Chương 16: Poirot nhìn kỹ bà Goodbody, và công nhận bà mà đóng vai phù thủy hợp. Dĩ nhiên, bà có trái tim vàng, điều đó làm vẻ bề ngoài của bà thay đổi. Nghe xong câu hỏi của nhà thám tử, bà vui vẻ đáp: - Phải, tôi ở nhà bà Drake hôm lễ hội quả bí. Khi cần có phù thủy, bao giờ bà con cũng gọi tôi. Tối đó, tôi phải niệm những câu thần chú trong trò soi gương thần, làm sao cho khí linh thiên để hai con trai Nicholas và Desmond tung ảnh ra. Tôi còn cho bà Drake mượn quả bóng phù thủy tôi mua được ở hội chợ từ thiện. Nó treo ở kia kìa, lò sưởi. Đẹp ? - Vậy bà có thể nhìn vào quả bóng này và trông thấy ai giết bé Joyce? - Ông nhầm. Bóng này nhìn thấy được, phải quả bóng bằng pha lê kia. Nếu tôi ông biết, theo tôi, ai giết Joyce, ông tin, bảo như thế là trái tự nhiên. Xin để ông là dân làng này tồi. Phần lớn là những người chất phác, nhưng ở đâu cũng có những đứa con của quỷ dữ, sinh ra và được giáo dưỡng để phục vụ mưu đồ xấu xa của quỷ. Ông còn ít tuổi và thừa biết là đời này còn lắm chuyện thối tha. - Than ôi, tôi biết quá chứ. Nếu quả Joyce trông thấy vụ án mạng… - Ai bảo thế? - Chính em ấy . - Và ông cũng tin? Com bé chúa hay dối – Bà chăm chăm nhìn Poirot, dò hỏi: - Ông nghĩ khác? - , là . Qúa nhiều người như bà, khiến tôi thể nghi ngờ. - Mỗi nhà mỗi cảnh, lắm chuyện lắm, gia đình Reynolds chẳng hạn. Ông Reynolds làm nghề môi giới bất động sản. Tham vọng ông ta chỉ có hạn, sống tầm tầm thế thôi. Bà Reynolds hơi tí rối lên. Còn lũ con, chẳng đứa nào giống bố hay giống mẹ. Ann, là con bé rất thông minh, năm nay chắc chắn thi đạt kết quả tốt. Tôi ngạc nhiên nếu nó học lên đại học và ngày kia trở thành giáo Joyce thông minh bằng chị và em trai, nó cố gắng để tỏ ra mình kém ai, luôn làm ra bộ mình biết nhiều chuyện, thậm chí bịa ra chuyện để thu hút chú ý của mọi người. - Còn đứa em út? - Ồ, nó mới chín hay mười tuổi, nhưng tôi cho là thằng này có cá tính. Nó rất khéo tay và có lắm sáng kiến. Nó còn tiến xạ Nhưng vì thế mà dè chừng nó. Thằng này hay nghe trộm, hay chơi nhả với bạn. biết nó lấy đâu ra tiền túi. Bố mẹ nó đâu có dư dật mà cho nó lắm thế. Có thể nó bán những bí mật nghe được lấy tiền chăng. Bà hổn hển dừng lát, rồi kết luận: - Đó, có lẽ tôi chẳng được gì thêm. - Ngược lại, bà giúp tôi nhiều. Còn cái người ở biến mất tích, bà có biết ấy đâu? - Theo tôi, nó chẳng đâu xạ Ding dong dell, passýs in the well (#1). Tôi vẫn nghĩ như thế đấy. - Xin lỗi bà, tôi có thể gặp bà lát? Oliver đứng dưới hiên nhà bà bạn để chờ Poirot, quay về người phụ nữ lạ mặt đứng gần, tay ghì chặt đôi tất tay trắng muốt. Bà ta trạc bốn mươi, ăn mặc giản dị, nhưng trau chuốt. - Bà cần gì? - Rất tiếc làm phiền, song tôi nghĩ… nghĩ… Oliver vội dồn người lạ, mặc dù rất muốn biết bà này cần gì. - Thưa bà, có phải bà là người viết sách, sách về những vụ án? - Phải. Truyện trinh thám. tò mò của Oliver càng lên tới đỉnh điểm. - Tôi đến gặp bà, vì nghĩ rằng bà là người có thể cho tôi những lời khuyên. Đoán chừng bà khách cần nhiều thời gian để trò chuyện , Oliver mời bà ngồi. Bà khách vẫn vần vò đôi tất tay, : - chuyện xảy