo của bé. Bút, giấy, những mảnh giấy nhớ, những cục pin còn thừa, vài chiếc đĩa CD phần mềm máy tính. có gì riêng tư cả. Có vài tờ hóa đơn của nơi gọi là Planet Music. kiểm tra mấy cây guitar. Có đề can của Planet Music dán ở phía sau. Phát lớn đây. chuyển sang ngăn kéo tiếp theo. Cũng có gì. Ở chiếc ngăn kéo thứ ba, Myron nhìn thấy thứ khiến dừng lại. thò tay xuống và nhàng nâng nó lên xem. mỉm cười. Được bảo vệ trong tấm nhựa... đó là tấm bưu ảnh hình chàng lính mới tò toe của làng bóng rổ Myron. chăm chú nhìn chính mình thời trẻ. vẫn còn nhớ lần chụp ảnh ấy. thực vài tư thế ngớ ngẩn - nhảy cao đập bóng vào rổ, giả vờ chuyền bóng, tư thế tấn công theo ba hướng kiểu lỗi thời - nhưng họ quyết định chọn trong những pha khom người và rê bóng. Phông nền là sàn đấu vắng tanh. Trong tấm hình mặc chiếc áo jecxi màu xanh của đội Boston Celtics - trong những thứ đồ mặc có lẽ là năm lần trong cả cuộc đời mình. Công ty in thiệp in ra chừng vài ngàn tấm trước khi bị chấn thương. Giờ đây chúng thành đồ người ta sưu tầm. vui khi biết Aimee cũng có tấm, mặc dù tự hỏi biết cảnh sát suy diễn thế nào về nó. đặt tấm hình trở lại ngăn kéo. Vân tay của giờ in đó, nhưng rồi chúng cũng có ở khắp cả căn phòng nữa. quan trọng. vội vã tiếp tục. muốn tìm quyển nhật ký. Đó là thứ bạn luôn thấy trong các bộ phim. viết quyển nhật ký, và nó về cậu bạn trai bí mật của và cuộc đời hai mặt và tất cả những thứ đại loại như thế. Chuyện đó chỉ có trong tiểu thuyết. Nó xảy ra với trong đời thực. chạm phải cái ngăn kéo đựng đồ lót. Dù thấy ghê ghê nhưng vẫn kiên nhẫn. Nếu bé định giấu bất cứ thứ gì, đây có lẽ chính là chỗ cần tìm. Nhưng có gì cả. Sở thích của có lẽ khá lành mạnh đối với mới lớn. Áo may ô nữ tệ hết mức. Tuy vậy, ở gần đáy ngăn, tìm thấy món đặc biệt khác lạ. kéo nó ra xem. Có cái mác ở đó của cửa hàng bán đồ lót gọi là Bedroom Rendezvous. Nó màu trắng, mỏng tang, và trông như món đồ từ y tá ảo. cau mày và phân vân biết vật này có nghĩa là thế nào. Có cả vài con búp bê đầu quả len. chiếc Ipod với cặp tai nghe màu trắng bị vứt chỏng chơ giường. thử kiểm tra các bài hát trong đó. có lưu cả Aimee Mann trong đó. coi đó là thắng lợi nho . Vài năm về trước tặng cho bé đĩa Lost in Space của Aimee Mann, nghĩ rằng cái tên có thể khơi gợi quan tâm của . Giờ đây có thể thấy có tới năm CD của Aimee Mann. thích thế. Có những tấm ảnh được đính lên chiếc gương. Tất cả đều là hình chụp cả nhóm - Aimee với tốp bạn . Có hai tấm hình đội bóng chuyền, tấm chụp cả đội theo kiểu cổ điển, tấm chụp buổi liên hoan sau khi họ vô địch giải toàn hạt. Có vài tấm hình ban nhạc rock ở trường trung học của bé, Aimee chơi guitar chính. nhìn vào khuôn mặt lúc chơi. Nụ cười của bé làm tan nát trái tim người ta, nhưng có nào