1. QUY ĐỊNH BOX EBOOK SƯU TẦM

    Khi các bạn post link eBook sưu tầm nhớ chú ý nguồn edit và Link dẫn về chính chủ

    eBook phải tải File trực tiếp lên forum (có thể thêm file mediafire, dropbox ngay văn án)

    Không được kèm link có tính phí và bài viết, hay quảng cáo phản cảm, nếu có sẽ ban nick

    Cách tải ebook có quảng cáo

Nếu Như Được Làm Lại

Thảo luận trong 'Truyện Phương Tây'

  • ^^! Nếu bạn không gửi link bài viết trên Facebook được, hãy sử dụng link trong khung này để chia sẻ bài viết :
    1. CQH

      CQH ^^!

      Bài viết:
      192
      Được thích:
      41,961

      Chương 13


      Ở tuổi hai mươi tư, Isabel là mẹ của lên hai. Chồng , Rafaël Santos, lớn tuổi hơn chút, là nhà báo. Hai vợ chồng sống trong căn hộ khiêm tốn tại khu phố Barracas. Isabel và Rafaël gặp nhau ở trường đại học. Cũng giống như chồng, Isabel theo học ngành báo chí; luôn với rằng ngòi bút của chín chắn và ràng hơn của , và thực có biệt tài miêu tả chân dung ai đó. Tuy nhiên, khi con đầu lòng chào đời, Isabel chấp nhận từ bỏ nghiệp cho đến khi María Luz học. Nghề báo là niềm đam mê chung của cả hai vợ chồng và Rafaël bao giờ cho đăng bài viết của mình mà chưa đưa cho vợ đọc. Mỗi khi con say ngủ, Isabel lại ngồi vào bàn bếp, cây viết chì trong tay, để nhận xét bài viết của chồng. Rafaël, Isabel và María Luz sống cuộc sống hạnh phúc căng đầy và tương lai hứa hẹn nhiều điều vô cùng tốt đẹp.

      Thế rồi cuộc đảo chính làm xáo trộn đất nước dưới ách độc tài quân khiến những dự định của họ tan tành mây khói.

      Rafaël bị mất việc làm. Nhật báo trung lập La Opinión nơi làm việc, dù theo đường lối xuất bản “thận trọng” đối với chính quyền mới, bị đóng cửa. kiện đó khiến cặp vợ chồng rơi vào tình cảnh khó khăn tài chính tồi tệ nhất, nhưng đối với Isabel, chuyện này lại gần như giải thoát. Chỉ duy những nhà báo thể lòng trung thành với tướng Videla là vẫn được tiếp tục hành nghề. Isabel và Rafaël, vốn theo chủ nghĩa Peron cánh tả, bao giờ chịu chấp nhận viết dù chỉ dòng cho những tờ báo như Cabildo hay thậm chí cho nhiều nhật báo khác còn xuất sau này.

      Với đôi bàn tay khéo léo, Rafaël chuyển sang làm cho xưởng mộc trong khu phố, Isabel cùng bạn thân hàng ngày thay phiên nhau trông mấy đứa con của cả hai và làm công việc giám thị ở trường trung học khoa học.

      Những ngày cuối tháng chẳng hề dễ dàng gì, nhưng hai khoản lương còm cộng lại cũng cho phép họ vượt qua khó khăn và đáp ứng được những nhu cầu của con .

      Khi Rafaël trở về từ xưởng mộc, sau bữa tối, cả hai lại ngồi vào bàn ăn. Isabel nhận thêm việc khâu vá cũng cho có thêm chút thu nhập, trong lúc đó Rafaël ngồi viết để phơi bày những bất công, các cuộc trấn áp do chế độ độc tài tiến hành, nạn tham nhũng của chính quyền, tiếp tay của Nhà thờ và để cho thấy cảnh u buồn mà nhân dân Argentina ngập chìm trong đó.

      Cứ 11h sáng, Rafaël lại rời xưởng với cái cớ là hút thuốc. người xe đạp dừng lại chỗ rồi hỏi xin điếu thuốc. Và trong khi Rafaël châm lửa cho ta, kín đáo đưa cho ta tờ giấy viết tối qua. Tay sứ giả mang bài viết bị cấm kia đến tận nhà kho cải dụng thành nhà in bất hợp pháp. Cứ như thế Rafaël tham gia viết bài cho tờ nhật báo kháng chiến được bí mật phát hành.

      Rafaël và Isabel mơ ngày nào đó có thể rời Argentina để đến định cư tại quốc gia nơi rốt cuộc họ cũng được tự do.

      Vào những tối khi tinh thần Isabel xuống , Rafaël lại lôi cuốn sổ bọc bìa đỏ ra khỏi tủ côm mốt. tính đếm khoản tiền tiết kiệm và đếm ngược đến ngày khởi hành. Khi lên giường, thầm với tên những thành phố như kể về giấc mơ và cứ thế cho đến khi họ thiếp ngủ say, Rafaël thường là người ngủ trước tiên.

      Vào đầu mùa hè, sau bữa tối, con María Luz say giấc nồng từ lâu, Rafaël viết bài như mọi khi và Isabel cũng khâu vá như mọi ngày mà lui về phòng sớm hơn thường lệ. Isabel khỏa thân chui vào chăn. có làn da mịn màng và xanh xao. Kể từ khi làm nghề mộc, Rafaël sợ rằng bàn tay chai sần của mình khiến khó chịu mỗi khi vuốt ve nên gắng tìm cách âu yếm nhàng nhất.

      - Em đôi bàn tay lao động của , vừa cười Isabel vừa thầm vào tai , hãy bảo nó ôm em chặt hơn nữa .

      Đúng lúc Rafaël ái ân cùng vợ có tiếng gõ cửa căn hộ của họ.

      - Đừng nhúc nhích, chàng thợ mộc học việc vừa nhặt chiếc áo sơ mi vứt ở chân giường vừa bảo vợ.

      Tiếng gõ cửa càng mạnh hơn nữa và Rafaël sợ rằng tiếng ồn ào này đánh thức con họ.

      Khi ra mở cửa, bốn gã đàn ông bịt kín mặt ấn xuống, đánh trận nhừ tử để buộc phải nằm sấp xuống đất.

      Trong khi trong mấy gã kia giữ chặt nằm dưới đất bằng cách ấn đầu gối xuống lưng tên thứ hai túm lấy tóc Isabel khi hốt hoảng chạy ra khỏi phòng ngủ. đẩy lùi sát tường phòng bếp, lấy chiếc khăn lau quấn quanh cổ rồi siết chặt cho đến khi ngừng kêu la. Tiếng kêu của Isabel nghẹn lại, chiếc khăn siết lại chỉ đủ để cho hít thở. Tên thứ ba tiến hành lục soát nhanh căn hộ rồi trở lại phòng khách ngay sau đó với María Luz trong tay, con dao gí sát cổ họng bé.

      lời, mấy gã đàn ông ra hiệu cho Rafaël và Isabel mặc quần áo vào rồi theo bọn chúng.

      Chúng đưa họ ra ngoài rồi bắt họ trèo lên khoang sau chiếc xe tải . Còn María Luz ngồi ở đằng trước.

      Chiếc xe băng qua thành phố với tốc độ chóng mặt. Dù có vách ngăn chia cách họ với buồng lái và tiếng động cơ ồn ào xâm chiếm khắp gian, Rafaël và Isabel vẫn nghe thấy tiếng con ngừng gọi bố mẹ. Mỗi khi con María Luz hét lên “Mẹ ơi” là Isabel lại thổn thức ngừng. Rafaël nắm lấy tay vợ và tìm cách làm vợ dịu , nhưng làm cách nào để xoa dịu người mẹ nghe thấy tiếng con mình kêu gào đây? Ba mươi phút sau, chiếc xe tải dừng lại. Cửa xe đột ngột mở ra khoảng sân vuông vắn. Chúng bắt họ xuống xe chút nể nang, Rafaël lại nhận cú đánh nữa vào đầu khi muốn quay lại xe, nơi con vẫn ở đó, và khi Isabel thử lùi lại, trong mấy gã kia nắm lấy tóc rồi buộc phải thẳng về phía trước. Phía trước đó dẫn tới cánh cửa của tòa nhà bao quanh khoảnh sân lát đá kia.

      Isabel hét gọi tên con liền bị nhận cú đấm vào hàm khiến khuỵu xuống cầu thang trước mặt. Rafaël chạy theo và cũng nhận cú đá vào vùng thắt lưng.

      Cả hai sụp xuống chân cầu thang, nền đất nện sặc mùi nước tiểu. Rồi chúng nhốt Isabel vào buồng giam, còn Rafaël bị nhốt trong buồng khác…

      - Em làm gì thế? Andrew lên tiếng hỏi ngay khi bước vào phòng khách.

      Valérie đặt vội mấy tờ giấy vừa đọc xuống chiếc bàn thấp.

      - Có phải vì họ cũng là nhà báo mà cuộc điều tra này luôn ám ảnh đến vậy ?

      - Mẹ kiếp, Valérie, đây là tài liệu mật! Dù sao cũng phải khóa chặt ghi chép của mình trong chính nhà mình đấy chứ! Hãy hiểu cho , đây là công việc của , chỉ cầu em tôn trọng điều đó thôi, Andrew vừa kết lại với giọng bình tĩnh vừa thu dọn đống giấy tờ.

      - Isabel có quyền đọc những thứ mà chồng ấy viết… và thậm chí còn đưa ra nhiều đề xuất cho ta.

      - rất lấy làm tiếc, nhưng chẳng muốn vậy, ghê tởm việc người khác đọc những ghi chép của mình.

      - “Người khác” ở đây chính là vợ chưa cưới của đó. “Người khác” chấp nhận cảnh đơn khi công tác hàng tuần dài đằng đẵng, và khi ở đây “người khác” cũng hiểu rằng ở tận đẩu đâu, trong đầu toàn bận tâm đến công việc, vì nên “người khác” tôn trọng tất thảy những điều đó. Nhưng đừng đòi hỏi em sống cùng nếu em thể sẻ chia chút niềm đam mê này với .

      - Em thích những thứ em vừa đọc à? Andrew hỏi.

      - Em sợ xanh mặt khi biết điều xảy đến với gia đình kia, với María Luz, nhưng đồng thời em cũng ghen tị với cảnh chung sức đồng lòng của Rafaël và Isabel khi cùng nhau làm việc bên bàn bếp.

      - Đó chỉ là bản phác thảo thôi, Andrew lầm bầm.

      - Còn hơn thế nữa.

      - bao giờ có thể xuất bản câu chuyện của họ nếu như quay lại Argentina. Đó phải là tiểu thuyết hư cấu, em hiểu ? Những con người đó thực tồn tại, và thể bằng lòng với hoặc hai nhân chứng như vậy.

      - Em biết là phải quay lại nơi đó. Niềm đam mê khích lệ chính là trong những lý do khiến em . Em chỉ mong đừng để em đứng ngoài.

      Andrew ngồi xuống cạnh Valérie, nắm lấy tay rồi hôn .

      - Chính em mới là người có lý, là thằng ngốc bỗng trở nên cuồng ám khi có gì liên quan đến nghề của mình. bị ám ảnh về việc giữ bí mật, sợ làm méo mó , sợ mình thiên vị, bị ảnh hưởng và bị thao túng. Chỉ bởi vì lẽ đó mà muốn em khám phá điều chiến đấu khi bài báo được in ra. Nhưng nhầm, vừa vừa lắc đầu, nhưng kể từ giờ phút này, cho em đọc dần dần những thứ viết.

      - Và? Valérie thêm vào.

      - Và cái gì?

      - Và quan tâm thêm chút đến công việc của em chứ?

      - Mọi thứ liên quan đến em đều khiến quan tâm, em muốn đọc những bản báo cáo phẫu thuật của em ư?

      - , Valérie vừa cười vừa đáp, em muốn đến thăm văn phòng làm việc của em, dù chỉ lần, để em có thể chỉ cho thấy ngày làm việc của em ra sao thôi.

      - Em muốn đến thăm chuồng ngựa của đoàn cảnh sát cưỡi ngựa ư?

      - Còn nhiều thứ khác nữa, và cả văn phòng của em, phòng phẫu thuật, phòng xét nghiệm phân tích…

      - nghĩ là thích em chăm sóc lũ chó bông hơn… Lý do duy nhất mà bao giờ đến thăm em chính là vì cực kỳ sợ lũ ngựa.

      Valérie nhìn Andrew rồi mỉm cười với .

      - chẳng việc gì phải sợ chúng cả. Những câu chữ mà em vừa đọc còn hãi hùng hơn bội phần con ngựa đực hăng tiết nhất ấy chứ.

      - Hăng tiết đến mức nào? Andrew vặn lại.

      Rồi đứng dậy.

      - đâu thế? Valérie hỏi.

      - Chúng ta hít thở chút khí , muốn chúng ta cùng nhau dạo trong khu Village và giúp em khám phá nơi mà chúng ta ăn tối tình tứ với nhau.

      Khi Andrew khoác áo măng tô lên vai Valéria, quay về phía rồi hỏi:

      - Chuyện gì xảy đến với Rafaël và Isabel, lại còn cả María Luz nữa.

      - Để sau , Andrew vừa đáp vừa khóa cửa lại, sau này kể tất cả cho em nghe.

                  *


      Capetta,

      Vợ gửi lá thư đó từ Chicago, con tem được đóng dấu tại bưu điện đối diện với công viên Warren.

      Tôi thực lòng lấy làm tiếc về tất cả những chuyện xảy đến với .

      Chào thân ái,

      Andrew Stilman

      T/b: Hãy tự mình kiểm tra, nhưng những hình ảnh về công viên mà tôi có thể tra mạng, tôi thấy hình như có sân chơi dành cho trẻ con…

      Andrew cho tờ giấy vào phong bì, ghi lại địa chỉ của người nhận rồi đặt vào giỏ nhận thư chuyển .

      Quay trở lại chỗ ngồi, thể ngăn mình thôi nghĩ đến những lời cuối cùng Capetta với về vợ ta.

      “Nếu là , tôi coi thường lời đe dọa của ấy đâu.”

      Và Chicago chỉ cách New York có hai giờ bay…

      Điện thoại của reo vang, nhân viên lễ tân báo với là có vị khách đợi ở tầng trệt.

      Andrew vội về phía thang máy. Trong buồng thang máy, bỗng thấy rét run người và cảm thấy đau cuối sống lưng kinh khủng.

                  *


      - Trông có vẻ được khỏe, thanh tra Pilguez đưa ra lời nhận xét.

      - Chắc là do mệt thôi, tôi biết mình bị sao nữa, tôi lạnh cóng cả người đây.

      - Lạ nhỉ, toát mồ hôi đầm đìa kìa.

      Andrew lấy tay quệt trán.

      - muốn ngồi xuống nghỉ lát ? Pilguez đề nghị.

      - ra ngoài thôi, tôi cần hít thở chút khí, Andrew đáp.

      Nhưng đột nhiên cơn đau trở nên dữ dội đến mức thể tiến thêm bước nào nữa. Pilguez đỡ khỏi ngã khuỵu xuống trong lúc chân Andrew nhũn ra.

      Khi Andrew tỉnh lại thấy mình nằm băng ghế ở tiền sảnh. Pilguez ở bên cạnh .

      - lấy lại thần sắc rồi. làm tôi sợ chết khiếp, tôi thấy bỗng dưng ngất xỉu. có thường xuyên bị vậy ?

      - , à mà trước đây tôi chưa bao giờ bị vậy.

      - Đó là do căng thẳng quá thôi, bạn thân mến, Pilguez thở dài. Tôi biết mình gì với , ta mất hết mọi khả năng khi ta sợ hãi. Trống ngực đánh liên hồi, tai ù , ta chìm đắm vào cơn mơ mộng, tiếng ù dần tan và cốp cái, mông ta đập xuống nền đất. khiến chúng ta rơi vào cơn khủng hoảng khiếp hãi nho .

      - Có lẽ là thế.

      - kể chuyện của mình cho ai khác ngoài tôi ra chưa?

      - Ông muốn tôi kể chuyện xảy đến với mình cho ai cơ chứ, ai tin tôi chứ?

      - có bạn à?

      - Dĩ nhiên là có chứ!

      - Có bao nhiêu người bạn mà có thể tin tưởng trong tất thảy mọi tình huống? Pilguez hỏi giọng hơi giễu cợt.

      Andrew thở dài.

      - Được rồi, tôi hơi độc, nhưng Simon được xem như người em của tôi, tình bạn chân thành còn tốt hơn tình đồng chí hữu nghị giả tạo cả nghìn lần.

      - Cái này chẳng hề ngăn cản cái kia đâu. nên chuyện với chàng Simon kia và chia sẻ câu chuyện của mình với ta. chỉ còn tám tuần để tìm ra kẻ sát hại mình thôi.

      - Cảm ơn ông nhắc tôi. Từ sáng đến tối cũng như từ tối đến sáng tôi đều nghĩ đến điều đó. Và ngay cả khi tôi trót quên trong giây lát cơn đau này cũng quay trở lại nhắc tôi nhớ rằng thời hạn đó đến gần.

      - Thời gian càng trôi càng cần tin tưởng vào ai đó.

      - Đó là cách ông với tôi rằng ông bỏ rơi tôi ư?

      - Đừng tỏ ý dằn dỗi kiểu thế, Stilman, đó chỉ là lời khuyên mà thôi. Tôi hề có ý bỏ rơi đâu, nhưng tôi cũng phải trở về nhà. Tôi có cuộc sống, người vợ đợi tôi và tôi chỉ là cảnh sát về hưu. Tôi tiếp tục tiến hành điều tra tại New York cho tới khi khởi hành đến Argentina. Sau đó, còn có điện thoại, và vừa rồi tôi cũng mới lắp Internet. Với bao năm kinh nghiệm gõ báo cáo máy đánh chữ, tôi sớm mổ cò tốt thôi. Và trong khi chờ đợi, tôi muốn kể mọi chuyện cho bạn mình, và đó là mệnh lệnh đấy.




      - Sao sáng nay ông lại tới tìm tôi, ông có gì mới à?

      - Danh sách những kẻ tình nghi muốn sát hại tối qua dài thêm, và điều này chẳng tiện cho việc của chúng ta lắm. Tôi theo dấu người vợ cũ của Capetta. Về phần mình, hãy quan tâm chú ý hơn nữa đến trạng thái tinh thần của bạn đồng nghiệp Freddy Olson. Và tôi cũng muốn biết thêm về bà sếp của nữa.

      - Tôi với ông rồi, với Olivia ông nhầm hướng.

      - Nếu mạng sống của tôi bị đe dọa, tôi có thể đảm bảo với rằng tôi bỏ qua bất cứ ai. Vả lại, tôi lấy làm tiếc là phải xem xét lại việc này, nhưng còn có người khác trong danh sách của tôi.

      - Ai thế?

      - Vợ , người mà bỏ rơi ngay sau đám cưới của mình.

      - Valérie có khả năng làm đau con ruồi.

      - Bình thường thôi, ấy là bác sĩ thú y mà. Nhưng ấy hẳn có thể mưu toan làm đau gã đàn ông khiến mình đau khổ rất nhiều. thể hình dung nổi nỗi nhục nhã cùng trí tưởng tượng tương hợp với nhau như thế nào khi con người ta muốn trả thù đâu. Hơn nữa, ấy còn ở kề bên cảnh sát suốt cả ngày trời.

      - Thế sao?

      - Nếu như vợ tôi có ý định sát hại tôi ấy sáng tạo hơn cả tay biên kịch phim trinh thám đấy.

      - Ông đúng là thất bại cũng nản, thanh tra à, hay giờ ông có thực tin tôi ?

      - Đừng có chơi chữ, Stilman, lúc nào mà chẳng giỏi hơn tôi trong lĩnh vực này. theo tôi nào.

      - Chúng ta đâu?

      - Đến nơi tội ác vẫn còn chưa diễn ra.

                  Chương 14


      - Ông thuê xe này à? Andrew lên tiếng hỏi khi Pilguez ra hiệu cho trèo lên chiếc Ford 4x4 đen sì đậu trước cửa tòa soạn.

      - Mượn thôi.

      - Với cả bộ đàm cảnh sát ư, Andrew thốt lên. Ông tìm đâu ra cái xe này vậy?

      - Thắt dây an toàn rồi đóng hộp để găng lại . Cứ coi như là chúng ta ở trong thế giới nơi mà ta phải tuân theo phép tắc gì hết. Nếu tôi từng là thầy thuốc tôi mượn được xe cứu thương ngay, thế được coi là câu trả lời cho câu hỏi của chưa?

      - Tôi còn chưa đặt chân lên xe của cảnh sát bao giờ.

      Pilguez nhìn Andrew rồi mỉm cười.

      - Đồng ý, tôi hiểu rồi, vừa ông vừa cúi xuống hộp để găng.

      Ông lôi chiếc đèn hiệu đặt lên bảng điều khiển rồi bật còi inh ỏi.

      - Như thế này thấy hài lòng chưa?

      - Vô cùng, Andrew vừa đáp vừa bám chặt vào ghế trong lúc Pilguez tăng tốc.

      Mười phút sau, viên thanh tra đỗ chiếc Ford tại góc giao giữa phố Charles với xa lộ West End.

      Andrew dẫn ông về phía con đường mà thường chạy bộ mỗi sáng. Họ dừng lại ngang tầm Cầu tàu số 4.

      - Đây chính là nơi chuyện xảy ra, chỉ cần đến đây thôi tôi lại thấy đau rồi.

      - Do hiệu ứng tâm lý thôi! Hít sâu vào khiến thấy dễ chịu hơn nhiều. Khi nghĩ lại giấc mơ báo mộng đó, có nhận ra vũ khí được sử dụng ? Vừa hỏi Pilguez vừa đảo mắt nhìn khắp lượt chung quanh.

      - Đó phải là giấc mơ báo mộng!

      - Được rồi, chuyện xảy ra và nó còn xảy ra tiếp nếu chúng ta cứ mất thời giờ mà cãi vã nhau như thế này.

      - Tôi bị tấn công từ phía sau. Khi hiểu được chuyện xảy ra với mình tôi tắm trong biển máu của chính tôi rồi.

      - Máu đó từ đâu ra?

      - Tôi khạc từ mồm và mũi ra.

      - cố nhớ lại xem, có máu từ bụng à?

      - , nhưng sao thế?

      - Bởi viên đạn nếu bắn gần gây thiệt hại ở điểm đạn ra nhiều hơn điểm chạm đích. Nếu bị bắn từ phía ruột gan bị xổ xuống đường, hiểu ?

      - Thế nếu như tôi bị ngắm bắn từ phía xa hơn, chẳng hạn với khẩu súng có ống ngắm sao?

      - Đó chính là điều tôi cố để ý đây. mái nhà nào ở bên kia xa lộ có tầm ngắm vừa đủ chúc xuống để ngắm bắn chính xác người chạy bộ giữa cả đống những người khác từ khoảng cách xa đến vậy. Và hơn nữa, rằng mình chết vào ngày mùng 10 tháng Bảy phải nhỉ?

      - Ngày mùng 9, sao thế?

      - ngẩng đầu nhìn : cây cối đâm chồi nảy lộc chẳng mấy chốc che khuất toàn bộ đoạn đường này. Phát đạn được ai đó theo bắn theo phương nằm ngang.

      - Tôi hề cảm thấy đau ở bụng.

      - Thế bị đâm chết bằng gươm dao gì đó, giờ chỉ cần xác định xem đó là loại nào thôi. Hít thở sâu vào, tôi thấy lại xanh xao rồi kìa.

      - Cuộc chuyện này chẳng hề dễ chịu chút nào.

      - Ta có thể tìm chàng Simon đó ở đâu?

      - Vào giờ này cậu ấy ở văn phòng. Cậu ấy có xưởng ô tô cổ ở phố Perry.

      - Tuyệt vời, chỗ đó cách đây có mấy bước chân thôi và tôi mê ô tô cũ vô cùng.

                  *


      Pilguez há hốc mồm khi đặt chân vào ga ra. chiếc Chrysler Mewport, con De Soto rồi cả chiếc Plymouth tháo mui được màu be, chiếc Thunderbird sản xuất năm 1956, chiếc Ford Crestline mẫu năm 1954 cùng vô số mẫu khác xếp ngay ngắn nền nhà sạch bong. Viên thanh tra tiến về phía chiếc Packard Mayfair.

      - thể tin nổi, ông thầm, bố tôi cũng từng có cái y hệt, tôi chưa hề nhìn thấy cái nào khác từ lâu lắm rồi.

      - Đây là mẫu được sản xuất cực ít, Simon vừa tiến lại gần vừa giải thích. Vả lại, tôi cũng chẳng giữ nó ở đây lâu nữa đâu, mẫu này vô cùng hiếm và đến thứ Sáu này tôi cho mướn nó nữa, trước khi tìm ra người chủ mới cho nó.

      - Thôi mấy lời tán phỉnh của cậu , chúng tớ đến đây phải để mua xe đâu, Andrew vừa tiến lại gần vừa . Ông ấy cùng tớ.

      - Cậu ở đây à! Dù sao cậu cũng nên báo trước cho tớ mới phải.

      - Sao vậy, chẳng nhẽ tớ phải gửi giấy báo cho cậu trước khi ghé qua ư? Nếu cậu muốn, tớ có thể luôn.

      - Ôi , chỉ là vì…

      - Cậu ta ghét bị tôi bắt quả tang khi phỉnh phờ tăng giá, Andrew với Pilguez. Ông có công nhận là cậu ta đóng vai này rất hoàn hảo ? chiếc ô tô vô cùng hiếm, và đến thứ Sáu này tôi cho mướn nó nữa, trước khi tìm ra người chủ mới cho nó. Đừng có mà nghe mấy lời đường mật đó! Cậu ta sở hữu nó trong tay hai năm nay rồi, và chúng tôi lái nó nghỉ cuối tuần mùa hè vừa qua và chưa hết, nó còn hỏng ngay giữa chừng cơ, đó chính là điều cần với ông đấy!

      - Thôi được rồi, tớ nghĩ là ông đây hiểu. Cậu muốn gì nào, bởi tớ còn việc phải làm.

      - Tình bạn của các cậu dễ thương , Pilguez thốt lên.

      - Chúng ta có thể vào phòng làm việc của cậu được ? Andrew lên tiếng hỏi.

      - Mặt cậu trông lạ lắm, cậu gặp vấn đề gì à?

      Andrew mực im lặng.

      - Có chuyện gì thế? Simon cố nài.

      - Tốt hơn hết là vào phòng cậu chuyện, Pilguez tiếp lời.

      Simon ra hiệu cho Andrew dùng thang bộ dẫn lên căn gác lửng.

      - Xin hỏi khí phải, Simon sau cùng quay sang hỏi Pilguez, ông là ai?

      - người bạn của Andrew, nhưng đừng có ghen tị, giữa chúng ta có bất cứ cạnh tranh gì đâu.

      Simon mời cả hai vị khách ngồi vào hai chiếc ghế bành bằng da đối diện với rồi Andrew kể lại chuyện của mình cho bạn nghe.

      Simon lắng nghe bạn kể mà cắt ngang lần nào và giờ đồng hồ sau đó, khi Andrew rằng mình kể lại tất cả, Simon nhìn bạn hồi lâu rồi nhấc điện thoại lên.

      - Tớ gọi cho bạn bác sĩ mà tớ thường trượt tuyết cùng hằng năm, đó là bác sĩ đa khoa đầu bảng đó. Hẳn là cậu mắc chứng đái tháo đường rồi. Tớ nghe rằng nếu lượng đường quá nhiều có thể gây rối loạn trí óc. Cậu đừng quá lo, dù có thế nào chúng ta cũng tìm ra…

      - Đừng nhọc công tốn sức bạn, Pilguez vừa vừa đặt tay lên điện thoại, tôi từng đề nghị với cậu ấy đến khám chỗ bà bạn chuyên khoa thần kinh của tôi rồi nhưng bạn cậu vẫn chắc như đinh đóng cột với điều cậu ấy .

      - Thế ông đứng ra đảm bảo cho chuyện của cậu ấy ư? Vừa Simon vừa quay về phía Pilguez, ảnh hưởng tốt đó, hoan hô.

      - chàng chủ ga ra ơi, tôi biết liệu bạn cậu có gàn dở hay , nhưng tôi biết đó là người thành thực. Ba mươi lăm năm trong ngành cảnh sát, tôi phải đối mặt với vô số vụ hoàn toàn vượt khỏi chuẩn thông thường. Nhưng vì thế mà tôi từ bỏ đâu.

      - Ông là cảnh sát à?

      - từng thôi.

      - Về phần mình, tôi phải là chàng chủ ga ra mà là dân kinh doanh nghệ thuật. Thôi bỏ qua . Những vụ kiểu gì thế?

      - trong những vụ mới gần đây của tôi, bắt cóc phụ nữ bị hôn mê sâu ngay giường bệnh.

      - Quả đúng là bình thường, Simon rít lên.

      - Kẻ bị tình nghi là kiến trúc sư, gã kỳ lạ. Tôi nhanh chóng chắc chắn về tội trạng của , nhưng có gì đó hợp lý lắm, tôi hiểu động cơ của ta. Phá được vụ án mà xác định được động cơ của kẻ phạm tội mới chỉ hoàn thành được nửa việc mà thôi. Với gã đàn ông mà mọi thứ đều hoàn toàn bình thường ấy, chẳng hề có bất cứ lý do gì giải thích cho hành vi này của .

      - Thế ông làm gì?

      - Tôi theo dõi tìm ra người thiếu phụ vài ngày sau đó. giấu trong ngôi nhà cũ bị bỏ hoang ở sườn núi Carmel.

      - Ông bắt chứ? Simon hỏi.

      - , bắt cóc người phụ nữ này để giúp thoát khỏi tay bác sĩ và gia đình của ấy. Cả cái thế giới bé quanh ấy quyết định ngắt sống của ấy. khẳng định là ấy tìm tới , rằng ấy xuất trong nhà để cầu xin giúp đỡ. Câu chuyện quá ư vô lý, đúng ? Nhưng vô cùng thành thực và rồi rốt cuộc cũng làm khá tốt, kia thoát khỏi trạng thái hôn mê chỉ ít lâu sau khi tôi đưa ấy trở lại bệnh viện. Thế nên, tôi cố tình đánh mất hồ sơ điều tra, nếu hiểu điều tôi muốn , coi như người đàn ông này cứu giúp người gặp nguy hiểm theo cách nhất định nào đó.

      - Hơi giống cách ông làm với tôi phải ? Andrew ngắt lời ông.

      - Tôi kể với tất thảy những điều đó vào cái tối chúng ta dùng bữa cùng nhau ngay sau vụ va chạm xe hơi nho của chúng ta rồi, đúng ? Có phải vì thế mà cầu viện tôi giúp đỡ ? tự nhủ rằng gã đủ hâm để tin vào câu chuyện như vậy hẳn tin vào câu chuyện của đúng ?

      - Và tôi nhầm ư? Andrew mỉm cười hỏi, phải thế sao?

      - Chỉ là bài kiểm tra nho để trấn an tinh thần thôi mà, Simon van vỉ. Tớ cầu cậu nhiều, trái ngược với cậu đấy.

      - Theo tớ biết tớ còn chưa cầu gì cậu nhỉ?

      - Cậu bảo tớ phải tin rằng cậu bị sát hại trong vài tuần nữa, và rằng cậu tin chắc mình chết… ngoại trừ điều đó ra cậu chẳng bảo tớ làm gì nhiều nhặn cả. Tốt thôi, chúng ta tìm hiểu điều tra, bởi vì khi nghe cậu , tớ chẳng tin là nó gấp gáp lắm.

      - Phải thú thực với cậu là thoạt đầu tôi cũng có chút phản ứng giống cậu, Pilguez thổ lộ, nhưng đồng thời tôi cũng phải thú nhận rằng bạn cậu có biệt tài.

      - Tài gì thế? Simon tiếp lời.

      - Tài dự báo số tin tức trước khi nó xảy ra.

      - Chỉ còn thiếu mỗi nước đó thôi. Hẳn là chính tôi cũng nên kiểm chứng mới được, bởi ràng là ở đây chỉ có mình tôi thấy câu chuyện này rất khó tin…

      - Thôi Simon, tớ chẳng hề muốn quấy quả cậu bằng mấy cái thứ này đâu, chính ông thanh tra đây nài nỉ tớ làm thế thôi. Chúng ta thôi, vừa Andrew vừa đứng dậy.

      - Hai người đâu thế? Simon lao ra chặn đường bạn hỏi.

      - Cậu ấy à, cậu cứ ở lại đây , bởi cậu ngập việc, còn chúng tôi, chúng tôi tiếp tục điều tra và tìm ra kẻ muốn giết bạn cậu trước khi quá muộn.

      - Đợi chút ! Tớ chẳng thích chuyện này tẹo nào, nhưng hẳn là hoàn toàn , Simon vừa bước từng bước dài trong phòng vừa lẩm bẩm. Sao tớ lại phải ở đây mình trong khi cả hai người …?

      - Mẹ kiếp, Simon! Đây phải là chuyện đùa, mạng sống của tớ bị đe dọa.

      - Được rồi, Simon thở dài đánh thượt rồi vớ lấy áo vest vắt lưng ghế. Thế tớ có thể biết hai người định đâu ?

      - Tôi cần đảo nhanh chuyến sang phía bên kia Chicago, vừa Pilguez vừa rời khỏi phòng. Tôi trở lại ngay khi có thể. làm phiền hai cậu nữa, tôi tự tìm đường .

      Simon tiến lại ô cửa kính nhô cao phía xưởng xe nhìn viên thanh tra rời khỏi ga ra.

      - Cậu thực có thể tiên đoán chuyện sắp xảy ra trong vài tuần tới ư?

      - Chỉ những thứ mà tớ còn nhớ thôi, Andrew đáp.

      - Tớ bán được con xe chứ?

      - Con Pontiac, vào đầu tháng Bảy.

      - Sao cậu có thể nhớ chuyện như vậy?

      - Vì cậu mời tớ ăn tối để ăn mừng chuyện này… và còn rao giảng đạo đức với tớ nữa chứ.

      Andrew do dự rồi thở dài nhìn bạn.

      - Chỉ mỗi con Pontiac thôi sao? Thời buổi đúng là khó khăn, nhớ lại năm ngoái tớ toàn bán hai chiếc mỗi tháng cơ. Cậu có tin tốt lành nào khác báo với tớ ?

      - Cậu sống thọ hơn tớ, chẳng hề tồi phải nào?

      - Andrew, nếu cậu định sai khiến tớ giờ hãy làm , và tớ trao cho cậu giải Oscar dành cho diễn viên chính xuất sắc nhất, tớ chỉ hơi hơi tin cậu thôi.

      Andrew trả lời.

      - Hơn nữa cũng chẳng hề chi! Điều duy nhất quan trọng chính là chuyện này là thực với cậu. Tớ hiếm khi thấy cậu nhớn nhác như lúc này. Thế ta bắt đầu từ đâu?

      - Cậu nghĩ Valérie có khả năng giết tớ ?

      - Nếu cậu thực rời bỏ ấy vào ngay đêm tân hôn của hai người tớ có thể hiểu là ấy căm hờn cậu. Hoặc có thể bố ấy muốn trả thù cho con .

      - Tớ chưa cho ông ấy vào danh sách của mình. Thế là lại thêm người nữa!

      - Cậu biết , tớ có ý tưởng đơn giản như thế này để tránh cho cậu điều tồi tệ nhất. Lần tới mà cậu cưới ấy, thử nâng cao cảnh giác trong vài tháng , điều này giúp cậu tránh được hai kẻ tình nghi cùng lúc.

      - Tất cả đều là lỗi của cậu.

      - Sao lại là lỗi của tớ?

      - Nếu cậu dẫn tớ tới quán bar Novecento, tớ bao giờ…

      - xem nào, cậu quá lời rồi đấy, trong câu chuyện cậu vừa kể, chính cậu nài nỉ tớ quay lại chỗ đó.

      - Tớ thể tin là ấy có khả năng giết mình, dù có tức giận đến cỡ nào.

      - Cậu là cậu bị sát hại bằng gươm dao gì đó, ấy hẳn có thể đâm cậu bằng dụng cụ phẫu thuật, món đó hề thiếu trong nghề của ấy và rồi hành động chính xác vô cùng, phải nào? Phải có chút khéo léo nhất định mới có thể làm thế được.

      - Thôi Simon!

      - Tớ chẳng thôi cái gì sất, chính cậu đến tìm tớ đấy chứ! Cậu có thể với lão thanh tra về hưu của cậu là kể từ giây phút này, tớ và ông ta là đối thủ của nhau, chính tớ tìm ra kẻ sát hại cậu! Vả lại, cái lão thanh tra đó định làm gì ở Chicago vậy?

      - Tớ giải thích cho cậu đường .

      Simon mở ngăn kéo rồi vớ lấy chùm chìa khóa. dẫn Andrew xuống tận xưởng rồi chỉ vào chiếc Packard.

      - Tớ phải lái nó đến cho khách hàng xem, tớ hẹn ở dưới nhà ông ta ở gần phố 66, tớ thả cậu xuống giữa đường được ? Dù tớ tự hỏi mình sao lại đến cuộc hẹn này bởi cậu vừa với tớ rằng từ giờ cho đến tháng Bảy, tớ chẳng bán được chiếc nào…

      - Bởi cậu vẫn chưa tin tớ hoàn toàn.

      Andrew tranh thủ chuyến để trả lời hết câu hỏi này cho đến câu hỏi khác của Simon. Đến trước tòa soạn The New York Times họ chia tay nhau.

      Khi ngồi vào bàn làm việc, Andrew thấy có lời nhắn máy tính của mình. Olivia Stern cầu đến gặp càng sớm càng tốt. Ở phía sau tấm vách ngăn, Freddy Olson rì rầm chuyện điện thoại. Cứ khi nào Freddy là y như rằng vụ mà muốn giữ riêng để mình là người biết đầu tiên. Andrew ngồi lùi sâu vào ghế rồi dán chặt tai vào tấm ngăn.

      - Vụ giết người đó xảy ra khi nào? Olson hỏi người bên kia đầu dây. Và đó là vụ tấn công thứ ba theo kiểu này rồi phải ? Tôi biết, tôi biết, tiếp tục. Cùng lúc đó là nhát dao vào sống lưng, ở giữa New York này như thế cũng chẳng phải độc đáo gì lắm nhỉ, từ đó có thể kết luận là tên giết người hàng loạt, khả năng hơi đốt cháy giai đoạn đấy. Tôi chú ý chuyện này sát sao hơn. Cảm ơn , tôi gọi lại nếu có tin gì mới. lần nữa xin cảm ơn nhiều.

      Olson gác máy rồi đứng dậy, có lẽ là để toa lét. từ lâu Andrew nghi ngờ chỉ đến đó để xả bọng đái, hoặc là bọng đái của thực yếu lắm. Xét đến tình trạng thường xuyên bồn chồn của tay đồng nghiệp, Andrew ngờ rằng hút xì ke.

      Ngay khi Freddy khuất dạng, Andrew vội đến ngồi vào bàn của Olson rồi lướt nhanh phần ghi chép của .

      người đàn ông bị đâm bằng dao găm ngày hôm qua tại Công viên Trung tâm, gần ao rùa. Kẻ tấn công đâm nạn nhân ba nhát liên tiếp trước khi bỏ trốn để mặc nạn nhân chết. Tuy vậy, nạn nhân vẫn còn sống và được cấp cứu tại bệnh viện Lenox. Tin này được tường thuật chi tiết tờ New York Post, tờ nhật báo khổ chuộng những thể loại tin giật gân tương tự. Ở phía cuối trang, Olson còn nguệch ngoạc hai dòng ngày tháng kèm hai địa chỉ, ngày 13 tháng Giêng, phố 141 và ngày 15 tháng Ba, phố 111.

      - Tôi có thể biết làm gì ở đây ?

      Giọng khiến Andrew giật nảy mình.

      - Tôi làm việc như có thể thấy đấy, hình như ở đây phải ai cũng thế?

      - làm việc ở bàn tôi à?

      - Thảo nào tôi cứ tự hỏi sao lại thấy đồ đạc của mình nhỉ! Andrew thốt lên. Hóa ra là tôi bị lộn chuồng, Andrew vừa đứng dậy vừa thêm.

      - coi tôi là thằng ngốc đấy chắc?

      - Tôi cũng hay bị thế này ấy mà. Tôi xin lỗi, tổng biên tập gọi tôi đến gặp. Chùi mũi , có chút gì trăng trắng phía môi kìa. ăn bánh kẹp à?

      Freddy liền xoa xoa lỗ mũi.

      - Thế ý ở đây là gì?

      - Tôi chẳng có ý gì hết… Giờ làm ở mục tin vặt à?

      - cái gì vậy?

      - Trong tập giấy nhớ của , có ngày tháng cùng địa chỉ kìa, đó là lũ cẩu bị xe buýt cán chết đúng ? biết bạn tôi là bác sĩ thú y mà, nếu cần giúp tay để điều tra

      - độc giả liên kết ba vụ án giết người bằng dao găm ở New York, ta khẳng định đó là tay giết người hàng loạt.

      - Và đồng tình với ý kiến đó?

      - Ba nhát dao trong vòng năm tháng tại thành phố hai triệu dân, số liệu này có sức thuyết phục lắm, nhưng Olivia giao cho tôi phụ trách tiến hành điều tra.

      - Thôi, phải tôi muốn ở lại chuyện với , nhưng tôi có hẹn mất rồi.

      Andrew quay gót rồi thẳng tiến phòng làm việc của Olivia Stern. ra hiệu cho vào.

      - Việc tìm kiếm của tiến hành đến đâu rồi? Olivia lên tiếng hỏi trong lúc vẫn tiếp tục mổ cò bàn phím máy tính.

      - Các nguồn tin tại chỗ gửi cho tôi nhiều tin mới, Andrew dối. Tôi có nhiều cuộc hẹn đợi và hướng thú vị có thể buộc tôi xa hơn Buenos Aires chút.

      - Hướng nào thế?

      Andrew gắng huy động bộ nhớ. Kể từ lúc quay ngược về quá khứ, chỉ dành rất ít thời gian cho cuộc điều tra vì quá bận tâm đến số phận bản thân. Để thỏa mãn trí tò mò của tổng biên tập, lục tung các kỷ niệm, những kỷ niệm về chuyến xem như là chưa diễn ra.

      - Ortiz có lẽ đến sống trong ngôi làng ở chân núi xa Cordoba là mấy.

      - Có lẽ ư?

      - Tôi biết ràng chính xác khi có mặt tại thực địa. Chưa đến hai tuần nữa tôi khởi hành.

      - Tôi với rồi, tôi cần các bằng chứng cụ thể cùng tài liệu, bức ảnh mới đây nhất. Tôi thể bằng lòng chỉ với vài lời chứng hoặc trong trường hợp ấy, chúng phải xuất phát từ những nhân vật đáng tin.

      - Khi với tôi như vậy, tôi có cảm giác chỉ coi tôi là tay gà mờ, như thế khiến tôi hơi mếch lòng đấy.

      - quá là dễ tự ái, Andrew ạ, và cuồng á…

      - Tin tôi , tôi có cái lý của mình, vừa đáp vừa đứng dậy.

      - Tôi hao tâm tổn lực rất nhiều vì bài báo của rồi, đừng để tôi bị thất bại, cả lẫn tôi, chúng ta có quyền mắc sai lầm.

      - điên rồ khi thời gian gần đây lời cảnh báo này trở nên quen thuộc với tôi quá. Nhân tiện, bảo Olson điều tra về vụ giết người hàng loạt à?

      - , sao thế?

      - vấn đề gì đâu, vừa đáp Andrew vừa rời khỏi phòng Olivia Stern.

      Andrew quay trở lại ngồi trước máy tính của mình. mở bản đồ Manhattan ở chế độ toàn màn hình rồi xác định hai địa chỉ ghi trong tập giấy nhớ của Olson. Hai vụ giết người đầu tiên được thực ở ven công viên, ngày 13 tháng Giêng phố 141 rồi đến ngày 15 tháng Ba tại phố 111, vụ mới đây nhất ở đầu dốc phố 79. Nếu là cùng tên sát nhân, tên này dường như hành động từ mạn Bắc xuống mạn Nam của đảo. Andrew ngay lập tức nghĩ rằng vụ tấn công mà mình là nạn nhân kéo dài cái trục đường dẫn xuống địa ngục này. tìm vài thông tin về người vừa bị tấn công rồi vớ lấy áo vest vội vã rời văn phòng.

      Ra đến lối thông giữa các phòng, liếc mắt nhìn xuống phố qua vách kính chợt chi tiết khiến chú ý. nhấc điện thoại rồi bấm số.

