1. QUY ĐỊNH BOX EBOOK SƯU TẦM

    Khi các bạn post link eBook sưu tầm nhớ chú ý nguồn edit và Link dẫn về chính chủ

    eBook phải tải File trực tiếp lên forum (có thể thêm file mediafire, dropbox ngay văn án)

    Không được kèm link có tính phí và bài viết, hay quảng cáo phản cảm, nếu có sẽ ban nick

    Cách tải ebook có quảng cáo

Nụ hôn đầu cho em - Suzanne Brockmann

Thảo luận trong 'Truyện Phương Tây'

  • ^^! Nếu bạn không gửi link bài viết trên Facebook được, hãy sử dụng link trong khung này để chia sẻ bài viết :
    1. thuytinhtim_1102

      thuytinhtim_1102 Well-Known Member

      Bài viết:
      1,916
      Được thích:
      3,133
      Chương bốn - Phần hai

      Tuy nhiên, Simon chắc sợ điều gì hơn, việc Frankie từ chối hay đầu hàng cám dỗ và phá hủy tình bạn của họ. Và đủ tin tưởng mình để đưa ăn rồi đưa về nhà. hiểu mình quá để biết trong lời mời đó có lừa gạt và rồi đối mặt với cự tuyệt hoặc thảm họa.

      Cho nên hủy lời mời của mình. viện cớ chợt nhớ ra cuộc hẹn từ trước. gặp vào sáng mai tại ngôi nhà đường Pelican rồi tháo lui.

      về nhà và tắm rửa, thay quần áo rồi đến khu resort. Đó là lúc gặp Chloe. ta mặc chiếc áo mỏng như sa phủ ngoài bộ bikini siêu đối lập hoàn toàn với bộ đồ tắm Frankie mặc lúc sáng. Chloe nhận lời ăn tối với ngay lập tức, dạn dĩ mời lên phòng mình trong lúc ta tắm và thay đồ.

      khước từ.

      bị làm sao vậy? ràng mời Chloe ăn tối với ý định về phòng ta đêm nay. Đó là nỗ lực của để thay thế người chơi giàu kinh nghiệm hơn trong trò chơi vừa mới bắt đầu với Frankie. cố gắng để kiềm chế cái cảm giác bồn chồn ghê gớm chắc chắn là xuất phát từ nhu cầu về tình dục này.

      Nhưng nó có tác dụng – ít ra là như dự kiến.

      Bởi vì dẫu Chloe có chiếc váy sexy và đôi giày đầy mời gọi, vẫn nguội lạnh trước ta.

      “Là à, Simon?” Clay Quinn tươi cười hỏi, cất cao giọng để át tiếng ban nhạc bắt đầu chơi trong góc phòng. “Rất vui được gặp lại .”

      Frankie xoay người và thấy Simon đứng ngay sau lưng .

      mặc quần dài chất liệu màu ngà theo kiểu bán đân dã của đảo và áo polo mà xanh nhạt, chân sandal. Màu sắc rất hợp với mái tóc vàng và nước da rám nắng vùng nhiệt đới của . Trông bảnh trai. Frankie ép ánh mắt mình trở lại đĩa thức ăn.

      “Tôi nghĩ gặp hai người ở đây.” Câu của Simon nhằm thẳng vào .

      lấy dũng khí trước khi ngẩng lên nhìn . “Tôi gọi cho Clay để báo là tôi nhớ ra họ của Jazz – là Chester – và ông ấy mời tôi cùng dùng bữa.”

      “Mời ngồi.” Clay dẹp tập giấy được khách sạn cung cấp mà ông dùng để viết những ghi chú sang bên, tạo chỗ trống bàn cho Simon. “Nhập bọn với chúng tôi nhé.”

      “Thực ra,” Simon , “tôi hi vọng được độc chiếm sếp tôi ít phút, nếu có thể.”

      “Tất nhiên rồi.”

      Sếp ta? Phải mất lúc Frankie mới nhận ra về .

      Simon nắm tay và kéo ra khỏi ghế.

      “Simon, làm gì thế?” dẫn ra sàn nhảy bằng gỗ.

      “Cái này gọi là khiêu vũ, Francine. Nghĩ xem, có thể nhảy mà cần đứng trong hàng và giày cao bồi.”

      Frankie muốn ở đó. muốn bị ôm chặt trong vòng tay Simon, chuyển động chầm chậm theo giai điệu của bản tình ca cũ khi cơ thể gần sát cơ thể cách nguy hiểm thế này.

      “Tôi muốn nhảy.”

      “Chiều ý tôi ,” Simon . “Tôi chọc cho em tôi điên đầu lên.”

      “Bằng việc khiêu vũ với tôi?”

      “Phải.”

      “Dù chuyện này là thế nào, tôi cũng cần biết hả?”

      “Có lẽ vậy,” Simon .

      “Nhưng tôi hề muốn khiêu vũ với . chơi xỏ Leila trò gì nữa, cứ tiếp tục mà có tôi.” Frankie cố gỡ tay khỏi tay .

      Nhưng buông ra. “Nếu muốn khiêu vũ cùng tôi, tôi cho cái giải pháp rất khả thi mà tôi mới nghĩ ra để tìm Jazz Chester.”

      Simon là người khiêu vũ giỏi, di chuyển với tự tin uyển chuyển có được qua nhiều năm kinh nghiệm. Frankie nhớ lại và Leila từng cười khúc khích ra sao khi đăng kí học khiêu vũ ở câu lạc bộ người cao tuổi và mùa hè khi từ trường đại học về nhà. học khiêu vũ bằng cách riêng của mình chiếm được cảm tình của những công dân giàu có và lớn tuổi đảo, hầu hết trong số họ giờ trở thành những khách hàng nòng cốt trong việc kinh doanh đồ cổ của .

      Trong những dịp hiếm hoi khiêu vũ với Simon trong quá khứ, Frankie thường nhắm mắt và thả lỏng bản thân, mơ mộng về thế giới hoàn hảo – trong thế giới đó, Simon Hunt thay đổi. Về cơ bản vẫn vậy. vẫn khôn ngoan và liều lĩnh, vẫn toát lên vẻ gợi tình và lôi cuốn pha thêm chút nguy hiểm, và vẫn có dáng dấp của kẻ làm tan nát trái tim phụ nữ. Thậm chí vẫn làm tan nát tất cả trái tim của tất cả mọi người – trừ .

      Nhưng khi gặp , thay đổi hoàn toàn. Khi đó thân của chung thủy. hình mẫu tuyệt vời của tình chân thành và bất diệt.
      Đúng là những mơ tưởng viễn vông…

      Tối nay Frankie thể gom nổi năng lượng mà mơ mộng, khi người phụ nữ với chiếc váy ngắn màu hồng kia – ràng là đối tượng hẹn hò mà Simon sực nhớ ra lúc ở văn phòng nhà đất - vẫn đứng bên quầy bar. thực xóa tan mơ mộng, và thực là đêm nay Simon về nhà với người phụ nữ này. Chúa phù hộ ta, song muốn nghĩ tới chuyện đó.

      “Tôi có ý hay, song tôi muốn hứa chắc bất cứ điều gì trước mặt Clay,” Simon với Frankie. “Xem tôi nhớ có đúng nhé. từng bảo bạn Jazz của học ở đại học Boston, đúng ?”

      Frankie gật đầu, cho phép mình liếc nhìn vào mắt trong tích tắc. Dù là ý hay hay , vẫn ghét việc nhảy với . ghét phải biết rằng sau đó nhảy với Quý Váy Hồng gì sáng nổi. Có lẽ Simon còn coi cùng đẳng cấp với nàng tóc đỏ yểu điệu đó.

      “Tôi có người bạn làm ở văn phòng sinh viên trường đại học Boston,” Simon tiếp tục. “Cậu ta có nợ tôi món. Nếu muốn, tôi có thể gọi điện và nhờ cậu ta tìm địa chỉ gần đây nhất của Jazz Chester máy tính.”

      Frankie quên ngay nàng tóc đỏ. Quên luôn là mình nhảy. quên hết tất cả, kể cả nỗi nguy hiểm khi nhìn vào đôi mắt xanh của Simon đủ lâu. “ chứ?” hỏi, nhìn chằm chằm. Nó quả là ý hay.

      .”

      quá ư đẹp trai, với những nếp nhăn quanh đuôi mắt khi cười, hàm răng tráng hoàn hảo và nụ cười tinh quái. Đôi mắt gần như mang màu ngọc lam huyền ảo, xen lẫn những đốm vàng và xanh lục.

      Nụ cười của làm đôi mắt trờ nên ấm áp lạ khi nhìn xuống , và rồi đột nhiên, có điều gì đó khẽ thay đổi. ấm áp trở thành sức nóng và ánh mắt thân thiện của trở thành cái vuốt ve mặt .

      Frankie ngưng thở. thể cử động, thể cưỡng lại khi Simon nhàng kéo lại gần khiến cơ thể hoàn toàn áp sát vào .

      cúi đầu xuống, và biết chắc rằng hôn . Nhưng . chợt dừng lại khi môi chỉ cách môi có chục phân, và lần đầu tiên trong đời Frankie trông thấy nét do dự và phân vân kì lạ trong mắt Simon Hunt.

      biết nhìn thấy gì trong mắt , có thể đó chỉ là hốt hoảng, nhưng dù gì nữa nó cũng làm buông ra.

      Bản nhạc kết thúc và Simon tiếp tục lùi lại, giữ khoảng cách giữa họ.

      “Tôi gọi cho bạn tôi ở đại học Boston ngay sáng mai.”

      Frankie gật đầu. Vừa xảy ra chuyện gì vậy? “Cảm ơn .”

      “Chắc là tôi , ừm… Tôi gặp vào sáng mai.”

      đưa về bàn và gật đầu cám ơn Clay Quinn. Mắt thoáng giao với mắt lần cuối trước khi biến mất vào đám đông.

      Simon xấu hổ. Frankie ước gì mình biết lí do tại sao. Có phải vì nhất thời hạ hàng rào phòng thủ xuống và để đọc được điều sâu kín trong mắt ? Hay bởi vì suýt hôn ?

      Chúa ơi, phải chăng ý nghĩ hôn lại đáng xấu hổ đến thế?

      “Có muốn về phòng em làm li ?”

      Simon nhìn gương mặt hoàn hảo như ngôi sao điện của Chloe qua bàn. ta cực kì xinh đẹp. Mọi thứ ở ta đều nổi bật – từ khuôn mặt thanh tú đáng tới những đường cong cân đối. Và ta mời về phòng mình.

      Đôi mắt ta với rằng đừng coi chuyện này. phải ai cũng được ta đưa ra lời mời kiểu này đâu.

      biết ta thích . làm ta vui vẻ suốt cả buổi tối. Và cái cách ta lướt mắt cơ thể chứng tỏ dấu hiệu ràng rằng ta cũng thấy hấp dẫn.

      Simon biết có thể về phòng ta, và cùng lắm là trong mười lăm phút, giường ta. Làm tình. Với ta. đêm vui vẻ qua đường với người đẹp xa lạ. Đó là tất cả những gì mà người đàn ông có danh tiếng như có thể mong muốn. Chỉ có điều là muốn. Thề có Chúa là hề muốn ta.

      nghĩ ham muốn tình dục bị ngủ quên bấy lâu nay của cuối cùng thức tỉnh vào buổi chiều ở văn phòng nhà đất. Và lần nữa, khi nhảy với Frankie, lại cảm thấy hấp dẫn thể xác thể lầm lẫn dâng trào. Khao khát tình dục. Cảm giác ấy quen thuộc với như hơi thở.

      Nhưng khi Simon ngồi xuống bàn ăn với Chloe. Frankie uống xong cà phê, và cùng Clay Quinn rời khỏi nhà hàng. Simon thấy họ chia tay nhau ở hành lang, Clay về phòng mình còn Frankie ra cửa tới bãi đỗ xe. Và khi Frankie rồi ham muốn của cũng biến mất.

      Chloe dùng để nhìn ngắm được, nhưng ta có chút khiếm khuyết về mặt đầu óc và quan điểm. Thực ra, Simon nhận thấy hình như ta có cả hai thứ đó đúng hơn.