trong tuổi ấy mà lại có nụ cười làm tan nát trái tim người ta cơ chứ? tìm thấy quyển kỷ yếu của . xem qua từng trang. Các quyển kỷ yếu có nhiều thay đổi kể từ hồi tốt nghiệp. trong số đó là chúng có kèm đĩa DVD. Myron xem cái đĩa này, nghĩ thế, nếu có thời gian. tra phần viết về Katie Rochester. xem tấm ảnh đó trước đây, bản tin. đọc thông tin về ta. nhớ những lúc chơi cùng Betsy và Craig và những buổi tối thứ bảy ở Ritz Diner. có gì đáng kể. chuyển sang trang của Aimee Biel. Aimee nhắc tới cả đống bạn của ; những thầy giáo thích, Korty và thầy D; huấn luyện viên bóng chuyền của , thầy Grady; và tất cả các bạn nữ cùng đội tuyển. kết thúc bằng câu, “Randy, làm cho hai năm nay trở nên đặc biệt. Em biết là chúng ta luôn ở bên nhau.” Randy quý. kiểm tra phần về Randy. Đó là cậu chàng đẹp trai với những lọn tóc xoăn bù xù, trông gần giống tín đồ đạo Rastafar. Cậu có đốm râu cằm và nụ cười trắng lóa rạng rỡ. Cậu ta chủ yếu về thể thao trong phần tự bạch của mình. Cậu ta cũng nhắc đến Aimee, đến việc “làm phong phú thêm” nhưng năm tháng ở trường trung học của cậu nhiều đến chừng nào. Hừm... ừm. Myron ngẫm nghĩ về điều đó, nhìn lại tấm gương và lần đầu tiên tự hỏi liệu có phải tình cờ tìm thấy manh mối hay . Claire mở cánh cửa ra. “Có gì ?” Myron chỉ vào tấm gương. “Đây.” “Cái đó sao?” “Em có hay vào phòng này ?” nhíu mày. “ đứa trẻ mới lớn sống ở đây mà.” “Thế có nghĩa là hiếm khi à?” “Hầu như bao giờ.” “Con bé có tự giặt đồ ?” “Con bé là đứa trẻ mới lớn mà, Myron. Nó chẳng làm gì cả.” “Vậy ai làm việc đó?” “Bọn em có chị giúp việc. Tên chị ta là Rosa. Tại sao vậy?” “Những tấm ảnh,” . “Những tấm ảnh sao?” “Con bé có cậu bạn trai tên là Randy, phải ?” “Randy Wolf. Cậu ta là đứa trẻ dễ thương.” “Và hai đứa cặp với nhau được thời gian?” “Từ năm thứ hai. Sao?” lần nữa ra dấu về phía tấm gương. “ có tấm hình nào của cậu ta. tìm khắp phòng rồi. có tấm ảnh nào có cậu ta cả. Đó là lý do tại sao hỏi em về chuyện em vào căn phòng này lần cuối là khi nào.” quay lại nhìn . “Có phải ở đây từng có ?” “Phải.” chỉ vào vài điểm trống ở phần dưới của tấm gương. “Tất cả những thứ này trông đều chẳng có trật tự gì hết, nhưng cá là con bé gỡ các tấm hình ra khỏi đây.” “Nhưng chúng vừa cùng nhau tới dự buổi dạ hội, gì nhỉ, ba đêm trước.” Myron nhún vai. “Có lẽ chúng cãi nhau to ở đó.” “ Aimee trông rất xúc động lúc đón nó, phải ?” “Phải.” “Có lẽ chúng vừa chia tay,” Claire . “Có thể,” Myron . “Ngoại trừ việc con bé ở nhà từ hôm đó, và các tấm ảnh gương biến mất. Điều đó cho thấy chúng chia tay ít nhất là hay hai ngày trước khi đón con bé. Còn thứ nữa.” Claire chờ đợi. Myron cho xem cái quần lót mua ở Bedroom Rendezvous. “Em từng nhìn thấy cái này chưa?” “Chưa. tìm thấy trong đây à?” Myron gật