      - Tớ có thể biết cậu làm cái quái gì mà cắm rễ chình ình phía sau cái cây ngay cửa tòa soạn chỗ tớ ?

      - Sao cậu biết? Simon hỏi.

      - Bởi tớ nhìn thấy cậu, ngốc ạ.

      - Cậu nhận ra tớ ư?

      - Thế cái áo gió cùng cái mũ kia là gì thế?

      - Phục trang để che giấu nhân thân.

      - Hiệu quả ! Cậu chơi trò gì thế?

      - Tớ chẳng chơi bời gì sất, tớ theo dõi những nơi và đến của tay đồng nghiệp Olson của cậu. Ngay khi rời , tớ theo sát .

      - Cậu điên mất rồi!

      - Thế cậu muốn tớ làm gì nữa đây? Giờ khi biết rằng mình bán nổi chiếc xe nào trong vòng hai tháng tới tớ chẳng mất thời gian ở ga ra làm gì trong khi có kẻ muốn sát hại cậu! Và cậu chút , cậu làm tớ bị phát mất.

      - Cậu chẳng cần đến tớ mới bị phát đâu. Đợi tớ ở đó, tớ xuống gặp cậu và cậu ra khỏi chỗ cái cây đó !

      Andrew gặp lại Simon vỉa hè rồi nắm lấy tay bạn kéo xa khỏi cửa vào tòa soạn The New York Times.

      - Cứ như Philip Marlowe [1] ấy, trông cậu nực cười.

      [1] Nhân vật thám tử tư trong loạt truyện trinh thám của tác giả Raymond Chandler.

      - Cái áo khoác này đắt lòi mắt ra, hàng Burberry xịn đấy.

      - Simon, trời nắng chang chang kia kìa.

      - Cậu tự coi mình là Chúa Jesus sinh và cậu định lên lớp tớ vì tớ đóng vai thám tử tư ư?

      Andrew vẫy chiếc taxi rồi van nài Simon lên xe và bảo tài xế chở cả hai đến góc giao giữa Đại lộ Công viên và phố 77.

      Mười phút sau, chiếc taxi đỗ trước lối vào cho xe cấp cứu của bệnh viện Lenox.

      Simon bước ra trước tiên rồi tiến về phía quầy lễ tân.

      - Xin chào, với y tá, chúng tôi đến vì bạn tôi…

      Andrew lại tóm lấy cánh tay bạn rồi thô bạo kéo Simon ra xa.

      - Tớ lại làm cái gì à? Cậu đến khám bác sĩ tâm thần sao?

      - Simon, hoặc là cậu cư xử cho bình thường, hoặc là cậu quay về ngay tức khắc, chưa?

      - Tớ cứ tưởng lần này cậu quyết định đúng đắn. Nếu vì cậu, sao chúng ta lại ở trong bệnh viện này?

      - Có bị đâm bằng dao găm từ phía sau. Tớ muốn hỏi gã đó chút. Cậu giúp tớ vào phòng gã đó càng kín đáo càng tốt.

      Khuôn mặt Simon để lộ niềm vui sướng được tham gia vào vụ như thế này.

      - Thế tớ phải làm gì?

      - Quay lại gặp y tá ở quầy lễ tân rồi khẳng định cậu là trai của gã Jerry McKenzie nào đó và cậu đến thăm .

      - Cứ như thể là rồi ấy.

      - Và cởi cái áo khoác này ra nữa!

      - Chẳng cần cậu phải dạy tớ làm thế nào đâu! Vừa khỏi Simon vừa đáp.

      Năm phút sau, Simon trở lại chỗ Andrew ngồi đợi mình chiếc ghế băng ở phòng đợi.

      - Thế nào rồi?

      - Phòng 720, nhưng sau 13 giờ mới được thăm nom và chúng ta vào được đâu, có cảnh sát canh trước cửa.

      - Thế toi rồi, Andrew làu bàu.

      - Trừ phi là có cái phù hiệu, Simon vừa thêm vừa dính mẩu giấy dính lên áo khoác, như cái này này.

      - Cậu có nó bằng cách nào thế?

      - Tớ trình giấy tờ của mình cho nàng y tá xem, tớ với nàng rằng tay Jerry tội nghiệp kia là em trai tớ, chúng tớ chung bố nhưng cùng mẹ nên tên họ khác nhau, rằng tớ từ Seattle đến và tớ là người thân duy nhất trong gia đình.

      - Thế nàng tin cậu à?

      - Có vẻ như tớ trông đáng tin và rồi với chiếc áo gió này, Seattle quả đúng là nơi thể thiếu nó, trời mưa ba trăm sáu mươi lăm ngày trong năm. Tớ cũng hỏi xin nàng số điện thoại để mời nàng ăn tối bởi tớ chỉ có thân mình ở thành phố này.

      - Thế nàng có cho cậu ?

      - , nhưng nàng cảm thấy được ve vãn và nhờ đó, nàng cho tớ cái phù hiệu thứ hai… cho tay tài xế của tớ, vừa Simon vừa dán miếng sticker vào áo vest của Andrew. Chúng ta chứ, James?

      Trong lúc thang máy lên tầng tám, Simon đặt tay lên vai Andrew.

      - Nào, , cậu thấy điều đó hại gì cậu đâu.

      - gì?

      - Cảm ơn, Simon.

                  *


      Andrew và Simon bị lục soát theo đúng nguyên tắc trước khi viên cảnh sát canh gác để cho cả hai vào phòng.

      Andrew lại gần người đàn ông ngủ gà ngủ gật. ta choàng mở mắt.

      - Các phải bác sĩ đúng ? Các làm gì ở đây?

      - Tôi là nhà báo, tôi muốn hại đâu.

      - thế với tay chính trị gia ấy…, người đàn ông vừa nhăn nhó vừa ngồi thẳng dậy giường. Tôi chẳng có gì để với cả.

      - Tôi ở đây vì công việc, vừa Andrew vừa tiến lại gần giường bệnh.

      - Cút nếu tôi gọi cảnh sát!

      - Tôi cũng bị đâm giống như , và có hai người khác cũng chịu chung số phận trong hoàn cảnh tương tự. Tôi tự hỏi liệu đó có phải là do cùng kẻ gây ra hay . Tôi chỉ muốn biết liệu có nhớ được gì ? Khuôn mặt của ta? Vũ khí dùng tấn công ?

      - Tôi bị tấn công từ sau lưng, có bị ngớ ngẩn hay !

      - Thế nhìn thấy gì xảy đến à?

      - Tôi nghe thấy tiếng bước chân phía đằng sau. Lúc đó có rất đông người rời khỏi công viên, tôi chỉ cảm thấy có ai đó tiến lại gần. Tôi gặp may, chỉ cần nhích lên xăng ti mét nữa là tên khốn đó đâm trúng động mạch rồi. Có lẽ tôi bị cạn sạch máu trước khi đến được đây. Hơn nữa các bác sĩ cũng bảo với tôi rằng nếu bệnh viện ở gần như thế này tôi chắc thể qua khỏi.

      - Tôi chẳng có được cái may mắn đó, Andrew thở dài.

      - có vẻ rất khỏe đấy chứ.

      Andrew đỏ bừng mặt rồi nhìn Simon, cậu bạn ngước mắt nhìn lên trời.

      - có bị mất ý thức ngay tức khắc ?

      - Gần như thế, McKenzie đáp, tôi nghĩ là nhìn thấy kẻ sát nhân chạy vượt qua mình, nhưng mắt tôi mờ , chắc tôi thể miêu tả cho được. Khi ấy tôi định gặp nữ khách hàng, tôi bị cướp mười nghìn đô la tiền hàng. Đây là vụ tấn công thứ ba trong vòng năm năm qua, và lần này tôi nộp đơn xin giấy phép mang vũ khí theo người và chỉ giới hạn trong vòng hai mươi mét vuông quanh cửa hiệu kim hoàn của tôi. Thế còn , nhà báo, bị đâm bằng gì?

      Và trong lúc Andrew cùng Simon có mặt ở bệnh viện Lenox, Freddy Olson lục tung ngăn kéo của đồng nghiệp, tìm mật khẩu truy cập máy tính của đồng nghiệp.

                  *


      - Chúng ta làm gì bây giờ? Simon lên tiếng hỏi khi vỉa hè sau khi rời bệnh viện.

      - Tớ gặp Valérie.

      - Tớ có thể cùng cậu ?

      Andrew im lặng.

      - Tớ hiểu. Tớ gọi cho cậu sau vậy.

      - Simon, hứa với tớ là quay lại tòa soạn.

      - Tớ làm điều tớ muốn thôi.

      Simon chạy băng qua phố rồi nhảy lên chiếc taxi.

                  *


      Andrew trình thẻ căn cước tại khu vực tiếp đón. Sau khi thực cuộc gọi, viên lính gác chỉ cho Andrew đường .

      Nơi Valérie làm việc chẳng hề giống với những gì Andrew hình dung.

      bước vào khoảnh sân trong vuông vắn. tòa nhà dài ngoằng mà vẻ đại khiến Andrew phải ngạc nhiên sừng sững vươn mình ở phía cuối sân. Chuồng ngựa án ngữ ở tầng trệt. cánh cửa ở giữa mở vào hành lang dài dẫn đến các phòng thú y.

      Valérie ở khu vực phẫu thuật. trợ lý của đề nghị Andrew đợi trong phòng nghỉ. Khi Andrew bước vào phòng, nhân viên cảnh sát đứng bật dậy.

      - có tin gì mới , ca mổ suôn sẻ chứ?

      Andrew từ ngạc nhiên này đến ngạc nhiên khác. Người đàn ông này, với tầm vóc lừng lững và khi đối diện với ta, hẳn thú nhận mọi thứ và bất cứ thứ gì để làm ta nổi giận, dường như vô cùng bối rối.

      - , có gì cả, vừa Andrew vừa ngồi xuống. Nhưng đừng lo, Valérie là bác sĩ thú y giỏi nhất New York. Chó của chẳng gặp được bác sĩ nào mát tay hơn đâu.

      - biết đấy, đó hẳn là con chó, người đàn ông thở dài, đó vừa là đồng nghiệp vừa là người bạn thân thiết nhất của tôi.

      - Giống gì thế? Andrew hỏi.

      - Giống Retriever.

      - Thế người bạn thân của tôi cũng gần giống vậy.

      - cũng có con Retriever ư?

      - , con của tôi thuộc giống chó lai, nhưng rất khôn.

      Valérie bước vào phòng và rất ngạc nhiên khi thấy Andrew ở đây. đến chỗ viên cảnh sát báo cho ta hay rằng ta có thể tới thăm chú chó của mình trong phòng hồi sức, ca phẫu thuật thành công mỹ mãn. Trong vài tuần nữa, và sau đợt phục hồi chức năng, nó lại sẵn sang làm nhiệm vụ. Viên cảnh sát rời ngay tức .

      - Đây đúng là điều ngạc nhiên thú vị.

      - Con chó bị sao thế? Andrew hỏi.

      - Nó bị trúng đạn vào phần bụng dưới.

      - Nó được trao huân chương chứ?

      - đừng giễu cợt thế chứ, con chó này nhảy vào giữa kẻ tấn công và nạn nhân, em thấy có mấy người làm được như vậy đâu.

      - giễu cợt, Andrew vẻ suy tư. Em dẫn tham quan chứ?

      Căn phòng giản dị và sáng sủa. Các bức tường cao nổi bật xây kiên cố, hai khung cửa sổ lớn mở ra khoảnh sân giữa, chiếc bàn kính đặt hai cái mễ kiểu dáng cổ lổ sĩ được dùng làm bàn làm việc của Valérie, màn hình máy tính, hai hộp đựng bút chì, chiếc ghế Windsor mà hẳn tìm thấy ở tiệm buôn đồ cũ. Hàng chồng tài liệu chất đống chiếc bàn chân quỳ phía sau . Andrew nhìn mấy tấm ảnh đặt chiếc bàn bằng kim loại.

      - Đây là tấm hình Colette và em lúc học đại học.

      - ấy cũng là bác sĩ thú y à?

      - , bác sĩ gây mê.

      - Đây là bố mẹ em nhỉ, vừa Andrew vừa cúi xuống khung ảnh khác. Bố em chẳng thay đổi gì cả, rốt cuộc cũng bao nhiêu năm rồi còn gì.

      - Chao ôi, chẳng thay đổi gì, cả thể chất lẫn tinh thần. Vẫn luôn thiển cận và nghĩ rằng mình biết tuốt hơn tất cả mọi người.

      - Hồi chúng ta còn , ông chẳng thích .

      - Ông ghét tất cả bạn em.

      - Em có nhiều bạn đến thế cơ à?

      - Vài người thôi…

      Valérie chỉ tay vào khung ảnh khác.

      - Nhìn cái này này, vừa Valérie vừa cười.

      - Ơ, lạ chưa, là phải ?

      - Hồi đấy mọi người gọi là Ben.

      - Em tìm thấy bức ảnh này ở đâu vậy?

      - Em vẫn luôn mang theo bên mình. Nó là phần trong đống hành lý ít ỏi mà em mang theo lúc rời Poughkeepsie.

      - Em giữ bức ảnh của ư?

      - phần thời niên thiếu của em, Ben Stilman à.

      - rất xúc động, chưa có giây phút nào từng nghĩ rằng em muốn dẫn cùng em, ngay cả khi đó chỉ là tấm ảnh.

      - Nếu em đề nghị theo em, hẳn làm thế, đúng ?

      - biết nữa.

      - mơ ước trở thành nhà báo. tự thân lập ra tờ báo trường và ghi chép rất có phương pháp tất cả những gì xảy ra vào cuốn sổ . Em nhớ là từng muốn phỏng vấn bố em về nghề của ông và ông tống cổ ra khỏi nhà.

      - quên hết sạch rồi.

      - Em thổ lộ với bí mật nhé, vừa Valérie vừa tiến lại gần. Khi vẫn còn là Ben, em hơn rất nhiều so với em . Nhưng khi nhìn ngủ lúc đêm, em lại có cảm tưởng ngược lại. Đôi khi em tự nhủ rằng như thế ổn, rằng em phải là người phụ nữ mơ ước, rằng đám cưới đó thể diễn ra và rồi cuối cùng rời xa em. Và em tài nào hiểu nổi vì sao những suy nghĩ ấy lại khiến em đau khổ như vậy.

      Andrew tiến thêm bước về phía Valérie rồi vòng tay ôm lấy .

      - Em nhầm rồi, em chính là người phụ nữ bao giờ ngừng mơ ước có được, còn thiết tha hơn cả ý nghĩ trở thành nhà báo. Em nghĩ rằng đợi em suốt cả quãng thời gian đó để rồi rời bỏ em sao…

      - Andrew, có giữ bức ảnh nào của em ?

      - , khi đó quá giận em vì trốn khỏi Poughkeepsie mà để lại địa chỉ. Nhưng khuôn mặt em khắc sâu ở đây rồi, Andrew vừa thêm vừa chỉ vào trán mình, và nó chẳng bao giờ rời bỏ . Em thể hình dung em đến nhường nào đâu.

      Valérie dẫn vào khu phẫu thuật. Andrew lợm giọng nhìn mấy miếng gạc đẫm máu vương tấm vải nhựa lót sàn. lại gần bàn dao rồi quan sát các dụng cụ phẫu thuật. Có đủ mọi loại kích cỡ.

      - Những thứ này sắc kinh khủng đúng em?

      - Sắc như dao mổ, Valérie đáp.

      Andrew cúi xuống chỗ con dao dài nhất rồi nhón tay cầm lên. cầm cán dao ước đoán trọng lượng.

      - Chú ý đừng để bị thương đấy, vừa Valérie vừa nhàng tước con dao ra khỏi tay .

      Andrew nhận thấy vô cùng khéo léo khi thao tác con dao đó. xoay con dao giữa ngón trỏ và ngón giữa rồi đặt xuống bàn dao.

      - theo em nào, những dụng cụ này còn chưa được khử trùng đâu.

      Valérie dẫn Andrew về phía vòi nước gắn bức tường lát gạch vuông. dùng khuỷu tay mở vòi nước, nhấn vòi xà phòng rồi dùng tay rửa tay cho Andrew.

      - Ngành phẫu thuật là hấp dẫn, Andrew thầm.

      - Tất cả còn tùy vào người phụ tá , Valérie đáp.

      vòng tay ôm rồi hôn .

                  *


      Ngồi vào bàn tại quán cà phê giữa đám cảnh sát ở đây, Andrew chợt nhớ tới thanh tra Pilguez, người mà mong tin.

      - lo lắng à? Valérie hỏi.

      - , chỉ là do bầu khí nơi đây thôi, quen ngồi ăn giữa chừng này người mặc quân phục như vậy.

      - Chúng ta quen thôi, với lại cứ yên tâm, ở nơi nào khắp New York này được an toàn hơn ở đây đâu.

      - Chừng nào mà chúng ta còn chưa thăm lũ ngựa của em…

      - Em định dẫn thăm chuồng ngựa ngay sau khi dùng cà phê xong…

      - được rồi, còn phải quay lại chỗ làm.

      - đúng là nhát như cáy!

      - Nếu em thích để lần khác nhé.

      Valérie quan sát Andrew.

      - Sao lại đến tận đây, Andrew?

      - Để uống cà phê với em, để thăm nơi em làm việc, em từng đề nghị thế còn gì và muốn làm như vậy.

      - băng qua cả thành phố chỉ để làm em vui thôi sao?

      - Và cũng để em hôn ngay phía cái bàn đựng toàn dụng cụ phẫu thuật… đó là khía cạnh lãng mạn của .

      Valérie tiễn Andrew ra tận taxi; trước khi đóng cửa xe lại, quay về phía .

      - Thực ra bố em từng làm nghề gì?

      - Bố em là nhà thiết kế công nghiệp ở nhà máy.

      - Thế nhà máy đó sản xuất gì vậy?

      - Phụ liệu may mặc. máy tiện, kéo cắt may, kim các loại, que móc, từng rằng ông làm nghề của phụ nữ và chế nhạo ông. Sao lại hỏi em vậy?

      - Chẳng có gì đâu.

      hôn Valérie, hứa với về muộn rồi đóng cửa taxi lại.

    2. CQH

      CQH ^^!

      Bài viết:
      192
      Được thích:
      41,961

      Chương 15
      … Hai gã đàn ông đưa Rafaël ra khỏi xà lim. Trong khi tên túm tóc lôi tên kia dùng roi gân bò đánh tới tấp vào bắp chân Rafaël để cho đứng thẳng dậy. Cơn đau ở đầu dữ dội đến mức tưởng như da đầu bật ra đến nơi; mỗi mét bước , Rafaël đều gắng gượng đứng dậy, nhưng hai đầu gối lại sụm xuống dưới đòn roi. Trò chơi tra tấn nho này chỉ tạm thời dừng lại khi cả bọn đến trước cánh cửa sắt.

      Cánh cửa đó mở vào căn phòng lớn hình vuông, hề có cửa sổ.

      Mấy bức tường lốm đốm những vệt dài màu đo đỏ, nền nhà đất nện sặc mùi máu khô cùng phân người, thứ mùi hắc thể chịu nổi. Hai bóng điện treo lơ lửng trần.

      Ánh sáng chói lóa cả mắt nếu muốn là tương phản hoàn toàn với cảnh tranh tối tranh sáng trong xà lim mà ở suốt hai ngày qua, được ai cho bất cứ đồ ăn thức uống nào.

      Chúng lột áo sơ mi, quần dài và cả quần lót rồi buộc ngồi vào chiếc ghế sắt, được gắn chắc bằng xi măng xuống nền nhà. Hai sợi dây trói bằng da ghì vào thành ghế, hai sợi khác ở phía chân ghế. Khi Rafaël bị trói chặt vào ghế, sợi dây da cứa đứt da thịt .

      viên đại úy bước vào. mặc bộ đồng phục được là ủi thẳng thớm chê vào đâu được. Tên đó ngồi xuống góc chiếc bàn, lấy tay xoa xoa mặt gỗ để phủi bụi và đặt chiếc mũ cát két xuống. Rồi lặng lẽ đứng dậy, tiến đến gần Rafaël, tung cú đấm móc vào hàm . Rafaël cảm thấy máu chảy rần rật trong miệng. thể kêu hét, lưỡi bị dính chặt vào vòm miệng vì khô khốc.

      - Antonio… ( cú đấm khiến mũi gãy vụn), Alfonso… ( cú khác vào cằm), Roberto… (cú thứ ba làm rách toạc vành xương lông mày)… Sánchez. Mày nhớ ra tên tao chưa hay là muốn tao nhắc lại?

      Rafaël bất tỉnh nhân . Chúng tạt xô nước thối inh vào mặt .

      - Nhắc lại tên tao , đồ vô lại! tên đại úy ra lệnh.

      - Antonio, Alfonso, Roberto, con hoang điếm, Rafaël thào.

      Tên đại úy giơ tay lên nhưng rồi lại rụt tay về; vừa cười vừa ra hiệu cho hai tên bộ hạ chuẩn bị cho gã vô chính phủ mất dạy kia nếm mùi máy phát điện.

      Chúng đặt nhiều tấm đúc bằng đồng lên ngực và đùi để dẫn điện, chúng nối dây điện trần vào mắt cá chân, cổ tay rồi cả hai bên tinh hoàn của .

      Lần phóng điện đầu tiên đẩy cơ thể về phía trước, và hiểu vì sao chiếc ghế lại được gắn chặt xuống nền nhà. Hàng nghìn mũi kim châm chạy rần rật trong mạch máu , dưới da .

      - Antonio Alfonso Roberto Sasnchez! Tên đại úy thản nhiên nhắc lại.

      Cứ khi nào Rafaël bất tỉnh xô nước hôi thối lại buộc trở lại với màn tra tấn mà chúng bắt phải chịu.

      - Ant… Alfonso… Rob… ánchez, thầm trong lần phóng điện thứ sáu.

      - Thế mà cứ khoe mình là trí thức, đến phát đúng cái tên cũng chẳng xong, tên đại úy cười khẩy.

      dùng đầu cây gậy mảnh nâng cằm Rafaël lên rồi cứa nhanh, mạnh nhát vào má .

      Rafaël chỉ nghĩ đến Isabel, đến María Luz, và nhất quyết chịu nhục xin tha.

      - Cái nhà in chết tiệt của chúng mày ở đâu? Tên đại úy hỏi.

      Khi nơi ấy được nhắc đến, Rafaël, mặt sưng vù, thân thể bầm giập, thả hồn đến với căn phòng có bức tường xanh tróc lở vữa. cảm nhận được mùi giấy, mùi mực và mùi rượu metila mà các bạn thường sử dụng để làm máy in rônêô hoạt động. Ký ức thuộc về khứu giác này khiến trở nên minh mẫn hơn chút.

      luồng điện phóng tiếp theo khiến người rung lên bần bật, bắt đầu co giật và kiểm soát được các cơ thắt. Nước tiểu lẫn máu trong người chảy ra dọc hai cẳng chân. Đôi mắt, chiếc lưỡi cùng bộ phận sinh dục mất hết sức sống. bất tỉnh nhân .

      Tay bác sĩ phụ tá cho đại úy chạy đến nghe tim phổi, kiểm tra đồng tử rồi thông báo hôm nay thế là đủ rồi nếu chúng muốn giữ mạng sống của . Và tay đại úy Antonio Alfonso Roberto Sánchez dĩ nhiên là muốn giữ cho tù nhân của mình còn sống. Nếu muốn chết, chỉ cần bắn phát vào đầu là xong, nhưng còn hơn cả chết, muốn phải chịu đau đớn bội phần để trả giá cho hành động phản bội.

      Trong khi bị bọn tay chân lôi về xà lim, Rafaël bất tỉnh và chịu đòn tra tấn kinh khủng nhất khi nghe thấy, từ đầu kia hành lang, tên đại úy Sánchez hét lên: “Dẫn vợ ta lại đây.”

      Isabel và Rafaël trải qua hai tháng ròng ở trung tâm ESMA. Chúng dùng băng dính dán chặt mí mắt hai người để ngăn họ ngủ và khi họ dần chìm vào trạng thái mất ý thức, chúng lại đánh thức họ bằng những cú đá hay dùi cui.

      Suốt hai tháng ròng, vốn chẳng bao giờ được gặp nhau trong hành lang dẫn tới phòng tra tấn, Isabel và Rafaël cứ dần dần rời xa cái thế giới mà họ từng biết loài người. Trong quãng thời gian lẫn lộn giữa ngày lẫn đêm mà họ chẳng tài nào phân biệt nổi đó, họ chìm đắm trong vực thẳm tăm tối mà những tín đồ sùng đạo nhất cũng chẳng thể hình dung nổi.

      Tuy vậy, khi tên đại úy Sánchez dẫn họ đến căn phòng nơi họ bị tra tấn, viện dẫn đến những hành động phản bội của họ, khi là phản bội Tổ quốc, khi là phản bội đức Chúa trời. Và khi nhắc đến Chúa trời, lại càng đánh mạnh tay hơn.

      Tên đại úy ra lệnh chọc mù mắt Isabel nhưng tia sáng trong hề lụi tắt, đó chính là ánh mắt của María Luz. Thi thoảng, những muốn các đường nét của khuôn mặt con bị xóa nhòa để được buông xuôi mà chết. Chỉ có cái chết mới có thể giải phóng cho , chỉ có cái chết mới đưa về với đồng loại của mình mà thôi.

      tối, tên đại úy buồn chán, ta ra lệnh cắt đứt bộ phận sinh dục của Rafaël. trong những tay chân của dùng kéo cắt. Tay bác sĩ phụ trách việc khâu lại, có chuyện để mặc Rafaël mất sạch máu.

      Vào đầu tháng cầm tù thứ hai, chúng tháo băng dính để giật mí mắt họ. Mỗi lần tên đại úy cho gọi nạn nhân của mình là họ lại mất phần dáng vẻ con người. còn có thể nhận ra Isabel được nữa. Khuôn mặt cùng bầu vú của bị bỏng vô số chỗ do đầu mẩu thuốc lá của tên đại úy dúi vào da . (Và ta hút hai bao mỗi ngày.) Ruột gan , vốn cũng bị bỏng nặng do tác động của các luồng điện chạy qua người, khó khăn lắm mới chịu đựng được những ngụm nước nóng mà chúng bắt uống bằng thìa. từ lâu lắm rồi, lỗ mũi chẳng còn ngửi thấy mùi phân của chính mình mà ngập ngụa trong đó. Bị đưa trở về trạng thái súc vật, Isabel mang vào trong cảnh tối tăm này hình ảnh khuôn mặt của con María Luz mà lúc nào ngơi thầm gọi tên.

      sáng, tên đại úy còn cảm thấy hứng thú với việc mình làm nữa. Cả Rafaël lẫn Isabel đều chịu khai ra địa chỉ của xưởng in. ta cóc quan tâm, ngay từ đầu cóc quan tâm. viên đại úy tầm cỡ như còn có những nhiệm vụ khác chứ chỉ chăm chăm truy lùng cái máy in sao tầm thường đó. Khi nhìn những nạn nhân của mình vẻ kinh tởm, vui mừng vì đạt được mục đích. hoàn thành nhiệm vụ, làm cho hai kẻ vô đạo đức dám chối bỏ Tổ quốc, dám từ chối phục tùng mệnh lệnh duy nhất có khả năng mang lại vinh quang cho đất nước Argentina vĩ đại mà nó đáng được hưởng, phải sức cùng lực kiệt. Tên đại úy Sánchez là kẻ nước tận tâm và có Chúa công nhận tấm lòng đó của .

      Vào lúc xế chiều, tay bác sĩ bước vào xà lim giam Isabel. mỉa mai thay, khi phải tiêm mũi penthotan, còn khử trùng vùng lõm khuỷu tay bằng miếng bông thấm cồn. Thứ thuốc độc đó khiến ngủ sâu nhưng giết chết . Mục đích chính là thế. Rồi đến lượt Rafaël cũng chịu chung số phận trong buồng giam nằm ở tận cuối hành lang.

      Đêm đến, chúng chuyển cả hai lên chiếc xe tải cho đến tận sân bay bí mật nằm ở vùng ngoại ô rộng lớn của Buenos Aires. chiếc máy bay hai động cơ của quân đợi trong nhà để máy bay. Isabel và Rafaël được đặt nằm dài trong khoang sau cùng khoảng hai chục tù nhân khác, dưới canh gác của bốn tên lính có nhiệm vụ áp giải những con người bất tỉnh nhân . Chiếc máy bay chở đầy hàng này cất cánh mà hề bật đèn hiệu. Tay thiếu tá nhận được chỉ dẫn lái thẳng đến dòng sông rồi đổi hướng về phía Đông Nam, ở độ cao thấp lè tè. Đường bay bao giờ được xáp lại gần bờ biển Uruguay. Đến cửa sông đổ ra đại dương, quay ngược lại rồi quay trở về điểm xuất phát. nhiệm vụ quen thuộc.

      Và thiếu tá Ortiz theo những chỉ dẫn này từng li từng tí . Chiếc máy bay lao lên bầu trời Argentina, bay lượn phía bồn địa Rio de La Plata và hoàn thành nhiệm vụ giờ sau đó.

      Lúc bấy giờ, đám lính canh mở cửa hậu và chúng chỉ mất vài phút để ném mười người đàn ông cùng mười người phụ nữ bất tỉnh nhân , nhưng vẫn còn sống, xuống biển. Tiếng ồn inh tai của động cơ giúp chúng phải nghe thấy thanh trầm đục của các cơ thể khi đập vào sóng biển trước khi bị cuốn . Từng đàn cá mập hình thành thói quen lảng vảng ở vùng nước đục này để rình đợi khẩu phần ăn hằng ngày từ trời rơi xuống vào cùng giờ mỗi tối

      Isabel và Rafaël trải qua những giờ phút cuối cùng trong đời bên nhau mà hề hay biết. Khi chiếc máy bay quay ngược trở lại nhà để máy bay, họ mãi mãi thuộc về hàng ngũ gồm ba mười nghìn người bị chế độ độc tài Argentina tính là mất tích…

      Valérie đặt mấy tờ giấy xuống rồi ra phía cửa sổ, cảm thấy nhu cầu cấp thiết là phải hít thở khí trong lành, thể thốt lên lời nào.

      Andrew ôm từ sau lưng rồi ghì chặt.

      - Chính em nài nỉ đấy nhé, bảo em đừng đọc rồi còn gì.

      - Thế còn María Luz sao? Valérie hỏi.

      - Chúng giết trẻ con. Chúng giao bọn trẻ cho các gia đình thân chính quyền, hoặc bạn bè của những kẻ thân chính quyền. Chính quyền tạo cho chúng nhân thân mới với tên cha mẹ nhận nuôi chúng. María Luz được hai tuổi khi Rafaël và Isabel bị bắt cóc, nhưng có hàng trăm phụ nữ mang thai vào thời điểm bị bắt.

      - Thế những kẻ đểu cáng đó tra tấn cả những phụ nữ có mang ư?

      - Đúng vậy, bằng cách canh chừng giữ cho họ sống đến lúc sinh nở, rồi chúng bắt luôn những đứa trẻ sơ sinh. Quân đội khoe khoang rằng cứu rỗi những linh hồn vô tội khỏi đồi bại bằng cách trao chúng cho những bậc cha mẹ có đủ tư cách đảm bảo cho chúng nền giáo dục xứng đáng với những giá trị của nền độc tài. Họ cho rằng đó là việc tốt theo đúng tinh thần đạo Cơ Đốc và các giới chức Nhà thờ, vốn biết những gì diễn ra, cũng mực đảm bảo cho điều đó. Vào những tháng cuối thai kỳ, các bà mẹ tương lai được trú trong những nhà hộ sinh tạm bợ được dựng trong trại giam. Ngay khi lọt lòng, con của họ bị lấy ngay lập tức… em biết số phận chờ những người phụ nữ này là gì rồi đó. Phần lớn những đứa trẻ đó, giờ khôn lớn, hề hay biết rằng cha mẹ đẻ của chúng bị tra tấn dã man trước khi bị ném sống xuống đại dương. Có thể trường hợp của María Luz cũng như vậy.

      Valérie quay lại nhìn Andrew. chưa bao giờ từng thấy xáo động và giận dữ cùng lúc như vậy, và những gì nhận thấy trong đôi mắt gần như khiến thấy sợ.

      - Hãy với em là cho đến giờ, những kẻ chưa chết vẫn trong nhà lao và chúng ở đó cho đến hết đời.

      - cũng muốn có thể với em như vậy lắm. Những kẻ phạm tội ác tàn bạo đó hưởng lợi từ đạo luật ân xá, được thông qua nhân danh hòa giải dân tộc, và khi luật đó bị bãi bỏ, phần lớn chúng biết cách để bị lãng quên hoặc thay đổi nhân thân. Chúng hề thiếu kinh nghiệm trong việc này và cũng chẳng thiếu trợ giúp về chính trị để tạo điều kiện thuận lợi cho việc đó.

      - quay lại đó rồi kết thúc cuộc điều tra của mình. tìm lại được tên Ortiz và tất cả những kẻ khốn nạn đó. Hứa với em như vậy !

      - Đó chính là mong muốn của kể từ khi tiến hành cuộc điều tra này. Em hiểu tại sao lại phải lao tâm khổ tứ đến vậy rồi chứ? Em trách quan tâm nhiều đến em phải ? Andrew hỏi.

      - Em muốn moi gan móc mật bè lũ kia.

      - hiểu, cũng thế mà, nhưng giờ em hãy bình tâm lại.

      - Đối diện với kẻ rác rưởi đó, thể hình dung những điều em có thể làm đâu. Em chẳng thấy chút cắn rứt nào nếu phải loại bỏ lũ quái vật tâm tra tấn cả phụ nữ có thai như sát hại đàn chó dại ấy.

      - Để em ngồi bóc lịch trong tù đến tận cuối đời à… quả là rất thông minh.

      - Tin em , em biết cách làm thế nào mà để lại dấu vết, Valérie tiếp lời mà vẫn chưa nguôi giận.

      Andrew quan sát rồi ghì chặt hơn nữa trong vòng tay.

      - nghĩ là những trang viết kia lại khiến em rơi vào trạng thái như lúc này. Lẽ ra nên đưa em đọc mới phải.

      - Em chưa bao giờ đọc cái gì gây phẫn nộ đến vậy, em rất muốn được cùng đến đấy lùng tìm lũ quái vật đó.

      - chắc đó là ý hay đâu.

      - Sao vậy? Valérie nổi khùng.

      - Bởi lũ quái vật đó, như em vẫn gọi, phần lớn còn sống, và dĩ nhiên năm tháng qua chắc khiến chúng trở nên vô hại đâu.

      - Thế mà còn sợ lũ ngựa cơ đấy…

                  *


      Sáng hôm sau, lúc rời nhà, Andrew ngạc nhiên khi gặp Simon ở dưới tòa nhà mình sống.

      - Cậu có thời gian uống cà phê ? Cậu bạn lên tiếng hỏi .

      - Dù sao cũng chào cậu…

      - theo tớ, Simon , vẻ lo lắng hơn bao giờ hết.

      Cả hai ngược lên phố Charles, Simon vẫn lặng thinh lời.

      - Có chuyện gì thế? Andrew lo lắng hỏi khi bước vào quán Starbucks.

      - Cậu lấy hai cốc cà phê , tớ giữ bàn này, Simon vừa ngồi xuống chiếc ghế bành gần cửa kính vừa .

      - Tuân lệnh!

      Andrew xếp hàng đợi đến lượt, mắt vẫn rời khỏi Simon, thái độ của cậu bạn khiến tò mò.

      - mocaccino cho tôi, còn cappuccino cho quý ngài Hoàng thân, Andrew khi ra chỗ bạn vài phút sau đó.

      - Tớ có tin xấu đây, Simon thông báo.

      - Tớ nghe đây.

      - Liên quan đến tay Freddy Olson đó.

      - Cậu theo dõi và cậu thấy chẳng đâu cả… Tớ biết điều này từ lâu rồi.

      - Nực cười quá đấy. Tớ dành cả tối mùa đông lạnh giá ngồi trước máy tính lần mò trong website của tờ báo nhà cậu để tìm kiếm các bài báo cậu viết.

      - Lẽ ra cậu nên gọi cho tớ nếu cậu buồn chán đến vậy, Simon của tớ à.

      - Cậu bớt huênh hoang trong ít phút nữa thôi. phải tớ quan tâm đến văn vẻ của cậu mà là những bình luận của độc giả cơ. Tớ muốn kiểm tra xem liệu có tên gàn dở nào viết bậy bạ linh tinh về bài báo cậu viết .

      - Tớ nghĩ là cũng phải có vài tên…

      - Tớ đến những kẻ nghĩ cậu là tay nhà báo kém cỏi.

      - Có những độc giả đăng những bình luận như thế website tờ báo ư?

      - Đúng là có số, nhưng…

      - Cậu chỉ tớ biết , Andrew cắt ngang.

      - Cậu để tớ hết chứ?

      - Đó phải là tin xấu của cậu à?

      - Tớ nhận thấy có loạt bình luận mang thái độ thù nghịch chẳng hề liên quan đến việc đánh giá phẩm cách nghề nghiệp của cậu. Lời lẽ thô bạo đến sững sờ.

      - Như thế nào?

      - Đại loại như chẳng ai thèm đọc bài của đâu. Trong số những bình luận hung hăng nhất, tớ chú ý đến bình luận của tay Spookie-Kid nào đó do số lượng lời bình nhiều kinh lên được. Tớ cậu làm gì , nhưng chẳng hề thích cậu tẹo nào. Tớ mở rộng phạm vi tìm kiếm để tìm hiểu xem liệu cái gã giấu mình sau biệt danh kia có tham gia vào các forum hay có blog hay .

      - Thế rồi sao?

      - quả đưa cậu vào ống ngắm. Mỗi lần cậu có bài đăng, liền nhiếc móc cậu ngay, và thậm chí ngay cả khi cậu có bài. Nếu cậu đọc tất cả những gì tớ có thể tìm thấy mạng do nickname này viết ra cậu là người đầu tiên phải kinh ngạc ấy, à mà , là người thứ hai, sau tớ.

      - Nếu tớ hiểu đúng tay bút quèn hẳn ngất ngây trước mấy tấm poster của Marilyn Manson căm ghét công việc của tớ, đó có đúng là tin xấu của cậu ?

      - Sao lại là Marilyn Manson?

      - Tớ biết, tự dưng tớ nghĩ thế thôi, tiếp .

      - Nghiêm túc nào, sao cậu lại nghĩ thế?

      - Spookie Kids là tên thời kỳ đầu của nhóm rock Marilyn Manson.

      - Sao cậu lại biết?

      - Bởi tớ là tay nhà báo kém cỏi mà, tiếp nào!

      - Trong các mối quen biết của tớ, có tay thiên tài tin học trẻ tuổi, nếu cậu hiểu điều tớ muốn

      - hề.

      - trong những tay tin tặc ấy, cứ mỗi Chủ nhật lại thử xâm nhập vào hệ thống máy chủ của Lầu Năm Góc hay CIA để giải trí. Tớ ấy à, thời đôi mươi, tớ thích đám con hơn, nhưng thôi, cậu còn muốn gì chứ, thời thế thay đổi rồi…

      - Duyên chưa! Sao cậu lại quen được tay hacker nhỉ?

      - Cách đây vài năm, khi mới mở xưởng, tớ hay cho đám choai choai con nhà giàu thuê xe vào cuối tuần để kiếm cơm. trong số chúng, khi đem trả chiếc Corvette, để quên thứ gì đó dưới hộp tì tay ở giữa.

      - Hàng nóng à?

      - Có, nhưng với số lượng đủ cho cả đàn bò gặm. Hút hít chưa bao giờ là món của tớ cả. Nếu tớ báo vụ này với cảnh sát hẳn thằng nhóc đó có đủ thời gian để chữa trị đám mụn trứng cá trước khi có thể làm lại từ đầu với máy tính vào ngày nào đó. Nhưng vì chẳng phải là cán cân công lý nên tớ trả lại nó thứ thuộc về nó. Thằng nhóc thấy tớ “ thà quá” và nó hứa với tớ rằng nếu ngày nào đó tớ cần bất cứ thứ gì tớ có thể trông cậy vào nó. Thế là đêm qua, đúng lúc 11 giờ, tớ tự nhủ mình đúng là cần làm việc trong tầm tay nó. Đừng hỏi tớ là nó làm như thế nào nhé, tớ hoàn toàn mù tịt về tin học, nhưng sáng nay nó gọi cho tớ sau khi xác định được địa chỉ IP của Spookie. dạng đăng ký địa chỉ máy tính của cậu khi cậu kết nối Internet ấy mà.

      - Gã tin tặc của cậu xác định được danh tính tên Spookie, kẻ buông những lời cay độc với tớ ư?

      - phải danh tính mà là nơi tung những lời cay độc đó. Và cậu ngạc nhiên khi biết rằng Spookie đăng những bình luận của từ mạng của The New York Times.

      Andrew sững sờ nhìn Simon.

      - Cậu có thể nhắc lại điều đó được ?

      - Cậu vừa nghe tớ rất rồi còn gì. Tớ in cho cậu xem vài ví dụ rồi đó, đó hẳn là những lời đe dọa tính mạng nhưng ở mức độ hằn thù như vậy cũng là cận kề nguy hiểm. Trong tòa soạn, ai có thể viết những điều bậy bạ như vậy về cậu cơ chứ? Ví dụ như bình luận gần đây nhất nhé, vừa Simon vừa chìa tờ giấy cho Andrew, “Nếu chiếc xe buýt có cán bẹp được cái bọc tội lỗi đó của Andrew Stilman mấy cái lốp xe hẳn bết cứt bẩn và nền báo chí nước nhà thoát khỏi thảm họa”.

      - Có lẽ là tớ có ý tưởng về câu trả lời, Andrew, choáng váng vì những lời lẽ vừa đọc được, đáp lời. Tớ để ý Olson nếu cậu muốn.

      - Cậu chẳng làm gì hết, bạn thân mến à. Trước tiên, tớ chẳng có bất cứ bằng chứng chính thức nào chống lại , cũng phải là kẻ duy nhất cày như trâu tại The New York Times. Và nếu cậu xen vào dè chừng. Cậu cứ để tớ làm và đừng có động cựa gì hết trước khi tớ bật đèn xanh. Chúng ta thống nhất thế chứ?

      - Nhất trí, Andrew tán đồng.

      - Cứ tiếp tục hành xử như thể chẳng có gì xảy ra ở tòa soạn. Cậu biết kẻ hận thù mình đến vậy có khả năng làm được những gì và điều quan trọng là chắc chắn nhận dạng được ta. Còn về phần liên quan đến tớ, dù có phải là Freddy Olson hay , tên Spookie-Kid kia cũng đứng đầu danh sách những kẻ muốn lấy mạng cậu và chịu nhịn để bộc lộ ra cho biết đâu.

      Andrew chào bạn rồi đứng dậy. Vừa rời bàn, Simon vừa mỉm cười hỏi bạn:

      - Tớ tiếp tục vụ theo dõi hay cậu vẫn luôn thấy tớ nực cười vậy?

                  *


      Andrew dành hết thời gian còn lại trong ngày vào tập hồ sơ về Argentina, gọi điện thoại hết cuộc này đến cuộc khác để chuẩn bị sắp xếp cho chuyến tới. Và, vào lúc xế chiều, trong khi vẫn nghiên cứu hồ sơ đó, hình bóng chợt ra trong giấc mộng của . bé đứng bất động, đơn độc ở cuối lối dài rợp bóng cây bách dẫn lên ngọn đồi. Andrew gác chân lên bàn rồi ngả người ra sau tựa vào phô tơi.

      bé dẫn đến tận ngôi làng chênh vênh núi. Mỗi khi tưởng như bắt kịp bé lại rảo bước và cách xa hơn. Tiếng cười lanh lảnh của bé dẫn lối trong cuộc rượt đuổi điên rồ này. Làn gió đêm nổi lên cùng bóng tối. Andrew rùng mình, thấy lạnh, lạnh đến mức bắt đầu run lập cập. kho thóc bỏ hoang ra trước mắt , bước vào trong, ngồi đợi khung cửa sổ dưới mái nhà, hai chân đung đưa trong trung. Andrew lại gần chân tường, nhưng tài nào phân định nổi đường nét của đứa bé. chỉ nhìn thấy nụ cười của bé, nụ cười kỳ lạ, gần như của người trưởng thành. thầm mấy lời được gió đưa tới bên .




