Người hùng trở lại - Harlan Coben(Trinh thám)(Best seller)

Thảo luận trong 'Các Thể Loại Khác (Kinh Dị, Trinh Thám..)'

  • ^^! Nếu bạn không gửi link bài viết trên Facebook được, hãy sử dụng link trong khung này để chia sẻ bài viết :
    1. vulinh

      vulinh Well-Known Member

      Bài viết:
      20,019
      Được thích:
      24,221
      Chương 10


      Myron có chút thời gian trước chuyến bay. làm cốc cà phê ở quán Starbucks trong trung tâm thị trấn. Gã bồi phục vụ có thái độ quàu quạu thành thương hiệu. Khi đưa Myron đồ uống, nhấc nó lên quầy như thể nó nặng bằng cả thế giới này ấy, cánh cửa phía sau họ mở đánh rầm. Gã bồi ngước mắt lên khi bọn họ bước vào.

      Hôm nay bọn họ có cả thảy sáu người, lết vào như thể tuyết dày, đầu cúi gục xuống, run rẩy đủ mọi tư thế. Họ sụt sịt và xoa xoa mặt. Bốn người đàn ông râu ria cạo. Hai người phụ nữ bốc mùi như nước đái mèo.

      Họ là những bệnh nhân tâm thần. Thực . Hầu như đêm nào họ cũng ở Essex Pines, bệnh viện tâm thần ở thị trấn bên cạnh. Trưởng nhóm của họ - dù họ đâu, ta cũng luôn ở vị trí tiên phong - tên là Larry Kidwell. Vào ban ngày hầu như lúc nào họ cũng lang thang trong thị trấn. Người dân Livingston gọi họ là Bọn điên của Thị trấn. Myron khắt khe coi họ như nhóm nhạc rock kỳ dị: Larry Liti và nhóm Bộ ngũ Tẩm thuốc.

      Hôm nay trông họ có vẻ đỡ lờ đờ hơn mọi ngày, chắc là họ vừa điều trị ở Pines về. Larry đặc biệt bồn chồn. tiến gần tới chỗ Myron và vẫy.

      “Ê, Myron,” quá to.

      “Chuyện gì thế, Larry?”

      ngàn bốn trăm tám mươi bảy hành tinh trong ngày sáng thế, Myron ạ. ngàn bốn trăm tám mươi bảy. Còn tôi chưa nhìn thấy xu nào. biết tôi ?”

      Myron gật đầu. “Tôi nghe ra rồi.”

      Larry Kidwell lê về phía trước. Mái tóc dài, xơ xác của chờm ra ngoài chiếc mũ Indiana Jones. mặt có những vết sẹo. mặc chiếc quần jeans sờn rách tụt xuống thấp, phô ra kẽ mông đủ để đỗ cả cái xe đạp.

      Myron bắt đầu hướng ra phía cửa. “Thoải mái , Larry.”

      “Cả nữa, Myron.” nhoài người ra để bắt tay Myron. Những người còn lại trong nhóm đột nhiên đờ người ra, tất cả những cặp mắt - những cặp mắt trố ra, những cặp mắt sáng-quắc-vì-thuốc - đều dán vào Myron. Myron đưa tay ra và siết tay Larry. Larry nắm chặt lấy và kéo Myron lại gần. Hơi thở của , có gì ngạc nhiên, thối hoắc.

      “Hành tinh tiếp theo,” Larry thào, “Nó có lẽ là của đấy. Của mình thôi.”

      tuyệt khi biết tin này, cảm ơn.”

      !” Vẫn là lời thầm, nhưng giờ rất gay gắt. “Hành tinh ấy. Đó là vầng trăng trôi. Nó đến để bắt , biết tôi gì chứ?”

      “Tôi nghĩ vậy.”

      “Đừng có bỏ qua điều này.”

      buông Myron ra, đôi mắt mở to. Myron lùi lại bước. có thể thấy lo lắng của .

      sao đâu, Larry.”

      “Để ý lời cảnh báo của tôi đấy, bạn. Ngài đẩy mặt trăng trôi . hiểu chứ? Ngài căm ghét đến nỗi ngài đẩy cho mặt trăng trôi .”

      Những người còn lại trong nhóm hoàn toàn là người lạ, nhưng Myron biết tiểu sử bi thảm của Larry. Larry Kidwell học Myron hai khóa ở trường. từng cực kỳ nổi tiếng. tay ghi-ta cừ khôi, có duyên với các , thậm chí hẹn hò với cả Beth Finkelstein, nàng nóng bỏng nhất cái thị trấn nhà quê này, trong suốt năm học cuối. Kết thúc năm học chính Larry là người được đọc diễn văn ra trường thay mặt cả lớp ở trường trung học Livingston. vào học Đại học Yale, trường đại học cũ của bố , và theo lời mọi người, học kỳ đầu rất thành công.

      Sau đó tất cả mọi thứ đều sụp đổ.

      Điều gây bất ngờ, điều khiến mọi chuyện thêm khủng khiếp, là chuyện đó diễn ra như thế nào. Chưa từng có kiện kinh khủng nào trong đời Larry. Chưa từng có bi kịch gia đình nào. Chưa từng có trục trặc gì về ma tuý hay rượu hay phụ nữ.

      Chẩn đoán của bác sĩ: Mất cân bằng hóa sinh.

      Ai mà biết được bạn bị ung thư như thế nào? Đó cũng là điều xảy ra với Larry. Chỉ đơn giản là bị bệnh tâm thần. Ban đầu chỉ là OCD(24) dạng , sau đó trở nên nghiêm trọng hơn, và sau đó, dù có cố gắng hết sức, ai có thể ngăn tuột dốc. Đến năm học thứ hai Larry đặt nhiều bẫy chuột để có thể ăn thịt chúng. thành ra hoang tưởng. bỏ học ở Yale. Sau đó là những lần tìm cách tự tử, hoang tưởng nặng và đủ loại rắc rối. Larry đột nhập vào nhà người vì “bọn Clyzet đến từ hành tinh ba trăm hai sáu” tìm cách rải ổ ở đó. Lúc đó cả gia đình ở nhà.

      Kể từ ngày đó Larry Kidwell hết ra lại vào các bệnh viện tâm thần. Hình như, cũng có những giây phút Larry hoàn toàn tỉnh táo, và điều này quá đau đớn đối với , nhận ra mình biến thành cái gì, đến nỗi cào xé chính khuôn mặt của mình – do vậy mới có những vết sẹo – và gào thét thảm thiết đến mức ngay lập tức họ phải tiêm thuốc an thần cho .

      “Được rồi,” Myron . “Cám ơn vì lời cảnh báo.”

      ra khỏi cửa, quên phắt ngay chuyện đó. tới tiệm giặt là của Chang ở ngay kế bên. Maxine Chang đứng sau quầy. Trông , như mọi khi, kiệt quệ vì làm việc quá sức. Có hai phụ nữ tầm tuổi Myron đứng ở quầy. Họ chuyện về mấy đứa con mình và các trường đại học. Đó là điều mà bất cứ người nào cũng lúc này. Mỗi tháng Tư, Livingston trở thành quả cầu tuyết đắp bằng giấy nhập trường. Số tiền đóng góp, nếu bạn phải nghe các bậc phụ huynh kể lể, thể cao hơn. Những tuần này - những phong bì dày-hay-mỏng bay đến hòm thư của họ - quyết định con cái họ hạnh phúc và thành đạt đến mức nào trong suốt phần đời còn lại của chúng.

      “Ted được đưa vào danh sách chờ ở trường Penn nhưng nó lại trúng vào Lehigh rồi,” .

      có tin là thằng Chip Thompson được vào Penn ?”

      “Bố nó.”

      “Sao cơ? Ờ đợi , lão ta là cựu sinh viên ở đó, phải ?”

      “Lão ta đút họ tới hai trăm năm mươi ngàn đô đấy.”

      “Lẽ ra tôi phải biết chứ nhỉ. Thằng Chip có cái bảng điểm ghê chết.”

      “Tôi còn nghe bọn họ thuê ông giáo sư để viết hộ nó bài luận.”

      “Lẽ ra tôi nên làm thế cho thằng Cole.”

      Như thế. Cứ thế và cứ thế.

      Myron gật đầu chào Maxine. Maxine Chang thường dành cho nụ cười rạng rỡ. phải hôm nay. quát, “Roger!”

      Roger Chang ra từ đằng sau. “Chào, Myron.”

      “Sao thế, Roger?”

      “Lần này chú muốn đóng hộp mấy cái áo sơ mi, đúng ?”

      “Đúng rồi.”

      “Cháu quay lại ngay.”

      “Maxine,” trong số mấy người phụ nữ , “Roger nhận được tin gì từ các trường chưa?”

      Maxine hầu như nhìn lên. “Nó trúng vào Rutgers,” . “Được đưa vào danh sách chờ của mấy trường khác.”

      “Ái chà, chúc mừng nhé.”

      “Cảm ơn.” Nhưng dường như mảy may xúc động.

      “Maxine, chẳng phải thằng bé là người đầu tiên trong nhà được học đại học hay sao?” người phụ nữ kia . Giọng bà ta chỉ có thể kẻ cả hơn thế nếu bà ta nựng con chó. “Tuyệt cho quá còn gì!”

      Maxine ghi lại tấm thẻ.

      “Thằng bé được ghi vào danh sách chờ trường nào?”

      “Princeton và Duke.”

      Nghe thấy tên trường cũ của mình khiến Myron lại nghĩ về Aimee. nhớ lại hình ảnh Larry và cuộc chuyện ma mị về các hành tinh của ta. Myron phải là người tin vào các điềm gở hay bất kỳ thứ gì kiểu như vậy, nhưng cũng phải thèm quan tâm đến số phận. tính xem có nên thử gọi vào điện thoại của Aimee lần nữa , nhưng để làm gì cơ chứ? nghĩ về đêm hôm qua, tái nó trong đầu, tự hỏi làm sao có thể làm khác được.

      Roger - Myron quên mất là thằng bé học sinh năm cuối trường trung học - quay lại và đưa hộp áo sơ mi. Myron cầm lấy, bảo Roger tính vào tài khoản của , rồi ra cửa. vẫn còn thời gian trước chuyến bay.

      Vì vậy lái xe đến mộ Brenda.

      Khu nghĩa trang vẫn nhìn ra cái sân trường. Đó là điều mà vẫn chưa thể vượt qua được. Mặt trời chiếu gay gắt, vẫn luôn như vậy mỗi lần ghé thăm, vẻ như chế nhạo nỗi đau buồn của . đứng mình. có khách thăm viếng nào khác. Cái máy xúc ở gần đó đào cái hố. Myron vẫn đứng im. ngẩng mặt lên và để mặt trời chiếu lên mặt mình. vẫn có thể cảm thấy nó - ánh mặt trời mặt . Brenda, tất nhiên, thể. bao giờ nữa.

      suy nghĩ giản dị, nhưng nó là thế đó.

      Brenda Slaughter mới chỉ hai mươi sáu tuổi khi qua đời. Nếu còn sống, sau hai tuần nữa vừa tròn ba mươi tư tuổi. tự hỏi giờ ở đâu nếu giữ được lời hứa của mình. tự hỏi liệu có còn ở bên .

      Khi qua đời, Brenda dở dang khóa tập nhi khoa. cao -mét chín nhăm, đẹp lộng lẫy, là dân Mỹ gốc Phi, là người mẫu. sắp lên chơi giải bóng rổ nhà nghề, gương mặt và hình ảnh mở màn cho giải bóng của Liên hiệp Phụ nữ. có những lời đe doạ được gửi tới. Vì vậy Myron được liên hiệp thuê để bảo vệ .

      Công việc tuyệt vời, Toàn-Sao.

      đứng và nhìn chằm chằm xuống và siết chặt nắm tay. chưa bao giờ chuyện với khi đến đây. ngồi xuống và cố gắng ngẫm ngợi hay bất cứ thứ gì kiểu như vậy. nhớ lại những điều tốt đẹp hay tiếng cười hay vẻ đẹp hay tầm vóc khác thường của . Những chiếc xe phóng vù vù qua. Sân trường tĩnh lặng. có đứa trẻ nào chơi đùa bên ngoài. Myron nhúc nhích.

      đến đây vì vẫn còn thương tiếc cho cái chết của . đến vì còn thấy thế nữa.

      hầu như còn nhớ gương mặt của Brenda nữa. Nụ hôn họ có với nhau... khi nhớ lại biết nó là điều tưởng tượng hơn là ký ức. Đó là vấn đề. Brenda Slaughter trượt xa dần. Chẳng mấy chốc mọi thành ra như thể chưa bao giờ tồn tại. Vì vậy Myron đến đây để được an ủi hay để tỏ lòng thành kính. đến vì vẫn cần bị tổn thương, cần những vết thương vẫn nguyên như mới. vẫn muốn bị oán giận bởi việc vẫn tiếp tục sống - vẫn cảm thấy thoải mái yên ổn trước những gì xảy ra với - là quá bẩn thỉu.

      Cuộc đời cứ trôi . Thế là tốt, đúng nào? oán giận bùng lên rồi dần dần nguôi ngoai. Những vết sẹo liền miệng. Nhưng khi bạn để điều đó xảy ra, tâm hồn bạn cũng chết chút.

      Vì vậy Myron đứng đó, nắm tay siết chặt tới khi rung lên. nghĩ về cái ngày ánh nắng chan hòa họ chôn cất - và những việc kinh khủng làm đề báo thù cho . gọi về tất cả những oán giận cũ. Nó ào về như sức mạnh. Đầu gối khuỵu xuống. hơi lảo đảo, nhưng vẫn đứng thẳng được.

      xung đột với Brenda. muốn bảo vệ . làm căng quá - và vì thế khiến bị giết.

      Myron nhìn xuống nấm mồ. Ánh mặt trời vẫn toả hơi ấm , nhưng lại thấy cơn rùng mình ớn lạnh chạy dọc sống lưng. tự hỏi tại sao lại chọn cái ngày này mà phải những ngày khác để đến thăm, và sau đó nghĩ về Aimee, về việc làm căng quá, về việc chỉ muốn bảo vệ, và lại rùng mình lần nữa, nghĩ - , sợ - rằng có lẽ, theo cách nào đó, để tất cả những chuyện đó xảy ra lần nữa.




      Chương 11


      Claire Biel đứng trước bồn rửa bát và nhìn chằm chằm vào kẻ xa lạ mà gọi là chồng. Erik nhấm nháp cái bánh sandwich, cà vạt gài chặt vào áo sơ mi. tờ báo được gập tư gọn gàng thẳng thớm. ta nhai chậm rãi. ta đeo khuy măng séc. Áo sơ mi của ta được hồ bột. ta thích hồ bột. ta thích tất cả mọi thứ được là phẳng. Trong tủ quần áo của ta, những bộ quần áo được treo cách đều nhau bốn inch. ta đo đạc để làm như thế. Chỉ là ngẫu nhiên thôi. Những chiếc giày của ta, luôn luôn đánh xi mới tinh, dàn hàng thẳng tắp như trong đội diễu binh.