đầu. “Dưới đáy ngăn kéo. Trông nó có vẻ chưa được mặc bao giờ. Cái mác vẫn còn dán đó.” Claire trở nên im lặng. “Sao vậy?” “Erik có với cảnh sát về việc gần đây con bé cư xử bình thường. Em cãi nhau với ấy về chuyện đó, nhưng thực là, con bé có như vậy. Nó trở nên rất giữ kẽ.” “Em có biết điều gì gây ấn tượng mạnh cho về căn phòng này ?” “Điều gì?” “Quên cái quần lót này - nó có thể có liên quan và cũng có thể chẳng là gì cả - trái ngược với những gì em vừa : Gần như có gì bí mật ở trong này cả. Ý là, con bé là học sinh năm cuối trung học. Lẽ ra phải có cái gì đó chứ, phải ?” Claire ngẫm nghĩ về điều đó. “Sao lại nghĩ là có?” “Giống như con bé rất cố gắng để giấu thứ gì đó. Chúng ta cần phải kiểm tra những nơi khác mà con bé có thể giấu những thứ đồ riêng tư, nơi nào đó mà em và Erik nghĩ tới chuyện rình mò. Như tủ đồ của nó ở trường chẳng hạn.” “Chúng ta có nên làm bây giờ ?” “ nghĩ là tốt hơn hết là chuyện với Randy trước .” cau mày. “Bố cậu ta.” “Ông ta sao?” “Tên lão ta là Jake. Jake Lớn, mọi người đều gọi lão thế. Lão ta to cao hơn . Và bà vợ là ả lẳng lơ. Jake Lớn dính vào vụ đánh lộn tại trong những trận bóng đá của Randy. Đánh chàng tội nghiệp đó thương xót ngay trước mặt con mình. Lão ta đúng là thằng ngu toàn phần.” “Toàn phần?” “Toàn phần.” “Phù.” Myron làm bộ gạt mồ hôi lông mày. “ thằng ngu cục bộ, còn ngại. thằng ngu toàn phần - để xử lý.”
Chương 20 Randy Wolf sống trong khu Đường Laurel mới. Những khu đất lát gạch mới tinh có diện tích còn lớn hơn cả Sân bay Kennedy. Có cánh cổng sắt uốn nhái kiểu. Cánh cổng mở đủ rộng cho Myron bước qua. Các khu vườn có vẻ trù phú quá mức, bãi cỏ xanh đến nỗi trông như có ai đó phun sơn quá tay. Có ba chiếc xe thể thao đa dạng đậu lối dẫn vào nhà. Kế mấy chiếc xe đó, lấp lánh nhờ lớp bả mới đánh và vị trí đỗ dưới mặt trời có vẻ khá lý tưởng, là chiếc Corvette màu đỏ xinh xắn. Myron bắt đầu ngân nga điệu Prince hợp tông. thể cưỡng lại được. Tiếng đập nghe quen tai của quả bóng tennis dội lại từ phía sân sau. Myron về hướng tiếng động phát ra. Có bốn nàng yểu điệu đánh tennis. Tất cả bọn họ đều buộc tóc đuôi ngựa và mặc những bộ đồ tập tennis bó màu trắng. Myron là fan cuồng nhiệt của những phụ nữ mặc đồ tập tennis trắng. trong những nàng yểu điệu chuẩn bị giao bóng để ý thấy . ả có cặp giò tuyệt đẹp, Myron nhìn theo. thẩm định lại lần nữa. Phải, đẹp tuyệt. Dán mắt vào những cặp giò rám nắng có lẽ phải là cách lần tìm manh mối, nhưng sao thử nhỉ? Myron vẫy tay và gửi tới ả sắp giao bóng nụ cười bảnh nhất của mình. ả đáp trả và ra hiệu cho mấy nàng kia thứ lỗi cho mình chút. ả thong thả chạy về phía . Đuôi tóc đen tung tẩy lên xuống. ả dừng lại sát cạnh , thở gấp. Mồ hôi khiến cho bộ đồ tập tennis trắng dính bết vào. Nó cũng