      Suốt buổi tối dài lê thê phải liên tục đấu tranh với thôi thúc nhìn đồng hồ. Suốt buổi tối dài lê thê mòn mỏi chờ đến giây phút được tẩu thoát.

      Điều thể luận ra được là nguyên nhân tại sao. Tại sao đến phòng Chloe và tham gia vào trò chơi riêng tư của hai người? Thế quái nào lại chứ?

      bắt mình phải nhìn người phụ nữ ngồi bên kia bàn, thực nhìn ta. ta vô cùng quyến rũ. Bộ ngực lớn căng tròn, vòng eo thon , cái bụng phẳng và đôi chân dài hút hồn. Ừ ta phải sinh viên được học bổng của trường Oxford. Thế sao?

      Nếu là hai năm trước đây khước từ ta. Vậy tại sao bây giờ lại làm thế? Đúng là khước từ ta giống như khước từ những lời mời tương tự trong vòng bốn tháng trở lại đây.

      Bốn tháng. thực quan hệ trong bốn tháng. Bốn tháng tình dục, và giờ được trao cơ hội chấm dứt cơn khô hạn của mình với nàng nom như người mẫu tạp chí Playboy, vậy mà vẫn có hứng thú. chẳng có cảm giác gì với ta. lôi cuốn thể xác, phản ứng hóa học, hấp dẫn tình dục, có gì hết. gì hết. khó hiểu, nhưng là .

      Giống như tất cả phụ nữ từng hẹn hò trong bốn tháng qua, tuyệt nhiên có ham muốn bắt đầu mối quan hệ hời hợt, chóng vánh với Chloe. Và sex dường như là hoạt động quá thân mật để chia sẻ với người thậm chí muốn trò chuyện thêm câu nào.

      “Cám ơn,” Simon , “nhưng tốt hơn tôi nên về nhà. Sáng mai tôi phải dậy sớm.”

      Chloe nghĩ là đồ dở hơi, và buộc phải đồng ý. Chắc hẳn bị mất trí. Nhưng lúc sau ở bãi đỗ xe, mở khóa chiếc ô tô thể thao của mình, thấy cả người vì cuối cùng lên đường về nhà.

      Khi mở cửa xe định ngồi và sau tay lái, thấy chiếc xe chạy ra khỏi bãi đỗ, nhìn rất giống chiếc xe của Frankie. quay lại, cố nhìn cho người lái xe. Đó phải là Frankie.

      phải Frankie.

      Nhận thức này giáng mạnh vào Simon, khiến phải ngồi xuống. lách người vào sau vô lăng và nắm chặt lấy nó. lên phòng Chloe bởi ta phải Frankie. Nếu Frankie Paresty đưa ra lời đề nghị ấy với , ắt từ chối. lên phòng trong nháy mắt… Chết tiệt, có khi họ còn kịp lên tới phòng . Simon ấn nút tạm dừng thang máy và làm tình với ngay tại đó.

      Ý nghĩ ấy làm tỉnh trí. Và kích thích kinh khủng. Simon nhắm mắt lại, hình dung cùng Frankie ở trong buồng thang máy tạm dừng hoạt động, quần áo xộc xệch, bốn phía xung quanh toàn là gương, đôi chân Frankie ngoắc quanh eo , đầu ngửa ra sau trong niềm khoái lạc khi chôn sâu mình vào trong hết lần này đến lần khác…

      Chúa ơi, tối nay có Frankie trong vòng tay. ở rất gần , sắp hôn , nhưng cuối cùng lại rụt về. Vì bỗng có mối lo lắng kì lạ. Nhỡ đâu hôn cười vào mặt sao? Nhỡ đâu hôn cho bài từ chối văn vẻ cũ rích về việc hai người chỉ nên là bạn sao?

      Nhỡ đâu…

      điên rồ. đúng là điên rồ. cười nhạo sao chứ? hôn cho đến khi cười được nữa mới thôi. Và thôi cười.

      Mặc xác tình bạn hai mươi năm. Mặc xác cái thảm họa tiềm tàng. Mặc xác tất cả. Dù chuyện gì xảy ra, nó cũng đáng giá với giây phút đam mê ngọt ngào. ham muốn quá dữ dội, vui lòng đánh đổi hai mươi năm lấy đêm tuyệt vời duy nhất.

      Simon nổ máy xe với tiếng gầm lớn.

      Lần sau rút lui nữa.
      Hyunnie0302 thích bài này.

    2. thuytinhtim_1102

      thuytinhtim_1102 Well-Known Member

      Bài viết:
      1,916
      Được thích:
      3,133
      Chương năm

      Trông Simon kinh khủng. bước ra khỏi chiếc xe thể thao màu đen với bộ dạng như cả đêm ngủ. Mà có lẽ ngủ .

      Frankie dựa vào hàng lan can của ngôi nhà số sáu đường Pelican, cố gắng căm ghét người phụ nữ mà Simon chắc hẳn ở cùng đêm qua, cố thuyết phục bản thân rằng mình chẳng quan tâm. Nhưng có quan tâm. Tối qua ngủ trước khi nghĩ tới chuyện tìm kiếm Jazz Chester, vậy mà Simon Hunt vẫn chen vào giấc mơ của .

      Đủ rồi, thầm tuyên bố, hướng chú ý sang Clay Quinn loay hoay mở khóa cánh cửa gỗ lớn. Từ giờ trở tập trung nỗ lực – lúc ngủ cũng như lúc thức – vào việc tìm kiếm Jazz.

      Điện thoại của Clay rung lên, ông dừng tay để nghe máy, về phía đầu kia hàng hiên.

      “Chào buổi sáng.” Giọng Simon khàn khàn, và Frankie biết nếu quay đầu, thấy đứng rất gần. Nhưng thể cưỡng lại. quay đầu.

      đeo kính râm và mái tóc vẫn còn ẩm ướt, chắc chắn do vừa tắm qua. Bất chấp thời tiết nóng nực, cầm chiếc cốc có in logo của tiệm bánh rán nằm ở góc đường Ocean và Main, và nhấm nháp cà phê nóng qua khe hở của nắp đậy bằng plastic. mặc quần soóc Bermuda kẻ ca rô với áo polo trắng, chân xỏ đôi giày vải tất. Đôi chân săn chắc, rám nắng và phủ lớp lông vàng nhạt ánh lên dưới nắng.

      Trông vẫn rất tuyệt cho dù ràng kiệt sức. mỉm cười với . “Chào.”

      “Chào.” Frankie lùi lại, gia tăng khoảng cách giữa hai người.

      “Tôi có tin tốt và tin xấu,” Simon . “ muốn nghe cái nào trước?”

      Clay đóng điện thoại và quay lại tiếp tục chiến đấu với cánh cửa. “Hai người thông cảm,” ông vọng ra. “Văn phòng hỗn loạn – khách hàng lâu năm của chúng tôi vừa bị bắt tối qua. Từ năm rưỡi sáng nay tôi liên tục phải nghe điện thoại.” Điện thoại của ông lại reo. “Mẹ kiếp!”

      Ông vừa tiếp tục loay hoay với cảnh cửa, vừa mở điện thoại ra và kẹp dưới cằm. Frankie quay lại với Simon. “Tôi chỉ muốn nghe tin tốt,” bảo . “Còn tin xấu có thể bỏ qua.”

      “Tôi gọi cho bạn tôi ở đại học Boston.” Simon hạ thấp giọng và Frankie buộc phải nhích lại gần để nghe cho . “Cậu ta bảo tiết lộ thông tin cá nhân của sinh viên là việc làm trái phép, nhưng khi tôi giải thích chúng ta cần địa chỉ đó để làm gì, cậu ta trường hợp này được coi là ngoại lệ.”

      “Tốt quá,” Frankie . “Còn tin xấu là gì?”

      Clay Quinn mở được cửa, vẫn tiếp tục chuyện điện thoại. Simon tháo kính râm ra và nhét vào túi. Đôi mắt thâm quầng và đỏ ngầu như Frankie tưởng – chúng trong trẻo và sáng ngời. phải quay mặt .

      “Tôi tưởng muốn nghe tin xấu?” Simon hỏi vặn, theo vào nhà.

      Clay thẳng vào trong bếp, vẫn chuyện điện thoại. Giọng ông vang vang trong gian tĩnh mịch nghe kì quái.

      Bên trong nhà tối và lạnh. Điều hòa vẫn hoạt động. Nó chạy trong tám năm. Chỉ có ông lão Alex Bayard đến hiệu chỉnh theo định kì. Frankie đứng ở tiền sảnh lúc cho mắt quen dần. vẫn nhớ ngôi nhà này. Bà Alice Winfield luôn mở hết rèm cửa cho ánh nắng Florida rực rỡ tràn vào. Tất cả các bề mặt đều được bà lau chùi sạch , các ô cửa kính sáng như gương. Bà cụ ắt hẳn chậc lưỡi bất bình nếu biết ngôi nhà bị để mặc cho bụi bám theo thời gian thế này.

      “Tôi dối đấy,” Frankie . “Cho tôi biết tin xấu .”

      “Bạn tôi ở văn phòng. Cậu ta ở nhà.”

      Simon bước vào phòng khách và kéo những tấm rèm xếp nếp nặng nề ra. Ánh nắng yếu ớt xuyên qua những ô cửa sổ cáu ghét, rọi sáng những vẩn bụi bay la đà trong khí. “Cậu ta bị cảm cúm. Ít nhất phải đến thứ Năm cậu ta mới quay lại làm việc được.”

      “Ôi trời.” Thứ Năm. Hôm nay là thứ Ba. Mất những hai ngày chờ đợi…

      “Cậu ta cũng với tôi là chưa chắc những thông tin đó được cập nhật.” Simon tiếp. Đồ đạc trong phòng được phủ kín bằng những tấm vải trắng toát. vén tấm lên và ghé nhìn bên dưới, rồi hạ ngay xuống. “Quỷ thần ơi, nhìn cái này xem!”

      Frankie nhìn theo. Nó là chiếc bàn kiêm tủ ngăn kéo dạng hộp làm bằng gỗ màu đen sần sùi.

      “Gỗ sồi,” Simon , giọng đầy kính sợ. “Đó là gỗ sồi. Nó là món đồ gỗ của Stickley. Thứ này chắc phải nặng cả tấn.” rút từ túi ra chiếc đèn bằng cây bút và nằm ngửa ra sàn nhà, lưng dán xuống đất, ép cánh tay và đầu xuống để có thể lách vào dưới gầm bàn.

      “Đúng rồi!” kêu lên. “ dấu đỏ. Tuyệt!”

      “Cái gì đó…?”

      “Những món đồ gỗ cũ hơn và giá trị hơn do Gustav Stickley tạo ra,” Simon giải thích, nhổm dậy từ sàn nhà, mặc kệ bụi bám khắp người. “Chúng đều có cái nhãn – con dấu màu đỏ để nhận dạng. Những đồ gỗ về sau được đóng dấu đen. Chúng có giá bằng.”

      dợm bước để kéo tấm vải phủ khác ra, nhưng chợt dừng lại, nhìn lên Clay Quinn đứng ở khung cửa, tay ôm điện thoại. “Ông phiền chứ?” hỏi.

      Quinn nhún vai. “, chỉ cần phủ chúng lại khi xong việc thôi.”

      Frankie nhìn theo khi Simon rảo bước quanh phòng. kéo hết vải phủ ra khỏi những món đồ đạc cũng được làm bằng loại gỗ màu đen và có cùng phong cách mộc mạc như thế.

      “Tất cả đều có dấu Stickley đỏ,” Simon . “Và đều ở trong tình trạng hoàn hảo.”

      Điện thoại của Clay lại reo, và ông mất hút về phía nhà bếp. Simon quẳng đống vải phủ cho Frankie rồi xông vào phòng ăn, háo hức muốn xem trong đó có những bảo vật gì.

      Frankie vắt xấp vải lên lưng chiếc sofa thời Victoria. uống trà đá với bà Alice Winfield rất nhiều lần ngay tại căn phòng này, chiếc sofa này.

