Nạn Nhân Thứ Tư - Tess Gerritsen(27c+1kết)(Kinh dị, Trinh thám)

Thảo luận trong 'Các Thể Loại Khác (Kinh Dị, Trinh Thám..)'

  • ^^! Nếu bạn không gửi link bài viết trên Facebook được, hãy sử dụng link trong khung này để chia sẻ bài viết :
    1. vulinh

      vulinh Well-Known Member

      Bài viết:
      20,019
      Được thích:
      24,221
      MƯỜI TÁM



      Moore nghĩ sức nóng ở Boston thể chịu nổi, chưa sẵn sàng đối phó với Savannah. Vừa ra khỏi máy bay vào tầm chiều muộn hôm đó, cảm thấy như thể vừa bị nhúng vào bồn nước nóng. cảm thấy như thể mình lội trong khối chất lỏng. Chân chậm chạp về phía bãi cho thuê xe. khí bốc lên đường nhựa rải đá dăm. Khi làm xong thủ tục đăng ký phòng khách sạn áo sơ mi của sũng mồ hôi. cởi quần áo, nằm giường mấy phút để nghỉ ngơi, rồi ngủ mạch hết chiều.

      Khi tỉnh dậy, trời tối. rùng mình vì căn phòng quá lạnh. ngồi bên mép giường, đầu đau buốt.

      lấy chiếc áo sơ mi mới trong va li, mặc quần áo và rời khách sạn.

      là ban đêm, nhưng khí như hơi nước. lái xe, để cửa mở và hít thở những mùi vị phương nam. Mặc dù chưa từng đến Savannah nhưng được nghe về lôi cuốn của nó với những ngôi nhà cổ, những chiếc ghế được trang trí bằng sắt và bản nhạc nổi tiếng Nửa đêm trong khu vườn của cái Thiện và cái Ác. Nhưng đêm nay, tìm những khu du lịch. lái xe đến địa chỉ cụ thể ở phía đông bắc thành phố. Quanh đó có những ngôi nhà nhưng trông gọn gàng với những mái vòm phía trươc, những khu vườn có rào bao quanh và cây tán rộng. tìm đến phố Ronda, và dừng xe trước ngôi nhà.

      Bên trong đèn bật. thấy ánh sáng ti vi màu xanh.

      băn khoăn bây giờ ai sống trong đó và liệu những người sống trong nhà đó có biết gì về lịch sử của nó . Khi họ tắt đèn, leo lên giường vào ban đêm, họ có bao giờ nghĩ có chuyện gì xảy ra trong chính căn phòng đó ? Khi nằm trong bóng tối, họ có bao giờ nghe thấy những tiếng la hét kinh hoàng vẫn còn vang vọng từ những bức tường đó ?

      bóng người nhắn qua cửa sổ - phụ nữ mảnh mai, tóc dài và trông rất giống Catherine.

      Giờ nhìn thấy cảnh tượng đó trong tâm tưởng. người đàn ông đứng ở mái hiên trước, gõ cửa. Cửa mở, luồng sáng màu vàng hắt ra trong đêm tối. Catherine đứng đó, sáng lên dưới ánh đèn. mời người đồng nghiệp trẻ mà quen biết ở bệnh viện vào. hề nghi ngờ gì về những điều khủng khiếp vạch ra trong đầu cho .

      Và giọng thứ hai, người đàn ông thứ hai - vào lối nào?

      Moore ngồi trong xe hồi lâu, xem xét kỹ ngôi nhà, chú ý kỹ các cánh cửa và các bụi cây. ra khỏi xe, bước dọc vỉa hè và thấy mặt bên ngôi nhà. Những bụi cây già, rậm rạp. thể nhìn qua lùm cây vào sân sau.

      Ở bên kia đường có ánh đèn pin.

      quay lại, thấy phụ nữ chắc khỏe đứng ở cửa sổ nhìn . áp điện thoại vào tai.

      trở lại xe, bỏ . Có địa chỉ khác muốn đến. Nó ở gần Đại học State, cách đó vài dặm về phía nam. tự hỏi Catherine có thường lái xe con đường này , liệu cửa hàng bánh pizza bên tay trái hay cửa hàng giặt khô - là hơi bên tay phải có phải là nơi quen . Dường như nhìn đâu cũng thấy khuôn mặt . Và điều đó khiến bồn chồn. Điều đó nghĩa là lại để tình cảm xen vào vụ điều tra. Điều đó có lợi cho bất cứ ai.

      đến khu phố tìm. Sau vài tòa nhà, dừng lại ở khu mà có lẽ tìm. chỉ thấy khu đất trống, mọc đầy cỏ dại. nghĩ thấy tòa nhà ở đây, thuộc về bà Stella Poole, góa phụ năm mươi tám tuổi. Ba năm trước, bà Poole cho sinh viên ngành y thực tập tên là Andrew Capra thuê căn hộ ở tầng . Đó là chàng trai trẻ, luôn trả tiền thuê nhà đúng hạn.

      ra khỏi xe, đứng ở vỉa hè, nơi Andrew Capra chắc chắn từng qua. nhìn ngang nhìn dọc khu phố quanh chỗ ở của Capra. Nó chỉ cách Đại học State vài khu nhà. Và chắc là nhiều ngôi nhà trong khu phố này được dành cho sinh viên thuê - những người thuê trọ ngắn hạn. Có thể họ biết câu chuyện về gã hàng xóm đáng hổ thẹn của họ.

      cơn gió làm tan bớt khí quánh đặc. thích thứ mùi bốc lên. Đó là thứ mùi ẩm ướt của những vật phân hủy. ngước lên nhìn cái cây ở sân trước cửa nhà Andrew Capra và thấy mạng cây tầm gửi bám vào cành cây. nhún vai, nghĩ: thứ quả lạ. nhớ lại những đêm Dạ hội hóa trang đáng sợ khi còn . Khi đó, người hàng xóm của nghĩ ra màn trưng bày để dọa những đứa bé hết nhà này đến nhà khác xin bánh kẹo. Ông ta buộc dây thừng quanh cổ người bù nhìn, treo nó lên cây. Bố của Moore giận sôi người khi thấy cảnh đó. Lập tức, ông gõ cửa nhà bên, thèm để ý đến phản đối của người hàng xóm và cất người bù nhìn xuống.

      Giờ Moore cảm thấy động lực thôi thúc y như vậy. muốn leo lên cây, giật mạnh cây tầm gửi lơ lửng đó xuống.

      Nhưng thay vào đó, trở lại ô tô và lái xe về khách sạn.





      Thám tử Mark Singer đặt hộp bìa cứng lên bàn, phủi bụi bám tay.

      - Đây là hộp cuối cùng. Chúng tôi mất tuần lục lại, nhưng tất cả ở đây.

      Moore nhìn chục hộp tang vật xếp bàn và .

      - Đáng lẽ tôi nên mang theo cái túi ngủ và chui vào đó.

      Singer cười.

      - Có thể đúng là như vậy. Nếu muốn xem hết từng mảnh giấy trong những cái hộp này. được mang vật gì ra khỏi Sở, hiểu chứ? Máy phô tô có ở cuối hành lang, chỉ cần nhập tên và cấp bậc của . Phòng tắm ở phía đó. Hầu như lúc nào cũng có bánh rán và cà phê ở phòng họp của chúng tôi. Nếu ăn vài cái bánh rán, người phụ trách ở đó rất biết ơn nếu cho vài đô vào hộp - Mặc dù ta tươi cười khi những điều , nhưng Moore nhận thấy ý trong giọng lè nhè miền nam đó: Chúng tôi có luật riêng. Và dù có là cảnh sát bự đến từ Boston cũng phải tuân thủ các luật lệ đó.

      Catherine thích viên cảnh sát này. Và Moore hiểu tại sao. Singer trẻ hơn nghĩ, chưa đến bốn mươi, người quá thành công và lực lưỡng nên thể chịu nổi những lời phê bình. Chỉ có thể có kẻ vai vế trong sở cảnh sát này. Và Moore để ta là con chó đó trong thởi gian.

      - Đây là bốn hộp đựng hồ sơ điều tra - Singer - Có lẽ muốn bắt đầu từ chúng. Những hồ sơ điều tra đựng trong hộp đó, còn hồ sơ hành động ở trong hộp này - ta dọc mép bàn, gõ lên từng hộp khi - Còn đây là những hồ sơ ở Atlanta về Dora Ciccone. Đó chỉ là bản sao.

      - Sở cảnh sát Atlanta có những bản gốc sao?

      Singer gật đầu.

      - Đó là nạn nhân đầu tiên, chỉ giết người ở đó.

      - Vì chúng là bản sao nên tôi có thể mang hộp đó ra ngoài chứ? Tôi muốn xem hồ sơ trong khách sạn của tôi.

      - Miễn là trả lại - Singer thở dài, nhìn những chiếc hộp lượt - biết đấy, tôi chắc tìm gì. thể tìm thêm được gì khi lật mở lại vụ án. Trong mỗi hồ sơ, chúng tôi có mẫu ADN của Capra. Chúng tôi tìm được trùng khớp các sợi vải. Chúng tôi có ghi lại thời gian. Capra sống ở Atlanta khi Dora Ciccone bị sát hại ở đó. Khi chuyển đến Savannah những ở đây bị giết. luôn xuất đúng chỗ và đúng lúc.