      Người đàn ông này là ai vậy nhỉ?

      Hai đứa con út của họ, Jane và Lizzie, đều nhai ngấu nghiến bánh mì trắng với bơ đậu phộng và mứt. Chúng tán chuyện với nhau bằng mấy cái mồm nhồm nhoàm. Chúng làm ầm cả lên. Sữa của chúng cứ bắn tóe ra ngoài ít . Erik vẫn đọc báo. Jane xin phép ra ngoài chơi. Claire đồng ý. Cả hai đứa cùng ào ra phía cửa.

      “Dừng lại,” Claire .

      Chúng dừng lại.

      “Cho đĩa vào bồn .”

      Chúng thở dài và đảo mắt - mặc dù mới chín, mười tuổi đầu, chúng học được thói này từ người giỏi nhất, chị cả của chúng. Chúng chậm chạp lê bước quay lại như thể qua lớp tuyết dày đỉnh Adirondack, nhấc mấy cái đĩa có lẽ phải nặng tựa đá tảng, và xoay xở để vác hòn núi tới chỗ bồn rửa.

      “Cảm ơn các con,” Claire .

      Chúng chạy vù . Căn phòng giờ yên tĩnh. Erik lặng lẽ nhai.

      “Còn cà phê ?” ta hỏi.

      rót ra chút. ta bắt tréo chân, cẩn thận để làm nhàu chiếc quần. Họ kết hôn được mười chín năm, nhưng đam mê trôi tuột chỉ trong vòng chưa đến hai năm. Giờ họ bế tắc, bế tắc lâu đến nỗi dường như nó còn khó khăn đến thế nữa. Câu sáo ngữ cổ nhất thường thấy trong sách vở là thời gian trôi như bóng câu qua cửa, nhưng nó đúng. có vẻ như đam mê biến mất lâu đến thế. Đôi khi, như ngay lúc này đây, có thể nhìn ta và nhớ lại rằng có lúc chỉ cần nhìn thấy ta thôi cũng khiến nghẹt thở.

      Vẫn ngước mắt lên, Erik hỏi, “Em nhận được tin gì từ Aimee chưa?”

      “Chưa.”

      ta dang thẳng cánh tay để kéo lại cái tay áo, giơ đồng hồ lên xem, nhướng bên chân mày. “Hai giờ chiều.”

      “Chắc con bé vừa mới dậy thôi.”

      “Có lẽ chúng ta nên gọi điện.”

      ta nhúc nhích.

      “Bảo chúng ta,” Claire , “là muốn chỉ em đấy hả?”

      gọi nếu em muốn.”

      với chiếc điện thoại và nhấn số di động của con . Họ mua cho Aimee điện thoại riêng từ năm ngoái. Aimee mang về cho họ tờ quảng cáo rằng họ có thể có thêm đường dây thứ ba mà chỉ phải trả mười đô tháng. Erik phản ứng. Nhưng, Aimee rên lên, tất cả bọn bạn - tất cả mọi người! - đều có cái rồi, cuộc tranh luận luôn luôn dẫn Erik đến câu bình luận, “Chúng ta phải như mọi người, Aimee.”

      Nhưng Aimee chuẩn bị trước cho chuyện đó. bé nhanh chóng chuyển tông và đánh trúng vào tim đen luôn muốn che chở của cha mẹ: “Nếu con có điện thoại riêng, con có thể giữ liên lạc liên tục. Bố mẹ có thể tìm con 24/7. Và nếu nhỡ có việc gì khẩn cấp ...”

      Câu đó kết thúc vụ mua bán. Các bà mẹ đều hiểu chân lý cơ bản này: Áp lực từ giới tính và từ bạn đồng trang lứa may ra có thể thuyết phục được, nhưng có gì thuyết phục bằng nỗi sợ hãi.

      Cuộc gọi được chuyển tới hộp thư thoại. Giọng háo hức của Aimee – ghi lời nhắn của mình gần như ngay sau khi nhận được chiếc điện thoại - bảo Claire, ờ, để lại lời nhắn. Tiếng của con , vẫn quen thuộc như thế, khiến thấy đau đớn, mặc dù chính xác là vì sao.

      Khi tiếng bíp cất lên, Claire , “Chào, con , mẹ đây. Gọi cho mẹ nhé, được chứ?”

      gác máy.

      Erik vẫn đọc tờ báo của mình. “Con bé trả lời sao?”

      “Chao, cái gì cho thấy thế nhỉ? Có phải là lúc em bảo nó gọi cho em ?”

      ta cau mày trước câu mỉa mai. “Có khi điện thoại của con bé hết pin rồi cũng nên.”

      “Có thể.”

      “Lúc nào nó chẳng quên sạc pin,” ta , và lắc đầu cái. “Con bé ngủ lại ở nhà ai thế? Nhà Steffi, phải ?”

      “Stacy.”

      “Phải rồi, gì cũng được. Có lẽ ta nên gọi cho Stacy.”

      “Tại sao?”

      muốn nó về nhà. Nó có bài tập đến thứ Năm phải nộp rồi.”

      Chủ nhật. Con bé vừa mới vào đại học mà.”

      “Thế nên em nghĩ bây giờ nó nên xả hơi chắc?”

      Claire đưa cho ta chiếc điện thoại cầm tay. “ mà gọi.”

      “Tốt thôi.”

      đọc số điện thoại cho . ta bấm số và đưa máy lên tai. Ở phía ngoài, Claire nghe thấy hai đứa con của cười rúc rích. Rồi đứa hét lên, “Em làm!” Khi điện thoại được nhấc lên, Erik dặng hắng. “Xin chào, tôi là Erik Biel bố của Aimee Biel. Tôi muốn hỏi liệu Aimee có ở đó lúc này .”

      Khuôn mặt của ta thay đổi. Giọng của ta thay đổi. Nhưng Claire nhìn thấy ngón tay đặt điện thoại của ta siết chặt lại và cảm thấy có gì đó ở sâu trong lồng ngực mình vỡ ra.

    2. vulinh

      vulinh Well-Known Member

      Bài viết:
      20,019
      Được thích:
      24,221
      Chương 12


      Myron có hai suy nghĩ có phần trái ngược về Miami. , thời tiết đẹp nên dọn xuống đây ở. Hai, nắng - dưới này có quá nhiều nắng. Tất cả mọi thứ đều chói chang. Ngay cả trong sân bay Myron cũng thấy lóa cả mắt.

      Điều đó thành vấn đề đối với bố mẹ của Myron, Ellen và Al Bolitar quý, những người đeo cặp kính ngoại cỡ nghi là kính bảo hộ của thợ hàn, mặc dù kiểu khác. Cả hai người cùng chờ ở sân bay. Myron bảo họ đừng chờ, rằng taxi, nhưng bố cứ khăng khăng. “Chẳng phải bố luôn đón con từ sân bay về là gì? Còn nhớ cái hồi con từ Chicago về sau trận bão tuyết lớn đó ?”

      “Chuyện đó từ mười tám năm trước mà, bố.”

      sao? Con nghĩ là bố quên mất phải như thế nào rồi phỏng?”

      “Và đó là Sân bay Newark.”

      “Mười tám phút, Myron.”

      Mắt Myron nhắm nghiền. “Con nhớ mà.”

      “Mười tám phút đúng.”

      “Con nhớ mà, bố.”

      “Đó là thời gian bố từ nhà đến Cửa A tại Sân bay Newark. Bố từng căn giờ mà, nhớ .”

      “Con nhớ, vâng ạ.”

      Vậy là họ ở đây, cả hai người, ở sân bay với làn da rám nắng và những đốm tàn nhang mới nổi. Khi Myron xuống thang máy, mẹ chạy ào đến và quàng tay quanh người cậu con trai cứ như thể đây là chuyến trở về sau vụ phóng thích tù binh Chiến tranh năm 1974. Bố đứng lại dưới sảnh với nụ cười mãn nguyện. Myron cũng ôm bà. Mẹ hình như gầy hơn. Dưới này là thế đấy. Bố mẹ bạn quắt lại và gầy hơn và đen hơn, giống như những cái đầu nhăn nheo khổng lồ.

      Mẹ , “Mình lấy hành lý của con .”

      “Con có đây rồi.”

      “Thế thôi? Chỉ cái túi này thôi à?”

      “Con chỉ xuống đây có đêm thôi mà.”

      “Lại thế.”

      Myron ngắm khuôn mặt của bà, nhìn đôi tay bà. Khi nhìn thấy rệt hơn run rẩy, cảm thấy tiếng đập thình thịch trong lồng ngực mình.

      “Sao thế?” bà .

      có gì.”

      Mẹ lắc đầu. “Con lúc nào cũng là đứa dối kém nhất. Có nhớ hồi mẹ vào bắt gặp con với Tina Ventura và con bảo là có chuyện gì ? Con nghĩ mẹ biết chắc?”

      Năm thứ hai trung học. Hỏi mẹ và bố họ làm gì hôm qua, họ nhớ. Hỏi họ về bất cứ chuyện gì hồi còn thơ trẻ, cứ như họ xem phim chiếu lại mỗi buổi tối vậy.

      giơ tay lên giả đầu hàng. “Con xin thua.”

      “Đừng có láu cá như thế chứ. Mà thế lại làm mẹ nhớ lại.”

      Họ đến chỗ bố. Myron hôn vào má ông. luôn làm thế. Bạn bao giờ bỏ được việc đó. Làn da có vẻ chùng xuống. Vẫn có mùi hương Old Spice ở đó, nhưng nhạt hơn mọi khi. Có cái gì đó khác ở đó, mùi khác, và Myron nghĩ đó là mùi của tuổi già. Họ thẳng ra xe.

      “Đoán xem mẹ gặp ai nào?” Mẹ .

      “Ai thế?”

      “Dotte Derrick. Còn nhớ bà ấy ?”

      .”

      “Chắc chắn là con có nhớ. Bà ấy có thứ đó, con-gọi-thế-mà, trong sân nhà.”

      “Ồ, đúng rồi. Bà ấy. Với thứ đó.”

      biết bà về cái gì, nhưng thế này dễ xử hơn.

      “Dù gì mẹ cũng gặp Dotte hôm nọ và chuyện gẫu. Bà ấy và Bob dọn xuống đây từ bốn năm trước. Họ có chỗ ở Fort Lauderdale, nhưng Myron ạ, chỗ đó xập xệ lắm rồi. Ý mẹ là, nó chẳng được coi sóc gì cả. Al, tên cái chỗ Dotte ở là gì ấy nhỉ? Sunshine Vista, gì đó kiểu như thế, phải ?”

      “Ai thèm quan tâm?” Bố .

      “Cám ơn, Quý ngài Được việc. Dù gì đấy cũng là nơi Dotte ở. Và cái chỗ đó kinh lắm. là xập xệ hết sức. Al, chỗ ở của Dotte xập xệ lắm phải ?”

      “Vào đề , El,” bố . “ vào vấn đề .”

      “Em sắp đây, em sắp đây. Em đến đâu rồi nhỉ?”

      “Dotte gì đó,” Myron .

      “Derrick. Con có nhớ bà ấy, đúng ?”

      “Rất nhớ ạ,” Myron .

      “Đúng rồi, tốt. Mà, Dotte còn có em họ hàng ở mạn phía Bắc. Nhà Levine. Con có nhớ bọn họ ? Chả có lý do gì phải nhớ cả, thôi quên . Mà, trong những người họ hàng đó sống ở khu Kasselton. Con biết Kasselton, đúng ? Con từng chơi với mấy đứa đó hồi ở trung học ấy...”

      “Con biết Kasselton.”

      “Đừng nóng.”

      Bố giơ tay lên trời. “Vào đề, El. vào vấn đề .”

      “Đúng rồi, xin lỗi nhé. đúng. Khi đúng, là đúng. Vì thế để làm ngắn bớt câu chuyện dài... ”

      , El, em chẳng bao giờ làm ngắn bớt câu chuyện dài cả,” bố . “Ôi, em làm cho hàng đống chuyện ngắn thành ra dài thượt. Nhưng em chưa bao giờ, chưa khi nào làm ngắn câu chuyện dài cả.”

      “Em được chưa, Al?”

      “Cứ làm như là ai cũng có thể ngăn em lại ấy. Cứ làm như khẩu súng lớn hay cái xe tăng quân đội to đùng - những thứ đó cũng có thể ngăn em lại ấy.”

      Myron thể mỉm cười. Thưa quý bà và quý ông, hãy gặp Ellen và Alan Bolitar hay, như mẹ thích , “Chúng tôi là El Al - các bạn biết đấy, giống Hãng hàng Israel?”

      dù gì mẹ cũng tán gẫu với Dotte về chuyện này chuyện kia. Con biết đấy, những chuyện thông thường ấy mà. Nhà Ruskin dọn ra khỏi thị trấn. Gertie Schawrtz có sỏi mật. Antonietta Vitale, đứa xinh xắn ghê cơ, con bé lấy ông triệu phú nào đó ở Montclair. Chuyện kiểu như vậy. Và rồi Dotte bảo mẹ - Dotte bảo mẹ chuyện này, cơ mà, được với con - Dotte con hẹn hò với ai đó.”

      Myron nhắm mắt lại.

      “Có ?”

      gì.

      “Dotte bảo con hẹn hò với bà góa có tới sáu đứa con.”

      “Hai đứa,” Myron .

      Mẹ dừng lại và mỉm cười.

      “Sao ạ?”

      “Lộ rồi nhé.”

      “Hả?”

      “Nếu mẹ hai đứa, có lẽ con chối biến ngay.” Mẹ chĩa ngón tay cái lên. “Nhưng mẹ biết nếu mẹ sáu, con phản ứng. Thế nên mẹ mới bắt thóp được con.”

      Myron nhìn bố . Bố nhún vai. “Gần đây bà ấy xem bộ phim Matlock rất nhiều.”

      “Trẻ con ư, Myron? Con hẹn hò với phụ nữ có con sao?”

      “Mẹ, con sắp sửa điều này nhã nhặn hết sức có thể đây: Đừng có xía vào.”

      “Nghe mẹ đây, Quý ngài Khôi hài. Khi dính thêm trẻ con vào, con thể cứ vui vẻ riêng mình được. Con còn phải nghĩ đến những hậu quả tác động lên bọn nữa. Con có hiểu mẹ gì với con ?”

      “Mẹ có hiểu nghĩa của cụm từ ‘đừng xía vào’ ?”

