Ngày hội quả bí - Agatha Christie (27 chương)

Thảo luận trong 'Các Thể Loại Khác (Kinh Dị, Trinh Thám..)'

  • ^^! Nếu bạn không gửi link bài viết trên Facebook được, hãy sử dụng link trong khung này để chia sẻ bài viết :
    1. snowbell

      snowbell Well-Known Member

      Bài viết:
      1,358
      Được thích:
      286
      Chương 11.1:

      Hercule Poirot ngước nhìn mặt của nhà “Quarry House”, công trình tiêu biểu cho lối kiến trúc nặng nề của thời đại Victoria. Ông dễ dàng đoán ra những gì có bên trong bốn bức tường dày: những chiếc tủ to màu gụ, gắn với những bàn dài và nặng, phòng chơi bi-a, ngăn bếp lộng lẫy, sàn lát bóng lộn và những lò sưởi sâu hoắm nhưng bây giờ chắc được lắp đặt hệ thống sưởi bằng điện hoặc bằng khí đốt.

      tầng gác, các cửa sổ đều kéo rèm che kín.

      Sau tiếng chuông của khách, bà già gầy guộc chạy ra, thông báo rằng ông bà đại tá Wood và được biết mọi người đều có thể được tự do vào dạo chơi, mất tiền. Cửa vào có biển đề, từ đây bộ năm phút là tới.

      Nhà thám tử dễ dàng tìm thấy đường chỉ dẫn, và bước chân vào lối thoai thoải xuống dốc, hai bên um tùm cây lá.

      Chẳng bao lâu ông dừng lại, tâm trí sáo trộn bởi nhiều ý nghĩ mơ hồ. Đầu óc ông chỉ tập trung vào cảnh quan xung quanh, mà vào nhiều nhận xét, nhiều chi tiết, buộc phải suy nghĩ cật lực, như ông thường . bản di chúc giả mạo… và , chính các được lợi vì bản di chúc giả mạo. nghệ sĩ từ xa đến để biến đổi cái mỏ hang thàng khu vườn đẹp như mơ… Poirot ngắm nhìn toàn cảnh bằng con mắt thám phục, gật gù vẻ hài lòng. Phong cảnh trước mắt ông còn dấu tích gì của bãi hoang xấu xí. Cái nhìn thấy lúc này chợt làm ông nhớ tới quang cảnh khác. Ông biết là bà Llewllyn – Smythe Airơlen và bản thân ông từng ở đó vài năm trước, nhân khi điều tra vụ án. Nhiệm vụ hoàn thành, ông tự cho phép thư giãn, thăm thú nơi đó vài ngày.

      Poirot còn nhớ khu vườn ông tới thăm là ở chỗ nào, chỉ mang máng nhớ nó ở gần vịnh Bantrỵ Khu vườn ấy khắc sâu vào ký ức ông vì nó giống chút nào với kiểu bố trí theo lối cổ điển mà ông vẫn thích xưa nay, những khu vườn ở Pháp như ở Versailles… Hôm ấy ông cùng nhóm khách du lịch lên thuyền tới đảo , rất bình thường, khiến ông lúc đầu chán và hối tiếc vì trót tham gia chuyến . Đôi giầy da ông bị sũng nước, gió lạnh lại lùa vào chiếc áo tơi mưa rất khó chịu. Ở hòn đảo khô khốc sỏi đá này có gì mà xem. Thuyền cập bến, mọi người ùa lên vui vẻ, còn Poirot chán ngán theo sau, càng càng thất vọng.

      Thế rồi, đột nhiên cây cối thưa dần nhường chỗ cho khoảng đất trống từ đó nhìn xuống thấy quang cảnh như mợ Cứ như là các vị thần cổ xưa mà các thi sĩ Airơlen vẫn xưng tụng, bỗng từ trong núi ra, dùng phép tiên tạo ra khu vườn mê hồn này. Cây cối, hoa lá, vòi nước róc rách, khách tham quan thể say đắm. Poirot đoán bà Llewllyn – Smythe hẳng cũng bị hút hồn vì khu vườn này, nên cũng muốn có cảnh tương tự Ở nơi mình ở, và chọn cái công trường bỏ hoang để tạo dựng.

      Và bà tìm người nghệ sĩ có khả năng thực giấc mơ đó của mình. Michael Garfield chính là người nhận làm công trình đó, tất nhiên với món tiền bồi dưỡng . Poirot đảo mắt nhìn khắp chung quanh: quả là nhà chuyên gia phong cảnh phụ lòng người đặt hàng.