      - Tôi chưa bao giờ hỏi Capra có thuộc về các vị .

      - Vậy tại sao bới lại chuyện này? Vài hồ sơ trong số đó có từ ba đến bốn năm rồi.

      Moore nhận thấy biện hộ trong lời của Singer và biết thương thuyết là chìa khóa cho vấn đề ở đây. Nếu để lộ bất cứ dấu hiệu gì về việc Singer mắc sai lầm trong vụ điều tra Capra, rằng ta bỏ mất tình tiết quan trọng là Capra có đồng bọn mong nhận được hợp tác từ phía cảnh sát Savannah.

      Moore nghĩ ra cách trả lời.

      - Câu lạc bộ những kẻ hâm mộ cuồng loạn khốn kiếp phải ?

      - Vì tên sát nhân của chúng tôi có mối liên hệ mật thiết với cách thức của Capra nên tôi cũng cần làm quen với nó - Singer vẫy tay chỉ vào bàn.

      - Vậy hãy bắt tay vào việc đó !

      Khi Singer ra khỏi phòng, Moore xem lại nhãn ghi các hộp bìa cứng. mở hộp đánh dấu IC số : Hồ sơ được lưu trữ về các vụ điều tra ở Savannah. Bên trong có ba tập hồ sơ có liên quan đến nhau. Hồ sơ nào cũng nhét đầy giấy tờ. Đây chỉ là trong nhiều hộp hồ sơ. Tập hồ sơ gáy xoắn đầu tiên có ba bản báo cáo về diễn biến ba vụ tấn công ở Savannah, tờ khai nhân chứng và báo cáo của phòng thí nghiệm. Chỉ riêng hộp này cũng phải mất cả ngày mới đọc hết.

      Và còn hơn mười hộp nữa cần xem.

      bắt đầu bằng bản tóm tắt cuối cùng của Singer. lần nữa, lại ngạc nhiên trước bằng chứng thuyết phục cáo buộc Andrew Capra. Tổng cộng có năm vụ tấn công được ghi lại, bốn trong số năm nạn nhân bị giết. Nạn nhân đầu tiên là Dora Ciccone, bị giết ở Atlanta. năm sau những vụ giết người bắt đầu lộng hành ở Savanah. Ba trong năm: Lisa Fox, Ruth Voorhees và Jennifer Torregrossa.

      Các vụ giết hại bị chặn lại khi Capra bị bắn đến chết trong phòng ngủ của Catherine.

      Trong vụ nào, cảnh sát cũng tìm thấy tinh dịch trong bộ phận ống dẫn trứng của nạn nhân và mã ADN khớp với mẫu của Capra. Những sợi tóc tìm thấy ở trường gây án Fox và Torregrossa đều khớp với tóc của Capra. Nạn nhân đầu tiên, Ciccone bị giết vào đúng năm Capra hoàn thành năm cuối ở đại học Emory của Atlanta.

      Những vụ giết người theo Capra đến Savannah.

      Mỗi sợi chỉ bằng chứng đều kết nối chặt chẽ thành khối thống nhất. Mảnh vải chúng đan kết dường như thể phá vỡ được. Nhưng Moore nhận ra chỉ đọc bản tóm tắt vụ án, nó kết nối toàn bộ các yếu tố mà Singer kết luận. Những chi tiết trái ngược rất có thể bị loại bỏ. Chính những tiểu tiết nhưng lại nhất quán là những điều hy vọng tìm thấy từ những hộp hồ sơ này. nghĩ ở đâu đó trong đống hồ sơ, tên Bác sỹ phẫu thuật để lại dấu vết.

      mở tập hồ sơ gáy xoắn đầu tiên và bắt đầu đọc.

      Cuối cùng, ba tiếng sau đứng lên, lưng hằn lên những vết ghế. Lúc đó giữa trưa.

      bắt đầu phân loại được đống giấy tờ. tìm được chút dấu vết nào của Bác sỹ phẫu thuật. quanh bàn, nhìn nhãn dán các hộp bìa cứng vẫn chưa được mở ra và thấy hộp ghi: “Hộp số 12/ Torregrossa/ Voorhees/ Cordell. Các bài cắt từ báo/ Băng hình/ thu ”.

      mở hộp và thấy sáu cuốn băng đống tập hồ sơ dày cộp. lấy cuộn phim có tên: Nơi ở của Capra. Nó ghi ngày 16/6, ngày sau vụ tấn công Catherine.

      thấy Singer ngồi ở bàn, ăn bánh mì kẹp. Đó là món đặc sản ở quán và chất đầy thịt bò rán. Chỉ riêng chiếc bàn cho biết nhiều điều về Singer. Chiếc bàn được sắp xếp theo trật tự, chồng giấy xếp gọn ở bốn góc bàn. Đây là cảnh sát tuyệt vời đến từng chi tiết nhưng lại rất khó chịu khi làm việc cùng ta.

      - Có máy bật băng hình nào để tôi có thể dùng ?

      - Chúng tôi lúc nào cũng khóa nó lại.

      Moore chờ đợi. Lời đề nghị tiếp theo của quá ràng nên muốn thẳng ra. Singer thở dài thườn thượt, lục ngăn kéo lấy chìa khóa và đứng lên.

      - Tôi nghĩ muốn có cái máy đó ngay bây giờ đúng ?

      Singer ra khỏi nhà kho, mang theo đầu băng hình và ti vi, lăn chúng vào căn phòng mà Moore làm việc. ta cắm dây điện, ấn nút khởi động và lầm bầm thích thú khi mọi thứ đều chạy tốt.

      - Cảm ơn - Moore - Có lẽ tôi cần chúng mấy hôm.

      - phát ra điều gì mới mẻ chưa? - Giọng ta lộ vẻ chế nhạo.

      - Tôi chỉ mới bắt đầu thôi.

      - Tôi thấy lấy cuộn băng ở nhà Capra - Singer lắc đầu - Trời ơi! Có điều gì lạ trong ngôi nhà khốn kiếp đó đâu!

      - Đêm qua tôi lái xe qua đó. Đó chỉ còn là bãi đất trống.

      - Tòa nhà bị cháy rụi năm ngoái. Sau vụ án của Capra, bà chủ nhà thể cho thuê căn hộ tầng nữa. Vì vậy, bà ấy bắt đầu mở cửa căn hộ đó cho những người muốn đến thăm quan. Dù có tin hay bà ta có vài khách vãng lai. biết đấy, những kẻ điên rồ như Anne Rice đến cầu nguyện ở hang ổ của con quỷ dữ. Trời ạ, ngay cả mụ chủ nhà cũng kỳ lạ.

      - Tôi chuyện với bà ấy.

      - Trừ phi có thể chuyện với người chết.

      - Hỏa hoạn à?

      - Ung thư phổi - Singer cười - Hút thuốc lá có hại cho sức khỏe. Và chắc chắn bà ấy chứng minh điều đó.

      Moore chờ cho Singer ra ngoài. Rồi cho đoạn băng “Nơi ở Capra” vào ổ băng.

      Những hình ảnh đầu tiên là mặt bên ngoài, ánh sáng ban ngày và cảnh nhìn từ phía trước ngôi nhà mà Andrew Capra từng ở đó. Moore nhận ra cái cây ở sân trước với những mạng cây tầm gửi. Ngôi nhà có gì đặc biệt, trông như cái hộp hai tầng cần được sơn lại. Giọng của người quay phim cho biết ngày, thời gian, địa điểm quay. ta tên mình là thám tử Spiro Pataki của Savannah. Căn cứ vào ánh sáng Moore đoán đoạn phim được thực vào sáng sớm. Máy quay quét qua đường và Moore thấy người chạy bộ chạy ngang qua, tò mò nhìn ống kính. Lúc đó có nhiều xe cộ (liệu đó có phải là lúc mọi người bắt xe làm vào buổi sáng ?). Mấy người hàng xóm đứng vỉa hè, nhìn chằm chằm người quay phim.

      Giờ ống kính tập trung vào ngôi nhà, tiến lại gần cửa trước và giật mạnh. Khi vào bên trong, thám tử Pataki lướt nhanh qua tầng . Bà Poole sống ở đó. Moore thấy những tấm thảm bạc màu, đồ đạc sẫm màu, và chiếc gạt tàn đầy đầu lọc thuốc lá. Đây là thói quen chết người của kẻ nghiện thuốc nặng trong thời gian xa. Máy quay hướng lên cầu thang hẹp, qua cánh cửa có chốt khóa, vào căn hộ ở tầng hai của Andrew Capra.

      Moore cảm thấy sợ khi nhìn căn phòng. Tầng hai được chia thành những phòng . Và ai “sửa sang lại” tầng này chắc chắn phải tốn rất nhiều tấm lát gỗ. Mỗi bức tường đều được bọc gỗ dán tối màu. Máy quay hướng về phía hành lang. Nó hẹp đến nỗi trông nó như đường hầm tối tăm.

      - Phòng ngủ ở bên tay phải - Pataki khi quay, lia ống kính qua lối vào, và ghi lại hình ảnh hai chiếc giường giống nhau, được sắp xếp gọn gàng, bàn ở đầu giường và ngăn kéo. Toàn bộ đồ đạc đều đựng vừa trong cái hang tối tăm.