ra lâu, nhưng hồi đó tôi để ý. Nhưng rồi, đến ngày nào đó, tôi ngẫm nghĩ lại và thấy cần phải xin ý kiến của người am hiểu. Lại liên hệ với việc mới xảy ra gần đây, càng phân vân, thấy có lẽ hết ra hơn… - Bà định về em bé Joyce? - Vâng. Cái chết thê thảm của cháu chứng tỏ có những người ta thể tin cậy được, có phải ? Và với thời gian, ta mới hiểu rằng số việc mà lúc đầu ta chấp nhận cách bình thường, thực ra giống như ta nghĩ. Bà hiểu tôi chứ ạ? - Ờ… ờ. Mà tôi chưa được biết quý danh? - Leaman. Bà Leaman. Từ khi chồng tôi chết cách đây năm năm, tôi thường làm, giúp việc các gia đình. Tôi ở cho bà Llewellyn – Smythe, chủ cũ của nhà Quarry Housẹ Bà có biết bà ấy ? - . Tôi đến Woodleig Common lần này là lần đầu. - Nếu vậy, chắc bà biết chuyện xảy ra hồi trước và những lời đồn của thiên hạ? - Tôi có được nghe kể số. - Tôi hiểu gì về pháp luật, tôi rất sợ nó. Tôi tin các ông công chứng, họ làm rối tung rối mù mọi thứ. Tôi cũng dám gặp Cảnh sát. vụ việc liên quan đến di chúc có thuộc thẩm quyền của Cảnh sát? - Có thể, nhưng điều đó còn tùy. - Chắc bà có biết người ta gì hồi ấy về bản bổ… bổ… Chú thích: (1-) Lời hát đồng dao: tính tình tang, mèo ở dưới giếng.
Chương 17: - Bổ sung? - Phải. Bà Llewellyn – Smythe thảo cái bản bổ… bổ sung ấy, để toàn bộ tài sản cho con bé người nước ngoài hầu hạ bà. Quyết định đó làm mọi người ngạc nhiên. Bà ấy có gia đình hẳn hoi, chính vì muốn ở gần người thân nên mới đến ở làng này. Bà đặc biệt người cháu, tức là ông Drake, trao của cải cho người lạ làm gì mọi người sửng sốt. Lũ công chứng liền tung ra tin đồn rằng phải chính tay bà Llewellyn – Smythe viết bản bổ sung, mà là con bé người ở kia, dọa truy tố ra tòa. - Phải. Và họ tuyên bố bản bổ sung là vô giá trị. Bà biết gì thêm? - Thựa ra, tôi định làm điều gì xấu – bà Leaman chống chế, giọng thảm hại. Oliver hiểu ra. Hẳn là bà Leaman nấp sau cửa, nghe trộm. - Tôi lại với ai – bà tiếp – vì ngay lúc bấy giờ, tôi có biết gì ràng đâu. Tôi chỉ nghĩ là có chuyện gì đấy, tôi đoán được. Tôi làm việc với bà Llewellyn – Smythe khá lâu, nên tò mò muốn biết. Cũng là chuyện bình thường, có phải ? - Tất nhiên – Oliver chưa hiểu ra làm sao, nên khuyến khích. - Nếu nghĩ là tôi hành động sai, sau này tôi , nhưng lúc chuyện đó bắt đầu, tôi nghĩ là nên giữ miệng tốt hơn. - Bà muốn về bản bổ sung di chúc của bà Llewellyn – Smythe? - Phải, tôi xin . hôm, bà Llewellyn thấy trong người được khỏe, liền cho gọi chúng tôi đến, gồm tôi và cậu Jim, cái cậu giúp việc làm vườn ấy. Chúng tôi vào phòng và thấy bà chủ ngồi trước bàn đầy những giấy tờ. Bà quay lại hầu người nước ngoài – chúng tôi gọi là Olga – và đại ý như sau: “Bây giờ cháu hãy ra, vì cháu được có mặt ở giai đoạn này.” Olga liền ra, sau đó bà Llewellyn – Smythe bảo chúng tôi lại gần và : “Đây là di chúc của ta”, vừa vừa chỉ tờ giấy mà bà lấy giấy thấm che mất phầ . “Ta viết vài dòng trước mặt các người, sau đó các người hãy ký vào đây để xác nhận chính ta viết và ký”. Và bà bắt đầu viết bằng bút chấm vào lọ mực, bà ấy chịu viết bút máy. Viết hai ba dòng gì đó, bà ấy ký, rồi bảo tôi: “Bây giờ bà Leaman, bà hãy ghi tên và địa chỉ vào đây”. Tôi làm theo, rồi đến lượt Jim. Bà Llewellyn – Smythe tỏ vẻ hài lòng, tuyên bố: “Các người nhìn thấy ta viết và ký, ở đây lại có chữ ký xác nhận của các người, thế là hợp pháp. Thế là xong, rất cảm ơn”. Lúc chúng tôi ra, tôi để ý đến điều. Chả là trong khi đóng cửa bị trục trặc, tôi ngó nhìn nhanh vào trong phòng, thực ra chẳng định nhìn gì. Bà hiểu ? - Hiểu. - cử chỉ vô thức. Bà Llewellyn – Smythe vừa đứng lên khỏi ghế. Bà rất khó khăn, tới giá sách, lấy ra quyển, đặt tờ giấy – bỏ vào phong bì – vào đó rồi để sách vào chỗ cũ. Tôi nhớ là quyển sách có gáy rất dày. Tôi ra và quên ngay chuyện ấy. Nhưng sau khi bà chủ mất, bọn công chứng là bản bổ sung bị giả mạo, tôi mới nghĩ ra là... là… Thấy bà lúng túng im bặt, Oliver ướm: - Thế bà có ý định tìm hiểu… - Vâng, có, có, xin thú , tôi tò mò muốn biết tờ giấy ấy viết gì. cho cùng cũng phải biết mình ký vào giấy gì chứ. Đó là lẽ tự nhiên, có phải ? - Phải, đó là lẽ tự nhiên. - Cho nên hôm sau, nhân lúc bà Llewellyn – Smythe Medchester vắng và tôi vào dọn phòng, tôi đến chỗ quyển sách. cuốn sách cổ xưa từ thời nữ hoàng Victoria, nhan đề: Enquire Within upon Everything (#1). - Bà tìm thấy tờ giấy và đọc hết nội dung? - Vâng, thưa bà. Tôi đọc. Đó là văn bản làm đúng pháp lý. Ở trang cuối, tôi nhận ra mấy dòng bà Llewellyn – Smythe viết trước mặt chúng tôi, mà chúng tôi đặt bút ký hôm trước. Chữ viết ràng, dù bà ấy có thói quen kéo dài các mẫu tự rất nhọn. - Và giấy ấy viết gì? - Quả , tôi nhớ từng chữ, chỉ biết là nó đến bản bổ sung thay đổi hẳn các ý định trước đó vì bà trao toàn bộ tài sản cho Olga… Seminoff, để cảm ơn vì công lao hầu hạ tận tụy. Tiếp theo là chữ ký của bà, của tôi và của Jim. Đọc xong, tôi bỏ lại vào phong bì, đặt đúng vào trang cũ của quyển sách rồi trả lên giá. Tôi bất ngờ vì điều đọc: con bé xa lạ ấy mà lại thừa kế toàn bộ tài sản của bà Llewellyn – Smythe! Bản thân tôi chẳng ưa gì Olga, nó hay lên mặt với các gia nhân khác trong khi đối với chủ lại rất quỵ lụy. Nó toan tính lợi ích cá nhân mà. Lạ nhất là tại sao bà ấy để lại gì cho người máu mủ trong nhà. Nhưng ngay sau đó tôi quên hết, cho đến ngày mọi thứ tóe loẹ Khi bà chủ chết, bản bổ sung được mở ra trước công chứng, nhà chức trách tuyên bố văn bản thể do bà Llewellyn – Smythe viết, có người nào bắt chước chữ ký và chữ viết của bà. - bà làm gì. - làm gì, vì thế lâu nay tôi cứ băn khoăn. Thoạt đầu tôi nghĩ các công chứng viên thế chỉ vì ưa Olga, giống như nhiều người khác. Tôi hiểu luật, nên cho rằng đến khi bà Drake Olga thuộc họ hàng thân thích, tiền trở về với người thừa kế trực tiếp, thực ra như vậy cũng đúng thôi. Và đúng là như thế , vụ việc đưa ra tòa. Tài sản thuộc về Drake, còn Olga trốn biệt, chắc là về nước gốc gác của ấy, như thế càng chứng tỏ ta từng có mưu mô bất chính nào đó để buộc bà Llewellyn – Smythe truyền lại tài sản. - Những chuyện này xảy ra từ hồi nào? - Xem nào… bà Llewellyn – Smythe mất cách đây gần hai năm. - Và chiều hướng xoay chuyển của vấn đề làm bà day dứt? - . Lúc đó tôi tin rằng Olga