      Nhà thám tử đến ngồi ở chiếc ghế đá, lòng suy nghĩ, tự hỏi biết những chủ nhân tại của Quarry House là người thế nào. Ông biết đó là vợ chồng đại tá hưu trí, nhưng Spencer chưa kể gì về họ. Ông có cảm tưởng họ gắn bó với dinh cơ này lắm, như bà Llewllyn – Smythe từng gắn bó.

      Poirot đứng dậy, thong thả bước theo lối . Mặt đất được nện bằng, nên dù liên tục phải lên dốc rồi xuống dốc, người nhiều tuổi vẫn lại dễ dàng, sợ mệt. Từng quãng lại có những ghế kiểu dân dã để bất cứ lúc nào cũng có thể ngồi nghỉ ngắm nhìn phong cảnh. Ông nghĩ bụng: nếu Michael Garfield vẫn còn ở ngôi nhà gỗ dành riêng cho ta ở đấy, mình rất mong được gặp…

      nghĩ vậy ông nhận ra từ xa xa, thấp thoáng dưới những vòng lá um tùm, có bóng người. Trong khi Poirot tới người đó cũng từ rặng cây ra. chàng trai đẹp lạ lùng, tuy nhiên nhìn gần ta hẳn trẻ: quãng từ ba mươi đến bốn mươi.

      Poirot lên tiếng trước:

      - Xin lỗi nếu tôi xâm phạm đến lãnh địa tư nhân. Tôi phải người vùng này, mới chỉ tới ngày hôm qua.

      - Ông khỏi phải xin lỗi – Giọng trong trẻo, nhưng thái độ lịch che giấu hờ hững – Dù đây là đất tư, thiên hạ vẫn tự do vào chơi. Ông và bà đại tá lấy làm phiền, miễn là khách đừng phá phách. Vả lại, chẳng ai nỡ làm vậy.

      - Phải, tôi cũng công nhận thấy dấu hiệu gì như thế. có giấy vương vãi, cũng chẳng cần thùng rác. Cũng hơi lạ, phải ? Nơi đây vắng vẻ, cứ tưởng phải gặp nhiều cặp tình nhân.

      - Tình nhân, họ dạo chơi ở đây. Nghe vườn này có ma.

      - Tôi tin! Ồ! Xin lỗi, tôi là Hercule Poirot.

      - Tôi, Michael Garfield.

      - Đúng như tôi đoán! là tác giả tạo nên kỳ diệu này?

      - Vâng.

      - Tôi giấu nổi ngạc nhiên khi thấy hòn ngọc mê hồn này được đặt giữa cảnh quan, xin , quá nhạt nhẽo. Xin chúc mừng. Thành công này hẳn phải làm hài lòng?

      - Có bao giờ con người có thể hoàn toàn hài lòng?
      Last edited: 15/3/15

    2. snowbell

      snowbell Well-Known Member

      Bài viết:
      1,358
      Được thích:
      286
      Chương 11.2:

      - tạo dựng khu vườn này cho bà Llewellyn – Smythe phải? Và người ta là sau khi bà ấy chết, ông đại tá Weston và vợ đến ở. Họ là những người chủ mới?

      - Đúng vậy. Họ mua cả cơ ngơi với giá rất rẻ. Nhà to đấy, hơi xấu nhưng khó bảo trì. Thời này ít ai muốn ôm lấy những nhà như trại lính ấy. Bà Llewellyn – Smythe để lại cho tôi theo di chúc.

      - Và bán nó ?

      - Phải.

      - Nhưng bán vườn?

      - Bán cả vườn là đằng khác.

      - Sao vậy? Xin lỗi về tò mò.

      - Ông hỏi những câu hơi khác với người khác hay hỏi.

      - Tôi hỏi phải là để biết việc, mà để hiểu các lý dọ Ví dụ, tại sao A hành động thế này mà thế khác? Tại sao B có thái độ ngược lại? Và vì lý do gì C lại xử hoàn toàn giống A và B?

      - Thế ông phải hỏi nhà sinh học. Hình như đó là vấn đề tiến hóa hoặc nhiễm sắc thể gì đó.

      - vừa hoàn toàn hài lòng vì bao giờ có thể đạt điều đó. Thế còn bà khách của ông, là người đặt hàng, bà ấy có hài lòng ?

      - Có, tới chừng mực nhất định.