      - Tôi về phía sau khu nhà ở của - Pataki . Máy quay lại giật mạnh khi vào đường hầm tối. ta vào căn phòng lớn hơn. Ở đó, mấy người đứng thành vòng tròn, mặt họ có vẻ buồn. Moore thấy Singer đứng ở cánh cửa cái buồng . Đây mới là cảnh quay chủ yếu.

      Máy quay đột nhiên bị mờ , rồi lại nét. Hình ảnh choán hết màn hình cách đáng ngạc nhiên. Đó là bức ảnh đen trắng chụp khuôn mặt phụ nữ, mắt mở to, vô hồn. Cổ bị cắt sâu đến nỗi khí quản bị phanh rộng ra.

      - Tôi tin đây là Dora Ciccone - Singer - Được rồi, giờ hãy tập trung vào bức ảnh này.

      Máy quay lia sang phải. Lại là bức ảnh khác, chụp phụ nữ khác.

      - Có vẻ như đây là những bức ảnh chụp khi các nạn nhân chết, chụp bốn nạn nhân khác nhau. Tôi tin là chúng ta xem những hình ảnh về cái chết của Dora Ciccone, Lisa Fox, Ruth Voorhees và Jennifer Torregrossa.

      Đó chính là phòng trưng bày những bức ảnh riêng tư của Andrew Capra. lui về nơi này để sống lại những khoái cảm có sau mỗi lần giết người. Điều khiến Moore tức giận hơn là những bức ảnh còn để lại khoảng trống lớn tường. Và đống đinh ghim đặt giá sách. Tức là còn nhiều chỗ trống cho những bức ảnh khác nữa.

      Máy quay xoay nhanh, rời khỏi căn phòng và chuyển sang phòng lớn hơn. Pataki chầm chậm lia máy quay quanh phòng. Máy quay ghi lại chiếc ghế dài, cái ti vi, cái bàn, chiếc điện thoại. Giá sách chất đầy sách giáo khoa ngành y. Máy quay tiếp tục lia cho đến khi tới khu nhà bếp. Nó tập trung vào chiếc tủ lạnh.

      Moore cúi sát vào màn hình, cổ họng khô rát. biết trước trong tủ lạnh có gì, nhưng vẫn thấy mạch đập nhanh hơn. Bụng co thắt mạnh vì sợ hãi khi thấy Singer về phía tủ lạnh. Singer dừng lại, nhìn máy quay.

      - Đây là thứ chúng tôi tìm thấy bên trong - ta và mở cánh tủ.




      MƯỜI CHÍN



      Moore bộ quanh khu nhà. Lần này để ý đến nóng bức. thấy lạnh người vì những hình ảnh nhìn thấy đoạn băng. thấy nhõm khi vừa ra khỏi phòng họp. Căn phòng đó chứa đầy nỗi sợ hãi. Ở Savannah, khí quánh đặc như nước si-rô và những ánh đèn màu xanh của thành phố này khiến thấy khó chịu. Thành phố Boston có những góc cạnh mạnh mẽ, những giọng sang sảng, mỗi tòa nhà, mỗi khuôn mặt cau có đều nét. Dường như nhìn Savannah qua tấm băng gạc, thành phố với những nụ cười ngượng nghịu và những giọng như gió thoảng. tự hỏi mảng tối nào mà nhìn thấy.

      Khi quay lại phòng điều tra, thấy Singer đánh máy tính.

      - Khoan - Singer . ta nhấn vào mục Kiểm tra lỗi chính tả. Chúa tha lỗi cho bất cứ lỗi chính tả nào trong những bản báo cáo của ta. ta hài lòng nhìn Moore - Có chuyện gì thế?

      - bao giờ tìm thấy sổ ghi địa chỉ và số điện thoại của Capra chưa?

      - Sổ nào?

      - Hầu như ai cũng có cuốn sổ ghi địa chỉ và số điện thoại riêng để bên điện thoại. Tôi thấy cuốn sổ trong căn phòng của trong cuộn băng, và tôi cũng tìm thấy nó trong danh sách những tài sản các vị thu làm tang vật.

      - bới lại chuyện hai năm trước. Nếu nó có trong danh sách của chúng tôi bởi vì có cuốn sổ đó.

      - Hoặc ai đó lấy nó trước khi các vị đến.

      - tìm gì? Tôi nghĩ đến đây để nghiên cứu về cách thức gây án của Capra, chứ phải định phá lại vụ án đấy chứ?

      - Tôi quan tâm đến những người bạn của Capra, những người biết về .

      - Lạy Chúa! Chẳng ai hiểu hết. chúng tôi hỏi cung các bác sỹ và y tá làm việc cùng , bà chủ nhà và hàng xóm của . Tôi lái xe đến Atlanta chuyện với , người bà con duy nhất của còn sống.

      - Vâng, tôi đọc qua những lần hỏi cung.

      - Vậy biết tất cả mọi người đều bị gạt. Tôi nghe ai cũng nhận xét: bác sỹ tận tụy! người đàn ông lịch ! - Singer khịt mũi.

      - Họ biết thực Capra là người thế nào.

      Singer xoay ghế về phía máy tính.

      - Khốn kiếp, ai biết những con quỷ thực là những kẻ thế nào.





      đến lúc xem đoạn băng cuối cùng. Moore để dành cuộn băng này xem sau vì biết chưa sẵn sàng để xem những hình ảnh trong đó. cố bình tĩnh xem những đoạn băng khác, ghi chú khi nghiên cứu kỹ phòng ngủ của Lisa Fox, Jennifer Torregrossa và Ruth Voorhees. xem xem lại các vết máu bắn lên, những vết dây buộc hằn cổ tay các nạn nhân và ánh mắt vô hồn của họ. có thể xem những đoạn băng đó và có cảm xúc gì vì biết những đó. nghe thấy tiếng của họ vang vọng trong đầu mình. tập trung vào các nạn nhân, mà là vào bạo lực của để lại trong phòng ngủ của họ. bỏ băng ghi hình trường trong vụ án của Voorhees ra, đặt nó lên bàn. phân vân cầm đoạn băng còn lại. nhãn mác có ghi ngày, số hồ sơ vụ án và những dòng chữ: “Nơi ở của Catherine Cordell”.

      nghĩ dừng việc xem băng lại đến sáng mai. Khi đó thấy sảng khoái. ở trong phòng này cả ngày. cầm cuộn băng, cân nhắc xem nên làm gì.

      thoáng trước đó, thấy Singer đứng ở lối vào, nhìn .

      - Trời! vẫn ở đây - Singer ngạc nhiên.

      - Tôi cần phải xem qua nhiều thứ.

      - xem hết các cuộn băng chưa?

      - Trừ cuộn băng này.

      Singer nhìn nhãn.

      - Cordell.

      - Đúng vậy.

      - Tiếp tục , hãy bật lên! Tôi có thể bổ sung thêm vài chi tiết.

      Moore cho cuộn băng vào đầu máy, ấn nút Chạy.

      Họ nhìn mặt trước ngôi nhà của Catherine vào ban đêm. Hiên nhà được thắp sáng. Toàn bộ đèn bên trong đều được bật lên. đoạn băng, nghe thấy người thu hình ngày và thời gian - hai giờ sáng - và tên của ta. Đó lại là Spiro Pataki. Dường như ta là người quay phim được mọi người mến. Moore nghe thấy những thanh nền - những giọng , tiếng còi xe báo động lờ mờ. Pataki lại thực thói quen là quanh ngôi nhà. Moore lờ mờ thấy đám đông những người hàng xóm đứng nhìn ngoài dải ngăn ở cách trường. Mặt họ sáng trưng vì ánh đèn của những chiếc xe tuần tra của cảnh sát đỗ bên đường. Điều này khiến ngạc nhiên vì biết khi đó quá nửa đêm. Chắc chắn việc đó rất ồn ào nên đánh thức nhiều hàng xóm.

      Pataki trở lại ngôi nhà, tiến về phía cửa trước.

      - Những phát súng - Singer - Đó là những bản báo cáo đầu tiên của chúng tôi. Người phụ nữ ở bên kia đường nghe thấy tiếng súng nổ, rồi sau đó rất lâu mới có tiếng súng thứ hai. Bà ấy gọi 911. Nhân viên đầu tiên đến trường bảy phút sau đó. Hai phút sau xe cứu thương được gọi đến.

      Moore nhớ người phụ nữ bên kia đường nhìn qua ô cửa.

      - Tôi đọc lời khai của bà hàng xóm - Moore - Bà ấy thấy bất cứ ai ra từ cửa trước của ngôi nhà.

      - Đúng vậy. Bà ấy chỉ nghe thấy hai tiếng súng. Bà ấy ra khỏi giường ngay sau phát súng đầu tiên và nhìn ra cửa sổ. Rồi có lẽ là năm phút sau, bà ấy nghe thấy phát súng thứ hai.

      Năm phút sau, Moore nghĩ. Trong suốt thời gian trống đó có chuyện gì?

      màn hình, máy quay tiến đến cửa trước và vừa mới vào nhà. Moore thấy buồng mở cửa, bên trong có treo vài chiếc áo khoác, cái ô và máy hút bụi. Giờ cảnh quay thay đổi, lướt qua phòng khách, chiếc bàn thấp gần ghế dài có hai cốc nước, trong hai cốc vẫn còn chất lỏng trông như bia.