có hành động xấu xa gì đó, và rồi mọi việc lại đâu vào đấy, tôi cho là mình có gì cũng chẳng thay đổi được. - Vậy cái gì khiến bà thay đổi ý kiến? - Đó là cái tội ác kinh tởm vừa mới xảy ra. Nghe Joyce tuyên bố chứng kiến vụ giết người, tôi chợt nghĩ hay là con bé thấy Olga giết bà chủ để mau hưởng thừa kế. Olga biến mất sau khi bị các công chứng và Cảnh sát thẩm vấn, chứng tỏ nó chột dạ vì lương tâm trong sáng. - Bà thực trông thấy bà Llewellyn – Smythe viết và ký cái văn bản mà sau đó chính bà và Jim cũng ký? - . - Như vậy văn bản phải giả mạo. - Tôi , và nếu Jim có đây, hẳn cũng thế. Nhưng khỏi đây từ năm ngoái, sang Oâxtrâylia, và tôi biết địa chỉ. - Bây giờ bà muốn gì ở tôi? - Tôi muốn bà hỏi xem tôi có nên tất cả với nhà chức trách hay . Chưa bao giờ có ai hỏi tôi về bản di chúc cả. - Họ bà là Leaman. Còn tên? - Harriet. - Harriet Leaman, tốt. Còn Jim, họ là gì? - Để nguyên, tôi nhớ … Jim Jenkins. Phải rồi, Jim Jenkins. Tôi rất biết ơn nếu bà giúp tôi chút gì, vì lúc này tôi rất lọ Vụ án mạng vừa qua có vẻ là Joyce bắt gặp Olga giết bà Llewellyn – Smythe… - Có thể là bà phải nhắc lại tất cả chuyện này trước mặt người công chứng đại diện của bà Llewellyn – Smythe. - Vâng, tôi tin cậy bà. - Tôi cố hết sức để họ khỏi gây phiền phức cho bà. Oliver bỗng nhìn chăm chăm vào bóng người vừa xuất ở đầu đường. Bà Leaman đứng lên, xỏ găng tay, ấp úng vài câu xin lỗi rồi ra về. Poirot lên tới nơi. Oliver hỏi: - Ông sao thế? Có vẻ vui? - Chân tôi đau quá. - Tại đôi giày da véc ni của ông đấy. Mời ông ngồi và xem thu lượm được những gì. Sau đó, tôi xin kể đôi điều làm ông rất ngạc nhiên! Chú thích: (1-) thứ bách khoa thư của người nội trợ.
Chương 18: Poirot ngồi xuống, duỗi chân, thở phào: - A! khá hơn rồi… - Xin cho phép khuyên ông điều, là về nông thôn, nên giày vécnị Khổ cái là ông cứ thích đàng hoàng cợ Ông quan tâm đến bộ quần áo bên ngoài hơn là thuận tiện. Với tôi, thuận tiện là hết. Qúa năm mươi rồi, chỉ điều đó là đáng kể. - Này , chưa chắc tôi tán thành ý kiến cậu. - Như vậy là sai, vì càng có tuổi ông càng khổ vì chuyện đó. - Thôi nào, hãy trở về với câu chuyện của chúng tạ luôn luôn bảo tôi phải làm gì, nhưng mỗi việc ngày nay đều có quá khứ của nó. quá khứ vẫn xen vào tại, nhưng có từ hôm qua, hoặc tháng trước, năm trước. Cách đây năm, hoặc hai, hoặc ba, tội ác diễn ra, em bé nhìn thấy, và vì thế em phải chết cách đây bốn ngày. Phải thế ? - Đúng, nhưng… có thể ta lạc hướng khi coi đó là tội ác có chủ định, trong khi thực ra chỉ là hàng động của kẻ điên loạn. - Nếu nghĩ thế chắc chả đến tìm tôi. - Vâng, có thể. Dù sao tôi vẫn cứ ngờ ngợ. Đến nay ông đạt những gì rồi? - Thu thập các chi tiết. Những chi tiết, đến lúc nào đó, khớp lại với nhau theo ngày tháng chúng xảy ra. Tôi cũng biết được là ở đây ai tin vào những lời Joyce Reynolds . - Rằng em chứng kiến vụ án mạng? Nhưng chính tai tôi nghe thấy mà! - Đành thế, nhưng vì ai tin là em , ta buộc phải chấp nhận là em chẳng chứng kiến việc gì tương tự. - Tôi có cảm tưởng là đáng lẽ tiến lên, ông thụt lùi. - , tôi chắc mọi ổn. Chẳng hạn cái