      “Tốt thôi. Cứ làm những gì con muốn.” Giờ bà làm động tác giả đầu hàng. Mẹ nào, con nấy. “Mẹ quan tâm làm gì?”

      Họ tiếp tục bộ - Myron ở giữa, bố bên phải , mẹ bên trái. Họ luôn luôn như vậy. Nhịp bước giờ chậm hơn. Điều đó làm thấy phiền lắm. còn sẵn lòng chậm lại hơn nữa để họ có thể theo kịp.

      Họ lái xe về khu nhà chung và đỗ vào ô chia sẵn. Mẹ cố tình đường vòng qua bể bơi, nhờ đó bà có thể giới thiệu Myron với cả dãy dài chóng mặt gặp thằng con tôi chưa?” và Myron vờ như cũng nhớ bọn họ. Vài người phụ nữ, nhiều người ngoài bảy mươi, quá nở nang. Như người ta khuyên Dustin Hoffman trong The Graduate, “Chất dẻo.” Chỉ là dạng khác thôi. Myron cũng chẳng phản đối gì phẫu thuật thẩm mỹ, nhưng qua độ tuổi nhất định, dù có phân biệt đối xử hay , chuyện đó cũng khiến rùng mình.

      Khu nhà chung cũng quá sáng. Bạn nghĩ rằng khi bạn già , bạn muốn ít ánh sáng hơn, nhưng . Bố mẹ thực ra vẫn đeo mấy đôi kính mát thợ hàn trong năm phút đầu. Mẹ hỏi có đói . đủ thông minh để trả lời là có. Bà gọi trước đĩa thịt lát rưới sốt cà chua cay - ở Vịnh Guantánamo kiểu nấu nướng của mẹ có thể bị đánh giá là tàn bạo - từ nơi gọi là Nhà hàng Tony, nơi “giống y chang Nhà hàng Eppes Essen cũ” tại gia.

      Họ ăn, họ chuyện, mẹ cứ cố gạt những mảnh bắp cải bị dính ở khoé miệng bố , nhưng tay bà run ghê quá. Myron bắt gặp ánh mắt của bố. Bệnh Parkinson của mẹ ngày càng nặng thêm, nhưng họ gì với Myron về chuyện đó. Họ già . Bố mang cái máy điều hòa nhịp tim. Mẹ mang máy điều trị bệnh Parkinson. Nhưng nhiệm vụ hàng đầu của họ vẫn là giấu giếm con trai mình tất cả những chuyện đó.

      “Khi nào con phải gặp người ta?” Mẹ hỏi.

      Myron nhìn đồng hồ. “Bây giờ.”

      Họ chào tạm biệt, ôm-và-hôn nhau lần nữa. Khi lái xe , có cảm giác như thể mình bỏ rơi họ, như thể họ sắp phải tự mình chống chọi với kẻ thù trong khi lái xe đến nơi an toàn. Có bố mẹ già cả ốm yếu; nhưng như Esperanza, người mất cả bố lẫn mẹ từ khi còn trẻ chỉ ra, thế còn hơn là có.

      Khi vào trong thang máy, Myron xem điện thoại di động của mình. Aimee vẫn chưa gọi lại cho . thử bấm số của lần nữa và lấy gì làm ngạc nhiên khi nó chuyển sang hộp thư thoại. Đủ rồi, nghĩ. gọi về nhà bé. Để xem có chuyện gì.

      Giọng của Aimee vẳng lại trong đầu: “Chú hứa...”

      nhấn số nhà Erik và Claire. Claire trả lời. “Alô?”

      “Chào, Myron đây.”

      “Chào.”

      “Có chuyện gì thế?”

      có gì nhiều,” Claire đáp.

      gặp Erik sáng nay” - ôi trời, có là cùng ngày nhỉ? - “và ấy bảo chuyện Aimee được nhận vào Duke rồi. Thế nên muốn chúc mừng ấy mà.”

      “Phải, cám ơn nhé.”

      “Con bé có đó ?”

      , bây giờ .”

      gọi lại cho nó sau được ?”

      “Được, chắc chắn rồi.”

      Myron chuyển hướng. “Mọi chuyện ổn cả chứ? Nghe em có vẻ phân tâm.”

      định thêm nhưng lần nữa những lời của Aimee – “Chú hứa chú với bố mẹ cháu” - lại ập xuống đầu .

      “Khỏe, em nghĩ vậy,” Claire . “Ôi, em phải đây. Cám ơn viết lá thư đề cử nhé.”

      “Có gì to tát đâu.”

      “Rất to tát ấy chứ. Mấy đứa xếp thứ tư và thứ bảy trong lớp nó cũng đâm đơn và được vào. chính là khác biệt đấy.”

      nghi ngờ chuyện đó lắm. Aimee là ứng viên sáng giá cơ mà.”

      “Có lẽ, nhưng dù sao cũng cám ơn .”

      Có tiếng càu nhàu ở phía sau. Nghe như Erik.

      Trong đầu , lại ra giọng Aimee: “Mọi chuyện với họ giờ được ổn lắm.” Myron cố nghĩ thêm chuyện gì khác để , câu hỏi có liên quan chẳng hạn, Claire gác máy.

      Loren Muse giành được vụ giết người mới - thực ra là vụ kép, hai người đàn ông bị bắn chết bên ngoài hộp đêm ở East Orange. Người ta đồn đại rằng vụ giết người là chiến công của John “Hồn ma” Asselta, tay sát nhân khét tiếng, vốn được sinh ra và nuôi nấng ngay tại vùng này. Asselta im hơi lặng tiếng suốt mấy năm qua. Nhưng nếu tái xuất giang hồ, sắp tới họ tha hồ mà bận rộn.

      Loren xem lại bản báo cáo về đường đạn đường dây riêng của đổ chuông. nhấc máy lên và , “Muse nghe.”

      “Đoán xem ai?”

      mỉm cười. “Lance Banner, đồ chó già. Là hả?”

      “Đúng rồi.”

      Banner là nhân viên cảnh sát ở Livingston, New Jersey, khu ngoại ô nơi bọn họ cùng lớn lên.

      “Vì đâu mà tôi lại hân hạnh được tiếp kiến thế này?”

      vẫn điều tra vụ mất tích của Katie Rochester đấy chứ?”

      hẳn,” .

      “Sao ?”

      là, có dấu hiệu gì của bạo lực cả. Thứ nữa, Katie Rochester mười tám rồi.”

      “Chỉ vừa đủ thôi.”

      “Trong con mắt của pháp luật, mười tám cũng giống tám mươi thôi. Vì thế chính thức chúng tôi còn chẳng tiến hành cuộc điều tra nào cả.”

      “Thế còn chính thức?”

      “Tôi gặp bác sĩ tên là Edna Skylar.” thuật lại câu chuyện của Edna, dùng hầu như chính xác những từ ngữ bà ta dùng khi bà ta kể cho sếp của , công tố viên quận Ed Steinberg. Steinberg ngồi đó lúc lâu trước khi kết luận câu có thể đoán trước được: “Chúng tôi có nguồn lực để theo đuổi thứ hú họa như thế được.”

      Khi xong, Banner hỏi, “Ban đầu làm sao có được vụ này?”

      “Như tôi , có vụ án nào hết, đấy. ấy đến tuổi, có dấu hiệu của bạo lực, biết thủ tục rồi đấy. Vì vậy có ai được chỉ định hết. Tuy nhiên quyền thực thi pháp lý vẫn còn có chút nghi ngờ. Nhưng ông bố, Dominick ấy, ông ta ầm ĩ với báo chí nhiều quá, có thể thấy rồi, và ông ta biết ai đó, kẻ ấy lại biết ai khác nữa, và từ đó dẫn đến Steinberg...”

      “Và từ đó dẫn đến .”

      “Phải. Từ khóa là dẫn. Ở quá khứ ấy.”

      Lance Banner hỏi, “ có mười phút rảnh ?”

      nghe tin về vụ giết hai người ở East Orange chưa?”

      “Nghe rồi.”

      “Tôi là người chỉ đạo.”

      “Như ở tại của từ chỉ đạo ấy hả?”

      hiểu rồi đấy.”

      “Tôi đoán thế,” Banner . “Đó là lý do tại sao tôi chỉ hỏi xin có mười phút.”

      “Quan trọng ?” .

      “Có thể là” - ta dừng lại, ngẫm nghĩ về từ ngữ - “rất bất thường.”

      “Và nó có liên quan đến vụ mất tích của Katie Rochester hả?”

      “Tối đa mười phút thôi, Loren. Tất cả những gì tôi đề nghị đấy. Chết tiệt, năm phút thôi vậy.”

      xem đồng hồ. “Khi nào?”

      “Bây giờ tôi ở dưới sảnh tòa nhà ở,” ta . “ sắp xếp căn phòng được ?”

      “Trong năm phút? Chết tiệt, đúng là vợ đùa về chuyện dai sức thế nào trong phòng ngủ rồi.”

      “Cứ mơ , Muse. Có nghe thấy tiếng thang máy kêu ? Tôi sắp bước vào thang máy đây. Chuẩn bị sẵn phòng ốc .”

      Thanh tra cảnh sát Livingston Lance Banner cắt đầu đinh. ta có rất nhiều đặc điểm và vóc dáng khiến bạn nghĩ đến những góc vuông. Loren quen biết ta từ hồi học tiểu học và vẫn thể xóa bỏ hình ảnh ấy ra khỏi đầu mình, hình ảnh về diện mạo của ta hồi đó. Đó là điều xảy ra với những đứa trẻ lớn lên cùng bạn. Bạn luôn nhìn thấy họ như khi còn học lớp hai.

      Loren nhìn ta ngập ngừng khi ta bước vào, chắc phải chào như thế nào - cái hôn vào má hay cái bắt tay có tính nghề nghiệp hơn. giành lấy thế chủ động, kéo ta về phía mình và hôn lên má. Họ ở trong phòng thẩm vấn, và cùng nhắm vào ghế người thẩm vấn. Banner dừng lại, giơ cả hai tay lên, ngồi xuống đối diện với .

      “Có lẽ nên đọc cho tôi nghe các quyền Miranda chứ nhỉ?”

      “Tôi đợi cho đến khi tôi có đủ điều kiện để bắt giữ . Thế có gì về Katie Rochester rồi?”

      giờ tán dóc, hả?”

      chỉ nhìn ta.

      “Thôi được, thôi được, vậy ta vào đề nhé. có biết phụ nữ tên là Claire Biel ?”

      .”

      ta sống ở Livingston,” Banner . “Có lẽ ta từng là Claire Garman lúc chúng ta còn bé.”

      “Vẫn .”

      “Dù sao ta cũng lớn tuổi hơn chúng ta. Có lẽ là bốn, năm tuổi gì đó.” ta nhún vai. “Tôi kiểm tra lại xem.”

      “Ừm,” Loren . “Làm ơn , Lance. Cứ giả như tôi là vợ và bỏ đoạn mào đầu nào.”

      “Tốt thôi, nó đây. ta gọi cho tôi sáng nay. Claire Biel ấy. Con ta ra ngoài đêm qua và vẫn chưa về nhà.”

      ta bao nhiêu tuổi?”

      ta vừa mới sang tuổi mười tám.”

      “Có dấu hiệu của vụ phạm tội ?”

      ta làm ra vẻ như thầm cân nhắc. Sau đó: “Chưa có.”

      “Vậy nên?”

      “Vậy nên bình thường chúng ta chờ đợi chút. Như điện thoại - mười tám, có dấu hiệu gì của bạo lực.”

      “Như với Katie Rochester.”

      “Đúng thế.”

      “Nhưng?”

      “Tôi có biết bố mẹ ta chút ít. Claire từng học cùng trường với trai tôi. Họ sống cạnh nhà nhau. Họ có liên quan, tất nhiên. Nhưng ngoài mặt, chà, ta nghĩ là con bé chỉ chơi bời tí chút thôi. Nó vừa mới được nhận vào đại học hôm vừa rồi. Trúng tuyển vào Duke. Nguyện vọng thứ nhất của nó. Con bé ra ngoài tiệc tùng với bạn bè. biết tôi gì mà.”

      “Tôi biết.”

      “Nhưng tôi đoán là, kiểm tra có hại gì chứ, phải ? Vì thế tôi làm việc dễ nhất. Chỉ để làm hài lòng hai vị phụ huynh là con họ - à mà tên ta là Aimee - rằng Aimee vẫn ổn.”

      “Vậy làm gì?”

      “Tôi lần theo số thẻ tín dụng của bé, xem xem liệu Aimee có rút tiền lần nào hay có dùng máy ATM .”

      “Và?”

      “Chắc chắn là có. ta rút ngàn đô, số tiền tối đa, từ máy ATM vào lúc hai giờ sáng.”

      lấy hình video từ nhà băng chưa?”

      “Tôi lấy rồi.”

      Loren biết chuyện này giờ chỉ cần làm trong vài giây. Bạn dùng cuốn băng cổ lỗ nữa. Những hình video là hình kỹ thuật số và có thể được gửi qua thư điện tử và tải xuống gần như ngay lập tức.

      “Đó là Aimee,” ta . “ còn nghi ngờ gì nữa. ta cố gắng giấu mặt hay gì gì đó.”

      sao?”

      đoán đó là kẻ bỏ trốn, phải ?”

      “Đúng vậy.”

      giả thuyết vững chắc,” ta tiếp. “ ta lấy tiền và sắp tiệc tùng tí, gì cũng được. Chơi tẹt ga khi kết thúc năm cuối cấp.” Banner nhìn lơ đễnh.

      “Tiếp , Lance. Vấn đề là gì thế?”

      “Katie Rochester.”

      “Bởi vì Katie cũng làm như thế ư? Dùng cái máy ATM trước khi biến mất ư?”

      ta lắc lư cái đầu trong điệu bộ có-khi-đúng, có-khi-. Đôi mắt ta vẫn nhìn xa xăm. “ chỉ là ta làm việc giống như Katie,” ta . “Mà là ta làm việc giống y hệt.”

      “Tôi chưa hiểu.”

      “Chiếc máy ATM Aimee Biel dùng được đặt ở Manhattan - cụ thể hơn” - giờ ta chậm lại – “là ở chi nhánh Citibank Phố số Năm hai và Đại lộ số Sáu.”

      Loren cảm thấy cơn ớn lạnh nhói lên ở gáy và chạy dọc xuống lưng.

      Banner , “Đó chính là chiếc máy Katie Rochester dùng, phải ?”

      gật đầu và sau đó câu thực ngu ngốc: “Có thể là trùng hợp ngẫu nhiên.”

      “Có thể,” ta tán thành.

      có gì nữa ?”