      - Dù sao, sáng tạo ở đây cái gì rất đẹp, kết hợp khoa học với trí tưởng tượng phong phú. lần nữa, xin chúc mừng. Hãy nhận lấy khâm phục của cụ già sắp đến tuổi chấm dứt lao động của mình.

      - Nhưng nay, lúc này, vẫn lao động?

      - Vậy ra biết tôi là ai?

      ràng Poirot tỏ ra phởn phợ Ông ưa được mọi người nhận ra mình.

      - Ông dò theo con đường đẫm máu… Ở cái làng như nơi đây, tin tức lan nhanh. Người đưa ông đến đây cũng là nhân vật nổi tiếng, quen thuộc.

      - muốn bà Oliver?

      - Ariadne Oliver. Tác giả của những sách bán rất chạy. Phóng viên báo chí luôn bám lấy bà ta, phỏng vấn đủ thứ: về tình hình sinh viên nổi loạn, về chủ nghĩa xã hội, về thời trang của các đại, về quan hệ giữa những cặp trai sống chung hôn thú, tóm lại đủ các thứ chẳng liên quan gì đến tác giả.

      - Đúnh như ông . Và theo tôi, trò ấy đáng buồn. Tuy nhiên tôi nhận thấy họ cũng chẳng biết thêm gì về bà ta, ngoài cái thú ăn táo. Mà chi tiết ấy, công chúng biết từ hai chục năm nay và bà ấy cũng thản nhiên công bố như thế. Song tôi e rằng từ nay bà ấy thích ăn táo nữa.

      - Cũng vì chuyện táo mà ông tới đây, có phải ?

      - Phải. Những quả táo trong lễ hội quả bí. Hôm ấy, có mặt ?

      - .

      - Thế là may.

      - May? - Michael Garfield lặp lại, vẻ ngạc nhiên.

      - Có mặt trong buổi tối xảy ra án mạng chẳng có gì thú vị. Người ta lục vấn đủ điều, làm gì, ở đâu, và trăm câu hỏi tọc mạch khác. có biết em đó ?

      - Biết. Ở xứ này ai chả biết gia đình Reynolds. Mà tôi quan hệ tốt với tất cả dân làng.

      - Em Joyce đó thế nào?

      - Chả có gì đáng để ý. Giọng the thé, khó chịu. Quả , về em, tôi chỉ nhớ có thế. Tôi ưa trẻ con, chúng hay quấy rầy, Joyce cũng vậy. Hễ là toàn về mình.

      - Theo tôi, những người bình thường, chẳng có gì đáng để ý, hiếm khi có nguy cơ bị giết. Hung thủ giết người vì tình, vì thù hằn hoặc vì sợ hãi. Tùy theo từng trường hợp, song tất cả phải có khởi điểm… - Liếc nhìn đồng hồ, ông : Xin lỗi, tôi phải đây, vì có hẹn. lần nữa xin chúc mừng.

      Michael Garfield phải là người duy nhất Poirot gặp trong vườn. Khi tới đầu đường có lối rẽ ra làm ba ngã, ông trông thấy bé ngồi thân cây đổ. Ông tới gần, bé đứng lên:

      - Chắc hẳn bác là Hercule Poirot?

      Giọng lanh lảnh rất hợp với vóc người bé, mảnh mai. Có cái gì trong hòa nhập với khu vườn mê ly, gợi lên ý tưởng như nữ thần rừng xuất .

      - Chính tôi đây.

      - Cháu đón bác đây. Bác về dùng trà ở nhà cháu chứ ạ?

      - Cùng với bà Butler và bà Oliver? Đúng vậy.

      - Má và dì Ariadne (#1) – thêm, giọng trách móc: Bác đến trễ đấy.

      - Bác rất tiếc. Bác mải chuyện với người.

      - Cháu nhìn thấy rồi. Chú Michael, phải ạ?

      - Cháu biết chú ấy?

      - Biết chứ. Nhà cháu ở đây lâu, biết tất cả mọi người. Poirot tò mò, hỏi cháu bao nhiêu tuổi.

      - Mười hai tuổi, và sang năm, cháu vào học ký túc.

      - Cháu có thích ?

      - Bao giờ đến nơi mới biết. Nhưng bây giờ bác phải về nhà .

      - Phải, phải. Xin lỗi vì lại đến trễ. Cháu tên gì?

      - Miranda.

      - Theo bác, tên ấy rất hợp với cháu.

      - Giống nhân vật của Shakespeare?

      - Đúng. Ở trường cháu học Shakespeare?