      - Hãy tìm cháu, hãy tìm ra cháu, chú Andrew, đừng bỏ cuộc, cháu tin vào chú, chúng ta có quyền mắc sai lầm, cháu cần chú.

      bé buông mình ngã vào khoảng hư vô. Andrew vội vàng chạy đến giữ bé lại nhưng biến mất trước khi chạm đất.

      mình trong kho thóc, Andrew quỳ phục xuống, toàn thân run bắn. Lưng đau nhói, cơn đau quặn thắt khiến ngất lịm. Khi hồi tỉnh lại, thấy mình bị trói chặt vào chiếc ghế kim loại. thở nổi, hai lá phổi của bỏng cháy, thấy nghẹt thở. luồng điện chạy dọc cơ thể , tất cả các cơ co quắp lại và cảm thấy bị lực rất mạnh ném văng ra phía trước. vẳng nghe thấy từ xa xa tiếng hét “tiếp”, cú sốc với sức mạnh thể chịu nổi đẩy , động mạch đập dữ dội còn tim bỏng cháy. Mùi da thịt cháy xộc lên mũi, đám dây nhợ buộc chặt tứ chi khiến đau, đầu óc quay cuồng rồi van xin người ta ngừng màn tra tấn này lại. Nhịp đập tim dịu lại. Lượng khí lúc trước còn thiếu giờ tràn vào phổi , hít lấy hít để như vừa thoát khỏi lần nín thở dài dằng dặc.

      bàn tay đặt lên vai , lay người chút nể nang.

      - Stilman! Stilman!

      Andrew choàng mở mắt nhận thấy khuôn mặt của Olson gần như gí sát vào mặt mình.

      - có thể ngủ ở văn phòng tùy ý nhưng ít ra cũng nên mơ trong trật tự chứ, vẫn còn có người làm việc ở đây đấy!

      Andrew giật nảy người bật dậy.

      - Khỉ , làm gì ở đây đấy, Freddy?

      - Tôi phải nghe rên rỉ đến mười phút rồi, khiến tôi tài nào tập trung nổi. Tôi cứ tưởng bị khó ở và tôi đến để xem thế nào, nhưng nếu đuổi tôi như vậy có lẽ tôi nên tránh hơn.

      Mồ hôi rịn thành giọt trán nhưng Andrew lại thấy lạnh buốt.

      - nên về nhà nghỉ ngơi , hẳn ủ bệnh gì đó. Tôi rất buồn lòng khi thấy trong tình trạng này, Freddy thở dài. Tôi cũng sắp sửa về đây, có muốn tôi đưa ra taxi ?

      Trong đời mình thi thoảng cũng gặp vài cơn ác mộng, nhưng chưa thấy có cơn ác mộng nào chân thực đến như vậy. nhìn Freddy rồi đứng dậy khỏi ghế.

      - Cảm ơn, mọi chuyện rồi ổn thôi. Buổi trưa hẳn tôi ăn thứ gì đó ổn cho lắm.

      - Giờ là tám giờ tối…

      Andrew tự hỏi mình bị cắt đứt với tại kể từ khi nào. Cố nhớ lại giờ chính xác lúc liếc mắt nhìn lên đồng hồ màn hình máy tính là bao nhiêu, tự hỏi liệu trong đời mình còn gì là thực nữa.

      về đến nhà, kiệt sức, đường về gọi cho Valérie để nhắn rằng ngủ sớm mà đợi , nhưng Sam báo tin rằng vừa mới vào phòng phẫu thuật và có thể về rất khuya.

                  Chương 16


      Cả đêm hôm đó là chuỗi những cơn ác mộng liên tiếp với hình ảnh bé có khuôn mặt lờ mờ ràng xuất trong đó. Mỗi khi tỉnh giấc, người run lập cập đồng thời nhễ nhại mồ hôi, lại tìm bé.

      Trong cơn ác mộng kinh khủng hơn tất thảy, bé dừng lại đối diện với , và bằng cái khoát tay, bé bảo im lặng.

      chiếc ô tô đen dừng lại giữa hai người, bốn gã đàn ông xuống xe mà hề để ý đến họ. Chúng lao vào tòa nhà . Từ con phố vắng vẻ nơi Andrew đứng, nghe thấy tiếng kêu thét, tiếng phụ nữ gào, tiếng trẻ con khóc.

      bé đứng bên vỉa hè đối diện, cánh tay đung đưa, miệng hát câu hát ru vẻ vô tư lự. Andrew muốn bảo vệ bé, nhưng khi tiến bước về phía bắt gặp ánh mắt bé, ánh mắt tươi vui nhưng đồng thời cũng đầy đe dọa.

      - María Luz à? thầm.

      - , bé đáp với giọng chững chạc, María Luz còn tồn tại nữa.

      Và ngay tức lại có giọng trẻ con cất lên từ chính cơ thể đó:

      - Hãy tìm ra cháu, nếu có chú, cháu biến mất mãi mãi. Chú sai đường, chú Andrew à, chú tìm ở nơi cần tìm, chú nhầm lẫn và tất cả đánh lừa chú, chú phải trả giá đắt nếu lầm đường. Đến cứu cháu với, cháu cần chú cũng như chú cần cháu. Kể từ nay chúng ta gắn kết với nhau. Nhanh lên chú Andrew, nhanh lên, chú có quyền mắc sai lầm.

      Lần thứ ba Andrew tỉnh giấc trong tiếng hét váng nhà. Valérie vẫn chưa về. bật đèn đầu giường rồi tìm cách trấn tĩnh lại, nhưng vẫn thổn thức mà tài nào dừng lại được.

      Trong cơn ác mộng vừa rồi, ánh mắt của María Luz dường như rất thoáng qua. tin chắc mình từng thấy cặp mắt đen này nhìn mình chằm chằm, lạc lõng trong quá khứ phải của mình.

      Andrew rời khỏi giường rồi ra phòng khách. đến ngồi trước máy tính với mong muốn dành cả phần đêm còn lại để làm việc, nhưng các ý nghĩ ngăn tập trung và thể viết nổi dù chỉ dòng. nhìn đồng hồ, lưỡng lự, về phía điện thoại rồi gọi cho Simon.

      - Tớ có làm phiền cậu ?

      - Dĩ nhiên là , tớ đọc lại Khi tôi nằm chết [1] trong lúc đợi cậu đánh thức tớ vào lúc hai giờ sáng đây.

      [1] Tiểu thuyết Tandis que j’agonise (As I lay dying) của nhà văn Mỹ William Faulkner xuất bản năm 1930.

      - Thế mà chuẩn đấy.

      - Tớ hiểu rồi, tớ mặc quần áo đây, mười lăm phút nữa tớ có mặt ở nhà cậu.

      Simon đến nhanh hơn dự kiến, khoác chiếc áo gió Burberry ra ngoài bộ pyjama và xỏ đôi giày basket.

      - Tớ biết, vừa bước vào căn hộ của Andrew vừa , cậu sắp vài câu khó nghe về phục trang của tớ, nhưng tớ vừa gặp hai gã hàng xóm của cậu dắt chó dạo mà mặc áo khoác đấy… dĩ nhiên là gã hàng xóm mặc áo choàng chứ phải con chó.

      - Tớ rất tiếc vì làm phiền cậu vào đêm hôm khuya khoắt thế này.

      - , cậu làm gì có tiếc, nếu cậu chẳng gọi cho tớ. Cậu có thôi rào trước đón sau và cho tớ biết sao mình lại ở đây ?

      - Tớ thấy sợ, Simon à, từ trước đến giờ tớ chưa bao giờ sợ như vậy cả. Đêm đến khủng khiếp, và mỗi sáng tớ đều thức giấc mà lòng quặn thắt, khi nhận ra rằng mình lại mất ngày để sống.

      - phải là muốn phũ phàng nhàng hóa tình trạng của cậu lúc này đâu, nhưng có tám tỷ người cùng chung tình cảnh đó mà.

      - Ngoại trừ tớ, tớ chỉ còn năm mươi ba ngày nữa thôi!

      - Andrew à, câu chuyện kỳ quặc đó trở nên ám ảnh rồi đấy. Tớ là bạn cậu và tớ muốn bị hiểm họa nào rình rập hết, nhưng cậu có bao nhiêu nguy cơ chết bẹp dưới gầm xe buýt vào ngày mùng 9 tháng Bảy ấy tớ cũng có bấy nhiêu nguy cơ tương tự khi rời khỏi nơi đây. Dù với bộ pyjama kẻ ca rô màu đỏ này, tay tài xế vẫn khó mà nhìn ra tớ trước đèn pha. Tớ mua bộ này ở Luân Đôn, bằng vải bông, quả là quá nóng đối với mùa này, nhưng tớ ưng cái này nhất. Cậu có pyjama à?

      - Có, nhưng tớ mặc bao giờ, tớ thấy mặc vậy già lắm.

      - Tớ có vẻ già ư? Simon dang hai tay hỏi. Cậu khoác áo choàng ngủ vào rồi ta dạo vòng. Cậu lôi tớ ra khỏi giường để tớ khiến cậu đổi ý, phải nào?

      Khi cả hai qua sở cảnh sát phố Charles, Simon chào tay lính gác rồi hỏi xem liệu ta có thấy con chó teckel lông ngắn . Tay cảnh sát lấy làm tiếc là chẳng thấy con chó nào cả. Và Simon, sau khi cảm ơn ta, vừa vừa ngừng gọi “Freddy”.

      - Tớ muốn tránh dạo dọc bờ sông hơn, Andrew khi đến góc giao nhau với xa lộ West End.

      - Cậu có tin gì từ ông thanh tra của cậu chưa?

      - Cho đến giờ chẳng có gì cả.

      - Nếu là tay đồng nghiệp kia muốn giết cậu chúng ta sớm vô hiệu hóa được thôi, còn nếu phải và từ giờ cho đến đầu tháng Bảy, chúng ta vẫn chẳng nắm được gì cụ thể tớ đưa cậu du lịch xa New York trước ngày mùng 9.

      - Tớ cũng muốn mọi chuyện đơn giản như vậy. Và giả dụ chúng ta có tớ cũng chẳng thể bỏ nghề và trốn chui trốn lủi được suốt đời.

      - Khi nào cậu Argentina?

      - Chỉ vài ngày nữa thôi, và tớ cũng giấu cậu là ý nghĩ lánh xa đến đâu đó ít lâu hẳn khiến tớ phật lòng.

      - Valérie thích nghe câu này. Dù sao cũng phải cẩn thận khi ở đó. Chúng ta tới nơi rồi, cậu cảm thấy mình đủ sức về nhà mình trong bộ dạng này chứ?

      - Tớ hề mình, vì tớ dạo cùng Freddy, Andrew vừa đáp vừa chào Simon.

      Rồi tiếp, ra vẻ như mình dắt con chó dạo.

                  *


      Andrew bị tiếng chuông điện thoại đánh thức khỏi giấc ngủ ngắn ngủi. hoảng hốt nhấc máy, và nhận ra giọng của viên thanh tra thông báo là đợi ở quán cà phê góc phố.

      Khi Andrew bước vào quán Starbucks, Pilguez ngồi ở chỗ Simon ngồi ngày hôm qua.

      - Ông có tin xấu muốn báo cho tôi à? Vừa ngồi vào bàn vừa hỏi.

      - Tôi tìm thấy vợ Capetta rồi, thanh tra trả lời.

      - Ông làm như thế nào vậy?

      - Tôi nghĩ chuyện này thay đổi được gì cái điều khiến chúng ta hết sức bận lòng và tôi chỉ có tiếng đồng hồ dành cho nếu như muốn lỡ chuyến bay.

      - Ông lại ư?

      - Tôi thể ở lì New York mãi được, và chính cũng lại sắp cơ mà. San Francisco pha tạp nhiều như Aires nhưng đó là thành phố quê tôi. Vợ tôi đợi tôi, bà ấy nhớ những điều lải nhải lẩm cẩm của tôi.

      - Ông biết được gì ở Chicago?

      - Vợ Capetta là phụ nữ rất đẹp, đôi mắt đen láy, ánh mắt khiến phải rung động. chàng Capetta hẳn chẳng mất nhiều công sức để tìm ra vợ đâu, chị ta thậm chí chẳng hề thay đổi nhân thân. Chị ta sống ở đó mình cùng con trai, cách nơi bức thư hay ho được gửi đến cho có hai con phố.

      - Ông chuyện với chị ta ư?

      - , à mà cũng có, nhưng phải về vụ của chúng ta.

      - Tôi hiểu.

      - Tôi đóng vai người đàn ông đáng mến hít thở khí trong lành băng ghế công viên và tôi kể với chị ta rằng cháu trai của tôi cũng tầm tuổi con chị ấy.

      - Ông được làm ông rồi cơ à?

      - Chưa, Natalia và tôi gặp nhau quá muộn để có thể có con. Nhưng chúng tôi có đứa cháu . Đó là con trai của người bạn làm ở khoa phẫu thuật thần kinh mà tôi từng với cùng người chồng kiến trúc sư. Chúng tôi rất thân nhau. Cu cậu lên năm và hai vợ chồng tôi cưng nó lắm. Giờ đừng bắt tôi kể chuyện đời mình cho nữa nếu tôi nhỡ chuyến bay đó.

      - Sao lại phải dàn cảnh như thế, nếu ông thẩm vấn chị ta?

      - Bởi vì có nhiều cách để thẩm vấn ai đó. Cậu muốn tôi gì với chị ta đây? Chị thân mến, trong lúc cậu con trai của chị chơi trong chậu cát, liệu chị có thể cho tôi biết chị có ý định dùng dao đâm chết phóng viên của tờ The New York Times vào tháng tới phải ? Tôi thích chiếm trọn niềm tin của chị ta bằng cách dành ra hai buổi chiều tới công viên đó để đàm luận về thứ này hay thứ khác. Liệu chị ta có khả năng phạm tội ác như vậy ? Thẳng thắn mà , tôi hoàn toàn biết. Bởi đó chắc chắn là phụ nữ có cá tính, trong ánh mắt chị ta có gì đó có thể khiến máu đông cứng lại và tôi thấy chị ta thông minh đến đáng sợ. Nhưng tôi khó mà tin rằng chị ta dám đánh liều với nguy cơ bị tách khỏi cậu con trai của mình. Thậm chí, khi ta tin chắc rằng mình dựng nên tội ác hoàn hảo ta cũng bao giờ có thể loại trừ được khả năng bị tóm. Điều khiến tôi thấy bối rối nhất chính là vẻ tin chắc khi chị ta dối lúc tôi hỏi chị ta kết hôn chưa. Chị ta trả lời chút đắn đo là chồng và con chết trong chuyến du lịch nước ngoài. Nếu tôi chưa từng gặp Capetta tôi cũng tin lời chị ta chút đắn đo. Trở về San Francisco, tôi tận dụng các mối quan hệ ở New York để tiếp tục điều tra về những người có mặt trong danh sách của tôi. Trong đó có cả vợ và có tổng biên tập, ngay cả khi điều này khiến thấy khó chịu. Tôi gọi cho ngay khi tôi biết thêm gì khác và nếu cần thiết, tôi quay lại đây khi trở về từ Buenos Aires, nhưng lần này tôi để thanh toán hóa đơn.

      Pilguez chìa mẩu giấy cho Andrew rồi đứng dậy.

      - Đây là địa chỉ của vợ Capetta, là người quyết định có nên báo cho chồng chị ta biết hay . Nhưng hãy cẩn trọng, Stilman, chuyện của trong những chuyện điên rồ nhất mà tôi từng được nghe trong suốt nghiệp của mình, và tôi cảm thấy sắp sửa có chuyện chẳng lành, tôi thấy lo.

                  *


      Về đến tòa soạn, Andrew ngồi vào trước máy tính. Tín hiệu đèn đỏ điện thoại thông báo có tin nhắn ở hộp thư thoại. Marisa, phục vụ ở quầy bar khách sạn mà từng lưu lại ở Buenos Aires có tin muốn báo cho và muốn gọi lại cho càng sớm càng tốt. Andrew nghĩ là nhớ được cuộc chuyện này, thời gian và các kiện dần lẫn lộn với nhau. Nhớ lại các việc trong ngày khi ta lặp lại cùng những thứ đó hai lần trong đời quả chẳng hề dễ dàng. Để tìm những ghi chép của mình, Andrew cúi xuống ngăn kéo bàn. Lần trước khi khóa lại, vui vẻ quay đến ba chữ số bắt đầu ngày sinh của mình. Nhưng giờ còn như vậy nữa, có ai đó tìm cách lục lọi đồ đạc của . Andrew ngó đầu qua tấm vách ngăn, bàn của Olson có ai ngồi. lật giở cuốn sổ ghi chép cá nhân đến trang ghi chép lại cuộc trò chuyện với Marisa rồi thở dài khi thấy chẳng có gì được ghi lại hết. Ngay lập tức bấm số máy mà để lại.

      bà bạn của dì khẳng định chắc chắn là nhận ra cựu phi công quân, người có đặc điểm nhận dạng giống hệt như kẻ mang tên Ortiz thời chế độ độc tài. trở thành chủ xưởng thuộc da, hãng kinh doanh nho cung cấp da thuộc cho nhiều cơ sở chế tạo túi xách, giày dép, yên cương và thắt lưng toàn quốc.

      Bà bạn của dì nhận ra khi giao hàng cho khách hàng tại ngoại ô Buenos Aires. Người phụ nữ đó cũng là trong những Bà mẹ quảng trường tháng Năm và trong phòng khách nhà bà dán tấm áp phích có ảnh của tất cả những quân nhân bị xét xử vì những tội ác phạm phải thời chế độ độc tài nhưng sau đó lại được ân xá. Những bức ảnh đó sống với bà từ sáng đến tối, kể từ khi con trai cùng cháu trai của bà mất tích vào tháng Sáu năm 1977. Khi đó cả hai mới chỉ mười bảy tuổi. người mẹ ấy bao giờ chấp nhuận ký vào giấy tờ xác nhận cái chết của con trai mình và vẫn chịu làm thế chừng nào còn chưa nhìn di hài của con, dẫu biết rằng điều này chẳng bao giờ có thể xảy ra, với bà cũng như bố mẹ của ba mươi nghìn người “mất tích”. Và suốt nhiều năm ròng, bà khắp quảng trường tháng Năm cùng nhiều phụ nữ khác, cũng giống như bà, giương cao những panô có ảnh con cái họ, thách thức chính quyền. Khi bà chạm mặt gã đàn ông này lúc bước vào cửa hàng bán yên cương phố 12-tháng Mười, máu bà đông cứng lại. Bà siết chặt cái bị, dồn hết sức bình sinh túm chặt lấy nó để bộc lộ cảm xúc xâm chiếm bà, rồi bà ngồi xuống thành tường để chờ ra. Bà theo dọc phố 12-tháng Mười. Ai lại dè chừng bà lão mang bị cơ chứ? Khi lên ô tô, bà kịp nhớ màu xe và biển số. Hết cuộc gọi này đến cuộc gọi khác, mạng lưới các Bà mẹ quảng trường tháng Năm rốt cuộc tìm ra địa chỉ của kẻ mà bà tin chắc trước kia là Ortiz và giờ tên là Ortega. sống gần xưởng thuộc da của mình, ở Dumesnil, làng nằm ở ngoại ô Córdoba. Chiếc xe được phát ở Buenos Aires phố 12-tháng Mười là xe thuê mà trả lại ở sân bay trước khi bắt chuyến bay.

      Andrew đề nghị chuyển tiền cho Marisa để đáp máy bay đến Córdoba, mua chiếc máy ảnh kỹ thuật số rồi theo dõi kẻ mang tên Ortega đó. Andrew cần phải hoàn toàn chắc chắn Ortega và Ortiz là cùng người.

      Nhiệm vụ thế này đòi hỏi Marisa phải vắng mặt ít nhất là ba ngày và chủ của từ chối ngay. Andrew năn nỉ tìm ai đó đáng tin có thể tới đó thay , hậu tạ , có lẽ phải bỏ tiền túi. Marisa chỉ hứa điều duy nhất, gọi lại cho nếu tìm thấy giải pháp.

                  *


      Olson đến tòa soạn vào giữa trưa, qua Andrew mà thèm chào rồi ngồi vào bàn của mình.

      Điện thoại của Andrew đổ chuông. Simon bảo Andrew xuống gặp tại góc giao giữa đại lộ 8 và phố 40, càng kín đáo càng tốt.

      - Có chuyện gì thế? Vừa gặp Andrew lên tiếng hỏi.

      - Đừng đứng ở đây, nhỡ đâu đấy, vừa đáp Simon vừa kéo bạn vào hàng cắt tóc.

      - Cậu bảo tớ bỏ việc xuống đây để dẫn tớ cắt tóc ư?

      - Cậu thích làm gì làm, nhưng tớ cần quả đầu ngon và cũng cần chuyện với cậu ở nơi yên tĩnh.

      Cả hai vào trong rồi ngồi cạnh nhau ở hai chiếc ghế phô tơi giả da màu đỏ đối diện với tấm gương lớn.

      Hai thợ cạo người Nga, hẳn phải là hai em vì họ giống nhau như lột, ngay lập tức đon đả chào khách.

      Và Simon, trong lúc họ gội đầu, kể rằng theo dõi Olson từ lúc rời nhà.

      - Sao cậu lại có địa chỉ nhà , đến tớ thậm chí cũng chẳng biết.

      - Là tay thần đồng tin học xấu xa của tớ! Tớ có số thẻ An sinh xã hội của tay đồng nghiệp của cậu, số điện thoại di động, số thẻ câu lạc bộ thể dục, số thẻ tín dụng và số thẻ tất cả những chương trình khách hàng thân thiết mà đăng ký.

      - Cậu có ý thức được rằng truy cập những dữ liệu này là hành vi vi phạm những quyền cơ bản nhất của con người và thuộc khung tội hình ?

      - Hoặc là chúng ta bỏ qua chuyện này ngay lập tức hoặc là tớ kể cho cậu điều tớ vừa khám phá ra sáng nay?

      Tay thợ cắt tóc xoa bọt cạo râu khắp mặt Andrew, ngăn trả lời câu hỏi của Simon.

      - Trước tiên tớ biết được rằng tay đồng nghiệp của cậu nghiện lòi kèn ra. đổi xấp đô la lấy gói bọc nhựa ở khu phố Tàu vào sáng nay, thậm chí còn trước cả khi dùng bữa sáng. Tớ chụp hai, ba tấm ảnh về vụ giao dịch này, để nhỡ đâu đấy.

      - Cậu điên mất rồi, Simon.

      - Đợi tiếp phần sau , cậu đổi ý đó. đến sở cảnh sát trung tâm vào quãng 10 giờ. Túi quần hơi phồng lên vì cái gói trong đó; vẻ tự tin càng khiến được tôn trọng hoặc là khi đó hoàn toàn vô thức. Tớ đến đó làm gì, nhưng ở đó khoảng tầm nửa tiếng. Rồi vào cửa hàng bán vũ khí. Tớ thấy trao đổi với người bán hàng giới thiệu cho cả đống dao săn, chính xác phải là những loại dao thông thường. Tuy đứng lùi vào nhưng tớ tin chắc là trông thấy mấy món đồ rất kỳ cục. Nếu là cậu, tớ khoa chân múa may như vậy đâu, rốt cuộc cậu bị dao cạo cứa cho lìa họng đấy.

      Tay thợ cạo xác nhận lời khuyên của Simon là đúng đắn.

      - Tớ thể với cậu là có mua gì , tớ muốn chuồn trước khi nhận ra tớ. rời ngay sau đó lát, vẻ hoan hỉ hơn bao giờ hết. Mà này, có lẽ ghé qua toa lét để hút hít. Tay đồng nghiệp của cậu sau đó còn mua chiếc bánh sừng bò, vừa ăn vừa bộ ngược lên đại lộ 8. Rồi vào tiệm bán đồng hồ trang sức chuyện với ông chủ tiệm lúc lâu trước khi tiếp. Ngay khi đặt chân đến tòa soạn là tớ liền gọi cho cậu đấy. Tớ muốn tỏ ra lạc quan thái quá, nhưng mọi thứ đều quay quanh tay Olson này.

      Người thợ cắt tóc hỏi Andrew xem có muốn cắt tỉa móng chân móng tay hay .

      Simon trả lời thay bạn và bảo người thợ cắt ngắn mỗi bên tầm xăng ti mét.

      - Có thể tớ đề nghị cậu cùng tớ đến Buenos Aires, Andrew vừa cười vừa .

      - Đừng có đùa với chuyện đó, tớ mê Argentina lắm đấy và tớ có thể sắp xếp hành lý ngay tức .

      - Chúng ta vẫn còn chưa đến bước đó, Andrew chỉnh lại. Trong khi chờ đợi, giờ có lẽ đúng là lúc tớ hỏi Olson rồi.

      - Cho tớ thêm vài ngày. Cứ với nhịp độ như thế này đến cuối tuần tớ biết về còn nhiều hơn cả mẹ đẻ của .

      - Tớ còn nhiều thời gian, Simon.

      - Tùy cậu muốn làm gì làm, tớ chỉ là kẻ nô bộc khiêm nhường của cậu mà thôi. Và cậu cứ suy nghĩ đến chuyện Buenos Aires nhé, hai chúng ta ở đó tuyệt.

      - Thế còn xưởng xe của cậu?

      - Buôn bán xe cộ ấy à! Tớ tưởng là mình chẳng bán được chiếc nào trước đầu tháng Bảy?

      - Cậu còn chẳng bán nổi cái nào vào tháng Bảy nếu làm việc ấy chứ.

      - Vừa rồi tớ có nhắc đến mẹ của Olson, chứ phải mẹ tớ nhé! Tớ để cậu trả tiền, Simon vừa soi gương vừa thêm. Tóc ngắn hợp với tớ phết, cậu thấy thế à?

      - Chúng ta ăn trưa nhé? Andrew hỏi.

      - Trước tiên phải đến tiệm bán vũ khí kia . Cậu muốn xét hỏi ai đó cứ chìa tấm thẻ nhà báo đẹp đẽ ra là biết được Olson làm gì ở đó.

      - Đôi khi tớ tự hỏi cậu bao nhiêu tuổi rồi…

      - Cậu có dám cá là tay chủ tiệm mắc lừa ?

      - Cá gì nào?

      - Bữa trưa mà cậu vừa nhắc đến.

      Andrew bước vào cửa hàng vũ khí trước tiên, Simon vào ngay sau rồi đứng sau vài mét. Trong lúc Andrew , tay chủ tiệm quan sát qua khóe mắt, phải là có chút lo lắng.

      - Vào cuối buổi sáng hôm nay, Andrew , nhà báo của tờ The New York Times đến đây, liệu ông có thể cho chúng tôi biết ta mua gì ?

      - Thế chuyện này liên quan gì đến ? Tay chủ tiệm vặn lại.

      Trong lúc Andrew lục túi tìm thẻ phóng viên, Simon sáp lại gần quầy, vẻ đe dọa:

      - Chuyện này có liên quan đến chúng tôi vì tay đó là kẻ lừa đảo chuyên sử dụng thẻ nhà báo giả, chúng tôi lần tìm tung tích . Ông cũng hiểu việc cần thiết phải ngăn chặn làm điều gì đó ngu ngốc, nhất là bằng vũ khí có nguồn gốc từ cửa hàng của ông, đúng ?

      Tay chủ tiệm liếc nhìn đánh giá Simon, do dự trong giây lát rồi thở dài:

      - quan tâm đến những dụng cụ rất đặc biệt mà chỉ những tay thợ săn thực thụ mới tìm kiếm, mà ở New York những tay như thế hề nhiều.

      - Những dụng cụ kiểu nào? Andrew hỏi.

      - Các loại dao chặt, dùi, móc và lóc cốt mạc.

      - Lóc cốt mạc ư? Andrew hỏi lại.

      - Tôi chỉ cho các xem, chủ tiệm vừa đáp vừa ra phía sau quầy.

      ta quay trở lại, tay cầm cán gỗ của dụng cụ có lưỡi mảnh dẹt dài ngoằng.

      - Đây vốn là dụng cụ phẫu thuật được các thợ đánh bẫy ở Bắc Mỹ cải tiến cách sử dụng. Họ dùng nó lột da thú để ít bị dính thịt. chàng kia muốn biết liệu những người mua loại dụng cụ này có bị ghi danh như người mua súng hay dao săn . Tôi với ta, rằng mua lóc cốt mạc cần phải có giấy phép, ta có thể tìm thấy đầy thứ còn nguy hiểm hơn nhiều ở bất cứ cửa hàng kim khí nào. ta hỏi tôi gần đây có bán cái nào , tôi bảo tôi bán, nhưng tôi có hứa với ta là hỏi nhân viên của mình, hôm nay nhân viên của tôi nghỉ.

      - Thế có mua của ông cái nào ?

      - Mua mỗi cỡ cái, tất thảy là sáu cái. Giờ nếu các cho phép, tôi quay lại làm việc, tôi còn phải tính toán sổ sách.

      Andrew cảm ơn ông chủ cửa hàng bán vũ khí, Simon chỉ khẽ gật đầu chào.

      - Thế ai thua cuộc đây? Vừa xuôi xuống phố Simon vừa hỏi.

      - Tay chủ cửa hàng coi cậu như kẻ thần kinh bình thường và tớ chẳng thấy gã sai chỗ nào. Gã trả lời chúng ta để tống khứ chúng ta càng nhanh càng tốt.

      - Cậu ác ý.

      - Được thôi, tớ mời cậu.

                  Chương 17


      Ngày hôm sau, khi đến tòa soạn Andrew nhận được tin nhắn mới của Marisa. liền gọi lại ngay cho .

      - Có lẽ là tôi có giải pháp, thông báo. Bạn trai tôi đồng ý theo dõi Ortega. ấy thất nghiệp và kiếm được chút tiền mọn cũng chẳng khiến ấy thấy khó chịu.

      - Bao nhiêu? Andrew hỏi.

      - Năm trăm đô la cho cả tuần, dĩ nhiên là cộng thêm các chi phí.

      - khoản đáng kể đấy, Andrew thở dài, tôi chắc lãnh đạo tòa soạn có chấp nhận .

      - Mười tiếng mỗi ngày trong năm ngày liền, tính ra giờ chưa đến mười đô la, bằng đúng số tiền phải trả cho người giúp việc để lau dọn các ngân hàng ở New York. phải vì chúng tôi là người Mỹ mà phải đối xử với chúng tôi thiếu công bằng như vậy.

      - Tôi bao giờ nghĩ như thế, Marisa. Báo chí giờ khó khăn lắm, ngân sách bị siết chặt lại và trong mắt các lãnh đạo của tôi, cuộc điều tra này quá tốn kém rồi.

      - Antonio có thể khởi hành ngay ngày mai, nếu ấy bằng ô tô đến Córdoba tiết kiệm được tiền vé máy bay. Về phần chỗ ở ấy tự xoay xở, gia đình ấy sống ven hồ San Roque, cũng trong vùng đó thôi. chỉ phải thanh toán tiền công, xăng xe và tiền ăn. Tùy quyết định. Nếu bây giờ ấy mà tìm được việc thể làm được đâu…

      Andrew ngẫm nghĩ về lời đe dọa nho của Marisa, mỉm cười rồi quyết định đồng ý với phương án của . ghi thông tin mà đọc cho lên tờ giấy rồi hứa chuyển khoản luôn trong ngày.

      - Ngay khi tôi nhận được tiền, Antonio lên đường. Chúng tôi gọi lại cho mỗi tối để báo tình hình.

      - cùng ấy à?

      - bằng ô tô nên cũng quá tốn kém, Marisa đáp, và hai người ít gây chú ý hơn, chúng tôi có vẻ là cặp đôi nghỉ, hồ San Roque rất đẹp.

      - Tôi cứ tưởng ông chủ của đồng ý cho nghỉ liền vài ngày.

      - còn chưa biết nụ cười của tôi có thể làm được những gì đâu, Stilman à.

      - Tôi có ý định tặng hai người kỳ nghỉ gần tuần với chi phí vương giả như vậy đâu.

      - Ai dám nghỉ khi theo dấu tên cựu tội phạm chiến tranh cơ chứ?

      - Lần tới nếu đòi tăng lương, có lẽ tôi phải gọi mới được, Marisa à. Tôi nóng lòng đợi tin tức của .

      - sớm thôi, Stilman, đáp trước khi gác máy.

      Andrew xắn tay áo lên, chuẩn bị tinh thần đối phó với Olivia Stern về khoản chi phụ thêm này. đường chợt đổi ý. Vụ dàn xếp với Marisa hề diễn ra ở cuộc đời trước của , kết quả vẫn còn chưa chắc chắn. quyết định móc hầu bao cá nhân để ứng trước chi phí chuyến . Nếu có được thông tin thú vị, dễ dàng xin được thêm tiền, còn trong trường hợp ngược lại, tránh được việc bị coi là nhân viên phung phí.

      rời tòa soạn đến quầy giao dịch của Western Union để chuyển khoản bảy trăm đô la. Năm trăm đô tiền công của Antonio và hai trăm ứng trước cho phần chi phí. Rồi gọi cho Valérie để báo rằng về nhà sớm.

      Vào quãng giữa chiều, cảm thấy cơn khó ở nữa chực ập đến, người vã mồ hôi như tắm, run lập cập, cảm giác kim châm lan khắp tứ chi và cơn đau nhói ở cuối đốt sống lưng, đau hơn hẳn lần trước. tiếng rít inh tai xẻ thủng màng nhĩ .

      Andrew vào nhà vệ sinh để vốc nước lên mặt, gặp Olson chúi đầu xuống bồn rửa mặt, mũi dính đầy bột trắng.

      Olson giật nảy mình.

      - Tôi chắc mình chốt cửa rồi mà.

      - Khóa trượt rồi bạn, nếu điều này có thể làm an tâm, tôi chẳng hề ngạc nhiên khi thấy vậy đâu.

      - Mẹ kiếp, Stilman, nếu bất cứ điều gì, tôi để yên cho đâu. Tôi thể mất việc, tôi xin đấy, đừng làm điều ngu ngốc.

      Làm điều ngu ngốc là thứ cuối cùng Andrew muốn trong lúc cảm thấy hai chân mình nhũn như con chi chi.

      - Tôi cảm thấy được khỏe cho lắm, vừa rên rỉ vừa dựa vào bồn rửa.

      Freddy Olson giúp ngồi xuống đất.

      - khỏe à?

      - Như thấy đấy, tôi khỏe như vâm đây. Chốt cửa lại , ai đó mà vào đây cũng chẳng hay ho gì đâu.

      Freddy vội vàng ra khóa cửa lại.

      - bị sao vậy, Stilman? Đây đâu phải lần đầu bị như thế này, có lẽ phải khám bác sĩ thôi.

      - Mũi dính bột còn nhiều hơn là thợ bánh mì kia kìa, chính mới nên điều trị ấy chứ. Freddy, nghiện nặng quá rồi. Rốt cuộc, đốt trụi nơ ron thần kinh bằng cái thứ chết tiệt đó thôi. Chuyện này diễn ra bao lâu rồi?

      - Sức khỏe của tôi liên quan gì đến ? cho tôi biết , Stilman, có ý định hạ bệ tôi à? Tôi xin đừng làm thế. Đúng là chúng ta cũng có vài bí mật, cả tôi và , nhưng biết hơn ai hết rằng tôi phải là mối đe dọa cho nghiệp của . được lợi lộc gì khi tôi bị đuổi việc đây?

      Andrew cảm thấy cơn khó ở qua; chân tay lại bắt đầu có cảm giác, thị lực hơn và cảm giác ấm áp dịu xâm chiếm toàn bộ cơ thể .

      Đột nhiên câu của thanh tra Pliguez chợt ra trong tâm trí : “Phá vụ án mà xác định được động cơ của kẻ phạm tội mới chỉ hoàn thành nửa công việc mà thôi.” cố gắng tập trung tinh thần cao độ nhất có thể. Vừa rồi bắt quả tang Olson hút cocain? cảm thấy bị đe dọa? Có thể có ai đó tố giác vụ này và Olson, vốn tin chắc rằng người đó chỉ có thể là , tìm cách trả thù. Andrew nghĩ cách lật tẩy Freddy đồng thời tìm hiểu điều gì khiến mua cả đống panh ở cửa hàng vũ khí và mua để làm gì.

      - giúp tôi đứng dậy được ? Andrew với Olson.

      Olson nhìn Andrew chằm chằm, vẻ đe dọa. luồn tay vào túi. Andrew nghĩ là mình nhìn thấy mũi nhọn của cái tuốc nơ vít hay cái dùi.

      - Trước tiên hãy hứa với tôi là ngậm miệng.

      - Đừng làm điều ngu ngốc, Olson. Chính rồi đấy, tôi được lợi lộc gì ngoài cảm giác áy náy đây. làm gì trong đời cũng chỉ liên quan đến mình mà thôi.

      Olson chìa tay ra cho Andrew.

      - Tôi đánh giá nhầm , Stilman, có lẽ cũng là tay tử tế.

      - Được rồi, Freddy, miễn cho tôi những lời có cánh , tôi bất cứ điều gì, tôi hứa đó.

      Andrew vốc nước lên mặt. Hộp khăn giấy lúc nào cũng bị kẹt. ra khỏi nhà vệ sinh, Olson cũng theo bén gót, rồi cả hai chạm mặt nữ tổng biên tập đứng đợi họ bên ngoài hành lang.

      - Các mưu tạo phản hay làm gì sau lưng tôi à? Olivia Stern vừa hỏi vừa lần lượt dò xét từng người.

      - tưởng tượng ra chuyện gì vậy? Andrew đáp lại.

      - Hai khóa trái cửa trong nhà vệ sinh rộng chín mét vuông được mười lăm phút rồi đấy, muốn tôi nghĩ gì đây?

      - Andrew hơi bị khó ở. Tôi đến xem ấy có ổn và tôi thấy ấy nằm sõng xoài nền gạch. Tôi ở bên ấy đợi ấy tỉnh lại. Nhưng giờ mọi chuyện đều ổn rồi, phải Stilman?

      - vẫn còn khó ở sao? Olivia lo lắng.

      - có gì nghiêm trọng đâu, cứ yên tâm, thi thoảng mấy cơn đau thấu lưng lại dữ dội đến mức quật ngã tôi thôi.

      - khám bác sĩ , Andrew, đây là lần thứ hai chuyện này xảy ra ở tòa soạn rồi và tôi nghĩ hẳn phải có những lần khác nữa. Đây là lệnh, tôi muốn thấy phải rời khỏi Argentina vì cái chứng đau lưng ngớ ngẩn được chăm sóc tử tế này đâu, chứ?

      - Vâng thưa sếp, Andrew trả lời với giọng có ý xấc xược.

      Về đến chỗ ngồi, Andrew quay sang chỗ Olson.

      - bạo gan nhỉ, dám để tôi gánh chuyện đó mình.

      - Thế muốn tôi gì đây, rằng chúng ta hôn hít nhau trong toa lét ư? Freddy đáp.

      - theo tôi trước khi tôi tặng cho cái hôn, tôi cần chuyện với , nhưng phải ở đây.

      Andrew dẫn Freddy đến quán cà phê.

      - làm gì ở tiệm bán vũ khí thế?

      - Tôi mua sườn cốt lết… Thế vừa lòng chưa? Giờ còn theo dõi tôi nữa à?

      Andrew tìm cách trả lời đồng nghiệp sao cho gã khỏi giật mình.

      - hít ma túy suốt cả ngày rồi còn đến tiệm bán vũ khí… Nếu vướng nợ nần tôi muốn biết chuyện đó hơn trước khi mấy tay bán ma túy cho tìm đến tòa soạn gây chuyện ầm ĩ.

      - Bình tĩnh nào Stilman, việc tôi đến tiệm bán vũ khí chẳng hề liên quan đến chuyện đó. Tôi đến chỉ vì công việc thôi.

      - nên hơn chút !

      Olson do dự trong giây lát rồi đành phải thổ lộ với Andrew.

      - Được rồi, tôi với là tôi điều tra vụ ba người bị sát hại bằng dao rồi đó thôi. Bản thân tôi cũng có mạng lưới riêng. Tôi đến gặp bạn cảnh sát, ta cung cấp cho tôi báo cáo của bác sĩ pháp y. Cả ba nạn nhân đều bị đâm bằng loại dao, chính xác hơn là vật nhọn như kim, khi đâm thường để lại những vết rạch bất thường.

      - Như cái dũi đá?

      - , đúng ra khi rút ra, vũ khí đó gây những tổn thương nghiêm trọng hơn mũi dùi đâm thông thường, dù chiếc dùi đó có dài đến đâu chăng nữa. Bên pháp y cho là dạng móc câu. Vấn đề nằm ở chỗ nếu dùng móc câu, để những nội thương gây tổn thương ngược lên tận dạ dày phải đâm từ phía mạn sườn. Hồi còn bé, tôi thường theo bố săn. Ông ấy thường làm theo kiểu cổ, giống mấy tay đánh bẫy ở Bắc Mỹ. Tôi định kể cho nghe về tuổi thơ mình đâu, nhưng tôi nghĩ đến thứ mà bố tôi dùng để lột da hươu. Tôi tự hỏi liệu thứ dụng cụ đó giờ còn được bán nữa và tôi đến tiệm bán vũ khí để kiểm tra. Trí tò mò của được thỏa mãn chưa hả Stilman?

      - thực nghĩ rằng kẻ giết người hàng loạt hoành hành đường phố New York ư?

      - Chắc như đinh đóng cột.

      - Và tòa soạn giao cho phụ trách vụ này?

      - Olivia muốn chúng ta là những người đầu tiên đăng độc quyền tin này.

      - Nếu chúng ta là kẻ thứ hai đó phải là tin độc quyền nữa phải ? Sao lại phịa ra mấy thứ này hả Olson. Olivia hề giao cho bất cứ vụ điều tra nào về kẻ giết người hàng loạt cả.

      Freddy nhìn Stilman đầy đen tối rồi hất đổ tách cà phê.

      - làm tôi thấy buồn nôn với vẻ đường hoàng đĩnh đạc của mình rồi đấy. là cảnh sát hay phóng viên đấy? Tôi biết muốn lột da tôi lắm, nhưng tôi có thể đảm bảo với rằng tôi để mình bị thế đâu, tôi tự vệ bằng mọi cách.

      - Có lẽ nên xả hơi cho mấy cái lỗ mũi của mình ấy Olson. Với kẻ muốn gây chú ý việc hất văng chén tách giữa quán cà phê chẳng khôn ngoan chút nào; mọi người nhìn kìa.

      - Tôi cóc thèm quan tâm đến họ, tôi chỉ tự vệ, thế thôi.

      - Nhưng đến cái gì thế?

      - ở thế giới nào thế, Stilman? thấy chuyện gì sắp xảy tới ở tòa soạn ư? Họ sa thải khoảng nửa nhân , là kẻ duy nhất hề biết chuyện hay là gì đây? Dĩ nhiên là hề cảm thấy bị đe dọa. Khi người ta là cục cưng được tổng biên tập che chở, còn gì phải lo lắng cho cái ghế của mình nữa chứ, nhưng tôi được ta chiếu cố nên tôi phải tự chiến đấu trong khả năng của mình thôi.

      - Freddy, đến đây lạc đề rồi đấy.

      - làm ra vẻ ngốc hơn vốn thế rồi đó. Bài báo về nhi viện Trung Quốc thành công vang dội, ngay lập tức họ lại giao cho vụ điều tra ở Argentina. Cấp ưu ái . Nhưng tôi, từ nhiều tháng nay tôi chẳng đăng được bài nào ra hồn. Tôi buộc phải tự trấn an mình bằng cách đêm đêm cầu trời cho có gì đó bất thường xảy ra. nghĩ là tôi thích ngủ lại văn phòng hay phí hoài các kỳ nghỉ cuối tuần ở đây để cố gắng cứu vãn công việc của mình ư? Nếu tôi mất việc, tôi mất tất cả, tôi chỉ có mỗi công việc trong cuộc đời này mà thôi. Chuyện đó đêm đêm có khiến gặp ác mộng ? Dĩ nhiên là rồi, sao lại gặp ác mộng cơ chứ? Tôi sao, thức dậy với mồ hôi nhễ nhại, trong văn phòng tồi tàn ở vùng hẻo lánh tỉnh lẻ. Tôi thấy mình làm việc cho tờ báo lá cải ở xó nào đó, và bức tường văn phòng bẩn thỉu của mình, tôi mơ về quãng thời gian huy hoàng của mình khi nhìn lên trang nhất tờ The New York Times ngả vàng. Thế rồi điện thoại reo vang, họ báo tôi phải gấp rút đến tiệm thực phẩm khô vì có con chó vừa bị cán chết. Đêm nào tôi cũng mơ những cơn ác mộng chết tiệt đó. Đúng thế đó, Stilman, Olivia hề giao cho tôi điều tra bất cứ thứ gì, ta còn giao việc cho tôi nữa kể từ khi trở thành cục cưng của ta. Tôi phải tự thân vận động. Nếu tôi có cơ may là kẻ duy nhất tìm ra kẻ giết người hàng loạt, cơ may rất để được đăng thành tin đặc biệt, tôi tìm đến tất cả các tiệm bán vũ khí ở New York, New Jersey và cả Connecticut để bỏ lỡ cơ may đó, như thế hài lòng chưa?

