1. QUY ĐỊNH BOX TRUYỆN SƯU TẦM :

    Đặt Title theo mẫu [Tên truyện] [dấu cách] - [dấu cách] [Tác giả] [Số chương]
    ----•Nội dung cần:
    - Hình minh họa (bìa truyện, hình ảnh,etc,...)
    - Nguồn
    - Tác giả
    - Tên editor +beta
    - Thể loại
    - Số chương
    Đặc biệt chọn canh giữa cho đoạn giới thiệu
    ---- Quy định :
    1. Chỉ đăng những truyện đã có ebook và đã được public trên các trang web khác
    2 . Chỉ nên post truyện đã hoàn đã có eBook.
    3. Trình bày topic truyện khoa học, bôi đen số chương để dễ nhìn
    4 . Cần có trách nhiệm post đến hết truyện. Nếu không thể tiếp tục post liên hệ Ad và Mod

  2. QUY ĐỊNH BOX EBOOK SƯU TẦM

    Khi các bạn post link eBook sưu tầm nhớ chú ý nguồn edit và Link dẫn về chính chủ

    eBook phải tải File trực tiếp lên forum (có thể thêm file mediafire, dropbox ngay văn án)

    Không được kèm link có tính phí và bài viết, hay quảng cáo phản cảm, nếu có sẽ ban nick

    Cách tải ebook có quảng cáo

Ngôi Nhà Nhỏ Trên Thảo Nguyên (Tập 1) - Laura Ingalls Wilder (13 chương)

Thảo luận trong 'Truyện Phương Tây (Sưu Tầm)'

  • ^^! Nếu bạn không gửi link bài viết trên Facebook được, hãy sử dụng link trong khung này để chia sẻ bài viết :
    1. thy997