      Phòng khách là gian phòng thích nhất của bà Alice. Nó có ô cửa sổ lồi trông ra biển. Họ cùng nhau nhấm nháp những chiếc bánh quy tự làm và Alice thường kể về những năm tháng bà dạy học ở thị trấn gần Midland, Michigan. Bà dạy trong ngôi trường có duy nhất phòng học, và bé Frankie say sưa ngồi nghe những mẩu chuyện ấy.

      Ở góc phòng bên kia là chiếc bàn kiểu nắp cuộn của bà. Frankie lôi chiếc ghế ra và đẩy nắp bàn lên. Mọi thứ được sắp xếp gọn gàng trong những hộc kín đáo, y như bà để. Giấy trắng và phong bì đặt chung chỗ. cuộn băng dính Scotch và hộp kẹo cao su ở ngăn khác. cuốn sổ thu chi đặt ở ngăn thứ ba. Frankie lấy nó ra rồi giở xem.

      Chữ viết tay của bà Alice ngay ngắn và quen thuộc. Bà theo dõi cẩn thận số tiền chi tiêu cho thức ăn và quần áo trong thời gian bà ở Sunrise Key. trang khác dành cho những hóa đơn điện thoại, tiền điện và gas.

      có dòng ghi chép nào về hàng xóm láng giềng, có thông tin cá nhân nào cả.

      Các ngăn kéo bàn đầy chật từng chống giấy trắng và văn phòng phẩm khác.

      Bút máy. Bút chì. Dây chun. Kéo. chiếc hộp đựng đầy những cục tẩy đủ mọi hình dạng và kích cỡ rắn lại theo thời gian. Những tờ tem thư giá mười hai xu. Vài bộ bài buộc dây chun gọn ghẽ.
      Frankie đậy nắp bàn và bước đến giá sách nơi bà Alice để các album ảnh. Hồi trước rất thích lấy chúng xuống và xem những bức ảnh chụp con người thời xưa trong trang phục cổ. Nó là cánh cửa mở ra quá khứ. thích bức ảnh bà Alice thời thanh xuân, cười tươi rói, gương mặt rạng ngời khi bà đứng tay trong tay bên người chồng điển trai.

      Alice để các album theo trình tự thời gian giá, cứ ba đến bốn năm lại bổ sung quyển mới. Frankie tìm thấy quyển cuối cùng và rút ra. Ngoài bìa phủ đầy bụi và cẩn thận lau sạch khi mang tới sofa. ngồi xuống, đặt nó lên lòng rồi giở xem.

      bức ảnh chụp bà Alice đứng ngoài trời, cạnh khu vườn. Chính Frankie chụp bức ảnh đó. Gương mặt bà còn được mịn màng, nhưng nụ cười của bà vẫn trẻ trung và đôi mắt lấp lánh niềm vui như môt trẻ.

      Frankie lật qua vài trang. Kia rồi, được dán cẩn thận vào tờ giấy đen của album là bức ảnh chụp Alice, Frankie và Jazz.

      Cha dượng của Jazz – người Frankie tin chính là ông John bí chụp bức ảnh ấy.

      Chao ôi, ngày đó Frankie còn trẻ măng. vừa bước vào tuổi mười tám, và thế giới có vẻ đầy hứa hẹn. Tương lai của dường như sáng ngời tựa pha lê. Jazz ngỏ lời , và có lí do gì để tin rằng tình của họ kéo dài đến phút cuối – khi hai người đều già hơn và thông thái hơn cả bà Alice Winfield.

      Nhưng lầm. Jazz rời khỏi Sunrise Key và chưa lần quay lại. Alice Winfield cũng biến mất vài năm sau đó. Sức khỏe yếu kém cho phép bà trở lại với ngôi nhà thân thương ở Sunrise Key. Frankie rưng rưng nước mắt.

      Tám năm. Tám năm qua bà Alice vẫn còn sống, vậy mà ai buồn cho Frankie biết.

      Lẽ ra viết thư. Lẽ ra gửi cho bà những bức ảnh chụp đại dương và bầu trời. Lẽ ra đến ngôi nhà này và chiến đấu với đám bụi bẩn. Thậm chí còn có thể đến tận Michigan để thăm bà cụ nữa.

      giở sang bức ảnh bà Alice đứng ở bếp nướng chả hiên sau, vẫy tay với máy ảnh – hay đúng ra là với Frankie, người chụp ảnh, và nước mắt chợt ứa ra.

      Có lẽ Alice nghĩ Frankie quan tâm đến bà.

      “Này, Frankie, ổn chứ?” Simon ngồi xuống bên cạnh sofa, đôi mắt tối sầm lại vì lo lắng.

      Frankie vội vã lau mặt, nhưng những giọt nước mắt cứ rơi lã chã. chửi thề, đóng quyển album lại, sợ nó bị ướt, sợ cả thương hại của Simon. “Tôi ổn.”

      biết dối. vươn tay ra, nhàng đặt lên đầu , khẽ vuốt tóc . Bàn tay ấm áp, và khi ngước lên nhìn , thấy đôi mắt dịu dàng.

      ra tôi ổn tí nào,” thú nhận. “Với tôi bà Alice Winfield luôn là người đặc biệt.”

      Simon gật đầu. Trong mắt có chút giễu cợt nào, nở nụ cười nhàng hòa nhã. “Đó là điều tôi thích ở đấy, Francine,” bình thản . “ biết tường tận từng người sống đảo này – cả những người từng sống đảo nữa. Và đối với , mỗi người đều đặc biệt theo cách nào đó.”

      đưa mắt nhìn ra nền trời xanh rực rỡ qua những ô cửa sổ loang lổ vết bẩn. “Alice Winfield phải thiên thần. Bà ấy thẳng thừng và lỗ mãng đến mức khiếm nhã. Bà ấy cũng hà tiện ghê gớm. Nhưng chỉ nhìn vào mặt tốt của bà ấy.”

      “Bà rất cẩn thận với tiền bạc của mình. Từ tới lớn bà …”

      Simon mỉm cười ngắt lời . “Nào tôi có công kích bà ấy đâu.” nhích lại gần băng ghế, giơ tay chạm vào tóc lần nữa. “Tôi chỉ lấy làm lạ trước việc có thể nhắm mắt làm ngơ trước mặt tiêu cực và luôn tìm thấy phẩm chất nào đó bù đắp lại trong mỗi con người.”

      Frankie buộc phải nhìn nơi khác. Cảm giác về những ngón tay tóc ấm áp kín đáo trong mắt mạnh đến mức lấn át hết thảy. Nhưng thể vùng ra. nhắm mắt, cho phép mình tận hưởng tiếp xúc nhàng này.

      “Còn tôi sao, Francine,” Simon giọng hỏi. “ thấy gì ở tôi khi nhìn tôi?”

      ghé lại gần hơn, hơi thở phả vào tai ấm áp. Nếu quay đầu sang, đôi môi chỉ cách môi tiếng thầm. Nếu quay đầu sang, hôn , và Frankie chắc chắn nụ hôn ấy dẫn tới nhiều điều khác.

      nhìn thấy gì ư?

      Đột nhiên, Frankie nhìn thấy mồn hình ảnh người phụ nữ mặc váy hồng qua đêm với Simon. Có thể mới rời khỏi giường ta được vài giờ. Và có lẽ, sau khi chăm sóc đầy đủ cho “đối tác” của mình, Simon cảm thấy bây giờ có thể dồn hết tập trung sang Frankie.

      Frankie đứng lên. “Tôi thấy người là bạn của tôi trong nhiều năm,” vừa trả lời , vừa bước đến khung cửa sổ lớn và nhìn ra vịnh. “Người ấy sắp gây ra sai lầm tệ hại.”

      “Có thể nó là sai lầm, nhưng chắc gì là sai lầm tệ hại?”

      quay lại đối diện . “Chắc chắn là như thế.”

      Simon cử động. chỉ nhìn và mắt như tìm kiếm những câu trả lời, những bị che giấu. “Sao có thể quả quyết như vậy?”

      Frankie quả quyết. quả quyết được bất cứ việc gì khi nó dính dáng đến Simon. Đặc biệt là khi nhìn theo kiểu đó. Nhưng vẫn vững vàng đáp trả ánh mắt , và giọng cất lên chút run rẩy, “Si, tôi sắp tìm lại được Jazz Chester, và tôi cảm thấy đây có thể là cột mốc rất quan trọng trong đời mình.” cố gắng thuyết phục , đồng thời cũng thuyết phục chính mình.

      “Nếu cậu ta tốt đẹp như còn nhớ sao?”

      “Nếu ấy tốt hơn sao?”

      Simon vẫn nhìn chăm chú, và Frankie ép mình nhìn lại . mấy tin , và đó là quyền của . Nhưng biết gì với đây? Rằng thể mạo hiểm sa chân vào hấp dẫn thể xác bất ngờ bùng cháy giữa hai người? Rằng thể mạo hiểm đầu hàng những cám dỗ mà cơ thể khao khát bởi vì sớm muộn gì con tim cũng bị lôi kéo vào ư?

      Mà tim bị lôi kéo vào rồi còn đâu. Khi mơ mộng về Simon, mơ về đối tác nóng bỏng giường. Mà mơ về người . Và đó là chỗ trí tưởng tượng và thực bị mắc vào nhau cách vô vọng. mơ về người chỉ đáp ứng được những đam mê thể xác, mà còn thỏa mãn cả những nhu cầu tình cảm của nữa. người dùng thân mật xác thịt như phương tiện để biểu lộ những cảm xúc sâu kín nhất của tình , chứ phải người – như Simon – đùa cợt với tình để tìm niềm vui xác thịt.

      Frankie có thể giả bộ nhiệt tình tham gia vào mối quan hệ hời hợt, ràng buộc mà Simon rất giỏi tạo ra này. biết mình thích những cử chỉ âu yếm tiềm trong đôi mắt nóng bỏng của . Thực ra, phần lớn trong bị cám dỗ...

      Jazz, nhắc nhở mình. Việc tìm lại được Jazz Chester chỉ còn là vấn đề thời gian. So với nhạy cảm sâu sắc của Jazz, Simon có vẻ phù phiếm và nông cạn.

      “Bà Alice cũng quý Jazz,” với Simon. “Bà tin chắc rằng sau này chúng tôi ở bên nhau, biết đấy, nghĩa là lấy nhau ấy. Khi thấy Jazz quay lại Sunrise Key, bà buồn chẳng kém gì tôi. Bà với tôi rằng ước gì bà có thể vẩy cấy đũa thần và làm cho ấy xuất . Bà làm bất cứ điều gì để mang hai đứa tôi trở lại bên nhau. Hồi còn sống bà làm được điều đó, nhưng giờ đấy khi qua đời, biết đâu bà lại thành công.” Simon cuối cùng cũng đưa mắt , và Frankie biết mình thắng - ít nhất là vòng này.

      Và ngay bản thân cũng bắt đầu tin những lời của mình. Tìm được Jazz chuyện tốt đẹp.

      Simon lại ngẩng nhìn Frankie khi tới tủ sách và đặt quyển album lên giá. Quỷ tha ma bắt Jazz Chester. hề thích những gì mình biết về thằng nhóc năm xưa, và những cảm nghĩ ấy vẫn còn nguyên vẹn đối với gã đàn ông trưởng thành tại.

      Simon hiếm khi có đối thủ trong chuyện tình cảm với phụ nữ. ghen tuông vất vả kiềm chế là cảm giác thoải mái chút nào. chán ghét cái ý nghĩ mình còn thể cạnh tranh nổi với kẻ Frankie gặp suốt mười hai năm qua.

      Nhưng thế có nghĩa là Simon bỏ cuộc.

      “Tôi nghĩ níu kéo giấc mơ,” Simon bảo . Dù Jazz có chưa lấy vợ, cậu ta cũng thể hoàn hảo như trong trí nhớ của Frankie. đời nào. Hoa hoét và thơ thẩn hẳn là phần trong kế hoạch ngọt ngào được cậu tra vạch ra để dễ dàng có được chỗ ngồi cạnh bãi biển.

      nhìn , đôi mắt đen dò đọc nổi cuối cùng ráo nước mắt. Lúc trở vào phòng khách và thấy khóc, ruột gan bỗng dưng quặn thắt và hết thảy mọi suy nghĩ về những báu vật cổ hiếm có tìm được trong ngôi nhà đều bay biến.