làm cho lớp vải trở nên dễ nhìn thấu hơn - lần nữa Myron chỉ biết nhìn chằm chằm - nhưng ả hình như lấy làm bận tâm. “Tôi có thể giúp gì cho ?” ả chống tay lên hông. “Chào, tên tôi là Myron Bolitar.” Điều răn thứ tư trong Cẩm nang về tinh tế của Bolitar: Làm các nàng ngây ngất bằng câu đầu tiên gây sững sờ. “Tên ,” ả . “Nghe quen quen.” Lưỡi của ả đưa đẩy lại rất nhiều mỗi khi ta . “ là bà Wolf?” “Cứ gọi tôi là Lorraine.” Lorraine Wolf có kiểu năng khiến câu nào nghe cũng có vẻ lấp lửng. “Tôi tìm con trai , Randy.” “Câu trả lời sai,” ả . “Xin lỗi.” “Lẽ ra phải là tôi trông quá trẻ để có thể là mẹ của Randy chứ.” “Hiển nhiên rồi,” Myron . “ phụ nữ thông minh như có thể thấy ngay điều đó rồi còn gì.” “Có tiến bộ rồi đấy.” “Cảm ơn.” Mấy nàng kia tụ tập ở chỗ lưới. Họ vắt tấm khăn quanh cổ và uống thứ nước gì đó có màu xanh lục. “Sao lại tìm Randy?” ả hỏi. “Tôi cần chuyện với cậu ấy.” “Chà, phải. Tôi đoán ra điều đó rồi. Nhưng có thể cho tôi biết là về việc gì ?” Cánh cửa sau mở ra với tiếng sập ầm ĩ. gã đàn ông cao lớn - Myron cao mét chín và nặng ngót nghét trăm cân còn gã này ít ra cũng phải cao hơn năm phân và nặng hơn mười bốn cân - bước ra khỏi cửa. Jake Wolf Lớn, Myron suy luận, ở trong căn nhà kia. Mái tóc đen của lão được vuốt ngược ra đằng sau. Lão có cái dáng xiên xiên trông bần tiện. “Đợi , kia chẳng phải là Steven Seagal hay sao?” Myron hỏi, giọng thào. Lorraine Wolf cố nén cười. Jake Lớn nhảy bổ tới. Lão vẫn gườm gườm nhìn Myron. Myron đợi vài giây, sau đó nháy mắt và giơ bàn tay lên vẫy vẫy năm ngón kiểu Stan Laurel với Jake Lớn. Trông Jake Lớn có vẻ hài lòng. Lão tiến đến bên Lorraine, quàng cánh tay qua người ả, siết chặt vào hông mình. “Chào, cưng,” lão , mắt vẫn rời Myron. “Ờ, chào đằng ấy!” Myron . “Tao chuyện với chú mày.” “Vậy ông nhìn tôi làm gì?” Jake Lớn cau mày và siết chặt vợ hơn nữa. Lorraine hơi rúm người lại chút, nhưng ả vẫn để mặc lão. Myron từng nhìn thấy hành động kiểu này rồi. Thiếu tự tin trầm trọng, đồ là vậy. Jake tạm ngừng nhìn chút để hôn má vợ trước khi tiếp tục siết chặt vòng tay. Sau đó lại lão trừng mắt nhìn tiếp, bên tay vẫn ôm chặt vợ. Myron tự hỏi biết Jake Lớn có định đái lên người ả để đánh dấu lãnh thổ hay . “Quay lại chơi tiếp , em . lo vụ này.” “Dù sao bọn em cũng vừa mới kết thúc mà.” “Vậy tại sao các em vào nhà và uống chút gì, hử?” Lão buông ả ra. Trông ả có vẻ bớt căng thẳng. Mấy nàng xuống con đường. Myron lại nhìn mấy cặp giò lần nữa. Chỉ là phòng khi. Các nàng mỉm cười với . “Ê, mày tìm cái gì thế hả?” Jake Lớn nạt nộ. “Manh mối tiềm tàng,” Myron . “Gì?” Myron quay lại phía lão: “ có gì.” “Vậy chú mày muốn gì ở đây?” “Tên tôi là Myron Bolitar.” “ sao?” “ trở lại tốt.” “Gì?” “ có gì.” “Chú mày là diễn viên hài