      “Chúng tôi mới bắt đầu thôi, nhưng chúng tôi ghi lại nhật ký cuộc gọi điện thoại di động của ta.”

      “Và?”

      ta gọi cuộc ngay sau khi rút tiền.”

      “Cho ai?”

      Lance Banner ngả người ra sau và bắt tréo chân. “ còn nhớ chàng hơn chúng ta vài tuổi - ngôi sao bóng rổ lừng danh tên Myron Bolitar ?”

    3. vulinh

      vulinh Well-Known Member

      Bài viết:
      20,019
      Được thích:
      24,221
      Chương 13


      Dưới Miami, Myron ăn tối với Rex Storton, khách hàng mới, tại nhà hàng cực lớn mà Rex chọn vì có rất nhiều người qua lại. Nhà hàng này là mắt xích của những chuỗi nhà hàng giống Bennigans hay TGI Fridays hay thứ gì đó vừa phổ biến lại vừa kinh khủng.

      Storton là nam diễn viên có tuổi, từng là siêu sao thời, tìm kiếm vai diễn trong phim độc lập có thể đưa ông ta ra khỏi Nhà hàng kiêm sân khấu Loni Anderson ở Miami và trở lại nấc thang cao hơn tại Xứ sở Kỳ diệu(25). Rex xúng xính trong chiếc áo polo hồng với cái cổ dựng đứng, chiếc quần trắng mà người đàn ông ở tuổi ông ta rất nên dính dáng làm gì, và chỏm tóc giả màu xám trông chỉ đẹp khi nào bạn ngồi trực diện với nó qua cái bàn.

      Trong nhiều năm trời Myron chỉ làm đại diện cho những vận động viên nhà nghề. Tới khi trong những cầu thủ bóng rổ của muốn rẽ ngang sang đóng phim, Myron bắt đầu gặp gỡ giới diễn viên. nhánh kinh doanh mới bắt rễ, và giờ hầu như chỉ chuyên giao dịch với các khách hàng ở Hollywood, bỏ lại công việc quản lý mảng thể thao cho Esperanza.

      Điều đó kỳ lạ. Bản thân là vận động viên, người ta nghĩ rằng Myron ưa quan hệ với những người cùng ngành nghề với mình hơn. lại thế. thích các diễn viên hơn. Hầu hết các vận động viên đều được tuyển chọn ngay, ở độ tuổi khá trẻ, và được đưa lên vị trí ngang với thần thánh từ khi bắt đầu gặt hái thành công. Các vận động viên luôn nằm trong nhóm dẫn đầu ở trường. Họ được mời đến tất cả các bữa tiệc. Họ quơ được tất cả các nàng ngon lành nhất. Người lớn cưng nựng. Giáo viên để mặc họ sa ngã.

      Diễn viên lại khác. Rất nhiều người trong số họ khởi đầu ở phía đầu bên kia của dải quang phổ. Các vận động viên chiếm vị trí thống soái ở hầu hết các thị trấn. Các diễn viên thường là những đứa trẻ thể vào đội tuyển và phải tìm đến các hoạt động khác. Họ thường quá - bạn gặp diễn viên ngoài đời thực và nhận thấy rằng họ bé xíu bao giờ chưa? - hoặc cân đối. Vì vậy họ quay về với diễn xuất. Sau này, khi địa vị ngôi sao đến với họ, họ chưa quen được biệt đãi. Họ bị bất ngờ vì điều đó. Họ phần nào biết trân trọng hơn. Trong nhiều trường hợp – , phải tất cả - nó khiến họ khiêm tốn hơn những vận động viên bằng vai phải lứa với mình.

      Tất nhiên cũng có những nhân tố khác nữa. Người ta rằng các diễn viên lên sàn diễn để khỏa lấp khoảng trống mà chỉ có tiếng vỗ tay mới lấp nổi. Kể cả nếu đúng thế nữa, điều đó cũng khiến cho đám đào kép có phần thiết tha muốn làm hài lòng khán giả hơn. Trong khi các vận động viên quen với việc mọi người làm theo sách của mình và dần dà tin rằng đó là quyền của mình, diễn viên lại có được suy nghĩ ấy từ vị thế kém tự tin. Vận động viên cần phải chiến thắng. Họ cần phải đánh bại bạn. Các diễn viên chỉ cần tràng vỗ tay của bạn, nghĩa là công nhận của bạn.

      Nó làm cho họ dễ làm việc cùng hơn.

      Lại vơ đũa cả nắm rồi - rốt cuộc, Myron là vận động viên, và tự cho mình là khắt khe - nên cũng như tất cả những kiểu vơ đũa cả nắm khác, điều này có chút vấn đề.

      cho Rex biết vai diễn trong bộ phim độc lập, để định giá cuộc mua bán ấy mà, đó là “ tay trộm xe hơi già khú đế, thích mặc đồ phụ nữ, nhưng có trái tim.” Rex gật đầu. Ông ta cứ đảo mắt khắp căn phòng, như thể họ dự bữa tiệc cocktail và ông ta đợi người quan trọng hơn bước vào vậy. Rex luôn để ý phía cửa ra vào. Diễn viên là thế đấy. Myron từng làm đại diện cho gã nổi tiếng thế giới về khoản ghét cay ghét đắng báo chí. ta choảng nhau với cánh thợ chụp ảnh. ta kiện mấy tờ báo khổ . ta đòi được riêng tư. Ấy vậy mà lần nào Myron ăn tối với ta, tay diễn viên đó cũng luôn chọn chỗ ở chính giữa căn phòng, đối diện với cửa, và cứ khi nào có ai đó bước vào, ta đều nhìn lên, chỉ trong giây thôi, chỉ để chắc chắn rằng ta được nhận ra.

      Đôi mắt vẫn đảo liên tục, Rex , “Rồi, rồi, tôi hiểu rồi. Tôi có phải mặc váy đấy?”

      “Có, trong vài cảnh.”

      “Tôi từng làm thế rồi.”

      Myron nhướng bên mày.

      “Vì công việc, ý tôi là thế. Đừng có nghĩ bậy bạ. Mà mặc rất trang nhã là đằng khác. Váy xống vốn dĩ là đồ trang nhã mà.”

      “Vậy , sao cơ, có cái gì khoét cổ sâu à?”

      “Hài hước lắm, Myron. đúng là tay hóm . Mà này, tôi có phải diễn thử đấy?”

      “Có.”

      “Vì Chúa, tôi làm tám mươi bộ phim rồi đấy.”

      “Tôi biết, Rex.”

      thể xem trong số mấy phim đó sao?”

      Myron nhún vai. “Đó là những gì ta .”

      thích kịch bản chứ?”

      “Tôi thích, Rex ạ.”

      “Tay đạo diễn bao nhiêu tuổi rồi?”

      “Hăm hai.”

      “Lạy Chúa. Lúc ra đời tôi hết thời rồi còn gì.”

      “Họ chi tiền cho chuyến bay đến L.A(26).”

      “Hạng nhất chứ?”

      “Hạng bét, nhưng tôi nghĩ tôi có thể cho ông lên hạng thương gia.”

      “A, tôi đùa với ai đây? Nếu đúng như vai diễn tôi ngồi cánh mà chỉ mặc độc cái quần lót nữ ấy chứ.”

      “Đúng tinh thần rồi đấy.”

      bà mẹ và con bước tới xin Rex chữ ký. Ông ta mỉm cười đầy hãnh diện và ưỡn ngực lên. Ông ta nhìn người ràng là bà mẹ và , “Hai người là chị em phải ?”

      Bà ta cười khúc khích khi khỏi.

      “Lại khách hàng vui tính nữa,” Myron .

      “Rất mong được làm vừa lòng quý vị.”

      nàng tóc vàng đẫy đà qua xin chữ ký. Rex hôn ta hơi mạnh chút. Sau khi ngúng nguẩy bỏ , Rex mới giơ mảnh giấy lên.

      “Xem này.”

      “Cái gì thế?”

      “Số điện thoại của nàng.”

      “Kinh .”

      “Tôi có thể gì đây, Myron. Tôi phụ nữ.”

      Myron ngước lên và nhìn sang phía bên phải của ông ta.

      “Sao thế?”

      “Tôi chỉ tự hỏi,” Myron , “giấy phân chia tài sản trước khi cưới của ông có hiệu lực đến mức nào.”

      “Hài hước lắm.”

      Họ ăn ít thịt gà trong cái chảo rán điện. Có khi đó là thịt bò hay tôm cũng nên. khi được rán trong chảo điện, tất cả đều có vị giống nhau hết. Myron có thể cảm thấy cặp mắt của Rex nhìn mình chăm chú.

      “Sao thế?” Myron hỏi.

      “Có lẽ rất khó để thừa nhận điều này,” Rex , “nhưng tôi chỉ tồn tại khi tôi đứng dưới ánh đèn chiếu. Tôi có ba bà vợ và bốn đứa con. Tôi tất cả bọn họ. Tôi thích những lúc được ở bên họ. Nhưng thời gian duy nhất tôi cảm thấy thực là mình là lúc tôi đứng dưới ánh đèn chiếu.”

      Myron gì.

      “Chuyện đó nghe có lâm ly quá đối với ?”

      Myron nhún vai.

      có biết còn gì nữa ?”

      “Sao?”

      “Trong sâu thẳm trái tim mình, tôi nghĩ đa phần mọi người đều như vậy cả. Họ thèm khát nổi tiếng. Họ muốn mọi người nhận ra mình và níu chân mình lại đường phố. Người ta đó là chuyện mới, mấy cái trò truyền hình thực tế vớ vẩn ấy. Nhưng tôi nghĩ nó cũng khác gì.”

      Myron ngắm nghía đĩa thức ăn đáng thương của ông ta.

      có nghĩ thế ?”

      “Tôi biết, Rex.”

      “Đối với tôi, ánh đèn chiếu mờ chút, hiểu tôi ? Nó phai nhạt dần từng tí . Tôi may mắn. Nhưng tôi từng gặp vài người chỉ tỏa sáng lần. Trời ơi, họ chẳng bao giờ được hạnh phúc cả. lần nào nữa. Còn tôi, tiếng tăm phai nhạt dần, tôi có thể tập quen với nó. Và ngay cả bây giờ, mọi người vẫn còn nhận ra tôi. Đó là lý do tại sao tôi ăn ngoài phố mỗi đêm. Phải, chuyện đó ra nghe phát tởm, nhưng đó là . Và ngay cả bây giờ, khi tôi ở tuổi thất thập rồi, tôi vẫn mơ về ngày leo trở lại được cái chỗ ánh đèn chiếu rực rỡ nhất ấy. hiểu tôi ?”

      “Tôi hiểu,” Myron . “Đó là lý do tại sao tôi quý ông.”

      “Tại sao vậy?”

      “Ông thành về chuyện đó. Đa số các diễn viên đều bảo tôi đó chỉ là vì công việc.”

      Rex xì tiếng. “ là dớ dẩn. Nhưng đó phải lỗi của họ, Myron ạ. nổi tiếng là thứ ma tuý. Loại nặng nhất. nghiện nó, nhưng lại muốn thừa nhận.” Rex cười với nụ cười lấp lánh từng làm tan chảy trái tim bao . “Thế còn sao, Myron?”

      “Tôi á?”

      “Như tôi ấy, có cái ánh đèn chiếu kiểu này, phải ? Đối với tôi nó phai nhạt. Nhưng đối với , cầu thủ bóng rổ số trong trường đại học cả nước, đường tiến lên nghiệp nhà nghề rực rỡ...”

      Myron chờ đợi.

      “... và rồi, tách” - Rex búng ngón tay - “ánh đèn vụt tắt. Khi mới chỉ, bao nhiêu nhỉ, hăm mốt, hăm hai à?”

      “Hăm hai,” Myron .

      “Vậy đối mặt với nó ra sao? Mà tôi cũng quý đó, cưng ạ. Nên cho tôi biết .”

      Myron bắt tréo chân. cảm thấy mặt mình đỏ ửng. “Ông có thích show trình diễn mới ?”

      “Sao, ở cái nhà hàng kiêm rạp hát ấy hả?”

      “Phải.”

      đúng là như cứt chó ấy. Nó còn tệ hơn cả trò thoát y Tuyến 17 ở Lodi, New Jersey nữa kia.”

      “Và ông nhận ra điều đó dựa kinh nghiệm cá nhân hả?”

      “Đừng có cố chuyển đề tài nữa . đối mặt với nó ra sao?”

      Myron thở dài. “Hầu hết mọi người rằng tôi xử lý vụ đó tốt khiếp được.”

      Rex ngửa lòng bàn tay lên và ngoắc ngoắc mấy ngón tay lại như muốn , Tiếp , tiếp .

      “Chính xác ông muốn biết cái gì nào?”

      Rex ngẫm nghĩ về điều đó. “Trước tiên làm gì?”

      “Sau vụ chấn thương ấy hả?”

      “Phải.”

      “Điều trị. Điều trị rất nhiều”

      “Và khi nhận ra những tháng ngày chơi bóng rổ của mình chấm dứt...?”

      “Tôi trở lại trường luật.”

      “Ở đâu?”

      “Harvard.”

      “Rất ấn tượng. Vậy là vào trường luật. Rồi sao?”

      “Ông biết đấy, Rex. Tôi nhận tấm bằng luật học(27), thành lập công ty môi giới thể thao, phát triển thành công ty môi giới đủ loại đại diện cho cả các diễn viên và nhà văn nữa.” nhún vai.

      “Myron?”

      “Sao?”

      “Tôi muốn biết cơ.”

      Myron nhấc dĩa lên, cắn miếng, nhai chậm chạp. “Những ánh đèn chỉ vụt tắt, Rex ạ. Tôi mất điện hoàn toàn. Tắt lịm suốt đời.”

      “Tôi hiểu.”

      “Vì thế tôi cần phải vượt qua nó.”

      “Và?”

      “Và thế thôi.”

      Rex lắc đầu và mỉm cười.

      “Sao thế?”

      “Lần sau,” Rex . Ông ta nhấc dĩa của mình lên. “Lần sau kể cho tôi nghe vậy.”

      “Ông đúng là cái nhọt ở mông.”

      “Nhưng quý tôi cơ mà, nhớ ?”

      Đến khi họ ăn uống xong, muộn. Uống mừng đêm thứ hai liên tiếp. Myron Bolitar, kẻ nát rượu trong đám những ngôi sao. phải biết chắc rằng Rex về tới căn hộ của ông ta an toàn trước khi quay lại khu nhà của bố mẹ . cái chìa khóa. nhàng lẻn vào để làm mẹ và bố thức giấc. biết rằng việc đó chẳng có tác dụng gì cả.