      “Nếu thế sao chứ?”

      sao ư? Jazz nỗi thất vọng, và Simon có mặt ở đó để thu gom những mảnh vỡ.

      Frankie xem hết cả tủ sách và ra khỏi phòng, hướng đến cầu thang dẫn lên tầng hai của ngôi nhà. Simon theo sau .

      Clay Quinn vẫn chưa chuyện điện thoại xong, giọng ông vọng ra nghèn nghẹt đằng sau cánh cửa bếp đóng kín.

      “Đồ gỗ trong phòng ăn thế nào?” Frankie hỏi, bước lên cầu thang, chuyển hẳn chủ đề.

      “Hoàn hảo. Tất cả đều là gỗ sồi có dấu đỏ Stickley. Thực ra tôi tìm bộ bàn ghế giống y như vậy cho khách hàng để bày trong phòng ăn. Ông ta giao hẹn nếu đến cuối tháng mà tôi chưa tìm được ông ta chọn những sản phẩm kém chất lượng hơn từ nhà môi giới khác.”

      ngoái đầu nhìn . “Chẳng phải cuối tháng là...”

      “Thứ Hai tới. Chúng ta cần tìm được ông John này trước thứ Hai, bằng nhận được khoản tiền thưởng, còn tôi hỏng mất mối làm ăn này.”

      Simon theo Frankie vào gian phòng hẳn từng là phòng ngủ của bà Alice Winfield. Những tấm rèm nặng nề buông rủ khiến căn phòng chỉ còn được rọi sáng lờ mờ nhờ ánh sáng hắt vào ngoài hành lang.

      “Tôi nghĩ chúng ta nên trông chờ vào việc bạn tôi ở Boston tìm ra địa chỉ nay của Jazz,” Simon tiếp. “Ta cần xem những trang sổ sách chúng ta vừa photo lại và thử tìm họ của John trong đó.”

      Frankie quay lại đối diện với , gương mặt thanh tú của trở nên bí trong bóng tối ảm đạm. “Chúng ta ư?”

      “Hãy để tôi giúp tìm người này,” .

      gì, chỉ nhìn .

      “Mọi thám tử tư đều có cộng thân thiết,” Simon tiếp tục. “Sherlock Holmes có Watson. Spenser có Hawk. Rockford có bố mình. Thanh tra Clouseau có Kato...”

      Cuối cùng cất tiếng. “ nghĩ tôi có thể tự tìm được John.”

      ! phải thể! liên can tí nào đến chuyện đó,” Simon vội vàng trấn an .

      “Thế là về chuyện gì?”

      “Hai bộ óc vẫn tốt hơn . Công việc của tôi mấy ngày tới khá nhàng, và...” - vẫn nhìn , gương mặt gần như vô cảm - “và tôi phải thú nhận rằng, Francine, tôi vẫn ấp ủ hi vọng có thể đưa lên giường với tôi.”

      Frankie lộ vẻ ngạc nhiên trong tích tắc, rồi bật cười. “Rốt cuộc, cũng có thứ khớp với .”

      Simon hạ thấp giọng, lúc này mới chợt nhận ra bóng tối tĩnh lặng bao trùm gian phòng và chiếc giường lớn kiểu cổ được phủ tấm vải kê trong góc. “Nghĩ xem, nó có thể tuyệt diệu đến nhường nào.”

      Có điều gì đó lưu chuyển trong mắt , mách bảo Simon rằng cũng hình dùng được sức nóng hủy diệt mà hai người có thể tạo ra. “Có lẽ đúng.” xoay người và bước tới cửa sổ, gạt những tấm rèm ra. “Nhưng tôi xin luôn với , Si, có chuyện đó đâu. Cho nên nếu đấy là động cơ giúp đỡ của ...”

      Simon hơi nheo mắt trước ánh sáng đột ngột. “Vì tôi thích, Francine. Điều đó - và ý nghĩ đem lại hài lòng cho khách hàng tối quan trọng - là động cơ của tôi.”

      “Tôi nghiêm túc với những gì tôi lúc nãy, rằng và tôi phạm sai lầm nghiêm trọng.”

      “Tôi biết. Và có lẽ đúng.”

      “Chắc chắn là tôi đúng. . Và nếu cứ vượt qua những giới hạn đó...”

      đâu. Tôi hứa.”

      “Vô cùng xin lỗi,” tiếng Clay Quinn vang lên ở ngoài cửa, và Simon gần như nhảy dựng lên vì giật mình. “Nhưng văn phòng của tôi gặp rắc rối lớn và tôi phải ngay. Tôi vừa gọi ra sân bay. Chiếc máy bay tôi thuê sẵn sàng cất cánh ngay khi tôi đến đó. Hai người cứ ở lại đây bao lâu tùy thích. Tôi để lại chùm chìa khóa cho các bạn. Nó vẫn ở dưới thềm cửa ấy.”

      Frankie gật đầu.

      “À, và tôi cho số điện thoại của em trai tôi, phòng trường hợp liên lạc được với tôi.” Clayton lấy trong túi ra tập giấy có logo khu resort Seaholm. Ông viết cái tên và số điện thoại lên tờ giấy, rồi xé ra đưa cho Frankie.

      nhìn tờ giấy, rồi gấp lại và cất vào túi. “Nếu ông ngại, tôi cho Simon - trợ lí của tôi - đưa ông ra sân bay.”

      Trợ lí của . để giúp. Simon biết mình cười hớn hở như thằng ngốc, nhưng dừng được. Frankie chỉ nhìn lướt trong thoáng ngắn ngủi, nhưng đủ để gửi cho thông điệp lời: nếu quá đà, bị tống cổ. Được thôi, có thể chấp nhận những luật lệ đó.

      “Chúc ông chuyến bay tốt lành,” Frankie với Clay.

      “Cảm ơn, Tôi giữ liên lạc.”

      “Đợi tôi quay lại nhé,” Simon dặn Frankie, rồi cùng Quinn ra cửa.
      Hyunnie0302 thích bài này.

    3. thuytinhtim_1102

      thuytinhtim_1102 Well-Known Member

      Bài viết:
      1,916
      Được thích:
      3,133
      Chương sáu - Phần

      “Ở đây có ngôi nhà do John Marshall thuê trong hai tuần.” Simon với đến máy tính cá nhân và thoăn thoắt gõ thông tin ấy vào cái file họ tạo ra. “Tháng Tư năm 1974.”

      “Tốt lắm.” Frankie nhìn qua vai . “Giờ chúng ta có bao bao nhiêu cái tên rồi?”

      “Mười lăm ông John tất cả,” Simon . “Trong đó có năm người thuê nhà ở đường Pelican hai năm liên tục.”

      Những giấy tờ photo rải khắp mặt bàn trong bếp của Frankie.

      “Tại sao tên ông ấy phải là Percival?” Frankie đăm chiêu.

      “Hoặc Fenton.”

      cười khúc khích, “Hoặc Beauregard.”

      “Dudley.”

      “Hay Oscar?” Frankie lắc đầu, cười thoắt chuyển sang bực bội. “Hay bất cứ cái tên nào khác ngoài John? Cứ thế này mãi cũng tìm ra mất.”

      Cầu trời chuyện này đừng có kéo dài mãi mãi. Simon còn nhiều thời gian.

      Nó chả liên quan gì đến kì hạn cuối tháng với khách hàng, mà là sức mạnh ý chí của . ngồi ở cái bàn này với Frankie gần sáu tiếng đồng hồ, và năng lực của bị thử thách ác liệt. ghi nhớ từng nốt tàn nhang mũi và má , tỉ mẩn quan sát cách cắn vào môi dưới khi tập trung, và số lần phải kiềm chế vươn tay chạm vào nhiều đến mức đếm xuể.

      phải tìm được người đàn ông tên John này, từ đó mới có thể tìm ra con riêng của vợ ông ta là Jazz, để Frankie có thể tự nhận ra rằng gã đó đáng để phải tốn thời gian.

      Trong khi Simon đáng?

      . Nhưng thời gian Frankie bỏ ra với Simon - nhất là lúc ở giường - tuyệt diệu và đáng giá.

      Ít nhất là đáng giá với Simon. hiểu sao - biết làm thế nào hoặc tại sao điều đó xảy ra - Frankie nắm được chìa khóa giải phóng khỏi tình trạng tự nguyện chay tịnh gần đấy mắc phải. hiểu sao trong số bao nhiêu phụ nữ đời, Frankie lại là người duy nhất muốn, người duy nhất có thể giải thoát cho . Chuyện đó đến. buộc phải tin như thế.

      “Giá mà có cách thu hẹp ngày tháng lại,” Simon . “Rất nhiều người nghỉ hai đến ba tuần mỗi năm vào khoảng thời gian cố định. có chắc Jazz và gia đình cậu ta ...”

      “Tôi chắc mà,” Frankie ngắt lời. “Có lúc ấy ở đây vào tháng Tư, có lúc lại về vào tháng Hai hoặc tháng Ba. Lần cuối cùng ấy về đây là đầu tháng Năm. Tôi biết bởi vì...” dừng lại. “Ôi trời.”

      “Gì thế?”

      xới tung đám giấy bàn, tìm ngày tháng. “Đó là tháng Năm, tháng trước khi tôi bước sang tuổi mười tám. Tôi biết điều đó vì tối qua tôi vừa đọc lại nhật kí của mình.”

      Simon nhìn chằm chằm qua bàn. “Nhật kí của ?” Frankie có nhật kí ư? đâu có giống kiểu người viết lách. “ viết nhật kí từ hồi nào vậy?”

      “Từ ,” Frankie , ngẩng đầu lên. “Thỉnh thoảng tôi vẫn viết.” tìm được tờ giấy mình cần và đọc lướt qua nội dung. “Khỉ .”

      “Có chuyện gì vậy?”

      đẩy tờ giấy tới trước mặt . “ có tên riêng.”

      Simon liếc xuống bản danh sách. “Lại người mang họ Marshall nữa này.” cau mày. “Nhưng địa chỉ lại khác so với hai giờ ghi chép trước.”

      Frankie giật lại tờ giấy từ và dính nó lên tấm ván cách nhiệt tường bằng chiếc ghim màu xanh lá cấy. Rồi lao ra khỏi bếp, cánh cửa tự động lắc lư quanh bản lề trong lúc nghe thấy tiếng chân hối hả chạy cầu thang.

      Trí tò mò nổi lên, Simon quyết định theo, đứng dậy và lần đầu tiền được vươn vai sau mấy tiếng đồng hồ dài dằng dặc. leo cầu thang lên tầng hai của ngôi nhà với bước chân nhàn nhã hơn.

      Mặt trời bắt đầu lặn, và Frankie bật đèn trong phòng , Simon dừng lại ngoài cửa, nhìn từ tủ sách này sang tủ sách khác, rút ra những cuốn sổ đóng gáy xoắn với đủ mọi hình dạng và kích cỡ từ các ngăn rồi ném xuống giường.

      Ở đó có khoảng ba mươi lăm cuốn sổ, và vẫn chưa có dấu hiệu dừng lại.

      “Những cuốn nhật kí,” để giải đáp câu hỏi lời của .

      “Tôi có thói quen viết nhật kí mà. Chỉ cần tìm trong đó bất cứ dòng nào nhắc đến Jazz là chúng ta tìm ra ngày tháng ấy ở đảo này. Ta có thể đối chiếu những ngày tháng ấy với sổ thuê nhà và hi vọng tìm được họ của cha dượng ấy.”
      thảy tập nữa lên cùng chồng nhật kí rồi ngồi xuống, khoanh chân lại, lưng tựa vào đầu giường.

      “Trông có vẻ nhiều đấy,” , “nhưng tôi luôn đề năm ở bìa từng cuốn. Ta có thể bỏ qua những cuốn tôi viết trước mười tuổi, trước khi Jazz đến đảo lần đầu tiên, và những cuốn sau năm tôi mười tám.”

      Frankie giở cuốn ra, nhanh chóng kiểm tra ngày tháng, vứt xuống sàn, rồi làm tương tự với cuốn tiếp theo.

      Simon thể tin nổi. Frankie định cho đọc nhật kí của ư?

      đùa khi viết nhật kí từ bé. Chiếc giường phủ kín lớp lớp trang giấy chứa đựng những suy nghĩ thầm kín nhất của . Và những đam mê. Khao khát...