      thy997 Active Member

      Bài viết:
      136
      Được thích:
      40
      NGÔI NHÀ Ở BIG WOOD
      Chương 10
      vào mùa hè và là lúc mọi người thăm viếng nhau. Thỉnh thoảng chú Henry, bác George hay ông nội cưỡi ngựa tới Big Woods gặp bố. Mẹ thường ra cửa đón, hỏi thăm tất cả mọi người và mẹ thường :
      - Charles ở khu phát quang.
      Rồi mẹ nấu nhiều món ăn hơn thường lệ và bữa ăn kéo dài hơn. Sau đó, bố mẹ cùng khách ngồi trò chuyện hồi trước khi họ trở về làm việc.
      Đôi khi mẹ dẫn Laura và Mary băng qua đường xuống đồi, tới thăm bà Peterson. Gia đình Peterson mới chuyển tới. Nhà họ còn rất mới và ngăn nắp vì bà Peterson có những bé bày bừa bãi. Bà là người gốc Thuỵ Điển nên thường cho Laura và Mary coi những món đồ xinh xinh mà bà mang từ Thuỵ Điển tới - những dải viền ren, những món đồ thêu đủ màu và đồ sứ.
      Bà Peterson với các bằng tiếng Thuỵ Điển còn các tiếng nhưng họ hiểu nhau rất . Khi các ra về, bà luôn cho mỗi chiếc bánh qui và các nhấp nháp từ từ chiếc bánh trong lúc đường.
      Laura nhấm hết đúng nửa chiếc bánh và Mary cũng nhấm hết nửa chiếc. Phần còn lại các dành cho bé Carrie. Khi các về tới nhà, bé Carrie có hai nửa chiếc bánh, tức là có hẳn chiếc bánh.
      Điều này hợp lí. Các đều muốn chia bánh qui với Carrie cho hợp lí. Nhưng nếu Mary ăn nửa chiếc bánh trong khi Laura ăn hết chiếc bánh hoặc ngược lại Laura ăn nửa chiếc bánh còn Mary ăn hết chiếc bánh cũng ổn chút nào.
      Các biết làm sao. Vì thế, mỗi đều dành lại nửa chiếc bánh cho Carrie. Nhưng các luôn cảm thấy điều này cũng chưa hợp lí hẳn.
      Có khi người láng giềng báo tin họ đưa cả gia đình tới chơi trọn ngày. Thế là mẹ dọn dẹp, nấu nướng kỹ hơn và mở túi đường mua ở cửa hàng. Và, đúng ngày hẹn, cỗ xe lái tới trước cổng vào buổi sáng rồi các có những trẻ lạ để cùng chơi đùa.
      Khi ông bà Hunleatt tới, họ dắt theo Eva và Clarence. Eva là xinh xắn với cặp mắt đen và những lọn tóc đen. chơi đùa dè dặt và giữ quần áo sạch , mượt mà. Mary thích như thế nhưng Laura thích chơi với Clarence hơn.
      Clarence có mái tóc đỏ hoe và đầy tàn nhanh nhưng luôn cười. Quần áo của cậu cũng rất đẹp. Cậu mặc chiếc áo màu xanh dương cài những chiếc nút sáng bóng, quần áo có những dải viền và mang giày bọc đồng ở mũi.
      Nhưng dây đồng ngang mũi giày sáng loá đến nỗi Laura ao ước được là con trai. Các được mang giày như thế.
      Laura cùng Clarence chạy nhảy, la hét và trèo lên cây trông lúc Mary Và Eva cùng nhau dạo quanh, trò chuyện.
      Mẹ cùng bà Huleatt thăm nom vài thứ rồi xem ngắm cuốn sách dành cho các bà của Godey dó bà Huleatt mang tới trong lúc bố cùng ông Huleatt coi lũ ngựa, mùa màng và hút thuốc.
      Có lần Lotty tới chơi trọn ngày. Sáng hôm đó, Laura đứng im lâu cho mẹ gỡ những miếng vải buộc lên tóc và chải mái tóc của thành những lọn dài uốn cong. Mary ngồi đoan trang ghế với những lọn tóc vàng óng trong chiếc áo xanh da trời tươi tắn, gọn gẽ.
      Laura rất thích chiếc áo màu đó của mình. Nhưng mẹ chải tóc đau điéng và mái tóc lại màu nâu thay vì màu vàng thành ra chẳng ai thèm ngó đến. Mọi người chỉ trầm trồ về mái tóc của Mary.
      Cuối cùng, mẹ :
      - Rồi tóc của con được uốn rất đẹp và Lotty tới đó. Cả hai con nhớ chạy ra đón rồi hỏi coi thích mái tóc nào nhất, tóc nâu hay tóc vàng.
      Laura và Mary lao ra khỏi cửa, chạy xuống lối Lotty tới cổng. Lotty là lớn, cao hơn Mary rất nhiều. mặc chiếc áo màu hồng, lủng lẳng chiếc nón màu hồng với dải buộc trước cổ.
      Mary hỏi:
      - thích tóc nào nhất, Lotty, tóc nâu hay tóc vàng?
      Mẹ dặn hỏi điều đó và Mary là bé ngoan luôn làm đúng lời mẹ dặn.
      Laura chờ nghe câu trả lời của Lotty với cảm giác khổ sở. Lotty mỉm cười đáp:
      - thích cả hai thứ như nhau.
      đưa tay dắt hai sát hai bên và các nhảy nhót tới chỗ mẹ đứng trước cửa.
      Nắng xuyên qua cửa sổ ùa vào nhà như những dòng suối và mọi thứ đều gọn gàng, xinh đẹp. Bàn ăn phủ khăn vải đỏ và lò bếp gạch sạch bóng màu đen sáng lóng lánh. Qua cửa phòng ngủ, Laura có thể nhìn chiếc giường có bánh lăn nằm đúng chỗ dưới chiếc giường lớn. Cửa phòng ăn mở rộng bày ra trước mắt những món ăn thơm nức các giá đồ và con mèo Black Susan vừa kêu gù gù vừa xuống cầu thang mái gác, nơi nó vừa nằm ngủ.
      Tất cả đều thoải mái và Laura vui vẻ, ngoan ngoãn đến nỗi ai dám nghĩ có thể hư như làm vào buổi tối hôm đó.
      Khi Lotty rồi, Laura và Mary đều mệt mỏi. Các ở bên đống gỗ gom vỏ bào để nhóm lửa vào sáng mai. Các thích gom vỏ bào nhưng vẫn phải làm mỗi ngày. Tối nay, các còn ghét việc này nhiều hơn nữa.
      Laura chộp những mảnh vỏ bào lớn nhất và Mary :
      - Chị cần. Dù thế nào Lotty vẫn thích mái tóc của chị hơn. Tóc vàng đẹp hơn tóc nâu rất nhiều.
      Họng Laura nghẹn cứng và thể nổi. biết tóc vàng đẹp hơn tóc nâu. thể cãi nên bước tới nhanh, tát vào mặt Mary.
      Lập tức nghe tiếng bố gọi:
      - Tới đây, Laura!
      kéo lết bàn chân nhích tới từ từ. Bố ngồi phía trong cửa ra vào và thấy tát Mary. Bố :
      - Con nhớ chứ, bố vẫn dặn các con là bao giờ được đánh nhau.