      Tivi vẫn mở. Bố ngồi trong phòng khách. Khi Myron bước vào, bố làm như vừa mới tỉnh dậy. Thực ra phải thế. Ông vẫn luôn thức cho tới khi Myron về đến nhà. Bất kể Myron về giờ nào. Bất kể việc Myron giờ sống đến thập kỷ thứ tư của cuộc đời mình.

      Myron đến phía sau chiếc ghế ông ngồi. Bố quay lại và mỉm cười với , nụ cười ông chỉ dành cho Myron, nụ cười với Myron rằng là tác phẩm vĩ đại duy nhất trong mắt người đàn ông này và có thể nào bạn lay chuyển nổi điều đó?

      “Vui con?”

      “Rex là tay khá hay,” Myron .

      “Trước đây bố khá mê phim của ông ta.” Bố gật đầu tới mấy lần. “Ngồi xuống đây lát nào.”

      “Gì vậy bố?”

      “Cứ ngồi xuống , được chứ?”

      ngồi xuống. Myron khoanh hai tay lại và đặt lên lòng mình. Như hồi tám tuổi. “Chuyện về mẹ à?”

      .”

      “Bệnh Parkinson của mẹ ngày càng nặng thêm.”

      “Bệnh Parkinson là thế mà, Myron. Nó cứ nặng dần lên.”

      “Con có làm gì được ?”

      .”

      “Con nghĩ con nên gì đó, chí ít là thế.”

      “Đừng. Thế tốt hơn. Thế con định là mẹ con biết trước chắc?”

      Giờ đến lượt Myron gật tới mấy lần. “Thế bố muốn chuyện gì?”

      có gì. Ý bố là, mẹ con muốn chúng ta có cuộc tâm tình.”

      “Về cái gì?”

      “Tờ New York Times số ra hôm nay.”

      “Sao ạ?”

      “Có thứ trong đó. Mẹ con nghĩ con buồn và cho rằng chúng ta nên chuyện. Nhưng bố nghĩ bố làm thế. Bố nghĩ thay vì thế bố đưa con tờ báo để con tự đọc và cho con được ngồi mình lát. Nếu con muốn chuyện, con qua gọi bố, được chứ? Nếu , bố cho con được riêng tư.”

      Myron cau mày. “Thứ gì đó trong tờ New York Times ư?”

      “Mục Phong cách Chủ nhật.” Bố đứng dậy và hất hàm về phía đống báo Chủ nhật. “Trang mười sáu. Chúc ngủ ngon, Myron.”

      “Chúc bố ngủ ngon.”

      Bố xuống sảnh. cần phải rón rén. Mẹ có thể ngủ giữa buổi hoà nhạc của Judas Priest(28-). Bố là người gác đêm, mẹ là công chúa say ngủ. Myron đứng dậy. chọn mục Phong cách Chủ nhật, giở sang trang mười sáu, nhìn thấy bức hình và cảm thấy mũi dao xiên thẳng vào tim mình.

      Trang Phong cách Chủ nhật của tờ New York Times là mục lá cải về giới thượng lưu. Và những trang được đọc nhiều nhất là những trang có thông báo đám cưới. Và ở đó, trang mười sáu, ở góc trái phía , là tấm hình của gã đàn ông bảnh chọe kiểu chàng búp bê Ken(29) và hàm răng quá hoàn hảo để có thể bị che . có cái cằm chẻ của nghị sĩ Đảng Cộng hòa và tên là Stone Norman. Bài báo viết rằng Stone quản lý và điều hành Tập đoàn Đầu tư BMV, công ty tài chính rất thành công chuyên về hoạt động kinh doanh của các ngành chủ chốt.

      Ngáp.

      Bản thông báo kết hôn viết rằng Stone Norman và vợ sắp cưới của kết hôn vào thứ Bảy tới tại nhà hàng Tavern on the Green ở Manhattan. linh mục chủ trì buổi lễ. Sau đó tân lang và tân nương bắt đầu chung sống ở Scarsdale, New York.

      Ngáp nữa. Stone Snore(30).

      Nhưng trong số đó có gì xuyên thủng tim . , cái gây ra điều ấy, cái thực gây đau đớn và khiến đầu gối muốn sụm xuống, là người đàn bà mà chàng Stone thân mến sắp cưới kia, người cười với trong tấm hình đó, nụ cười Myron vẫn biết quá .

      Trong giây lát, Myron chỉ chằm chằm nhìn bức ảnh. giơ tay và di di ngón tay chỗ khuôn mặt của dâu tương lai. Đoạn tiểu sử có rằng cây bút ăn khách hàng đầu, từng được đề cử cả hai giải PEN/Faulkner và Giải thưởng Sách Quốc gia. Tên là Jessica Culver, và mặc dù bài báo , nhưng là tình của cuộc đời Myron trong hơn thập kỷ.

      chỉ ngồi và nhìn chằm chằm.

      Jessica, người phụ nữ từng tin chắc chính là người tri kỷ của lòng mình, sắp lấy kẻ khác.

      gặp kể từ ngày họ chia tay nhau bảy năm về trước. Cuộc đời đối với vẫn tiếp tục. Đương nhiên, với cũng vậy. Sao lại phải ngạc nhiên?

      đặt tờ báo xuống, rồi lại nhấc nó lên. Myron cầu hôn Jessica từ cái thuở nảo thuở nào rồi. từ chối. Mười năm tiếp theo, họ sống với nhau rồi lại chia tay, cứ thế. Nhưng cuối cùng Myron muốn kết hôn, còn Jessica . gần như nhạo báng tất tật cái tư tưởng trưởng giả về hôn nhân - vùng ngoại ô, hàng rào gỗ, lũ trẻ con, những bữa tiệc thịt nướng ngoài trời, những trò chơi tập thể nho , cuộc sống mà bố mẹ Myron sống.

      Ngoại trừ việc giờ đây Jessica sắp sửa cưới gã Stone Norman tự phụ và chuyển xuống sống ở khu ngoại ô chúa nhất vùng Scarsdale ở New York.

      Myron cẩn thận gấp tờ báo lại và đặt nó lên bàn uống nước. đứng lên, thở dài tiếng và ra hành lang. tắt hết đèn khi ra. qua phòng ngủ của bố mẹ. Cây đèn bàn vẫn sáng. Bố vờ ho hắng để cho Myron biết ông còn thức.

      “Con ổn,” to.

      Bố đáp, và Myron thấy dễ chịu. Người đàn ông này giống như nghệ sĩ sợi dây mảnh, thực kỳ tích gần như bất khả thi, đó là cho thấy ông có quan tâm mà cần phải can thiệp hay xía vào.

      Jessica Culver, tình của đời , người đàn bà luôn luôn tin tưởng là người tri kỷ định mệnh của mình, sắp kết hôn.

      Myron muốn ngủ để quên chuyện đó. Nhưng giấc ngủ đến.