      - Cordell mời vào trong - Singer - Họ uống vài cốc. ấy vào phòng tắm, quay lại và uống hết chỗ bia. Trong vòng giờ, thuốc Rohypnol có tác dụng.

      Chiếc ghế dài có màu hồng đào, với những mẫu hoa văn nhắn rất nữ tính. Moore thấy Catherine là kiểu phụ nữ thích hoa nhưng thích chúng. Những bông hoa rèm cửa, những gối đệm đặt ở ghế dài. Và có rất nhiều màu sắc. Ở Savannah, sống với nhiều màu sắc. hình dung ngồi đó uống nước với Andrew Capra, thông cảm lắng nghe những lo lắng của về công việc trong khi thuốc Rohypnol từ từ vào máu qua thành dạ dày của . Những phân tử thuốc gây mê cuộn lên não và giọng của Capra bắt đầu dần.

      Giờ họ vào phòng bếp. Máy quay quét lượt quanh nhà, ghi lại từng phòng khi họ đến vào lúc hai giờ sáng thứ bảy đó. Bồn rửa bát trong bếp chỉ có cốc nước.

      Moore đột nhiên cúi về phía trước.

      - Cái cốc đó - các phân tích mẫu ADN từ nước bọt bám cốc chưa?

      - Sao lại phải làm vậy?

      - Các biết là ai uống nước trong cái cốc đó phải ?

      - Chỉ có hai người trong nhà khi cảnh sát đầu tiên đến trường. Capra và Cordell.

      - Có hai cốc bàn. Vậy ai uống nước trong cốc thứ ba?

      - Khốn kiếp, có lẽ nó nằm trong bồn nước cả ngày. Nó khớp với tình huống chúng tôi gặp ở trường.

      Người quay phim quay xong nhà bếp và tiếp ra hành lang.

      Moore cầm chiếc điều khiển từ xa, ấn nút tua lại. tua lại đoạn băng trước khi vào bếp.

      - Gì vậy? - Singer hỏi.

      Moore trả lời. cúi sát hơn, xem kỹ hình ảnh được tua lại màn hình. Chiếc tủ lạnh có dính những nam châm hình hoa quả. Những lọ đựng bột mì và đường nằm ở mặt bếp. Bồn nước có chiếc cốc duy nhất. Rồi máy quay lướt nhanh qua gian bếp, hướng về phía hành lang.

      Moore lại ấn nút Tua lại.

      - nhìn gì vậy? - Singer suốt ruột.

      Đoạn băng trở về chỗ có chiếc cốc. Máy quay lại lia về phía hành lang. Moore ấn nút Dừng.

      - Đây - - cửa bếp. Nó dẫn đến đâu?

      - À… sân sau, mở ra bãi cỏ.

      - Và sau bãi cỏ đó là gì?

      - Môt cái sân cạnh đó, môt dãy nhà khác.

      - chuyện với chủ của sân sau đó ? Ông hay bà ấy có nghe thấy tiếng súng ?

      - Việc đó có nghĩa gì?

      Moore đứng lên, lại gần màn hình.

      - Cửa bếp - và gõ lên màn hình - Có dây khóa. Và dây khóa vẫn mở.

      Singer dừng lại.

      - Nhưng cánh cửa đó đóng lại. thấy vị trí tay cầm chứ?

      - Đúng vậy. Đó là loại tay cầm mà nhốt người ta ở bên ngoài.

      - Ý là gì?

      - Tại sao ấy ấn nút đó mà lại khóa cửa lại? Những ai khóa cửa vào ban đêm đều làm hai việc đó cùng lúc. Họ ấn nút, rồi chốt cửa. ấy bỏ qua bước thứ hai.

      - Có thể ấy quên mất.

      - có ba khác bị giết ở Savannah. ấy lo sợ đến mức giấu súng dưới giường. Tôi nghĩ ấy quên - nhìn Singer - Có thể ai đó ra bằng cửa bếp.

      - Chỉ có hai người trong ngôi nhà đó. Cordell và Capra.

      Moore cân nhắc những điều sắp . Dù được hay mất cũng thẳng.

      Lúc này Singer biết cuộc chuyện đến đâu.

      - Ý là Capra có đồng bọn.

      - Đúng.

      - Đó là kết luận tuyệt vời chỉ do dây khóa cài.

      Moore hít sâu.

      - Còn nữa. Vào đêm Catherine Cordell bị tấn công, ấy nghe thấy giọng khác trong nhà mình. người đàn ông chuyện với Capra.

      - ấy chưa bao giờ cho tôi biết điều đó.

      - ấy điều đó trong quá trình chúng tôi thẩm tra bằng thuật thôi miên.

      Singer cười phá lên.

      - có nhà tâm lý nào để chứng minh điều đó ? Vì nếu có tôi tin lắm đấy.

      - Nó giải thích tại sao tên Bác sỹ phẫu thuật lại biết tường tận những kỹ thuật của Capra. Hai tên đó là đồng bọn. Và Bác sỹ phẫu thuật thừa kế khi nạn nhân duy nhất của chúng sống sót.

      - Thế giới này có khối phụ nữ. Sao lại tập trung vào ấy?

      - công việc dang dở.

      - Đúng vậy, tôi hiểu giả thuyết đó hơn rồi - Singer rời ghế - Cordell quên khóa cửa nhà bếp. Gã ở Boston bắt chước những gì thấy báo. Và nhà thôi miên của các vị khơi lại những ký ức sai của ấy - ta lắc đầu về phía cửa và với câu châm biếm - Hãy báo cho tôi biết khi bắt được tên sát nhân .

      Moore chỉ bận tâm chút sau nhừng lời trao đổi đó. biết Singer bảo vệ công cán của chính mình trong vụ án. thể trách cứ khi ta nghi ngờ. bắt đầu phân vân về những suy luận của chính mình. đoạn đường dài đến Savannah để chứng mình hoặc phủ nhận việc Capra có đồng bọn. Vì vậy chưa có gì để chứng minh điều đó.

      chú ý màn hình và ấn nút Chạy.

      Máy quay rời phòng bếp, dọc hành lang và dừng lại ở phòng tắm - những khăn tắm màu hồng, rèm che bồn tắm có hình những chú cá nhiều màu. Tay của Moore vã mồ hôi. sợ phải xem những hình ảnh tiếp theo nhưng thể rời mắt khỏi màn hình. Máy quay rời phòng tắm, tiếp tục đọc hành lang, qua những giỏ hoa mẫu đơn màu hồng treo tường. Sàn nhà bằng gỗ bị bẩn và dính đầy dấu chân của những nhân viên cảnh sát đầu tiên và các nhân viên y tế cuống cuồng đến trường. Những gì còn lại là những vệt màu đỏ rối mắt. Cánh cửa sáng lờ mờ phía trước, cảnh phim rung mạnh vì người quay vững tay.

      Giờ máy quay đến phòng ngủ.

      Moore cảm thấy dạ dày cuộn lên, phải vì những gì nhìn khủng khiếp hơn những gì từng thấy ở trưởng các vụ án. , nỗi sợ này là nỗi sợ bản năng sâu trong biết và rất người phụ nữ bị hại ở đây. xem kỹ những bức ảnh chụp căn phòng này nhưng chúng có màu xanh rợn người như màn hình. Mặc dù Catherine có trong hình - khi đó được đưa đến bệnh viện - nhưng bằng chứng về vụ tra tấn la hét màn hình. thấy dây ni-lông được dùng để buộc quanh cổ tay và cổ chân . Chúng vẫn bám vào chân giường. thấy những dụng cụ phẫu thuật - con dao mổ và cái banh miệng vết mổ - bàn ở đầu giường. thấy tất cả những điều đó. Chúng có tác động mạnh đến nỗi thực run rẩy ghế như thể vừa bị ai đó đấm mạnh.

      Ống kính máy quay lia chỗ khác. Cuối cùng nó chĩa thẳng vào xác tên Capra nằm sàn nhà. hầu như có cảm xúc gì, bị tê liệt khi nhìn những hình ảnh mấy giây trước đó. Vết thương ở bụng Capra chảy nhiều máu. Máu tạo thành vũng lớn, đọng lại dưới thân . Viên đạn thứ hai găm vào mắt khiến chết ngay lập tức. nhớ khoảng trống năm phút giữa hai tiếng súng. Căn cứ vào vũng máu Capra nằm đó và bị chảy máu trong ít nhất là năm phút.

      Đoạn băng hết.

      nhìn màn hình trống , rồi cựa mình khỏi trạng thái bất động, tắt đầu băng hình. cảm thấy kiệt sức đến nỗi thể đứng lên được. Cuối cùng, cũng đứng lên và chỉ muốn rời khỏi nơi này. ôm hộp giấy chứa những bản sao hồ sơ vụ điều tra ở Atlanta. Những giấy tờ này phải là bản chính mà chỉ là bản sao của những hồ sơ ở Atlanta nên có thể xem chúng ở chỗ khác.