      Laura lên tiếng:
      - Nhưng, Mary bảo… Bố cắt ngang:
      - Chuyện vẫn thế thôi! Bố là phải làm theo lời bố.
      Rồi bố lấy sợi dây da vách xuống và quất Laura. Laura ngồi xuống góc ghế, nức nở. Khi ngưng nức nở, giận dỗi. Điều duy nhất khiến tạm vui là Mary phải mình gom đầy vỏ bào.
      Cuối cùng, lúc trời tối, bố gọi:
      - Tới đây, Laura!
      Giọng bố dịu dàng hơn và khi Laura tới bên, bố đặt lên đùi, xiết chặt. ngồi trong vòng tay bố, tựa đầu vào vai bố và bộ râu dài che gần hết mắt rồi mọi chuyện lại ổn.
      kể lại với bố việc và hỏi:
      - Bố thích tóc vàng nhiều hơn tóc nâu, phải bố?
      Cặp mắt xanh của bố loé sáng nhìn và bố :
      - Này, Laura, tóc bố màu nâu mà!
      nghĩ về điều đó. Tóc bố màu nâu, râu bố màu nâu và thấy màu nâu rất dễ thương. Nhưng vẫn vui vì Mary phải mình lượm vỏ bào.
      Nhũng buổi tối mùa hè, bố kể chuyện hoặc chơi đàn. Ngày mùa hè dài dặc và bố rất mệt sau khi làm việc nặng nhọc suốt ngày ngoài đồng.
      Mẹ cũng vô cùng bận rộn. Laura và Mary giúp mẹ nhổ cỏ vườn, giúp mẹ cho mấy con bò con và lũ gà mái ăn. Các còn gom trứng và giúp làm phô-mai.
      Khi cỏ trong rừng mọc cao và dày dặc, lũ bò cái cho sữa rất nhiều và đó là lúc làm phô-mai.
      con bò con bị giết vì thể làm nổi phô-mai nếu thiếu dịch vị trong bao tử bò con. Con bò con đó phải rất để chắc chắn nó chưa ăn thứ gì khác ngoài sữa mẹ.
      Laura sợ bố giết chết con bò con trong lũ bò con ở nhà kho. Lũ bò con này rất hiền lành. con màu vàng, con màu hung, lông mượt mềm và mắt luôn mở lớn ngơ ngác. Tim đập mạnh khi mẹ chuyện với bố về việc làm phô-mai.
      Bố muốn giết con bò con nào vì chúng là bê cái, khi lớn lên thành bò cái. Bố tới nhà ông nội rồi tới nhà chú Henry để bàn chuyện làm phô-mai và chú Henry chú giết con bò con của chú. Thế là có đủ dịch vị cho Polly, bà nội và mẹ.
      Bố quay lại nhà chú Henry lần nữa và trở về với miếng bao tử bò con. Nó giống như miếng da mềm, trắng xám với mặt có những lằn gợn xù xì.
      Buổi tối, lúc vắt sữa bò, mẹ cất sữa trong mấy chiếc xoong. Buổi sáng, mẹ hớt lấy váng kem để sau này làm bơ. Rồi, mẹ trộn số sữa vớt váng này với sữa lạnh buổi sáng, đặt lên lò đun cho nóng.
      ít dịch vị bò con buộc trong miếng vải được dầm vào nước ấm.
      Khi sữa đủ nóng, mẹ vắt ép cho từng giọt nước dịch vị từ miếng vải vào trong sữa. Mẹ khuấy đều rồi đặt lên chỗ ấm bên cạnh lò. Lát sau, nó đặc lại thành khối mềm nhuyễn rung rinh.
      Mẹ dùng con dao dài cắt khối mềm này thành những miếng vuông , dựng đứng lên cho nước sữa chảy khỏi những miếng sữa cục. Rồi mẹ đặt tất cả sữa cục vào miếng vải để cho lớp nước sữa mỏng màu vàng chảy ra.
      Khi còn giọt nước sữa nào miếng vải, mẹ trút hết sữa cục vào chiếc chảo lớn, rắc muối, đảo, trộn kĩ.
      Laura và Mary túc trực tại đó làm giúp mọi việc có thể làm được. Các thích ăn những cục sữa đông khi mẹ ướp muối. Chúng như bật kêu giữa hàm răng.
      Dưới cây đào ngoài cửa sau, bố đặt tấm ván để ép phô-mai. Bố xẻ hai đường rãnh dọc tấm ván và đặt tấm ván lên hai khối cây cho đầu hơi cao hơn đầu kia chút. Dưới đầu tấm ván thấp hơn là khạp gỗ trắng.
      Mẹ đặt tấm ván chiếc khuôn gỗ tròn phía trong miếng vải ướt, sạch và đổ đầy lên đó những cục sữa đông để ướp muối. Mẹ lấy miếng vải ướt, sạch khác phủ kín lại rồi đặt lên hết miếng ván tròn được cắt cho vừa khít để lọt vào trong khuôn gỗ. Lúc này, mẹ nhấc tảng đá nặng đặt lên miếng ván.
      Suốt ngày, miếng ván tròn từ từ nén xuống dưới sức nặng của tảng đá và nước sữa bị ép chảy ra theo các rãnh xẻ tấm ván bên dưới xuống chiếc khạp gỗ.
      Sáng hôm nay, mẹ lấy ra trọng khối phô-mai màu vàng nhạt, tròn lớn bằng chiếc xoong đựng sữa. Rồi mẹ làm cho đông cứng hơn nữa và đổ đầy trở lại vào khuôn.
      Mỗi buổi sáng mẹ đều lấy chỗ phô-mai ra khỏi khuôn ép và làm cho mềm nhuyễn hơn. Mẹ khâu chặt xung quanh khối phô-mai miếng vải và lấy bơ lạt chà khắp miếng vải. Rồi mẹ đem đặt lên giá trong phòng ăn.
      Hàng ngày, mẹ lau chùi từng khối phô-mai hết sức cẩn thận bằng vải ướt rồi lại chà bơ lạt khắp xung quang và đặt xuống cạnh khác. Sau nhiều ngày, phô-mai đủ độ chín và có lớp vỏ cứng bọc xung quanh.
      Lúc đó, mẹ lấy giấy gói từng khố phô-mai lại cất giá cao. Bây giờ chỉ còn việc duy nhất để làm là ăn nó.
      Laura và Mary rất thích làm phô-mai. Các thích ăn những cục sữa đông kêu lốp bốp giữa hàm răng và thích ăn những mảnh do mẹ lạng ra khỏi khối phô-mai vàng, tròn, lớn để làm nhuyễn trước khi khâu bọc trong vải.
      Mẹ cười các ăn thứ phô-mai xanh ngắt. Mẹ với các :
      - Có người bảo ánh trăng khiến phô-mai có màu xanh.
      Những khối phô-mai mới lấy ra khỏi khuôn gỗ có vẻ tròn như mặt trăng. Nhưng chúng có màu xanh mà vàng như mặt trăng. Mẹ bảo:
      - Nó xanh vì chưa đủ độ chín. Khi được ướp muối và chín, nó còn xanh nữa.
      - Có đúng mặt trăng làm cho phô-mai thành xanh ?
      Laura hỏi và mẹ cười. Mẹ :
      - Mẹ nghĩ người vậy là do mặt trăng có vẻ giống khối phô-mai màu xanh. Nhưng những hình thức bên ngoài chỉ là lừa gạt.