      - Emlyn thỉnh thoảng có đọc vài đoạn kịch của ông.

      Lúc vào trục đường trung tâm, :

      - Chúng ta còn bao xa nữa, tới cuối vườn rồi.

      Ngoái nhìn lại phía sau, em hất hàm hướng về giữa vườn:

      - Chỗ kia là cái đài phun nước.

      - Đài phun nước nào?

      - Ồ! Cũ lắm rồi! Chắc nó có từ lâu, giờ vỡ hết. ai nghĩ đến việc xây lại.

      - đáng tiếc.

      - Bác có thích cái đài phun nước?

      - Cái đó còn tùy.

      Câu này, Poirot bằng tiếng Pháp. bé đáp luôn:

      - Cháu biết chút ít tiếng Pháp, nên hiểu.
      Last edited: 15/3/15

    3. snowbell

      snowbell Well-Known Member

      Bài viết:
      1,358
      Được thích:
      286
      Chương 11.3:

      - Có vẻ cháu học khá.

      - Mọi người đều bảo Emlyn là giáo viên giỏi. là hiệu trưởng, đôi khi tỏ ra quá nghiêm khắc, nhưng dạy rất tốt.

      - Cháu có hay vào đây chơi.

      - Rất thích. Bác biết , khi ở đây mọi người biết cháu đâu mà tìm. Cháu trèo lên cây, ngồi cành từ đó ngắm nhìn nhiều thứ. Cháu thích quan sát mọi vật xung quanh.

      - Những gì, chẳng hạn?

      - Chim chóc, và những con sóc.

      - Còn con người?

      - Thỉnh thoảng. Vì ít người qua lại.

      - Bác hiểu tại sao.

      - Có lẽ người ta sợ.

      - Lý do gì mà sợ?

      - Vì lâu rồi, có người bị giết ở cái góc kia. Là cháu , lúc đó chưa xây dựng khu vườn này. Người ta tìm thấy xác bị vùi dưới đống đá sỏi.

      Miranda đều giọng, tiếp:

      - Gần đây bạn Joyce lại bị dìm xuống nước chết ngạt. Má muốn cho cháu biết, vô lý, có phải bác? Cháu dù sao cũng mười hai tuổi rồi.

      - Joyce có là bạn của cháu ?

      - Có. Bạn ấy đôi khi kể những chuyện rất lạvề những ông vua Aán Độ, về những đàn voi. Bạn ấy có dịp du lịch Aán Độ. Cháu cũng muốn . Cháu và Joyce có chuyện gì đều kể cho nhau. Nhưng bản thân cháu có ít chuyện, nhiều bằng má. Bác có biết rằng má Hy Lạp. Chính trong chuyến ấy má làm quen với dì Ariadne Oliver.

      - Bà Perring, người nấu bếp của nhà cháu. Bà ấy kể chuyện đó với bà Mindens, người giúp việc, cháu nghe được. Ai đó dìm đầu bạn ấy vào xô nước, có phải ?

      - Các bà ấy có nghi ngờ cho ai ?

      - Cháu biết. Chắc họ chẳng nghĩ được ra ai đâu.

      - Còn cháu, Miranda, cháu biết ?

      - Tối đó cháu có mặt. Cháu bị viêm họng và hơi sốt. Má cho . Ta sắp vào vùng cây rậm, bác cẩn thận, vướng áo.

      Poirot nghe theo, nhưng lối hẹp chỉ vừa với em bé hơn là người lớn. dẫn đường tí hon tỏ ra rất ân cần, chỉ cho Poirot tránh những chỗ có gai, gạt vài cành lòa xòa để ông dễ dàng. Họ tới cuối vườn, men theo lối hẹp quanh vườn rau sơ sài, cuối cùng ra bãi trống trồng hồng, dẫn tới nhà gỗ.

      Miranda trước, bước lên bậc thềm, dừng lại trước cửa, dõng dạc báo tin với vẻ kiêu hãnh của người chuyên sưu tầm mới tìm được vật quý:

      - Con tìm thấy bác ấy rồi!

      Mẹ bé kêu:

      - Miranda! Con lại bác lối tắt ư? Đáng lẽ phải vòng theo đường chính!

      Oliver tiến tới, :

      - Tôi nhớ giới thiệu ông với bà Butler, bạn tôi, chưa nhỉ?

      - . Ở trạm bưu điện.