chuyện giả mạo giấy tờ. Có người nước ngoài tranh thủ cảm tình của bà già giàu có để được hưởng thừa kế. này có làm giả di chúc và bản bổ sung hay , hay là người nào khác làm hộ ta? - Nhưng là ai? - Trong làng còn có chàng từng ra tòa vì tội giả mạo giấy tờ, song được xử vì mới là lần đầu. - Tôi có biết ? - . chết. - Ồ! Lâu chưa? - Gần hai năm. Thấy chưa, tôi có linh cảm là những kiện có vẻ riêng rẽ lại có liên quan với nhau. - gợi ý cần được ghi nhận. Tuy nhiên tôi chưa hiểu… - Tôi cũng vậy, lúc này chưa hiểu, nhưng tin rồi ghép ngày tháng lại . Trong cùng thời gian, những người mà ta quan tâm ở đâu, làm gì. Mọi người đều nghĩ là Olga thảo bản bổ sung, và về điểm này hẳn là có lý. Bản bổ sung làm lợi cho ta mà? Nhưng, xem nào, xem nào… - Xem cái gì? - sắp về London, hay còn định ở lại? - Ngày kia tôi về. Tôi còn công việc, thể vắng lâu. - này, nhà có chỗ để mời khách? - Về nguyên tắc, . Tôi rất ghét phải thay đổi nếp sống vì những người quen vớ vẩn. Với bạn thân, khác. Người nào tôi ưa bao giờ cũng được đón tiếp thịnh tình. - Nếu cần, có thể nhận hai người khách, được ? - Có thể. Ai vậy? - có hiểu bà bạn của , bà Butler? - lắm. Chúng tôi quen nhau trong chuyến du lịch. Tôi thấy Judith Butler có tính cách hay hay, dễ mến. Vậy là ông muốn tôi mời Judith và Miranda về nhà? - Chưa vội. Để tôi chờ xem số ý kiến của tôi có căn cứ . - số ý kiến của ông? Bây giờ, ông hãy nghe. Tôi có tin mới đây. - Thế tuyệt quá. - Chưa nên mừng vội. Cái này chắc làm các ý kiến của ông đảo lộn. Nếu tôi cái chuyện giả mạo mà ông vừa lại ấy, cho cùng là phải giả mạo, ông nghĩ sao? - Thế là thế nào? - Bà Llewellyn – Smythe tự thảo bản bổ sung vào di chúc, nhưng toàn bộ tài sản cho con bé ở, bà ấy ký trước mặt hai người làm chứng, hai người này sau đó cũng hạ bút ký vào cuối bản bổ sung. - Bà… Leaman, đúng tên như thế? – Poirot hỏi lại và hý hoáy ghi chép cái tên Oliver vừa . - Harriet Leaman. Người làm chứng thứ hai là Jim Jenkins, di cư sang Oâxtrâylia. Olga Seminoff chắc về nước. Như vậy trong vụ này, có vẻ nhiều người ra . - Theo , ta có thể tin cậy lời chứng của bà Leaman tới mức nào? - Tôi nghĩ lẽ bà ấy bịa chuyện làm gì. Tôi tin là bà ấy ký vào tờ giấy, sau đó tò mò muốn biết giấy ấy viết gì, và tranh thủ cơ hội đầu tiên để lục lọi, chuyện ấy dễ hiểu. - Bà ấy trình độ ra sao mà biết đọc biết viết? - Biết chứ! Tuy nhiên tôi công nhận chữ viết của bàn tay người đau khớp đọc dễ dàng. Hay là về sau này, khi nghe những lời bàn tán về bản bổ sung, bà ấy mới tưởng tượng là đọc văn bản di chúc. - Nhưng đúng là có văn bản giả mạo… - Sao ông biết? - Từ miệng ông công chứng. - Có thể ông ta lầm? - Giới công chứng rất kỹ tính về vấn đề này. Họ còn đưa cho các chuyên viên giám định và chuẩn bị thủ tục đưa ra tòa xử. - Nếu vậy, có thể hình dung chuyện gì xảy ra? - ư? Vậy xảy ra chuyện gì?