đấy phỏng?” “Tôi thích từ ‘nghệ sĩ diễn trò’ hơn. Mấy diễn viên hài lúc nào cũng bị phân có mỗi vai.” “Cái quái gì...?” Jake Lớn ngừng lại, cố chịu đựng. “Chú mày lúc nào cũng diễn cái trò này hả?” “Trò gì cơ?” “ mời mà tới ấy?” “Đấy là cách duy nhất mọi người gặp được tôi,” Myron . Jake Lớn lại trợn mắt lên thêm chút. Lão mặc quần jean bó và cái áo sơ mi lụa mở quá nhiều nút. Có sợi xích vàng mắc giữa đám lông ngực. Bản ‘Staying alive’(36) được chơi như là nhạc nền, mà lẽ ra là phải như vậy. “Đoán bừa tí nhé,” Myron . “Chiếc Corvette đỏ ấy. Là của ông, phải ?” Lão lại trợn mắt lên thêm. “Mày muốn gì?” “Tôi muốn chuyện với con trai ông, Randy.” “Tại sao?” “Tôi tới đây thay mặt cho gia đình Biel.” Câu đó làm lão chớp mắt liên tục. “ sao?” “Ông có biết là con họ mất tích ?” “ sao?” “Cái dòng ‘ sao’ ấy. Nó chả bao giờ cũ cả, Jake ạ, đấy. Aimee Biel mất tích và tôi muốn hỏi con trai ông về chuyện đó.” “Nó chẳng liên can gì đến chuyện đó cả. Nó ở nhà hôm tối thứ Bảy.” “ mình.” “. Ở cùng tao.” “Thế còn Lorraine? ấy cũng có ở đó chứ? Hay ấy ra ngoài buổi tối?” Jake Lớn thích Myron gọi tên của vợ mình. “ phải việc của mày.” “Kể cả thế, tôi vẫn muốn chuyện với Randy.” “.” “Sao ?” “Tao muốn Randy bị dính líu vào chuyện này.” “Chuyện gì?” “Này,” lão chỉ vào Myron, “Tao thích thái độ của mày.” “Ông thích sao?” Myron tặng lão nụ cười của người-dẫn-trò-chơi-truyền-hình và chờ đợi. Jake Lớn trông có vẻ bối rối. “Thế này tốt hơn chưa? Tươi tắn hơn nhỉ, tôi đúng ?” “Xéo .” “Tôi là, ‘Ai bắt tôi xéo thế’, nhưng là câu đó rất rất được mong đợi đấy.” Jake Lớn cười và bước ngay tới chỗ Myron. “Mày muốn biết ai bắt mày xéo hả?” “Đợi , bình tĩnh, để tôi xem lại kịch bản nào.” Myron vờ lật lật mấy trang giấy. “À đây rồi. Tôi , ‘, ai thế?’ Sau đó ông , ‘Tao.’” “Tiếp tục .” “Jake?” “Gì?” “Có đứa con nào của ông ở nhà ?” Myron hỏi. “Tại sao? Cái đó liên can gì?” “Lorraine, chà, bà ấy vẫn biết ông là người đàn ông bé rồi,” Myron , chịu nhúc nhích phân, “nhưng tôi ghét việc phải quất vào mông ông ngay trước mặt mấy đứa con ông.” Hơi thở của Jake chuyển thành tiếng khụt khịt. Lão lùi lại nhưng lão lúng túng khi tiếp tục đọ mắt với Myron. “Á à, mày được hưởng cái phúc đó đâu.” Myron ngước mắt lên, nhưng kìm lại câu phản pháo đấy-là-dòng-tiếp-theo-trong-kịch-bản-đấy. Chín chắn rồi mà. “Dù sao thằng con trai tao cũng chia tay với con đĩ đó rồi.” “Ông con đĩ là chỉ...?” “Aimee. Thằng bé đá nó.” “Khi nào?” “Ba, bốn tháng trước. Nó cắt đứt với con bé rồi.” “Tuần trước chúng dạ hội cùng nhau mà.” “Cái đó chỉ để phô ra thế thôi.” “Để phô ra?” Lão nhún vai. “Tao chẳng ngạc nhiên về mấy chuyện xảy ra.” “Tại sao ông lại thế, Jake?” “Bởi vì con Aimee là đồ bỏ . Nó là con đĩ.” Myron cảm thấy máu của mình đông