      Simon ngồi xuống mép giường và cầm lên cuốn sổ mỏng đóng gáy xoắn. mở trang ở giữa.

      Ngày 20 tháng Mười hai, thầm đọc, nét chữ Frankie đậm và hơi rối, nhưng đến nỗi khó đọc.

      “Chao ôi, ở Vermont càng lúc càng tối và lạnh. Ngay từ lúc nhận học bổng mình biết mình đủ tiền để về nhà vào các kì nghỉ, nhưng sau hai năm liền, mình mệt mỏi với nỗi đơn, và biết bà nhớ mình nhường nào cũng chẳng giúp ích gì. Những bông tuyết đáng xuất từ tháng Mười cứ rơi mãi ngừng. Trông chúng đẹp đấy, nhưng mình muốn về nhà. Còn năm tháng nữa, và hai năm nữa...”

      Trường đại học. Simon nhận ra Frankie viết những dòng này khi học đại học xa nhà. Sau khi tốt nghiệp trung học, phải mất gần ba năm mới dành dụm đủ tiền để đóng học phí đại học, dù rằng giành được học bổng. Nhưng phải bỏ dở và chưa bao giờ lấy được bằng. nhớ mang máng là bà ngoại bị cơn đột quỵ hay gì gì đó và cần Frankie chăm sóc cả ngày lẫn đêm. giở ngược lại mấy trang, dù biết rằng có lí do gì để tiếp tục đọc cuốn sổ này, nhưng dừng được.

      “Ngày mùng 4 tháng Hai. Bà phải vào viện với cơn đau tim. Bác sĩ West gọi tới trường. mình máy bay về nhà, đến Fort Myers, mình sợ lắm. Bà thể chết được. Mình để bà chết. Lâu lắm rồi mình cầu nguyện, nhưng giờ mình làm điều đó đây. Mình nghĩ mình quên cách cầu nguyện thế nào cho đúng rồi.

      Charlie chở mình ra sân bay.”

      Charlie? Charlie là ai?

      ấy biết mình quay lại nữa. Nhưng ấy bảo là sao cả. Sau khi tốt nghiệp đại học ấy xuống Sunrise Key và chúng mình làm đám cưới.”

      Simon cảm thấy nhói lên nỗi ghen tuông, nhưng rồi buộc mình phải tỏ ra lí trí. Gã Charlie này là người Frankie quen biết từ nhiều năm trước. ràng chuyện giữa hai người đến đâu. Dù Frankie có cảm giác ra sao với người này cũng là quá khứ rồi.

      Simon đọc tiếp.

      “Mình bảo là mình muốn lấy ấy, và ấy điên lên, nhưng sau đó lại dịu xuống và nén nhịn. ấy nghĩ mình thế chỉ vì buồn chuyện của bà. ấy bảo nếu mình cần gì chỉ việc gọi cho ấy. ấy hơn mình hai tuổi, nhưng học mình khóa và là đàn ông và ràng ấy cho là ấy hơn mình bậc về mặt trí tuệ. Nhưng ấy mới là người hơi có vấn đề về đầu óc. ấy cho rằng mình cần được chăm lo sao?”

      Simon nén được cười. Charlie lúc ấy sắp tốt nghiệp đại học tới nơi, nhưng hiển nhiên cậu ta còn phải học thêm chút nữa - đặc biệt là về Frankie.

      “Ước gì bọn mình phải chuyện,” những dòng nhật kí tiếp tục. “Giá mà bọn mình có thể dành hết thời gian để làm tình...”

      Cơn ghen quay trở lại, buốt nhói và đột ngột hơn hẳn ban nãy. Simon ngẩng nhìn Frankie. mải tập trung kiểm tra những cuốn sổ khác, nên cúi xuống đọc tiếp

      “Giá mà bọn mình có thể dành hết thời gian để làm tình, đắm chìm vào khoái cảm thể xác thuần khiết, chỉ có ham muốn vây quanh, tách rời khỏi thực tại với những việc gì nên làm và phải làm. Khi chúng mình làm tình, trong phút chốc ấy quên cái thói tự phụ, chín chắn và thực tế quá quắt ấy . Mình có thể giả vờ như ấy mang đến cho mình những bông hoa, và ấy tin rằng tình là thứ gì đó hoang dã và thể kiểm soát, thứ ấy hề lường trước, khiến ấy bốc cháy và run rẩy.

      Nhưng mình biết . ấy thích sex. Và ấy thích giọng miền Nam, màu mắt cũng như khuôn mặt mình, nhưng ấy thực mình. ấy nghĩ nếu có thể bắt mình ăn mặc theo cách ấy muốn trong những chiếc áo len dài tay và quần vải chéo, mình biến thành vợ đáng . ấy nghĩ những đứa con của chúng mình xinh xắn. Dĩ nhiên là chúng xinh xắn, điều đó có gì phải bàn cãi.

      Nhưng khi Charlie, mình với tưởng tượng. Mái tóc vàng và cặp mắt xanh của ấy gợi nhớ về Sunrise Key. Thành thực mà , gương mặt điển trai của Charlie làm mình nhớ đến Simon Hunt...”

      Simon giật mình ngẩng lên khi Frankie vừa giật cuốn sổ từ tay vừa đóng phắt nó lại.

      cần đọc chúng!” nhìn xuống cuốn sổ, lật trang bìa ra. “ chỉ cần kiểm tra ngày tháng rồi đặt vào chồng sổ này, hoặc vứt xuống sàn kia.” Hai má đỏ bừng khi thấy cuốn đọc đề thời gian là những năm học đại học. Nhưng vờ như xấu hổ chút nào khi vứt nó xuống sàn.

      “Charlie làm mình nhớ đến Simon Hunt.”

      ngẩng đầu nhìn . “ có định giúp hay ?”

      “Giá mà bọn mình có thể dành hết thời gian để làm tình, đắm chìm vào khoái cảm thể xác thuần khiết, chỉ có ham muốn vây quanh, tách rời khỏi thực tại với những việc gì nên làm và phải làm...”

      Simon cầm cuốn sổ khác lên, chợt ý thức sâu sắc rằng mình ở trong phòng ngủ của Frankie, chiếc giường của . nơi nào khác trái đất khiến thích hơn nơi này. Giờ đây, chỉ cần nghĩ ra được cách để dẹp hết những cuốn sổ này khỏi giường và kéo Frankie vào vòng tay ... ngả người ra sau, chống mình lên khuỷu tay, “Sao tôi chưa bao giờ nghe về Charlie nhỉ.”

      trả lời ngay. “Tôi biết. ấy có phải là bí mật gì đâu.”

      giở trang đầu cuốn sổ tay, nhìn xuống ngày tháng. Cuốn nhật kí này mới được viết cách đây vài năm. có được đề cập trong đó ? có viết dòng nào về ? gì? phải xem mới được...

      viết là Charlie làm nhớ đến tôi,” Simon .

      Frankie lấy cuốn sổ khác. “Tôi viết thế sao?” Giọng bình thản, sắc, và ngẩng lên. “Tôi nhớ.”

      dối, Simon sẵn sàng cá rằng nhớ từng ý nghĩ riêng tư viết trong những cuốn nhật kí này. cố hết sức ngó lơ , cho nên tận dụng ngay cơ hội và đặt cuốn sổ cầm xuống trước mặt, lật vội đến trang giữa. nhặt cuốn sổ khác và giơ cái bìa lên, giả bộ kiểm tra ngày tháng trong khi đọc những dòng chữ sắc nét giờ thành quen thuộc của Frankie trong cuốn sổ để mở giường.

      “Làm việc, làm việc và làm việc. Hết chuyến câu này đến chuyến câu khác. Mình đưa thuyền về bến, thả những vị khách hớn hở lên bờ, rồi đón đoàn tiếp theo. Mình dậy trước bình minh và về nhà lúc tối mịt. Có lẽ lúc nào đó trong tuần sau trời mưa, và mình được ngủ nguyên ngày. Có lẽ lúc nào đó trong thế kỉ sau mình cuộc hẹn hò thực ...”
      Hyunnie0302 thích bài này.

    4. thuytinhtim_1102

      thuytinhtim_1102 Well-Known Member

      Bài viết:
      1,916
      Được thích:
      3,133
      Chương sáu - Phần hai

      Simon giở qua liền mấy trang, tìm tên mình. A ha!

      “Gặp Simon phố. Leila định về thăm nhà vào tuần sau: Mình rất mong gặp nó - lâu quá rồi...” tiếp tục viết về tình bạn lâu bền giữa và em Simon. có từ nào về Simon nữa cả. lật đến trang cuối.

      “... Đây là lần cuối cùng mình mặc đồ tắm hai mảnh”, viết ngay đầu trang, dòng chữ được gạch dưới đập vào mắt .

      “Lẽ ra mình nên biết. Mình nên mặc nguyên áo phông mới đúng, nhưng thời tiết nóng kinh khủng. Lẽ ra mình phải biết sợ, mình phải biết bọn chúng gây chuyện, dựa theo tất cả những lời bình luận và ám chỉ thô tục của bọn chúng.

      Mình mải giúp gã gầy nhẳng kéo con cá lên. Thậm chí mình còn cảm thấy lưỡi dao khi tên béo cắt dây áo sau lưng mình. Nhưng chỉ cần như thế mình khỏa thân nửa.

      Mọi việc diễn biến quá nhanh. Thoắt cái chỉ còn lại tổng hòa hỗn loạn của những tiếng ồn, tiếng huýt sáo khoái trá, và tiếng hét. Tiếng hét là của mình. Những cảm giác mơ hồ, những chuyển động chớp nhoáng, diễn ra dưới thứ ánh sáng nhấp nháy, khắc sâu vào kí ức mình mãi mãi, tua tua lại hết lần này đến lần khác. Mình muốn nó biến . Có lẽ nếu mình viết ra...

      Mình buông vội cần câu, cố che người lại. Nước bắn tung tóe - cả cần câu và tên gầy rơi tõm từ mạn thuyền xuống biển. Còn tên béo phá lên cười khành khạch. Mắt đỏ ngầu và dấp dính ướt do nốc quá nhiều bia cộng với phơi nắng. “Ê, Hank, mày bắt được cặp hết sẩy đó!” Tức điên - mình giận điên người. Sao ngươi dám! Hai bàn tay dò dẫm, nắn bóp, sờ soạng người mình, hơi thở hôi nồng mùi cồn, bọn chúng cười dữ hơn - tất cả đều cười. Mình vung chân đá, trúng đích, mà vào đùi , mình như điên như cuồng, sao ngươi dám? Sao ngươi dám?”

      Cổ họng Simon tắc nghẹn, biết mình đọc những dòng Frankie viết chỉ vài giờ sau khi bị tấn công. Chắc chắn đấy chính là nguyên nhân khiến phải bỏ việc ở bến du thuyền. lật sang trang, thậm chí thèm giả vờ lén lút đọc nữa.

      “Mình lại đá cũng nổi giận, xé nốt phần bộ đồ tắm của mình, đẩy mình ngã ngửa boong, làm đổ xô đựng mồi câu. Bị cuốn theo dòng nước, con cá nhảy lên, quẫy tanh tách, giống như mình, bò bằng hai khuỷu tay, cố tìm đường thoát.”

      Đọc những dòng viết, cảm thấy dâng lên nỗi sợ hãi pha lẫn tức giận. Tim như nhảy lên tới cuống họng. Lạy Chúa lòng lành, có bị cưỡng hiếp . Liệu có kể với Leila về chuyện xảy ra vào cái ngày khủng khiếp ấy? Với chắc chắn đáng sợ, Simon hiểu rằng cho dù xảy ra chuyện gì, cũng được viết ra ngay trong cuốn sổ này. Muốn khám phá nó, chỉ cần đọc tiếp.

      “Chuyện này thể xảy ra. thể... mình...”

      Frankie giật phắt cuốn nhật kí khỏi tay Simon. “Chết tiệt, Simon, nghe tôi gì sao? coi riêng tư ra gì à?”