      Họ gặp nhau thoáng qua lúc tất cả đều đứng chờ trước quầy hàng. Bây giờ Poirot mới quan sát bà bạn của Oliver kỹ hơn. Judith Butler năm nay khoảng ba mươi năm tuổi, và nếu đứa con giống như nữ thần rừng , bà mẹ yểu điệu như thủy thần.

      - Thưa ông Poirot, tôi rất vui vì có dịp được cảm ơn ông cho phải phép. Ông tốt nhận lời mời của Ariadne mà đến Woodleigh Common.

      - khi Oliver cầu, tôi chỉ còn biết nghe theo.

      - khéo chưa! – Người vừa được nhắc đến kêu lên.

      - Bà ấy tin chắc ông có thể giải quyết cái vụ đáng buồn này. Miranda con, xuống bếp trông hộ mẹ nồi canh.

      Trước khi nghe lời mẹ, Miranda mỉm nụ cười ranh mãnh như muốn : “Mẹ lại muốn con ra ngoài để mẹ chuyện riêng, phải ?”

      Đợi con khỏi, bà Butler tiếp:

      - Tôi cố hết sức để cháu khỏi biết chi tiết về… về cái vụ khủng khiếp ấy, nhưng sợ chẳng giấu được mãi.

      - Vâng, thưa bà, ở cái làng tin tức lan nhanh, nhất là tin về thảm kịch như nó vừa xảy ra. Và dù sao thể tiến lên đường đời mà mở to mắt nhìn vật quanh mình. Trẻ con lại thường nhạy cảm, sớm làm việc ấy.

      Oliver chen:

      - Tôi nhớ Burns hay Walter Scott viết: “Trong ta luôn có đứa trẻ ghi chép.”

      Bà Butler tiếp:

      - Hình như Joyce Reynolds nhận ra điều gì liên quan đến vụ án mạng. Nhưng khó tin lời nó .

      - Khó tin cái gì?

      - Khó tin là nếu nó chứng kiến , sao để lâu thế mới . Điều này khớp chút nào với tính cách của nó.

      - Điều mà mọi người có vẻ hoàn toàn thống nhất, ấy là Joyce là con bé dối thành cố tật.

      Judith Butler thử đưa ý kiến:

      - Tôi hình dung có thể đứa trẻ bịa ra chuyện, nhưng rồi sau đó lại thành ?

      - Thưa bà, ta nên lạc hướng, hãy xuất phát từ vụ ám hại em Joyce.

      - Tôi chắc là ông phải tiến được khá rồi – Oliver . Có thể là ông ấp ủ lời giải của toàn bộ vụ án rồi.

      - Oái, xin chớ đòi hỏi tôi quá sức. vội vã quá.

      - Sao lại ? Thời nay nếu mau chân chẳng đạt được cái gì.

      Lúc này Miranda trở vào, tay cầm đĩa bánh.

      - Má ơi, con để lên bàn nhé? Mọi người chuyện xong chưa? Hay con lại phải vào bếp?

      Giọng em cười cợt. Bà Butler cầm ấm trà bằng bạc, cho trà và nước sôi, rồi rót trà ra, trong khi Miranda chăm chú bày bánh. Bà Butler :

      - Tôi và Ariadne quen nhau ở Hy Lạp.

      Ariadne Oliver tiếp lời:

      - Khi ở đảo về, thuỷ thủ giục tôi “nhảy ”, đúng lúc thuyền dềnh lên vì đợt sóng,thế là tôi ngã xuống nước. Judith giúp kéo tôi lên và thế là chúng tôi thân nhau. Phải thế , Judith?

      - Đúng. Với lại tôi rất thích cái tên Ariadne của chị. Chẳng hiểu tại sao, tôi thấy tên đó rất thích hợp với người.
      Last edited: 15/3/15

    4. snowbell

      snowbell Well-Known Member

      Bài viết:
      1,358
      Được thích:
      286
      Chương 11.4:

      - Hình như đó là cái tên Hy Lạp. Đó là tên thánh của tôi, chứ phải tôi nghĩ ra để ký bút danh. Nhưng chỉ thế thôi, nó dính dáng gì đến nội dung trong truyền thuyết. Chẳng hạn, tôi hề bị người bỏ rơi đảo!

      Poirot kín đáo đưa bàn tay lên râu mép để giấu nụ cười ông thể kềm chế khi hình dung Oliver là trinh nữ bị ruồng bỏ.

      - Cuộc đời mỗi người đều cứ phải phù hợp với số mệnh của tên mình – bà Butler .

      - Phải, và tôi thể tưởng tượng chị lại chặt đầu người , như trong truyện Judith và Holopherne.