      Trở lại khách sạn, tắm rửa, ăn thịt bò và khoai tây chiên được mang đến tận phòng. cho phép mình xem ti vi tiếng để bớt căng thẳng. Nhưng trong suốt lúc đó, chỉ ngồi cầm điều khiển, chuyển hết kênh này sang kênh khác. chỉ muốn gọi điện cho Catherine. Khi xem cuộn băng cuối cùng quay cảnh trường, nơi tên ác quỷ tấn công thể ngồi yên.

      nhấc điện thoại lên hai lần, rồi lại đặt nó xuống. Nhưng lại nhấc máy lên, bấm số điện thoại mà thuộc. Chuông reo bốn lần và nghe thấy tiếng máy trả lời tự động của Catherine.

      gác máy, để lại lời nhắn.

      nhìn điện thoại, xấu hổ vì ý chí của dễ bị đánh bại như thế nào. tự hứa cứng rắn, giữ lời hứa với Marquette rằng giữ khoảng cách với Catherine trong suốt thời gian điều tra. Khi nào tất cả những chuyện này kết thúc, bàng cách nào đó, hàn gắn lại mọi chuyện giữa hai chúng ta.

      nhìn tập tài liệu của Atlanta đặt bàn. Bây giờ nửa đêm mà vẫn chưa bắt tay vào việc. thở dài, mở hồ sơ đầu tiên trong hộp.

      Vụ án của Dora Ciccone, nạn nhân đầu tiên của Capra làm có hứng đọc. biết những chi tiết chung chung, chúng được tập hợp trong báo cáo của Singer. Nhưng Moore vẫn chưa đọc những báo cáo sơ bộ của Atlanta. Giờ ngược thời gian, nghiên cứu những hành động ban đầu của Andrew Capra. Atlanta chính là nơi vụ giết người hàng loạt bắt đầu.

      đọc báo cáo tội phạm đầu tiên, tiếp tục đọc ghi chép về những lần thẩm tra. Họ hỏi cung người phục vụ quầy rượu ở quán rượu địa phương, nơi lần cuối cùng người ta thấy ấy còn sống. Và cả bạn , người phát ra thi thể . Ngoài ra còn có tập hồ sơ có danh sách những kẻ tình nghi, ảnh của chúng; trong đó có Capra.

      Dora Ciccone là sinh viên hai mươi hai tuổi, tốt nghiệp Đại học Emory. Vào đêm bị giết, người ta nhìn thấy lần cuối vào khoảng nửa đêm. Khi đó uống rượu Margaritta ở quán La Cantina. Bốn mươi tám giờ sau, thi thể được phát trong nhà, trần truồng, bị trói vào giường bằng băng dính. Tử cung bị cắt rời và cổ bị cứa đứt.

      tìm thấy bản ghi chép thời gian của cảnh sát. Đó chỉ là bản ghi chép cẩu thả, gần như đọc được. Như thể thám tử ở Atlanta liệt kê lụi mọi việc cho đủ những thông tin của hồ sơ ban đầu. có thể nhận thấy thất bại của họ những trang giấy, có thể hình dung ra bàn tay rũ xuống vì thất vọng của viên thám tử. Chính trải qua cảm giác nặng nề đó khi hai mươi tư giờ, tuần, rồi tháng trôi qua mà vẫn chưa tìm được manh mối. Đây là tình huống thám tử ở Atlanta gặp phải - có gì. Kẻ giết Dora Ciccone vẫn còn là số.

      mở báo cáo khám nghiệm tử thi.

      Việc cắt mổ Dora Ciccone nhanh chóng và nhuần nhuyễn như những lần giết người sau đó. Những vết mổ nham nhở cho thấy Capra đủ tự tin để cắt đường dứt khoát ngang phần bụng dưới. Thay vào đó, ngập ngừng. Lưỡi dao của thụt về phía sau, xọc mạnh qua da. Khi qua lớp da, quá trình sau đó biến thành công đoạn rạch thịt lành nghề. Con dao ấn ngập cả lưỡi và phần cán dao khi tìm vui thú. người nạn nhân lần này có chỉ y tế để buộc động mạch. Máu chảy nhiều. Capra chắc chắn làm việc như người mù, việc giải phẫu của để lại vũng máu lớn.

      Chỉ riêng việc cắt thành nhiều lớp được thực có kỹ năng. Nó được thực bằng vết cắt gọn, từ trái sang phải, như thể thèm khát của lúc này được thỏa mãn, và cơn điên nguôi dần, cuối cùng kiểm soát được bản thân và hoàn thành công việc của mình cách hiệu quả, lạnh lùng.

      Moore đặt báo cáo khám nghiệm tử thi sang bên, nhìn những phần còn lại bàn được đặt cái khay bên cạnh . Bỗng thấy buồn nôn. mang cái khay ra cửa, đặt nó bên ngoài hành lang. Rồi trở lại bàn, mở tập hồ sơ tiếp theo. Trong đó có những báo cáo của phòng thí nghiệm.

      Tờ giấy đầu tiên là mẫu soi dưới kính hiển vi: mẫu tinh trùng được xác định từ chất dịch lấy từ tử cung của nạn nhân.

      biết bản phân tích ADN của mẫu tinh trùng này xác nhận đó là mẫu của Capra. Trước khi giết Dora Ciccone, cưỡng bức ấy.

      Moore lật trang tiếp theo và thấy đống giấy báo cáo của Phòng phân tích Tóc và Sợi. Vùng kín của nạn nhân và những sợi lông được kiểm tra. Trong số những sợi lông vùng kín màu nâu đỏ, có vài sợi khớp với mẫu tóc của Capra. lật nhanh qua những trang báo cáo Tóc và Sợi. Họ kiểm tra nhiều sợi tóc vương vãi tại trường. Phần lớn mẫu tóc là của chính nạn nhân, cả lông ở phần kín và tóc. Cũng có những sợi lông ngắn màu vàng rơi gối. Sau đó nó được xác định phải là của người, căn cứ vào cấu trúc sống tóc. tờ phụ lục viết “Mẹ của nạn nhân có con chó tha mồi lông vàng, giống với những sợi lông tìm thấy trong ghế sau xe của nạn nhân”.

      lật trang báo cáo Tóc và Sợi cuối cùng và dừng lại. Có bản phân tích sợi tóc khác, đây là tóc của người nhưng vẫn chưa được xác định. Nó được tìm thấy gối. Trong bất cứ ngôi nhà nào, người ta cũng có thể dễ dàng tìm thấy những sợi tóc vương vãi. Tóc người rụng hàng chục sợi mỗi ngày, tùy thuộc vào việc bạn chăm chỉ làm việc nhà đến đâu, bạn có thường hút bụi trong nhà . Chăn, gối, ghế đệm trong nhà bạn có lưu giữ dấu vết nhận dạng của những vị khách từng đến thăm nhà hạn. Sợi tóc duy nhất được tìm thấy gối này có thể là của tình nhân của nạn nhân, vị khách, người hàng xóm. Đó phải là tóc của Andrew Capra.



      Sợi tóc của người màu nâu sáng, AO (độ xoăn), độ dài gốc tóc: 5 cm. ở giai đoạn thoái hóa. Chú ý có tượng trichorrhexis invaginata. Chưa nguồn gốc.



      Trichorrhexis invaginata. Tóc tre.

      Bác sỹ phẫu thuật ở đó.

      ngả mình về phía sau, kinh hoàng. Đầu buổi hôm nay đọc những bản báo cáo của phòng thí nghiệm trong vụ án của Lisa Fox, Voorhees, Torregrossa và Cordell. Tại trường của cả bốn vụ án , cảnh sát tìm được sợi tóc tre nào.

      Nhưng đồng bọn của Capra ở đó trong suốt thời gian gây án. vẫn vô hình, để lại tinh dịch, mẫu ADN. Bằng chứng duy nhất về có mặt của là sợi tóc này, và trí nhớ bị lãng quên của Catherine về giọng của .

      Tên đồng bọn nhúng tay ngay vào vụ đầu tiên ở Atlanta.

    2. vulinh

      vulinh Well-Known Member

      Bài viết:
      20,019
      Được thích:
      24,221
      HAI MƯƠI



      Máu dính đến khuỷu tay Peter Falco. ngước lên nhìn sang bên kia bàn khi Catherine vào phòng chấn thương. Những căng thẳng trong mối quan hệ của họ, khó chịu của khi Peter xuất đều lập tức bị gạt sang bên. Họ đóng vai hai bác sỹ chuyên nghiệp, làm việc cùng nhau trong trận chiến ác liệt.

      - người nữa được chuyển đến! - Peter - Tổng cộng có bốn người. Họ vẫn cố cưa ô tô để đưa ta ra.

      Máu ộc ra từ vết mổ. cầm kẹp máu khay, kẹp vào chỗ bụng bị mổ phanh.

      - Tôi giúp - Catherine và xé băng dính áo tiệt trùng.

      - , tôi có thể lo vụ này. Kimball cần ở phòng chấn thương số hai.

      Như để nhấn mạnh thêm lời của , chiếc xe cứu thương rú còi, át hết ồn ào trong phòng.

      - Của đấy - Falco - Vui vẻ nhé!

      Catherine chạy ra khu đỗ của xe cứu thương. Bác sỹ Kimball và hai y tá khác chờ ở bên ngoài khi chiếc xe rú còi lùi lại. Thậm chí trước khi Kimball giật mạnh cửa xe phía sau, họ nghe thấy tiếng la hét của bệnh nhân.