      Simon nhìn lên cặp mắt nâu phẫn nộ của Frankie và thấy ánh nhìn của nao núng trước vẻ mặt . với tới cuốn sổ, cần phải đọc hết, cần phải biết thực xảy ra chuyện gì. Nhưng giật nó ra xa khỏi , khiến với phải người .

      trợn tròn mắt kinh ngạc, miệng hơi há ra, và Simon nhận ra trong mắt mình đong đầy nước mắt.

      “Lạy Chúa, Frankie!” kéo lại gần, bao bọc trong vòng tay, vùi mặt vào mái tóc đen êm ái của .

      Người run lên vì tức giận, phẫn nộ và sợ hãi. Tại sao chuyện khủng khiếp như vậy có thể xảy ra với ngay ở Sunrise Key? Có lẽ vào ngày hôm đó ngồi sau bàn làm việc. Có lẽ ngắm nhìn mặt biển xanh biếc từ cửa sổ phòng mình, chuyện điện thoại, cười đùa vui vẻ - trong lúc bị đè xuống boong chiếc thuyền câu. cảm thấy đau đớn vì mình hề hay biết gì. cảm thấy đau đớn vì chưa bao giờ tìm kiếm vỗ về an ủi từ .

      Bây giờ an ủi đây, nhưng quá muộn. cảm thấy đưa tay lên, vòng qua người , rồi đột nhiên ôm lấy vỗ về. biết vì sao, cũng cần phải biết. Tình bạn của luôn vô điều kiện như vậy. Và, chao ôi, mùi hương tỏa ra từ thân thể mới tuyệt làm sao, cảm giác có trong vòng tay cũng dễ chịu... nhưng ngay cả điều đó cũng thể dập tắt nhu cầu được biết của .

      “Simon, có chuyện gì vậy? Người run này...”

      phải cho tôi đọc hết đoạn đó.” Giọng Simon nghe khàn khàn và căng thẳng, ngay cả với chính đôi tai .

      “Đọc gì cơ? Tôi nghĩ có điều gì để tôi viết trong nhật kí lại khiến cho ...”

      “Vụ cưỡng hiếp.” cố từ đó cách dứt khoát, nhưng giọng vẫn ngập ngừng.

      cảm thấy bỗng cứng đờ, hai vai và lưng cũng đột nhiên căng thẳng.

      lẩm bẩm chửi thề, câu duy nhất, và vùng ra khỏi . buông tay, bỗng dưng cảm thấy sợ chạm vào , sợ phải cử động.
      “Hẳn đọc những gì tôi viết trong đó,” , và chửi thề lần nữa. Như thể chống chọi nổi ánh mắt . nhìn xuống cuốn sổ trong tay, nhìn những quyển vứt la liệt dưới thảm trải sàn, nhìn ra trời chiều tối dần ngoài cửa sổ, nhìn vào bất cứ nơi đâu ngoài đôi mắt .

      “Sao chưa bao giờ kể với tôi?”

      “Tôi thể. Tôi thể kể cho bất cứ ai.”

      “Kể cả Leila?”

      ngẩng lên nhìn , vẻ mặt đầy thận trọng, rồi từ từ đóng cuốn sổ vào. “Tôi có cho Leila.”

      “Tất cả ư?”

      nét do dự thoáng qua, nhưng rồi gật đầu. Bụng Simon quặn lên đau nhói. đâu có .

      với Leila rằng bị quấy rối, và vì lo cho an toàn của bản thân nên cho cả đám người câu rơi hết xuống biển, rồi kéo bọn chúng về cảng.”

      Frankie lại gật đầu. “Đúng thế.”

      Nước mắt lại dâng đầy mắt , và lần này thể chớp mắt gạt chúng . Lần này chúng có nguy cơ trào ra. “Mẹ kiếp, cho tôi biết .”

      lắc đầu. “Đó là .”

      “Tôi tin .” Đôi mắt lóe lên phẫn nộ.

      “Tôi tin .”

      Đôi mắt lóe lên phẫn nộ. “Thôi được, tôi sâu vào chi tiết. chỉ trích tôi vì tôi muốn về chuyện khiến tôi bị tổn thương sâu sắc hay sao? Tôi có lỗi khi muốn đến cảm giác có những bàn tay ghê tởm xa lạ ở trong quần soóc của mình hay sao? Kể với Leila là tôi chỉ bị... quấy rối dễ dàng hơn nhiều.”

      Giọng Simon đanh lại. “Những điều tôi đọc được trong nhật kí của phải là quấy rối. bị tấn công tình dục.”

      Frankie lại nhìn xuống tấm thảm. “Phải,” , giọng rất . “Tôi bị tấn công.” Rồi ngước nhìn . “Nhưng bị cưỡng hiếp.”

      hay ? Simon biết phải tin vào đâu. nhìn cuốn sổ giữ trong tay. “ phải cho tôi đọc những gì viết.”

      mới tin tôi?”

      gật đầu.

      nhìn chằm chằm lúc rất lâu, như cân nhắc nên cho xâm nhập vào bí mật khủng khiếp đó của hay . Cuối cùng, đưa cuốn sổ cho . “ vinh hạnh khi biết tôi có được lòng tin tưởng của .” Câu mang đầy vẻ chế nhạo, nhưng giọng cực kì buồn bã. đứng lên. “Tôi cần chút khí trong lành.”

      Rồi, nhìn lại , Frankie bước ra khỏi phòng.

      Simon nhìn cuốn sổ trong tay với cảm giác sợ hãi. chầm chậm mở nó ra. Chầm chậm lật tới trang vừa nãy đọc dở.

      “Chuyện này thể xảy ra. thể... mình, toàn bộ trọng lượng trăm hai mươi lăm cân của , phục phịch, thô bạo, làm mình ngạt thở. Bọn chúng cười ha hả khi giật quần soóc của mình, khi lớp vải bị rách toạc. Những ngón tay sờ soạng, nắn bóp đến phát đau. Mình làm gì được. Bất lực, tê liệt vì sợ hãi. Mình chẳng thể làm gì để ngăn chuyện này lại. Bên cạnh mình, con cá quẫy đạp, cặp mắt đờ đẫn, miệng hớp hớp khí để thở, dù sắp chết nhưng nó vẫn nỗ lực, vẫn đấu tranh để tìm nước.

      con cá còn bỏ cuộc, huống chi là mình. Hai tay mình bị khống chế, nhưng răng . Mình cắn mạnh. Tên béo giật lùi lại. cánh tay mình được tự do - đó là tất cả những gì mình cần. Mình vung nó lên, cổ tay đập trúng mũi , đúng cách bà dạy. Máu phun ra. Tiếng rú đau đớn vang lên. rụt vội về. Mình lồm cồm bò dậy. Nhưng, Chúa ơi, bọn chúng còn những năm tên, và tên nào cười nữa cả. Mình chạy đến chỗ khẩu súng bắn pháo hiệu, lên đạn và chĩa nó vào tên béo. Tất cả bọn chúng đờ ra - tất cả, trừ con cá vẫn giãy giụa boong, mình cúi xuống nhấc nó lên, và thả qua mạn thuyền. Cuối cùng nó được tự do. Song mình vẫn đứng đó như sinh vật hoang dại, quần soóc bị xé rách, ngực để trần và lốm đốm máu mũi của tên béo, mình bảo cái đám người câu say xỉn kia hội ngộ với thằng bạn gầy nhẳng của chúng dưới biển, hai là tên trong số chúng được nếm mùi của pháo sáng khi bắn ở cự li gần.

      việc kết thúc ở đó.

      Nhưng khi viết những dòng này, mình biết từ giờ phút này trở bao giờ kết thúc. Từ giờ phút này trở , cuộc sống của mình bao giờ trở lại được như xưa. giống như con cá kia, mình bao giờ được tự do thực nữa.”

      Simon từ từ gấp cuốn sổ lại, từ từ đặt nó xuống sàn. Rồi đứng lên và tìm Frankie.

      Khi Frankie từ mặt nước trồi lên Simon đứng bãi biển. vuốt ngược tóc rồi dùng cả hai tay để vắt nước tóc. Biển làm cho sạch , mát mẻ. luôn cảm thấy bẩn thỉu nếu nghĩ quá nhiều về cái ngày đáng sợ đó.

      Bầu trời vẫn còn vương sắc đỏ cam từ vầng mặt trời lặn, nhưng mặt trăng lên, gần như tròn đầy, soi sáng gương mặt Simon. Khi có nụ cười quen thuộc, trông già hơn, dữ tợn hơn, và vô cùng sắt đá.

      cho tôi tên họ bọn chúng,” khi dừng lại trước mặt , “tôi tóm được chúng và cho chúng nhừ tử.”

      Frankie ngược lên bãi biển tới chỗ bộ quần áo mặc bên ngoài đồ tắm được xếp thành đống. “Tôi nhớ tên chúng.”

      “Chết tiệt.”

      nhìn lại . Với cái miệng mím chặt dữ tợn và đôi mắt xanh sáng rực lên trong bóng tối, gần như tin rằng có khả năng gây thương tích cho những kẻ suýt cưỡng hiếp nhiều năm trước. Nực cười thay, chưa bao giờ nghĩ Simon là kiểu người hùng hổ, nhưng lúc này, trông như thể thực thích thú với vụ đụng độ khát máu này vậy.

      “Tại sao tố cáo chúng?” hỏi.

      có bằng chứng,” Frankie , cố làm cho giọng mình nghe thản nhiên. “Preston Seaholm tin tôi - ấy bảo ủng hộ tôi trăm phần trăm, bất kể tôi quyết định thế nào. Nhưng ủy viên công tố quận bảo tôi rằng kết tội cưỡng hiếp cho người là khó rồi, huống hồ mới chỉ là ý đồ.” nghe thấy nỗi cay đắng len vào giọng mình. “Đến còn tin lời tôi - làm sao cả phòng xử án toàn người xa lạ tin tôi được chứ?”

      “Tôi xin lỗi,” Simon , trông có vẻ ăn năn thực . “Chỉ là... Tôi biết kể với Leila những gì, và tôi buộc phải tin rằng nếu kể toàn bộ cho nó nghe, cũng kể cho tôi.” khẽ, vẻ ngập ngừng. Lần đầu tiên Frankie thấy tự tin và sức hấp dẫn mê người của bay biến đâu mất, chỉ còn lại trái tim chân .

      Nhưng, . có chuyện đó đâu. Tối qua lúc ở trong nhà hàng nhìn thấy vẻ tương tự trong mắt , ngay sau thời điểm tin chắc rằng sắp sửa hôn ...

      “Nếu như bị cưỡng hiếp, và đến cả người bạn thân nhất của cũng được kể cho biết, chắc cú là chẳng thừa nhận chuyện đó với tôi,” Simon tiếp. “Ý tôi là, liệu có thể đứng đó và bảo rằng với tôi ?”

      Frankie lắc đầu. đúng. thể nào với .

      “Đó là lí do vì sao tôi phải đọc tận mắt quyển nhật kí. Cho nên... đừng giận tôi nữa, được ?”

      Frankie gật đầu. Đồng ý.

      Simon cũng gật đầu. đứng đó dưới ánh trăng, nhìn đăm đắm, hai tay đút trong túi quần soóc, đôi mắt thường ngày cười cợt giờ sẫm lại và đầy nghiêm túc.

      còn bí mật ghê gớm nào khác để tôi tình cờ phát , Francine?” hỏi với bóng dáng phảng phất của nụ cười quen thuộc.

      Tim Frankie đập thình thịch. luôn thấy cách năng ngọt xớt và bất cần của Simon Hunt vô cùng lôi cuốn, nhưng khi trầm lặng, nhạy cảm thế này lại càng hấp dẫn đến khó cưỡng.

      Còn bí mật ghê gớm nào khác ư? Chỉ có bí mật là tôi muốn cảm nhận cánh tay ôm trọn người tôi ghê gớm. lắc lắc đầu, rùng mình trước cơn gió lạnh thổi vào từ mặt biển. “,” dối.

      Nhưng dường như Simon có thể đọc được tâm trí . bước lại gần, bỏ tay ra khỏi túi quần, và kéo vào lòng, mặc kệ bộ đồ tắm còn ướt.

      Frankie nhắm mắt lại, gục đầu lên vai , biết rằng dối với cả bản thân mình. chỉ muốn vòng ôm của . Mà còn muốn nhiều hơn thế.
      Hyunnie0302 thích bài này.