      Andrew quan sát kỹ tay đồng nghiệp, bàn tay ta run run và hơi thở gấp gáp.

      - Tôi rất lấy làm tiêc. Nếu có thể giúp gì trong cuộc điều tra của , tôi rất sẵn lòng.

      - Dĩ nhiên rồi, với vẻ cao thượng ngạo nghễ, Ngài Stilman lại động lòng trắc . Khó ngờ !

      Olson đứng dậy, rời khỏi quán cà phê mà thèm ngoảnh lại.

                  *


      Cuộc chuyện với Olson khiến Andrew bận lòng suốt quãng thời gian còn lại trong ngày. Biết được tình cảnh tại của đồng nghiệp khiến cảm thấy mình bớt đơn độc hơn. Tối đến, trong lúc ăn tối cùng Valérie, cho biết nỗi tuyệt vọng của Freddy.

      - nên giúp ấy, Valérie , hãy kề vai sát cánh thay vì quay lưng lại với ấy.

      - Đó là do cách sắp xếp chỗ ngồi ở văn phòng.

      - Đừng tỏ ra ngốc thế, hiểu em muốn gì rồi mà.

      - Cuộc sống của bị cuộc điều tra gây xáo trộn đủ rồi, nếu phải lần theo tay giết người tưởng tượng nữa chẳng bao giờ thoát ra nổi.

      - Em về chuyện đó, mà là việc ta rơi xuống địa ngục cùng cocain kia kìa.

      - Tay đó còn mua cả đống lóc cốt mạc để đóng vai bác sĩ pháp y. nghĩ đó là vũ khí mà tay giết người hàng loạt sử dụng.

      - Khá là sâu sắc đó, em phải thú thực như thế.

      - Em biết gì về nó?

      - Đó là dụng cụ phẫu thuật, tối mai em có thể mang chiếc từ phòng phẫu thuật về nếu muốn, Valérie đáp, nụ cười nở khóe môi.

      Nhận xét nho đó khiến Andrew suy tư và vẫn còn nghĩ đến nó lúc lâu trước khi thiếp ngủ.

                  *


      Andrew thức giấc khi ngày lên. thấy nhớ những chuyến chạy bộ dọc sông Hudson. có cả đống lý do chính đáng để đến đó kể từ khi được sống lại, nhưng ngẫm kỹ ra, tự nhủ rằng cái ngày mùng 9 tháng Bảy đó còn rất xa. Valérie say giấc nồng. lặng lẽ rời khỏi giường, mặc bộ đồ thể thao chạy bộ rồi rời căn hộ. KhuWestVillage chìm trong cảnh tĩnh lặng hoàn toàn. Andrew chạy bước xuôi xuống phố Charles. Đến cuối phố, tăng tốc và lần đầu tiên trong đời băng qua luôn cả tám làn đường của xa lộ West End trước khi cột đèn tín hiệu giao thông thứ hai chuyển sang màu xanh.

      Vui sướng trước thành tích này, chạy vào lối của công viênRiverPark, lòng hân hoan vui sướng được bắt đầu công cuộc tập luyện mỗi sáng.

      ngừng chạy trong giây lát để ngắm nhìn ánh đèn của khu Hoboken vụt tắt. vô cùng thích cảnh tượng gợi nhắc lại thời thơ ấu này. Hồi còn sống ở Poughkeepsie, cứ sáng thứ Bảy, bố lại vào phòng gọi dậy sớm. Cả hai cùng ăn sáng trong bếp rồi bố để ngồi vào trước vô lăng, đẩy chiếc Datsun ra đường để làm mẹ thức giấc. Chúa ơi, thấy nhớ bố mẹ quá chừng, thầm nghĩ. Khi ra đến ngoài phố, Andrew, vốn biết cách vận hành, liền vào số hai, thả lòng bàn đạp nối bộ ly hợp đồng thời rình chờ tiếng động cơ ro ro rồi khẽ đạp vào chân ga. Bố , người dạy lái xe, chỉ băng qua cầu Hudson rồi họ rẽ sang đường Oaks sau đó đỗ xe dọc bờ sông. Từ nơi đứng quan sát, họ rình chờ thời điểm những ánh đèn ở Poughkeepsie vụt tắt. Và mỗi lần như thế, bố Andrew lại vỗ tay hoan hô thời khắc này như mỗi khi màn pháo hoa kết thúc.




      Và trong khi ánh đèn của Jersey City vụt tắt, Andrew bỏ lại những kỷ niệm để tiếp tục chuyến chạy bộ.

      Đột nhiên, quay đầu lại và nhận ra hình dáng quen thuộc ở phía xa xa. nheo mắt, Freddy Olson, tay phải giấu trong túi giữa của chiếc sweatshirt, tiến lại gần . Ngay lập tức Andrew cảm thấy nguy hiểm rình rập. Hẳn có thể tính đến chuyện đối mặt với Freddy, hoặc cãi lý với , nhưng biết rằng đâm mình nhát trí mạng trước khi có thể kịp tránh né. Andrew bắt đầu chạy hết tốc lực. Bị nỗi sợ xâm chiếm, quay người nhìn lại lần nữa để ước lượng khoảng cách giữa với Olson, càng lúc càng rút ngắn khoảng cách, và Andrew có huy động hết sinh lực cũng chẳng có ích chi, chẳng thể nào cắt đuôi được . Olson hẳn hít cả đống ma túy; làm sao có thể chống nổi kẻ hút hít tối ngày cơ chứ? Andrew nhận thấy có nhóm người chạy bộ trước mình. Nếu bắt kịp họ, thoát. Freddy tấn công được nữa. Chỉ còn cách họ chừng năm chục mét, việc bắt kịp họ giờ là có thể, cũng mệt đứt hơi. cầu xin Chúa ban cho mình sức lực cần thiết. Chưa đến cái ngày mùng 9 tháng Bảy đó và còn có nhiệm vụ phải hoàn thành ở Argentina cùng rất nhiều điều để với Valérie, chưa muốn chết vào ngày hôm nay, vẫn chưa, và hề muốn chết lần nữa. Đám người chạy bộ chỉ còn cách chừng hai chục mét, nhưng cảm thấy Freddy diện ngay bên cạnh.

      “Cố lên chút nữa, xin mi đấy, tự với bản thân, chạy nhanh lên, nhanh nữa lên, mẹ kiếp.”

      những muốn kêu cứu nhưng thấy còn hơi để thốt lên thành tiếng.

      Rồi, đột nhiên, cảm thấy vết đâm kinh khủng khiến đau nhói phần cuối đốt sống lưng. Andrew thét lên đau đớn. Trong số những người chạy bộ phía trước phụ nữ nghe thấy tiếng kêu, ta quay đầu lại nhìn . Trái tim Andrew ngừng đập khi phát ra gương mặt Valérie mỉm cười, vẻ bình thản, nhìn chết. đổ sụp xuống lòng đường rồi ánh sáng vụt tắt.

                  *


      Khi Andrew mở mắt, thấy mình nằm chiếc xe đẩy, người run lẩy bẩy và cảm giác mát lạnh do vật liệu nhựa nằm lên mang lại chẳng thể khiến thoải mái. Có ai đó với qua cái loa: họ đẩy vào máy chụp, việc này mất nhiều thời gian. nên cử động.

      Làm sao có thể cử động nổi khi mà có cả đống dây đai thắt chặt cổ tay lẫn mắt cá chân như thế này. Andrew thử kiểm soát nhịp đập con tim vốn vang rộn trong căn phòng trắng toát này. chẳng kịp đảo mắt nhìn quanh phòng, chiếc xe đẩy bắt đầu tiến vào trong lòng ống lớn, có cảm giác bị nhốt sống trong loại quan tài thời đại. nghe thấy thanh trầm đục kèm sau đó là hàng loạt tiếng nện đáng sợ. Giọng loa như muốn xoa dịu : mọi thứ ổn thôi, có gì phải sợ, việc kiểm tra gây đau đớn và sớm kết thúc.

      Tiếng động ngừng hẳn, chiếc xe bắt đầu chuyển động trở lại và Andrew từ từ thấy lại ánh sáng. người khiêng cáng ngay lập tức đỡ lấy rồi chuyển sang chiếc giường đẩy. nhận ra khuôn mặt này, từng gặp ở đâu đó rồi. Andrew tập trung tinh thần và gần như chắc chắn là nhận ra Sam, trợ lý của Valérie ở văn phòng thú y. hẳn lung tung do tác động của lượng moóc phin mà họ cho dùng.

      Dù sao vẫn muốn đặt câu hỏi cho ta, nhưng người đàn ông đó cười với rồi bỏ lại trong phòng mà ta vừa đưa tới.

      “Mình ở bệnh viện nào thế?” tự nhủ. Sau rốt, chuyện này có quan trọng chi, sống sót sau vụ tấn công và có thể lật mặt kẻ thủ ác. Khi các vết thương được chữa lành, có thể tiếp tục cuộc sống bình thường. Tên khốn Freddy Olson mất chừng mười năm sau song sắt nhà tù, đó hẳn là cái giá tối thiểu cho hành vi mưu sát có chủ đích.

      Andrew khỏi giận khi ngây thơ để giễu cợt bằng chính câu chuyện của . Olson hẳn phỏng đoán rằng nghi ngờ điều gì đó nên quyết định ra tay hành động sớm. Andrew nghĩ có lẽ phải hoãn chuyến công tác Argentina, nhưng giờ có bằng chứng xác thực rằng trình tự mọi chuyện có thể thay đổi bởi bảo toàn được mạng sống của mình.

      Có tiếng gõ cửa phòng, thanh tra Pilguez bước vào cùng phụ nữ xinh đẹp mặc áo blouse trắng.

      - Tôi rất lấy làm tiếc, Stilman, tôi thất bại, tay đó thành công. Tôi đặt cược vào con ngựa tồi, tôi già mất rồi và trực giác của tôi còn như trước nữa.

      Andrew những muốn an ủi viên thanh tra nhưng đủ sức lên lời.

      - Khi biết chuyện xảy đến với , tôi đáp chuyến bay đầu tiên và dẫn người bạn là bác sĩ phẫu thuật thần kinh mà tôi nhiều lần với tới đây. Tôi xin giới thiệu với bác sĩ Kline.

      - Lauren, vừa nữ bác sĩ vừa chìa tay ra với .

      Andrew cố nhớ lại tên bà bác sĩ, Pilguez từng nhắc đến trong lần họ ăn tối, chỉ mất thời giờ vô ích vì mỗi lần do dự kiểm chứng điều gì đó lại càng thể nhớ nổi.

      Bà bác sĩ bắt mạch, kiểm tra đồng tử rồi rút cây bút từ trong túi áo ra, cây bút kỳ cục mà ngòi bút được thay bằng bóng đèn .

      - Hãy dõi mắt nhìn theo ánh đèn này, Stilman, vừa bà bác sĩ vừa đưa bút từ trái qua phải rồi lại từ phải qua trái.

      Bà cho bút vào túi áo blouse rồi lùi lại vài bước.

      - Olson, Andrew khó nhọc cất tiếng.

      - Tôi biết, Pilguez thở dài, chúng tôi chất vấn ở tòa soạn. muốn phủ nhận nhưng việc bạn Simon của đứng ra làm chứng vụ ở tiệm bán vũ khí lật tẩy . Rốt cuộc phải nhận tội. Than ôi, tôi hề nhầm hướng, vợ là đồng phạm của . Tôi rất lấy làm tiếc, về chuyện này tôi muốn mình mắc sai lầm hơn.

      - Valérie ư, nhưng sao lại thế? Andrew ấp úng.

      - Chẳng phải tôi với rằng chỉ có hai dạng tội phạm lớn ư… Trong chín mươi phần trăm các trường hợp, kẻ sát nhân là người thân cận. Đồng nghiệp của tiết lộ với ấy rằng phụ nữ khác và chuẩn bị hủy đám cưới. ấy thể chịu nổi sỉ nhục đó. Chúng tôi bắt ấy ở văn phòng ấy. Xét thấy số lượng cảnh sát bao vây mình, ấy có bất cứ hành động phản kháng nào.

      Andrew cảm thấy lòng ngập tràn đau khổ, nỗi buồn đột nhiên xóa sạch ham muốn sống trong .

      Nữ bác sĩ tiến lại gần .

      - Kết quả chụp chiếu của hoàn toàn bình thường, não của bị tổn thương hay có khối u nào hết. Đó là tin tốt đấy.

      - Nhưng tôi thấy vô cùng lạnh và đau nhói ở sống lưng, Andrew lắp bắp.

      - Tôi biết, thân nhiệt thấp đến nỗi tôi và các đồng nghiệp đều đến kết luận. chết, Stilman à, thực chết rồi. Cảm giác lạnh kéo dài lâu đâu, chỉ đến khi ý thức của lịm tắt.

      - Tôi rất lấy làm tiếc, Stilman, lấy làm tiếc vì thất bại, thanh tra Pilguez lên tiếng. Giờ tôi phải đưa bạn mình ăn trưa và chúng tôi quay lại để đưa đến nhà xác. Chúng tôi để lại mình trong thời khắc như vậy. Và dù sao chăng nữa, tuy rằng quãng thời gian ngắn ngủi nhưng tôi rất vui được quen .

      Bà bác sĩ lịch chào , Pilguez thân mật vỗ vỗ vào vai , họ tắt đèn rồi cả hai rời khỏi phòng.

      mình trong bóng tối, Andrew bắt đầu tru lên.

                  *


      cảm thấy toàn thân mình rung lên, cơ thể lắc lư như biển ngày dông bão. tia sáng cực mạnh chiếu vào mí mắt , choàng mở mắt và nhận thấy gương mặt của Valérie cúi xuống nhìn mình.

      - Andrew, tỉnh lại , gặp ác mộng. Tỉnh lại , Andrew!

      hít hơi sâu rồi đột ngột bật dậy, người vã mồ hôi đầm đìa, chiếc giường trong phòng ngủ tại căn hộ của ở WestVillage. Valérie cũng sợ hãi như . choàng tay ôm lấy rồi ghì chặt vào lòng mình.

      - Đêm nào cũng gặp ác mộng, phải gặp ai đó thôi, chuyện này thể kéo dài lâu được.

      Andrew định thần lại. Valérie đưa cho cốc nước.

      - Đây, uống , nó làm dịu lại, mồ hôi mồ kê nhễ nhại kìa.

      Andrew liếc mắt nhìn đồng hồ đặt chiếc bàn đầu giường. Đồng hồ chỉ 6 giờ sáng và ngày hôm nay là thứ Bảy 26 tháng Năm.

      chỉ còn sáu tuần để tìm ra kẻ sát hại mình, trừ phi những đêm dài đầy ác mộng này thắng được trước thời hạn đó.

    3. CQH

      CQH ^^!

      Bài viết:
      192
      Được thích:
      41,961

      Chương 18
      Valérie gắng hết sức giúp Andrew dịu , tình trạng kiệt sức của khiến lo lắng. Đến trưa đưa dạo ở Brooklyn. Họ đến các tiệm bán đồ cổ tại Williamsburg. Andrew ngây ngất trước đầu máy hơi nước , món đồ mỹ nghệ tinh xảo đó được chế tác từ những năm năm mươi và giá của nó vượt xa khoản tiền mà Andrew có thể chi. Valérie bảo vào khám phá phần cuối cửa hàng và ngay khi quay gót, liền mua món đồ đáng thèm muốn đó rồi bỏ vào túi xách.

      Simon dành cả ngày thứ Bảy để theo dõi Olson. đến đợi dưới chân tòa nhà ở ngay khi ánh bình minh đầu tiên lóe rạng. Ngồi sau tay lái chiếc Oldsmobile 88 vốn thu hút nhiều ánh mắt tò mò của khách qua đường mỗi khi dừng ở đèn đỏ, Simon rốt cuộc cũng tự nhủ hẳn tốt hơn nếu chọn chiếc xe khác, nhưng đây là chiếc kín đáo nhất trong bộ sưu tập của rồi.

      Olson tiêu tốn giờ ăn trưa trong tiệm mát xa đáng ngờ ở khu phố Tàu. rời đó vào tầm 14 giờ, tóc chuốt keo bóng lộn. Tại điểm dừng tiếp thep, Simon đỗ xe trước nhà hàng Mexico nơi Freddy vừa ngốn ngấu bánh tacos [1] vừa liếm ngón tay để làm rớt những giọt nước sốt tong tong.

      [1] Loại bánh sandwich nổi tiếng của Mexico.

      Simon mua chiếc máy ảnh kèm ống kính chụp xa xứng danh thợ săn ảnh, những phụ kiện mà cho rằng thể thiếu nếu như muốn thành công trong nhiệm vụ mà dấn thân.

      Vào giữa buổi chiều, Olson dạo tại Công viên Trung tâm và Simon trông thấy cố bắt chuyện với phụ nữ ngồi đọc sách băng ghế.

      - Với chiếc áo đỏ như tương ớt Tabasco kia, nếu mi đạt được mục đích của mình, chàng vui tính kia ơi, ta tu liền.

      Simon thở dài khi thấy người phụ nữ gập sách lại và giữ khoảng cách với Olson.

      Trong khi Simon theo dõi Freddy, tay hacker mà nhờ vả thực sao chép dữ liệu từ máy tính của Olson mà chàng bẻ khóa trong vòng chưa tới bốn phút. Giải mã được các tệp tin được đặt chế độ bảo vệ xong là có thể biết được có phải Olson mình đằng sau biệt danh Spookie Kid hay .

      Tay tin tặc của Simon phải là người duy nhất mổ cò bàn phím. Ở đầu kia đất nước, thanh tra cảnh sát về hưu trao đổi thư điện tử với đồng nghiệp cũ ở đồn 6, người từng được ông dắt tay chỉ việc và là chỉ huy phòng hình của sở cảnh sát Chicago.

      Pilguez nhờ bạn châm chước cho chút, bởi nếu có lệnh của thẩm phán được phép, nhưng giữa đồng nghiệp với nhau và để phục vụ nhu cầu chính đáng, thủ tục trình tự giấy tờ lằng nhằng có thể bỏ qua.

      Tin tức vừa nhận được khiến ông thấy phiền lòng cực điểm, và ông do dự lúc lâu trước khi nhấc máy gọi Andrew.

      - Giọng chán thế, ông .

      - Đêm chán quá, Andrew đáp.

      - Tôi cũng vậy, tôi bị mất ngủ, và càng già càng tệ hơn. Nhưng tôi gọi cho phải để than phiền về mấy chuyện phiền nhiễu lặt vặt. Tôi muốn báo biết rằng vợ Capetta sáng nay đặt vé máy bay đến New York. Và điều tôi bận tâm nhất chính là chị ta đặt vé ngày 14 tháng Sáu nhưng lại để trống ngày về. với tôi rằng đặt vé càng sớm giá càng rẻ, tuy nhiên trùng hợp về ngày tháng khá là gây bối rối.

      - Sao ông lại biết được điều này?

      - Nếu cảnh sát cầu tiết lộ nguồn tin, cho ta ?

      - bao giờ, Andrew đáp.

      - Thế tạm bằng lòng với điều tôi muốn biết đó thôi, phần còn lại là việc của tôi. Tôi sắp đặt vài thứ liên quan đến vợ Capetta rồi. Ngay khi chị ta đặt chân đến New York, chị ta bị theo dõi từ sáng đến tối. Đặc biệt là buổi sáng vì những lý do mà cả hai ta đều biết .

      - Có thể chị ta quyết định gặp lại chồng mình.

      - Hẳn đó là tin tốt lành nhất trong vài tuần gần đây, nhưng tôi có tật xấu đó là chẳng bao giờ tin vào các tin tốt lành cả. Thế còn , mọi việc của có tiến triển gì ?

      - Tôi chẳng còn thấy mọi chuyện ràng nữa. Olson khiến tôi thấy lo lắng, nhưng chỉ có mình , tôi bất giác nhận thấy mình dè chừng tất cả mọi người.

      - nên thay đổi khí chút, rời New York và tĩnh tâm lại. ở hàng đầu trong cuộc điều tra này. cần phải hoàn toàn tỉnh táo, ấy thế mà thời gian lại phải là lợi thế của . Tôi biết chẳng thèm nghe theo lời khuyên của tôi đâu, và tôi lấy làm tiếc về điều đó.

      Pilguez chào Andrew rồi hứa gọi lại cho ngay khi có tin gì mới.

      - Ai thế? Valérie vừa ăn nốt ly kem ở sân hiên quán cà phê mà cả hai vừa vào.

      - Chẳng có gì quan trọng đâu, chuyện công việc thôi.

      - Lần đầu tiên em nghe thấy với em rằng công việc của quan trọng, hẳn còn mệt nhiều hơn em nghĩ đấy.

      - Em nghĩ sao nếu tối nay chúng ta nghỉ đêm bên bờ biển?

      - Dĩ nhiên là đồng ý rồi.

      - Thế mình đến Ga Trung tâm , biết khách sạn thú vị trông ra bãi biển Westport. khí biển khiến chúng ta khỏe khoắn thêm.

      - Vậy giờ mình phải về nhà lấy vài thứ đồ .

      - cần đâu, mình mua bàn chải đánh răng tại đó luôn, chỉ có đêm cũng chẳng cần gì khác đâu.

      - Có chuyện gì xảy ra thế , cứ như chạy trốn điều gì đó hay ai đó phải?

      - chỉ muốn rời xa thành phố, chuyến chạy trốn say men tình với em, rời xa tất thảy.

      - Em có thể biết làm thế nào lại biết cái khách sạn thú vị trông ra bãi biển đó được ?

      - viết cáo phó cho ông chủ của nó…

      - Em đánh giá cao ga lăng của đấy, Valérie dịu dàng đáp.

      - phải em ghen với quá khứ của đấy chứ?

      - Cả quá khứ lẫn tương lai của . Hồi học cấp hai, em còn ghen với đám con vây quanh nhiều hơn có thể hình dung nhiều, Valérie trả lời.

      - Đám con nào?

      Valérie mỉm cười đáp rồi vẫy chiếc taxi.

      Họ đến Westport vào lúc chập tối. Qua ô cửa sổ phòng nghỉ, họ có thể nhìn thấy phần mũi đất bị sóng đánh dồn dập ngơi nghỉ.

      Sau khi ăn tối xong, họ cùng dạo bên phá nước, nơi đây đất còn chút dấu vết của văn minh nhân loại. Valérie trải chiếc khăn tắm lấy từ khách sạn xuống nền cát, Andrew gác đầu lên đầu gối rồi cả hai cùng ngắm nhìn đại dương gầm gào giận dữ.

      - Em muốn mình sống đến già bên , Andrew à, sống đến già để có đủ thời gian hiểu .

      - Em hiểu hơn bất cứ ai mà.

      - Kể từ khi rời Poughkeepsie, em chỉ biết đến đơn, ở bên , em dần dần từ bỏ được trạng thái này và điều đó khiến em thấy hạnh phúc.

      Thu mình trong làn khí mát mẻ ban đêm, họ lặng im lắng nghe tiếng sóng dồi.

      Andrew hồi tưởng lại thời niên thiếu của cả hai. Kỷ niệm đôi khi như những tấm ảnh bị thời gian tẩy trắng ố mà các chi tiết lại nổi lên nhờ soi sáng nào đó. cảm thấy mối đồng cảm gắn kết cả hai mạnh hơn tất thảy.

      Ba ngày nữa, có thể ở Buenos Aires, cách xa hàng nghìn ki lô mét với cùng những khoảnh khắc yên bình mà muốn sống lại khi mùa hè chiếu những tia nắng cuối cùng xuống khắp thế gian.

                  *


      giấc ngủ thanh bình cùng bữa ăn trưa dưới ánh mặt trời giúp Andrew lại sức. Lưng còn đau nhức nữa.

      Về đến New York vào tối Chủ nhật, nhấc máy gọi Simon rồi hẹn bạn đến gặp mình tại quán Starbucks vào 9 giờ sáng hôm sau.

                  *


      Simon đến muộn, Andrew đọc báo trong lúc đợi bạn tới.

      - Đừng phê phán gì tớ nhé, tớ vừa trải qua ngày thứ Bảy thối tha nhất đời mình đấy.

      - Tớ chẳng gì đâu.

      - Bởi tớ vừa cấm cậu làm thế mà.

      - Ngày thứ Bảy của cậu tệ hại đến thế là vì chuyện gì?

      - Tớ dành trọn ngày để theo Freddy Olson, tên ngụy trang bẩn thỉu vượt xa những gì cậu có thể hình dung.

      - Đến mức thế cơ à?

      - Còn tệ hơn nữa cơ. gú, ăn tacos rồi lại hút hít, còn hơn thế nữa, chương trình này chỉ chiếm có nửa ngày của . Sau bữa trưa, còn đến nhà xác lát, đừng hỏi tớ làm gì ở đó nhé, nếu tớ theo vào trong, nhận ra tớ mất và tớ cũng chẳng mặn mà gì với thứ đựng trong cái tủ lạnh khổng lồ đó. Sau đó mua hoa rồi đến bệnh viện Lenox.

      - Thế sau bệnh viện sao?

      - dạo ở Công viên Trung tâm, rồi đến khu phố nhà cậu và lang thang dưới nhà cậu. Sau khi lại lại tầm bốn lượt trước cánh cổng tòa nhà cậu ở, vào trong tìm hộp thư của cậu rồi đột nhiên quay gót.

      - Olson đến nhà tớ ư?

      - Khi cậu nhắc lại từng từ những gì tớ vừa , điều này khiến tớ cảm thấy đây là cuộc chuyện thú vị…

      - điên rồi!

      - Chắc là đường cùng. Tớ theo cho đến tận khi về nhà. độc của gã đàn ông này là hố sâu thăm thẳm, đó là kẻ lạc lối.

      - chỉ mình cảm thấy lạc lối. Sắp đến tháng Sáu rồi. Cậu thấy , tớ nên phàn nàn về điều này, ai có thể huênh hoang được như tớ là sống qua tháng Năm những hai lần.

      - Dù sao cũng chẳng phải tớ, Simon đáp. Và xét theo doanh số kỳ lạ của tháng này chuyện đó cũng chẳng có gì là nghiêm trọng, tháng Sáu muôn năm… trong khi chờ đợi tháng Bảy.

      - Tháng Năm là tháng thay đổi cuộc đời tớ, Andrew thở dài, tớ thấy hạnh phúc và tớ vẫn chưa hủy hoại những gì tốt đẹp xảy đến với tớ.

      - Cậu phải tha thứ cho chính mình, Andrew, ai khác có thể làm điều đó thay cậu. Có hàng đống người mong ước có thể bắt đầu lại từ đầu, mong được trở lại chính thời điểm họ thất bại. Cậu cho rằng đó là điều xảy đến với cậu, thế hãy tranh thủ tận dụng nó thay vì ta thán số phận .

      - Khi ta biết cái chết chờ dịp trả thù mình, giấc mơ nhanh chóng trở thành cơn ác mộng. Cậu chăm lo cho Valérie khi tớ còn nữa chứ?

      - Chính cậu chăm lo cho ấy có! Cả ba chúng ta vượt qua chuyện đó, cuộc đời là căn bệnh hiểm nghèo trong trăm phần trăm các trường hợp. Về phần mình, tớ biết cái ngày tiền định đó là ngày nào, và tớ cũng chẳng có đủ thời giờ kéo dài thời hạn đó. Nó cũng chẳng khiến cậu yên tâm hơn khi cậu cứ nghĩ đến nó. Cậu có muốn ngày mai tớ tiễn cậu ra sân bay ?

      - , cần đâu.

      - Tớ nhớ cậu, cậu biết đấy.

      - Tớ cũng vậy.

      - Thôi nào, cậu về với Valérie , tớ còn có hẹn.

      - Với ai thế?

      - Cậu sắp muộn rồi đấy, Andrew.

      - Trước tiên hãy trả lời tớ .

      - Với lễ tân ở bệnh viện Lenox. Tối Chủ nhật vừa rồi tớ lại quay lại xem ấy thế nào sau chuyến viếng thăm của Freddy, tớ thích cầu toàn mà, tớ chẳng thể làm khác được.

      Andrew đứng dậy, chào Simon rồi quay ngược lại ngay khi ra đến cửa.

      - Tớ có việc muốn nhờ cậu, Simon.

      - Tớ cứ tưởng là xong rồi chứ, nhưng cậu cứ .

      - Tớ cần cậu đến Chicago. Đây là địa chỉ của người phụ nữ mà tớ muốn cậu canh chừng trong vài ngày.

      - Từ đó suy ra là tớ gặp lại cậu tại Buenos Aires nữa.

      - Cậu nghĩ tới đó à?

      - Va li của tớ đóng sẵn rồi, phòng khi cần.

      - Tớ gọi cho cậu và tớ hứa là bảo cậu đến nếu cần.

      - Thôi đừng chán nản nữa, tớ Chicago sớm nhất có thể; cậu hãy bảo trọng nhé. Cái vợ Capetta đó có xinh ?

      Andrew ôm ghì lấy bạn chặt.

      - Được rồi, là đáng , nhưng tớ nghĩ là mình còn hóa đơn phải thanh toán với nàng phục vụ, thế nên nếu chúng ta miễn cho này phải chứng kiến cảnh hôn hít ngay trước mặt nàng tớ rất biết ơn cậu về điều đó.

      - Hôn hít á?

      - Đó là thành ngữ vùng Québec.

      - Cậu tiếng Québec từ khi nào vậy?

      - Kathy Streinbeck từng ở Montréal. Điều mà thi thoảng cậu có thể làm tớ phát bực điên rồ!

                  *


      Andrew tranh thủ ngày cuối cùng ở New York để thu xếp công việc chút. dành cả buổi sáng ở văn phòng, Freddy vắng mặt. gọi cho lễ tân rồi dặn báo cho ngay khi Olson đến tòa soạn. khẳng định có hẹn gặp Freddy trước tòa soạn.

      Ngay sau khi gác máy, Andrew thám thính bàn làm việc của đồng nghiệp. lục lọi các ngăn kéo và chỉ tìm ra vài cuốn sổ đầy những chú thích, ý tưởng, những bài báo chẳng chút hấp dẫn, những đề tài mà tòa soạn chẳng bao giờ cho đăng. Làm sao Olson có thể lẩn thẩn đến mức này cơ chứ? Andrew sắp sửa bỏ cuộc đến nơi tờ giấy nhớ dính vào thùng đựng giấy khiến chú ý. đó có ghi mật khẩu máy tính cá nhân của . Làm sao Olson có thể kiếm được nó và làm gì máy tính của ?

      “Cũng giống như mi thôi” lương tâm trong lên tiếng, “chơi trò giải phân ấy mà”.

      - Hoàn toàn khác, Andrew thầm, với mình Olson là mối đe dọa tiềm tàng.

      “Và với mi cũng giống vậy thôi, ít nhất là ở khía cạnh công việc,” rốt cuộc thầm nghĩ.

      ý nghĩ điên rồ vụt qua tâm trí , sử dụng mật khẩu của chính mình để truy cập dữ liệu máy tính Olson và đăng nhập thành công. Andrew suy ra rằng tính cách Freddy chẳng khác nào con cá vàng. Hoặc là độ xảo quyệt của đáng khâm phục. Ai có thể nghĩ đến chuyện sử dụng cùng mật khẩu với người mà theo dõi cơ chứ.




      Ổ cứng máy tính chứa rất nhiều tài liệu, trong đó có tệp tên “SK”. Khi mở tệp tin đó ra, Andrew nhận ra giọng điệu phong phú của Spookie Kid. Olson đúng là kẻ thần kinh, tự nhủ trong lúc khám phá cả đống những lời chửi rủa lăng nhục nhằm vào mình. Liệu có thấy khó chịu khi suốt ngày rêu rao lải nhải những điều như vậy hay , nhưng ít ra vẫn thích chuyện này xuất phát từ tay đồng nghiệp ghen ăn tức ở hơn là từ độc giả nào đó. Andrew cắm USB vào máy tính rồi sao chép các tệp tin này để có thể thoải mái nghiên cứu sau. đóng vội các file màn hình khi nghe thấy tiếng chuông điện thoại reo từ phía bên kia vách ngăn. Cửa thang máy mở ra, Andrew chỉ kịp cóp tệp tin có tên “Trừng phạt” rồi vội vàng đứng dậy trong lúc Freddy tiến bước trong hành lang.

      Khi quay trở lại chỗ ngồi, Andrew nhận thấy mình để quên công cụ do thám của mình ở máy tính của Olson và cầu cho để ý thấy.

      - ở đâu đấy? Andrew lên tiếng hỏi khi Olson đến ngang chỗ mình.

      - Sao thế? Tôi phải báo cáo cho à?

      - Chỉ đơn giản là vì tò mò, Andrew đáp, tìm cách đánh lạc hướng chú ý của đồng nghiệp.

      - Khi nào Buenos Aires, Stilman?

      - Ngày mai.

      - Nếu có thể ở hẳn lại đó với tôi quả là yên bình lắm đấy.

      Olson nhận cuộc điện thoại rồi rời khỏi văn phòng.

      Andrew tranh thủ thời cơ sang lấy USB.

      Rồi lấy sổ ghi chép, liếc nhìn lần cuối đồ đạc của mình rồi quyết định trở về nhà. Valérie đợi , đây là đêm cuối cùng họ bên nhau trước khi khởi hành đến Buenos Aires và thích mình về muộn.

                  *


      đưa đến ăn tối tại Thượng Hải Café trong khu Little Italy. Phòng ăn nhà hàng ấm cúng hơn ở quán Joe’s nhiều. Valérie có vẻ u sầu và tìm cách giấu chuyện đó. Andrew, dù rất vui được tiếp tục cuộc điều tra, vẫn cảm thấy mình có lỗi. Lẽ ra họ phải tranh thủ trọn vẹn tối bên nhau này nhưng viễn cảnh xa nhau sắp tới khiến điều này trở nên bất khả.

      Valérie quyết định về nhà mình ngủ. thích mình có mặt vào lúc tờ mờ sáng khi Andrew đóng lại chiếc va li mà chuẩn bị cho .

      tiễn về tận nhà tại EastVillage và họ đứng ôm ghì lấy nhau lúc lâu dưới chân tòa nhà ở.

      - Em ghét để em lại mình nơi đây, nhưng nếu hủy chuyến này em lại càng ghét hơn.

      - Thế phải làm gì để em thêm chút nữa?

      - Ngay trước khi khởi hành cũng nhiều nhặn gì đâu. Hãy nhanh trở về nhé, đó là tất cả những gì em cầu , chưa gì em nhớ rồi.

      - Chỉ có mười ngày thôi mà.

      - Và mười hai đêm đấy. bảo trọng nhé, và tìm cho ra . Em tự hào khi là vợ , Andrew Stilman à. Giờ nhanh trước khi em cho đâu hết.

                  Chương 19


      Chiếc máy bay mà Andrew lên hạ cánh xuống sân bay quốc tế Ezeiza vào chập tối. vô cùng kinh ngạc khi thấy Marisa tới đón . gửi cho rất nhiều email, nhưng để lại cho bất cứ dấu hiệu của sống nào kể từ sau cuộc trao đổi điện thoại gần đây. Trong chuyến trước, họ gặp nhau ở khách sạn, sau hôm đến.

      Andrew nhận ra rằng thời gian càng trôi, càng có cảm giác các việc dần rời xa trật tự mà nó diễn ra trước kia.

      nhận ra chiếc Coccinelle cũ kỹ có phần cuối thùng xe mòn vẹt mà tự hỏi mỗi lần bị xóc nảy liệu cái ghế ngồi rốt cuộc có bật khỏi sàn hay .

      - Tôi cứ tưởng là cậu nghỉ vui vẻ với món tiền mà tôi gửi rồi chứ, hai người hứa báo cho tôi khi có tin gì mới cơ mà.

      - Mọi chuyện phức tạp hơn dự tính, Antonio nằm viện.

      - Chuyện gì xảy đến với cậu ấy vậy? Andrew hỏi.

      - Chúng tôi bị tai nạn ô tô đường quay về.

      - Có nặng lắm ?

      - Cũng đủ để bạn trai tôi giờ phải bó bột tay, sáu chiếc xương sườn bị rạn và chấn thương sọ não. Suýt nữa cả hai chúng tôi phải ở lại đó.

      - Cậu ấy sai à?

      - Nếu ta coi trọng chuyện ấy phanh lại ở ngã tư khi gặp đèn đỏ đúng là vậy, nhưng vì phanh ăn nên tôi cho rằng ấy có lỗi.

      - Và chiếc xe của cậu ấy cũng được bảo dưỡng tốt như xe của chứ? Andrew lên tiếng hỏi trong lúc tài nào kéo đai an toàn xuống được.

      - Antonio bị ám ảnh với chiếc xe của ấy, thi thoảng tôi còn tự hỏi liệu có phải ấy xe hơn tôi hay . ấy bao giờ lên đường mà kiểm tra tất cả mọi thứ. Có kẻ cố tình phá hỏng phanh xe.

      - nghi ngờ ai ?

      - Chúng tôi tìm được địa chỉ của Ortiz, chúng tôi theo dõi ông ta và chụp ảnh. Chúng tôi đặt vài câu hỏi về ông ta, có thể hơi quá, bạn bè của ông ta đâu phải là những kẻ ngây thơ.

      - Chuyện này cũng khiến việc của tôi được êm đẹp, giờ phải cẩn thận thôi.

      - Antonio ở trong tình trạng rất tồi tệ, thế mà chỉ nghĩ đến cuộc điều tra của mình. ân cần của khiến tôi xúc động dạt dào đó, Stilman à.

      - Tôi thiếu tế nhị, nhưng tôi rất lấy làm tiếc về vụ chồng chưa cưới của , ấy qua khỏi thôi, cứ an tâm. Đúng, tôi lo cho bài báo của mình. Tôi đến đây để hát hợp xướng. Tai nạn xảy ra khi nào?

      - Cách đây ba ngày.

      - Sao báo cho tôi biết?

      - Bởi Antonio chỉ mới hồi tỉnh vào tối qua và là mối bận tâm sau chót của tôi.

      - còn giữ số ảnh kia chứ?

      - Hộp đựng bị hư hại nặng, chiếc xe bị lộn nhiều vòng. Chúng tôi sử dụng chiếc máy ảnh cũ để bị chú ý như với chiếc quá đắt tiền. Phim chụp có thể bị cháy, tôi biết chúng ta có thể in ra được nữa. Tôi gửi chúng ở nhà bạn làm nhiếp ảnh, chúng ta đến chỗ ấy vào ngày mai.

      - Mai mình nhé, tôi lên đường đến Córdoba.

      - Chắc chắn làm điều ngu ngốc đến vậy, Stilman. Với tất cả lòng kính trọng mà tôi dành cho , nếu việc Antonio và tôi ở đây rốt cuộc lại bị lộ tôi tin là chỉ trong vòng chưa đầy nửa ngày, người của Ortiz tóm cổ ngay. Và cũng chẳng cần cả chặng đường bao nhiêu cây số đó đâu. Tuần nào ông ta cũng đến Buenos Aires để gặp khách hàng lớn nhất của mình.

      - Bao giờ cuộc gặp tiếp theo diễn ra?

      - Thứ Ba tới, nếu ông ta vẫn còn duy trì thói quen đó. Chúng tôi biết được điều đó nhờ hỏi han hàng xóm xung quanh, và có thể chính vì thế mà chúng tôi gặp tai nạn.

      - Tôi rất lấy làm tiếc, Marisa, tôi nghĩ là cậu lại gặp nhiều rủi ro, nếu biết trước thế..., vẻ rất chân thành.

      Andrew hề nhớ gì về vụ tai nạn này, chẳng còn gì xảy ra giống như trước kia nữa. Trong chuyến trước đây, chính chụp ảnh Ortega và rồi chiếc máy ảnh bị giật mất con phố ở ngoại ô Buenos Aires trong khi ba gã đàn ông túm chặt lấy .

      - thực nghĩ rằng gã đàn ông mất bao công sức để thay đổi nhân thân nhằm tránh cảnh tù đày lại để bị vạch mặt mà phản kháng ư? ở thời đại nào thế? Marisa tiếp tục.

      - hẳn ngạc nhiên nếu như tôi miêu tả thời đại ấy cho , Andrew đáp.

      Marisa đỗ xe trước khách sạn Quintana tọa lạc trong khu phố bình dị ở Recoleta.

      - Trước tiên hãy thăm bạn , tôi cất hành lý sau.

      - Antonio cần được nghỉ ngơi và giờ thăm bệnh nhân cũng hết rồi. Cảm ơn quan tâm, mai chúng ta đến. ấy được chăm sóc tích cực ở bệnh viện General de Agudos, rất gần đây thôi. Tôi đến đón lúc 9 giờ nhé.

      - Tối nay làm ở quán bar à?

      - , tối nay .

      Andrew chào Marisa, lấy va li của đặt ở băng ghế sau rồi tiến thẳng về phía cổng vào khách sạn.

      chiếc xe hòm màu trắng lao tới dưới cổng vào. Ngồi ở hàng ghế trước, gã đàn ông đưa ống kính ngắm Andrew rồi chụp lia lịa. Cửa xe sau hé mở để gã khác xuống lặng lẽ bước vào tiền sảnh khách sạn. Chiếc xe tải khởi động lại rồi tiếp tục cuộc theo dõi. Gã tài xế chiếc xe này rời Marisa nửa bước kể từ khi Antonio và rời khỏi Córdoba.




      Andrew mỉm cười khi lễ tân đưa chìa khóa phòng 712 cho . Đó cũng là lễ tân phục vụ ở cuộc đời trước.

      - có thể bảo bộ phận bảo trì thay pin điều khiển vô tuyến được ? lên tiếng hỏi.

      - Bộ phận bảo trì của chúng tôi vẫn kiểm tra chúng hàng ngày, nhân viên đáp.

      - Ờ , cứ tin tôi , người phụ trách việc này làm tốt cho lắm công việc được giao.

      - Làm sao biết điều đó trong khi còn chưa lên phòng?

      - Tôi có tài tiên tri mà! Andrew vừa vừa mở to mắt.

      Phòng 712 giống y hệt như trong trí nhớ vẫn lưu giữ. Cửa sổ đóng kín, bản lề cửa tủ treo áo kêu kẽo kẹt, vòi hoa sen bị rỉ nước còn tủ lạnh ở quầy bar mini kêu ro ro như tiếng mèo hen.

      - Bộ phận bảo trì, đúng là dóc, Andrew vừa ném hành lý lên giường vừa làu bàu.

      chưa hề ăn gì kể từ khi rời New York, khẩu phần ăn máy bay có vẻ quá tệ để có thể mạo hiểm nếm thử nên giờ đói ngấu. nhớ là mình ăn tối, trong chuyến trước, tại parrilla [1] nằm ngay đối diện nghĩa trang Recoleta. Khi đóng cửa phòng lại, thích thú với ý nghĩ được thưởng thức lại món thịt nướng ấy lần thứ hai.

      [1] kiểu quán đồ nướng.

      Khi Andrew rời khách sạn, gã đàn ông ngồi trong sảnh cũng liền rời khỏi ghế bành rồi theo bén gót. ngồi xuống băng ghế đối diện với nhà hàng.

      Trong lúc Andrew ăn uống no say nhân viên bộ phận bảo trì của khách sạn Quintana nhận khoản tiền típ hậu hĩnh để kiểm tra hành lý của khách ở phòng số 712. ta thực thi nhiệm vụ vô cùng tỉ mẩn, mở chiếc két sắt đặt trong phòng bằng mã số của bộ phận bảo trì, chụp ảnh tất cả các trang trong sổ địa chỉ của Andrew, hộ chiếu cũng như trong sổ ghi chép của .

      Khi xong xuôi mọi thứ, ta kiểm tra xem điều khiển vô tuyến có hoạt động hay rồi thay pin và ra. ta nhận khoản tiền hậu hĩnh còn lại trước lối vào bộ phận trực ban khách sạn rồi trả lại chiếc máy ảnh kỹ thuật số mà người kia đưa cho ta.

                  *


      Ăn uống no nê, Andrew ngủ say như chết, bị cơn ác mộng nào đến phá quấy giấc ngủ của nữa và tươi tỉnh thức dậy ngay từ rạng sáng.