    4. vulinh

      vulinh Well-Known Member

      Bài viết:
      20,019
      Được thích:
      24,221
      Chương 14

      đến lúc chuyện với bố mẹ của Aimee Biel. Lúc đó là sáu giờ sáng. sàn nhà, điều tra viên cấp hạt Loren Muse ngồi bắt tréo chân. mặc quần soóc, và tấm thảm lông nhân tạo làm chân ngứa ngáy. Các hồ sơ và báo cáo của cảnh sát trải ra khắp nơi. Ở giữa là tờ thời gian biểu vừa làm.
      Tiếng ngáy khò khè vọng ra từ căn phòng khác. Loren sống mình trong chính căn hộ nhếch nhác này hơn thập kỷ. Người ta gọi chúng là các căn hộ “vườn”, mặc dù thứ duy nhất có vẻ sinh trưởng là viên gạch đỏ đơn điệu. Đó là những kết cấu vững chãi có dáng dấp của các phòng giam, của các trạm dừng chân dành cho những người ngược về xuôi, hoặc cho những người, rất ít thôi, bị kẹt lại trong loại luyện ngục cá nhân cho người sống.
      Tiếng ngáy phải là của gã nhân tình. Loren cũng có gã - kẻ chẳng ra gì tên Pete - nhưng mẹ , người từng lấy chồng nhiều lần, từng rất khêu gợi, giờ trở thành Carmen Valos Muse Brewster Gì Cũng Được nhẽo nhèo chán ngấy bọn đàn ông cho nên đến ở cùng với . Tiếng ngáy của bà ta lọc xọc đờm dãi của kẻ hút thuốc lâu năm, kết hợp với hơi nhiều năm nốc rượu rẻ tiền và hát hò tục tĩu.
      Vụn bánh quy giăng giãi khắp quầy bếp. lọ bơ lạc mở tênh hênh, con dao thòi ra như thanh kiếm Excalibur(31), cắm ở giữa như cái tháp canh. Loren nghiên cứu nhật ký cuộc gọi, những lần rút tiền bằng thẻ tín dụng, các báo cáo của E-Zpass(32). Chúng vẽ ra bức tranh khá thú vị.
      Được rồi, Loren nghĩ, thử phác ra mấy nét chính xem nào.
      1:56 sáng: Aimee Biel sử dụng chiếc máy ATM của Citibank ở Phố Năm mốt - chính là chiếc máy được Katie Rochester sử dụng ba tháng trước. Quái lạ.
      2:16 sáng: Aimee Biel gọi cuộc đến căn hộ ở Livingston của Myron Bolitar. Cuộc gọi chỉ kéo dài vài giây.
      2:17 sáng: Aimee Biel gọi cuộc đến chiếc điện thoại di động được đăng ký tên của Myron Bolitar. Cuộc gọi kéo dài ba phút.
      Loren gật đầu với chính mình. Xem ra có vẻ lôgic là Aimee Biel đầu tiên thử gọi về nhà Bolitar và khi ta trả lời - điều đó có thể giải thích cho chóng vánh của cuộc gọi thứ nhất - gọi đến máy di động của ta.
      Quay lại nào:
      2:21 sáng: Myron Bolitar gọi cho Aimee Biel. Cuộc gọi này kéo dài phút.
      Từ những gì họ có thể tìm hiểu được, Bolitar thường sống ở Thành phố New York tại căn hộ Dakota của người bạn tên là Windsor Horne Lockwood III. Lockwood vẫn được cảnh sát biết tiếng; mặc dù được hưởng nền giáo dục Dòng dõi Chính thống, sang trọng, nhưng ta lại là đối tượng tình nghi của số vụ hành hung và, phải, thậm chí cả vài vụ giết người. Gã này nổi danh là điên rồ nhất mà Loren từng biết. Nhưng, lần nữa, chuyện đó hình như mấy liên quan đến vụ này.
      Vấn đề ở đây là, Bolitar có thể ở lại căn hộ của Lockwood ở Manhattan. ta để xe ở bãi xe gần đó. Theo người phục vụ đêm Bolitar lấy xe ra ngoài tầm khoảng 2:30 sáng.
      Họ vẫn chưa có bằng chứng nào, nhưng Loren khá chắc là Bolitar đến trung tâm thành phố và đón Aimee Biel. Họ tìm cách thu thập các hình video theo dõi của các cửa hàng lân cận. Có lẽ chiếc xe của Bolitar xuất trong số đó. Nhưng tính đến giờ, đó có lẽ là kết luận khá hợp lý.
      Chi tiết có thêm từ trục thời gian:
      3:11 sáng: Có vụ rút tiền qua thẻ tín dụng tài khoản Visa của Bolitar từ trạm xăng Exxon Tuyến 4 ở Fort Lee, New Jersey, ngay dưới chân Cầu Goerge Washington.
      3:55 sáng: E-ZPass xe của Bolitar cho thấy ta lên hướng Nam theo Đại lộ Garden State, trả các khoản phí cầu đường thuộc Hạt Bergen.
      4:08 sáng: E-Zpass ghi lại các khoản phí cầu đường thuộc Hạt Essex, cho thấy Bolitar vẫn lên hướng Nam.
      Đó là các thông tin về phí cầu đường. ta có thể theo Lối 145, con đường dẫn ta đến căn nhà của mình tại Livingston. Loren vẽ lộ trình ra. hợp lý chút nào. Bạn qua Cầu George Washington và sau đó lại xuống đại lộ. Và kể cả có làm thế nữa, cũng mất đến bốn mươi phút để đến được trạm thu phí Bergen. Cùng lắm chỉ mất, vào giờ đấy ban đêm, hai mươi phút.
      Vậy Bolitar đâu?
      quay lại với trục thời gian của mình. Có khoảng trống dài hơn ba giờ đồng hồ, nhưng vào lúc 7:18 sáng, Myron Bolitar gọi cuộc tới điện thoại di động của Aimee Biel. ai trả lời. ta thử gọi thêm hai lần nữa cũng vào buổi sáng hôm đó. ai trả lời. Hôm qua ta gọi về số nhà của gia đình Biel. Đó là cuộc gọi duy nhất kéo dài hơn vài giây. Loren tự hỏi có phải ta chuyện với bố mẹ .
      nhấc điện thoại lên và nhấn số Lance Banner.
      “Sao thế?” ông ta hỏi.
      cho bố mẹ Aimee biết về Bolitar chưa?”
      “Chưa.”
      “Tôi nghĩ,” Loren , “có lẽ bây giờ là lúc rồi đấy.”
      Myron có thói quen mới vào buổi sáng. Việc đầu tiên làm là vồ lấy tờ báo và kiểm tra tình hình thương vong chiến tranh. nhìn những cái tên. Tất cả. xem để chắc rằng Jeremy Downing được liệt kê. Sau đó quay trở lại và dành thời gian đọc lại từng cái tên từ tốn. đọc phần cấp bậc, quê quán và tuổi. Đó là tất cả những gì họ đưa ra. Nhưng Myron hình dung thấy mỗi đứa trẻ được báo tử là Jeremy khác, giống như đứa trẻ mười-chín-tuổi xuất sắc sống dưới khu phố nhà bạn, bởi vì, nghe đơn giản, chúng chính là những đứa trẻ đó. Chỉ trong vài phút Myron tưởng tượng được cái chết ấy có nghĩa gì, cái cuộc đời tươi trẻ, đầy hoài bão, đầy ước mơ ấy mất mãi mãi, những người làm cha làm mẹ phải nghĩ gì đây.
      mong rằng những vị lãnh đạo làm điều gì đó tương tự. Nhưng nghi ngờ điều đó.
      Điện thoại di động của Myron reo vang. kiểm tra số người gọi. Nó báo MÔNG NGON. Đó là số điện thoại của Win có trong danh bạ. Myron bật máy lên và alô.
      rào đón gì hết, Win luôn, “Chuyến bay của cậu đáp lúc giờ chiều.”
      “Giờ cậu làm cho hãng hàng đấy hả?”
      “Làm cho hãng hàng ,” Win nhắc lại. “Hay đấy.”
      “Vậy sao?”
      “Làm cho hãng hàng ,” Win lại. “Đợi chút, cứ để tớ thưởng thức câu ấy lát nào. Làm cho hãng hàng . Vui .”
      “Cậu xong chưa?”
      “Chờ nhé, cho tớ lấy cái bút để còn viết lại câu ấy nữa chứ. Làm. Cho. Hãng. Hàng .”
      Win.
      “Giờ cậu xong chưa?”
      “Để tớ thử lại nhé: Chuyến bay của cậu đáp lúc giờ. Tớ gặp cậu ở sân bay. Tớ có hai vé xem trận đấu của đội Knicks. Chúng ta ngồi ở dưới sân, có lẽ là cạnh Paris Hilton hoặc Kevin Bacon. Cá nhân tớ khoái Kevin hơn.”
      “Cậu thích đội Knicks cơ mà,” Myron .
      “Đúng.”
      “Thực ra, cậu thích xem bóng rổ. Vậy tại sao...?” Myron chợt hiểu ra. “Chết tiệt.”
      Im lặng.
      “Cậu đọc Mục Phong cách từ hồi nào thế, Win?”
      giờ. Sân bay Newark. Gặp cậu sau.”
      Cạch.
      Myron gác máy và thể mỉm cười. Cái chàng Win này. Ngộ .
      xuống bếp. Bố dậy và làm bữa sáng. Ông gì về chuyện đính ước sắp tới của Jessica. Tuy nhiên, mẹ bật khỏi ghế, nhảy bổ đến chỗ , nhìn với ánh mắt khiến người ta phải nghĩ đến căn bệnh ở giai đoạn cuối, hỏi có sao . trấn an bà rằng vẫn ổn.
      “Con gặp Jessica trong bảy năm trời,” . “Chuyện đó chẳng có gì to tát đâu.”
      Bố mẹ cùng gật đầu theo cái cách cho thấy rằng họ chiều theo ý .
      Vài tiếng sau ra sân bay. hơi lăn tăn, nhưng cuối cùng thực bình tĩnh trước chuyện đó. Bảy năm. Họ chia tay được bảy năm. Và trong khi Jessica là người có ưu thế hơn trong phần lớn thời gian họ ở bên nhau, Myron mới chính là người cuối cùng đặt dấu chấm hết.
      Jessica là quá khứ. rút điện thoại di động ra và gọi cho Ali - người tại.
      ở sân bay Miami,” .
      “Chuyến của thế nào?”
      Nghe thấy giọng của Ali khiến lòng tràn ngập hơi ấm. “Tốt em ạ.”
      “Nhưng?”
      “Chả nhưng gì cả. muốn gặp em.”
      “Tầm hai giờ sao? Bọn trẻ ra ngoài hết, em hứa đấy.”
      “Em nghĩ gì trong đầu thế hả?” hỏi.
      “Từ ngữ chuyên môn là - đợi tí, để em tra từ điển đồng nghĩa của em - ‘ca trưa.’”
      “Ali Wilder, em đúng là phù thủy .”
      “Em vẫn thế mà.”
      thể đến lúc hai giờ được. Win đưa xem đội Knicks.”
      “Thế ngay sau khi xem xong sao?” nàng hỏi.
      “Trời ạ, ghét những lúc em làm căng lắm đấy.”
      “Em xem câu đó nghĩa là ừ rồi nhé.”
      “Gần gần như vậy.”
      ổn ?” nàng hỏi.
      ổn mà.”
      “Nghe có vẻ hơi ngồ ngộ.”
      cố để có vẻ ngộ mà.”
      “Thế đừng cố quá.”
      khoảnh khắc lúng túng. muốn với nàng rằng nàng. Nhưng thế là quá sớm. Hoặc có lẽ, với những gì biết được về Jessica, lựa chọn thời điểm là sai lầm. Bạn muốn điều gì như vậy ngay lần đầu tiên vì lý do đúng đắn.
      Vì thế, thay vào đó , “Người ta lên máy bay rồi.”
      “Gặp lại sau nhé, đẹp trai.”
      “Đợi , nếu đến đấy vào buổi tối, nó có còn là ‘ca trưa’ ? Chẳng phải nó là ‘ca tối’ hay sao?”
      thế dài dòng quá(33). Em muốn bỏ phí chút giờ nào cả.”
      “Còn về cái ghi chú kia...”
      cẩn thận nhé, đẹp trai.”
      Erik Biel ngồi mình chiếc ghế sofa trong khi vợ ta, Claire, chọn cái ghế tựa. Loren để ý thấy điều đó. Người ta nghĩ rằng cặp vợ chồng trong tình cảnh như thế này ngồi cạnh nhau, tìm nguồn an ủi từ phía người kia. Ở đây ngôn ngữ cơ thể khiến người ta phải nghĩ rằng cả hai người muốn càng cách xa nhau càng tốt. Có thể điều đó báo hiệu rạn nứt trong mối quan hệ. Hoặc có thể nó cho thấy là trải nghiệm này quá đau đớn đến nỗi ngay cả âu yếm - đặc biệt là âu yếm - cũng gây nhức nhối khủng khiếp.
      Claire Biel mời họ dùng trà. Thực ra Loren muốn uống, nhưng phát ra rằng đa số mọi người cảm thấy thoải mái nếu bạn cho phép họ điều khiển việc gì đó, bất cứ việc gì, nếu bạn cho phép họ làm việc gì đó bình thường nhặt hoặc việc trong nhà. Vì vậy đồng ý uống trà. Lance Banner, người vẫn đứng sau , từ chối.
      Lance để bắt đầu trước. Ông ta biết bọn họ. Điều đó có thể giúp ích cho việc đặt câu hỏi, nhưng đẩy cho quả bóng lăn. Loren nhấp ngụm trà. để im lặng bắt họ làm việc chút - bắt họ phải là người trước. số người cho thế là tàn nhẫn. phải, nếu nó giúp tìm ra Aimee. Nếu Aimee được tìm thấy bình an vô , nó sớm được quên . Nếu , nỗi bực dọc trước im lặng cũng chẳng là gì so với những gì họ phải chịu đựng sau đó.
      “Đây,” Erik Biel , “chúng tôi liệt kê danh sách các bạn bè thân của nó và số điện thoại của chúng. Chúng tôi gọi cho tất cả. Và bạn trai của nó, Randy Wolf. Chúng tôi cũng chuyện với cậu ta rồi.”
      Loren dành thời gian xem qua những cái tên.
      có chút tiến triển nào chưa?” Erik hỏi.
      Erik Biel là, Loren nghĩ, điển hình của cứng nhắc. Bà mẹ, Claire, chà, bạn có thể nhìn thấy lo lắng cho đứa con mất tích hằn lên mặt . ngủ. Trông ta nhếch nhác. Nhưng Erik, với cái áo sơ mi dài tay hồ bột, cà vạt và cái mặt mới cạo, hiểu sao trông có vẻ ảo não hơn. ta rất cố gắng để kiềm chế tới mức bạn chỉ biết rằng ở đây chỉ có cuộc xung đột nho . Khi nó vỡ bung ra, nó rất tồi tệ và có khi là dai dẳng.
      Loren đưa tờ giấy cho Lance Banner. quay lại và ngồi thẳng dậy. vẫn nhìn mặt Erik khi thả quả bom: “Có ai trong số hai người biết người đàn ông tên là Myron Bolitar ?”
      Erik cau mày. Loren chuyển hướng nhìn sang phía bà mẹ. Claire Biel trông như thể Loren vừa hỏi liệu có thể liếm toa-let nhà họ được .
      ấy là người bạn của gia đình,” Claire Biel . “Tôi biết ấy từ hồi học trung học.”
      “Ông ta có biết con ?”
      “Tất nhiên. Nhưng cái đó...”
      “Họ có mối quan hệ kiểu gì?”
      “Quan hệ?”
      “Phải. Con bà và Myron Bolitar. Họ có mối quan hệ kiểu gì?”
      Lần đầu tiên kể từ lúc họ bước vào ngôi nhà này, Claire chậm chạp quay sang và nhìn về phía ông chồng để trông chờ được chỉ dẫn. Erik cũng quay về phía vợ. Cả hai họ đều mang bộ mặt của người vừa bị táng vào bụng bằng cây gậy cỡ bự.
      Cuối cùng Erik cất lời. “ ám chỉ cái gì vậy?”
      “Tôi ám chỉ cái gì cả, ông Biel ạ. Tôi chỉ hỏi ông câu hỏi. Con ông biết Myron Bolitar đến đâu?”
      Claire: “Myron là người bạn của gia đình.”
      Erik: “ ấy viết cho Aimee lá thư tiến cử trong hồ sơ đăng ký vào đại học của con bé.”
      Claire gật đầu hăng hái. “Đúng. Như vậy.”
      “Như cái gì?”
      Họ đáp.
      Loren vẫn giọng đều đều. “Họ bao giờ gặp nhau chưa?”
      “Gặp nhau?”
      “Phải. Hoặc chuyện qua điện thoại. Hoặc có thể là qua email.” Sau đó Loren thêm vào: “Mà có mặt hai người ấy.”
      Loren nghĩ chuyện đó có thể xảy ra, nhưng cột sống của Erik thậm chí dựng thẳng hơn lên. “ cái quái gì thế?”
      Được rồi, Loren nghĩ. Họ biết. Đây phải là giả bộ. đến lúc chuyển hướng, kiểm tra độ thành của họ. “Lần cuối trong hai người chuyện với ông Bolitar là khi nào?”
      “Hôm qua,” Claire .
      “Lúc mấy giờ?”
      “Tôi chắc. Đầu giờ chiều, tôi nghĩ vậy.”
      “Bà gọi cho ông ta hay ông ta gọi cho bà?”
      ấy gọi đến đây,” Claire .
      Loren liếc nhìn Lance Banner. Ghi điểm cho bà mẹ. Điều đó khớp với danh sách cuộc gọi.
      “Ông ta muốn gì?”
      “Chúc mừng chúng tôi.”
      “Về cái gì?”
      “Aimee được nhận vào Duke.”
      “Còn gì nữa ?”
      ấy hỏi liệu ấy có thể chuyện với con bé được .”
      “Với Aimee hả?”
      “Phải. ấy muốn chúc mừng nó.”
      “Bà gì?”
      “Rằng con bé có ở nhà. Và sau đó tôi cảm ơn ấy vì viết thư tiến cử.”
      “Ông ta gì?”
      ấy ấy gọi lại cho con bé.”
      “Còn gì nữa ?”
      .”
      Loren ngồi im.
      Claire Biel , “ thể cho rằng Myron lại có liên can gì đến chuyện này.”
      Loren chỉ nhìn ta chằm chằm, thay vì im lặng, cho Claire cơ hội để tiếp. ta làm Loren thất vọng.
      phải biết ấy chứ,” Claire tiếp tục. “ ấy là người tốt. Tôi tin tưởng ấy bằng cả cuộc đời mình.”
      Loren gật đầu và rồi nhìn sang Erik. “Còn ông, ông Biel?”
      Đôi mắt của ta tập trung.
      Claire nhắc, “Erik?”
      “Tôi gặp Myron hôm qua,” .
      Loren ngồi thẳng dậy. “Ở đâu?”
      “Ở phòng tập thể dục của trường cấp hai.” Giọng của ta là nỗi nhức nhối ỉ. “Ở đó có chơi bóng rổ tập thể vào mỗi Chủ nhật.”
      “Lúc đó là mấy giờ?”
      “Bảy rưỡi. Có lẽ là tám giờ.”
      “Buổi sáng?”
      “Phải.”
      Loren liếc nhìn Lance. Ông ta gật đầu chậm rãi. Ông ta cũng hiểu được điều đó. Bolitar thể về nhà trước năm, sáu giờ sáng nhiều lắm. Vài giờ sau đó, lại chơi bóng rổ với bố của mất tích sao?
      “Ông có chơi cùng ông Bolitar vào mỗi sáng Chủ nhật ?”
      . Ý tôi là, ấy từng chơi chút ít. Nhưng ấy đến đó mấy tháng rồi.”
      “Ông có chuyện với ông ta ?”
      Erik gật đầu chậm chạp.
      “Đợi chút,” Claire . “Tôi muốn biết tại sao lại hỏi chúng tôi nhiều câu hỏi về Myron như vậy. ấy có liên can gì đến những chuyện này?”
      Loren tảng lờ ta, vẫn nhìn chằm chằm vào Erik Biel. “Hai người chuyện về cái gì?”
      “Aimee, tôi đoán vậy.”
      “Ông ta gì?”
      ấy cố gắng cho khéo.”
      Erik giải thích là Myron Bolitar đến chỗ ta và rằng họ bắt đầu chuyện về việc tập thể dục và dậy sớm và sau đó ta dần dần chuyển sang hỏi han về Aimee, về nơi ở, về việc bọn trẻ mới lớn thường trở nên phiền phức như thế nào. “Giọng của ấy rất lạ.”
      “Như thế nào?”
      ấy muốn biết con bé rắc rối như thế nào. Tôi nhớ là ấy hỏi Aimee có rầu rĩ , nó có lên mạng quá nhiều , những thứ kiểu như vậy. Tôi nhớ là cảm thấy chuyện đó hơi kỳ lạ.”
      “Trông ông ta ra sao?”
      “Kinh lắm.”
      “Mệt mỏi? cạo râu?”
      “Cả hai.”
      “Được rồi, thế là đủ rồi,” Claire Biel . “Chúng tôi có quyền được biết tại sao lại hỏi những câu hỏi này.”
      Loren ngước lên nhìn ta. “Bà là luật sư, phải , bà Biel?”
      “Đúng.”
      “Vậy hãy giúp tôi chuyện này: Trong luật có phần nào tôi phải cho bà biết bất cứ điều gì ?”
      Claire há miệng, rồi ngậm tăm. Thô bạo quá mức, Loren nghĩ, nhưng ta chơi trò cớm tốt/cớm xấu - nó chỉ dành cho tội phạm. Cả nhân chứng nữa. thích trò đó, nhưng nó lại cực kỳ hiệu quả.
      Loren quay lại nhìn Lance. Lance bắt được ám hiệu. Ông ta đưa nắm tay che miệng ho hắng. “Chúng tôi có vài thông tin kết nối Aimee với Myron Bolitar.”
      Mắt Claire nheo lại. “Thông tin kiểu gì?”
      “Đêm hôm kia, vào lúc hai giờ sáng, Aimee gọi cho ông ta. Đầu tiên là về nhà. Sau đó là vào máy di động của ông ta. Chúng tôi biết ông Bolitar sau đó lấy xe từ gara trong thành phố.” Lance tiếp tục giải thích về thời gian biểu. Khuôn mặt Claire biến sắc. Hai bàn tay Erik siết siết chặt thành nắm đấm.
      Khi Lance xong, khi họ vẫn còn quá sững sờ để có thể hỏi được câu nào có liên quan, Loren nghiêng người về phía trước. “Có thể nào quan hệ giữa Myron và Aimee vượt ra ngoài phạm vi bạn bè của gia đình ?”
      “Chắc chắn là ,” Claire .
      Erik nhắm mắt lại. “Claire...”
      “Gì nào?” ta ngắt lời. “ thể nào tin rằng Myron có liên quan đến...”
      “Nó gọi cho ta ngay trước khi...” ta nhún vai. “Tại sao Aimee lại gọi cho ta? Tại sao ta lại gì về chuyện đó khi gặp ta ở phòng tập thể dục?”
      “Em biết, nhưng cái ý nghĩ” - dừng lại, cắn móng tay - “đợi , thực tế là Myron hẹn hò với bạn của em. Ali Wilder. phụ nữ trưởng thành, cảm ơn cậu rất nhiều, Ali. bà góa đáng có hai con riêng. Cái ý nghĩ cho rằng Myron có thể...”
      Erik nhắm chặt mắt.
      Loren , “Ông Biel?”
      Giọng của ta yếu ớt. “Gần đây Aimee còn là nó nữa.”
      “Như thế nào?”
      Đôi mắt Erik vẫn nhắm nghiền. “Chúng tôi đều cho qua, nghĩ rằng đó chỉ là những chuyện bình thường của bọn trẻ mới lớn. Nhưng mấy tháng nay, con bé rất hay giấu giếm.”
      “Chuyện đó bình thường mà, Erik.” Claire .
      “Nó ngày càng tồi tệ hơn.”
      Claire lắc đầu. “ vẫn nghĩ nó là đứa con bé bỏng của . Tất cả chỉ có vậy thôi.”
      “Em biết là chỉ có thế mà, Claire.”
      , Erik. Em biết.”
      ta lại nhắm mắt lại.
      “Nó như thế nào, ông Biel?” Loren hỏi.
      “Hai tuần trước tôi cố gắng để xâm nhập vào máy tính của nó.”
      “Tại sao vậy?”
      “Vì tôi muốn đọc thư điện tử của nó.”
      vợ trừng mắt giận dữ nhìn ta, nhưng ta nhận thấy thế - hoặc có lẽ ta bận tâm. Loren dấn tới.
      “Vậy chuyện gì xảy ra?”
      “Con bé thay đổi mật khẩu. Tôi vào tiếp được.”
      “Bởi vì con bé muốn được riêng tư,” Claire . “ nghĩ chuyện đó là bất bình thường sao? Em có quyển nhật ký hồi em còn bé. Em khóa chặt nó với cái chìa khóa và vẫn còn giấu nó đây này. Thế sao nào?”
      Erik tiếp tục. “Tôi gọi cho công ty cung cấp dịch vụ Internet. Tôi là người trả hóa đơn và nắm account chủ. Vì vậy họ cho tôi biết mật khẩu mới. Sau đó tôi lên mạng và kiểm tra thư điện tử của nó.”
      “Và?”
      ta nhún vai. “Chúng còn. Tất cả. Con bé xóa từng cái .”
      “Con bé biết chõ mũi vào mà,” Claire . Giọng của ta pha trộn cả phẫn nộ lẫn bào chữa. “Con bé chỉ tự bảo vệ mình khỏi chuyện đó thôi.”
      Erik quay về phía ta. “Em có thực tin như vậy , Claire?”
      có thực tin là con bé lăng nhăng với Myron ?”
      Erik đáp.
      Claire quay trở lại về phía Loren và Lance. “ hỏi Myron về những cuộc gọi chưa?”
      “Chưa.”
      “Vậy chúng ta còn chờ gì nữa?” Claire lấy túi. “ thôi. ấy làm chuyện này.”
      “Ông ta ở Livingston,” Loren . “Thực ra, ông ta bay xuống Miami, lâu sau khi chơi bóng cùng chồng bà.”
      Claire định hỏi điều gì khác, nhưng ta ngưng lại. Lần đầu tiên, Loren có thể thấy ngờ vực len lỏi vào gương mặt ta. Loren quyết định tận dụng điều đó. đứng dậy.
      “Chúng tôi giữ liên lạc,” Loren .