    5. thuytinhtim_1102

      thuytinhtim_1102 Well-Known Member

      Bài viết:
      1,916
      Được thích:
      3,133
      Chương bảy

      Simon ngồi trong xe ô tô đậu trước nhà Frankie.

      Điều này kì quặc.

      vốn say mê phụ nữ - chuyện đó có gì phải bàn. biết cách tán tỉnh để thâm nhập vào cuộc sống và chiếc giường của họ. thành thục chuyện đó. biết cách chơi trò chơi ấy ra sao. Nhưng lần này có thay đổi. Phải, muốn lên giường với Frankie. Nhưng còn muốn thứ khác nữa. muốn đọc tiếp những cuốn nhật kí của .

      Quả là hết sức kì quặc.

      nhấc cốc cà phê từ chỗ để cốc và bước ra khỏi xe.

      Lúc này là bảy giờ sáng. thể nhớ nổi lần gần đây nhất mình thức giấc, tắm rửa và mặc quần áo vào cái giờ sớm tinh mơ như vậy là khi nào. Nhưng tối qua Frankie đuổi về nhà, và quyết định kiểm tra đống nhật kí mình.

      Simon tài nào ngủ được. ra khỏi giường tầm hai rưỡi sáng, chui vào trong xe ô tô và phóng qua nhà Frankie. Cửa sổ nhà vẫn sáng đèn, nhưng dừng lại. cho phép mình vào đó. dám. cực kì kiên quyết với rằng vai trò trợ lí phụ thuộc vào hành vi cư xử của . Nếu lần tới quá đà, được tham gia nữa. Và chường mặt trước cửa nhà lúc chưa đến ba giờ sáng chắc chắn bị coi là hành động quá trớn. Simon có thể viện ra bất kì cái cớ nào mà có thể nghĩ ra, nhưng vẫn biết đích xác lí do ở đó.

      Phải đến bốn giờ sáng mới ngủ được trở lại. Và khi chuông điện thoại reo lúc hơn sáu giờ, khó khăn lắm mới trệu trạo được từ “A lô”. Tuy nhiên tỉnh táo hẳn khi nhận ra người ở đầu dây bên kia. Đó là người bạn cũ làm ở đại học Boston. ta hết cảm cúm, và làm sớm để bắt kịp công việc bị bỏ bê - đồng thời để kiểm tra thông tin về Jazz Chester máy tính.

      chàng Jazz tốt bụng ủng hộ số tiền lớn cho quỹ nam sinh cách đây mới vài tháng. Rất có thể địa chỉ và số điện thoại mà Simon viết nguệch ngoạc lên mảnh giấy là địa chỉ tại của cậu ta.

      Simon bước lên hiên nhà Frankie. Cửa trước bị khóa - nắm đấm xoay trong tay , nhưng có lẽ vì Frankie chưa sập hẳn vào nên nó từ từ hé mở. đẩy cửa ra và bước vào.

      Trong nhà im ắng và dừng lại, nghe ngóng tiếng Frankie. Nghĩ rằng chắc còn ngủ, rón rén xuôi hành lang xuống bếp.

      biết mấy cái bản lề cửa bếp luôn kẽo cà kẽo kẹt, cho nên đẩy nó ra từ từ, thận trọng, để gây tiếng động quá lớn khi ló đầu vào trong. Đèn vẫn bật và chiếc bàn chất kín những bản photo từ sổ sách thuê nhà cùng chồng nhật kí của Frankie.

      Nhật kí của Frankie.

      Simon bước hẳn vào bếp, khép cửa lại.

      “Này!” giật nảy mình, qua khóe mắt cảm thấy có bóng người chuyển động. xoay người lại đúng lúc trông thấy Frankie. đứng nấp chỗ cánh cửa.

      bắt gặp ánh mắt , chỉ kịp thấy tia vỡ lẽ bàng hoàng - đúng lúc ấy chiếc chảo rán to đùng vung lên giáng thẳng vào đầu .

      Boong! tưởng nó phát ra thanh nghe hay hơn khi gục xuống, hai tay và đầu gối chống xuống sàn bếp.

      “Lạy Chúa, Simon!” Cái chảo bị quẳng lên bàn kêu xoảng khi Frankie quỳ xuống bên cạnh .

      đánh rơi cốc cà phê, và cà phê nóng bỏng đó nan ra ngoài nắp đậy, nhưng Frankie chỉ gạt nó ra.

      Tai kêu ong ong và đầu hơi váng vất, nhưng may thay phang đúng vào chỗ hộp sọ đặc biệt dày. Trước đây từng bị đánh vào đầu mạnh hơn thế nhiều song chỉ bị sưng cục u . Có lẽ bị đau mất vài ngày, nhưng nó thực phải chuyện quá to tát.

      Tuy nhiên Frankie biết điều đó. Những ngón tay mát lạnh của ôm trọn khuôn mặt , đôi mắt tối sầm lại vì lo lắng. “Ôi Si, sao chứ?”

      Gương mặt hai người chỉ cách nhau trong gang tấc khi đỡ nằm ngửa ra. cúi xuống sát hơn, lướt những ngón tay trán , tìm kiếm chỗ bị trúng đòn.

      Tuy rằng đầu bị sưng u cục, nhưng Simon lại cảm thấy dễ chịu lạ lùng. có thể ngửi thấy mùi hương ngọt ngào của - mùi dầu gội hương thảo mộc, vị cà phê ấm áp trong hơi thở, chút mùi kem chống nắng và mùi nước hoa nữ tính thể nhầm lẫn. quỳ bên , đùi áp vào hông , những ngón tay lùa trong tóc . Rất có thể chết và được lên thiên đàng.

      “Để tôi lấy cho ít đá lạnh.”

      chẳng cần đá lạnh. Dù sao đầu cũng cần. Mấy bộ phận khác cơ thể mới cần được làm mát. Nhưng trong nháy mắt quay lại bên , nâng đầu đặt lên đùi .

      ổn rồi. Tiếng ong ong trong đầu biến mất gần như hoàn toàn và hai đầu gối còn cảm giác dẻo như cao su nữa. Tuy nhiên túi đá lạnh đem lại cảm giác rất dễ chịu cho phần da đầu hơi sưng của , giống như những ngón tay ở trong tóc vậy. Bàn tay kia của dịu dàng vuốt ve khuôn mặt , và má áp vào chỗ mềm mại nhất ở bụng ... Ôi, đây là cơ hội quá tuyệt vời thể bỏ lỡ.

      Simon khép chặt hai mí mắt.

      “Ồ, ,” Frankie , giọng lo sợ. “ được ngủ thiếp khi đầu bị thương. Nào nào, tốt hơn là hãy ngồi dậy trong lúc tôi gọi bác sĩ Devlin.”

      Simon thả lỏng cho cơ bắp mềm ra.

      “Simon?” cố nâng dậy, nhưng hợp tác còn khó mà xê dịch cho nổi. cảm thấy hạ đầu xuống sàn, sau đó vòng ra trước mặt . nắm lấy hai vai , cố xốc ngồi lên “Thôi nào, Simon, chuyện với tôi . Làm thế nào vào được đây? Chết tiệt, làm tôi sợ chết khiếp. Cửa bị khóa cơ mà? Đêm nào tôi chẳng làm vậy.”

      sập hẳn cửa vào đâu,” Simon thều thào. “Xin lỗi làm sợ, cưng à...”

      Cưng. Lần gần đây nhất gọi như thế, suýt lên cơn đau tim. cho bài thuyết giáo dài hai tiếng đồng hồ về việc được dùng những lời lẽ âu yếm sặc mùi phân biệt giới tính như thế nữa. Lần này chẳng cự nự gì.

      kéo vai mạnh hơn, cuối cùng tận dụng được hai chân làm lực đẩy. Cố giữ chặt, tất cả cơ bắp đều căng ra.

      “Sớm thế này tới đây làm gì?” hỏi.

      Simon để yên cho kéo dậy, nhưng rồi lại lảo đảo khiến phải ôm chặt lấy . Hai bầu ngực áp vào ngực , đôi tay ôm vòng quanh lưng , hai đùi kẹp gọn hông . Cảm giác vô cùng tuyệt diệu. thể ngăn mình bật ra tiếng rên khoan khoái.

      “Có đau lắm ?”

      Đau à? hẳn...

      “Simon. Mở mắt ra và chuyện với tôi nào!”

      Simon mở mắt và biết rằng quá xa. Vẻ mặt Frankie tràn ngập nỗi lo âu hốt hoảng, đôi mắt rưng rưng sợ hãi.

      “Này.” đưa tay lau giọt nước mắt đọng . “Này, tôi sao mà, Francine. Mấy viên đá có tác dụng đấy, và đánh tôi mạnh lắm đâu.”

      lui lại chút, nâng cằm lên để nhìn sát hơn vào mắt . Những gì nhìn thấy làm mắt nheo lại. “ giả vờ,” thốt lên. “Đồ khốn! Đúng là thể tin nổi. Tôi cứ tưởng tôi suýt giết chết còn lại giả vờ bất tỉnh.”

      Simon nở nụ cười duyên nhất với . “Ít ra tôi cũng chết, đúng nào?”

      “Đừng có vịn vào cái cớ đó,” Frankie lẩm bẩm.

      “Lần sau hãy dùng chảo gang nhé,” khuyên . “Chảo nhôm ăn thua gì đâu.”

      “Simon, đó chỉ là chấn thương . Tại sao lại khiến tôi phải nghĩ rằng...”

      Giọng tắt dần và mắt mở to hơn chút khi nhận ra tư thế thân mật của bọn họ. đờ người ra nhìn , nhận thức trong đáy mắt.

      Sức nóng chợt dâng lên mãnh liệt nó kêu lách tách quanh hai người, luồng lửa ham muốn giống bất cứ thứ gì Simon từng biết sáp lại gần họ cách sát sao. Thời gian chậm lại và kéo dài ra, mỗi giây như bằng cả đời người khi nhìn trân trân vào mắt .

      Ôm như thế này thích, đúng như mong đợi.

      vừa vặn đến độ hoàn hảo trong vòng tay , và biết cũng cảm thấy như thế. Nhưng rồi chầm chậm, chầm chậm rời khỏi , và giây phút tuyệt diệu ấy qua mất.
      thức suốt đêm. người vẫn là chiếc quần soóc và áo phông mặc tối qua. Dưới lớp quần áo ngoài vẫn là bộ đồ tắm. đứng dậy rót tách cà phê từ cái bình đặt bàn bếp, rồi đưa cái tách bốc khói nghi ngút lên miệng bằng bàn tay run rẩy.

      làm gì ở đây vào sáng sớm thế này?” hỏi.

      Địa chỉ và số điện thoại của Jazz Chester như sắp bốc cháy trong túi Simon. Nếu nhắc đến tên Jazz... nghĩ gì vậy? Rằng nếu nhắc đến tên Jazz có thể hôn tạm biệt cơ hội lên giường với Frankie là vừa ư? là, còn có cơ hội để bắt đầu, ít nhất là ngay lúc đó. thức trắng đêm để đọc những dòng nhật kí về những lần Jazz Chester ghé thăm Sunrise Key. Simon có cơ hội nào với Frankie cho đến khi tìm được Jazz và nhận ra rằng cuộc đời thực hiếm khi được như trong tưởng tượng.

      phải bị ảnh hưởng bởi đụng chạm này, Simon biết điều đó. Tuy nhiên cũng biết chắc rằng thúc đẩy chủ đề này sai lầm lớn.

      Nhưng Frankie cho thời gian để trả lời. “Tôi vừa định chui vào giường - nhưng thất bại.” nhặt cốc cà phê nằm lăn lóc sàn của lên và dùng miếng bọt biển lau cà phê đổ. “Tôi rút gọn danh sách những người tên John xuống còn ba người,” giải thích. “John Marshall, John McMahon, và John Carter. Nhưng khi tôi kiểm tra cẩn thận các số điện thoại bằng danh bạ, ai phù hợp cả. Cả ba người này đều chuyển từ mấy năm trước - và cách nào có được địa chỉ mới hay số điện thoại của họ.” thở dài. “ có biết là có tận bốn mươi bảy người tên John Carter ở Baltimore ? Và thêm mười bảy J. Carter nữa. Đấy là giả dụ ông John Carter của chúng ta sống ở Baltimore. Khỉ , ông ấy có thể ở bất cứ đâu.”