                  *


      Sau khi ăn sáng trong nhà hàng khách sạn, ra cổng đợi Marisa.

      - Chúng ta thăm Antonio nữa, ngay sau khi Andrew trèo lên ngồi trong chiếc Coccinelle.

      - Đêm qua tình trạng cậu ấy xấu à?

      - , đúng ra sáng nay ấy ổn hơn nhiều rồi, nhưng dì tôi vừa nhận được cuộc gọi rất khó chịu vào giữa đêm qua.

      - Sao thế?

      - gã đàn ông xưng danh rằng bà nên cẩn thận dè chừng những kẻ mà cháu giao du nếu như muốn tránh gặp rắc rối nghiêm trọng.

      - Có thể đám bạn bè của Ortiz bỏ phí thời giờ nhỉ.

      - Điều làm tôi lo lắng chính là bọn chúng biết ở đây và chúng ta có quen biết nhau.

      - Thế các mối giao du mấy hay ho đó, chỉ có thể là tôi thôi sao?

      - Tôi hy vọng là nghiêm túc chứ?

      - xinh lắm, hẳn phải có cả đống đàn ông vây quanh .

      - bỏ mấy cái kiểu suy nghĩ đó , tôi rất chồng chưa cưới.

      - hề có ý nào trong lời khen ngợi ấy đâu, Andrew trấn an. có biết cửa phụ bệnh viện nằm phố nào ?

      - Dùng mưu mẹo cũng chẳng ích chi đâu, người của Ortiz có thể cài cắm được người trực sẵn trong bệnh viện. Tôi muốn Antonio gặp bất cứ nguy cơ nào, ấy chịu đủ rồi.

      - Thế chương trình tiếp theo là gì?

      - Tôi đưa đến nhà dì tôi, bà ấy biết nhiều hơn tôi và nhiều người dân trong thành phố này. Đó là trong những Bà mẹ quảng trường tháng Năm đầu tiên. Và chúng ta hãy ràng với nhau ở điểm, trả tiền cho tôi để làm hướng dẫn viên du lịch cho !

      - Tôi thực gọi đây là du lịch, nhưng tôi nhớ nhận xét của ... và tính cách tuyệt vời của .

                  *


      Louisa sống trong ngôi nhà ở khu phố Monte Chingolo. Để vào được tận trong nhà bà phải qua khoảnh sân rợp bóng phượng tím, có mấy bức tường giăng kín cây lạc tiên.

      Louisa lẽ ra có thể là người bà rất đẹp lão nhưng chế độ độc tài ngày nọ cướp mất khỏi bà quyền có những đứa cháu.

      Marisa dẫn Andrew vào tận phòng khách.

      - Ra đây chính là chàng phóng viên người Mỹ điều tra về quá khứ của chúng ta à, vừa Louisa vừa đứng dậy khỏi ghế bành nơi bà chơi trò giải ô chữ. Tôi nghĩ cậu bảnh trai hơn đấy.

      Marisa mỉm cười trong khi dì ra hiệu cho Andrew ngồi vào bàn. Bà vào bếp rồi trở ra với đĩa đầy bánh ga tô nướng tay.

      - Sao cậu lại quan tâm đến Ortiz? Vừa rót cho ly nước chanh bà vừa hỏi.

      - Tổng biên tập của tôi thấy hành trình của ông ta thú vị.

      - Sếp của quả là có mối quan tâm lạ lùng .

      - Như là hiểu được điều gì đưa con người bình thường trở thành tên đao phủ, Andrew đáp lời.

      - ta lẽ ra nên đến đây thay chứ. Tôi chỉ cho ta thấy hàng trăm quân nhân biến thành quỷ sứ như thế nào. Ortiz phải là tay tầm thường, nhưng cũng chẳng phải là kẻ tệ nhất trong số chúng. Đó là sĩ quan phi công thuộc đội tuần tra bờ biển, nhân vật phụ. Chúng tôi chưa bao giờ có được bằng chứng chính thức về việc có tham gia hoạt động tra tấn. Đừng nghĩ là tôi tìm cách biện minh cho , phạm những tội ác kinh khủng và lẽ ra , cũng như bao kẻ khác, phải chết rục xương trong tù vì tội ác của mình. Nhưng như bao kẻ khác, thoát tội, ít ra là cho đến thời điểm tại. Nếu cậu giúp chúng tôi chứng minh được rằng Ortiz trở thành thương nhân mang tên Ortega, chúng tôi có thể đưa ra công lý. Ít nhất là chúng tôi thử làm thế.

      - Bà biết gì về ?

      - Về Ortega tại chẳng có gì nhiều nhặn. Còn về Ortiz chỉ cần đưa cho cậu các hồ sơ lưu về ESMA là đủ rồi.

      - Sao có thể thoát khỏi công lý?

      - Cậu về công lý nào vậy cậu nhà báo? Cái thứ công lý ân xá lũ chó rừng này ư? Cái thứ công lý cho chúng thời gian để tạo nhân thân mới ư? Sau khi chế độ dân chủ được lập lại vào năm 1983, chúng tôi, các gia đình nạn nhân, cứ tưởng rằng những kẻ phạm tội đó bị xét xử. Khi đó chúng tôi chưa tính đến nhu nhược của tổng thống Alfonsin và sức mạnh của quân đội. Chế độ quân có đủ thời gian để xóa bỏ mọi dấu vết, thanh trừng đám quân nhân trót dính máu, giấu kín các dụng cụ tra tấn trong lúc chờ thời cơ thích hợp, chẳng gì đảm bảo thời kỳ này tái diễn vào ngày nào đó. Chế độ dân chủ rất mong manh. Nếu cậu nghĩ tránh được điều tồi tệ nhất bởi vì câu là người Mỹ cậu nhầm hệt như chúng tôi từng nhầm. Vào năm 1987, Bareiro và Rico, hai sĩ quan cấp cao, kích động phe quân nổi lên và bịt mồm thành công hệ thống tư pháp của chúng tôi. Hai đạo luật đáng xấu hổ được thông qua, đạo luật về nghĩa vụ tuân lệnh thiết lập các mức độ trách nhiệm tùy theo cấp bậc trong quân đội và đạo luật thứ hai còn ô nhục hơn gọi là “Chấm hết” bãi bỏ tất cả các tội ác chưa được đưa ra xét xử. Tay Ortiz đó, cũng như hàng trăm đồng phạm của , tự thấy được tặng giấy thông hành cho phép chúng thoát mọi cuộc truy đuổi. Phần lớn những kẻ tra tấn được hưởng điều đó, và rất nhiều kẻ khác bị giam đều được phóng thích. Phải mười lăm năm sau, hai đạo luật đó mới được bãi bỏ. Nhưng, trong vòng mười lăm năm đó, cậu có thể hình dung ràng lũ bất lương ấy thừa thời gian để mình.

      - Sao nhân dân Argentina lại có thể để chuyện như vậy xảy ra cơ chứ?

      - hài hước khi cậu hỏi tôi câu này với thái độ cao ngạo đến vậy. Thế còn người Mỹ các cậu, các cậu có đưa ra tòa tổng thống Bush, phó tổng thống Dick Cheney hay bộ trưởng Bộ Quốc phòng vì cho phép tra tấn trong các phiên thẩm vấn tại các nhà tù Irắc, họ biện minh cho hành động đó nhân danh Nhà nước hoặc vì lập ra nhà tù Guantánamo ? Các người đóng cửa cái nhà tù thách thức hàng loạt thỏa thuận trong Hiệp ước Genève suốt hơn thập kỷ qua chưa? Cậu cũng thấy nền dân chủ mong manh cỡ nào rồi đấy. Vậy nên đừng có phán xét chúng tôi. Chúng tôi làm những gì mình có thể, đối mặt với đội quân quyền lực thao túng bộ máy Nhà nước nhằm thu lợi cho mình. Đa phần chúng tôi bằng lòng làm thế để sao cho con cháu chúng tôi được đến trường, để chúng tôi có cái bỏ vào đĩa cho chúng ăn và mái nhà che đầu cho chúng; riêng điều đó thôi đòi hỏi rất nhiều nỗ lực và hy sinh đối với tầng lớp dân nghèo trong xã hội Argentina rồi.

      - Tôi phán xét mọi người, Andrew trấn an.

      - Cậu phải là người chấp pháp, cậu nhà báo à, nhưng cậu có thể góp phần giúp công lý thực thi. Nếu cậu vạch mặt được kẻ mình sau cái tên Ortega, nếu đó đúng là Ortiz, chịu số phận mà đáng phải nhận. Thế nên tôi rất sẵn lòng giúp cậu.

      Louisa đứng dậy khỏi chiếc ghế để lại chỗ chiếc tủ buýp phê án ngữ trong phòng khách. Bà lôi tập tài liệu ra rồi đặt xuống bàn. Bà nhấm ướt đầu ngón tay lật giở từng trang rồi dừng lại quay ngược cuốn sổ lại để cho Andrew xem.

      - Đây là Ortiz mà cậu muốn tìm, bà , vào năm 1977. Khi đó tầm bốn mươi, quá già nên chỉ được lái những chiếc máy bay của đội tuần tra bờ biển. sĩ quan có nghiệp chẳng mấy lẫy lừng. Theo báo cáo điều tra mà tôi tìm thấy trong hồ sơ lưu trữ của Ủy ban quốc gia về người mất tích, có lẽ nhận lệnh thực rất nhiều chuyến bay tử thần. Từ chiếc máy bay lái, rất nhiều nam giới và phụ nữ trẻ tuổi, đôi khi là những bé cậu bé vừa bước vào tuổi trưởng thành, bị ném sống xuống những nhánh sông Rio de La Plata.

      Andrew thể kìm cái bĩu môi kinh tởm khi nhìn bức ảnh chụp tay sĩ quan toát ra vẻ đầy ngạo nghễ.

      - trực thuộc Massera, kẻ đầu trùm ESMA. Có thể chính điều này giúp lọt lưới trong ít năm khi mà có nguy cơ bị túm. Ortiz tuân theo lệnh của Héctor Febres, đội trưởng đội tuần tra bờ biển. Nhưng Febres cũng là chỉ huy bộ phận tình báo ESMA, phụ trách khu 4 gồm nhiều phòng tra tấn và nhà hộ sinh. Nhà hộ sinh là từ to tát để miêu tả phần diện tích vài mét vuông nơi các nữ tù nhân đến sinh con khác nào loài vật. Còn tồi tệ hơn cả loài vật: chúng trùm lên đầu họ cái bao tải đay. Febres buộc những phụ nữ vừa sinh con này thảo bức thư đề nghị gia đình họ gánh lấy trách nhiệm chăm lo cho đứa trẻ trong lúc họ bị giam cầm. Cậu biết điều gì xảy ra tiếp theo rồi đấy. Cậu Stilman, giờ hãy nghe cho này, bởi nếu cậu muốn tôi giúp, chúng ta phải có thỏa thuận, giữa tôi và cậu.

      Andrew rót đầy nước chanh vào cốc của Louisa. Bà uống liền hơi rồi đặt cốc xuống bàn.

      - Nhiều khả năng là nhờ tận tâm phục vụ, Ortiz được Febres ưu ái. Cậu nghe kỹ đoạn này nhé, chúng trao lại cho trong những đứa trẻ đó.

      - Nhiều khả năng hay là bà biết chắc chắn như thế?

      - quan trọng, bởi đó chính là chủ đề thỏa thuận giữa chúng ta. Tiết lộ cho trong những đứa trẻ bị đánh cắp đó đòi hỏi phải vô cùng thận trọng, điều mà chúng tôi, các Bà mẹ quảng trường tháng Năm, hết sức quan tâm. Đến tuổi trưởng thành mới biết được cha mẹ mình phải là cha mẹ đẻ và thêm vào đó, họ lại dính líu ít nhiều đến việc đấng sinh thành ra mình mất tích phải là gây ra hậu quả. Đó là quá trình khó khăn có thể gây tổn thương tâm lý. Chúng tôi đấu tranh để được sáng tỏ, để trả lại nhân thân cho các nạn nhân của chế độ độc tài, nhưng phải để phá hỏng cuộc đời của những người vô tội. Tôi với cậu tất cả những gì tôi biết và tất cả những gì tôi có thể biết về Ortiz, và cậu, tất cả những gì mà cậu có thể biết về những đứa trẻ đó là nhờ tôi, chỉ duy nhất mình tôi điều đó cho cậu biết. Cậu phải thề danh dự là đăng bất cứ thứ gì về chuyện này mà được tôi cho phép.

      - Tôi hiểu ý bà, Louisa, làm gì có chuyện nửa vời.

      - Quả nhiên là , nhưng có những phải chờ đến thời cơ thích hợp mới được tiết lộ. Hãy hình dung cậu là đứa trẻ được gã Ortiz này “nhận nuôi”, liệu cậu có muốn được thông báo cách đường đột rằng bố mẹ đẻ của mình bị sát hại, rằng cuộc đời cậu chỉ toàn dối trá, và cả nhân thân của cậu cũng là dối trá, đến cả cái họ cũng vậy? Cậu có muốn mình khám phá ra tất cả điều đó thông qua tờ báo hay ? Cậu có nghĩ đến những hậu quả mà bài báo có thể gây ra cho cuộc sống của những người có liên quan hay ?

      Andrew có cảm giác khó chịu khi thấy hình bóng Capetta lảng vảng đâu đó trong căn phòng.

      - Cậu chỉ trích chúng tôi vào thời điểm này cũng vô ích thôi, bởi chẳng có gì chứng minh được là Ortiz nhận nuôi trong số những đứa bé bị đánh cắp đó. Nhưng nhỡ đâu đấy, tôi muốn cảnh báo cậu trước để chúng ta, cậu với tôi, cùng thống nhất với nhau ràng từ trước.

      - Tôi hứa với bà là đăng bất cứ thứ gì khi chưa xin phép bà, ngay cả khi tôi ngờ là bà kể hết tất cả cho tôi nghe...

      - Chúng ta xem xét phần sau vào thời điểm thích hợp. Trong khi chờ đợi, cậu hãy bảo trọng. Febres là trong những kẻ tàn ác nhất. chọn “Rừng rậm” làm tên cuộc chiến, bởi từng luôn huênh hoang rằng mạnh mẽ hơn tất thảy lũ thú săn kia hợp lại. Lời chứng của số nạn nhân hiếm hoi sống sót qua tay kinh khủng.

      - Febres vẫn còn sống à?

      - Than ôi .

      - Sao bà lại than ôi?

      - Sau khi được hưởng ân xá, sống phần lớn quãng đời còn lại trong tự do. Rốt cuộc, chỉ đến năm 2007, mới bị đưa ra xét xử, và còn nữa, chỉ vì bốn trong số bốn trăm tội ác mà thực . Tất cả chúng tôi đều chờ đợi bản án dành cho . Bản án dành cho kẻ xích đứa trẻ mười lăm tháng vào ngực cha nó rồi kích điện để buộc kẻ bị kết án tử hình khai nhận. Vài ngày trước khi tuyên án, trong khi được hưởng chế độ ưu đãi ở tù, nơi được sống trong những điều kiện đáng mơ ước, người ta tìm thấy chết trong buồng giam. Bị đầu độc bằng cyanua. Phe quân quá lo sợ khai ra, và công lý được thực thi. Với gia đình các nạn nhân, điều đó như thể cuộc tra tấn chưa bao giờ ngừng.

      Louisa khạc nhổ xuống đất sau khi đến đó.

      - Chỉ có điều là Febres mang xuống mồ tất cả những gì biết về danh tính của năm trăm trẻ sơ sinh và trẻ bị tước đoạt. Cái chết của khiến nhiệm vụ của chúng tôi trở nên khó khăn, nhưng chúng tôi vẫn tiếp tục công việc điều tra của mình ngơi nghỉ với đầy hy vọng. Tất cả những điều đó để với cậu rằng hãy cẩn trọng. Phần lớn người của Febres vẫn còn sống và được tự do, và chúng sẵn lòng tìm mọi cách làm nhụt chí những ai quan tâm đến chúng. Ortiz là kẻ trong số chúng.

      - Làm thế nào để chứng minh được rằng Ortiz nấp sau cái tên Ortega?

      - tương đồng về mặt hình ảnh lúc nào cũng rất hữu ích, chúng tôi xem kỹ những gì còn lại trong phim chụp của Marisa, nhưng còn khoảng cách hơn ba mươi năm ngăn cách giữa tên thiếu tá quân tự phụ diện trong album ảnh của tôi và gã thương nhân bảy mươi tư tuổi ngày hôm nay. Và rồi, chỉ giống nhau thôi chưa đủ để kiện ra tòa. Cách tốt nhất để đạt được mục đích của chúng tôi, dù rằng điều này với tôi dường như là bất khả, chính là khiến hoảng loạn rồi tự thú. Bằng cách nào? Cái này tôi biết.

      - Nếu tôi điều tra quá khứ của Ortega, chúng ta thấy liệu hành trình của có khớp hay .

      - Cậu ngây thơ đến ngờ ngệch! Cứ cho là Ortiz thay đổi nhân thân , chuyện này thể thực được nếu có người tiếp tay. Cuộc đời dưới cái tên Ortega được sắp xếp đâu vào đấy, từ những trường lớp học, rồi đến bằng cấp, việc làm, bao gồm cả những chức vụ giả tạo trong quân ngũ. Marisa, dì nhờ cháu việc, vào bếp giúp dì nhé, vừa đứng dậy Louisa vừa ra lệnh.

      Còn lại mình trong phòng khách, Andrew lật giở từng trang trong album ảnh. Mỗi trang dán bức ảnh chụp quân nhân, cấp bậc, đơn vị tham gia, danh sách các tội ác mà từng thực , và với vài kẻ trong số chúng là kèm thêm danh tính của đứa trẻ được giao. Ở cuối album, tập vở thống kê năm trăm đứa trẻ có bố mẹ đẻ bị mất tích vĩnh viễn. Chỉ năm mươi đứa trong số chúng có kèm dòng chữ “ xác định”.

      lát sau, Louisa và Marisa trở lại, Marisa giúp Andrew hiểu rằng dì mệt và đến lúc rút lui.

      Andrew cảm ơn Louisa vì đón tiếp và hứa thông tin cho bà những gì phát ra.

      Quay trở lại xe ô tô, Marisa trở nên câm lặng và cách hành xử của để lộ trạng thái căng thẳng. Tới ngã tư, khi chiếc xe tải chịu nhường đường, bấm còi inh ỏi rồi tuôn cả tràng chửi rủa mà Andrew, vốn rất trôi chảy tiếng Tây Ban Nha, cũng hoàn toàn hiểu hết nghĩa.

      - Tôi gì khiến bực mình à?

      - cần thiết phải dùng ngôn từ hoa mỹ đến vậy đâu Stilman, tôi làm việc ở quán bar và tôi thích người ta thẳng với mình hơn.

      - Dì gì với muốn cho tôi nghe sao?

      - Tôi hiểu gì, Marisa đáp.

      - Bà ấy bảo theo bà ấy vào bếp phải để giúp bà ấy dọn dẹp mấy ly nước chanh, để mấy cái ly lại bàn rồi tay trở lại.

      - Dì bảo tôi nên dè chừng , rằng biết nhiều hơn những gì vẫn khẳng định và bởi vì còn giấu bà nhiều thứ nên chúng tôi chưa thể tin hoàn toàn được. phải tình cờ gặp tôi ở quầy bar khách sạn đúng ? Tôi khuyên đừng dối tôi, trừ phi muốn quay về bằng taxi và đặt dấu chấm hết cho giúp đỡ của tôi.

      - đúng, tôi biết dì Bà mẹ quảng trường tháng Năm và nhờ tôi có thể tiếp cận bà ấy.

      - Hóa ra tôi trở thành mồi nhử của à. Dễ chịu . Sao lại tìm ra tôi?

      - Tên nằm trong tập tài liệu người ta gửi cho tôi, thậm chí có cả nơi làm việc nữa.

      - Sao tên tôi lại có trong tập tài liệu đó?

      - Tôi cũng chẳng biết gì hơn . Cách đây vài tháng, tổng biên tập của tôi nhận được phong bì chứa các thông tin về Ortiz và về cặp vợ chồng bị mất tích. lá thư buộc tội chính Ortiz nhúng tay vào việc họ bị sát hại. Tên của cũng có trong đó, cùng thông tin về mối quan hệ họ hàng giữa với Louisa, và dòng chú thích khẳng định là người đáng tin cậy. Olivia Stern, tổng biên tập của tôi, rất thích đề tài này, ấy bảo tôi lần theo Ortiz và thông qua câu chuyện của , phác họa lại những năm tháng đen tối của chế độ độc tài Argentina. Năm tới kỷ niệm bốn mươi năm thời kỳ đáng buồn đó, báo nào cũng đề cập đến chuyện này. Olivia muốn trước các đối thủ bước. Tôi nghĩ đây chính là động cơ thúc đẩy sếp tôi.

      - Thế ai gửi phong bì đó cho tổng biên tập của ?

      - ấy với tôi là thư khuyết danh, nhưng những thông tin trong đó đủ quan trọng để chúng tôi coi chúng là nghiêm túc. Và cho đến giờ phút này, tất cả đều xác nhận điều đó. Olivia cũng có nhiều khiếm khuyết và tính nết khó gần, nhưng đó là người rất lành nghề.

      - Hai người có vẻ thân mật nhỉ.

      - hẳn thế đâu.

      - Tôi chưa bao giờ gọi tên riêng của sếp cả.

      - Tôi có đấy, nhờ ưu thế tuổi tác thôi.

      - ấy trẻ hơn à?

      - Trẻ hơn vài tuổi.

      - phụ nữ, trẻ hơn và là sếp của , cái tôi của hẳn bị tổn thương cả về mặt thể chất lẫn tinh thần rồi nhỉ, Marisa vừa cười vừa .

      - có thể chở tôi đến chỗ lưu trữ hồ sơ mà dì nhắc đến ?

      - Nếu tôi phải đóng vai tài xế riêng phục vụ cho trong những ngày lưu lại đây cũng nên nghĩ đến chuyện đền bù cho tôi chứ Stilman.

      - gì về cái tôi của tôi ấy nhỉ?

      Marisa buộc phải dừng xe tại trạm xăng. Ống xả chiếc Coccinelle của phát ra chùm tia lửa điện; động cơ kêu ầm ĩ và tiếng ồn trở nên inh tai nhức óc.

      Trong lúc thợ máy gắng chữa tạm - Marisa đủ tiền để thay ống xả mới - Andrew ra xa rồi gọi điện về văn phòng.

      Olivia họp, nhưng trợ lý của nài kiên nhẫn chút.

      - Có tin gì mới thế? Olivia hỏi, giọng mệt đứt hơi.

      - Còn tệ hơn cả lần trước.

      - Nghĩa là sao?

      - có gì, Andrew đáp, giận điên lên vì sai lầm mình vừa mắc phải.

      - Tôi vừa rời khỏi phòng họp vì ...

      - Tôi cần thêm khoản.

      - Tôi nghe đây, vừa Olivia vừa gõ gõ bút xuống bàn.

      - Hai nghìn đô.

      - đùa chắc?

      - Cần phải tra dầu mỡ vào bản lề nếu như chúng ta muốn cửa mở ra.

      - Tôi đồng ý cấp cho nửa chỗ đó và thêm xu nào cho tới khi quay lại.

      - Tôi đành nhận khoản này vậy, Andrew liền đáp, vốn chẳng mong là nhiều đến vậy.

      - còn gì khác để với tôi à?

      - Mai tôi Córdoba, tôi có đủ lý do để tin rằng gã đàn ông của chúng ta náu mình ở đó.

      - có bằng chứng chứng tỏ đúng là chưa?

      - Tôi rất hy vọng là mình đúng hướng.

      - Gọi lại cho tôi ngay khi có tin gì mới, kể cả gọi về nhà tôi, có số của tôi chưa?

      - Có, tôi ghi đâu đó trong sổ tay rồi.

      Olivia gác máy.

      Lúc này Andrew muốn nghe giọng của Valérie hơn bao giờ hết, nhưng muốn làm phiền ở văn phòng. gọi cho vào buổi tối.

      Ô tô sẵn sàng chạy lại, người thợ máy bảo đảm rằng xe sửa xong chạy được hàng nghìn ki lô mét. ta trám lại lỗ thủng gần bộ tiêu với hệ thống xích mới. Trong khi Marisa lục túi tìm tiền để trả Andrew liền đưa cho ta 50 đô la. Tay thợ máy cảm ơn tới tận hai lần và thậm chí còn mở cửa xe cho lên.

      - cần phải làm thế đâu, vừa ngồi vào sau vô lăng Marisa vừa .

      - Cứ coi như phần đóng góp của tôi cho chuyến .

      - Phân nửa chỗ tiền đó cũng đủ trả công sửa rồi mà, phóng tay quá.

      - thấy tôi cần giúp đến thế nào rồi đấy, Andrew đáp, nụ cười nở môi.

      - về chuyến nào đó?

      - Đến Córdoba.

      - còn cứng đầu cứng cổ hơn cả tôi. Trước khi đánh liều cùng vào chuyện điên rồ đó, tôi có địa chỉ cho đây. Gần hơn Córdoba nhiều.

      - Chúng ta đâu thế?

      - Tôi cần về nhà thay quần áo, tối nay tôi phải làm việc. Còn , bắt taxi, vừa đáp Marisa vừa chìa cho Andrew mảnh giấy. Đó là quán bar nơi các cựu thành viên phong trào du kích Montonero thường xuyên lui tới. Khi tới đó, hãy tỏ ra khiêm nhường nhé.

      - muốn tôi đến đó làm gì?

      - Ở cuối phòng, thấy ba người đàn ông ngồi chơi bài với nhau. Người thứ tư bao giờ quay lại kể từ ngày đến ESMA. Và mỗi tối, họ lại chơi lại cùng ván đó, như nghi thức tinh thần. Hãy lịch hỏi họ liệu có thể ngồi vào chỗ ghế trống kia , rồi đề nghị mời họ uống, chỉ chầu duy nhất thôi, sau đó xoay xở làm sao để thua chút đỉnh, vì lịch ấy mà. Nếu may mắn quá họ đuổi đó, còn nếu chơi quá tệ họ cũng làm như vậy.

      - Thế họ chơi cái gì?

      - Poker, nhưng có rất nhiều điểm khác biệt mà họ giải thích cho . Khi giành được thiện cảm của họ, hãy chuyện với người đàn ông bị hói và để râu. Ông ấy tên là Alberto, đó là trong những người hiếm hoi trốn thoát khỏi trại giam. Ông ấy từng rơi vào tay Febres. Như bao người sống sót khác, ông ấy luôn bị day dứt vì mặc cảm tội lỗi và về chuyện từng xảy đến với mình là chuyện rất nặng nề với ông ấy.

      - Mặc cảm tội lỗi nào?

      - Vì vẫn còn sống trong khi phần lớn bạn bè mình đều chết.

      - Sao biết ông ấy?

      - Đó là chú tôi.

      - Chồng của bà Louisa à?

      - Chồng cũ của dì, họ chuyện với nhau từ lâu lắm rồi.

      - Sao vậy?

      - Chuyện này chẳng can dự gì tới cả.

      - Tôi càng biết nhiều nguy cơ mắc phải điều ngớ ngẩn càng ít , Andrew viện cớ.

      - Dì tôi dành cả đời để lần theo dấu vết những kẻ tội phạm trước kia, còn chú ấy lại lựa chọn quên tất thảy. Tôi tôn trọng lựa chọn của họ.

      - Thế sao ông ấy kể cho tôi nghe?

      - Bởi có cùng dòng máu chảy trong huyết quản chúng tôi và hai chúng tôi hay khắc khẩu nhau.

      - Thế bố mẹ đâu, Marisa?

      - Đây phải là câu hỏi hay ho cho lắm, Stilman à. Điều tôi luôn tự hỏi mỗi ngày chính là ai là bố mẹ đẻ của mình, những người nuôi tôi khôn lớn hay những người mà tôi chưa bao giờ biết mặt?

      Marisa đỗ xe dọc vỉa hè. với người sang mở cửa xe cho Andrew.

      - tìm thấy taxi ở bãi đỗ ngay phía trước. Nếu về quá muộn có thể gặp tôi ở quầy bar. Tôi hết ca vào tầm giờ sáng.

                  *


      Quán bar giống hệt như những gì Marisa miêu tả. Qua bao năm tháng mà phần trang trí của quán hề thay đổi. Các lớp sơn chồng chất lên nhau rốt cuộc lại điểm tô cho mấy bức tường bức tranh tập hợp những đường nét hoa mỹ kỳ cục nhất. Đồ đạc trong quán vỏn vẹn có vài chiếc ghế cùng mấy cái bàn gỗ. bức ảnh của Rodolfo Walsh, phóng viên và lãnh đạo huyền thoại của phong trào du kích Montonero, bị phe đảo chính sát hại, được treo ở cuối phòng. Alberto ngồi ở ngay phía dưới bức ảnh. Cái đầu hói cùng khuôn mặt bị chòm râu dày bạc trắng che khuất. Khi Andrew tiến lại gần bàn nơi ông ngồi chơi cùng mấy người bạn, Alberto ngẩng đầu lên quan sát trong giây lát rồi lại tiếp tục ván bài mà bất cứ lời nào.

      Andrew làm đúng theo những gì Marisa chỉ dẫn từng li từng tí . Và lát sau, người chơi phía bên tay phải Alberto đồng ý cho nhập hội. Jorge, người ngồi bên tay trái, chia bài rồi đặt 2 peso, tương đương 50 cent.

      Andrew cũng đặt cược theo rồi hỏi cách chơi. Jorge lật ra ba lá bài đồng số, Andrew lẽ ra có thể thắng nhưng nhớ lời khuyên của Marisa, liền úp bài xuống. Alberto mỉm cười.

      Chia ván mới. Lần này Andrew có trong tay dây đồng chất năm con lớn nhất. lại úp xuống và để Alberto nhét túi khoản tiền 4 peso. Ba vòng tiếp theo đều diễn ra hệt như vậy, và rồi đột nhiên, Alberto ném bài của mình xuống trước khi kết thúc ván bài đồng thời nhìn thẳng vào mắt Andrew.

      - Được rồi đấy, ông , tôi biết cậu là ai, sao cậu lại ở đây, và cậu chờ đợi điều gì ở tôi. Cậu có thể ngừng việc để mất tiền như thằng đần .

      Cả hai ông lão đều phá lên cười thân thiện và Alberto trả lại tiền cho Andrew.

      - Cậu nhận thấy là họ ăn gian à? Cậu tưởng là mình may mắn đến thế ư?

      - Tôi cũng bắt đầu thấy ngạc nhiên rồi, Andrew đáp.

      - chàng bắt đầu rồi đấy! Alberto vừa nhìn hai người bạn vừa thốt lên. Cậu vừa mời chúng tôi chầu giao hữu, thế là đủ để chúng ta chuyện với nhau rồi, ngay cả khi chúng ta còn chưa là bạn. Thế nào, cậu nghĩ là mình chạm được tay tới thiếu tá Ortiz rồi sao?

      - Dù sao tôi cũng hy vọng là thế, vừa đáp Andrew vừa đặt ly Fernet-Coca xuống bàn.

      - Tôi thích ý tưởng cậu lôi cháu tôi vào câu chuyện này. Những tìm kiếm mà cậu thực quả rất nguy hiểm. Nhưng nó là đứa đầu bò đầu bướu và tôi chẳng thể làm nó đổi ý được.

      - Tôi để ấy gặp bất cứ nguy hiểm gì, tôi hứa với ông đấy.

      - Đừng có hứa nếu cậu thể giữ lời, cậu có bất cứ ý niệm gì về những gì mấy gã đàn ông đó có thể làm đâu. Nếu ông ấy còn ở đây, ông ấy có thể cho cậu biết điều đó, vừa Alberto vừa chỉ bức chân dung treo phía đầu mình. Ông ấy từng là phóng viên như cậu, nhưng trong khi làm nghề ông ấy phải mạo hiểm cả tính mạng. Chúng đánh đập ông ấy như đánh chó. Nhưng ông ấy kháng cự cho đến khi ngã xuống dưới làn đạn của chúng.

      Andrew quan sát bức ảnh. Walsh có vẻ từng là người có uy tín lớn, ánh mắt ông phía sau cặp kính nhìn về xa xăm. Andrew thấy ông có vẻ giống bố đẻ của mình.

      - Ông có quen ông ấy ? Andrew lên tiếng hỏi.

      - Hãy để người chết được yên và giờ cho tôi biết cậu muốn viết gì trong bài báo của cậu.

      - Tôi còn chưa thảo bài báo đó, và tôi muốn hứa với ông điều tôi thể giữ lời. Ortiz là sợi chỉ đỏ xuyên suốt bài báo của tôi, đó là nhân vật mà số phận của khiến tổng biên tập của tôi rất tò mò.

      Alberto nhún vai.

      - Lạ nhỉ, vì báo chí thường quan tâm đến đao phủ nhiều hơn hùng. Mùi cứt hẳn phải bán đắt hơn mùi hoa hồng. Hãy thận trọng như cậu vẫn thế từ trước tới giờ, luôn đề cao cảnh giác. Cậu bao giờ tiếp cận được ở nhà riêng đâu, và luôn di chuyển kèm người hộ tống.

      - chẳng mấy khích lệ nhỉ.

      - Chúng ta có thể thu xếp để cũng được vũ trang tương tự.

      - Thu xếp bằng cách nào?

      - Tôi có những người bạn vẫn còn rất dũng cảm luôn háo hức mong được chiến đấu chống lại Ortiz và đồng bọn.

      - Rất tiếc, tôi đến đây để tổ chức vụ thanh toán lẫn nhau. Tôi chỉ muốn phỏng vấn người đàn ông đó.

      - Tùy cậu thôi. Tôi chắc là tiếp cậu trong phòng khách rồi mời cậu uống trà trong lúc nghe kể lại quá khứ của mình. Và cứ cho là chẳng hề muốn cháu tôi gặp bất cứ nguy hiểm gì, Alberto vừa nhìn các bạn chơi vừa cười ồ lên.

      Alberto cúi người bàn, ghé sát mặt vào mặt Andrew.

      - Hãy nghe tôi cho này, chàng trai trẻ, nếu cậu muốn chuyến thăm viếng này làm mất giờ của tất cả chúng ta. Để Ortiz thổ lộ tâm tình với cậu phải thuyết phục. Tôi với cậu về chuyện sử dụng bạo lực cực đoan, việc đó cần thiết. Tất thảy những kẻ từng hành động như xét cho cùng đều là lũ hèn nhát. Khi chúng còn thành bầy với nhau, chúng sun vòi ngay tức . Chỉ cần hăm dọa ở mức vừa phải, khóc lóc kể chuyện ngay. Nếu cho thấy cậu sợ, giết cậu chút ăn năn hối hận và ném xác cậu làm mồi cho lũ chó hoang.

      - Tôi ghi nhớ lời khuyên của ông, Andrew đáp rồi sửa soạn rời khỏi bàn.

      - Cứ ngồi nguyên, tôi còn chưa hết.

      Andrew thấy buồn cười với cái giọng chuyên quyền của ông chú Marisa, nhưng thích gây thù chuốc oán nên vâng lệnh.

      - May mắn đến với cậu đó, Alberto tiếp lời.

      - đâu, nếu như vẫn còn đánh bài bịp.

      - Tôi về vụ bài bạc nữa. Thứ Ba tới, cuộc tổng đình công và các máy bay được cất cánh. Ortiz còn lựa chọn nào khác ngoài cách đường bộ đến gặp khách hàng của mình.

      Nghe Alberto , Andrew suy ra rằng Marisa báo cho ông nhất cử nhất động của .

      - Ngay cả khi ta có người hộ tống đường bộ cậu cũng có nhiều cơ may để bám đuổi hơn... với điều kiện là cậu chấp thuận cho chúng tôi giúp tay.

      - Tôi rất muốn vậy, nhưng tôi bảo lãnh cho bất cứ hành động bạo lực nào đâu.

      - Ai bảo cậu là bạo lực? Cậu quả là nhà báo kỳ cục, cứ như thể cậu suy nghĩ bằng tay ấy, còn tôi, tôi suy nghĩ bằng đầu óc.

      Lòng đầy nghi vấn, Andrew nhìn Alberto.

      - Tôi rất quen thuộc với đường số 8, tôi con đường đó nhiều đến nỗi nếu cậu đưa tôi đến Córdoba, tôi có thể nhắm mắt miêu tả xung quanh cho cậu. Con đường đó chạy qua nhiều vùng bóng người trải dài hàng ki lô mét, nó cũng được duy tu bảo dưỡng rất kém... và người ta thống kê có vô số tai nạn xảy ra ở đó. Marisa cũng từng suýt bỏ mạng tại đó và tôi muốn chuyện này tái diễn. Hãy hiểu cho tôi cậu nhà báo à, bạn bè của gã đàn ông này tấn công cháu tôi, và từ giờ trở thời kỳ thoát tội của chúng chấm dứt. Cách Gahan vài ki lô mét, con đường tách ra để tránh bức tượng thánh giá. Phía bên tay phải có nhiều tháp dự trữ nông sản, nơi cậu có thể nấp sau đó đợi . Các đồng đội của tôi có thể xoay xở sao cho ô tô của Ortiz nổ lốp đúng vị trí này. Với tất cả những chuyện tồi tệ thường xảy đến với đám xe tải, chúng nghi ngờ gì đâu.

      - Được rồi, sau đó sao?

      - Bao giờ cũng chỉ có duy nhất bánh sơ cua xe và khi ta ở nơi mà điện thoại di động cũng chẳng có sóng ngay giữa đêm hôm khuya khoắt có thể làm gì khác ngoài việc bộ tới ngôi làng gần nhất để tìm người giúp đây? Ortiz cử người của vào làng còn đợi trong ô tô.

      - Sao ông có thể chắc chắn như vậy?

      - tay cựu sĩ quan loại như bao giờ từ bỏ thói cao ngạo của mình đâu, càng từ bỏ được tính tự phụ: lội bùn bộ bên cạnh đám người của mình tức là tự đặt mình ngang bằng với chúng. Tôi có thể nhầm, nhưng tôi biết típ người như .

      - Được rồi, Ortiz còn mình trong xe, thế chúng ta có bao nhiêu thời gian trước khi người của quay trở lại?

      - Cứ tính là mười lăm phút , mười lăm phút về cùng với thời gian đánh thức tay thợ sửa xe giữa đêm hôm. Cậu tha hồ mà buộc .

      - Ông chắc chắn trong đêm chứ?

      - Dumesnil cách Buenos Aires bảy tiếng xe, cộng thêm tầm ba tiếng nếu mật độ giao thông dày đặc. Tin tôi , khởi hành sau khi ăn tối xong, kẻ lái ô tô, tên khác đảm bảo an toàn cho kẻ cậu cho là Ortiz ngủ say sưa ở băng ghế sau. muốn qua hết vùng ngoại ô trước khi thủ đô thức giấc và lên đường trở về ngay sau khi cuộc gặp gỡ kết thúc.

      - Đó là kế hoạch rất chặt chẽ, trừ chi tiết: nếu tất cả các lốp xe nổ tung cùng lúc, khả năng cao là chiếc xe đâm bổ chửng vào tường cùng với bên trong.

      - Trừ điều là có bức tường nào ở khu vực này cả! Chỉ có cánh đồng cùng các tháp dự trữ nông sản mà tôi với cậu rồi đấy, nhưng chúng nằm cách đường cái rất xa.

      Hai tay ôm lấy trán, Andrew suy nghĩ về đề nghị của Alberto, ngẩng đầu ngắm bức ảnh chụp Walsh như thể tìm cách thăm dò suy nghĩ của người đồng nghiệp quá cố, sừng sững trong quá khứ đằng sau cặp kính cận.

      - Mẹ kiếp, cậu Stilman, nếu muốn biết cậu phải có đủ dũng cảm để tìm nó chứ! Alberto cam đoan.

      - Được rồi, tôi , nhưng chỉ có Marisa và tôi tra hỏi Ortiz thôi. Tôi muốn ông hứa là người nào ở nhóm các ông tranh thủ cơ hội đó để tính sổ với .

      - Chúng tôi sống sót qua những điều tàn bạo đó để bao giờ làm giống chúng, đừng có xúc phạm ai đó giúp cậu.

      Andrew đứng dậy rồi chìa tay cho Alberto. Người đàn ông do dự giây lát rồi cũng chìa tay ra.

      - Cậu thấy Marisa thế nào? Alberto vừa thu dọn quân bài vừa hỏi.

      - Tôi chắc mình có hiểu nghĩa câu hỏi của ông hay .

      - Tôi chắc về điều ngược lại đấy.

      - ấy giống ông y lột mà ông hoàn toàn phải là típ phụ nữ tôi thích.

                  *


      Quay trở về khách sạn, Andrew dừng chân ở quầy bar. Căn phòng chật ních khách. Marisa vừa chạy chạy lại từ đầu này sang đầu kia quầy bar vừa tung hứng với mấy ly cocktail. Cổ áo sơ mi trắng khoét rộng để hở bộ ngực căng tròn mỗi khi cúi xuống và đám khách hàng ngồi ở ghế đẩu ngay quầy bỏ sót chi tiết nào. Andrew quan sát lúc lâu. nhìn đồng hồ, giờ giờ sáng, mỉm cười rồi lui về phòng nghỉ.

                  *


      Trong phòng ám mùi thuốc lá cùng mùi nước khử mùi rẻ tiền. Andrew nằm dài tấm ga phủ giường. quá muộn để gọi cho Valérie, nhưng nhớ kinh khủng.

      - có đánh thức em ?

      - biết là cần thiết phải thào như vậy mà, em ngủ nhưng em rất vui vì gọi điện, em bắt đầu thấy lo lo rồi.

      - Quả là ngày dài, Andrew đáp.

      - Tất cả như mong muốn chứ?

      - Điều muốn là được nằm bên em.

      - Nhưng nếu như thế, lại mơ được đến Argentina mà thôi.

      - Đừng thế chứ.

      - Em nhớ .

      - cũng rất nhớ em.

      - làm việc tốt chứ?

      - biết, ngày mai có thể...

      - Ngày mai có thể gì cơ?

      - Em có thể đến đây với vào cuối tuần này được ?

      - Em muốn thế lắm chứ, nhưng em nghĩ là tuyến tàu điện ngầm em có qua Buenos Aires, và cuối tuần này em còn phải trực nữa.

      - Em muốn đến “trực” à?

      - Con Argentina đẹp đến thế cơ à?

      - , đâu có nhìn ngó gì họ.

      - phét.

      - cũng nhớ cả tiếng cười của em.

      - Ai với là em cười?... Em cười đây. Về nhanh nhé.

      - để em ngủ tiếp nhé, tha lỗi cho đánh thức em dậy, cần được nghe giọng của em.

      - Mọi chuyện ổn chứ Andrew?

      - nghĩ là thế.

      - có thể gọi cho em bất cứ khi nào ngủ được, biết mà, phải ?

      - biết. em.

      - Em cũng .

      Valérie gác máy. Andrew ra đứng trước cửa sổ phòng nghỉ. trông thấy Marisa rời khỏi khách sạn. Vì lý do nào đó mà cắt nghĩa nổi, hy vọng quay lại nhìn, nhưng Marisa bước lên chiếc Coccinelle rồi nổ máy.

                  *


      Andrew thức giấc bởi tiếng chuông điện thoại reo. có chút khái niệm về nơi mình ở và là mấy giờ.

      - Đừng với mình là cậu vẫn còn ngủ vào lúc mười giờ sáng nhé! Simon lên tiếng.

      - . Andrew vừa dụi mắt vừa dối.

      - Cậu tiệc tùng thâu đêm à? Nếu cậu trả lời là có tớ đáp ngay chuyến bay đầu tiên đến đấy.

      - Tớ gặp cơn ác mộng tệ hại và tớ tài nào chợp nổi mắt cho đến gần sáng.

      - Ừm, tớ cố tin là thế. Trong khi cậu nghỉ ngơi giải trí tớ ở Chicago đấy.

      - Khỉ , tớ quên béng mất.

      - Còn tớ . Cậu có muốn nghe điều tớ sắp kể cho cậu ?

      Andrew bị cơn ho dữ dội khiến thể thở nổi. Nhìn vào gan bàn tay, lo lắng khi trông thấy vết máu. xin lỗi Simon, hứa gọi lại cho bạn rồi chạy vào phòng tắm.