      Đó là thanh niên trẻ. Cánh tay và vai ta chi chít hình xăm. ta giãy giụa và chửi thề khi nhóm y bác sỹ đưa ta vào cáng. Catherine thoáng thấy tấm khăn phủ đầy máu bọc lấy tứ chi của ta và hiểu tại sao ta lại la hét quá mức như vậy.

      - Chúng tôi tiêm cho ta tấn morphine ở nơi xảy ra vụ việc - bác sỹ khi họ đưa ta vào Phòng Chấn thương số hai - Dường như morphine có tác dụng!

      - Bao nhiêu?

      - Bốn mươi, bốn mươi lăm miligam nước truyền. Chúng tôi dừng lại khi huyết áp ngừng giảm xuống.

      - Hãy chuyển sang đây! - y tá - , hai, ba!

      - Chúa ơi! Mẹ kiếp! CHÚA ƠI! ĐAU QUÁ!

      - Tôi biết, bạn. Tôi biết mà.

      - biết CÁI THỨ CHẾT TIỆT này đâu.

      - phút nữa thấy ổn thôi. tên gì, hạn?

      - Rick… Ôi, Chúa ơi! Chân tôi.

      - Rick, sao thế?

      - Thuốc Roland!

      - có bị dị ứng , Rick?

      - Có chuyện gì với BỌN KHỐN CÁC NGƯỜI thế?

      - Chúng tôi có những thuốc nguy hiểm đến tính mạng - Catherine xen vào và đeo găng tay.

      - Huyết áp trăm linh hai sáu mươi. Mạch trăm ba mươi.

      - Mười miligam morphine, truyền nước - Kimball .

      - KHỐN NẠN! CHO TÔI TRĂM !

      Trong khi các y bác sỹ còn lại cuống cuồng lấy máu và treo các túi truyền nước, Catherine lật tấm vải đầy máu lên. há hốc miệng khi thấy ga-rô y tế buộc vội quanh bộ phận mà hầu như trông còn giống chân nữa.

      - Cho ấy ba mươi miligam - . Phần dưới chân phải chỉ còn lủng lẳng nhờ mảng da. Phần chân bị thương nặng chỉ còn là đống thịt nhão màu đỏ. Chân ta gần như xoắn ngược về sau.

      chạm ngón chân. Chúng lạnh như đá, tất nhiên còn mạch nữa.

      - Họ động mạch chảy hết máu - nhân viên cấp cứu - Cảnh sát đầu tiên đến trường quấn băng ga-rô đó.

      - Cảnh sát đó cứu sống ta.

      - Morphine vào!

      Catherine chiếu đèn vào vết thương.

      - Trông có vẻ như dây thần kinh và động mạch vùng kheo bị hỏng hết. Chân bên này được truyền máu - nhìn Kimball. Họ đều hiểu phải làm gì.

      - Hãy đưa ta vào phòng mổ - Catherine - ta vẫn ổn định để có thể di chuyển đến đó. Như vậy phòng chấn thương này được giải tỏa.

      - Vừa kịp lúc - Kimball khi họ nghe thấy tiếng còi xe cứu thương khác lại gần. quay đầu bỏ .

      - Này, này! - Bệnh nhân túm tay Kimball - phải là bác sỹ sao? Nó đau chết đấy! Hãy bảo những con chó cái khác làm việc gì đó chứ!

      Kimball nhăn nhở nhìn Catherine. Rồi .

      - Hãy cư xử tốt với họ, bạn! Những con chó cái đó thực công việc ở đây!

      Cắt bỏ chân tay là việc dễ dàng với Catherine. Nếu có thể cứu cánh tay hay đôi chân, có thể làm bất cứ điều gì trong quyền hạn của mình để nối lại. Nhưng nửa tiếng sau, khi đứng trong phòng mổ, cầm dao mổ trong tay và nhìn những gì còn lại ở cẳng chân bên phải của bệnh nhân lựa chọn của . Bắp đùi bị nát, xương ống chân và xương mác bị vỡ thành nhiều mảnh vụn. Căn cứ vào chân trái còn nguyên vẹn chân phải của ta từng khá to và cơ bắp, cẳng chân nhuốm màu đồng vì dãi nắng. Bàn chân trần vẫn còn nguyên vẹn đáng ngạc nhiên mặc dù nó bị xoay lệch hẳn góc lớn. đó còn in lại vệt dép quai hậu và có cát dưới ngón chân. thích bệnh nhân này, thích cách ta chửi thề hay lăng mạ và những người phụ nữ khác trong đội ngũ nhân viên bệnh viện khi ta bị đau.

      Nhưng khi dao mổ của cắt vào thịt của ta, lật ngược mặt da bên trong lên, khi cưa góc nham nhở xương ống và xương mác cảm thấy rất buồn.

      Ý tá phòng mổ bỏ phần chân bị hỏng khỏi bàn mổ, quấn băng gạc quanh nó. Bàn chân từng tận hưởng ấm áp của cát biển sớm bị đốt thành tro. Nó bị thiêu hủy cùng các nội tạng và chân tay khác được hiến tặng cho Bộ phận nghiên cứu bệnh học của bệnh viện.

      Ca mổ khiến Catherine buồn chán và kiệt sức. Cuối cùng, khi tháo găng tay, áo choàng, rồi ra khỏi phòng mổ, có tâm trí nào để chuyện với thám tử Rizzoli đợi ở bên ngoài.

      đến bồn rửa mùi thuốc sát trùng và mùi nhựa cao su dính tay.

      - nửa đêm rồi, thưa thám tử. bao giờ ngủ vào ban đêm sao?

      - Có lẽ tôi cũng ngủ đủ như thôi. Tôi muốn hỏi vài câu.

      - Tôi nghĩ còn được tham gia vào việc điều tra.

      - Tôi bao giờ bỏ vụ này, cho dù người khác gì.

      Catherine lau tay, quay lại nhìn Rizzoli.

      - chẳng ưa gì tôi, đúng ?

      - Dù tôi có ưa hay cũng chẳng có nghĩa gì.

      - Có phải vì tôi với điều gì, hay làm gì phải với ?

      - Nghe này, việc của ở đây đêm nay xong rồi chứ?

      - Đó là vì Moore phải ? Đó là lý do ghét tôi.

      Hàm Rizzoli bạnh lên.

      - Vấn đề đời tư của thám tử Moore là việc của ta.

      - Nhưng đồng ý.

      - ta bao giờ hỏi ý kiến tôi.

      - Ý quá rồi.

      Rizzoli nhìn , lộ vẻ khinh bỉ.

      - Tôi từng ngưỡng mộ Moore. Tôi nghĩ ấy là người tốt, cảnh sát bao giờ vượt qua giới hạn. Nhưng hóa ra ấy cũng chẳng hơn những kẻ khác. Điều tôi thể tin nổi là ấy lại gặp rắc rối vì phụ nữ.

      Catherine cởi áo khoác phòng mổ, cho vào sọt rác.

      - ấy biết đó là sai lầm - , rồi ra khỏi phòng mổ, về phía hành lang.

      Rizzoli theo .

      - Từ khi nào?

      - Từ khi ấy bỏ thành phố này mà lời. Tôi nghĩ tôi là quyết định sai lầm nhất thời của ấy.

      - Có phải với ấy cũng vậy ? quyết định sai lầm?

      Catherine đứng ở hành lang, chớp cho hết nước mắt. Tôi biết. Tôi biết phải nghĩ gì đây.

      - Dường như là trung tâm của mọi việc, Catherine. lên sân khấu, được tất cả mọi người chú ý, chú ý của Moore và cả tên Bác sỹ phẫu thuật.

      Catherine giận dữ quay lại nhìn Rizzoli.

      - nghĩ tôi muốn như vậy sao? Tôi bao giờ muốn là nạn nhân.

      - Nhưng chuyện đó cứ xảy ra với đúng ? Có sợi dây liên lạc kỳ lạ giữa và tên Bác sỹ phẫu thuật. Đầu tiên tôi nhận thấy điều đó. Tối nghĩ giết những nạn nhân khác để thỏa mãn thú tính và những ảo giác bệnh hoạn của . Giờ tôi nghĩ tất cả là do . như con mèo, giết những con chim để mang về cho bà chúa của , để chứng minh tay săn mồi cừ khôi. Các nạn nhân khác bị giết để gây ấn tượng với . càng sợ càng thấy thành công. Đó là lý do tại sao giết Nina Peyton cho đến khi ấy vào bệnh viện này, được chăm sóc. là nỗi ám ảnh của . Tôi muốn biết tại sao.

      - là người duy nhất có thể trả lời câu hỏi đó.

      - biết sao?

      - Sao tôi biết được? Tôi còn biết là ai.

      - ở trong nhà với Andrew Capra. Nếu những gì khi bị thôi miên là đúng.

      - Andrew là người duy nhất tôi thấy đêm đó. Andrew là người duy nhất… - dừng lại - Có thể tôi phải là nỗi ám ảnh thực của , nữ thám tử - bao giờ nghĩ đến điều đó chưa? Có thể đó chính là Andrew.