      Rồi, trong lúc lau chùi tất cả những ổ phô-mai màu xanh và chà thêm bơ, mẹ kể với các về mặt trăng lạnh lẽo, im lìm, đó có thứ gì sinh sôi và lớn lên được.
      Ngày đầu tiên mẹ làm phô-mai, laura nếm thử nước sữa. nếm mà gì với mẹ và khi quay lại thấy mặt , mẹ cười. Đêm đó, lúc ngồi rửa chén dĩa sau bữa ăn tối, trong khi Mary và Laura lo lau mình, mẹ với bố là Laura nếm thử món nước sữa và tỏ ra thích.
      Bố :
      - Con nên đói tới chết vì món nước sữa của mẹ giống như ông già Grimes làm với món nước sữa của vợ ông ấy.
      Laura nài nỉ bố kể cho nghe về ông già Grimes. Thế là, mặc dù rất mệt, bố vẫn lấy đàn ra khỏi hộp để đàn và hát cho Laura nghe:
      Già Grimes chết rồi, ông già hiên lành tử tế
      Chẳng bao giờ còn ai được thấy ông
      Ông thường mặc chiếc áo choàng cũ kĩ
      Nút cài xuôi xuống suốt dòng
      Vợ già Grimes vừa vợt xong lớp váng
      Già Grimes bưng nước sữa uống liền
      Gió lốc bỗng ào ào thổi đến
      Cuốn già Grimes về chốn cửu tuyền.
      Bố :
      - Con thấy đó! Bà ta là người đàn bà keo kiệt. Nếu bà ta vớt hết lớp váng sữa, bớt lại chút kem trong nước sữa chắc ông già Grimes chỉ đứng lảo đảo thôi. Nhưng bà ta vớt sạch kem nên ông già Grimes tội nghiệp mới gầy ốm tới nỗi bị gió thổi bay luôn. Đúng là chết đói!
      Rồi bố nhìn mẹ :
      - ai phải chết đói khi có em ở bên, Caroline.
      Mẹ :
      - Ồ, , hẳn đâu, Charles, nếu ở đó để cung cấp mọi thứ.
      Bố có vẻ thú vị. Mọi thứ đều dễ chịu, các cánh cửa đều mở rộng đón hơi đêm mùa hè, chén dĩa như cùng reo vui vì được mẹ rửa sạch còn Mary và Laura lau chùi xong trong lúc bố cất đàn, mỉm cười, khẽ huýt gió.
      lát sau, bố :
      - Caroline, sáng mai qua nhà Henry mượn chiếc cuốc xới. Các chồi non quanh các gốc cây ngoài đồng bắp vươn cao ngang thắt lưng rồi. Phải kềm chặn chúng lại, rừng quay lại chiếm chỗ.
      Sáng sớm hôm sau, bố bộ qua nhà chú Henry. Nhưng chưa được bao xa, bố hối hả trở về, cột ngựa vào xe, vứt lên thùng xe cây rìu, hai chiếc bồn đựng nước tắm, chiếc bồn đựng nước sôi và tất cả khạp, thùng gỗ có trong nhà.
      Bố :
      - biết có cần dùng hết , nhưng thích có khi cần đến.
      Laura nhảy tưng tưng cách hào hứng, hỏi:
      - Ô, chuyện gì vậy? Chuyện gì vậy?
      Mẹ :
      - Bố tìm thấy ổ ong. Có thể bố đem mật về.
      Sau buổi trưa bố mới về nhà. Laura chờ và chạy thẳng tới ngay khi cỗ xe vừa dừng lại cạnh sân nhà kho. Nhưng nhìn được vào trong xe.
      Bố gọi:
      - Caroline, ra mang giúp khạp mật này , phải tháo ngựa.
      Mẹ tới bên cỗ xe, vẻ thất vọng. Mẹ :
      - Chà, Charles, khạp mật có là gì đâu.
      Rồi mẹ nhìn vào trong thùng xe và buông thõng hai tay. Bố cười lớn.
      Tất cả thùng gỗ, khạp đều đầy ắp những mảng tổ ong vàng ướt đẫm mật. Cả hai bồn tắm và bồn chứa nước sôi cũng đầy tràn.
      Bố và mẹ tới lui mang tất cả bồn, thùng, khạp vào nhà. Mẹ chất cao nhiều mảng mật vàng óng lên chiếc dĩa rồi phủ kín tất cả số còn lại bằng những miếng vải.
      Trong bữa ăn trưa, cả nhà mặc sức ăn món mật tuyệt vời và bố kể cho các nghe bố tìm thấy bọng tổ ong ra sao.
      Bố kể:
      - Bố mang súng theo vì ắn và lúc này là mùa hè nên sợ gặp điều gì nguy hiểm. Vào thời điểm này, lũ báo và gấu đèu mập mạp tới nỗi lười biếng và hiền lành. Bố tắt qua rừng và gần như đâm thẳng vào con gấu lớn. Bố vòng khỏi gốc cây dưới bụi rậm và thấy nó đúng xa hơn căn phòng này. Nó nhìn quanh bố và bố đoán nó thấy bố có súng. Dù sao, nó tỏ ra thèm để ý đến bố chút nào. Nó đứng dưới gốc cây lớn và khắp phía xung quanh nó đen đặc ong. Ong thể chích lớp da dày của nó nhưng nó phải quơ chân trước lên giữ cho bầy ong sáp gần tới đầu nó. Bố đứng nhìn nó và thấy nó đặt chân trước trong hốc cây và lôi ra tảng mật ướt đẫm. Nó liếm mật dính bàn chân và nhích lại gần hơn nữa. Lúc đó bố tìm được cây gậy. Bố muốn lấy số mật đó. Thế là bố vung cây gậy, đập vào thân cây, hét lớn cây náo động. Con gấu quá mập và no sữa đến nỗi nó chỉ co người bốn chân, lạch bạch luồn giữa các cội cây. Bố lùa nó khoảng xa, làm nó phải chạy nhanh hơn, xa khỏi bọng cây có ổ ong rồi bố trở về lấy cỗ xe.
      Laura hỏi bố lấy mật khỏi bầy ong bằng cách nào.
      Bố :
      - Dễ mà, bố đưa ngựa tới sau rừng, nơi mà bầy ong tới để chích chúng rồi bố đốn bọng cây bửa ra.
      - Ong chích bố à?
      Bố đáp:
      - . Ong bao giờ chích bố. Khúc cây rỗng ruột và đầy mật từ đầu tới cuối. Có lẽ ong gây mật nhiều năm rồi. phần mật lâu ngày sậm màu, nhưng bố nghĩ là bố lấy về trọn phần mật tốt, sạch để dùng khá lâu được.
      Laura thấy tội nghiệp cho đám ong. :
      - Chúng nó phải làm việc cực nhọc lắm mà bây giờ giữ được giọt mật nào.
      Nhưng bố còn để lại rất nhiều mật cho chúng và còn có nhiều bọng cây khác ở gần đó để chúng có thể gầy ổ lại. Bố đây cũng là lúc chúng có ngôi nhà mới, thoáng sạch.
      Chúng gom lại số mật cũ mà bố bỏ lại, chế biến thành thứ mật tươi, mới để tồn trữ trong ngôi nhà mới của chúng. Chúng gom từng giọt mật tràn ra để cất giữ và có rất nhiều mật từ rất lâu trước khi mùa đông tới.