lại. “Tại sao ông lại thế?” “Tao biết nó, được chưa? Tao biết cả nhà nó. Con trai tao có tương lai xán lạn. Đến mùa thu nó vào Dartmouth học, và tao muốn có bất cứ việc gì cản ngang chuyện đó. Cho nên nghe tao đây, Ngài Bóng rổ. Phải, tao biết chú mày là ai. Chú mày nghĩ chú mày là tay rất chúa. Hạt giống bóng rổ nổi tiếng, giỏi giang mà chẳng bao giờ vươn đến cấp nhà nghề. Người Mỹ chính hiệu phong độ đỉnh cao rốt cuộc lại thua trắng tay. Kẻ thể vượt qua chuyện đó còn gặp khó khăn đấy.” Jake Lớn cười gằn. “Đợi , đây có phải là đoạn tôi sụp xuống và khóc lóc nhỉ?” Myron hỏi. Jake Lớn đặt ngón tay lên ngực Myron. “Cút mẹ mày tránh xa thằng con tao ra, mày hiểu ý tao chứ? Nó liên can gì đến vụ mất tích của con đĩ kia hết.” Bàn tay Myron phóng thẳng ra. túm lấy hai hòn của Jake, và siết mạnh. Mắt Jake lồi ra. Myron che người để ai nhìn thấy làm gì. Sau đó nghiêng người lại gần vào tai Jake. “Chúng ta gọi Aimee như thế thêm nữa, được chứ, Jake? Thích gật hay tùy.” Jake Lớn gật đầu. Khuôn mặt lão chuyển sang tím ngắt. Myron nhắm mắt lại, tự nguyền rủa bản thân mình, buông tay ra, Jake hít hơi dài, lảo đảo lùi lại, khuỵu xuống. Myron cảm thấy mình ngu ngốc vì mất bình tĩnh đến vậy. “Này, xem kìa. Tôi chỉ cố...” “Xéo ,” Jake rít lên. “Để... để tao yên.” Và lần này Myron vâng lời. Từ ghế trước của chiếc Buick Skylark, em song sinh nhìn Myron bộ xuống đường xe của nhà Wolf. “Thằng cu của em ta kìa.” “Ờ.” Hai thằng thực là em song sinh. Chúng thậm chí còn phải là em ruột. Trông chúng giống nhau. Chúng có chung ngày sinh nhật, 24 tháng Chín, nhưng Jeb lớn hơn Orville tám tuổi. Đó là nửa lý do tại sao chúng lại có cái tên đó - có chung ngày sinh nhật. Nửa còn lại là hoàn cảnh hai thằng gặp nhau: ở trận bóng chày của đội Minesota Twins. Ai đó than vãn rằng chắc là bước ngoặt tàn nhẫn của định mệnh hoặc sao quả tạ chiếu cho nên hai thằng mới vớ được nhau. Những người khác lại bảo ở đó có gắn kết, hai tâm hồn bơ vơ cảm thấy đồng điệu, cứ như là chính bản tính tàn bạo và tâm thần của hai đứa là loại nam châm khiến chúng hút chặt lấy nhau. Jeb và Orville gặp nhau khán đài sân Dome ở Mineapolis lúc Jeb, thằng song sinh, xông vào đánh năm chú chàng đầu ướp đẫm men bia. Orville nhảy vào tham chiến và hai thằng hợp sức tiễn luôn cả năm chú kia vào bệnh viện. Đấy là chuyện tám năm về trước. Ba chú trong số đó giờ vẫn còn nằm mê man bất tỉnh. Jeb và Orville sát cánh cùng nhau. Hai gã đàn ông đó, đều độc thân mình, đều lấy vợ, chưa bao giờ có mối quan hệ lâu dài nào, tách rời nhau được. Chúng lượn lờ từ thành phố này sang thành phố khác, từ thị trấn này sang thị trấn khác, luôn luôn bỏ lại cảnh tàn phá sau mỗi bước chân. Để giải sầu, chúng vào các quán bar gây lộn và để xem chúng có thể sém