      Rizzoli cau mày và ngạc nhiên vì câu đó. Catherine bỗng nhận ra là đúng . Trung tâm vũ trụ của Bác sỹ phẫu thuật phải là , mà là Andrew Capra. Đó là người ganh đua, thậm chí tôn sùng. Đó là tên đồng bọn mà Catherine cướp của .

      ngước lên và thấy người ta gọi tên mình hệ thống liên lạc qua màn hình.

      - Bác sỹ Cordell. Phòng xét nghiệm, phòng cấp cứu. Bác sỹ Cordell. Phòng xét nghiệm, phòng cấp cứu.

      Lạy Chúa! Bao giờ họ mới để mình yên?

      - Bác sỹ Cordell?

      - Tôi có thời gian trả lời những câu hỏi của . Tôi còn phải chăm sóc những bệnh nhân.

      - Khi nào rảnh?

      Cánh cửa mở ra, Catherine bước vào và .

      - Đêm của tôi vừa mới bắt đầu.





      Ta biết về họ nhờ những mẫu máu của họ.

      Ta xem qua những ống nghiệm như thể người ta thèm miếng sô--la đựng trong hộp và tự hỏi biết đó có phải là mẩu ngon nhất . Máu của chúng ta cũng độc nhất như chính chúng ta. Bằng mắt thường, ta có thể phân biệt những sắc đỏ khác nhau, từ màu đỏ thẫm đến màu đỏ đậm như những trái dâu đen. Ta quá quen với những vật chất mang lại cho chúng ta bảng màu đa dạng như vậy. Ta biết màu đỏ là do hồng cầu hê-mô-glô-bin kết hợp với khí ô-xi trong nhiều trường hợp khác nhau. Đó chỉ là chất hóa học, hơn kém. Nhưng, đúng rồi, chất hóa học đó có sức mạnh khiến người ta sửng sốt và kinh hãi. Tất cả chúng ta đều xúc động khi nhìn thấy máu.

      Mặc dù ta nhìn thấy nó hàng ngày nhưng nó chưa bao giờ thôi khiến ta hồi hộp.

      Ta háo hức nhìn các khay ống nghiệm. Các ống nghiệm đó được đưa về từ khắp nơi quanh Boston. Chúng được đưa đến từ các phòng khám tư, các bệnh viện và những bệnh viện lân cận. Ta làm việc trong phòng thí nghiệm chẩn đoán lớn nhất thành phố. Ở bất cứ nơi nào trong thành phố Boston, người ta giơ tay cho nhân viên lấy máu và máu của họ đến đây, đến tay ta.

      Ta chú ý dãy ống nghiệm đầu tiên. mỗi ống nghiệm đều ghi tên nạn nhân, tên bác sỹ và ngày tháng. Cạnh dãy ống nghiệm đó có tờ giấy cầu kèm theo. Ta lấy tờ giấy, lật nhanh và xem những cái tên đó.

      Khi đọc được nửa, ta dừng lại. Ta nhìn cầu xét nghiệm máu cho Karen Sobel, hai mươi lăm tuổi, sống tại số 7536, phố Cloak ở Brooklin. ta là người Cap-ca, chưa lập gia đình. Ta biết tất cả những thông tin đó vì chúng được ghi tờ giấy. Có cả số thẻ bảo hiểm xã hội, tên giám đốc và công ty bảo hiểm.

      Bác sỹ của ta cầu thực hai bài xét nghiệm: HIV, giang mai và bệnh lậu.

      Ở mục “Chẩn đoán”, bác sỹ của ta ghi: “Bị cưỡng bức tình dục”.

      Trong khay, ta tìm thấy ống nghiệm có máu của Karen Sobel. Nó có màu đỏ đậm, rất đặc. Đây là máu của con thú bị thương. Ta cầm nó trong tay, nó rất ấm. Ta nhìn thấy, cảm thấy ta, cảm thấy tên là Karen Sobel này. ta suy sụp, run rẩy, chờ bị xử tử.

      Rồi có giọng ai đó làm ta giật mình. Ta ngẩng lên.

      Catherine Cordell vừa bước vào phòng thí nghiệm của ta.

      ta đứng rất gần đến nỗi ta gần như có thể đưa tay ra là chạm vào ta. Ta ngạc nhiên khi thấy ta ở đây, nhất là vào lúc giao thời giữa bóng tối và buổi rạng đông. Rất hiếm khi các bác sỹ chuyên khoa lại bén mảng đến thế giới của ta. Giờ khi nhìn ta, ta thấy háo hức kỳ lạ. Nó choán lấy ra như hình ảnh nàng Persephone xuống xứ sở địa ngục Hades.

      Ta tự hỏi điều gì khiến ta đến đây. Rồi ta nhìn thấy ta đưa mấy ống nghiệm cho nhân viên kỹ thuật ở dãy kế bên. Ta nghe thấy ta “máu chảy rất nhiều”, và ta hiểu tại sao ta lại đến đây. Giống như nhiều bác sỹ chuyên khoa khác, ta tin tưởng những chiếc xe đẩy đưa các mẫu chất lỏng quý giá . Đích thân ta đem những ống đựng chất lỏng đó xuống đường hầm nối Bệnh viện Hành Hương và Phòng thí nghiệm liên thông này.

      Ta nhìn ta bỏ . ta ngang qua khu làm việc cửa ta. Vai ta trũng xuống. ta lắc lư, chân loạng choạng như thể ta cố trong vũng bùn. mệt mỏi và ánh đèn huỳnh quang màu xanh khiến da ta trong như sữa, phủ lên khuôn mặt đầy xương. ta biến mất sau cánh cửa, bao giờ biết là ta nhìn ta.

      Ta lại nhìn ống nghiệm của Karen Sobel tay. Đột nhiên máu của ta xám ngoét, lạnh tanh. Con mồi này chẳng đáng cho ta săn khi so sánh với con mồi vừa ngang qua ta.

      Ta vẫn ngửi thấy mùi của Catherine Cordell.

      Ta bật máy tính, dưới mục “Tên bác sỹ”, ta đánh chữ “Catherine Cordell”. Màn hình ra các bài xét nghiệm máu mà ta cầu trong vòng hai mươi tư giờ qua. Ta thấy ta ở bệnh viện từ lúc mười giờ tối. Giờ năm rưỡi, và hôm nay là thứ sáu. Cả ngày dài làm việc tại phòng khám chờ ta.

      Giờ ngày làm việc của ta hết.

      Khi ta ra khỏi tòa nhà là bảy giờ sáng, Ánh sáng ngày mới rọi thẳng vào mắt ta. Lúc này ta cảm thấy nóng bức. Ta về phía khu đỗ xe, thang máy lên tầng năm và về phía khu đỗ xe số 541. Ô tô của ta đậu ở đó. Đó là chiếc Mercedes màu vàng, mốt của năm nay. ta giữ nó sạch bóng.

      Ta lấy chùm chìa khóa trong túi. Ta cất kỹ chúng trong vòng hai tuần. Ta lấy ra chiếc, tra vào ổ khóa xe.

      Khóa mở tách cái.

      Ta nhìn vào bên trong và thấy thanh gạt nâng thùng để hành lý sau xe hơi. Đây là dụng cụ an toàn tuyệt vời để phòng trường hợp trẻ con khóa ở bên trong xe.

      chiếc ô tô gầm gừ tiến vào khu để xe. Ta nhanh chóng đóng thùng sau xe lại và bỏ .





      Cuộc chiến thành Troy diễn ra đẫm máu trong suốt mười năm. Những giọt máu của trinh tiết Iphigenia khu tế thần Aulis và nó khiến những con tàu Hy Lạp tăng tốc trong cơn gió để tiến về phía thành Troy.

      Nhưng người Hy Lạp chiến thắng nhanh chóng vì các vị thần ngọn núi thiêng Olympus chia thành hai phe. Ủng hộ thành Troy có thần Aphrodite, thần Ares, thần Apollo và thần Artemis. Đứng về phía quân Hy Lạp có thần Hera, Athena và thần Poseidon. Chiến thắng cứ nghiêng về bên này, rồi lại sang bên kia, bất định như những cơn gió. Những vị hùng bị đâm, bị giết và nhà thơ Vigil viết “máu chảy thành sông.”

      Cuối cùng, thành Troy bị thất thủ, phải vì sức mạnh mà nhờ mưu trí của quân Hy Lạp. Vào buổi bình minh cuối cùng của thành Troy, binh lính thức dậy và thấy con ngựa gỗ khổng lồ, chặn hết toàn bộ cổng chính.

      Khi ta nghĩ về Con ngựa gỗ thành Troy, ta rất thắc mắc về ngu dốt của binh lính thành Troy. Khi họ lăn con vật khổng lồ đó vào trong thành, họ nhận ra trong đó có kẻ thù nấp sao? Tại sao suốt đêm đó họ say sưa chè chén và tâm trí họ bị lú lẫn hết vì bữa tiệc say khướt để mừng chiến thắng? Ta ước ta hiểu được điều đó.

      Có lẽ chính những bức tường thể xâm phạm của họ khiến họ tự cao tự mãn. khi những cánh cổng được đóng lại, những hàng rào bảo vệ kiên cố và làm sao kẻ thù có thể tấn công họ? Kẻ thù của họ bị ngăn cách bên ngoài những bức tường đó.

      ai thèm dừng lại để nghĩ đến khả năng kẻ thù của họ ở bên trong những cánh cổng. ai nghĩ kẻ thù của họ ở đó, ngay bên cạnh họ.