    2. thy997

      thy997 Active Member

      Bài viết:
      136
      Được thích:
      40
      NGÔI NHÀ Ở BIG WOOD
      Chương 11
      Bố và chú Henry thoả thuận giúp nhau làm việc. Khi tới mùa vụ, chú Henry tới làm việc với bố và Polly cùng đám trẻ chị em họ tới nghỉ tại nhà. Sau đó, bố tới giúp chú Henry thu hoạch và mẹ đem Laura, Mary cùng bé Carrie tới nghỉ ở nhà Polly.
      Mẹ và Polly cùng làm việc nhà còn lũ trẻ quây quần chơi ngoài sân cho tới giờ ăn. Sân nhà Polly là chỗ chơi đùa rất tuyệt vì gốc cây dày đặc. Lũ trẻ chơi trò nhảy từ gốc này qua gốc khác mà khi nào phải đặt chân xuống đất.
      Ngay cả Laura nhất đám cũng dễ dàng chơi ở những chỗ các cây nhất mọc khít nhau. Charley là đứa con trai lớn nhất sắp được mười tuổi có thể chuyền gốc cây khắp sân. Cậu có thể vượt qua hai gốc cây lúc và có thể leo lên đầu hàng rào sắt mà sợ gì.
      Bố và chú Henry cắt lúa mạch ngoài đồng bằng những chiếc hái. Hái là lưỡi sắt bén gắn vào sường làm bằng những thanh gỗ mỏng để đỡ thân cây lúc chĩu hạt khỏi rơi khi cắt. Bố và chú Henry mang những chiếc hái theo phần tay cầm dài uốn cong, vung chiếc lưỡi vào những cuốn lúa đứng.khi cắt đủ nắm, họ trút những cuốn lúa cắt thành những bó gọn gàng mặt đất.
      khó nhọc khi vòng đồng dưới ánh nắng gắt, hai tay vung những chiếc hái nặng nề để cắt lúa rồi trút thành bó.
      Sau khi cắt xong, họ còn phải khắp đồng. Đây là lúc họ phải khom người từng nắm lúa đem gom lại thành bó. Rồi họ vòng tay nhấc bổng những bó lên, buộc chặt lại bằng dây thắt nút với phần cuối dây nhét trong bó lúa.
      Làm xong bảy bó như thế các bó phải được gom tụ lại. Để thành tụ, năm bó được dựng đứng cho các đầu có hạt chụm sát vào nhau. Sau đó, phủ thêm hai bó lên cho những cuống lúa làm thành mái che cho năm bó kia khỏi bị rụng hạt do sương và mưa.
      Mỗi cuống lúa cắt luôn phải được đứng an toàn trong tụ vì nếu nằm đất ẩm sương suốt đêm bị hư.
      Bố và chú Henry làm việc rất cực, vì thời tiết nóng và nặng nề đến độ họ đoán là có mưa. Lúa mạch chính nên nếu cắt để cho vào tụ kịp trước khi mưa tới thất bát. Lúc đó, lũ ngựa của chú Henry bị đói trong mùa đông.
      Buổi trưa, bố và chú Henry vội vã trở về, nuốt nhanh cho xong bữa. Trưa hôm đó, chú Henry bảo Charley phải ra giúp họ.
      Laura nhìn bố khi chú Henry điều đó. Lúc ở nhà, bố với mẹ là chú Henry và Polly làm hư Charley. Khi mười tuổi, bố làm việc thành thạo mỗi ngày ở ngoài đồng, dẫn dắt cả toán. Nhưng Charley khó làm nổi việc gì.
      Bây giờ chú Henry bảo Charley phải ra đồng làm việc. Cậu dành khá nhiều thời gian bên lũ . Cậu có thể rs suối lấy nước, có thể mang tới cả bình nước khi lũ cần uống. Cậu có thể kiếm đá mài khi cần mài bén các lưỡi dao.
      Tất cả lũ trẻ đều nhìn Charley. Charley muốn ra đồng. Cậu muốn ở lại chơi đùa trong sân. Nhưng dĩ nhiên, cậu thể như thế.
      Bố và chú Henry nghỉ. Họ ăn vội vã rồi trở lại ngay với công việc và Charley cùng họ.
      Bây giờ Mary trở thành lớn nhất và muốn chơi trò chơi có vẻ trầm lặng, quý phái. Thế là vào buổi chiều, lũ trẻ dựng căn nhà ở trong sân. Bàn, ghế, lò là các gốc cây, còn lá cây là chén dĩa và trẻ là que củi.
      Tối hôm đó, đường về nhà, Laura và Mary nghe bố kể với mẹ về những chuyện xảy ra ở ngoài đồng.
      Thay vì giúp bố và chú Henry Charley quậy tung mọi việc. Cậu sấn tới họ khiến họ thể vung được hái lên. Cậu dấu miếng đá mài khiến họ phải tìm khi cần mài bén lưỡi hái. Cậu chịu mang bình nước tới cho tới khi chú Henry phải gọi ba bốn lần và mặt cậu sưng sỉa lên.
      Sau đó, cậu quấn quanh phía sau họ, chuyện và hỏi đủ thứ. Họ qua mệt vì công việc nên thể chú ý đến cậu và vì vậy bảo cậu chỗ khác đừng quấy rầy họ.
      Nhưng họ buộc phải bỏ hái xuống chạy băng qua đồng khi nghe tiếng cậu la hét. Rừng cây bao kín quanh đồng nên trong lúa mạch vẫn có nhiều rắn.
      Khi họ chạy tới với Charley chẳng có chuyện gì xảy ra cả và cậu cười với họ. Cậu :
      - Con gạt mọi người mà.
      Bố nếu bố là chú Henry bố nạo da thằng ngay tại chỗ và ngay lập tức. Nhưng chú Henry làm vậy.
      Thế là hai người uống nước rồi quay lại làm việc.
      Charley kêu cứu tới ba lần khiến họ phải chạy cực nhanh tới và cậu bé cười với họ. Cậu nghĩ đó là trò đùa tốt. Và tới lúc đó, chú Henry vẫn đánh đòn cậu.
      Rồi cậu kêu cứu lần thứ tư, dữ dội hơn hết. Bố và chú Henry nhìn về phía cậu, thấy cậu nhảy tưng tưng và la hét. Họ thấy có vẻ gì thất thường và do bị gạt nhiều lần nên họ tiếp tục làm việc.
      Charley vẫn la hét, dữ dội và kinh hoàng hơn. Bố gì nhưng chú Henry :
      - Có lẽ có chuyện gì thực.
      Họ đặt hái xuống, chạy qua đồng về phía cậu.
      Và lần này Charley nhảy cuống quýt ngay ổ ong đất.
      Giống ong màu vàng này luôn làm ổ dưới đất và Charley đạp lên mà hay. Thế là tất cả những con ong với lớp vỏ ngoài màu vàng lấp lánh ùa ra bọc kín cậu, chích những chiếc ngòi nóng đỏ vào cậu khiến Charley đau tới lết nổi.
      Cậu cứ nhảy tưng tưng và hàng trăm con ong cứ lăn vào chích khắp người. Chúng chích ở mặt, ở tay, ở cổ, ở môi, rồi luồn vào trong ống quần, luồn từ gáy xuống lưng và tiếp tục chích. Cậu càng nhảy kêu kinh hoàng lũ ong càng chích điên loạn hơn. Bố và chú Henry nắm hai cánh tay cậu chạy, lôi cậu ra xa khỏi ổ ong. Họ lột hết đồ của cậu và quần áo cậu vám đầy những con ong vàng trong khi người cậu sưng phồng hết vì chỗ nào cũng có ngòi ong cắm. Họ giết những con ong chích cậu, rũ sạch những con ong bám vào quần áo rồi mặc quần áo lại cho cậu và chuyển về nhà.
      Laura cùng Mary và lũ trẻ chơi êm ả trong sân nghe tiếng khóc rống lên. Charley khóc chửi ầm ĩ bước vào trong sân, mặt sưng vù đến nỗi nước mắt thể lăn ra khỏi mắt. Những ngón tay cậu cũng sưng cứng ngắt. khuôn mặt và cần cổ cậu nổi chằng chịt những vết cứng màu trắng.
      Laura và Mary và lũ trẻ đứng nhìn cậu trân trân.
      Mẹ và Polly từ trong nhà chạy ra hỏi cậu có chuyện gì. Charley tiếp tục khóc nức và chửi bới. Mẹ bảo đó là đám ong đất vàng. Mẹ chạy ra vườn vét đầy xoong lớn đất trong lúc Polly dắt Charley vào nhà lột hết quần áo cậu ra.
      Hai người nhào đất thành bùn và trét lên khắp người cậu. Họ quấn cậu trong tấm khăn trải giường cũ và đặt cậu lên giường. Mắt cậu sưng húp nhắm nghiền và mũi cậu dị dạng. Mẹ và Polly đắp bùn kín mặt cậu và ủ bùn lên quần áo. Chỉ lỗ mũi và miệng của cậu là lộ ra.
      Polly ngâm ít cỏ thuốc để giúp cho cậu khỏi lên cơn sốt.
      Laura và Mary cùng lũ trẻ đứng xung quanh ngắm cậu lâu.
      Mãi lúc mặt trời tối, bố và chú Henry mới ở đồng cỏ về. Tất cả lúa mạch đều tụ xong và lúc này dù có mưa cũng chẳng hại gì.
      Bố thể ở lại ăn bữa tối, vì còn phải về nhà để kịp vắt sữa. ở nhà, lũ bò cái hẳn chờ và nếu vắt sữa đúng giờ có nhiều sữa. Bố hối hả đóng ngựa vào xe và cả nhà lên xe.
      Bố rất mệt, hai bàn tay đau buốt tới nỗi thể lái xe chính xác nhưng lũ ngựa thuộc đường về nhà. Mẹ bồng bé Carrie ngồi cạnh bố còn Laura và Mary ngồi miếng ván phía sau. Tất cả đều nghe bố kể về những điều Charley làm.
      Laura và Mary đều kinh hoàng. Chính các vẫn thường được ngoan ngoãn nhưng các bao giờ tưởng tượng nổi lại có cậu bé hư hỏng như Charley. Cậu làm việc để giữ gìn đám lúa mạch. Cậu chịu làm theo lời cha dặn sau khi cha vừa với cậu. Cậu còn quấy rầy bố và chú Henry trong lúc họ phải làm việc cực nhọc.
      Lúc đó, bố về những con ong đất màu vàng và bố :
      - Nó xử đúng thằng bé dối.
      Khi lên chiếc giường có bánh lăn vào đêm đó, Laura nằm lắng nghe tiếng mưa rơi lộp bộp mái rồi xối chảy trước hiên và nghĩ về những gì bố .
      nghĩ về việc những con ong vàng làm đối với Charley. thấy chúng xử Charley như thế là đúng. Chúng xử đúng vì Charley hư hỏng cách quái đản cùng cực. Nhưng con ong có quyền chích cậu ngay cả khi cậu nhảy nhót ở nhà.
      Nhưng hiểu tại sao bố lại gọi cậu là thằng bé dối. hiểu bằng cách nào cậu có thể dối khi cậu hề tiếng nào.