      Chiếc gương treo phản chiếu hình ảnh kinh hoàng. Da nhợt nhạt như xác chết. Khuôn mặt hốc hác, cặp mắt sâu hoắm trong hốc mắt làm gò má nhô cao. Trông như già ba chục tuổi chỉ trong có đêm. cơn ho thắt ruột mới làm bắn cả máu lên gương. Andrew cảm thấy đầu óc quay cuồng, đôi chân nhũn như con chi chi. bám chặt vào mép bồn rửa rồi khuỵu gối trước khi ngã sụp xuống đất.

      Má tiếp xúc với sàn gạch lát lạnh lẽo khiến hồi tỉnh đôi chút. lật ngửa người lại rồi nhìn chăm chăm vào chiếc đèn trần chiếu thứ ánh sáng chập chờn.

      Tiếng bước chân ngoài hành lang khiến hy vọng là người dọn phòng đến. thể kêu cứu, cố với lấy sợi dây điện của máy sấy tóc treo cách mình vài xăng ti mét. Dùng hết sức bình sinh chìa tay ra, rốt cuộc cũng nắm được nó, nhưng sợi dây trượt khỏi ngón tay rồi uể oải đung đưa trước mắt .

      Có ai đó tra chìa vào ổ khóa cửa phòng . Andrew sợ rằng người dọn phòng đoán là phòng có người bước vào nữa. gắng bấu vào mép bồn tắm, nhưng chợt bất động khi nghe thấy tiếng hai người đàn ông thào với nhau ở phía bên kia cánh cửa phòng tắm.

      Chúng lục lọi căn phòng, nghe thấy tiếng tủ tường kêu kẽo kẹt khi bị chúng mở ra. lại giơ tay lần nữa để với lấy chiếc máy sấy đáng ghét như thể đó là thứ vũ khí.

      kéo sợi dây, chiếc máy sấy rơi xuống sàn nhà lát gạch. Hai giọng liền im bặt. Andrew ngồi lại được và dựa lưng vào cửa rồi dồn hết sức xuống đôi chân để ngăn chúng mở cửa.

      bị văng mạnh về phía trước, cú đá cực mạnh khiến ổ khóa tung ra và đẩy cánh cửa vào phía bên trong phòng tắm.

      gã đàn ông túm lấy vai hòng ấn xuống đất, Andrew chống cự lại, nỗi sợ đẩy lùi cơn chóng mặt của . tung được cú đấm vào mặt kẻ tấn công mình. Gã đàn ông, vốn hề trông đợi điều này, đổ sụp xuống sàn bồn tắm. Andrew đứng dậy để đẩy kẻ thứ hai nhảy bổ vào . vớ lấy chai xà phòng nước nằm trong tầm với rồi ném về phía . Gã đàn ông tránh cú ném, cái lọ vỡ tan sàn nhà. Hai cú đấm móc vào mặt khiến Andrew bắn đập vào gương, cung lông mày của rách toác. Máu bắt đầu chảy ra, che mờ tầm nhìn của Andrew. Cuộc chiến trở nên cân sức, Andrew còn chút cơ may nào cả. Gã khỏe hơn trong hai kẻ tấn công ấn chặt xuống đất, tên còn lại rút dao từ trong túi ra rồi đâm thẳng lưỡi dao vào phần cuối sống lưng . Andrew thét lên đau đớn. Trong nỗ lực cuối cùng, vớ lấy mảnh vỡ chai xà phòng rồi cứa vào tay kẻ cố siết cổ .

      Đến lượt gã đàn ông thét lên đau đớn. trong khi lùi lại, trượt ngã lớp nước xà phòng lênh láng mặt sàn và khuỷu tay va phải nút bấm báo cháy.

      Tiếng còi inh tai bắt đầu vang lên; hai gã đàn ông vội chuồn ngay.

      Andrew buông mình trượt dọc bờ tường. Ngồi bệt xuống sàn, đưa tay ra sau lưng, gan bàn tay đầy máu. Ánh sáng từ chiếc đèn trần cứ chập chờn vào lúc bất tỉnh nhân .

    4. CQH

      CQH ^^!

      Bài viết:
      192
      Được thích:
      41,961

      Chương 20
      - Nếu tha thiết được gặp Antonio đến thế chỉ cần bảo tôi tiếng là được mà, vừa bước vào phòng bệnh Marisa vừa .

      Andrew nhìn đáp.

      - Tôi đồng ý với , giờ phải là lúc đùa, tôi rất lấy làm tiếc, thêm. kỳ cục, sao chúng lại đánh bị thương nhỉ, nhưng theo cậu sinh viên y khoa nội trú với tôi gặp may vô cùng.

      - Vấn đề là theo góc độ nào! Lưỡi dao đâm vào vùng thắt lưng tôi sâu tận mười xăng ti mét. Các vị thầy thuốc có quan niệm lạ lùng về may mắn đấy.

      - Cảnh sát rằng bắt quả tang tụi trộm đó; đây là chuyện ngày càng diễn ra thường xuyên hơn theo như viên cảnh sát tôi chuyện. Chúng tìm kiếm máy tính xách tay, hộ chiếu, đồ đạc có giá trị mà du khách để lại khách sạn.

      - tin vào phiên bản việc này ư?

      - .

      - Thế chúng ta có hai người.

      - có máy tính trong phòng chứ?

      - Tôi làm việc theo kiểu cổ điển, chỉ dùng bút với sổ thôi.

      - Vậy là chúng ra với đôi bàn tay trắng, tôi thu dọn hành lý của rồi, chúng được an toàn ở nhà tôi.

      - có thấy sổ ghi chép của tôi ?

      - Có.

      Andrew thở phào nhõm.

      - cần phải nghỉ ngơi nếu muốn tra hỏi Ortiz vào thứ Ba tới. vẫn ủng hộ cách tiếp cận văn minh này chứ?

      - Tôi đến đây phải là để nghỉ dưỡng, vừa Andrew vừa tìm cách ngồi dậy giường.

      Cơn đau khiến nhăn nhó và cảm thấy chóng mặt. Marisa tiến lại đỡ dậy. sắp xếp lại đống gối tựa rồi giúp dựa thoải mái đó. Rồi đưa cho cốc nước.

      - Tôi từng chăm người ở bệnh viện rồi... Lẽ ra tôi nên làm y tá hơn là làm phục vụ quán bar.

      - Bạn trai thế nào rồi?

      - Tuần tới họ phẫu thuật tiếp cho ấy.

      - Thế còn tôi, các bác sĩ bảo sao?

      - Rằng phải nằm yên vài ngày, Stilman à, bác sĩ Herrera vừa bước vào vừa thông báo. thoát nạn rồi.

      Bác sĩ tiến lại gần Andrew rồi xem xét mặt .

      - có thể bị mù mắt rồi đấy chứ. May mắn là thủy tinh thể và giác mạc việc gì, bình phục khi bọc máu tự tiêu . nên nhắm mắt trong vài ngày tới. Chúng tôi khâu vết đâm nghiêm trọng ở thắt lưng của , nhưng cậu học viên nội trú của tôi trấn an về điểm này rồi. Tuy nhiên, tình trạng sức khỏe chung của được tốt cho lắm. Tôi muốn giữ lại theo dõi để thực vài xét nghiệm bổ sung.

      - Xét nghiệm kiểu gì?

      - Tất cả những gì mà tôi thấy cần thiết. Tôi sợ rằng bị xuất huyết ở đâu đó. cảm thấy thế nào trước khi vụ việc xảy ra?

      - Sức khỏe của tôi được tốt lắm, Andrew thú nhận.

      - Gần đây có gặp vấn đề gì liên quan đến sức khỏe ư?

      Andrew ngẫm nghĩ về câu hỏi. “Gần đây” phải là từ thích hợp, nhưng làm sao có thể thú nhận với bác sĩ Herrera rằng phải chịu di chứng của vụ tấn công chết người mà phải vài tuần nữa nó mới diễn ra.

      - Stilman?

      - Tôi thường xuyên cảm thấy khó ở với cả đau nhói đốt sống lưng, lúc nào tôi cũng thấy lạnh.

      - Có thể đó chỉ là thoái hóa đốt sống lưng thôi, dù rằng thoái hóa đốt sống lưng phải dễ điều trị. Nhưng tôi tin chắc còn mất máu ở đâu đó nữa và tôi để chừng nào tôi còn chưa biết chính xác.

      - Muộn nhất là thứ Hai tới tôi phải khỏi.

      - Chúng tôi làm hết khả năng của mình. suýt chết rồi. Hãy mừng là vẫn còn sống và điều trị tại trong những cơ sở y tế tốt nhất Buenos Aires. Chiều nay chúng tôi siêu ổ bụng cho , nếu kết quả cho thấy điều gì, tôi dự định cho chụp cắt lớp. Giờ hãy nghỉ ngơi , tôi quay lại vào cuối ca trực.

      Bác sĩ Herrera rút lui, để Andrew lại mình với Marisa.

      - có cầm điện thoại di động của tôi ? Andrew hỏi.

      Marisa rút điện thoại từ túi ra rồi đưa cho Andrew.

      - nên báo với tòa soạn, đề xuất.

      - Chắc chắn là rồi, họ buộc tôi về nước ngay; tôi muốn ai biết chuyện xảy đến với mình hơn.

      - tại cảnh sát tiến hành điều tra, họ muốn thẩm vấn ngay khi khỏe lại.

      - Mấy cuộc thẩm vấn ấy chẳng dẫn đến đâu cả, thế sao lại phải mất thời gian nhỉ?

      - Bởi vì luật là thế.

      - Marisa, tôi bỏ lỡ cuộc gặp với Ortiz lần thứ hai đâu.

      - Sao lại là “lần thứ hai”?

      - Quên nó .

      - Hãy làm như bác sĩ dặn và nghỉ ngơi nhé. Có thể hồi phục vào cuối tuần này. Tôi báo với chú tôi đợi vài ngày nữa.

                  *


      Thứ Năm, nào là siêu , chụp X quang, siêu màu Doppler, lấy máu cứ liên tiếp nhau, ngắt quãng bởi những khoảng chờ đợi lâu lắc lâu lơ trong những phòng chờ bên ngoài phòng xét nghiệm nơi Andrew phải kiên nhẫn đợi cùng những bệnh nhân khác.

      Họ đưa trở lại phòng vào chập tối và mặc dù phải giữ đám ống truyền khiến thấy khó chịu kinh khủng, được phép ăn uống lại bình thường. Nhân viên bệnh viện rất thân thiện, những người đẩy cáng ân cần còn thức ăn hợp khẩu vị. Nếu phải là mất thời gian chẳng có gì để phàn nàn cả.

      có tin tức gì về các kết quả kiểm tra, Andrew gọi cho Valérie. hé lộ chút gì cho biết chuyện xảy đến với mình, vì muốn làm phải lo lắng và ngờ rằng cả cũng buộc về nước.

      Marisa đến thăm trước khi đến làm việc ở quán bar. Khi nhìn khỏi, Andrew thấy trồi lên ham muốn được theo . từ lâu, cái chết luôn rình rập bên cạnh khiến đột nhiên thấy ham muốn sống gấp, điên cuồng kết giao mà cần biết đến ngày sau men say.

                  *


      Thứ Bảy, bác sĩ Herrera đến khám vào cuối buổi sáng cùng đoàn sinh viên. Andrew chẳng hề thích thú với việc bị săm soi hệt như con chuột lang thí nghiệm, nhưng vẫn tuân thủ quy tắc ở đây.

      Cung lông mày của cân đối trở lại, Andrew còn phải nhìn bằng mắt nữa. Vị bác sĩ trấn an rằng chứng viêm nhiễm tiêu biến trong vòng bốn mươi tám tiếng nữa. Siêu thận cho thấy có tượng chảy máu , còn các kết quả khác hoàn toàn bình thường. Bác sĩ Herrera mừng vì chỉ thấy có thế thôi. Ông ngờ là bị sốt xuất huyết với hội chứng ở thận, có thể là do virus. Các triệu chứng ban đầu giống hệt với triệu chứng cúm. Tiếp sau đó là đau đầu, đau cơ, đau đốt sống lưng và chảy máu. có phác đồ đặc trị nào đối với loại bệnh này, thời gian tự chữa lành mà để lại bất cứ hậu quả nào. Bác sĩ Herrera hỏi Andrew xem gần đây có cắm trại trong rừng hay , căn bệnh này lây sang người do hít phải các phân tử có nguồn gốc từ phân các loài gặm nhấm hoang dã.

      Andrew, người vốn thích tiện nghi hơn tất thảy, khẳng định với ông rằng ý tưởng như thế chưa bao giờ xuất trong tâm trí cả.

      - Hoặc có thể bị thương do dụng cụ được mang từ rừng ra, kiểu dụng cụ của tiều phu hoặc thợ săn?

      Andrew ngay tức khắc nhớ tới Olson, rồi siết chặt nắm đấm đến nỗi mơ được đấm vỡ hàm vào ngay lúc này đây.

      - Cũng có thể, vừa Andrew vừa kiềm chế cơn giận.

      - Lần tới hãy thận trọng hơn nhé, vị bác sĩ vừa cười vừa , vui vì chứng tỏ được sáng suốt của mình trước đám sinh viên. Nếu tất cả ổn hết, tôi để ra viện vào chiều thứ Hai, đúng như muốn phải ?

      Andrew khẽ gật đầu đồng ý.

      - phải giữ gìn sức khỏe. Vết thương ở cuối sống lưng của nghiêm trọng quá, nhưng cần phải cho nó thời gian để liền sẹo và cẩn thận để bị nhiễm trùng. Khi nào phải quay về Mỹ?

      - Theo nguyên tắc là cuối tuần tới, Andrew đáp.

      - Tôi cầu quay lại khám nhanh trước khi lên máy bay. Chúng tôi tranh thủ thời điểm đó để cắt chỉ cho . Hẹn thứ Hai gặp nhé và chúc cuối tuần vui vẻ, Stilman, vừa vị bác sĩ vừa rút lui với đám sinh viên.

                  *


      lát sau vào buổi chiều, Andrew tiếp viên cảnh sát chịu trách nhiệm lấy lời khai của . Sau khi viên cảnh sát giải thích rằng có bất cứ cơ may nào để bắt kẻ phạm tội, khách sạn lắp hệ thống camera giám sát, Andrew liền từ bỏ ý định khởi kiện. Thở phào nhõm vì thoát khỏi đống giấy tờ cần thiết, viên cảnh sát để Andrew tiếp tục dưỡng sức. Vào cuối buổi chiều, Marisa, vốn dành cả buổi chiều bên chồng chưa cưới, tới thăm và ở bên đầu giường giờ.

                  *


      Chủ nhật, Louisa, được cháu báo tin, tới bệnh viện thăm và mang cho Andrew đồ ăn tự tay bà nấu. Bà dành trọn buổi chiều ở bên . kể cho bà nghe vài trường đoạn của cuộc đời nhà báo của mình, bà tóm gọn cho biết vài tình huống đưa bà trở thành trong những Bà mẹ quảng trường tháng Năm... Rồi bà hỏi gặp Alberto chưa.

      Andrew kể lại cho bà nghe vụ chơi bài, thế là Louisa nổi giận đùng đùng rằng ba mươi năm qua ông ta chẳng làm việc gì ngoài chơi bài poker và phát phì ra. Người đàn ông thông minh nhường ấy bỏ quên cả cuộc đời cũng như người vợ của mình, và bà vẫn chưa nguôi giận với chuyện này.

      - Nếu cậu biết được rằng ông ấy từng rất bảnh trai khi còn thanh niên, bà thở dài. Tất cả đám con trong khu phố đều muốn ông ấy, nhưng chính tôi là người mà ông ấy chọn. Tôi biết cách quyến rũ, tôi khiến ông ấy nghĩ rằng tôi hoàn toàn dửng dưng với ông ấy. Thế nhưng, mỗi lần ông ấy chuyện hay mỉm cười khi gặp mặt, tôi đều cảm thấy mình tan chảy ra như băng dưới ánh mặt trời. Nhưng tôi quá tự kiêu nên thể cho ông ấy biết điều đó.

      - Vậy điều gì khiến bà thay đổi thái độ? Andrew hào hứng hỏi.

      - Vào buổi tối... Louisa vừa đáp vừa lấy bình nước giữ nhiệt từ trong bị của mình ra... bác sĩ có cho cậu uống cà phê ?

      - Ông ấy chẳng gì cả, nhưng kể từ khi tôi ở đây, họ chỉ cho tôi uống mỗi thứ thuốc sắc tệ hại thôi, Andrew thú nhận.

      - Im lặng là đồng ý nhé! Vừa Louisa vừa lôi cái chén từ trong túi đựng đồ dự trữ ra. Chuyện là như này, tối, Alberto qua nhà bố mẹ tôi. Ông ấy bấm chuông cửa rồi hỏi xin phép bố tôi để đưa tôi dạo. Khi đó là vào tháng Mười hai. Độ ẩm cao chỉ khiến cái nóng ngự trị ở nhà chúng tôi trở nên ngột ngạt hơn. Tôi ở ngay tầng hai nên nghe lỏm được cuộc chuyện.

      - Thế bố của bà sao?

      - Ông ấy từ chối rồi đuổi khéo Alberto bằng cách cam đoan rằng con ông muốn nhìn thấy mặt ông ấy. Tôi có niềm vui tinh quái là làm ngược toàn bộ những gì ông , và thế là quàng chiếc khăn san lên vai, để khiến bố bị sốc, tôi theo Alberto và cả hai chúng tôi chơi. Tôi chắc chắn là hai người họ cùng mưu chuyện này. Bố tôi bao giờ muốn thú nhận điều đó. Alberto lại càng , nhưng cái cách mà họ giễu tôi trong suốt nhiều năm mỗi khi ai đó đề cập đến buổi tối chơi đầu tiên với Alberto lại càng khiến tôi tin chắc là như thế. Chuyến dạo thú vị hơn tôi tưởng nhiều. Alberto tán tỉnh như đám con trai thường làm, chỉ muốn nhanh nhanh chóng chóng đưa con người ta lên giường. Ông ấy với tôi về chính trị, về thế giới mới nơi ai ai cũng có quyền tự do ngôn luận, nơi đói nghèo còn là định mệnh. Alberto là người nhân đạo chủ nghĩa, vừa tưởng vừa ngây thơ, nhưng hết sức cao thượng. Ông ấy có chất giọng trầm ấm khiến tôi yên lòng, ánh mắt khiến tôi xáo động. Cứ như vậy mà kiến thiết lại xã hội bằng lời , chúng tôi để ý thời gian trôi. Khi quay trở về, cái giờ mà bố tôi cho phép về nhà, mà ông chỉ kịp hét váng sau lưng chúng tôi khi cả hai xuôi xuống con ngõ hẹp, qua từ lâu. Tôi biết bố đợi cả hai chúng tôi ở ngưỡng cửa, thậm chí với khẩu súng nạp đầy những viên muối to đùng để dạy cho Alberto bài học. Tôi bảo ông ấy là tôi muốn về nhà mình, để ông ấy phải gặp rắc rối, nhưng Alberto vẫn cứ nài đưa tôi về nhà.

      Đến góc phố nhà mình, tôi bảo ông ấy đưa tôi chiếc khăn mùi soa của ông ấy và tôi quấn khăn đó quanh mắt cá chân. Rồi tôi tựa vào vai ông ấy và vờ khập khà khập khiễng cho tới khi về đến tận nhà. Khi nhìn thấy tôi, bố liền dịu ngay tức khắc rồi ông chạy ào đến bên con . Tôi kể với ông là mình bị trật mắt cá chân và hai đứa mất hai tiếng đồng hồ mới về đến nhà vì cứ trăm mét là tôi phải dừng lại để lấy hơi. Tôi biết liệu ông có tin mình , nhưng ông cảm ơn Alberto đưa con ông trở về bình yên vô . Điều quan trọng nhất chính là danh dự cũng được bảo toàn. Về phần mình, đến khi ngủ, tôi chỉ còn nhớ đến cảm xúc của mình lúc Alberto dùng tay đỡ tôi và khi tay tôi chạm vào vai ông ấy. Sáu tháng sau chúng tôi kết hôn. Chúng tôi giàu có gì, cứ đến cuối tháng là phải giật gấu vá vai, nhưng Alberto luôn xoay xở để đủ chi tiêu vừa khít. Chúng tôi rất hạnh phúc, hạnh phúc thực . Tôi sống bên ông ấy những tháng ngày đẹp nhất đời mình. Ở bên nhau, cả hai chúng tôi đều cười vui nhiều biết bao. Nhưng rồi chế độ độc tài mới được thiết lập, kinh khủng hơn chế độ cũ rất nhiều. Con trai chúng tôi mới đôi mươi khi bị bắt . Alberto và tôi chỉ có mụn con thôi. Nó bao giờ trở lại kể từ khi bị bắt , và vợ chồng chúng tôi cũng vậy. Mỗi người sống theo cách của riêng mình, ông ấy sống trong quên lãng, còn tôi sống trong tranh đấu, vai trò bị đảo ngược hoàn toàn. Nếu cậu còn gặp Alberto nữa, tôi cấm cậu được với ông ấy chuyện tôi vừa kể cậu nghe. Cậu hứa chứ?

      Andrew hứa.

      - Kể từ khi cậu đến thăm nhà, tôi ngủ rất kém. Ortiz phải là kẻ đứng đầu trong cuốn album của tôi, đó chỉ là nhân vật phụ như tôi từng với cậu rồi đó, sĩ quan có nghiệp chẳng mấy lẫy lừng. Nhưng giờ đây, tôi thể ngăn mình nghĩ rằng có thể chính lái chiếc máy bay mà từ đó chúng ném con trai tôi xuống dòng Rio de La Plata. Tôi rất mong cậu tìm thấy và buộc phải thú nhận. có gì kinh khủng hơn việc người phụ nữ mất đứa con của mình, đó là tấn thảm kịch kinh hoàng nhất có thể xảy đến với con người, còn đáng sợ hơn cái chết của chính người phụ nữ đó nhiều lần. Nhưng nếu cậu hình dung ra được nỗi đau khi thể chôn cất con mình yên nghỉ dưới mồ, bao giờ được nhìn di hài con. Biết rằng đứa con ngày trước còn gọi mình là mẹ, còn chạy tới lao vào vòng tay mình rồi ôm ghì mình chặt...

      Louisa ngừng giữa chừng.

      - ... Khi đứa trẻ là ánh sáng của đời cậu biến mất để lại chút dấu vết nào, khi cậu biết được rằng bao giờ còn có thể nghe thấy giọng của nó nữa, cuộc sống của cậu chỉ còn là địa ngục.

      Louisa đứng bên cửa sổ để giấu mặt . Bà hít sâu rồi tiếp tục, ánh mắt nhìn về xa xăm.

      - Alberto trốn chạy trong quên lãng, ông ấy sợ rằng nỗi đau có thể khiến ông ấy mù quáng trả thù. Ông ấy muốn trở thành kẻ giống bọn họ. Nhưng tôi, tôi sợ điều đó. phụ nữ có thể giết kẻ đánh cắp con mình chút ăn năn hối hận. Nếu có cơ hội tôi hành động ngay.

      Andrew thoáng nghĩ đến vợ Capetta. Louisa quay về phía Andrew, đôi mắt đỏ hoe nhưng ánh mắt rất mãnh liệt.

      - Hãy tìm cho ra , tôi cầu xin cậu từ tận sâu thẳm đáy lòng, hoặc chí ít là từ những gì còn sót lại của tôi.

      Louisa đứng dậy rồi xách lấy cái bị của mình. Nhìn bà ra về, Andrew có cảm giác bà già nhiều kể từ đầu buổi chuyện của họ. Suốt đêm đó, chỉ nghĩ tới cuộc gặp với Ortiz, lần đầu tiên hy vọng kế hoạch của Alberto được trót lọt.

                  *


      Vào cuối buổi chiều, điện thoại của Andrew đổ chuông. Buộc phải xoay mình với lấy điện thoại khiến cơn đau lại trỗi dậy.

      - Khi cậu bảo “năm phút nữa tớ gọi lại”, cậu...

      - Simon, tớ ở bệnh viện.

      - Cậu thăm ai à?

      - tớ nằm viện...

      Andrew kể lại vụ tấn công cho Simon nghe nhưng bắt bạn hứa được hó hé bất cứ điều gì cho Valérie. Simon muốn đến gặp bạn ngay tức nhưng Andrew đồng ý. gây đủ chú ý kể từ khi đặt chân đến Buenos Aires và việc Simon đến nữa chỉ làm cho mọi thứ càng thêm rối ren.

      - Tớ đồ rằng giờ phải lúc để tớ báo cáo tổng kết cho cậu nghe về vợ Capetta.

      - hề, ngược lại là đằng khác, tớ chẳng có gì hay ho để làm vào cuối tuần cả.

      - Chiều nào chị ta cũng ngồi đan lát tại công viên trong khi cậu con trai chơi đùa trong bể cát

      - Cậu chuyện với chị ta à?

      - Khi tớ với cậu là chị ta ngồi đan lát, tớ nghĩa bóng đâu.

      - còn gì khác nữa à?

      - , ngoại trừ điều là tớ thấy chị ta quá đẹp mà lại cưới gã như Capetta mà cậu từng kể, nhưng cũng có thể là do tính đố kỵ khiến tớ vậy.

      - Đẹp đến độ nào?

      - Tóc đen, cặp mắt đen nhánh, ánh mắt kiên nghị để lộ nỗi đơn và nỗi đau sâu sắc.

      - Cậu chỉ cần quan sát từ xa mà nhận ra tất thảy những điều đó ư?

      - phải vì tớ phụ nữ, tất cả phụ nữ, mà tớ gây chú ý với họ.

      - Simon, cậu chuyện với tớ đó...

      - Được rồi... Chị ta thường uống cà phê tại quán McDonald’s, cậu bé nhà chị ta quay lại với cái khay hơi quá nặng so với nó. Tớ thu xếp để mình cũng bước vào trong đó. Vì cậu mà tớ phải hy sinh cái quần jeans rồi đó. Bà mẹ đứng dậy, chị ta xin lỗi rối rít. Với hai cái nhăn nhó mặt mày, tớ khiến thằng bé chực khóc phải phì cười, tớ đưa cho nó mười đô la để nó mua lại Coca với mấy thứ đồ rán, rồi với cái cớ là lấy giấy ăn đặt mặt bàn, tớ ngồi lại với chị ta trong khi đợi cậu bé con trở lại.

      - Giờ giống cậu lắm rồi.

      - Cậu có hình ảnh về tớ như vậy điên rồ.

      - Thế chị ta gì với cậu?

      - Chị ta kể rằng mình đến Chicago sống sau khi chồng mất, để xây dựng lại cuộc sống mới với cậu con trai.

      -... Chị ta còn lấy ông bố vẫn còn sống nhăn, bà góa mới lạ lùng làm sao!

      - khắc nghiệt mà chị ta thể mặt khi về chồng khiến máu cậu phải đông cứng lại đó. Vả lại, còn có thứ gì đó rất kinh khủng ở chị ta.

      - Cái gì?

      - Tớ biết phải tả cho cậu như thế nào, chỉ là tớ thấy khó chịu khi ở gần chị ta.

      - Chị ta có kể với cậu về chuyến đến New York ?

      - , và trong lúc từ biệt, tớ có bảo rằng nếu chị ta đến New York và cần giúp bất cứ điều gì, chị ta có thể gọi cho tớ, nhưng chị ta khẳng định với tớ rằng bao giờ quay trở lại đó nữa.

      - Chị ta hẳn nghĩ rằng cậu giở chiêu trò gì đó.

      - Nếu tớ làm thế chắc chắn chị ta đổi ý ngay.

      - Dĩ nhiên rồi!

      - Đúng, dĩ nhiên rồi! Nhưng vì nhiệm vụ, tớ phải nâng cao cảnh giác. Tớ chỉ là doanh nhân công tác tại Chicago, ông bố của ba đứa trẻ và rất vợ mình.

      - Điều gì khiến cậu nhập vai ông bố của gia đình đấy? Sáng hôm đó cậu quá mất sức đấy chứ?

      - Tớ nghĩ rằng tớ nhớ cậu, nhưng chung cuộc là...

      - Cậu nghĩ chị ta có khả năng giết người chứ?

      - Chị ta có sức làm chuyện đó, chị ta dối về cuộc đời và về những ý định của mình, có điều gì đó đáng ngại ở chị ta. Đó hẳn là kiểu Nicholson trong phim kinh dị Shining, nhưng tớ đoan chắc với cậu là ánh mắt chị ta khiến người khác lạnh gáy. Andrew này, sao cậu lại mất thời gian ở Buenos Aires, nếu cậu tin rằng mình bị sát hại trong vài tuần tới?

      - Simon, tớ được trao cho cơ hội thứ hai để bảo vệ Valérie khỏi những lầm lạc của tớ cũng như để kết thúc cuộc điều tra mà kết cục chỉ liên quan đến mình tớ. Giờ tớ ý thức về điều đó còn hơn cả ngày hôm qua.

      Andrew nhờ bạn giúp lần cuối cùng. Ngay sau khi cả hai gác máy, Simon mua bó hoa rồi nhờ chuyển đến nhà Valérie kèm vài lời nhắn nhủ mà chép lại.

      Trong lúc đó, tại phòng bệnh ở Buenos Aires, Andrew có cảm giác nghe thấy tiếng Louisa thầm bên tai: “Nếu vợ Capetta cho rằng cậu phải chịu trách nhiệm về việc để mất con chị ta cậu nên cẩn trọng.”

                  *


      Andrew tiếp tục các xét nghiệm mới vào sáng thứ Hai và bác sĩ Herrera để ra viện vào đầu giờ chiều.

      Marisa kiên nhẫn đợi trong xe ô tô. Sau khi ghé qua khách sạn chốc lát, cả hai liền đến quán bar nơi Alberto cùng các bạn ông đợi bọn họ.

      Andrew ngồi vào bàn ở cuối phòng, Alberto mình. Ông trải tờ giấy khổ lớn ra rồi miêu tả hành trình mà Ortiz qua.

      - Tại lối ra của Villa Maria, chiếc xe tải bị hỏng giữa đường buộc phải rời khỏi quốc lộ 9. Tài xế của rẽ về phía Nam để bắt vào quốc lộ 8. Trong lúc đó, cậu đến tận Gahan. Ở ngang tầm tượng thánh giá mà cậu dễ dàng nhận ra tượng đức Mẹ Đồng trinh dưới kim tự tháp bằng thủy tinh, cậu tìm bên tay phải mình ba tháp dự trữ nông sản cách đường cái chừng năm mươi mét. Có con đường đất dẫn tới đó. cậu náu mình ở đó, đèn đóm tắt hết, cùng với Marisa. Hãy tranh thủ lúc đó để thay phiên nhau mà ngủ nhé.

      Nếu Ortiz rời Dumesnil vào lúc 21 giờ, đến Gahan vào tầm 4 giờ sáng. Chúng tôi làm điều cần thiết, mặt đường được rải những mẩu sắt vụn, qua được tượng thánh giá rồi xe chỉ còn chạy vành.

      - Thế nếu phải là người đầu tiên qua sao?

      - có ai khác ngoài vào cái giờ đó đâu.

      - Sao ông có thể hoàn toàn chắc chắn về điều này?

      - Các bạn của chúng tôi canh chừng lối ra của thành phố Olivia, Chazon, Arias, Santa Émilia, Colón và Rojas. Gần như là cứ sau mười lăm phút chúng tôi biết ở đâu và chúng tôi chỉ gài bẫy đường khi biết chắc gần tới tượng thánh giá.

      - Có thành phố tên là Olivia à? Andrew lên tiếng hỏi.

      - Có, sao thế? Alberto đáp.

      - có gì.

      - Khi chiếc xe được nữa, hãy nấp kỹ cho đến khi người của đến Gahan nhé. chọi ba quả cân sức đâu. Tôi nghĩ là biết chuyện cậu mới đánh nhau với chúng và nhìn mặt mũi cậu tôi yên tâm về kết cục trận đấu cho lắm.

      - Thế còn cháu sao, cháu được tính à, Marisa hỏi.

      - Cháu à, cháu ngồi nguyên trong xe và lái xe thôi. Ta cấm cháu rời vô lăng đó, đến cả nhà báo dũng cảm của chúng ta còn bị bắn kia kìa. Cháu hiểu chú mà, chú đùa đâu! Nếu có chuyện gì xảy đến với cháu, dì cháu đến xử lý ta ngay giữa ban ngày ban mặt này đấy.

      - ấy rời khỏi xe đâu, Andrew hứa và ngay lập tức nhận cú đá chân của Marisa vào phần xương chày.

      - Đừng có rề rà đấy, Gahan cách đây đúng hai giờ chạy xe, hai đứa còn cần thời gian để xác định vị trí, đánh giá và hóa mình vào khung cảnh. Ricardo chuẩn bị thứ gì đó để cả hai mang ăn dọc đường, ông ấy chờ cháu ở trong bếp đó, Marisa. Cháu , chú có đôi lời muốn riêng với cậu đây.

      Marisa nghe lời chú mình.

      - Cậu cảm thấy mình có đủ khả năng thực thi nhiệm vụ này tới cùng chứ?

      - Đến ngày mai ông khắc biết, Andrew uể oải trả lời.

      Alberto nắm chặt lấy cẳng tay Andrew.

      - Tôi huy động rất nhiều bạn bè để thực tốt nhiệm vụ lần này, đó chỉ là vì độ đáng tin của tôi, mà còn là vì an toàn của cháu tôi nữa.

      - Cháu ông cũng lớn tướng rồi, ấy biết mình làm gì, nhưng giờ ông cấm cháu ông cùng tôi vẫn còn kịp đấy. Với cái bản đồ ngon lành chắc tôi tốn công tìm cho ra cái xứ khỉ ho cò gáy ấy đâu.

      - Con bé chẳng nghe lời tôi đâu, tôi còn áp đặt được nó nữa.

      - Ông Alberto, tôi làm hết sức mình, còn ông, ông cũng làm sao để nhiệm vụ này, theo như lời ông, biến thành thảm kịch nhé. Ông hứa với tôi là ai trong số các ông tìm cách tính sổ với Ortiz rồi phải ?

      - Quân tử nhất ngôn, mà tôi hứa với cậu rồi còn gì!

      - Thế tất cả hẳn diễn ra vấn đề gì.

      - Cầm lấy cái này, vừa Alberto vừa đặt khẩu súng lục lên đầu gối Andrew, chẳng ai biết trước được chuyện gì.

      Andrew trả khẩu súng lại cho Alberto.

      - Tôi nghĩ là thứ này có thể tăng thêm an toàn cho Marisa, tôi chưa bao giờ sử dụng vũ khí nóng. Hoàn toàn trái ngược với các định kiến, phải người Mỹ nào cũng là cao bồi.

      Andrew những muốn đứng dậy nhưng Alberto ra hiệu rằng cuộc chuyện chưa kết thúc.

      - Louisa đến bệnh viện thăm cậu đúng ?

      - Ai cho ông biết chuyện đó?

      - Tôi muốn chắc chắn cậu được yên ổn bình phục trong những ngày nằm viện, nhỡ đâu người của Ortiz lại có ý định hoàn thành nốt công việc dở dang.

      - Thế ông có câu trả lời rồi còn gì.

      - Bà ấy có với cậu về tôi ?

      Andrew quan sát Alberto rồi đứng dậy.

      - Chúng ta chuyện này vào ngày mai nhé, sau khi tôi từ Gahan trở về. Chúc ông tối tốt lành, Alberto.

                  *


      Vừa rời khỏi nhà hàng, Andrew vừa tìm kiếm chiếc Coccinelle của Marisa. Tiếng còi xe khiến chú ý. Marisa thò đầu qua cửa kính chiếc Peugeot break 406 để gọi .

      - Chúng ta thôi, hay là đổi ý rồi?

      Andrew lên xe.

      - Chú tôi sợ xe của tôi đủ an toàn.

      - Tôi tự hỏi ông ấy lấy đâu ra ý nghĩ như vậy được chứ, Andrew đáp.

      - Đây là xe của chú tôi, thế để biết ông ấy coi trọng nhiệm vụ của chúng ta nhường nào.

      - Ngừng cái từ ấy , lố bịch! Chúng ta làm nhiệm vụ, tôi làm cho cơ quan mật vụ mà là cho tờ báo có tên tuổi. Tôi tra hỏi cái người có tên là Ortega kia và tìm cách làm cho thừa nhận mình là Ortiz, nếu đó đúng là Ortiz.

      - Tốt hơn hết là nên im lặng thay vì cứ tào lao chi xiên, Marisa vặn lại.

      Và thế là trong suốt quãng đường trăm tám mươi ki lô mét tới Gahan, cả hai gần như gì với nhau. Marisa tập trung nhìn đường, đúng như chú từng , con đường vô cùng xấu mà lại hầu như có đèn chiếu sáng. Họ đến đoạn đường giao nhau bàn tới vào quãng nữa đêm. Marisa đỗ xe trước tượng thánh giá rồi dùng đèn pin kiểm tra xung quanh.

      - Nếu lốp xe bị nổ ở đây, với Andrew, chiếc xe chạy đến cánh đồng kia là dừng, thấy đấy, có gì đáng lo cả, chú tôi dối.

      Andrew kiểm tra mặt đường nhờ vào ánh sáng chiếu từ đèn pha ô tô và tự hỏi khi nào người của Alberto can thiệp.

      - Lên xe , Marisa ra lệnh, con đường dẫn đến tháp dự trữ nông sản nằm ngay kia rồi, chúng ta bắt đầu mình cũng như nhấm nháp thứ gì đó thôi, thời gian rất dài đấy.

      khởi động lại động cơ rồi tiến về phía con đường vòng qua mấy cái tháp. đỗ xe ở giữa hai tháp chứa hạt rồi tắt đèn pha. Trong lúc để cặp mắt dần quen với cảnh tranh tối tranh sáng, Andrew nhận ra rằng bọn họ có tầm nhìn hoàn hảo bao quát toàn cảnh khu vực diễn ra vụ việc, trong khi đó, từ đường cái thể nhận ra cả hai được.

      - Chú của thực tình cờ bỏ lại thứ gì đó chứ?

      - Alberto từng là thành viên phong trào du kích Montonero, ông ấy chiến đấu chống lại lũ đểu cáng trong thời kỳ mà họ có thể bắn ngay khi thấy mục tiêu. Có thể ông có nhiều kinh nghiệm. Nếu bằng tuổi bây giờ, ông ấy thế chỗ trong chiếc xe này đó.

      - Marisa, tôi phải thuộc hạ của ông ấy, hãy ghi nhớ điều này trong đầu chỉ lần thôi.

      - nhắc nhắc lại điều đó đủ rồi. Tôi hiểu . có đói ?

      - đói lắm.

      - Dù gì cũng nên ăn chút, vừa vừa đưa cho chiếc sandwich. cần phải huy động hết sức bình sinh đấy.

      bật đèn mui rồi vừa nhìn Andrew vừa cười.

      - Gì thế? Có gì khiến buồn cười à?

      - đấy.

      - Thế tôi có gì đáng buồn cười nào?

      - Nửa bên trái cũng đến nỗi nào, còn nửa bên phải có thể gọi là Người Voi được đó.

      - Cảm ơn khen!

      - Đó chỉ là nửa lời khen thôi, còn phụ thuộc vào việc ta đứng ở phía bên nào .

      - có thích tôi thử cầm lái ?

      - , tôi thích nhìn phía mặt bị dần cho trận hơn, hợp với tôi hơn.

      - Tôi chắc là Antonio vui khi nghe điều này.

      - Antonio bảnh trai nhưng là người tốt.

      - Chuyện đó chẳng hề liên quan đến tôi.

      - Thế còn , vợ có đẹp ?

      - Chuyện này cũng chẳng can hệ gì đến .

      - Chúng ta bên nhau gần như hết đêm trong chiếc xe này, thích chúng ta chuyện về thơi tiết ư?

      - Valérie rất xinh.

      - Điều ngược lại hẳn khiến tôi ngạc nhiên đấy.

      - Sao lại thế?

      - Bởi tôi nghĩ rằng thuộc típ người phải cảm thấy tự mãn khi tay trong tay dạo với phụ nữ xinh đẹp.

      - nhầm rồi. Chúng tôi quen nhau từ hồi học trung học, tôi chẳng có nét gì của kẻ biết quyến rũ, tôi rất rụt rè và có khiếu tán tỉnh con , điều này vẫn chẳng hề thay đổi.

      Điện thoại của Marisa rung trong túi, lấy ra rồi đọc cho Andrew nghe tin nhắn vừa nhận được.

      - Chiếc xe tải hoàn thành nhiệm vụ của nó ở lối ra Villa Maria, xe của Ortiz về hướng quốc lộ 8. Chúng tới đó trong tối đa là bốn tiếng đồng hồ nữa.

      - Tôi cứ tưởng ở đây điện thoại có sóng chứ?

      - Đó là trường hợp sắp xảy ra. Trạm phát sóng của vùng này nằm cách đây hai mươi ki lô mét và khi nó bị cắt điện thể liên lạc được nữa.

      Andrew mỉm cười.

      - Có thể có lý, buổi tối hôm nay càng lúc càng mang khí của điệp vụ.

      - Nó khiến phật ý đến thế chứ.

      - Cho tôi cái sandwich đó và ngừng việc chọc quê tôi , rốt cuộc tôi cũng sắp thấy quyến rũ rồi đấy.

      Marisa xoay nghiêng về phía băng ghế sau để lộ cặp mông khiến Andrew thể dửng dưng được.

      - Cầm lấy này, dùng cà phê nhé, vừa vừa chìa cái cốc cho Andrew.

      tiếng sau, họ nghe thấy tiếng động cơ phía xa xa. Marisa tắt đèn mui .

      - Giờ vẫn quá sớm nên khó có thể là Ortiz, Andrew thầm.

      Marisa phá lên cười.

      - thào là đúng, chúng ta chẳng thận trọng chút nào cả; chúng ta ở cách đường cái năm mươi mét, họ có thể nghe thấy tiếng chúng ta... Chưa, đó chưa phải là Ortiz.

      - Thế sao lại tắt đèn?

      Và trước khi Andrew kịp hiểu chuyện gì xảy đến với mình, Marisa vắt chân qua cần gạt tốc độ rồi ngồi giạng chân người . lấy tay vuốt ve mơn trớn môi rồi hôn .

      - Suỵt, thầm, sắp kết hôn, tôi cũng vậy, chẳng có chuyện chúng ta phải lòng lẫn nhau đâu.

      - Với người vừa bảo tôi im lặng đúng là kẻ ba hoa kỳ cục.

      Marisa lại hôn Andrew lần nữa rồi họ cùng chui xuống băng ghế sau chiếc break, ở đó họ quấn lấy nhau trong đêm đen tĩnh mịch.

                  *


      Marisa mở choàng mắt nhìn đồng hồ rồi hích tay Andrew.

      - dậy rồi mặc quần áo lại , ba giờ sáng rồi!

      Andrew giật nảy mình. Marisa vớ lấy điện thoại di động trong túi. Sáu tin nhắn liên tiếp, mỗi cái thông báo tên ngôi làng mà xe Ortiz vừa qua. nhìn màn hình rồi vội vã lao lên hàng ghế trước.

      - còn sóng nữa, họ cắt điện trạm phát rồi, Ortiz hẳn còn ở xa đây đâu, nhanh lên !

      Andrew xỏ vội quần dài với áo pull rồi đến ngồi vào ghế cạnh tay lái. Im lặng bao trùm. quay sang nhìn Marisa, ánh mắt dán chặt về phía đường cái.

      - Nhìn phía trước ấy, , mọi việc xảy ra ở đó chứ!

      - Thế còn chuyện xảy ra ở phía sau? Andrew thử liều.

      - Chẳng có gì xảy ra ngoài khoảnh khắc đẹp đẽ giữa hai người lớn thuận tình cả.

      - Khoảnh khắc đẹp đẽ nào? Andrew vừa hỏi vừa cười.

      Marisa lại hích cho cú nữa.

      - Em có nghĩ là bạn của chú em trông thấy chúng ta khi họ đến rải đinh đường cái ?

      - Tốt nhất là nên như thế, cho cả và cho cả em nữa. Giờ hãy cầu trời cho chúng ta bị lỡ mất tên Ortiz .

      - Nếu xe của qua rồi phải nằm chình ình giữa đường, phải nào? Em thấy chiếc xe nào ?

      Marisa đáp. Có tiếng động cơ xe tiến lại gần vẳng từ phía xa lại. Andrew cảm thấy nhịp tim đập dồn.

      - Thế nhỡ phải chúng sao? Andrew thầm.

      - Tai bay vạ gió... đáng tiếc, nhưng đôi khi cũng khó tránh!