Chương 19: - Hôm sau hoặc vài ngày sau khi thảo bản bổ sung, bà Llewellyn – Smythe có thể lại cãi lộn với hầu, hoặc là bà lại hòa giải được với hai vợ chồng người cháu, nên quyết định hủy bỏ bản bổ sung. - Rồi sao nữa? - Rồi… hừ, bà ta chết, và người hầu vội vàng sản xuất bản bổ sung giống như cũ, bằng cách bắt chước chữ viết của chủ và chữ ký người làm chứng; nhưng chữ ký của bà Leaman và Jim, ta có thể biết được do nhìn thẻ bảo hiểm của họ. Nhưng việc này qua mắt được các ông công chứng… - cho tôi gọi điện thoại được chứ? - Vâng, điện thoại của bà Judith, ông cứ việc dùng. - Bà ấy đâu nhỉ? - làm đầu. Miranda chơi. Điện thoại ở trong phòng khách gần cửa. Poirot vào, vắng mặt vài phút. Khi ông trở ra, Oliver hỏi: - Ông gọi điện thoại cho ai vậy? - Cho ông Fullerton, công chứng viên. Và bây giờ đến lượt tôi báo cho tin mới. Bản bổ sung, cái bản đưa cho công chứng xem và bị phủ nhận giá trị ấy, có chữ ký của bà Leaman, mà là của bà Mary Doherty, gia nhân, mới mất gần đây. Cũng có chữ ký của Jim Jenkins, di cư sang Oâxtrâylia, như bà Leaman . - Vậy đúng là có bản bổ sung giả… và hình như cũng có cả bản bổ sung . Rắc rối quá! - Rất rắc rối. - Hay là bản bổ sung ban đầu vẫn còn ở Quarry House, để trong cuốn sách Enquire Within upon Everthing? - Theo tôi biết, sau khi bà Llewellyn – Smythe chết, tất cả được phát mại, trừ vài đồ đạc và tranh ảnh gia đình. - Ông Poirot, vậy là cái bà Leaman lúc nãy bậy? - Có thể lắm. - Có ai cầu bà ta đến để láo? - Điều đó cũng có thể. - Có ai trả tiền, thuê bà ta đến để láo? - Khá lắm, khá lắm. cứ tiếp tục. - Tôi hình dung bà Llewellyn – Smythe, giống như nhiều đàn bà giàu có, có cáo tật hay thảo thảo lại di chúc, liên tục thay đổi tên những người thừa hưởng. Vợ chồng ông Drake vốn sung túc rồi, phải được hưởng phần tài sản lớn nhất, nhưng nếu ta căn cứ vào lời bà Leaman, biết bà Llewellyn bao giờ tỏ ý hậu đãi vài người khác nữa như hậu đãi Olga . Tôi rất muốn tìm hiểu kỹ hơn cái Olga này… - Tôi cũng vậy. - Aø thế còn cái giáo? - giáo nào? - Cái bị bóp cổ mà Whittaker với ông ấy. Tôi ưa lắm. Thông minh đấy, nhưng khó chịu. Nếu có người là ta nhúng tay vào vụ án mạng, tôi ngạc nhiên. - Chả nhẽ cho rằng Whittaker có thể bóp cổ đồng nghiệp? - cũng phải tính đến hết mọi khả năng chứ? Poirot lại theo con đường mà Miranda dẫn lúc đến, để rời nhà Judith Butler. Khi tới gần hàng rào, ông nhận thấy ở các bụi cây có khoảng trống mới mở, phù hợp với khổ người em bé. Ông ngược theo lối mòn của mỏ đá cũ, lần nữa trầm trồ ngắm nhìn cảnh đẹp trước mắt. Poirot suy nghĩ lát về cái loại di chúc mà các bà nhà giàu thường thảo, và những lời dối họ thường dùng để che giấu ý định của mình. Ông tự hỏi họ thường cất di chúc ở đâu, rồi tự đặt mình vào địa vị của người định làm giả và đánh tráo. ràng là bản bổ sung trình ra, coi là bản chính bị làm giả. thể nghi ngờ lương thiện của ông Fullerton là luật gia thận trọng, ông bao giờ lại khuyên thân chủ kiện, nếu có lý do và căn cứ chính đáng. Poirot lách theo chỗ ngoặt của đường mòn và lần nữa lại bị kéo trở về thực tại vì đôi giày véc ni bó lấy chân rất đau. Có nên bỏ con đường tắt này, ra đường chính để về nhà ông bà Spencer? Đường chính tất nhiên êm ái, dễ hơn. Bỗng ông sững người, dừng lại. Trước mặt ông, hai bóng người vừa xuất . Michael Garfield ngồi tảng đá thấp, giá đặt đầu