    3. thy997

      thy997 Active Member

      Bài viết:
      136
      Được thích:
      40
      NGÔI NHÀ Ở BIG WOOD
      Chương 12
      Hôm sau, bố đem về cho mẹ nhiều cọng rơm vàng sạch bóng cắt từ nhiều bó lúa mạch. Mẹ bỏ hết vào thùng nước để ngâm giữ cho mềm. Rồi, ngồi chiếc ghế kế bên thùng nước, mẹ bện những cọng rơm lại.
      Mẹ lấy nhiều cọng rơm, kết lại ở đầu và bắt đầu bện. Các cọng rơm dài ngắn khác nhau nên khi gần hết cọng mẹ lại đặt tiếp cọng mới và tiếp tục bện.
      Mẹ bỏ đầu rơm bện rơi trong thùng nước và tiếp tục làm cho tới khi miếng rơm bện dài nhiều bộ. Mẹ dành trọn thời giờ rãnh rỗi trong nhiều ngày để bện rơm.
      Mẹ lấy bảy cọng rơm nhất làm thành dải viền nhẵn nhụi, thanh mảnh, cầu kì, với chín cọng rơm lớn hơn, mẹ làm thành dải viền lớn với những vết khía dọc theo các cạnh và những cọng rơm lớn nhất, mẹ bện thành dải viền lớn nhất.
      Khi các cọng rơm được bện xong, mẹ dùng kim với sợi chỉ trắng dài và khởi từ đầu dải viền cứ khâu tròn hoài để giữ nó phẳng phiu sau khi khâu. Đây là miếng thảm và mẹ bảo là chóp của chiếc nón.
      Rồi mẹ xiết chặt cạnh của dải viền hơn và khâu vòng quanh. Dải bện được thu vào và thành các cạnh nón. Chiếc nón đủ cao, mẹ lại thả lơi dải viền khi khâu vòng quanh và dải viền nằm thẳng thành vành nón.
      Khi vành nón đủ rộng, mẹ cắt dải bện và khâu phía cực nhanh tới nỗi nó kịp bật các nút bện ra.
      Mẹ khâu nón cho Mary và Laura bằng dải bện thanh mảnh nhất, tỉ mỉ nhất. Nón của bố và mẹ được bện rộng hơn và có khía. Đó là chiếc nón cho ngày chủ nhật của bố. Sau đó, mẹ làm thêm cho bố hai chiếc nón với những dải bện thô, lớn nhất để dùng hàng ngày. Khi làm xong chiếc nón, mẹ đặt lên tấm ván hong khô, nắn hình cho xinh xắn và chiếc nón giữ nguyên hình dáng mẹ làm vào lúc nó khô hẳn. Mẹ có thể bện những chiếc nón rất đẹp. Laura thích ngắm mẹ và học cách bện rơm để làm cái nón cho Charlotte.
      Ngày thu ngắn dần và đêm thấm lạnh hơn. đêm, Jack-Sương-Mù qua và buổi sáng xuất rải rác những màu sáng giữa đám lá xanh trong khu rừng Big Woods.
      Dọc theo hàng rào sắt, cây su-mác đưa cao những chùm trái đỏ sậm những tàng lá nhuốm màu vàng lửa. Trái xồi rụng xuống và Laura cùng Mary có những chiếc ly, dĩa bằng trái xồi trong các ngôi nhà tưởng tượng của mình. Hạnh đào và hồ đào rải đầy mặt đất rừng Big Woods và đám sóc bận rộn với việc chạy nhốn nháo khắp nơi, thu lượm những hạt về tồn trữ cho mùa đông trong các hốc cây.
      Laura và Mary theo mẹ nhặt gom hạnh đào, hồ đào và hạt phỉ. Hạt được phơi khô dưới nắng rồi đập tách vỏ lấy nhân cất gác mái dành cho mùa đông.
      thú vị khi gom những trái hạnh đào tròn lớn hoặc những hạt hồ đào hơn và những hạt phỉ li ti đầy cành trong các bụi rậm. Vỏ hạn đào đầy ứ chất nước thơm nức và nêm cũng thấy ngon khi Laura thường dùng răng để ngắt cuống cho chúng rời ra.
      Lúc này ai nấy đều bận rộn, vì hết thảy rau trong vườn cần được gom cắt. Laura và Mary giúp lượm những củ khoai đầy bụi đất khi bố đào lên hoặc lôi những khóm cà-rốt vàng dài thượt, những búi củ cải tròn với chóp đỉnh đỏ tía hay giúp mẹ nấu bí làm mứt.
      Với con dao phay, mẹ xả đôi những trái bí lớn màu vàng rực, mẹ cào sạch hạt ở phía trong, cắt thành những miếng dài và gọt vỏ. Laura giúp mẹ cắt những miếng dài này thành các miếng vuông .
      Mẹ đặt hết những miếng vuông này vào bình sắt lò, chế nước và canh chừng suốt ngày trong lúc bí được hầm sôi từ từ. Tất cả nước và nước bí đều phải bốc hơi hết nhưng được để bí bị cháy.
      Bí biến thành khối dầy, sậm màu và bốc mùi thơm trong bình. Nó sôi giống nước mà nổi thành những bong bóng bất ngờ nổ ra để lại lỗ hổng bị san lấp tức khắc. Mỗi lần bong bóng nổ, hương vị bí nóng hổi, đậm đà lại toả ra.
      Laura đứng chiếc ghế coi chừng bí cho mẹ và khuấy đều bằng chiếc môi gỗ. nắm chiếc môi bằng cả hai tay và khuấy rất cẩn thận vì, nếu bí bị cháy còn mứt bí nữa.
      Bữa trưa, cả nhà ăn món bí hầm với bánh mì. Các đặt món bí dĩa theo những hình dạng xinh. Bí có màu đẹp, nhuyễn và mềm rục dưới lưỡi dao của các . Mẹ bao giờ cho phép các chơi đùa với thức ăn và các phải luôn luôn ăn khéo gọn mọi món ăn được bày trước mắt, bỏ lại trong dĩa chút nào. Nhưng mẹ cho các được xếp đặt món bí hầm sậm màu, đậm đà thành những hình thù xinh đẹp trước khi ăn.
      Những lần khác, các có món bánh quẫn bằng bí nướng cho bữa ăn trưa. Vỏ ngoài cứng đến nỗi mẹ phải lấy lưỡi rìu của bố để cắt trái bí làm nhiều miếng. Khi các món bí được nướng trong lò hấp, Laura thích trét bơ lên phần cùi mềm bên trong rồi múc lớp thịt vàng hung ra khỏi vỏ để ăn.
      Lúc này, vào bữa ăn tối thường có món bắp tróc vỏ với sữa. Đây cũng là món ăn ngon. Ngon tới nỗi Laura nhấp nhỏm chờ đợi ngay lúc mẹ bắt đầu tróc vỏ. Phải mất hai hoặc ba ngày mới xong món bắp tróc vỏ.
      Ngày đầu tiên, mẹ lau dọn và lấy hết tro ra khỏi lò nấu. Rồi mẹ đốt củi gỗ sạch và giữ tro lại. Thứ tro củi gỗ này được cho vào túi vải .
      Đêm đó, bố mang về mớ trái bắp có hạt lớn. Bố nẩy bỏ những hạt đầu. Sau đó, bố nẩy những hạt bắp còn lại vào chiếc chảo lớn cho tới khi đầy chảo.
      Sáng sớm hôm sau, mẹ đổ hết số hạt bắp này cùng với túi tro vào bình sắt lớn. Mẹ đổ đầy nước vào bình và nấu sôi rất lâu. Cuối cùng, những hạt bắp bắt đầu phồng lên, phồng lên, phồng lên mãi cho tới khi lớp vỏ nứt ra và tróc . Khi vỏ bắp tróc đầu hết, mẹ kéo chiếc bình nặng nề ra ngoài. Mẹ đổ đầy nước suối vào chiếc bồn giặt được cọ sạch rồi lấy bắp ra khỏi bình ngâm vào trong bồn.
      Mẹ xắn cao ống tay áo bằng vải hoa lên tới cùi chỏ, quì gối bên chiếc bồn/ hai bàn tay mẹ chà xát cho tới khi vỏ bắp tróc ra nổi lềnh bềnh mặt nước.
      Mẹ trút nước đó ra ngoài rồi lại lấy nước suối từ các thùng gỗ đổ đầy vào bồn. Mẹ tiếp tục quơ tìm và chà xát từng hạt bắp giữa hai bàn tay rồi lại thay nước cho tới khi tất cả hạt bắp đều tróc vỏ và được rửa sạch.