      Và trong lúc Andrew còn lo lắng chiếc xe hòm màu đen bất thần lao tới phía trước bức tượng thánh giá. Ba bánh xe nổ cùng lúc, tài xế phải ra sức giữ xe chạy đúng lộ trình, những chiếc xe bị chệch tay lái rồi bắt đầu chạy ngoằn ngoèo trước khi lao xuống sườn núi. Nó trượt xuống, mũi xe cắm sâu vào ổ gà, phần đuôi xe chồng lên rồi chiếc xe lộn nhiều vòng trong tiếng ầm inh tai nhức óc. Kính chắn gió vỡ tan còn người ngồi ghế cạnh lái bắn ra ngoài. Chiếc xe tiếp tục lộ trình điên rồ của nó bằng phần nóc xe, kéo theo sau nó là chùm tia lửa điện trước khi dừng lại bên rìa cánh đồng. Sau cảnh lộn xộn là im lặng chết chóc.

      - nhàng, mọi thứ phải nhàng như thế đấy, Andrew vừa rời khỏi chiếc break vừa bực bội .

      Marisa túm lấy cánh tay rồi buộc ngồi lại vào xe. xoay chìa khóa rồi tiến về phía con đường đất. dừng lại bên lề đường nhìn cảnh tượng hoang tàn dưới ánh đèn pha. gã đàn ông nằm cách phần sót lại của chiếc xe chừng mười mét. Andrew chạy vội về phía gã. Gã ở trong tình trạng rất tồi tệ, nhưng vẫn còn thở. Marisa tiến về phía chiếc xe bị nạn. Tay tài xế, bị bất tỉnh nhân , bê bết máu mặt. Ở hàng ghế sau, bị dồn bẹp rúm trong khoang xe do vụ va chạm, gã đàn ông khác rên rỉ khi lấy lại tinh thần.




      Andrew tiến đến bên Marisa rồi nằm bò xuống đất để luồn vào khoang xe.

      - Giúp tay nào, với Marisa, phải đưa ra ngoài trước khi chiếc xe bắt lửa.

      Marisa quỳ gối xuống rồi lạnh lùng nhìn gã đàn ông bị thương.

      - Mi nghe chứ, chiếc xe sắp bốc cháy rồi. Bọn ta muốn hỏi mi vài câu, hãy trả lời nhanh nếu như mi muốn mình thành lợn quay.

      - Các người là ai? Các người muốn gì ở tôi? gã đàn ông rên rỉ.

      - Bọn ta mới là người đặt câu hỏi, còn mi, mi chỉ việc trả lời thôi.

      - Mẹ kiếp, Marisa, ngừng ngay mấy thứ ngu ngốc đó mà lại giúp , như thế này cũng đủ tổn thất lắm rồi, Andrew vừa gắng lôi người bị thương ra khỏi chiếc xe trơ khung vừa hét lên.

      - Cứ để lại cho đến khi chịu thôi. Tên của mi là gì? lên tiếng hỏi.

      - Miguel Ortega.

      - Còn ta, ta là Evita Perón! Ta cho mi cơ hội thứ hai, Marisa vừa tiếp vừa đặt điếu thuốc lên môi.

      lôi ra hộp diêm trong túi, quẹt que rồi đưa que diêm bốc cháy lại gần mặt Ortega.

      - Tôi là Miguel Ortega! hét lên, điên mất rồi, đưa tôi ra khỏi đây .

      - Cố chịu , càng lúc mùi xăng càng nồng nặc kìa, .

      Andrew dùng hết sức bình sinh để thử kéo Ortega ra ngoài, nhưng chân của ông già này bị kẹt dưới ghế lái và nếu như được Marisa giúp đỡ tài nào kéo nổi.

      - thôi, chúng ta rút lui khỏi đây thôi, vừa Marisa vừa thả que diêm vào trong xe ô tô.

      Ngọn lửa chập chờn rồi tắt ngóm. Marisa quẹt que khác rồi châm lửa cả hộp, giữ nó bằng các đầu ngón tay.

      Ortega nhìn ngọn lửa nhảy múa phía đầu mình.

      - Ortiz, tôi là Felipe Ortiz, tắt nó , tôi xin đấy, tôi còn có gia đình, đừng làm thế!

      Marisa ném hộp diêm ra xa rồi nhổ vào mặt thiếu tá Ortiz.

      Andrew giận điên lên. Marisa chui vào trong xe rồi đẩy ghế xe lên. Andrew cuối cùng cũng đưa được Ortiz ra khỏi xe rồi kéo ông ta ra phía đường cái để tránh xa chiếc xe.

      - Phải xem cả tài xế nữa, ra lệnh.

      Trong lúc quay lại chiếc xe hòm, những tia lửa điện bắt đầu nổ lẹt đẹt dưới nắp đậy máy rồi chiếc xe bốc cháy. nhìn thấy cơ thể viên tài xế bắt lửa, khuôn mặt biến dạng trước khi khói che mờ cảnh tượng đầy ác mộng.

      Andrew lấy tay ôm đầu rồi quỳ xuống để nôn. Khi các cơn co thắt dịu xuống, ra chỗ Ortiz nằm dài bên vệ đường, Marisa ngồi xổm hút thuốc bên cạnh .

      - Chúng ta đưa ông ta đến bệnh viện và đưa cả gã đàn ông nằm sõng soài dưới kia nữa, Andrew ra lệnh.

      - , Marisa vừa đáp vừa đung đưa chùm chìa khóa xe break, và nếu lại gần, em ném chúng xuống cánh đồng đấy.

      - người chết với em chưa đủ sao?

      - so với ba mươi nghìn ư? , với em như thế là chưa đủ. Chúng ta chơi hiệp thứ hai và lần này em có lợi thế. Nếu thứ rác rưởi này muốn sống phải . Rút sổ tay cùng bút của ra, nhà báo à, thời điểm vinh quang của tới rồi!

      - Tôi đau quá, Ortiz cầu xin, đưa tôi tới bệnh viện , tôi tất cả những gì muốn đường .

      Marisa đứng dậy quay ngược về chiếc break, mở hộp đựng găng rồi trở lại với khẩu súng lục của Alberto.

      gí nòng súng vào thái dương Ortiz rồi lên nòng.

      - Em giữ vai trò ghi tốc ký, chúng ta bắt đầu phỏng vấn được chứ? Và bởi chân ông ta chảy máu, nếu là em để lãng phí quá nhiều thời gian như vậy đâu.

      - Em cũng bắn bỏ chứ, nếu từ chối tham gia vào trò khốn nạn này? Andrew lên tiếng hỏi.

      - , em rất thích nên thể làm chuyện tương tự như vậy, nhưng thanh toán nợ nần với với em chẳng có vấn đề gì cả, thậm chí em còn lấy làm thích thú.

      Andrew quỳ xuống cạnh Ortiz.

      - Chúng ta kết thúc phỏng vấn càng nhanh càng tốt nhé, để tôi còn đưa ông . Tôi rất lấy làm tiếc, tôi muốn mọi chuyện xảy ra như thế này đâu.

      - nghĩ là cũng lấy làm tiếc khi cắt đứt phanh xe của Antonio hay khi cử đám tay chân đến phòng khách sạn của à?

      - Các người đến lãnh địa của tôi, các người hỏi han tất cả mọi người. Chúng tôi chỉ muốn ngăn các người, hăm dọa các người thôi chứ muốn các người gặp nạn.

      - Phải rồi, dĩ nhiên rồi, Marisa thở dài. Mi mà giải thích điều này với Antonio nếu như mi gặp ấy ở bệnh viện nhé. Bọn ta cũng vậy, bọn ta chỉ muốn hăm dọa mi thôi, thế là chúng ta hết nợ, đúng ? À , chưa hẳn thế, mi nhìn mặt bạn tao xem, mi thấy người của mi hành xử như thế nào rồi chứ?

      - Tôi chẳng liên quan gì đến chuyện đó cả, tôi biết các người là ai.

      Andrew bị thuyết phục trước thành thực của Ortiz, dường như hoàn toàn hay biết gì về thân thế của .

      - Tôi là Andrew Stilman, tôi là phóng viên tờ The New York Times. Tôi thực cuộc điều tra về lộ trình của phi công và những hoạt động của ông ta thời chế độ độc tài gần đây. Có phải ông là thiếu tá Ortiz phục vụ từ năm 1977 đến 1983 với vai trò là sĩ quan phi công thuộc đội tuần tra bờ biển?

      - Cho đến ngày 29 tháng Mười năm 1979 thôi. Tôi bao giờ còn điều khiển máy bay sau ngày này nữa.

      - Tại sao?

      - Vì tôi thể chịu nổi điều họ ra lệnh cho tôi phải làm.

      - Thế nhiệm vụ của ông là gì, thiếu tá Ortiz?

      Ortiz thở dài.

      - lâu lắm rồi ai còn gọi tôi là thiếu tá nữa.

      Marisa gí khẩu súng vào má .

      - Bọn ta cóc cần quan tâm đến tâm trạng của mi. Hãy bằng lòng với việc trả lời các câu hỏi thôi.

      - Tôi thực các chuyến bay tuần tra dọc biên giới với Uruguay.

      Marisa lướt khẩu súng xuống tận cẳng chân Ortiz, dùng nòng súng vuốt ve mẩu xương lòi ra khỏi vết thương há miệng. Ortiz hét lên đau đớn. Bất thình lình, Andrew đẩy ra xa.

      - Nếu còn làm thế lần nữa, tôi để lại đây mình, dù tôi có phải bộ về Buenos Aires, chứ?

      - Giờ chúng ta lại còn xưng hô tôi với nhau nữa hả? Marisa vừa đưa mắt lẳng lơ khêu gợi nhìn vừa vặn lại.

      - Đưa tôi tới bệnh viện , Ortiz cầu xin.

      Andrew cầm lại sổ, bút.

      - Ông từng tham gia những chuyến bay chết chóc, phải thiếu tá Ortiz?

      - Đúng vậy, ông ta thào.

      - Ông thực bao nhiêu chuyến bay?

      - Ba mươi bảy, ông ta thở hổn hển.

      - Mỗi chuyến bay có tầm hai mươi người, cái trò khốn nạn này ném hơn bảy trăm người xuống dòng Rio de la Plata, Marisa lên tiếng.

      - Ở vị trí phi công, tôi nhìn được chuyện gì xảy ra ở phía sau cả, nhưng tôi biết. Khi máy bay đột nhiên bỗng lúc đổi thế cân bằng mà chưa cần tôi chạm vào cần gạt, tôi biết chuyện vừa xảy ra. Tôi chỉ tuân theo mệnh lệnh mà thôi. Nếu từ chối, tôi ăn đạn ngay. Cậu làm gì nếu ở địa vị tôi?

      - Tôi thà hy sinh cái mạng mình còn hơn là tham gia vào chuyện ghê tởm như vậy.

      - chỉ là đứa bé con, biết mình gì đâu, có bất cứ ý niệm gì về chế độ độc tài. Tôi là lính chuyên nghiệp, được huấn luyện để tuân lệnh, để phục vụ Tổ quốc tôi mà được phép đặt câu hỏi. biết thời kỳ đó như thế nào đâu.

      - Tôi sinh vào thời đó, đồ rác rưởi à, và bố mẹ đẻ của tôi nằm trong số những người bị các người sát hại sau khi bị tra tấn.

      - Tôi chưa bao giờ tra tấn ai cả. Tất cả những ai máy bay của tôi đều chết rồi, hoặc chẳng khác nào là chết cả. Và nếu như tôi muốn đóng vai hùng, họ bắn chết tôi, cả gia đình tôi bị bắt và lại có phi công khác thế chỗ tôi ngay.

      - Thế nên ông ngừng bay vào năm 1979? Andrew chen ngang.

      - Bởi vì tôi thể tiếp tục. Tôi chỉ là người lính bình thường, con người gây rắc rối, càng dũng cảm hơn ai cả. thể công khai nổi dậy chống lại các cấp chế độ độc tài. Tôi quá sợ những hậu quả xảy đến với người thân của mình. tối tháng Mười , tôi thử lao máy bay xuống lòng sông cùng “hàng” của nó và ba sĩ quan thực thi công việc bẩn thỉu của họ. Chúng tôi bay rất thấp, trong đêm tối đen, đèn đóm tắt hết. Tôi chỉ cần đột ngột đẩy cần mà thôi. Nhưng tay hoa tiêu vừa kịp giữ được máy bay. Trở về căn cứ, tố cáo tôi. Tôi bị bắt rồi bị đưa ra tòa án quân đặc biệt. Nhưng bác sĩ quân y giúp tôi tránh bị hành quyết. Ông ấy biện minh là tôi còn lý trí, và rằng tôi phải chịu trách nhiệm về những hành động của mình. Febres ưu ái tôi. số người khác cũng bắt đầu nao núng. Ông ta sợ rằng việc xử bắn tôi khiến nhiều người đào ngũ, trong khi đó, nếu tỏ ra khoan dung với số viên sĩ quan từng phục vụ Tổ quốc, khiến người của mình cảm phục. Tôi được thay đổi bản án và được phục viên.

      - Mi tham gia sát hại bảy trăm người vô tội và giờ mi muốn người ta phải rơi nước mắt trước số phận của mình ư? Marisa mỉa mai.

      - Tôi bảo hai người phải làm thế. Khuôn mặt của bọn họ, dù chưa bao giờ được trông thấy, vẫn luôn ám ảnh cuộc sống của tôi suốt ba mươi năm qua.

      - Ông tạo thân thế mới cho mình bằng cách nào? Sao ông có thể sống mình vô danh trong suốt ngần ấy năm tháng? Andrew cắt ngang.

      - Khi bảo vệ những người từng phục vụ mình, quân đội tự bảo vệ được chính nó. Vào cuối cuộc “chiến tranh bẩn thỉu”, Ferbes giúp chúng tôi. Họ cho chúng tôi giấy tờ mới với quá khứ được sắp xếp lại, mảnh đất hay công việc nho để bắt đầu lại cuộc sống.

      - Đất đai và công việc ăn cắp từ chính nạn nhân của mình! Marisa kêu lên.

      - là cháu của Alberto phải ? Ortiz hỏi.

      - Có thể ông quay trở lại với cuộc sống dân , nhưng công việc tình báo của ông hề kém nhạy bén chút nào.

      - nâng tầm tôi quá rồi. Tôi có liên hệ với bất kỳ cơ quan tình báo nào cả. Tôi chỉ là thương nhân điều hành xưởng thuộc da. Tôi đoán ra là ai ngay khi thấy lảng vảng ở Dumesnil. rất giống ông ấy, chuyện hệt như ông ấy... bao lâu nay con cáo đó vây dồn tôi. Nhưng ông ta quá già để có thể tự mình làm việc đó.

      - Tối nay thế là đủ rồi, vừa Andrew vừa gấp sổ lại, lấy xe Marisa, chúng ta cho ông ta lên và đón cả kẻ bị thương kia nữa, hy vọng là vẫn còn sống. Nhanh chân nhanh tay lên nào, hay phải đá đít em đây.

      Marisa nhún vai, cất vũ khí rồi về phía chiếc break, hai tay đút túi.

      - Tôi hề cử người đến khách sạn của , Ortiz tiếp tục ngay khi được ở mình với Andrew. Chắc chắn đó là Alberto. Con người đó xảo quyệt hơn nghĩ nhiều, điều khiển ngay từ đầu rồi, để đưa hoàn thành điều mà thể tự mình làm. Chính tổ chức vụ phục kích này, đúng ? chỉ là con tốt thí được sử dụng để chơi ván này thôi.

      - Im mồm Ortiz, ông biết mình gì đâu. Alberto phải là người khiến tôi cất công đến Argentina. Tôi theo dấu ông từ nhiều tuần nay, kể từ khi họ tin tưởng trao cho tôi điều tra vụ này.

      - Sao lại là tôi chứ phải ai khác?

      - Do tình cờ của cuộc sống mà thôi, tên ông nằm trong tập hồ sơ mà chúng tôi nhận được ở tòa soạn.

      - Thế ai gửi cho tập hồ sơ đó, Stilman? Tôi bảy mươi tuổi, sức khỏe của tôi được tốt cho lắm. Tôi chẳng quan tâm đến việc sống những năm cuối đời trong tù, hình phạt đó gần như là niềm an ủi cho tôi. Nhưng tôi có hai con , Stilman à, chúng nó chẳng làm gì nên tội và đứa con út hoàn toàn hay biết gì về quá khứ của tôi. Nếu tiết lộ thân thế của tôi, phải là kết án tôi mà là chính con bé. Hãy kể câu chuyện đáng thương về thiếu ta Ortiz, nhưng đừng nêu tên tôi ra, tôi xin đấy. Nếu điều muốn là cuộc trả thù, hãy bỏ mặc tôi mất máu bên vệ đường. Đó giải thoát. biết tham gia vào việc tàn phá cuộc sống của những người vô tội khổ tâm như thế nào đâu, với giờ vẫn còn chưa quá muộn.

      Andrew mở sổ tay, lật giở vài trang rồi lấy ra bức ảnh cho Ortiz xem.

      - Ông có nhận ra bé này ?

      Ortiz nhìn khuôn mặt đứa trẻ lên hai trong bức ảnh và đôi mắt ông ta ngân ngấn nước.

      - Tôi nuôi dạy con bé.

                  *


      Chiếc xe lao nhanh con lộ số 7. Ortiz bất tỉnh nhân sau khi Andrew và Marisa đưa ông ta nằm ra khoang sau chiếc break. Tình trạng sức khỏe của tay vệ sĩ cũng khá hơn.

      - Chúng ta cách bệnh viện gần nhất bao xa? Andrew vừa liếc nhìn hai người bị thương vừa hỏi.

      - Bệnh viện San Andrés de Giles nằm cách đây chừng bốn mươi ki lô mét, chúng ta tới đó trong vòng nửa tiếng nữa.

      - Hãy thu xếp để chúng ta đến được đó càng nhanh càng tốt, nếu như em muốn hai hành khách của chúng ta còn sống.

      Marisa nhấn ga.

      - cũng rất muốn chúng ta vẫn còn sống, Andrew lên tiếng, bám chặt vào ghế.

      - đừng có lo, giờ chúng ta có lời tự thú của rồi, em chẳng muốn chết đâu. bị đưa ra công lý xét xử và phải trả giá cho tội ác của mình.

      - Điều này khiến rất ngạc nhiên đó!

      - Sao vậy?

      - Thế em định gì khi ra tòa? Rằng em có được lời thú tội của ông ta bằng cách chĩa súng vào thái dương ông ta ư? Và em tâm trước hay sau khi tiết lộ rằng chúng ta cố tình gây tai nạn khiến người bị chết? Nếu thẩm phán ưu ái chúng ta, chúng ta có thể đề nghị ông ấy cho chúng ta chia sẻ buồng giam với Ortiz và tiếp tục cuộc chuyện của chúng ta...

      - luyên thuyên cái gì thế?

      - Rằng càng ra sức che đậy, em và chú em lại càng quên mất rằng bên ngoài quán bar tồi tàn kia còn có những luật lệ mà ta thể vi phạm. Chúng ta là đồng phạm trong vụ giết người, cũng có thể là hai vụ, nếu chúng ta đến bệnh viện kịp. thậm chí biết liệu mình có thể xuất bản bài báo nữa!

      - Đó là vụ tai nạn và chúng ta chẳng liên quan gì tới chuyện đó cả. Chúng ta ngang qua đó và chúng ta cứu hai người đàn ông này, đó là phiên bản duy nhất mà mang về.

      - Bần cùng bất đắc dĩ đó là phiên bản chúng ta khi tới chỗ cấp cứu. Trừ phi Ortiz tỉnh lại và tố cáo chúng ta trước khi chúng ta kịp có thời gian để chuồn .

      - bỏ qua ư?

      - Thế em muốn phải lý giải việc mình có được những thông tin này bằng cách nào đây? Bằng cách kể cho ban biên tập là mình tham gia vụ giết người có chủ đích ư? Chắc họ thích thế lắm, đó là vụ ấn tượng nhất của tờ báo. Em và chú em khiến phải chờ đợi và lo lắng cùng với đó là hàng tuần trời lao động nữa.

      Marisa dùng hết sức đạp chân phanh, mấy chiếc lốp nghiến kèn kẹt rồi chiếc xe dừng khựng ngang đường

      - được từ bỏ.

      - Em muốn làm gì khác đây? Ngồi bóc lịch trong nhà tù Argentina mười năm để công lý được thực thi, mọi công lý! Khởi động lại xe trước khi phát khùng thực để em lại đường này, thôi!

      Marisa nhanh chóng khởi động và chiếc xe liền lao . Ortiz rên rỉ ở phía sau.

      - Chỉ còn thiếu nước này nữa thôi, Andrew thở hắt ra. Đưa cho khẩu súng của em .

      - sử dụng nó?

      - , nhưng nếu em có thể ngừng những điều ngớ ngẩn điều đó giúp được nghỉ ngơi.

      - Trong hộp đựng găng ấy.

      Andrew cầm lấy khẩu súng rồi quay lại phía Ortiz, quyết tâm khử ông ta. Cánh tay từ từ hạ xuống.

      - thể làm vậy.

      - Mẹ kiếp, bắn , nếu còn do dự, chúng ta tiêu đời đó.

      - Trước hết phải suy nghĩ . Đằng nào cũng tố cáo chúng ta ngay khi ở trong tình trạng đủ để làm được chuyện đó.

      - Như thế ít ra cũng đủ cho thời gian kịp rời khỏi nơi đây, có thể bắt chuyến bay đầu tiên về New York.

      - Thế còn em sao? Ông ta biết em là ai mà.

      - Em ư, em tự xoay xở được.

      - , có chuyện đó đâu, cả hai chúng ta cùng dính vào chuyện điên rồ này chúng ta thoát ra cùng nhau.

      Andrew cất khẩu súng .

      - Có thể nghĩ ra cách... em tăng tốc lên và giữ im lặng , cần suy nghĩ.

      Trong khi chiếc break lao vào cổng khu vực cấp cứu, Ortiz lại lần nữa ngất . Marisa nhấn còi inh ỏi rồi gọi hai người khiêng cáng rời khỏi buồng thông áp mang thêm chiếc cáng nữa. giải thích với vị bác sĩ nội trú trực rằng họ qua nơi xảy ra tai nạn ở đoạn Gahan. Bạn kéo được hai người đàn ông ra khỏi xe, nhưng tài xế bị chết cháy. Vị bác sĩ nội trú cầu y tá báo cảnh sát và trước khi đưa hai người bị thương vào phòng phẫu thuật, ta ra lệnh cho Marisa đợi mình quay trở lại.

      Marisa trả lời ta rằng đỗ xe và quay lại ngay tức .

                  *


      - Kế hoạch của bây giờ là gì? vừa lên đường Marisa vừa hỏi.

      - Chờ đợi.

      - Xuất sắc.

      - Chúng ta muốn ông ta kể chuyện của chúng ta và ông ta cũng muốn chúng ta kể chuyện của ông ta. người bạn cảnh sát ngày nọ thổ lộ với rằng bắt tên tội phạm mà hiểu động cơ của mới chỉ hoàn thành nửa công việc. Nếu Ortiz tố cáo chúng ta, ông ta phải giải thích lý do tại sao chúng ta lại giăng cái bẫy này. Chúng ta liên kết với nhau bởi cùng bí mật. Ngay khi ông ta hồi phục, quay lại thăm và đề nghị ông ta giao kèo.

      - Thế thoát tội như vậy sao?

      - Chúng ta thấy ai là người quyết định sau rốt. Chú của em phải là người duy nhất thích các trò chơi đông người, cũng có năng khiếu chơi cờ đấy, chúng ta dựa vào đó để được lợi thế trước đối thủ của mình.

    5. CQH

      CQH ^^!

      Bài viết:
      192
      Được thích:
      41,961

      Chương 21
      Marisa thả Andrew xuống khách sạn tầm cuối buổi sáng.

      - Em đem trả ô tô cho Alberto, hẹn gặp sau.

      - Có đây là xe của Alberto?

      - Điều gì khiến hỏi như vậy?

      - Nếu có camera giám sát đặt trước khu cấp cứu khuyên ông ấy nên tống khứ cái xe này khai báo mất trộm xe ngay lập tức.

      - đừng quá lo, các bệnh viện tỉnh ở nước em đâu có đủ giàu để trang bị máy quay giám sát. Nhưng em chuyển lời nhắn của tới Alberto.

      Andrew bước ra khỏi xe rồi cúi xuống qua cửa xe:

      - Marisa, biết là em nghe theo lời khuyên của đâu, nhưng tạm thời đừng với chú của em là có cách khóa khẩu Ortiz nhé.

      - sợ điều gì chứ? Marisa hỏi.

      - Chỉ có chúng ta bị lộ diện, Alberto vẫn mình trong quán bar, tin , chỉ lần này thôi.

      - tin mà khi đó em lại xuống ghế sau chiếc break hả, đồ ngốc?

      Marisa bất thần nổ máy lao nhanh, Andrew đứng nhìn chiếc xe Peugeot khuất dần.

                  *


      Andrew tới quầy lễ tân lấy lại chìa khóa phòng, Giám đốc khách sạn lại chỗ bày tỏ lời xin lỗi và đảm bảo rằng còn cố tương tự nào tái diễn trong khách sạn này nữa. Khách sạn áp dụng nhiều biện pháp an ninh để chuyện này lặp lại. Để được thứ lỗi, ông ta thông báo với Andrew là cho người chuyển hành lý của lên phòng “hạng sang” nằm ở tầng cùng của tòa nhà.

      Phòng hạng sang của khách sạn phải là căn phòng kiểu lâu đài tráng lệ nhưng nó cũng có phòng khách với góc nhìn xuống phố đẹp hơn. Vòi nước trong phòng tắm còn rò rỉ và giường ngủ êm hơn nhiều.

      Andrew liếc qua chiếc va li của mình để kiểm tra xem có bị thiếu đồ gì . Trong lúc bới va li, nhận thấy ngăn va li phồng to hẳn lên.

      mở khóa thấy chiếc đầu máy hơi nước bằng kim loại, loại đầu máy thu từng ao ước muốn mua tại cửa hàng đồ cổ ở Brooklyn. mẩu giấy quấn quanh ống khói của đầu máy.

      Em nhớ , em , Valérie.

      Andrew nằm dài xuống giường, đặt chiếc đầu máy xuống chiếc gối bên cạnh và vừa ngắm nhìn nó vừa chìm vào giấc ngủ.

                  *


      Andrew tỉnh giấc vào tầm đầu giờ chiều khi có tiếng gõ cửa phòng; Alberto đợi mời vào phòng.

      - Tôi cứ tưởng ông bao giờ rời khỏi quán bar chứ? Andrew hỏi.

      - Chỉ vào những dịp quan trọng thôi, Alberto đáp lời. mặc áo khoác vào, tôi đưa ăn trưa.

      Lúc xuống phố, Andrew nhoẻn miệng cười khi nhìn thấy xe ô tô của Alberto, chiếc xe nhãn hiệu Nhật Bản chứ còn là chiếc Peugeot break.

      - Tôi nghe theo lời khuyên của , dù gì chiếc Peugeot đó cũng chạy hơn hai trăm nghìn ki lô mét rồi, đến lúc phải thay nó.

      - Tôi nghĩ ông đến tận đây chỉ để khoe xe mới với tôi chứ?

      - Ồ, xe này là xe mượn ấy mà… tôi đến là để xin lỗi .

      - ngày…

      - Tôi thành lấy làm tiếc về cái cách mà mọi việc diễn ra, tôi bao giờ mong muốn điều đó và càng bao giờ mong ai đó mất mạng.

      - Tôi cũng cảnh báo ông trước đó rồi đấy thôi.

      - Tôi biết, và chính vì thế mà giờ tôi càng cảm thấy tội lỗi. nên rời Argentina trước khi cảnh sát sờ tới . Tôi bảo Marisa về quê nghỉ trong lúc mọi việc rắc rối dần lên.

      - Thế ấy chấp nhận à?

      - , con bé muốn mất việc. Khi nào thực cần thiết, tôi viết thư cho dì con bé bảo bà ấy ra tay can thiệp. Marisa rất nghe lời bà ấy. Với lại khác, là người ngoại quốc, nếu phải trốn chạy khỏi đất nước này, chuyện còn phức tạp hơn. Để tránh rủi ro, tôi để chạy tới chạy lui như vậy đó.

      Alberto dừng xe trước cửa hiệu sách.

      - Tôi tưởng chúng ta ăn chứ?

      - Đúng vậy, có quán ăn trong hiệu sách này, đây là quán của người bạn tôi, chúng ta có thể yên tâm chuyện thoải mái.

      Hiệu sách rất ấn tượng, hành lang đầy giá sách dẫn tới khoảng sân trong có kê vài chiếc bàn xếp ngay ngắn. Trong gian được hàng trăm cuốn sách bao quanh, ông chủ hiệu sách phục vụ đồ ăn cho vài người khách quen của chốn này. Sau khi chào hỏi bạn mình, Alberto mời Andrew ngồi đối diện với ông.

      - Louisa và tôi chia tay nhau chỉ vì tôi là kẻ hèn nhát, Stilman ạ. Đó là lỗi của tôi nếu con trai tôi có bị… mất tích. Tôi từng là nhà hoạt động tích cực thời chế độ độc tài. Ờ , tôi cũng chẳng làm gì hùng cả, tôi tham gia xuất bản tờ báo của phe đối lập, tờ báo bí mật. Thời đó, chúng tôi có rất ít phương tiện, chỉ có lòng quyết tâm cùng chiếc máy in ronéo, thấy đấy, chẳng có gì to tát cả nhưng chúng tôi vẫn có cảm giác phản kháng theo cách riêng của mình. Rốt cuộc, phe quân cũng tóm được số người bên bọn tôi. Họ bắt giữ, tra tấn và rồi khiến những người đó mất tích. Những người rơi vào tay họ đều hề khai báo gì.

      - Trong số những người đó, ông có nhớ gì về người tên là Rafaël ? Andrew hỏi.

      Alberto nhìn Andrew chớp mắt hồi lâu trước khi trả lời câu hỏi của .

      - Cũng có thể, tôi cũng chẳng biết nữa, bốn mươi năm trôi qua rồi, chúng tôi đâu có quen nhau hết đâu?

      - Thế còn vợ ông ta, Isabel?

      - Tôi rồi, tôi còn nhớ nổi nữa. Alberto nhún vai đồng thời dằn giọng nhấn mạnh. Tôi làm mọi thứ có thể để quên tất cả. Con trai Manuel của tôi bị bắt cóc lâu sau những cuộc vây hãm tàn sát đồng đội của chúng tôi. Thằng bé chẳng liên quan gì tới tất cả những chuyện này. Manuel chỉ là sinh viên ngành cơ khí có hằn thù xích mích với ai bao giờ. Febres muốn tóm tôi thông qua con trai tôi. Dù sao đó cũng là điều Louisa vẫn nghĩ. Febres hẳn cho rẳng tôi nộp mạng để đổi lấy Manuel. Tôi làm điều đó.

      - Ngay cả khi để cứu con trai ông?

      - , tôi làm vậy để cứu những đồng đội khác. Tôi biết là mình thể chịu nổi bị tra tấn thêm lần nữa. Và rồi Febres bao giờ trả tự do cho Manuel. Chúng cũng thả bất cứ ai. Louisa bao giờ tha thứ cho tôi.

      - Thế bà ấy biết ông làm báo chứ?

      - Biết chứ, phần lớn các bài báo là bà ấy viết mà.

      Alberto im lặng giây lát. Ông mở ví, rút ra tấm hình ố vàng chụp thanh niên rồi đưa cho Andrew coi.

      - Louisa là người mẹ có cậu con trai bị đánh cắp. Trong mắt của bà ấy, cả thế giới này là thủ phạm. Cậu nhìn coi, Manuel là cậu bé xinh xắn làm sao. Nó gan dạ, cao thượng và rất hài hước. Thằng bé mẹ hơn tất cả. Tôi biết thằng bé khai gì… để bảo vệ mẹ. Nó biết quan điểm của mẹ mình. Tiếc là được nhìn thấy cảnh hai mẹ con bên nhau… Giữa tôi và thằng bé quan hệ cha con lại xa cách hơn, nhưng tôi thằng bé hơn mọi thứ thế giới này, dẫu rằng tôi chưa bao giờ biết cách biểu lộ tình cảm với nó. Tôi ao ước được gặp lại thằng bé, dù chỉ lần thôi. Tôi với nó là tôi tự hào về nó, nó khiến tôi hạnh phúc biết bao khi được làm cha và từ khi nó ra vắng mặt của nó nặng nề với tôi biết bao. Cuộc đời tôi chấm dứt vào cái ngày chúng bắt cóc nó. Louisa khóc hết nước mắt, tôi vẫn ngừng ứa lệ mỗi khi bắt gặp đứa tầm tuổi nó phố. Tôi từng theo sau những đứa hao hao giống Manuel với hy vọng nó quay lại gọi bố ơi. Nỗi đau có thể làm con người ta phát điên, Stilman ạ, bây giờ tôi mới hiểu ra cái điều mà ngày xưa tôi hiểu. Manuel bao giờ trở về nữa. Trong sân nhà tôi, tôi đào cái hố, tôi chôn dưới đó đồ đạc, vở học, bút chì, sách và cả tấm chăn mà thằng bé đắp trong đêm cuối cùng ở nhà. Chủ nhật nào cũng vậy, tôi lại tới tưởng niệm dưới gốc cây phượng tím. Tôi biết Louisa vẫn nấp sau tấm rèm cửa sổ nhìn tôi, tôi biết bà ấy cũng cầu nguyện cho thằng bé. Có lẽ việc chúng tôi được nhìn thấy xác của thằng bé lại tốt hơn.

      Andrew đặt tay lên tay Alberto. Ông ngẩng đầu và mỉm cười buồn bã với .

      - biết còn sống được đến sang năm nhưng được khi ấy tôi tròn tám mươi tuổi và tôi vẫn mong chờ cái chết giúp tôi tìm lại được con trai. Tôi vẫn nghĩ rằng mình sống lâu như vậy cũng có lẽ là hình phạt.

      - Tôi rất tiếc, Alberto.

      - Tôi cũng vậy. Do lỗi của tôi mà Ortiz dễ dàng thoát nạn. Khi nào hồi phục, quay lại với cuộc sống của như chưa có gì từng xảy ra. Tuy nhiên, chúng ta cũng gần đạt được mục đích.

      - Ông có thể cho tôi mượn xe của ông tới tối mai được ?

      - Đây là xe của người bạn nhưng tôi có thể cho mượn, thế muốn đâu?

      - Chúng ta lại điều đó sau.

      - chở tôi về quán bar rồi tôi để xe cho .

      - Giờ này tôi có thể tìm Marisa ở đâu?

      - Ở nhà con bé, tôi đoán vậy. Con bé ngủ ngày cày đêm, cuộc đời mới hay ho làm sao!

      Andrew chìa quyển sổ cùng cây bút cho Alberto.

      - Ông viết cho tôi địa chỉ của ấy nhưng đừng báo trước là tôi đến gặp ấy.

      Alberto nhìn Andrew, vẻ sững sờ.

      - Giờ đến lượt phải tin tưởng tôi.

                  *


      Andrew để Alberto xuống xe rồi theo chỉ dẫn của ông để tới nhà Marisa.

      trèo lên ba tầng gác của tòa nhà chung cư nằm đường Malabia trong khu phố Palermo Viejo. Marisa giật thót mình khi mở cửa trong tư thế bán khỏa thân với chiếc khăn tắm quấn quanh ngực.

      - Trời đất, làm cái gì ở đây thế, em chờ bạn.

      - Gọi cho ấy để hủy hẹn rồi mặc quần áo vào hoặc ngược lại nếu em thích vậy.

      - phải vì chúng ta ngủ với nhau lần mà được ra lệnh cho em như vậy đâu nhé.

      - Hai điều này chẳng liên quan gì với nhau cả, Andrew .

      - Em hủy hẹn với bạn và chúng ta có thể ở lại đây nếu muốn, Marisa vừa vừa cởi chiếc khăn tắm.

      Marisa quả là gợi cảm hơn nhiều so với hình ảnh mà Andrew còn lưu giữ trong tâm trí. khuỵu gối xuống nhặt chiếc khăn lên rồi quấn nó quanh hông Marisa.

      - Đôi khi lần thứ hai lại dở hơn lần đầu, em mặc quần áo vào , chúng ta có nhiều việc quan trọng khác phải làm.

      Marisa quay lưng bước rồi đóng sầm cửa nhà tắm.

      Andrew xem xét căn hộ của Marisa. Phòng khách vừa là phòng sinh hoạt vừa là phòng ngủ. Chiếc giường cũ nhưng độ trắng và mới mẻ của chăn mền như mời gọi người ta tới chui vào đó. Sát tường, hàng chồng sách tựa vào nhau. Những chiếc đệm ngồi đủ màu sắc xếp quanh chiếc bàn thấp đặt giữa phòng. tường, giữa hai cánh cửa sổ để lọt qua thứ ánh sáng tuyệt đẹp, những giá sách oằn mình dưới sức nặng của đống sách nữa. Mọi thứ nằm ngổn ngang mà lại cuốn hút, căn hộ có vẻ giống với chủ của nó.

      Marisa bước ra khỏi phòng tắm, mặc chiếc quần jean rách đầu gối và chiếc áo tee-shirt che bầu ngực được bao nhiêu.

      - Em có thể biết chúng ta đâu ? vừa hỏi vừa tìm chìa khóa.

      - thăm dì em.

      Marisa đứng khựng lại.

      - Sao sớm hơn! Marisa vừa rên rỉ vừa quay ngược trở lại. lôi từ chồng quần áo chất đống dưới sàn nhà ra chiếc quần dài vải nhung kẻ đen kèm chiếc áo hai dây, cởi quần bò và chiếc áo tee-shirt rồi thay đồ trước mặt Andrew.

                  *


      Andrew cầm lái, Marisa châm thuốc rồi mở cửa sổ xe ô tô.

      - muốn gì từ Louisa?

      - muốn đặt vài câu hỏi với bà ấy để kết thúc cuộc điều tra của mình và cũng để cầu bà ấy đừng coi là kẻ đần nữa.

      - Sao lại vậy?

      - Bởi vì Alberto và bà ấy vẫn thường xuyên gặp nhau, hoàn toàn ngược lại những điều họ .

      - Em rất là ngạc nhiên đấy, mà trước tiên, chuyện đó ảnh hưởng gì tới ?

      - Sau này em hiểu.

                  *


      Louisa có vẻ bất ngờ khi mở cửa cho Andrew và Marisa. Bà mời cả hai vào phòng khách.

      - Ta có thể giúp gì cho hai đứa đây? Louisa hỏi.

      - cho tôi biết những điều bà biết về thiếu ta Ortiz.

      - Tôi biết gì nhiều về , tôi với rồi đó thôi. Cho tới khi tôi gặp , Ortiz chỉ là bức hình giữa bao bức hình khác trong cuốn album của tôi.

      - Bà cho phép tôi xem lại cuốn album của bà chứ? phải là cuốn giữ ảnh những kẻ tra tấn mà là ảnh những người bị tra tấn.

      - Tất nhiên rồi, Louisa đáp lời rồi đứng dậy.

      Bà mở ngăn kéo tủ rồi đặt cuốn album trước mặt Andrew, lật giở từng trang cho tới trang cuối cùng. Khi đóng cuốn album lại, Andrew nhìn Louisa chằm chằm.

      - Isabel và Rafaël Cruz, bà có tấm hình nào của hai người này sao?

      - Tôi rất tiếc, nhưng những cái tên này gợi lên điều gì với tôi cả. Tôi có đủ hình của tất cả ba mươi nghìn người mất tích, tôi chỉ có hình của năm trăm người có con cái bị bắt cóc mà thôi.

      - Con họ tên là María Luz, bé mới lên hai khi người mẹ bị sát hại, bà biết câu chuyện của bé này sao?

      - Tông giọng của gây ấn tượng với tôi lắm, còn thái độ láo lếu của lại càng , Stilman ạ. biết quá ít về công việc mà chúng tôi làm. Từ khi chúng tôi đấu tranh để được sáng tỏ, chúng tôi mới chỉ tìm lại được danh tính thực của mười phần trăm số trẻ bị bắt cóc. Chúng tôi còn cả con đường dài cần phải và xét tuổi tác của tôi nay chắc chắn tôi hết được con đường này. Thế số phận của bé này có liên quan gì tới vậy?

      - Thiếu tá Ortiz nhận nuôi bé, bà thấy đây là trùng hợp kỳ lạ sao?

      - về trùng hợp nào vậy?

      - Trong tập hồ sơ giúp chúng tôi theo dấu Ortiz có bức hình của María Luz nhưng lại chú thích nào về mối liên hệ giữa hai người này.

      - Dường như người thông tin cho mong muốn chỉ đường cho .

      - Người đó là đàn ông hay đàn bà?

      - Dì mệt rồi Marisa, đến lúc cháu tiễn bạn cháu về, đến giờ ngủ trưa của dì rồi.

      Marisa ra hiệu cho Andrew đứng dậy. Khi hôn tạm biệt người dì, Marisa thầm vào tai bà để xin lỗi làm phiền bà và Louisa cũng thầm với cháu:

      - cần phải thế, kể ra ta cũng đẹp mã, cuộc đời ngắn lắm cháu ạ.

      Marisa bước xuống cầu thang, Andrew bảo đợi ở ngoài sân lát, để quên chiếc bút bàn ăn.

      Louisa cau mày khi thấy Andrew quay lại.

      - quên cái gì phải Stilman?

      - Bà cứ gọi tôi là Andrew, như thế làm tôi cảm thấy thoải mái hơn. Điều cuối cùng mà tôi muốn trước khi để bà nghỉ ngơi là tôi thấy mừng khi Alberto và bà hàn gắn lại.

      - cái gì vậy?

      - Lúc nãy, chính bà về tuổi tác, tôi tự nhủ rằng bà hết cái tuổi lén lút gặp gỡ chồng cũ của mình rồi chứ, bà thấy vậy sao?

      Louisa nín thinh.

      - Chiếc áo khoác treo giá chỗ cửa ra vào, đó là cái áo mà Alberto vẫn mặc khi tôi gặp ông ấy trong quán bar. Chúc bà ngủ ngon, Louisa… Bà cho phép tôi gọi bà là Louisa chứ?

                  *


      - có ý đồ gì thế? Marisa hỏi khi Andrew trở ra ngoài sân gặp .

      - với em trước khi đó thôi nhưng em để tâm tới điều . Tối nay em có làm ?

      - Có.

      - Báo với ông chủ của em là em đến được, em chỉ cần là em ốm, cần phải dối xa gần gì cả.

      - Thế sao em lại làm chứ?

      - Hôm qua hứa với em là chúng ta cùng nhau hoàn tất cái mà chúng ta bắt đầu, và đó chính xác là điều chúng ta sắp làm. Em có thể chỉ cho biết trạm xăng ở đâu, cần đổ đầy bình xăng.

      - đưa em đâu?

      - Tới San Andrés de Giles.

                  *


      Họ tới đầu ngôi làng sau hai giờ đường. Andrew dừng xe sát vỉa hè để hỏi người qua đường xem đồn cảnh sát ở đâu.

      Người đó chỉ đường cho và chiếc xe lại khởi động.

      - Chúng ta làm gì ở đồn cảnh sát?

      - Em phải làm gì cả, em ở lại trong xe và đợi thôi.

      Andrew vào đồn cảnh sát và cầu được chuyện với sĩ quan trực. Viên sĩ quan duy nhất, tay lính chạy giấy tờ trả lời, giờ về nhà. Andrew vớ lấy tập ghi chú bàn rồi nguệch ngoạc số di động cũng như địa chỉ khách sạn của .

      - Tôi qua trường vụ tai nạn khiến người chết tối qua ở gần Gahan. Tôi đưa hai người bị thương tới bệnh viện. Tôi có gì nhiều để kể nhưng nếu các cần bản khai đúng chuẩn đây là địa chỉ để các đến tìm tôi.

      - Tôi nghe về vụ tai nạn này, cảnh sát vừa rời khỏi ghế vừa trả lời. Chúng tôi chuyện với bác sĩ và ông ấy rằng để lại thông tin liên lạc nào.

      - Tôi đợi khá lâu trong bãi đậu xe, tôi có cuộc hẹn quan trọng ở Buenos Aires, tôi tự nhủ là quay lại ngay khi có thể và thấy đó, đó là điều tôi làm.

      cảnh sát đề nghị ghi lại những gì Andrew chứng kiến. ta ngồi xuống trước chiếc máy đánh chữ và gõ lại bản tường trình của Andrew. Chín dòng, hơn từ nào. Andrew ký vào bản tường trình và khiêm tốn đón nhận những lời khen ngợi của cảnh sát về nghĩa cử công dân của cứu sống hai mạng người rồi trở ra xe ô tô.