giết người mà cần phải thực giết chết hẳn hay . Đến khi hai thằng hạ sát thằng đầu gấu xe môtô chuyên nghề bán ma tuý ở Montana tiếng tăm của chúng vững như bàn thạch. Trông Jeb và Orville có vẻ gì là nguy hiểm. Jeb đeo cái cà vạt to bản và mặc áo khoác để hút thuốc. Orville ăn vận theo phong cách Woodstock – tóc buộc đuôi ngựa, mớ tóc giả lôi thôi bẩn thỉu, kính mát màu hồng, và cái áo sơ mi nhuộm loang lổ. Chúng ngồi trong xe và theo dõi Myron. Jeb bắt đầu nghêu ngao hát, thường vẫn vậy, pha các bài hát tiếng với những câu tự dịch sang tiếng Tây Ban Nha. Lúc này hát “Message in a Bottle” của ban nhạc Police. “I hope that someone gets my, I hope that someone gets my, I hope that someone gets my, mensaje en una botella...(37) ” “Em khoái câu đó đấy, trai ạ,” Orville . “Cám ơn, mi amigo(3.” “ này, nếu còn trẻ nên dự thi American Idol mới phải. Mấy câu tiếng Tây Ban Nha ấy. Họ khoái lắm. Kể cả cái tay giám khảo Simon, kẻ ghét tất cả mọi thứ ấy.” “ khoái Simon.” “Em cũng thế. Thằng cha số dách.” Chúng nhìn Myron ngồi vào trong xe . “Vậy, ờ, nghĩ thằng đó làm gì ở cái nhà này?” Orville hỏi. Hát: “You ask me if your love would grow, Yo no se, yo no se(39).” “The Beatles, đúng ?” “Trúng phóc.” “Còn yo no se(40). Em biết.” “Lại đúng nữa.” “Ổn rồi.” Orville xem đồng hồ xe. “Ta có nên gọi cho Rochester và bảo lão công việc đến đâu rồi ?” Jeb nhún vai. “Cũng nên.” Myron Bolitar bắt đầu lái xe . Bọn chúng bám theo. Rochester nhấc máy ngay từ tiếng chuông thứ hai. “, ờ, rời căn nhà đó,” Orville . Rochester , “Cứ bám theo .” “Tiền của ông,” Orville với cái nhún vai. “Nhưng tôi nghĩ đó là phung phí đấy.” “ có thể cho các manh mối về nơi giấu mấy con bé.” “Nếu bây giờ chúng tôi mà, ờ, tẩn trận, nhả ra cho chúng tôi tất cả các manh mối mà biết ấy chứ.” chút ngập ngừng. Orville mỉm cười và giơ ngón tay cái lên ra dấu về phía Jeb. “Tôi ở nhà ,” Rochester . “Đó là nơi tôi muốn các xử lý .” “Ông ở tại hay ở trong?” “Ở tại hay ở trong cái gì?” “Nhà .” “Tôi ở ngoài. Trong xe tôi.” “Thế ông biết có tivi plasma hay rồi.” “Gì cơ? , tôi biết.” “Nếu chúng tôi sắp phải mần tí, rất hay nếu có chiếc như thế. Phòng khi công việc kéo dài, ông hiểu tôi gì chứ hả? Đội Yankees đấu với đội Boston. Jeb và tôi khoái xem bằng ti vi HD(41) lắm đấy. Thế tôi mới phải hỏi.” Lại thêm chút ngập ngừng nữa. “Chắc có chiếc đấy,” Rochester . “Thế tuyệt. Công nghệ DLP cũng tốt. Bất cứ cái gì có high-def(42), tôi đoán thế. Tiện thể, ông có, ờ, kế hoạch hay gì đó ?” “Tôi đợi cho tới khi về đến nhà,” Dominick Rochester . “Tôi bảo là tôi muốn chuyện với . Bọn tôi vào nhà. Các vào nhà.” “Triệt để đấy.” “Giờ đâu?” Orville xem bản đồ chỉ đường xe. “Này, ờ, nếu tôi nhầm, ngay bây giờ chúng ta quay lại cái tổ của Bolitar đây.”