      Mẹ có vẻ duyên dáng với những cánh tay trần trắng tròn trĩnh, má mẹ ửng đỏ, mái tóc mượt bóng lên trong lúc mẹ mân mê chà xát những hạt bắp trong nước.
      Mẹ để văng giọt nước lên áo. Cuối cùng, khi bắp tróc vỏ xong, mẹ đổ tất cả những hạt mềm mại, trắng tinh vào chiếc vại lớn trong phòng ăn. Thế là, các có món bắp tróc vỏ ngào sữa cho bữa ăn tối.
      Đôi khi các ăn bắp tróc vỏ trong bữa điểm tâm với si-rô trường khế và đôi khi mẹ còn chiên những hạt bắp mềm trong mỡ heo. Nhưng, Laura thích nhất là bắp tróc vỏ ngào sữa.
      Mùa thu là vô cùng kì thú. Có nhiều việc để làm, nhiều món để ăn, nhiều thứ mới mẻ để xem ngắm. Laura chạy lăng xăng, luôn miệng từ sáng tới tối.
      buổi sáng sương mù, cỗ máy xuất đường. Cỗ máy do bốn con ngựa kéo và có hai người đàn ông ngồi ở . Lũ ngựa kéo cỗ máy này thẳng ra ngoài đồng, chỗ bố, chú Henry và ông nội cùng ông Peterson chất lúa mì thành đống.
      Sau cỗ máy còn có thêm hai người đàn ông khác điều khiển cỗ máy hơn.
      Bố gọi mẹ báo cho biết những người đập lúa tới. Bố vội vã ra đồng với mọi người. Laura và Mary xin phép mẹ rồi chạy ra đồng theo bố. Các có thể xem nếu cẩn thận làm cản lối.
      Chú Henry cưỡi ngựa tới và cột ngựa vào cội cây. Rồi bố và chú đóng tất cả những con ngựa khác, tám con tất thảy, vào cỗ xe . Họ đóng mỗi cặp ngựa vào đầu cây dài chĩa ra từ cỗ máy. cây sắt dài đặt dưới đất từ cỗ máy này tới cỗ máy lớn.
      Về sau Laura và Mary hỏi bố cỗ máy lớn là máy tách hạt, cây sắt dài là cần xoay và cỗ máy là mã lực. Cần đóng tám con ngựa vào nó để khởi động nó là cỗ máy tám mã lực.
      người ngồi cỗ máy mã lực và khi mọi thứ sẵn sàng, ông ta lên tiếng thúc cho lũ ngựa bắt đầu chạy. Lũ ngựa chạy xoay tròn quanh ông ta, mỗi cặp kéo cây dài và nối theo cặp trước. Do chạy vòng quanh nên chúng rất cẩn thận bước qua chiếc cần xoay bằng sắt nhào lộn mặt đất.
      Sức ngựa kéo giữ cho chiếc cần xoay xoay đều và tác động vào chiếc máy tách hạt đặt bên cạnh đống lúa mì.
      Toàn thể cỗ máy nổ như sấm rền vang động ầm ĩ. Laura và Mary nắm chặt tay nhau tròn mắt nhìn từ phía đồng. Từ trước tới giờ các chưa hề thấy cỗ máy nào. Các cũng chưa hề nghe thấy thứ tiếng động rền vang như thế.
      Bố và chú Henry đứng đồng lúa hất tung từng bó lúa xuống tấm ván. người đàn ông đứng ở tấm ván, cắt đứt dây buộc và nhồi tất cả các bó lúa vào hố trống ở đầu cỗ máy tách hạt.
      Hố trông giống như miệng của cỗ máy với hàm răng dài bằng sắt. Hàm răng này nhai. Chúng nhai những bó lúa và chiếc máy nuốt . Rơm được thổi tung ra ở đầu kia cỗ máy và các hạt lúa tuôn chảy ra bên.
      Hai người đàn ông làm việc cực nhanh, đạp chân rơm, nhồi thành đống. người như ánh chớp đưa túi hứng đám hạt lúa tuôn xuống. Những hạt lúa trút đầy cấp kì vào thùng cân nửa giạ và người đàn ông đặt ngay vào đó thùng cân trống khác trong lúc trút thùng cân kia vào túi bao. Ông ta trút rất kịp lúc để đưa thùng cân trống vào dưới vòi trước khi thùng cân ở đó đầy tràn.
      Mọi người đều làm việc với tốc độ cao nhất nhưng cỗ máy vẫn đeo sát họ. Laura và Mary căng thẳng tới mức nghẹt thở. Các nắm chặt tay nhau, trố mắt nhìn.
      Lũ ngựa chạy vòng vòng đều. Người đàn ông điều khiển ngựa vung chiếc roi vun vút và hét:
      - Chú ý! John! cần cố vượt quá!
      Crắc! Chiếc roi bay lên.
      - Cẩn thận, Billy! thôi, con trai! được , nhưng nhanh thế chẳng ra sao!
      Cỗ máy tách hạt ngốn các bó lúa, rơm vàng óng bay ra thành đám mây vàng, hạt lúa trút xuống thành dòng nâu vàng vòi chảy trong lúc mọi người hối hả. Bố và chú Henry liệng các bó lúa xuống với mức nhanh cuối cùng. Vỏ trấu và cọng rơm bay mù mịt.
      Laura và Mary đứng coi rất lâu. Rồi các chạy về nhà, lo giúp mẹ làm cơm trưa cho tất cả đám người làm việc.
      chảo lớn cải bắp và thịt sôi lò, xoong đậu lớn và chiếc bánh Johnny nướng trong lò bếp. Laura và Mary bày bàn ăn cho những người đập lúa. Các bày bánh mặn với bơ, những chén bí chiên, mứt bí, mứt dâu khô và bánh qui, phô-mai, mật và các bình sữa.
      Rồi mẹ bày tiếp khoai tây luộc, cải bắp, thịt và đậu hấp, bánh Johnny, bánh quẫn bằng bí nướng và châm trà.
      Laura luôn thắc mắc lí do khiến loại bánh mì bằng bột bắp lại được gọi là bánh ngọt Johnny. ràng nó phải là bánh ngọt. Mẹ cũng biết tại sao ngoại trừ điều là các binh sĩ miền bắc thời nội chiến thấy dân chúng miền nam hay ăn loại bánh này nên gọi tên nó như thế. Binh sĩ miền bắc lúc đó vẫn gọi binh sĩ miền nam là quân phiến loạn Johnny. Có lẽ họ gọi loại bánh mì miền nam này là bánh ngọt chỉ để đùa vui.
      Mẹ còn được nghe có người gọi loại bánh này là bánh ngọt đường. Mẹ hiểu lí do, vì nó hẳn là loại bánh dùng tốt cho chuyến xa.
      Buổi trưa, những người đập lúa về ngồi bên bàn ăn chất đầy các món ăn. Những có thứ gì quá nhiều vì mọi người làm việc cực nhọc và đều rất đói.
      Khoảng giữa buổi chiều các cỗ máy tách hạt xong và mấy người chủ máy khỏi Big Woods đem theo những bao lúa trả công cho họ. Họ tới nơi gần đó cũng có những người hàng xóm chất đống lúa và muốn nhờ họ tách hạt.
      Đêm đó, bố rất mệt, nhưng hết sức vui. Bố với mẹ:
      - Henry, Peterson, ông nội và họp lại đập lúa bằng néo liền hai tuần cũng chỉ bằng ngang chiếc máy đó làm ngày hôm nay. Mình đập ra nhiều hạt mà còn đập sạch hạt được.
      Bố tiếp:
      - Chiếc máy đó là sáng kiến vĩ đại. Những người khác cứ giữ cách làm việc cũ nếu họ muốn, nhưng dứt khoát theo tiến bộ. Mình sống trong thời kì vĩ đại. Khi nào còn trồng lúa mì, còn gọi đem máy đến tách hạt, nếu thấy có chiếc máy ở gần.
      Bố quá mệt đêm đó nên chuyện với Laura nhưng Laura rất tự hào về bố. Chính bố khiến những người khác cùng gom lúa lại và đưa về cỗ máy tách hạt, cỗ máy diệu kỳ. Mọi người đều vui vì cỗ máy tới.