      Mirada , từ tốn góp chuyện:

      - Nếu cháu phải giết ai, cháu làm cách rất êm dịu. Khó đấy, nhưng cháu muốn làm đau người khác. Cháu dùng thuốc mê, và người đó thiếp trong những giấc mơ đẹp, bao giờ tỉnh nữa – Cẩn thận xếp tách lên khay, em đề nghị: Má ơi, con đem những cái này rửa, và má nên dẫn ông Poirot xem vườn. Hãy còn vài bông hồng “Hoàng hậu” đấy má ạ.

      Em khỏi, Oliver nhận xét:

      - Miranda là đứa bé đặc biệt.

      - Bà có đứa con rất xinh – Poirot phụ hoạ.

      - Vâng, ngày nó xinh ra. Mìng chẳng biết trẻ con khi nó lớn lên ra sao, vì nhiều thứ còn thay đổi khi trưởng thành. Nhưng này, trông nó cứ như nữ thần rừng .

      - Cho nên cháu mê cái khu vườn bên cạnh cũng lạ.

      - Đôi lúc, tôi cứ muốn cháu đừng ham mê như thế. Cứ nghĩ nó vào cái khu hẻo lánh ấy, dù xa làng bao nhiêu, gặp những chuyện gì, tôi lại sốt cả ruột. Vì thế nhất định ông phảo khám phá xem tại sao Joyce lại chết thảm thê đến thế. Chừng nào chưa tóm được thủ phạm, chúng tôi còn chưa yên tâm, nhất là với lũ trẻ. Chị Ariadne, nhờ chị dẫn ông Poirot xem vườn. Tôi ra ngay.

      Trong khi chủ nhà vào bếp dọn dẹp, Oliver kéo Poirot ra ngoài. Mảnh vườn vào mùa thu này giống như mọi cái vườn khác. Còn lại vài đóa cúc tây và số bông hồng đỏ thắm. Oliver tiến về ghế đá, ngồi phịch xuống và mời Poirot cùng làm như mình.

      - Bà Judith nhận xét Miranda giống như nữ thần rừng. Còn Judith, ông nghĩ thế nào? – Oliver hỏi.

      - Tôi thấy bà ấy phải có tên là Ondine (#2).

      - Ý kiến của ông về chị ấy kia?

      - Tôi chưa có thời gian để hiểu tính cách của bà ấy. Chỉ thấy điều là bà có vẻ boăn khoăn chuyện gì.

      - Ông lạ lắm sao?

      - Điều tôi muốn, là , xem biết gì, nghĩ gì về bà ấy.

      - Vâng, tôi có dịp hiểu đôi chút trong chuyến cùng du lịch.

      - Trước đó, quen bà ấy?

      - . Chị ấy góa chồng. Chồng là phi công, chết vì tai nạn cách đây nhiều năm. Có cảm giác là ông chồng để lại gì nhiều, cái chết đột ngột khiến đời sống của chị đảo lộn, gặp khó khăn và chị ta thích nhắc đến.

      - Miranda là con duy nhất?

      - Phải. Judith làm thư ký nửa ngày ở vùng bên. có công việc cố định.

      - gặp chủ sở hữu ngôi nhà Quarry House?

      - Vợ chồng ông đại tá Weston ư?

      - , chủ trước kia cơ, bà Llewellyn – Smythe.

      - Hình như tôi có nghe ai tên đó, nhưng bà ta chết cách đây hai, ba năm. Người sống chưa đủ với ông sao?

      - . Tôi phải tìm hiểu cả những người chết hoặc mất tích.

      - Ai mất tích?

      - ở.

      - Trời đất! Cái bọn ở luôn có cái tật mất tích! Các bạn tôi kể nhiều chuyện về bọn này, ông thể tin.

      - , cái mà tôi thể bị giết. Ngược lại.

      - Ông định gì cở Chẳng có ý nghĩa gì.

      - Có thể. Dù sao…

      Poirot giở sổ, viết nguệch ngoạc vài chữ lên trang giấy kín.

      - Ông viết gì vậy?

      - Ghi vài việc xảy ra trong quá khứ.

      - Ông có vẻ rất quan tâm đến quá khứ?

      - Qúa khứ là cha đẻ tại – Ông chìa cuốn sổ, : có muốn biết tôi ghi gì ?

      - Tất nhiên!