      - Em có thể biết là làm gì trong suốt từng đó thời gian tại đồn cảnh sát được ? Marisa hỏi.

      - loại được quân bàn cờ với Ortiz, giải thích cho em hiểu khi nào có thể, còn bây giờ chúng ta tới bệnh viện.

                  *


      - Những người bị thương sao rồi? Andrew hỏi, chúng tôi đến hỏi thăm tình hình họ thế nào trước khi trở lại Buenos Aires.

      - quay lại rồi à? cậu bác sĩ nội trú thốt lên khi nhận ra Andrew trong sảnh. Chúng tôi tìm suốt tối qua, tôi nghĩ rằng có điều gì đó phải tự trách bản thân và vội lẩn .

      - Tôi chờ được mà cho tôi bất cứ thông tin nào về giờ giấc ra khỏi phòng phẫu thuật.

      - Làm sao mà tôi có thể biết điều đó được cơ chứ?

      - Đó đúng là điều tôi tự nhủ, biết thế tôi qua đêm trong bãi đậu xe. Tôi vừa từ đồn cảnh sát về.

      - Thế chuyện với ai?

      - Với trung sĩ Guartez nào đó, người có vẻ cởi mở với giọng trầm trầm cùng cặp kính rất to.

      Bác sĩ gật gù, miêu tả của Andrew tương đối giống với dung mạo của trong ba cảnh sát tại ngôi làng đó.

      - Họ quả là gặp may, quá là may vì ngang qua lúc đó. Người bị thương nặng nhất được chuyển lên thủ đô sáng sớm nay. Đây chỉ là bệnh viện , chúng tôi được trang bị đầy đủ để có thể tiếp nhận những ca nghiêm trọng như vậy. Còn ông Ortega chỉ bị vết thương rất sâu ở đùi và bị rách cơ. Chúng tôi phẫu thuật cho ông ta, giờ ông ta nằm dưỡng bệnh trong góc tạm thời, tại còn phòng bệnh nào trống, ngày mai có thể, nếu tôi chuyển ông ấy sang bệnh viện khác. có muốn tới thăm ông ấy ?

      - Tôi muốn làm ông ấy mệt mỏi vô ích, Andrew đáp lời.

      - Chắc chắn là ông ấy rất vui nếu có thể lời cảm ơn người cứu mình. Tôi phải thăm các bệnh nhân khác, tôi để tự tới phòng ông Ortega nhé, nó nằm ngay đầu hành lang này thôi. Nhưng nhớ đừng ở lại quá lâu vì ông ấy cần lấy lại sức.

      Cậu bác sĩ chào tạm biệt Andrew rồi khỏi, cậu ta bảo y tá trực ban rằng được phép vào thăm bệnh nhân.

      Andrew kéo tấm rèm che giường Ortega nằm với giường bên cạnh để trống.

      Ortega ngủ. Marisa lay lay vai .

      - Thế lại là à? Ortiz khi mở mắt.

      - Ông cảm thấy trong người thế nào? Andrew hỏi.

      - Tốt hơn từ lúc người ta cho tôi thuốc giảm đau. Thế còn muốn gì ở tôi nữa?

      - Cho ông cơ may thứ hai.

      - tới cơ may nào vậy?

      - Nếu tôi lầm ông được chính quyền xác nhận mang họ Ortega, đúng ?

      - Đó là họ in giấy tờ tùy thân của tôi, viên cựu thiếu tá cụp mắt xuống trả lời.

      - Ông có thể rời khỏi đây với cái tên này và trở về nhà.

      - Cho đến khi bài báo của được đăng?

      - Tôi có chuyện cần thương lượng với ông.

      - Tôi nghe đây.

      - Ông hãy trả lời các câu hỏi của tôi, cách thành thực, tôi nguyện kể câu chuyện của thiếu tá Ortiz mà bao giờ đả động tới danh tính mới của ông.

      - Điều gì đảm bảo cho tôi rằng giữ lời hứa?

      - Tôi chỉ có thể hứa danh dự vậy thôi.

      Ortiz quan sát Andrew hồi lâu.

      - Thế ta, ta có biết giữ miệng ?

      - Cũng hệt như ấy biết cầm súng chĩa vào thái dương ông tối qua vậy. Tôi nghĩ là ấy mong muốn tôi phản bội ông, chẳng phải tương lai của ấy phụ thuộc vào việc đó hay sao?

      Ortiz im lặng, khuôn mặt cau lại. Mắt nhìn chằm chằm túi dịch truyền chảy vào các mạch máu.

      - Thôi được, hỏi , Ortiz thở dài.

      - Ông nhận nuôi María Luz trong hoàn cảnh nào?

      Câu hỏi này trúng hồng tâm. Ortiz quay sang phía Andrew và nhìn chằm chằm rời.

      - Vào thời điểm tôi giải ngũ, Febres muốn chắc chắn là tôi giữ im lặng. đưa tôi tới trại trẻ mồ côi bất hợp pháp. Hầu hết trẻ em ở đó toàn là trẻ vài tuần tuổi. ra lệnh cho tôi phải chọn đứa trong số đó, giải thích với tôi rằng đó là cách tốt nhất để tôi tìm lại ý nghĩa của thực tại. với tôi rằng chính tôi cũng góp phần cứu vớt linh hồn vô tội này khi tôi lái chiếc máy bay mà từ đó bố mẹ đứa bé bị ném xuống biển.

      - Có vậy ?

      - Tôi biết, cũng chẳng biết gì hơn Febres, tôi phải phi công duy nhất thực những chuyến bay kiểu này, nghi ngờ chuyện đó ư. Nhưng, hoàn toàn có thể đấy. Hồi ấy, tôi vừa mới cưới vợ, María Luz là đứa lớn tuổi nhất trong số trẻ em tại trại. Tôi tự nhủ là nếu tôi chọn bé hai tuổi việc nuôi dưỡng bớt khó khăn.

      - Nhưng đó là đứa trẻ bị đánh cắp, Marisa phản ứng, thế vợ ông cũng chấp nhận tham gia vào việc làm kinh khủng này à?

      - Vợ tôi chẳng hề hay biết gì cả. Cho tới tận lúc chết, bà ấy vẫn còn tin vào những điều tôi kể, rằng bố mẹ con bé là những binh sĩ bị quân du kích Montonero sát hại và rằng chúng tôi phải có nghĩa vụ cứu giúp con bé. Febres đưa cho chúng tôi giấy khai sinh của con bé được lập theo họ chúng tôi. Tôi giải thích với vợ tôi là dễ dàng hơn cho María Luz khi được sống thanh thản trọn vẹn nếu nó biết gì về thảm cảnh mà con bé là nạn nhân. Chúng tôi thương con bé như chính con ruột của mình. María Luz được mười hai tuổi vợ tôi qua đời và con bé khóc thương ấy như khóc thương mẹ đẻ. Tôi mình nuôi dạy con bé, tôi làm việc như điên để trả tiền học văn, học ngoại ngữ, học đại học của con bé. Tất cả những gì con bé muốn, tôi đều đáp ứng hết.

      - Tôi thể nghe tiếp được nữa, Marisa đứng dậy phản đối.

      Andrew nhìn Marisa với ánh mắt tức tối. Marisa chịu ngồi lại nhưng giạng chân hai bên ghế và quay lưng lại với Ortiz.

      - María Luz vẫn sống ở Dumesnil chứ? Andrew hỏi.

      - , con bé bỏ từ lâu rồi. Các Bà mẹ quảng trường tháng Năm tìm ra con bé khi nó hai mươi tuổi. María Luz thường nghỉ cuối tuần ở Buenos Aires, con bé học khoa chính trị. Nó bao giờ bỏ lỡ cơ hội được biểu tình, con bé nung nấu hoạt động vì cái mà nó gọi là tiến bộ xã hội. Chính những thành viên thuộc các đoàn đội mà nó gặp ghế đại học gieo vào đầu nó những ý nghĩ đó. Điều này hoàn toàn ngược lại với những gì chúng tôi vẫn giáo dục nó.

      - Nhưng bắt nhịp với những lý tưởng của bố mẹ đẻ ấy, Marisa cắt ngang. Máu của ông chảy trong mạch máu của ấy, táo rụng xa cây bao giờ.

      - Thế nghĩ rằng tư tưởng tả khuynh là cha truyền con nối? Cũng có thể, có nhiều tật khác cũng được di truyền lại như thế, Ortiz chế nhạo.

      - Tôi cái tư tưởng tả khuynh mà ông với vẻ khinh bỉ như thế là sao, nhưng lòng nhân đạo có thể lắm chứ.

      Ortiz quay sang nhìn Andrew.

      - Nếu ta còn chen ngang lần nữa tôi còn lời nào để kể với nữa đâu.

      Lần này Marisa vừa xa khỏi giường vừa dứ ngón tay thối về phía thiếu tá Ortiz.

      - Các Bà mẹ quảng trường tháng Năm phát ra con bé giữa trong số nhiều cuộc biểu tình mà María Luz tham gia. Các bà ấy cũng phải mất nhiều tháng quan sát trước khi tiếp cận con bé. Khi biết được tình, con tôi đòi đổi họ. Nó khỏi nhà ngay ngày hôm đó, lời từ biệt, lần nhìn lại.

      - Ông có biết ấy đâu ?

      - Tôi hoàn toàn biết chút gì.

      - Thế ông tìm cách tìm lại ấy sao?

      - Cứ khi nào có biểu tình là tôi lại Buenos Aires. Tôi theo đoàn người biểu tình với hy vọng nhận ra con bé. Rồi tôi cũng gặp được con bé lần. Tôi tiếp cận con bé, van xin nó cho tôi vài phút để chuyện cùng nhau. Con bé từ chối. Trong ánh mắt của nó, tôi chỉ thấy hận thù. Tôi sợ con bé tố cáo tôi nhưng nó làm vậy. Sau khi tốt nghiệp, con bé ra nước ngoài, tôi còn biết tin gì về nó nữa. có thể viết bài báo của được rồi đó, Stilman, tôi hy vọng giữ lời hứa. Tôi cầu làm như vậy phải là cho tôi mà cho đứa con thứ hai của tôi. Con bé chỉ biết điều rằng chị nó là con nuôi.

      Andrew cất bút và cuốn sổ tay . đứng dậy ra mà chào từ biệt Ortiz.

      Marisa đợi sau tấm rèm, nhìn gương mặt là đủ biết rất bực mình.

                  *


      - Đừng với em là tên đểu cáng ấy thoát khỏi chuyện này như vậy nhé! Marisa hét lên khi vào xe ô tô.

      - chỉ lời thôi.

      - cũng chẳng tốt đẹp hơn đâu!

      Andrew nhìn , khẽ nhếch mép cười. khởi động xe và chiếc xe lao .

      - Em rất quyến rũ khi nổi giận, vừa Andrew vừa đặt tay lên đầu gối .

      - Đừng chạm vào tôi, Marisa vừa đáp vừa đẩy tay Andrew ra.

      - cam kết là nêu danh tính trong bài báo, chẳng hứa gì khác nữa, có vậy thôi.

      - kể lể gì thế?

      - Chẳng có điều gì ngăn cản đăng tải tấm hình để minh họa cho bài báo cả. Nếu làm vậy, ai đó nhận ra Ortega đằng sau khuôn mặt Ortiz, chẳng làm gì quá đáng... Chỉ cho làm sao có thể đến nhà người thợ ảnh mà em đưa cuộn phim chụp và hy vọng là cuốn phim bị lộ sáng, muốn tránh phải quay lại nơi này vào ngày mai.

      Marisa nhìn Andrew và rút lại bàn tay đặt đùi Andrew.

                  *


      Thời tiết ngày hôm đó đẹp, vài đám mây bảng lảng bầu trời Buenos Aires. Andrew tận dụng khoảng thời gian cuối cùng mình còn lưu lại Argentina để tham quan thành phố. Marisa dẫn thăm nghĩa trang Recoleta và rất ngạc nhiên khi thấy các lăng mộ có quan tài được đặt tầng cao ngang tầm mắt nhìn của mỗi người thay vì chôn dưới đất.

      - Ở đây là như vậy, Marisa . Người ta tiêu tốn cả gia tài để xây ngôi nhà cuối cùng của đời mình. mái nhà, bốn bức tường, cửa ra vào bằng sắt để ánh sáng len vào mộ và ngày nào đó, cả gia tộc cùng quy tụ an nghỉ mãi mãi ở nơi này. nhớ nhé, Marisa thêm, sau này chết , em muốn tiếp tục được nhìn thấy mặt trời mọc hơn là mục rữa nơi đáy mồ. Và hơn nữa, em thấy như thế này khá là vui khi mọi người tới thăm mộ.

      - Em sai, Andrew , bỗng dưng chìm vào dòng suy nghĩ ủ rũ mà gần như quên được từ khi tới Argentina.

      - Chúng ta còn thời gian, chúng ta còn trẻ.

      - Ừ... Em còn thời gian mà, Andrew thở dài. Chúng ta có thể được rồi chứ? Chỉ cho chỗ nào náo động hơn chút coi.

      - Em đưa về khu phố nhà em, Marisa , nơi đó tràn đầy sức sống, màu sắc, người ta chơi nhạc ở mỗi góc phố, em thể sống ở nơi nào khác ngoài nơi này.

      - Thế tin rằng cuối cùng mình cũng tìm được điểm chung giữa hai chúng ta.

      Marisa mời Andrew ăn tối tại nhà hàng ở Palermo. Ông chủ quán có vẻ biết rất Marisa và, trong khi có rất nhiều khách chờ bàn trống, họ được xếp chỗ ngồi đầu tiên.

      Buổi tối của họ tiếp tục trong quán bar nhạc jazz. Marisa đưa đẩy hông sàn. thử lôi kéo Andrew vài lần nhưng chỉ thích ngồi yên vị ghế, chống khuỷu tay lên quầy bar mà nhìn Marisa nhảy nhót.

      Vào khoảng giờ sáng, họ dạo các con ngõ còn rất náo nhiệt.

      - Khi nào đăng bài?

      - Vài tuần nữa.

      - Khi nào bài đăng, Alberto nhận ra Ortega sau tấm ảnh chụp Ortiz. Chú ấy kiện cho coi. Chú ấy quyết định làm thế, em nghĩ là chú ấy hy vọng điều đó từ rất lâu rồi.

      - Cần có nhiều nhân chứng khác nữa để khiến bẽ mặt.

      - đừng lo, Louisa và mạng lưới của dì em làm những gì cần thiết, Ortiz phải ra hầu tòa vì những tội ác mà tham gia.

      - Dì em quả là phụ nữ kỳ lạ.

      - biết , đúng về chuyện dì ấy và Alberto. Mỗi tuần lần, họ lại gặp nhau băng ghế tại quảng trường tháng Năm. Họ ngồi cạnh nhau trong vòng giờ đồng hồ, thường là trao đổi với nhau vài từ rồi đường ai nấy .

      - Sạo họ lại làm vậy?

      - Vì họ cần gặp lại nhau, cần tiếp tục được làm cha mẹ của cậu con trai mà họ muốn khắc ghi mãi mãi trong tâm trí. Họ có nấm mồ nào để đến thăm viếng.

      - Em có nghĩ là ngày nào đó họ về với nhau ?

      - , những gì họ trải qua quá là nặng nề.

      Marisa im lặng giây lát trước khi tiếp:

      - Louisa rất quý , biết .

      - hề nhận thấy điều đó đấy.

      - Em có đấy. Dì ấy thấy quyến rũ, mà dì ấy lại là phụ nữ rất có gu.

      - coi đó là lời khen, Andrew mỉm cười đáp lời.

      - Em để món quà trong hành lý của .

      - Đó là cái gì vậy?

      - hãy mở nó khi nào tới New York. Đừng mở nó trước, hứa với em , đó là điều bất ngờ.

      - hứa.

      - Em sống cách đây có hai bước thôi, Marisa . Nào, hãy theo em.

      Andrew đưa Marisa về tận cửa tòa nhà ở, dừng chân bên thềm cửa.

      - muốn lên sao?

      - , muốn lên.

      - còn thích em nữa chứ gì?

      - Vẫn chứ, đúng ra là còn hơi quá thích. Lúc trong xe lại khác, chúng ta suy tính gì. Khi đó chúng ta đối diện với hiểm nguy, tự nhủ là cuộc sống quá ngắn ngủi và rằng cần phải tranh thủ từng thời khắc tại. , thực ra chẳng tự nhủ tất cả những điều ấy, quá muốn em và...

      - Thế bây giờ thấy cuộc sống quá dài và cảm thấy tội lỗi khi phản bội vợ chưa cưới của ?

      - biết cuộc sống có dài , Marisa à, nhưng đúng là cảm thấy có lỗi.

      - là típ đàn ông khá hơn những gì em vẫn nghĩ đấy, Andrew Stilman ạ. Hãy tìm lại ấy, còn về những chuyện xảy ra ở trong xe chẳng đáng gì hết. Em , em, đó đơn thuần chỉ là tình dục, đáng nhớ, nhưng chỉ thế thôi.

      Andrew cúi xuống rồi hôn lên má .

      - Làm những điều như vậy chỉ khiến già mà thôi, Marisa . Thôi, , trước khi em cưỡng hiếp ngay vỉa hè bây giờ. Em có thể hỏi câu cuối cùng ? Khi em đến lấy mấy cuốn sổ tay của ở khách sạn, bìa của quyển có ghi “Nếu như được làm lại”, điều đó có nghĩa là gì?

      - Đó là câu chuyện dài... tạm biệt em, Marisa.

      - Vĩnh biệt, Andrew Stilman, em nghĩ là chúng ta còn gặp lại nhau. Chúc có cuộc sống tươi đẹp, em giữ mãi kỷ niệm đẹp về .

      Andrew khỏi mà ngoái đầu nhìn lại. Tới ngã tư, lên chiếc taxi.

      Marisa chạy lên cầu thang. Lúc bước vào phòng, để mặc nước mắt tuôn rơi, những giọt nước mắt mà kìm giữ vào những phút cuối bên Andrew.

                  Chương 22


      Máy bay hạ cánh xuống sân bay JFK vào cuối buổi chiều. Ngay sau khi máy bay cất cánh, Andrew ngủ thiếp và tỉnh dậy đúng lúc bánh xe máy bay chạm đất.

      qua khu vực hải quan và ngạc nhiên khi nhìn thấy Valérie đợi sau cánh cửa trượt. ôm siết lấy trong vòng tay và rằng nhớ xiết bao.

      - Em suýt cáu với Simon vì ấy muốn đón .

      - rất vui vì em thắng, Andrew vừa hôn vừa trả lời.

      - thể cập nhật thông tin cho em nhiều được.

      - làm việc cả ngày lẫn đêm, mọi chuyện dễ dàng gì.

      - Thế hoàn tất cuộc điều tra chứ?

      - Ừ, Andrew trả lời.

      - Vậy cũng đáng công em buồn bã suốt thời gian qua.

      - Em buồn rầu vậy sao?

      - Em cũng buồn bã tới mức vậy, chưa bao giờ em lại làm việc nhiều đến thế trong khi vắng. Buổi tối, khi trở về nhà em leo ngay lên giường, em thậm chí còn đủ sức để ăn tối nữa. Nhưng em nhớ lắm lắm.

      - Vậy về là đúng lúc rồi, cũng nhớ em, Andrew vừa trả lời vừa kéo Valérie về phía dãy taxi xếp hàng chờ khách.

                  *


      Ai đó bấm chuông cửa liên hồi. Andrew nhảy khỏi giường, khoác tạm áo sơ mi rồi bước ra phòng khách.

      - Buenos Aires thế nào? Simon hỏi.

      - Đừng to như vậy, Valérie còn ngủ.

      - ấy có cậu cho riêng mình suốt cả cuối tuần rồi, tớ được cuộc gọi nào.

      - Bọn tớ gặp nhau mười hôm rồi, cậu cho phép bọn tớ...

      - Được rồi, được rồi, phải kể lể đâu, mặc quần vào , tớ đưa cậu ăn sáng.

      - Dù gì cũng phải chào buổi sáng cậu chứ nhỉ.

      Andrew mặc vội quần áo vào và viết vài chữ cho Valérie rồi dính lên cửa tủ lạnh. xuống dưới nhà gặp Simon.

      - Lẽ ra hôm qua cậu cũng nên gọi cho tớ tiếng chứ. Chuyến thế nào?

      - Khá là căng!

      Họ vào quán cà phê ở góc phố và ngồi vào chiếc bàn trong góc mà Simon vẫn thích.

      - Ở đó mọi thứ diễn ra như những gì cậu mong muốn chứ?

      - Về phần bài viết của tớ có, còn những cái khác chúng ta nên gạt bỏ phương án ở Argentina.

      - Làm sao cậu có thể chắc chắn về điều đó?

      - Ortiz mảy may nghi ngờ giây nào về cái trò mà tớ chơi . Sau này, tớ giải thích cho cậu tất cả, nhưng bây giờ mình phải tìm kiếm ở nơi khác, Simon ạ.

      - Giờ chúng ta chỉ còn vợ Capetta, gã đồng nghiệp Olson của cậu và...

      - Valérie à?

      - Chính cậu ra điều đó nhé. Nhưng cần thêm người nữa vào danh sách. Trong khi cậu tung tăng ở châu Mỹ Latinh, tớ có nhận được nhiều cuộc gọi của bạn cậu, ông thanh tra đó.

      - Có chuyện gì thế?

      - Cậu sắp ngã khỏi ghế rồi đấy, nhưng cũng kinh hoàng nếu điều đó có , có vẻ Olson đúng về chuyện kẻ giết người hàng loạt.

      - Cậu nghiêm túc chứ?

      - Tớ mấy nghiêm túc... nhưng cảnh sát New York bắt đầu tin vào câu chuyện này rồi. trùng hợp về vũ khí sử dụng, cách hành án và nhất là chuyện ăn cắp phải động cơ chính của vụ tấn công tay thợ kim hoàn mà chúng ta từng đến gặp ở Lenox.

      - Đấy đâu phải là chuyện gã đó .

      - Gã cố tình lừa hãng bảo hiểm của mình. Khi tỉnh lại trong bệnh viện, gã kể là gặp khách hàng. thực tế, chỉ là gã về nhà theo lối tắt qua công viên. thanh tra của hãng bảo hiểm vạch mặt gã trong phút chốc, chưa bằng thời gian gã kể câu chuyện đó. Chẳng có vị khách hàng nào cả và gã ngớ ngẩn này khai báo mất hai chiếc vòng cổ vốn nằm trong danh mục đồ bị đánh cắp từ vụ trộm lần trước. Vụ tấn công mà gã là nạn nhân này hiển nhiên chẳng gây tổn thất gì cho gã cả.

      - Tớ thể tin là Olson giải quyết được vấn đề nan giải đến cỡ đó.

      - Đảm bảo với tớ là giữa các cậu ganh đua gì chứ?

      Andrew đưa mắt ngó lơ chỗ khác.

      - , , tất nhiên là ...

      - Quay trở lại với vụ việc của chúng ta, cảnh sát tiến hành điều tra, rất khó để tới kể cho họ là có thể đầu tháng Bảy tới có nạn nhân thứ tư nằm trong danh sách của kẻ giết người hàng loạt này, phải ?

      - Nếu quả đúng kẻ điên đó giết tớ đời tớ coi như xong, Andrew suy ngẫm.

      - Cậu vẫn luôn trầm trọng hóa mọi thứ...

      - Khi cậu “mọi thứ” tức là cậu cả về cái chết của tớ đúng ? Tớ xin lỗi nếu có chút trầm trọng hóa vấn đề, cậu đúng, đầu óc tớ ở đâu đâu ấy...

      - Ý tớ phải thế, mà chẳng có gì chứng minh là trường hợp của cậu có liên quan tới vụ việc này. Chúng ta còn bốn tuần nữa cơ mà.

      - Cũng có thể...

      - Có thể cái gì?

      - Ở Argentina, có chuyện gì diễn ra y hệt như lần trước cả.

      - Cậu kinh qua những trải nghiệm chưa từng có à?

      - Trình tự mọi việc khác hẳn và đúng là có số tình tiết mới.

      - Nhỡ đâu cậu quên những tình tiết đó rồi sao?

      - Về số điểm tớ tin.

      - Cậu giấu tớ điều gì à?

      - Tớ ngủ với nhân viên quầy bar. Trước kia, chuyện này xảy ra.

      - Biết ngay mà, lẽ ra tớ phải tới đó mới đúng, Simon vừa hét toáng lên vừa đấm cú xuống bàn.

      - Để giúp tớ tránh làm điều dại dột à?

      - , cậu cứ làm gì cậu thích, dù sao nếu tớ có ở đó có lẽ tớ ngủ với ấy. Đừng là cậu cảm thấy tội lỗi đó chứ?

      - Hiển nhiên là tớ cảm thấy tội lỗi lắm.

      - Cậu đúng là kiểu người hiếm có khó tìm, Andrew ạ. Cậu tin chắc có kẻ nào đó sát hại cậu trong tháng nữa, và giờ cậu cảm thấy tội lỗi? Cái gì đến đến. Nhất là cậu đừng gì với Valérie cả, cậu nên tập trung vào những ngày sắp tới, làm ơn . Bây giờ chúng ta chuyển chủ đề, Simon thêm khi nhìn qua cửa kính.

      Valérie bước vào quán cà phê.

      - Em biết ngay là tìm thấy hai người ở đây mà, Valérie vừa vừa ngồi xuống cạnh Andrew. Mặt mũi các sao vậy, hai lại cãi nhau à?

      Simon đứng dậy và hôn chào Valérie.

      - Bọn có cãi nhau bao giờ đâu. nhường chỗ lại cho cặp tình nhân nhé, có khách hàng chờ. Andrew, đến gặp tớ ở ga ra khi cậu có thể nhé, chúng ta kết thúc cuộc thảo luận này.

      Valérie đợi cho Simon hẳn rồi ngồi vào chỗ của Simon.

      - Đôi khi em có cảm tưởng là Simon ghen với em, Valérie đùa với Andrew.

      - Cũng có thể, Simon là người hơi có tính sở hữu.

      - Bọn chuyện gì vậy? Hai có vẻ khá căng thẳng, đừng với em là nhé.

      - Bọn về buổi tối vĩnh biệt đời trai mà Simon muốn tổ chức cho .

      - Em lại sợ điều tồi tệ hơn thế cơ!

      - Đúng thế, cũng vậy, với cậu ấy như thế và cậu ấy mấy vui vẻ, Andrew trả lời.

      Lời dối đầu tiên với Valérie kể từ khi trở về, Andrew ngẫm nghĩ.

                  *


      Khi tới tòa soạn, Andrew tới thẳng phòng tổng biên tập. Olivia Stern ngắt điện thoại và mời Andrew ngồi xuống. Andrew kể với về chuyến của mình, các tình huống mà thu thập tin tức và chiêu bài mà chơi với Ortiz.

      - muốn chúng ta đăng bài mà nêu danh tính giả của phải ? đòi hỏi tôi hơi nhiều đó, Andrew ạ. Bài của mất sức nặng, hy sinh mục tiêu của bài viết đấy.

      - Tôi tưởng mục tiêu của bài báo là kể lại hành trình của người đàn ông bình thường trở thành kẻ đồng phạm gây bao tội ác. Mà về mục tiêu nào vậy?

      - Tố cáo cựu tội phạm chiến tranh. Nếu phải thế tôi thấy có cách nào để đăng bài lên trang nhất.

      - dự tính đăng bài này lên trang nhất? Andrew hỏi.

      - Tôi hy vọng là thế, nhưng phải lựa chọn giữa vinh quang và việc giữ lời. Chỉ có mình là người quyết định điều này.

      - Còn có nhiều cách khác để tố cáo , Andrew vừa vừa rút trong túi ra phong bì rồi đặt lên bàn sếp.

      Olivia mở phong bì. Nét mặt thay đổi khi nhìn thấy những tấm hình của thiếu tá Ortiz mà Marisa chụp được.

      - có vẻ già hơn tôi tưởng, Olivia lẩm bẩm.

      - giường bệnh trông còn tệ hơn nữa kia, Andrew trả lời.

      - quả là người kỳ lạ, Andrew à.

      - Tôi biết, có người mới với tôi như vậy sáng nay. Vậy bây giờ có cái mình cần rồi chứ?

      - viết bài báo đó cho tôi, đó là ưu tiên hàng đầu nay. Tôi cho hai tuần, nếu bài viết của xứng tầm, tôi cầu ban biên tập cho đăng lên trang nhất, kèm hai trang trong.

      Andrew muốn lấy lại các tấm hình nhưng Olivia cất chúng vào trong ngăn kéo và đảm bảo với rằng trả lại các bức hình ngay khi scan xong.

      Khi ra khỏi phòng Olivia, Andrew tới gặp Freddy.

      - về rồi à, Stilman?

      - Như thấy đó, Olson.

      - Mặt tươi cho lắm, chẳng lẽ Brasil xấu xí đến vậy sao?

      - Argentina chứ, Freddy.

      - À ừ, rốt cuộc cũng là Nam Mỹ cả thôi, chúng ta cò kè chuyện đó chứ.

      - Thế công việc của sao, mọi thứ đều ổn chứ?

      - thể tốt hơn, Freddy trả lời, đừng trông chờ tôi kể cho thêm gì nhé.

      - Tôi có ông bạn là cảnh sát, về hưu rồi nhưng ông ấy có quan hệ rộng... chỉ việc hỏi nhờ.

      Freddy quan sát Andrew với vẻ hoài nghi.

      - mưu toan điều gì phải , Stilman?

      - gì hết, tôi chẳng mưu tính điều gì cả, Freddy. Kiểu cãi cọ này giữa chúng ta làm tôi mệt mỏi lắm rồi. Nếu thực điều tra về kẻ giết người và nếu tôi có thể giúp điều gì tôi sẵn lòng, vậy thôi.

      - Thế tại sao lại giúp tôi?

      - Để ngăn chặn kẻ giết người ấy gây án thêm lần nữa, với thế lý do chính đáng chưa?

      - làm tôi buồn cười quá, Stilman ạ, cảm nhận được là tôi có cái gì đó. phải muốn làm đồng tác giả bài viết của tôi đó chứ?

      - , ý nghĩ đó chưa khi nào lướt qua tâm trí tôi cả, nhưng giờ thế cho tôi ý tưởng. Thế nếu thay vì cứ quay lưng lại với nhau, ngày nào đó chúng ta cùng đăng bài được ? Tôi biết kẻ thích mê cho mà xem.

      - Thế ư, ai vậy?

      - Độc giả trung thành nhất của tôi, Spookie Kid. Tôi dám tưởng tượng kẻ đó vui mừng thế nào khi chúng ta làm thế, thậm chí chúng ta có thể đề tặng ...

      Andrew để mặc Freddy, hai má vừa chuyển sang đỏ ửng, suy ngẫm về câu trả lời của rồi tới ngồi vào chỗ của mình.

      Valérie gửi tin nhắn nhắc Andrew qua chỗ thợ may để chỉnh số đo bộ vest cưới. bật máy vi tính và bắt đầu làm việc.

                  *


      Andrew dành cả tuần để viết bài. Từ khi trở về từ Buenos Aires, đêm nào cũng bị ác mộng. Lần nào cũng vậy, đều trải qua kịch bản tương tự: thấy mình bị Olson theo dõi khi chạy con đường trong công viên River Park. Freddy tiến lại gần rồi kết cục lúc nào cũng là đâm nhát dưới ánh mắt đồng lõa và sung sướng của Valérie. Đôi khi, ngay trước khi chết, nhận thấy thanh tra Pilguez hay Marisa hay Alberto hay Louisa và cả Simon, tất cả bọn họ trà trộn vào đoàn người chạy bộ. Mỗi lần như vậy, Andrew lại nghẹt thở tỉnh dậy, người lạnh toát và mồ hôi đầm đìa với cơn đau khủng khiếp ở cuối đốt sống lưng dường như bao giờ khỏi hoàn toàn được.




      Thứ Tư, Andrew rời văn phòng sớm hơn thường lệ. hứa với Valérie đến đúng giờ để ăn tối cùng những người làm chứng cho đám cưới của họ.

      Thứ Năm, điều hòa trong căn hộ của bị hỏng và Valérie, người mà đêm đêm vẫn bị những tiếng hét của khiến cho tỉnh giấc, quyết định ngay tối hôm đó họ tới định cư trong căn hộ của ở khu East Village.

      Andrew ngày càng cảm thấy kiệt sức, chứng đau lưng ngày trầm trọng, đôi khi buộc nằm vật bàn làm việc, điều này khiến Olson rất thích thú mỗi khi ta ra vào nhà vệ sinh.

      Thứ Sáu, khi chia tay, Andrew hứa với Valérie là để Simon đưa tới câu lạc bộ múa thoát y. Thay vào đó, Simon đưa Andrew tới cái chốn cuối cùng mà Andrew vẫn mong chờ.

                  *


      Quán Novecento chật kín người. Simon trước mở đường tới quầy bar.

      Andrew gọi cốc Fernet hòa lẫn Coca.

      - Cậu gọi cái gì vậy?

      - thứ mà cậu thích đâu, đừng cố thử nó.

      Simon giành lấy chiếc cốc, vừa uống ngụm là nhăn nhó, liền gọi ly vang đỏ.

      - Điều gì khiến cậu đưa tớ tới chỗ này? Andrew hỏi.

      - Xem nào, tớ quá ép cậu đấy chứ. Nếu tớ nhớ chính xác những gì cậu kể tối nay có cú sét ái tình, chẳng phải vậy sao?

      - Simon, cậu chẳng giúp tớ thư giãn chút nào.

      - Càng tốt, tớ cũng , tớ chẳng vui sướng gì đâu. Cuộc gặp định mệnh làm đám cưới của cậu tan thành mây khói diễn ra vào lúc mấy giờ vậy?

      - Simon, cậu thích Valérie, càng thích việc chúng tớ quyết định cưới nhau. Cậu đưa tớ tới đây để tớ lặp lại sai lầm lần nữa. Đó là tất cả những điều cậu tìm ra để, như cậu , làm đám cưới của chúng tớ tan thành mây khói phải ?

      - Cậu hẳn lẩn thẩn nên mới tự ái đến mức đó hả. Hoàn toàn ngược lại, tớ muốn giúp cậu tỉnh cơn ảo mộng. Và để cậu liệu cách cư xử, tớ rất quý Valérie và tớ càng thích các cậu hạnh phúc bên nhau!

      Simon nhắm được nàng chân dài miên man ngang phòng bar rồi đứng dậy thêm lời nào nữa.

      mình bên quầy bar, Andrew nhìn Simon khuất dần.

      đến ngồi cạnh ghế của và mỉm cười với khi gọi cốc Fernet-Coca thứ hai

      - Hiếm có người Mỹ nào lại thích loại nước uống này, vừa vừa nhìn chăm chú.

      Đến lượt Andrew quan sát . Nét quyến rũ khiến người khác nghẹt thở toát ra từ , ánh mắt của khêu gợi lộ liễu. Mái tóc đen dài buông chấm cái gáy thanh lịch của . Khuôn mặt khiến thể rời mắt nổi này chỉ đẹp mà thôi.

      - Đó là điều duy nhất hiếm thấy ở tôi, và đứng dậy.

      Ra khỏi quán Novecento, Andrew hít đầy phổi khí trời buổi tối. rút điện thoại gọi Simon.

      - Tớ ra ngoài rồi, cậu làm gì tùy, nhưng tớ về nhà đây.

      - Đợi tớ với, tớ ra ngay. Simon trả lời.

                  *


      - Cậu giận à! Simon lo lắng khi gặp lại Andrew vỉa hè.

      - Tớ chỉ muốn về thôi.

      - Đừng là cậu lại phải lòng nào trong vòng hai giây đấy chứ?

      - Tớ như thế, cậu chẳng hiểu nổi đâu.

      - Cậu cứ chỉ ra cho tớ điều duy nhất mà tớ hiểu trong mười năm qua ?

      Andrew đút tay vào túi quần rồi ngược lên phố West Broadway. Simon theo bạn bén gót.

      - Tớ lại cảm nhận được đúng cái cảm giác lần đầu. Cái này tớ bịa.

      - Vậy cớ sao cậu ở lại?

      - Bởi vì như thế này tớ có đủ tổn thất rồi.

      - Tớ tin chắc là sáng mai cậu nhớ nổi khuôn mặt ấy như thế nào đâu.

      - Lần trước cậu cũng từng nghĩ thế, nhưng rồi các kiện diễn ra chứng minh cậu nhầm to. còn lời dối trá nào nữa đâu, tớ học được bài học rồi. Có thể tớ giữ bên mình nỗi luyến tiếc về cuộc gặp gỡ đầu cuối nhưng tớ lựa chọn. Tình của cuộc đời là tình mà ta trải qua, phải thứ tình mà ta mơ mộng. Cậu thấy điều đó, Simon ạ, tớ tin là ngày nào đó nó xảy đến với cậu.

                  *


      Trở về căn hộ của mình, Andrew thấy Valérie trong trang phục áo lót và quần lót tập thể dục giữa phòng khách.

      - Em ngủ sao? Andrew vừa hỏi vừa cởi áo khoác.

      - Có, tất nhiên là có chứ, hai chân và hai tay dưới hông... Còn sớm mà, Simon phải lòng nàng thoát y vũ và ấy bỏ mặc phải ? Em có thể đặt thêm suất bàn tiệc cưới nếu họ thực nghiêm túc với nhau...

      - , Simon chẳng gặp được ai cả, Andrew trả lời và nằm soài xuống cạnh Valérie.

      giơ cao chân và cùng tập luyện các động tác thể dục với Valérie.

      - Buổi tối coi như toi à?

      - Đêm vĩnh biệt đời trai của rất đẹp, Andrew đáp, đẹp hơn cả những gì tưởng tượng ấy chứ.

                  *


      Ngày hôm sau, Andrew tới chỗ ông Zanetti để thử bộ đồ cưới. Bác thợ may bảo đứng lên bục thử. Ông quan sát rồi nâng cao phía vai phải áo vest.

      - Đó phải là lỗi của ông đâu, ông Zanetti, cánh tay của tôi dài hơn cánh tay còn lại.

      - Tôi thấy điều đó chứ, người thợ may vừa trả lời vừa cài ghim vào áo.

      - Tôi biết ông muốn người ta chê ông là bán cho tôi bộ áo cưới được chỉnh sửa cẩn thận nhưng tôi phải hoàn thành bài viết quan trọng.

      - vội phải ?

      - Hơi vội.

      - Vậy có quay lại đó ? Zanetti vừa hỏi vừa làm.

      - Quay lại chỗ nào cơ? Andrew hỏi.

      - cái hộp đêm đó, chẳng phải là những muộn phiền của đều bắt nguồn từ đó?

      - Sao ông lại biết? Andrew sửng sốt hỏi.

      Zanetti cười tươi.

      - Thế tưởng mình là người duy nhất có quyền có cơ hội thứ hai chắc? Cái suy nghĩ kiểu ếch ngồi đáy giếng này ngây ngô quá, Stilman ạ.

      - Ông cũng vậy, ông...

      - Người con lạ mặt ở quán bar, có gặp lại ta ? Zanetti ngắt lời. Chắc chắn là gặp lại ta rồi, sắc mặt còn tệ hơn lần trước. Nhưng tôi nghĩ là nếu chúng tôi có viền ống quần của đó là vì quyết định làm đám cưới. buồn cười, tôi cá cược điều ngược lại cơ đấy.

      - Điều gì xảy đến với ông mà ông có thể quay về quá khứ? Andrew hỏi với giọng run run.

      - Câu hỏi duy nhất khiến bận tâm đó là điều gì xảy ra với , Stilman ạ. chết nay mai nếu bận tâm tới nó hơn cả. nghĩ gì chứ? Rằng có cơ may lần thứ ba sao? Có nên dịch cái cúc này ra xa hơn ? Mà đừng có run lẩy bẩy như thế chứ, cẩn thận tôi châm kim vào đó.

      Zanetti lùi bước về phía sau rồi gỡ bộ trang phục của Andrew ra.

      - Bộ vest thế này đâu, nó đẹp hơn nhiều. Thêm phân đệm vai nữa là tuyệt đỉnh. Tôi thích hoàn hảo, ở tuổi tôi, người ta được làm lại nữa. Nếu tôi với tuổi của mình, rất ngạc nhiên đó, Zanetti thêm trong lúc bước với tiếng cười giòn.

      Andrew muốn xuống khỏi bục thử nhưng Zanetti giữ cánh tay lại, với lực đáng kinh ngạc.

      - Thế tính đâu trong bộ trang phục này? Nên có lý trí chút. Vậy là chọn tình thời niên thiếu. Đó là quyết định khôn ngoan. Hãy tin vào kinh nghiệm của tôi này, tôi cưới vợ bốn lần, điều đó khiến tôi sạt nghiệp. Nhưng có lẽ có cơ hội trải nghiệm hoàn cảnh phiền toái này chừng nào chưa tìm ra kẻ sát hại mình. Tôi muốn làm kẻ nài nỉ người khác nhưng phải khẩn thiết suy nghĩ tới chuyện đó .

      Zanetti vòng ra phía sau Andrew và kéo phần đuôi chiếc áo vest.

      - là đứng vững đó, làm ơn đứng thẳng người giùm tôi, như thế cũng đủ khó lắm rồi. Tôi đến đoạn nào nhỉ? À, tôi về kẻ sát hại . có gợi ý mảy may nào về danh tính của kẻ đó chưa? Zanetti vừa hỏi vừa ghé mặt sát gáy Andrew. Liệu có phải là vợ tương lai của ? bạn đồng nghiệp cùng phòng? Kẻ giết người hàng loạt bí hiểm đó? Cả người mẹ mà cướp con nuôi? Còn tổng biên tập của sao...

      Bỗng dưng Andrew cảm thấy cú đâm nhói sau lưng, nghẹt thở vì đau đớn.

      - Hay là tôi..., Zanetti cười khẩy.

      Andrew soi mình trong chiếc gương trước mặt, khuôn mặt tái xanh đến đáng sợ, nhìn thấy Zanetti sau lưng mình, cầm chiếc kim dài đầy máu. cảm thấy chân mình bủn rủn và khuỵu đầu gối xuống bục thử đó. vệt máu lan rộng khắp ngực. ngã gục xuống sàn, trong khi đó tiếng cười hả hê của Zanetti vang vọng khiến mất lý trí.

      Ánh sáng tắt dần.

                  *


      Valérie dùng hết sức lay tỉnh. Andrew vã mồ hôi tỉnh dậy.

      - Nếu đám cưới làm lo lắng tới nông nỗi này mình vẫn còn thời gian để lùi lại, Andrew ạ. Ngày mai quá muộn.

      - Ngày mai ư? Andrew vừa ngồi dậy giường vừa hỏi. Hôm nay là ngày bao nhiêu?

      - Bây giờ là hai giờ sáng. Valérie trả lời sau khi quay nhìn đồng hồ báo thức. Hôm nay là thứ Bảy ngày 30, đúng là ngày cưới của chúng ta.

      Andrew nhảy tót khỏi giường, vội vàng ra phòng khách. Valérie đẩy đống chăn ra rồi theo Andrew.

      - Có chuyện gì vậy, có vẻ hoảng sợ thế?

      Andrew vòng và lao về phía chiếc túi đeo mà vừa phát thấy dưới chân xô pha. cuống cuồng mở túi xách và rút ra tập hồ sơ dày cộp.

      - Bài báo của ! Nếu hôm nay là ngày 30 kịp hoàn thành bài viết đúng hạn rồi.

      Valérie tiến lại gần , ôm trong vòng tay.

      - gửi bài qua thư điện tử cho tổng biên tập từ chập tối rồi. Giờ trấn tĩnh lại . Em thấy bài viết rất tuyệt, tổng biên tập cũng đánh giá nó rất tuyệt. Hãy quay lại ngủ , em xin đó, Andrew, nếu có bộ mặt thảm hại ảnh cưới, mặt em cũng như vậy nếu để em ngủ yên.

      - phải hôm nay là ngày 30 rồi chứ, thể nào, Andrew thầm.

      - muốn hủy đám cưới phải , Andrew? Valérie nhìn hỏi chớp mắt.

      - , tất nhiên là rồi, hai chuyện này liên quan gì tới nhau cả.

      - Cái gì liên quan tới cái gì? giấu em điều gì vậy, Andrew, điều gì làm sợ sệt tới vậy? có thể tất cả với em mà.

      - Nếu có thể tất cả rồi.

    6. ^^! Nếu bạn không gửi link bài viết trên Facebook được, hãy sử dụng link trong khung này để chia sẻ bài viết :