    4. thy997

      thy997 Active Member

      Bài viết:
      136
      Được thích:
      40
      NGÔI NHÀ Ở BIG WOOD
      Chương 13
      Cỏ khô úa và héo rối nên phải đưa lũ bò cái từ rừng về nuôi trong nhà kho. Tất cả những cánh lá màu tươi đều đổi thành nâu tối khi những cơn mưa lạnh mùa thu rơi xuống.
      còn chơi dưới các gốc cây được nữa. Nhưng bố có mặt ở nhà lúc trời mưa và bố lại bắt đầu đàn sau bữa ăn tối.
      Rồi những cơn mưa dứt hẳn. Thời tiết trở nên lạnh hơn. Rất sớm vào buổi sáng, mọi thứ đều lấp lánh sương đọng. Ngày rút ngắn lạu và suốt ngày ngọn lửa trong lò luôn cháy ỉ để giữ cho ngôi nhà được ấm áp. Mùa đông còn xa nữa.
      Gác mái và hầm chứa lại thêm lần đầy ắp thức ăn, còn Laura và Mary bắt đầu khâu vá những tấm chăn. Mọi thứ lại ngăn nắp gọn gàng.
      đêm, sau khi lo xong công việc trong nhà, bố ăn tối bố phải tới điểm nai-liếm để chờ con nai. Kể từ mùa xuân trong ngôi nhà có thịt tươi, nhưng lúc này lũ nai con lớn và bố lại phải săn.
      Bố tạo ra điểm nai-liếm ở khoảng trống trong rừng gần những cội cây lớn mà bố có thể ngồi ở đó để rình chờ. Điểm nai-liếm là chỗ mà đám nai tới để kiếm chất muối. Khi thấy nơi nào có muối, chúng kéo tới liếm nên chỗ đó có tên là điểm nai-liếm. Bố tạo điểm như thế bằng cách rắc muối lên đất.
      Sau bữa ăn tối, bố mang súng vào rừng còn Laura và Mary ngủ nhạc và câu chuyện kể nào.
      Ngay khi thức dậy vào buổi sáng, các ùa chạy tới bên cửa sổ, nhưng thấy con nai nào treo cây. Bố khi nào ra khỏi nhà săn nai mà lại trở về tay . Laura và Mary biết phải nghĩ gì.
      Suốt ngày bố bận rộn tu sửa ngôi nhà và khu nhà kho với lá khô, rơm rạ, trấn thêm đá để phòng ngăn hơi lạnh. Suốt ngày, hơi lạnh tăng thêm và đêm đó, ánh lửa lại sáng trong lò còn các cửa sổ đóng chặt, chét kẽ để chờ mùa đông.
      Sau bữa ăn tối, bố đặt Laura ngồi đùi còn Mary ngồi chiếc ghế sát cạnh bố. Và bố :
      - Bây giờ bố kể cho các con nghe về nguyên do có thịt tươi ăn trong ngày hôm nay.
      Khi tới điểm nai-liếm, bố leo lên cây xồi lớn. Bố chọn nhánh mà từ đó bố quan sát dễ nhất và thấy điểm nai liếm nhất. Chỗ đó cũng đủ gần để bố bắn trúng bất kì con vật nào xuất , còn khẩu súng được nạp đạn sẵn và nằm đầu gối bố.
      Bố ngồi đó chờ trăng lên soi sáng tất cả.
      Do bửa củi suốt ngày hôm qua nên bố hơi mệt và ngủ thiếp thay vì mở mắt.
      Mặt trăng tròn vừa vươn lên. Bố có thể nhìn mặt trăng còn ở rất thấp bầu trời, giữa những nhánh cây trụi lá. Và chắn ngang mặt trăng, bố thấy con nai đứng. Đầu nó nghếch cao như nó nghe ngóng. Những chiếc sừng lớn đầy gạc của nó vươn dài từ đỉnh đầu. Thân hình nó sậm tối do che khuất ánh trăng.
      tuỵêt hảo cho phát đạn. Nhưng nó đẹp quá, có vẻ khoẻ khoắn, tự do và hoang dại đến nỗi bố nỡ giết nó. Bố ngồi đó ngắm nó cho tới lúc nó nhảy lên biến mất vào rừng rậm.
      Lúc đó bố nhớ ra là mẹ và các con chờ bố mang về món thịt rừng tươi nào đó. Bố quyết định là bắn vào lần sau.
      lúc sau, con gấu lớn lù lù vào khoảng trống. Nó no nê với trái dâu, với rễ cây và các món ăn suốt mùa thu nên mập tới mức gần to bằng hai con gấu nhập lại. Đầu nó lúc lắc từ bên này qua bên kia khi nó bốn chân qua khoảng đất trống dưới ánh trăng cho tới khi đến bên gốc cây mục. Nó ngửi khúc cây và nghe ngóng. Rồi nó đưa bàn chân trước lên xé khúc cây ra và khịt khịt mũi giữa các mảnh gỗ, ăn món ăn màu trắng.
      Sau đó nó đứng thẳng hai chân sau, hoàn toàn bất động quay nhìn khắp xung quanh. Nó có vẻ lo ngại nghi ngờ điều gì bất ổn. Nó cố nhìn và ngửi coi đó là thứ gì.
      Nó là cái đích tuyệt vời để bắn nhưng bố cứ mải mê ngắm nó và rừng khuya dưới ánh trăng tĩnh mịch đến nỗi bố quên bẵng cây súng. Bố nghĩ cả việc bắn con gấu cho tới khi nó núng nính khuất vào rừng sâu.
      Bố đành chỉ có cách tự nhủ:
      - bao giờ làm vậy nữa. Cứ theo cách này thể có món thịt nào đem về.
      Bố lại ngồi cây và lại chờ. Lần này bố quyết định bắn ngay con mồi bố thấy sau đó.
      Trăng lên cao hơn và ánh trăng chiếu sáng khắp khoảng đất trống. Khắp xung quanh, bóng tối dày dặc hơn trong các bụi cây.
      lúc lâu sau, con nai mẹ và nai con khoảng tuổi bước dễ thương ra khỏi vùng bóng tối. Chúng sợ sệt gì. Chúng tới đúng chỗ mà bố rắc muối và dừng lại cùng liếm.
      Rồi chúng cùng ngẩng đầu lên nhìn nhau. Con nai con bước tới đứng sát bên con nai mẹ. Chúng đứng sát bên nhau cùng nhìn rừng cây và ngắm ánh trăng. Những cặp mắt trong xoe của chúng long lanh, hiền hoà.
      Bố cứ ngồi đó ngắm cho tới khi chúng khuất vào trong vùng bóng tối. Lúc đo, bố nhảy xuống khỏi nhánh cây và về nhà.
      Laura ghé tai bố thầm:
      - Con mừng là bố bắn chúng.
      Mary :
      - Bọn con có thể ăn bánh mì với bơ cũng được.
      Bố nhấc Mary khỏi ghế và ôm ghì cả hai . Bố :
      - Các con đều là những tử tế. Nhưng tới giờ ngủ rồi! Tránh ra cho bố chơi đàn.
      Khi Laura và Mary đọc xong lời cầu nguyện và chúi mình ấm áp dưới lớp chăn phủ chiếc giường có bánh lăn bố ngồi dưới ánh lửa với cây đàn. Mẹ thổi tắt ngọn đèn vì cần ánh sáng của nó. Mẹ ngồi phía bên lò sưởi đung đưa chiếc ghế đu với những chiếc kim đan thoăn thoắt lên xuống chiếc vớ ngắn mà mẹ đan.
      Những tối mùa đông dài với ánh lửa và nhạc trở lại.
      Tiếng đàn của bố nỉ non và bố hát.
      - hỡi Susiana, đừng vì ta than khóc
      Ta đường tới cali
      Ở nơi đó, bụi vàng bay mù mịt.
      Rồi bố chuyển bài ca về ông già Grimes. Nhưng bố hát những lời mà bố hát lúc mẹ làm phô-mai. Lời hát lúc này của bố khác hẳn. Giọng bố khoẻ khoắn, ngọt ngào và bố hát khe khẽ:
      Gặp gỡ thân thương rồi quên lãng
      Có mấy ai nhớ mãi bao giờ?
      Gặp gỡ thân thương rồi quên lãng
      Thuở xa vời như chuyện trong mơ?
      Thuở xa vời còn , bạn hỡi
      Thuở xa vời như chuyện trong mơ
      Gặp gỡ thân thương rồi quên lãng
      Thuở xa vời như chuyện trong mơ?
      Khi tiếng đàn ngưng lại, Laura khẽ hỏi:
      - Thuở xa vời là gì, bố?
      Bố :
      - Đó là những ngày xưa xa thăm thẳm rồi, Laura. Bây giờ, ngủ !
      Nhưng Laura còn thức thêm lát, lắng nghe tiếng đàn của bố hoà theo tiếng gió quạnh hiu trong rừng Big Woods. thấy bố ngồi chiếc ghế dài bên cạnh lò sưởi, ánh lửa chập chờn mái tóc nâu, bộ râu dài và lấp lánh chiếc đàn màu gụ bóng. thấy mẹ vẫn khẽ đung đưa chiếc ghế và đan.
      nghĩ thầm:
      - Đó là bây giờ.
      sung sướng vì ngôi nhà ấm cúng cùng bố, mẹ, ánh lửa và tiếng đàn đều là bây giờ. Tất cả thể chìm vào quên lãng, vì, nghĩ, bây giờ là bây giờ. bao giờ bây giờ lại là ngày xưa xa thẳm.

    5. ^^! Nếu bạn không gửi link bài viết trên Facebook được, hãy sử dụng link trong khung này để chia sẻ bài viết :