      Simon gượng đứng lên, đặt túi đá xuống cạnh bồn rửa và lấy số điện thoại cùng địa chỉ của Jazz Chester từ trong túi ra đưa cho Frankie.

      nhìn chằm chằm vào nó: “217 đường Oxen Yoke, Wellesley - đây là gì?”

      “Cuối cùng Tim gọi cho tôi.”

      ngơ ngác nhìn . “Tim nào?”

      “Bạn tôi, người làm ở đại học Boston ấy.” Simon lại rót đầy cà phê vào cốc của mình và nhấp ngụm.

      Frankie nhìn chằm chằm mảnh giấy. “Đây là...?”

      “Địa chỉ và số điện thoại của Jazz Chester - cả ở nhà và chỗ làm. Là địa chỉ tại - ít ra là bốn tháng trước.”

      “Tôi biết nên hôn hay giết nữa.”

      Simon cười, vuốt tóc ra sau, nhăn mặt khi những ngón tay chạm vào vết sưng đầu. “Tôi có vấn đề gì với quyết định đó, nếu như muốn tôi thực thi giùm .”

      , cảm ơn.” vội dứt ánh mắt khỏi , như thể bất chợt nhớ ra cảm giác cơ thể áp vào người ban nãy. Có Chúa chứng giám, Simon cũng nhớ đến chuyện đó. Rất khó để nghĩ được bất cứ chuyện gì khác.

      nhìn xuống mảnh giấy lần nữa, như thể nó vừa là tấm vé độc đắc vừa là tờ trát bắt giam . “Tự dưng tôi thấy sợ quá.”

      có muốn tôi gọi cho cậu ta ?”

      tôi tự làm được. Tôi muốn làm việc này.” nhún vai và đánh liều liếc mắt về phía lần nữa.

      “Thực ra, nếu cho tôi chút gian riêng, tôi gọi cho ấy ngay bây giờ.”

      Simon nhìn đồng hồ đeo tay. “Còn chưa tới tám giờ. có chắc...”

      “Jazz là người dậy sớm. Tôi cá là ấy vẫn giữ thói quen đó, và tầm này ấy ở văn phòng rồi,” Frankie . nhấc điện thoại trong bếp lên và ném cho Simon cái nhìn đầy ý nghĩa. “Nếu phiền...?”

      Simon muốn , muốn ở lại. Và nghe lỏm. “Vậy tôi vào văn phòng của nhé.”

      “Để áp tai vào tường ấy hả? được đâu,” Frankie . “Sao về nhà ? Tôi gọi cho sau.”

      Simon khoanh tay lại. “ có chuyện tôi ra về khi chưa có số điện thoại của ông John. Còn nhớ việc của tôi chứ? Tôi cũng có khách hàng cần được thỏa mãn cầu mà?”

      có chuyện lấy được số điện thoại của ông John trước Clay Quinn đâu,” Frankie đáp trả.

      Đúng vậy. Làm như thế chuyên nghiệp và chấp nhận được. Và nó chẳng liên quan gì đến lí do thực khiến muốn ở lại.

      “Xin lỗi, đúng,” thừa nhận, “Chỉ là...” Simon ngắc ngứ, cạn mọi lí lẽ.

      “Tôi biết tôi phải người duy nhất kiếm được khoản lớn từ vụ này,” . “Nhưng ngay lúc này đây tôi nghĩ đến tiền.”

      cũng thế, nhưng chắc tin nếu cho .

      “Con người này từng là cả thế giới đối với tôi,” Frankie tiếp tục, phe phẩy mảnh giấy có số điện thoại của Jazz. “Nếu muốn biết , tôi tin là mình ấy lòng. Có lần Leila bảo tôi rằng nó nghĩ tôi vẫn thầm Jazz, vẫn chờ đợi ấy quay lại, cho dù bao nhiêu năm trôi qua. Theo như tôi biết, rất có thể nó đúng.” hít hơi thở sâu. “Nhưng tôi biết điều là tôi muốn và những trò chơi của ngáng đường tôi.”

      Những trò chơi của . Câu châm chích của mới đau làm sao, bởi vì biết chúng đều là . luôn chơi các trò chơi. Cuộc đời trò chơi lớn - chưa bao giờ thực nghiêm túc và nỗ lực hết mình để giành phần thắng vì tự chịu trách nhiệm viết ra rồi sửa lại luật chơi. Simon lặng thinh. còn gì được nữa?

      có thể cố hiểu cho tôi, dù chỉ chút ?”

      “Được.” hiểu. Nhiều hơn tưởng. cầm lấy cốc cà phê từ bàn bếp và đẩy cửa bếp ra. “Tôi ở ngoài bãi biển.” dừng lại, ngoái nhìn , ước gì tâm can quặn thắt, cầu mong cho Jazz Chester lập gia đình, hoặc tu, hoặc là gay, nhưng đồng thời cũng cầu cho cậu ta đáp ứng được tất cả trông đợi của Frankie, và là tất cả những gì cần. xứng đáng được hạnh phúc, và biết rằng bản thân - và những trò chơi của - thể mang lại điều đó cho . gắng mỉm cười, hi vọng những lời mình sắp bị mắc trong cổ họng. “Chúc may mắn.”

      bao giờ biết phải cố gắng thế nào để ra câu đó. bao giờ biết trái tim như vỡ làm hai nửa.

      Cánh cửa nhàng đóng lại sau lưng bắt đầu bấm số. Frankie nhắm mắt, lắng nghe từng hồi chuông đổ. Nó reo bốn lần rồi tắt để chuyển sang chế độ trả lời tự động.

      biết mình cảm thấy nhõm hay hốt hoảng. phải để lại lời nhắn. Biết gì bây giờ?

      “Xin chào, tôi là Jonathan Chester. tôi có ở bàn làm việc. Hãy để lại lời nhắn và tôi gọi lại cho bạn ngay khi có thể.”

      Đó là Jazz. tự xưng là Jonathan - Frankie nhận ra đấy là tên của - nhưng giọng băng là của Jazz. Giọng có vẻ trầm hơn, dày hơn, già dặn hơn, và ôn hòa hơn, nhưng nó vẫn giàu nhạc điệu và vui vẻ, như thể vừa vừa mỉm cười.

      Môt tiếng “bíp” cất lên. Đến lượt Frankie .

      “Xin chào, ừm, Jazz phải ? Em là Francine Paresky, và em gọi từ Sunrise Key, dưới Florida. Em biết còn nhớ em , nhưng...”

      Có tiếng lách cách và điện thoại được nhấc lên. “Frankie?” Đó là Jazz. “Lạy Chúa, là em hả?”

      Frankie bật cười, cảm thấy choáng váng vì nhõm. “Vâng,” . “Là em đây.”

      xin lỗi vì nhấc máy ngay,” Jazz với bằng giọng nghe bớt già dặn hơn hẳn so với băng, “nhưng sớm ngày ra khi bắt đầu làm việc, phải kiểm tra các cuộc gọi, và... Chúa ơi, em thế nào rồi?”

      “Em... vẫn ổn. Mọi chuyện đều tốt đẹp.” Sau chừng ấy năm, lại chuyện với Jazz. cảm thấy vừa nóng lại vừa lạnh, hai đầu gối nhũn cả ra. ngồi lên bàn bếp, xoắn những vòng xoắn của dây điện thoại, kéo căng rồi buông tay, nhìn nó rung lên bần bật. “Có điều em già hơn rồi.” Bên ngoài cửa sổ có chuyển động thu hút ánh mắt . Là Simon. thả bước bãi biển.

      Tiếng cười của Jazz vang lên trầm ấm. “Phải, cũng vậy. Em biết - chuyện này điên rồ. Em cho là gàn dở, nhưng vừa mới nghĩ đến em. Chưa đầy hai ngày trước. Có thiêng chứ?”

      Giọng nghe vẫn y như vậy. vẫn bằng tất cả sôi nổi và phấn khích, như thể những lời và người đối thoại với là quan trọng nhất đời. là điên rồ. Cứ như đột nhiên bị đẩy vào trường thời gian sai lệch và quay về thời điểm mười hai năm trước vậy.

      Frankie cố gắng hình dung ra Jazz, nhưng lạ lùng thay tâm trí cứ biến những đường nét cân đối, đậm chất Mỹ của thành gương mặt xương xương, gần như thanh tú của Simon, còn mái tóc nâu của bị biến thành màu vàng. ngoảnh khỏi khung cửa sổ khi bất chợt nhận ra mình vẫn nhìn Simon - bóng người độc lãng mạn dõi mắt ra những con sóng ngoài xa.

      vừa xem bộ phim,” Jazz tiếp tục, “và trong phim, thề là ta rất đẹp - trông giống hệt em. Marisa gì đó. Dạo gần đây ta diện khắp nơi. Thực lòng mà , Frankie, lần đầu tiên nhìn thấy ta, khẳng định đấy là em.”

      Frankie mỉm cười, đảo mắt. “Cảm ơn vì lời khen, Jazz, nhưng em nghĩ có lẽ nhớ về em đến vậy.”

      “Ồ, có chứ. vẫn giữ những hồi ức cực kì sống động về em.” cách dịu dàng, dừng lại đủ lâu để cho nhớ lại những hồi ức sống động của chính mình. Những nụ hôn dài, chậm rãi bãi biển... Nhưng rồi giọng đột nhiên thay đổi và vui vẻ, thân thiện trở lại. “Nào. Cho biết dạo này em ra sao. Chắc là lấy chồng và có lũ nhóc đáng rồi hả? Thôi nào, thừa nhận , bé. Làm tan vỡ trái tim .”

      Ánh mắt Frankie lướt trở lại khung cửa sổ. Simon dừng lại. Gió vò rối tóc . Làm tan vỡ trái tim . Khi Simon bỏ ra ngoài để có thể gọi cú điện thoại này, nhìn với vẻ mặt kì lạ chưa từng thấy. Gần như là làm tim tan nát vậy. Nhưng biết chuyện đó thể là . Tim Simon làm bằng Tyvek[*]. thể nào phá hủy.

      [*] loại vật liệu màng làm từ 100% sợi polyethilene siêu mịn mật độ cao (HDPE), rất bền, dai và khó rách.

      “Frankie, em vẫn ở đó chứ?”

      Trời đất ơi, làm gì vậy? Để tâm trí mình lang thang tới chỗ Simon trong lúc chuyện điện thoại với Jazz ư... “Chưa, em chưa lấy chồng...”

      “Chưa ư? Khó mà tin được.”

      “Còn sao?”

      ? ... vẫn tự do lông bông thôi. Có thời gian cũng thử tiến đến hôn nhân, nhưng em biết đấy, mọi chuyện thay đổi. Nhưng thế là công bằng. Chúng ta về em cơ mà. Nào, cho biết mười năm qua em sống ra sao . được bỏ sót chi tiết nào đâu đấy.”

      làm việc - em muốn làm mất quá nhiều thời gian của ...”

      “Em đùa đấy à? Có những việc phải ưu tiên hàng đầu - và những người bạn cũ phải quan trọng hơn công việc đầu giờ sáng chứ.”

      Jazz độc thân. Và vẫn là chàng dễ thương nhất đời. lại nhìn ra cửa sổ, nhưng Simon biến mất.

      “Em vẫn sống ở Sunrise Key,” Frankie . kể cho toàn bộ câu chuyện. Chuyến thăm của Clay Quinn. Cái chết của bà Alice Winfield. Bản di chúc. Công cuộc tìm kiếm cha dượng của . Jazz lắng nghe chăm chú, thỉnh thoảng xen vào lời cảm thán hoặc câu đùa giỡn khiến phì cười.

      Nhưng trong suốt thời gian chuyện, vẫn nhìn ra ngoài cửa sổ, tự hỏi Simon đằng nào, và chờ đợi quay lại.
      Last edited: 16/10/14
      Hyunnie0302 thích bài này.

    6. ^^! Nếu bạn không gửi link bài viết trên Facebook được, hãy sử dụng link trong khung này để chia sẻ bài viết :