    5. vulinh

      vulinh Well-Known Member

      Bài viết:
      20,019
      Được thích:
      24,221
      Chương 15


      Myron ngồi máy bay và nghĩ về người tình cũ của , Jessica.

      có nên mừng cho ?

      luôn cuồng nhiệt tới mức gây khó chịu. Mẹ và Esperanza thích . Bố , như người dẫn chương trình truyền hình đẳng cấp, giữ thái độ trung lập. Win ngáp dài. Trong mắt Win, phụ nữ hoặc gợi tình hoặc . Jessica dứt khoát là người gợi tình nhất rồi, nhưng sau đó... sao?

      Cánh phụ nữ cho rằng Myron bị mờ mắt bởi nhan sắc của Jessica. có khả năng viết lách tuyệt vời. còn hơn cả cuồng nhiệt rất nhiều. Nhưng họ khác nhau. Myron muốn sống như bố mẹ . Jessica chế nhạo cái thú điền viên vớ vẩn đấy. Đó là tình trạng căng thẳng thường trực vừa đẩy họ ra xa lại vừa kéo họ lại gần nhau.

      Giờ Jessica sắp kết hôn với chàng công tử bột nào đó ở Phố Wall tên Stone. Big Stone, Myron nghĩ. Rolling Stone. Stoner. Smokin’ Stone. Stone Man.

      Myron thấy ghét .

      Chuyện gì xảy ra với Jessica vậy?

      Bảy năm rồi, Myron. Quãng thời gian ấy đủ thay đổi cả con người.

      Nhưng lâu đến thế sao?

      Máy bay hạ cánh. kiểm tra điện thoại của mình trong khi máy bay chạy về bến đỗ. Có tin nhắn của Win:


      MÁY BAY CỦA CẬU VỪA HẠ CÁNH.

      LÀM ƠN ĐIỀN PHẦN NHẬN XÉT VUI CỦA CẬU VỀ VIỆC TỚ LÀM CHO HÃNG HÀNG NHÉ. TỚ ĐỢI NGOÀI VỈA HÈ Ở TẦNG DƯỚI.


      Máy bay chạy chậm dần khi tiến gần đến cửa. Cơ trưởng đề nghị mọi người ngồi yên tại chỗ vẫn thắt dây an toàn. Hầu hết mọi người phớt lờ cầu đó. Bạn có thể nghe thấy dây an toàn bật mở lách cách. Tại sao? Mọi người được thêm cái gì từ mấy giây thêm đấy? Có phải chỉ là chúng ta thích thách thức các luật lệ ?

      lần nữa lại cân nhắc việc gọi vào điện thoại di động của Aimee. Đó có thể là hành động vượt quá cho phép. cho cùng, có thể gọi bao nhiêu cuộc đây? Lời hứa rất ràng. đưa đến bất cứ nơi đâu. hỏi. cho bố mẹ biết. cũng hầu như lấy làm ngạc nhiên là sau vụ liều lĩnh như thế, Aimee muốn chuyện với trong vài ngày.

      bước xuống máy bay và tiến đến phía cửa ra nghe có ai đó gọi to, “Myron Bolitar?”

      quay ra. Có hai người, đàn ông và phụ nữ. Người phụ nữ là người gọi tên . ta nhắn, nhỉnh hơn mét rưỡi. Myron cao tới hơn mét chín. cao ngất ngưởng so với ta. ta dường như nao núng gì cả. Người đàn ông cùng mặc bộ quần áo kiểu quân đội. Ông ta trông cũng hơi quen quen.

      Người đàn ông giơ ra chiếc phù hiệu. Người phụ nữ .

      “Tôi là Điều tra viên Hạt Essex Loren Muse,” ta . “Đây là thanh tra cảnh sát Livingston Lance Banner.”

      “Banner,” Myron như máy. “Ông là trai của Buster?”

      Lance Banner gần như mỉm cười. “Phải.”

      chàng cừ lắm, Buster ấy. Tôi chơi bóng rổ với ta.”

      “Tôi nhớ.”

      ta thế nào rồi?”

      “Khỏe, cảm ơn .”

      Myron biết chuyện gì xảy ra, nhưng có kinh nghiệm với việc phải tuân thủ pháp luật. Do thói quen hơn là bất cứ điều gì khác, với lấy điện thoại di động của mình và nhấn nút. Đó là cách gọi nhanh. Nó gọi cho Win. Win nhấn nút tắt tiếng và lắng nghe. Đây là xảo thuật quen thuộc của họ, trò Myron dùng tới nhiều năm rồi, nhưng giờ đây đứng đó, với những nhân viên cảnh sát, lặp lại thói quen cũ.

      Từ những rắc rối với pháp luật trong quá khứ của , Myron học được vài chân lý cơ bản có thể được tổng kết lại như sau: bạn làm gì sai có nghĩa là bạn gặp rắc rối. Tốt nhất là xử lý chuyện này bằng kiến thức đó.

      “Chúng tôi muốn với chúng tôi,” Loren Muse .

      “Tôi có thể hỏi vụ này là về chuyện gì ?”

      “Chúng tôi làm mất nhiều thời gian đâu.”

      “Tôi có mấy vé xem đội Knicks.”

      “Chúng tôi cố gắng làm ảnh hưởng đến kế hoạch của .”

      “Dưới sân.” nhìn Lance Banner. “Hàng ghế dành cho người nổi tiếng.”

      từ chối cùng chúng tôi đấy à?”

      “Hai người bắt giữ tôi đấy à?”

      .”

      “Vậy trước khi tôi đồng ý cùng hai người, tôi muốn hai người cho tôi biết vụ này là về chuyện gì.”

      Lần này Loren Muse do dự nữa. “Là chuyện về Aimee Biel.”

      đòn đau. Lẽ ra phải biết nó xảy ra, nhưng biết. Myron loạng choạng lùi lại bước. “ ấy có sao ?”

      “Sao cùng chúng tôi?”

      “Tôi hỏi ...”

      “Tôi nghe thấy rồi, ông Bolitar ạ.” Giờ quay và rảo bước xuống phía cửa ra. “Sao cùng chúng tôi để chúng ta có thể bàn về chuyện này kỹ hơn?”

      Lance Banner cầm lái. Loren Muse ngồi ghế bên cạnh. Myron ngồi ở ghế sau.

      ấy có sao ?” Myron hỏi.

      Họ trả lời. bị giỡn mặt, Myron biết điều đó, nhưng bận tâm nhiều. muốn biết tin về Aimee. Còn lại đáng kể.

      với tôi , làm ơn đấy.”

      Lặng thinh.

      “Tôi gặp ấy đêm thứ Bảy. Hai người biết chuyện đó rồi, phải ?”

      Họ đáp. biết tại sao. Rất may cuốc xe rất ngắn. Điều đó giải thích được im lặng của họ. Họ muốn ghi lại lời thú nhận của . Có lẽ họ phải kiềm chế hết mình để ra điều gì, nhưng họ sớm đưa vào phòng thẩm vấn và ghi tất cả vào băng thôi.

      Họ lái xe vào gara và dẫn tới cái thang máy. Họ dừng lại ở tầng tám. Họ ở Newark, trụ sở hành chính của hạt. Myron từng đến đây. Họ đưa vào phòng thẩm vấn. có cái gương nào, vậy có nghĩa là cũng có kính nhìn thấy mặt. Điều đó có nghĩa là chiếc camera làm nhiệm vụ giám sát.

      “Tôi bị bắt giữ phải ?” hỏi.

      Loren Muse nghiêng đầu. “Điều gì khiến thế?”

      “Đừng chơi mấy trò đó với tôi nữa, Muse.”

      “Mời ngồi.”

      kiểm tra tí gì về tôi chưa? Gọi cho Jake Courter, cảnh sát trưởng ở Reston ấy. Ông ấy bảo đảm cho tôi. Có những người khác nữa.”

      “Lúc nào đó chúng tôi làm việc ấy.”

      “Chuyện gì xảy ra với Aimee Biel?”

      ngại nếu chúng tôi ghi hình chứ?” Loren Muse hỏi.

      .”

      có phiền nếu phải ký vào giấy từ bỏ ?”

      Đây là tờ giấy từ bỏ Sửa đổi lần thứ năm. Myron biết tốt hơn hết là nên ký - luật sư, vì Chúa - nhưng bỏ qua chuyện đó. Trái tim giáng thình thịch vào lồng ngực. Chuyện gì đó xảy ra với Aimee Biel. Chắc họ nghĩ biết điều gì đó hoặc có liên quan. Chuyện này tiếp tục và họ loại trừ nhanh chừng nào tốt cho Aimee chừng đấy.

      “Được thôi,” Myron . “Giờ chuyện gì xảy ra với Aimee vậy?”

      Loren Muse xòe tay ra. “Ai là có chuyện gì xảy ra với ta nào?”

      , Muse. Khi chuẩn bị tinh thần cho tôi ở sân bay. : ‘Là chuyện về Aimee Biel.’ Và bởi vì, dù tôi thích khoác lác, song tôi có năng lực suy luận đáng ngạc nhiên đấy, tôi suy luận là hai nhân viên cảnh sát chặn tôi lại và rằng đấy là chuyện về Aimee Biel bởi vì thỉnh thoảng bé có nổ bóng kẹo cao su ở trong lớp. , tôi suy luận rằng chắc hẳn có chuyện gì đó xảy ra với ấy. Đừng xa lánh tôi vì tôi có năng khiếu ấy chứ.”

      xong chưa?”

      xong. Bắt đầu cuộc thẩm vấn, thấy lo lắng.

      Loren Muse lấy ra chiếc bút. có sẵn quyển sổ tay bàn của . Lance Banner đứng và vẫn giữ im lặng. “Lần cuối cùng nhìn thấy Aimee Biel là khi nào?”

      biết rằng tốt hơn hết là hỏi chuyện gì xảy ra thêm lần nữa. Muse xử lý chuyện này theo cách của .

      “Đêm thứ Bảy.”

      “Lúc mấy giờ?”

      “Tôi đoán chừng giữa hai và ba giờ sáng.”

      “Vậy đó là sáng Chủ nhật hơn là đêm thứ Bảy phải ?”

      Myron ghìm câu trả lời mỉa mai lại. “Phải.”

      “Tôi biết rồi. Lần cuối nhìn thấy ấy là ở đâu?”

      “Ở Ridgewood, New Jersey.”

      ta ghi lại câu đó vào tờ giấy hợp lệ. “Địa chỉ?”

      “Tôi biết.”

      Cây bút của ta ngừng lại. “ biết?”