gối, vẽ. Miranda về phía xạ Chàng nghệ sĩ ngẩng đầu: - A! Ngài Ria mép đây rồi! Xin chúc ông buổi chiều tốt lành. - Tôi có thể xem tác phẩm của ông được , hay tôi làm phiền? - Ông có thể xem, chẳng phiền gì cả. Poirot đứng ra phía sau lưng Garfield, gật gù ra vẻ tán thưởng. giấy là hình của Miranda được phác họa tinh tế. - Đẹp lắm! Poirot . - Tôi cũng nghĩ thế. - Tại sao? - Tại sao tôi vẽ chân dung Mirandả Cần có lý do tại sao ư? - Hẳn là phải có. - Ông đúng. Nếu tôi phải rời bỏ chốn này, có hai thứ muốn mang theo làm kỷ niệm. Miranda là . - Ông sợ quên được cháu sao? - Dễ quên lắm. Tôi là thế, nhưng quên, hoặc nhớ nổi cử chỉ, khuôn mặt, bông hoa hoặc nét phong cảnh gây ra nỗi buồn vô tả. Ta ghi lại… rồi tất cả tan biến. - Trừ khu vườn này, chắc vậy. - Ông nghĩ thế ư? Tất cả khung cảnh này biến mất nếu còn ai chăm sóc nó. Muốn giữ khu vườn này, cần rất nhiều tình , và chăm chút về chuyên môn. Nếu có hội đồng thị trấn đảm nhiệm việc đó – chắc rồi có – nó trở thành vườn hoa công cộng. trồng thêm cây cỏ lạ, thêm ghế đá và sọt rác.
Chương 20: - Ông Poirot! – Tiếng gọi của Miranda từ xa vắng tới. Nhà thám tử tiến lên mấy bước để to: - Cháu dạo chơi trong vườn ư? - Vâng, nhưng phải dạo chơi. Cháu tìm cái giếng. - Ở đây có giếng? - Trước đây có, người ta hay đến để cầu được ước thấy! - Bác biết người ta còn giữ lại giếng gần công trường đá. - Cái giếng có từ trước khi xây dựng công trường. Chú Michael biết nó ở chỗ nào, nhưng chịu chỉ. Michael chen vào: - Tự mình tìm thấy nó mới thích chứ. Nhất là khi cháu chắc là nó có. - Bà Goodbody là có. Bà ấy phải biết, vì là phù thủy! - Chắc ông biết bà phù thủy của làng chúng tôi, ông Poirot? Chẳng thần thông gì, nhưng bọn trẻ cứ đồn thổi quyền pháp của bà. Miranda : - Giếng có phép thần. Bà con thường đến đó khi cần cầu ước điều gì, bằng cách quay người ba lần và giật lùi. Chắc giếng ở xa đây. Bà Goodbody bảo nó bị bỏ hoang phế, dùng nữa vì em bé rơi xuống đó, lâu rồi. - Lại huyền thoại nữa của địa phương - Michael giễu – nhưng chú nghe thấy có giếng như thế ở Little Belling. - Lúc nào tìm thấy cái giếng của cháu, cháu bảo! - nên quá tin vào lời của phù thủy, cháu Miranda à. Nếu bà ấy là em bé rơi xuống giếng, chắc chỉ là con mèo thôi. - Tình tính tang, mèo ở dưới giếng – Miranda khe khẽ hát. Thôi cháu phải đây. Má chờ. Em nhoẻn miệng cười với hai người lớn, vòng qua suối rồi mất hút ở lối ngoặt. - Tính tình tang – Poirot lẩm bẩm – Em bé đúng ? Nghệ sĩ lặng lẽ nhìn thám tử, : - Cháu đúng. Có cái giếng trong rừng, lâu dùng, có lẽ vì nguy hiểm. Còn bảo là giếng thần, chắc là bà Goodbody bịa. Thôi cứ để cháu nó mơ về giếng thần. - Tốt! Thôi, tôi phải tiếp. - Ông về nhà ông bạn thiếu tá? - Vâng. Lúc nãy ông ông vẽ chân dung Miranda để nhớ đến cháu. Có nghĩa là ông sắp ra ? - Tôi định thế. - Nhưng ở đây ông sống tồi. - Dĩ nhiên, tôi có nhà cửa do chính tôi thiết kế, lại còn công việc nữa… nhưng tôi còn hứng thú như trước. - Tại sao? - Tại vì thiên hạ cứ muốn tôi làm cho họ những thứ kỳ cục. Có người muốn làm lại vườn, có người vừa mua lại được miếng đất, nhà chưa xây