      Poirot mở trang bên ghi:

      Chết, ví dụ: bà Llewellyn – Smythe (rất giàu), Janet Whiet (giáo viên), nhân viên công chứng (bị đâm). từng bị truy tố vì giả mạo giấy tờ.

      Phía dưới, ghi:

      ở biến mất”.

      - Tại sao ấy biến?

      - Vì ta sắp gặp rắc rối với luật pháp.

      Dưới nữa, Poirot chỉ vào từ “Giả mạo”, tiếp theo là hai dấu chấm hỏi.

      - Giả mạo? Tại sao?

      - tôi cũng tự hỏi. Tại sao?

      - Giả mạo cái gì?

      - di chúc, đúng hơn là bản bổ sung di chúc, có lợi cho ở.

      - Mưu toan chiếm đoạt? – Oliver hỏi.

      - Giả mạo giấy tờ, nghiêm trọng hơn nhiều so với ý đồ chiếm đoạt.

      - Tôi vẫn chưa hiểu điều này liên quan gì đến việc Joyce bị giết?

      - Tôi cũng chưa hiểu. Nhưng cần chú ý.

      - Còn chữ tiếp theo là gì vậy? Khó đọc quá.

      - Voi.

      - Voi?

      - Cái này có thể có tầm quan trọng của nó.

      Poirot đứng lên:

      - Bây giờ tôi phải . Xin lỗi hộ bà chủ nhà vì tôi trực tiếp chào từ biệt. Tôi rất vui được biết bà và con xinh đẹp của bà. với bà ấy hãy trông cháu cẩn thận.

      - Chào ông. Ông thích ra vẻ bí mật, và có lẽ ai có thể buộc ông làm khác. Ông chương trình sắp tới ư?

      - Sáng mai tôi hẹn gặp các ngài Fullerton, Harrison và Leadbetter, công chứng viên ở Medchester để hỏi nhiều chuyện, trong đó có chuyện giả mạo.

      - Rồi sau nữa?

      - cố gặp số người.

      - Những người có mặt ở tối liên hoan?

      - , những người tham gia chuẩn bị tối liên hoan.

      Chú thích:

      (1) Ở , trẻ con có thói quen gọi bạn của bố mẹ là “dì” hoặc “cậu”.

      (2) Thủy thần.
      Last edited: 15/3/15

    5. snowbell

      snowbell Well-Known Member

      Bài viết:
      1,358
      Được thích:
      286
      Chương 12.1:

      Văn phòng Fullerton, Harrison và Leadbetter là kiểu mẫu của những công ty lâu đời và có uy tín đặc biệt. Thời gian để lại dấu ấn của nó. Các ông Harryson và Leadbetter còn nữa, tên của họ được thay thế bằng ông Atkinson và ông Cole, người trẻ tuổi nhất. Ông Fullerton, cổ đông chính, vẫn cùng làm việc.

      Fullerton là ông già cao, khô khẳng, mặt lầm lì, giọng đều đều như quen với những lời diễn giảng luật pháp từ hàng nửa thế kỷ, ánh mắt đặc biệt sắc sỏi, soi mói. Vừa tầm nhìn của ông là mảnh giấy mà thư ký vừa trình lên, ghi tên và chức vụ người khách xin gặp.

      Fullerton ngước nhìn Hercule Poirot ngồi trước mặt. Người này có tuổi, có vẻ người nước ngoài, ăn mặc chỉnh tề, do thanh tra cục điều tra hình Henry Raglan và thiếu tá (về hưu) của Scoland Yard giới thiệu.

      - Thiếu tá Spencer, hả?

      Fullerton biết thiếu tá, người làm tốt công việc của mình, luôn được cấp khen. Ký ức mơ hồ trở lại trong trí óc ông, liên quan đến vụ án ầm ĩ hồi đó, mặc dù lúc đầu tưởng là đơn giản dễ quyết định. Ông nhớ thằng cháu gọi ông bằng chú, Robert, lúc đó giữ vai trợ lý luật sư bào chữa, còn bị cáo là kẻ khốn khổ ràng mắc bệnh tâm thần. tên ngu ngốc từ chối tự bào chữa, và hình như muốn gì hơn là sẵn sàng chịu bị treo cổ.