      “Đúng vậy. Lúc đó muộn. ấy chỉ đường cho tôi. Tôi chỉ theo thôi.”

      “Tôi hiểu.” ta ngồi trở lại và để cây bút rơi xuống. “Tại sao bắt đầu từ đầu nhỉ?”

      Cánh cửa phía sau họ bật mở. Tất cả mấy cái đầu cùng quay về phía cửa. Hester Crimstein ập vào như thể chính căn phòng thầm lời báng bổ và ta muốn gọi nó ra. Trong phút chốc ai nhúc nhích hay câu gì.

      Hester đợi nhịp, dang rộng cánh tay ra, bước chân phải lên phía trước và hét lên, “Ta-da!”

      Loren Muse nhướng bên chân mày lên. “Hester Crimstein?”

      “Mình biết nhau mà, phải cưng?”

      “Tôi nhận ra tivi.”

      “Tôi rất vui được ký tặng sau. Ngay bây giờ tôi muốn cái camera tắt và tôi muốn hai người” - Hester chỉ vào Lance Banner và Loren Muse - “ra khỏi đây, để tôi còn tán dóc với thân chủ của tôi nữa chứ.”

      Loren đứng lên. Họ mắt-đối-mắt, cả hai cùng cao xấp xỉ nhau. Hester có mái tóc uốn quăn. Loren cố gắng lườm át ta . Myron suýt tí nữa bật cười. Có người bảo luật sư ủy quyền lừng danh chuyên làm các vụ hình Hester Crimstein xảo quyệt như con rắn, nhưng đại đa số cho rằng thế là phỉ báng con rắn.

      “Chờ ,” Hester với Loren. “Chờ tí...”

      “Xin lỗi?”

      “Ngay bây giờ, tôi sắp đái ra quần đây. Vì sợ, ý tôi là thế. Chờ tí ...”

      Myron , “Hester...”

      “Im, này.” Hester trừng mắt với và chẹp-chẹp ầm cả lên. “Ký giấy từ bỏ và chuyện mà có luật sư bên cạnh. là cái loại đần độn gì thế hả?”

      phải luật sư của tôi.”

      “Im nào, này.”

      “Tôi đại diện cho chính mình đấy chứ.”

      biết câu ‘ người tự đại diện cho chính mình khách hàng của thằng ngốc’ chứ? Đổi ‘thằng ngốc’ thành ‘thằng đần độn liệt não trăm phần trăm’ .”

      Myron tự hỏi làm sao Hester đến đó nhanh như vậy, nhưng câu trả lời quá ràng. Win. Ngay khi Myron bấm điện thoại di động, ngay khi Win nghe thấy giọng của mấy ngài cớm, tìm Hester và bảo đến đó.

      Hester Crimstein là trong những luật sư bào chữa hàng đầu quốc gia. ta có show truyền hình cáp riêng gọi là Crimstein bàn về tội ác. Họ trở thành bạn khi Hester giúp Esperanza trong lần bị buộc tội giết người vài năm về trước.

      “Gượm .” Hester quay lại nhìn Loren và Lance. “Sao hai người còn xớ rớ ở đây hả?”

      Lance Banner bước bước dài lên phía trước. “ ta vừa phải là luật sư của ta.”

      lại tên , đẹp trai?”

      “Thanh tra cảnh sát Livingston Lance Banner.”

      “Lance,” ta . “Giống như trong cái mà tôi dùng để nặn nhọt ấy hả? Được rồi, Lance, đây là vài lời khuyên: Bước lên phía trước là hành động được đấy, rất oai vệ, nhưng cần phải ưỡn ngực thêm lên. Giữ cho giọng trầm xuống chút và thêm vào động tác quắc mắt nữa. Như thế này này: ‘Ê, bé con, vừa phải là luật sư của đấy.’ Thử xem.”

      Myron biết rằng Hester chịu bỏ dễ dàng như thế. cũng biết rằng có thể muốn . muốn hợp tác, tất nhiên, giải quyết xong chuyện này, nhưng cũng muốn biết việc quái quỷ gì xảy ra với Aimee.

      ấy là luật sư của tôi,” Myron . “Xin hãy cho chúng tôi phút.”

      Hester ném cho họ nụ cười khinh khỉnh thỏa mãn mà bạn biết rằng cả hai người bọn họ đều muốn tát lật mặt ta ngay. Họ quay ra cửa. Hester vẫy vẫy năm ngón tay tống tiễn họ. Khi họ đều ra ngoài cửa, ta đóng nó lại và nhìn lên chiếc camera. “Tắt nó ngay .”

      “Có thể nó tắt rồi,” Myron .

      “Phải, chắc chắn rồi. Mấy ông cớm chẳng bao giờ làm được trò gì với cái của đó cả.”

      ta lấy điện thoại di động của mình ra.

      gọi cho ai vậy?” hỏi.

      có biết tại sao bọn họ lôi vào đây ?”

      “Có chuyện gì đó liên quan đến tên là Aimee Biel,” Myron .

      “Chuyện đó tôi biết rồi. Nhưng biết chuyện gì xảy ra với ta hả?”

      .”

      “Đấy là điều tôi cố gắng tìm hiểu. Tôi bảo điều tra viên khu vực của tôi lo chuyện đó rồi. ấy là người giỏi nhất, biết tất cả mọi người ở cái sở này.” Hester đưa điện thoại lên tai. “Ờ, Hester đây. Thế nào rồi? Ừ. Ừ.” Hester nghe mà cần ghi chép lại. phút sau, , “Cảm ơn nhé, Cingle. Cứ tìm hiểu tiếp và xem xem họ có gì rồi nhé.”

      Hester gác máy. Myron nhún vai cái sao? với ta.

      đó - họ của ta là Biel.”

      “Aimee Biel,” Myron . “ ấy thế nào?”

      ta mất tích.”

      Myron lại cảm thấy như bị thoi cú.

      “Có vẻ như ta hề về nhà vào tối thứ Bảy. ta lẽ ra phải ngủ ở nhà người bạn. ta hề đến đó. ai biết chuyện gì xảy ra với ta. ràng có những danh sách cuộc gọi nối với đó. Cả những thứ khác nữa. Điều tra viên của tôi cố gắng phát chính xác điều gì xảy ra.”

      Hester ngồi xuống. nhìn qua chiếc bàn. “Thế nên được rồi, bé ngoan, kể cho dì Hester nghe mọi chuyện nào.”

      ,” Myron .

      “Sao cơ?”

      “Xem nhé, ở đây có hai lựa chọn. có thể ở lại trong khi tôi chuyện với bọn họ ngay bây giờ hoặc tôi có thể sa thải .”

      nên chuyện với tôi trước.”

      “Chúng ta thể bỏ phí thời gian được. phải để tôi cho họ biết mọi chuyện.”

      “Bởi vì vô tội à?”

      “Tất nhiên là tôi vô tội.”

      “Và cảnh sát chưa bao giờ có lúc bắt nhầm người.”

      “Tôi đánh liều xem. Nếu Aimee gặp rắc rối, tôi thể để họ bỏ phí thời gian với tôi được.”

      “Tôi đồng ý.”

      “Vậy bị sa thải.”

      “Đừng có giở giọng của Trump ra với tôi(34). Tôi cho lời khuyên, thế thôi. là khách hàng mà.”

      ta đứng dậy, mở cánh cửa ra, gọi họ trở vào. Loren Muse qua ta và ngồi xuống trở lại. Lance về vị trí của mình ở trong góc phòng. Muse đỏ mặt tía tai, có lẽ là cáu giận với chính bản thân mình vì hỏi luôn trong xe trước khi Hester đến.

      Loren Muse định gì đó, nhưng Myron đưa lòng bàn tay lên để ngăn lại.

      “Vào đề luôn nhé,” Myron với họ. “Aimee Biel mất tích. Giờ tôi biết chuyện đó rồi. Có lẽ hai người xem nhật ký cuộc gọi của chúng tôi, vì vậy hai người biết gọi cho tôi lúc tầm hai giờ sáng. Tôi chắc hai người biết những gì, vì vậy hãy để tôi giúp hai người. ấy muốn nhờ xe. Tôi đón ấy.”

      “Ở đâu?” Loren hỏi.

      “Giữa Manhattan. Phố Năm hai và số Năm, tôi nghĩ thế. Tôi chuyển từ chiếc Henry Hudsson sang chiếc GWB. Mấy người biết khoản thanh toán từ thẻ tín dụng ở cây xăng chưa?

      “Rồi.”

      “Vậy hai người biết là chúng tôi dừng ở đó. Chúng tôi tiếp tục xuống Tuyến 4 đến Tuyến 17 và rồi đến Ridgewood.” Myron nhận thấy thay đổi trong thái độ của họ. bỏ sót điều gì đó, nhưng vội vã tiếp. “Tôi cho ấy xuống xe tại ngôi nhà ở cuối cái ngõ cụt. Sau đó tôi lái xe về nhà.”

      “Và nhớ địa chỉ, đúng ?”

      “Đúng.”

      “Còn gì nữa ?”

      “Ví dụ như?”

      “Ví dụ như tại sao Aimee Biel lại gọi cho đầu tiên?”

      “Tôi là người bạn của gia đình.”

      “Chắc hẳn người bạn thân.”

      “Phải.”

      “Vậy tại sao lại là ? Ý tôi là, đầu tiên ta gọi đến nhà ở Livingston. Sao đó ta gọi sang điện thoại di động của . Tại sao ta lại gọi cho phải là bố mẹ ta hay bà dì hay ông chú hay thậm chí người bạn ở trường?” Loren ngửa hai lòng bàn tay lên trời. “Tại sao là ?”

      Giọng Myron nhàng. “Tôi bắt ấy hứa.”

      “Hứa?”

      “Phải.”

      giải thích về cái tầng hầm, về việc nghe thấy các về chuyện lái xe với thằng nhóc say xỉn, về việc bắt họ hứa - và khi , có thể thấy khuôn mặt họ biến đổi. Ngay cả khuôn mặt của Hester. Những câu chữ, nguyên do, giờ nghe có vẻ rỗng tuếch trong chính tai , và đến giờ chưa thể chỉ ra là tại sao. Bài giải thích của diễn ra hơi dài dòng. có thể nghe thấy đề phòng trong giọng của mình.

      Khi xong, Loren hỏi, “ từng hứa thế này bao giờ chưa?”

      “Chưa.”

      “Chưa bao giờ?”

      “Chưa bao giờ.”

      có những cần giúp đỡ hay say xỉn nào khác mà tình nguyện đưa đón nữa à?”

      “Này!” Hester bỏ qua câu đó. “Đó là bóp méo hoàn toàn những gì ta vừa . Câu hỏi được hỏi và trả lời xong rồi. Tiếp .”

      Loren nhấp nhổm ghế. “Thế còn những cậu bé sao? từng bắt cậu bé nào hứa gọi cho chưa?”

      “Chưa.”

      “Thế chỉ các thôi sao?”

      “Chỉ hai này thôi,” Myron . “Nó giống như tôi sắp đặt chuyện đó đâu.”

      “Tôi hiểu rồi.” Loren xoa cằm. “Thế còn Katie Rochester sao?”

      Hester , “Ai đấy?”

      Myron phớt lờ câu đó. “ ta sao?”

      bao giờ bắt Katie Rochester hứa gọi cho mình khi ta say chưa?”

      lần nữa đó lại là bóp méo hoàn toàn những gì ta vừa ,” Hester nhảy vào. “ ta cố gắng ngăn chúng nốc rượu và lái xe.”

      “Phải, chắc chắn rồi, ta là hùng mà,” Loren . “ từng làm chuyện gì đại loại như thế với Katie Rochester chưa?”

      “Tôi thậm chí còn biết Katie Rochester,” Myron .

      “Nhưng từng nghe tên rồi.”

      “Phải.”

      “Trong hoàn cảnh nào?”

      bản tin. Vậy sao đây, Muse - Tôi là đối tượng tình nghi trong tất cả các vụ mất tích hả?”

      Loren mỉm cười. “ phải tất cả.”

      Hester nghiêng về phía Myron và thào vào tai . “Tôi thích thế này, Myron.”

      cũng vậy.

      Loren tiếp tục: “Vậy chưa bao giờ gặp Katie Rochester sao?”

      thể dùng đến những kiến thức luật sư mà được đào tạo. “ thuộc phạm vi hiểu biết của tôi.”

      thuộc phạm vi hiểu biết của . Vậy nó thuộc phạm vi hiểu biết của ai thế?”

      “Phản đối.”

      biết ý tôi là gì mà,” Myron .

      “Thế còn bố ta, Dominick Rochester sao?”

      “Chưa.”

      “Hay mẹ ta, Joan? từng gặp bà ta chưa?”

      “Chưa.”

      “Chưa,” Loren nhắc lại, “hay thuộc phạm vi hiểu biết của ?”

      “Tôi gặp gỡ rất nhiều người. Tôi nhớ hết tất cả bọn họ. Nhưng những cái tên đó gợi lên điều gì cả.”

      Loren Muse nhìn xuống bàn. “ cho Aimee xuống xe ở Ridgewood?”

      “Phải. Ở nhà bạn ấy Stacy.”

      “Ở nhà bạn ấy?” Câu đó thu hút chú ý của Loren. “Trước đó nhắc đến chuyện đấy.”

      “Giờ tôi nhắc đến đây.”

      “Tên họ của Stacy là gì?”

      “Aimee .”

      “Tôi hiểu rồi. gặp Stacy này chưa?”

      “Chưa.”

      có đưa Aimee đến cửa trước ?”

      , tôi ở lại trong xe.”

      Loren Muse vờ làm vẻ lúng túng. “Lời hứa bảo vệ ta của có hiệu lực trong phạm vi từ xe đến cửa trước sao?”

      “Aimee bảo tôi ở lại trong xe.”

      “Sau đó ai mở cửa vào nhà?”

      ai cả.”

      “Aimee chỉ tự vào thôi?”

      ấy rằng có lẽ Stacy ngủ và rằng ấy luôn tự vào bằng cửa sau.”

      “Tôi hiểu rồi.” Loren đứng dậy. “Vậy ta thôi.”

      “Hai người định đưa ta đâu?”

      “Đến Ridgewood. Thử xem xem liệu chúng ta có tìm ra cái ngõ cụt này nào.”

      Myron đứng lên cùng ta. “Chả lẽ thể tìm thấy địa chỉ của Stacy qua bố mẹ Aimee sao?”

      “Chúng tôi biết địa chỉ của Stacy rồi,” Loren . “Vấn đề ở chỗ Stacy sống ở Ridgewood. ta sống ở Livingston.”

    6. ^^! Nếu bạn không gửi link bài viết trên Facebook được, hãy sử dụng link trong khung này để chia sẻ bài viết :