xong đòi tôi thiết kế phong cảnh cho hài hòa. - Nghe ông sắp làm lại vườn cho bà Drake? - Bà cầu, và tôi đưa ra vài đề án, bà ấy có vẻ thích. Tuy vậy, tôi chưa quyết định nhận lời bà. - Ông ngại là bà để ông làm theo ý ông? - Phải, mặc dù bà ấy hứa là kế hoạch của tôi được tôn trọng. Nhưng rồi bà ấy tìm cách ép tôi theo ý bà, và nảy sinh mâu thuẫn. Tốt hơn là tôi từ chối – cả bà và những người khác – và khỏi đây trước khi bị thiên hạ ghét. - Ông biết nước Hy Lạp? - Có, và tôi mong được về đó. Tạo dựng khu vườn sườn ngọn đồi Hy Lạp… - À này ông, ông ở đây khá lâu, ông có nghe đến chàng trai tên là Lesley Firrier? - Tôi nhớ chứ. Cậu ta làm việc ở văn phòng công chứng tại Medchester, phải ? - Cậu ta bị chết cách bi thảm? - Đúng vậy. tối, do những chuyện rắc rối tình cảm gì đó, cậu ta bị đâm chết. cặp kè với Snadra Grifin, vợ chủ quán, lại mê khác… - Làm bà kia nổi khùng? - Tất nhiên. Nên nhớ tay Lesley này có số đào hoa. - ta chinh phục những ? - Bất kể, miễn là được chút tiếng đủ để bắt chuyện là câu tuốt. - Ở vùng này thỉnh thoảng có những người nước ngoài đến làm ăn, - Đó là việc bình thường, họ đến làm thuê, hầu hạ các gia đình. - Lesley có quen Olga? - Tôi nghĩ là có, những chuyện ấy bà Llewellyn – Smythe có lẽ biết. Olga này xinh, hiểu tại sao Firrier lại mê… Tuy nhiên ở con bé này có sức hấp dẫn gì đó trong mắt thanh niên . Lesley chơi nhiều lần với Olga. - Những điều ông cho biết là rất quý. Michael Garfield tò mò nhìn nhà thám tử: - Tôi hiểu? - Tôi thử ngược dòng thời gian tới trước khi Lesley Firrier và Olga Seminoff lén lút gặp nhau, giấu bà Llewellyn – Smythe. - Ông biết , tôi dám bảo đảm là mọi việc diễn ra như thế. Tôi thường gặp đôi trai với nhau, nhưng Olga chưa bao giờ tâm gì với tôi. Còn Firrier, tôi chỉ quen qua loa. - Nhưng trước đó, trước đó nữa… dường như ta có chuyện rắc rối với Cảnh sát? - Nghe thế. Sau khi ra tù, được Fullerton nhận lại làm việc. Cái tay Fullerton tốt. - Người ta kể với tôi là ta bị xử về tội giả mạo giấy tờ. - Đúng. Hình như suýt nữa trôi chảy, nhưng rồi chính văn phòng nơi ta làm việc phát ra. - Và khi bà Llewellyn – Smythe chết, bản bổ sung, coi như do bà ta để lại, được đưa ra xem xét, hoá ra là tài liệu giả. - Ông có thử liên hệ hai việc lừa đảo ấy với nhau? - Như vậy cũng lô gích thôi. con trai làm sai lệch giấy tờ của chủ, lại dan díu với đưa ra bản bổ sung giả hòng thừa hưởng gia tài của bà già. - Thế… đời là như thế. Song riêng tôi, tôi bao giờ tin Olga có thể bắt chước hết chữ viết của chủ. Tất nhiên, nếu ta kéo cả Lesley vào vụ này, chắc họ tưởng là làm được việc. Song kinh nghiệm cho thấy Lesley cũng tài giỏi gì trong việc làm giả. Michael bỗng dưng nhìn trừng trừng Poirot bằng con mắt bực tức, sẵng giọng: - Nhưng tại sao ông lại đến chuyện này với tôi? - Tôi muốn biết. - Tốt hơn là nên biết, bao giờ biết. Hãy để cho quá khứ nghỉ yên là hơn. - thích cái đẹp, có phải ? Tôi, tôi muốn . Michael Garfield cười to: - Ông hãy trở về với những ông bạn Cảnh sát, để tôi yên hưởng khu vườn tĩnh lặng của tôi, thiên đường của tôi. Hỡi quỷ satan, hãy xéo !