      Spencer được giao trách nhiệm lo vụ này. Bình tĩnh và cương quyết, ông dự suốt phiên tòa để nhắc nhắc lại là tòa kết tội người vô tội. Ông đúng, và người mà ông nhờ giúp đỡ để chứng minh vô tội của bị cáo, là người quốc tịch Bỉ. thám tử hưu trí của Cảnh sát Bỉ. Ông này lúc đó cũng còn trẻ, nay hẳn vào loại già – Fullerton nghĩ, và quyết định phải tiếp ông khách này cách trịnh trọng. Chắc ông ta cần ở ông số thông tin, những thông tin mà ông thể từ chối cung cấp, nhất là về vụ này – vụ giết hại trẻ em – ông cũng chưa tìm ra điều gì sáng sủa.

      Fullerton có ý kiến riêng của mình về lai lịch tên giết người, song ông chưa dám với ai, vì có bằng chứng.

      Những ý nghĩ đó thoảng nhanh trong óc, và ông Fullerton ho mấy tiếng trước khi cất giọng khàn khàn:

      - Thưa ông Poirot, tôi giúp được gì đây? Hẳn là ông đến về vụ em bé Reynolds, và tôi chưa có thể được điều gì có ích. Tôi biết chút gì về chuyện xảy ra.

      - Nhưng nếu tôi lầm, ông là cố vấn pháp luật của gia đình nhà Drake?

      - Quả . Tội nghiệp ông Hugo Drake, ông ấy là người dễ thương. Tôi biết gia đình Drake nhiều năm, chính xác là từ cái ngày họ đến tậu nhà “Cây táo” và định cư ở đây. Ông Drake mắc bệnh bại liệt khi hai vợ chồng du lịch nước ngoài. Trí óc vẫn minh mẫn, song chân bị liệt và rất đau đớn.

      - Theo chỗ tôi biết, ông cũng là người quản lý mọi việc của bà Llewellyn – Smythe?

      - Bà của ông Drakẻ phụ nữ đáng nể. Bà ta đến ởWoodleigh Common vì lý do sức khỏe, và càng để gần đứa cháu. Bà tậu Quarry House, dinh thự kềnh càng, tốn tiền lắm, trong khi có thể mua chỗ khác hay hơn. Sở dĩ bà chọn nơi đó vì có cái công trường bỏ hoang bên cạnh. Nhiều tiền, nên bà mời hẳn chuyên gia phong cảnh, tay này làm biến đổi thành nơi tuyệt đẹp, được giới thiệu cả tạp chí “Nhà và vườn”. Bà Llewellyn – Smythe chết cách đây hai năm.

      - Chết đột tử?

      Fullerton nghi ngại nhìn Poirot:

      - Tôi nghĩ xa đến vậy. Bà ta bị bệnh tim, thầy thuốc khuyên phải giữ gìn, nhưng bà ta đâu có nghe. Nhưng… xin lỗi, chúng ta lạc đề…

      - lạc đâu. Tôi muốn được hỏi ông số câu khác. Ví dụ, xin ông cho biết số điều về Lesley Ferrei, nhân viên cũ của ông.

      Fullerton nhăn mặt, ngạc nhiên:

      - Lesley Ferreỉ Trời, tôi gần quên mất tạ Nhớ ra rồi. ta bị đâm chết.

      - Đúng vậy.

      - Sợ rằng tôi có gì nhiều để về tạ Tối đó, khi ra khỏi quán Thiên Nga Xanh ta bị giết. Cảnh sát có nghi ngờ người này người nọ, nhưng bắt giữ ai, vì thiếu bằng chứng.

      - Theo ông, đó có phải là vụ án tình?

      - Hẳn rồi. Ferrier từ lâu lại với mụ chủ quán, sau lại bỏ rơi mụ, với khác. Hình như tay này có số đào hoa, được nhiều chạy theo nên cũng vài lần bị các ông chồng ghen tuông cảnh cáo.

      - Ông có hài lòng về công việc của ta?

      - Vừa có, vừa . ta làm việc tốt, nhưng đời sống riêng lôi thôi quá.

      - Ông có nghĩ, giống như Cảnh sát, rằng Ferrier bị phụ nữ đánh ghen đâm chết?

      - Khó

      Fullerton nhún vai, Poirot vẫn gặng:

      - Hay ông có nghi ngờ gì theo hướng khác?

      - Muốn trả lời, cần phải có bằng chứng xác thực. Tòa án bác bỏ những giả thuyết do Cảnh sát viện ra, chúng đủ thuyết phục để kết tội.

      - Có thể Cảnh sát nhầm khi chỉ tập trung vào giả thuyết là vụ án tình?
      Last edited: 15/3/15

    6. ^^! Nếu bạn không gửi link bài viết trên Facebook được, hãy sử dụng link trong khung này để chia sẻ bài viết :