      Ta nghĩ về con ngựa gỗ thành Troy khi khuấy tan sữa và đường vào cốc cà phê.

      Ta nhấc điện thoại.

      - Văn phòng phẫu thuật, tôi là Helen - nhân viên tiếp khách trả lời.

      - Tôi có thể gặp bác sỹ Catherine Cordell chiều nay ? - Ta hỏi.

      - Ông có việc gì khẩn cấp ?

      - hẳn. Tôi bị khối u lưng. Nó đau lắm nhưng tôi muốn ấy kiểm tra cho tôi.

      - Tôi có thể sắp xếp lịch hẹn cho ông trong vòng hai tuần nữa.

      - Tôi thể gặp ấy chiều nay sau cuộc hẹn cuối cùng của ấy với bệnh nhân sao?

      - Tôi xin lỗi, ông… À xin hỏi ông tên gì ạ?

      - Ông Troy.

      - Thưa ông Troy, bác sỹ Cordell kín lịch đến tận năm giờ chiều và ấy về nhà ngay sau đó. Hai tuần là điều tốt nhất tôi có thể làm cho ông.

      - Vậy thôi! Tôi nhờ bác sỹ khác.

      Ta gác máy. Vậy là ta biết vào lúc khoảng năm giờ chiều, ta ra khỏi văn phòng. ta mệt mỏi nên chắc chắn lái xe thẳng về nhà.

      Giờ là chín giờ sáng. Hôm nay ngày chờ đợi và hy vọng.

      Trong suốt mười năm đổ máu, người Hy Lạp vây hãm thành Troy. Trong suốt mười năm, họ kiên trì, chiến đấu với bức tường thành của quân thù. Cuối cùng, vận may của họ đến và được những vị thần núi Olympus ủng hộ.

      Ta chờ hai năm để có được phần thưởng này.

      Như thế là quá đủ.




      HAI MƯƠI MỐT



      Thư ký Văn phòng Sinh viên của Đại học y Emory trông rất giống diễn viên Doris Day. Đó là tóc vàng hoe trưởng thành thành nữ y tá trưởng quyến rũ. Winnie Bliss đun bình cà phê cạnh hòm thư sinh viên. bàn bát thủy tinh đựng kẹo bơ. Moore có thể hình dung sinh viên y khoa thấy thoải mái thế nào khi được mình vào căn phòng này. Winnie làm việc ở văn phòng này gần hai mươi năm. Vì có con nên dồn hết tình thương của người mẹ cho những sinh viên đến lấy thư ở văn phòng này hàng ngày. mời họ ăn bánh quy, tiết lộ cho họ những bí mật, tư vấn cho họ chuyện tình và những điểm thi kém. Mỗi năm, vào lễ tốt nghiệp, khóc sướt mướt vì trăm mười đứa con của xa . với Moore tất cả những điều này bằng giọng xứ Georgia. mời ăn bánh quy và rót cho đầy cà phê. Và tin . Winnie Bliss giống như bông hoa mộc lan, hề có chút khô cằn.

      - Tôi tin nổi khi cảnh sát Savannah gọi cho tôi cách đây hai năm - , nhàng ngồi xuống ghế - Tôi với họ chắc chắn họ nhầm lẫn. Tôi thấy Andrew Capra vào văn phòng này hàng ngày để lấy thư. Cậu ta đúng là thanh niên tử tế nhất mà mong gặp. Lịch , bao giờ lời tồi tệ nào. Tôi thường nhìn vào mắt người khác, thám tử Moore ạ, để họ biết là tôi nhìn họ. Tôi thấy cậu bé tốt bụng trong mắt Andrew.

      Moore nghĩ đây là bằng chứng cho thấy chúng ta dễ bị cái ác lừa dối như thế nào.

      - Trong suốt bốn năm Capra là sinh viên ở đây, có nhớ cậu ta thân với ai ? - Moore hỏi.

      - Ý là người hả?

      - Tôi quan tâm đến bạn nam hơn. Tôi chuyện với bà chủ nhà trước đây của cậu ta ở Atlanta. Bà ấy thanh niên thường xuyên đến thăm Capra. Bà ấy nghĩ đó cũng là sinh viên y.

      Winnie đứng lên, lại gần tủ hồ sơ. Ở đó lưu giữ những bản in từ máy tính.

      - Đây là bảng danh sách lớp trong năm học của Andrew. Có khoảng trăm mười sinh viên trong lớp năm nhất của cậu ta. nửa trong số đó là nam.

      - ta có chơi thân với ai trong số đó ?

      nhìn nhanh tờ giấy, lắc đầu.

      - Tôi xin lỗi. Tôi nhớ là có ai trong danh sách này thân với cậu ta.

      - Vậy ý là cậu ta có bạn?

      - Tôi là tôi biết về bạn của cậu ta.

      - Tôi có thể xem danh sách chứ?

      đưa danh sách cho . xem những trang giấy, nhưng tên nào ngoài tên Capra có vẻ quen với .

      - biết tất cả những sinh viên này sống ở đâu ?

      - Có. Tôi cập nhật địa chỉ gửi thư của họ để gửi thư hội.

      - Có ai trong số họ sống quanh thành phố Boston ?

      - Để tôi xem! quay về phía máy tính. Những móng tay sơn màu hồng của gõ lên bàn phím. ngây thơ của Winnie Bliss khiến trông như phụ nữ đến từ thời cổ điển và tao nhã ngày xưa. Vì vậy thấy lạ khi nhìn thành thạo tìm những hồ sơ máy tính.

      - Có người ở Newton, Massachusetts. Có gần Boston ?

      - Có - Moore cúi người về phía trước, mạch đột nhiên đập nhanh hơn - ta tên gì?

      - Đó là . Latisha Green. rất tốt bụng. ấy từng mang biếu tôi những hộp quả bồ đào pê-can. Tất nhiên ấy rất tinh quái vì ấy biết tôi chăm chú đến dáng vóc. Nhưng tôi nghĩ ấy thích đem đồ ăn cho mọi người. Đó chỉ là thói quen của ấy.

      - ấy kết hôn chưa? ấy có bạn trai ?

      - Ồ, ấy có người chồng tuyệt vời! Đó là người đàn ông tuyệt nhất mà tôi từng gặp! Cao mét chín mươi và da đen bóng.

      - Da đen - nhắc lại.

      - Đúng. Đen gần như da thuộc.

      Moore thở dài và lại nhìn danh sách.

      - Vậy là có ai khác ở trong lớp của Capra sống gần Boston theo như biết?

      - phải theo như danh sách của tôi - quay về phía - Ồ, trông có vẻ thất vọng - với vẻ rầu rĩ như thể cảm thấy mình phải chịu trách nhiệm vì thất bại của .

      - Tôi thu được rất nhiều số hôm nay - .

      - Ăn kẹo nhé!

      - , cảm ơn.

      - Cũng chú ý giảm cân hả?

      - Tôi thích đồ ngọt.

      - Vậy chắc chắn phải là người miền nam rồi, thám tử.

      thể nhịn cười. Winnie Bliss với cặp mắt to, giọng dịu dàng lôi cuốn . Chắc chắn cũng lôi cuốn mọi sinh viên, cả nam và nữ, những người từng vào văn phòng của . chú ý thấy bức tường phía sau dãy ảnh.

      - Đó có phải là các lớp y ?

      quay về phía bức tường.

      - Chồng tôi chụp ảnh tại tất cả lễ tốt nghiệp cho tôi. dễ khi tập hợp toàn bộ sinh viên. Việc đó như thể tập trung những con mèo, theo như chồng tôi . Nhưng tôi muốn có những bức ảnh đó. Tôi bắt bọn chúng phải làm vậy. Đó là những nhóm người đẹp phải ?

      - Đâu là bức chụp ảnh lớp Capra khi tốt nghiệp?

      - Tôi cho xem sổ niêm giám. đó cũng có tên - đứng lên, về phía giá sách có tấm kính chắn. cẩn thận lấy tập ảnh giá và vuốt tay lên trang bìa, như thể muốn lau hết bụi - Đây là năm Andrew tốt nghiệp. Bức ảnh này chụp toàn bộ bạn cùng lớp của Capra và nó cho biết họ có được chấp nhận thực tập hay - dừng lại, rồi đưa cuốn sách cho - Đây chỉ là sao chép của tôi. có thể vui lòng chỉ xem ở đây, đừng mang !

      - Tôi ngồi ở ngay góc đằng kia, làm phiền . có thể trông chừng tôi. Thế nào?

      - Ôi tôi xin lỗi nếu tôi có là tôi tin !

      - Ồ, đừng vậy - , nháy mắt. đỏ mặt như nữ sinh.

      cầm cuốn sách về phía góc phòng. Ở đó ấm cà phê và đĩa bánh quy được đặt khu bàn . ngồi vào chiếc ghế dễ chịu, mở cuốn niêm giám sinh viên Đại học y Emory. đến giờ nghỉ trưa. đoàn sinh viên năm thứ nhất mặc áo khoác trắng vào văn phòng của để kiểm tra thư. Trẻ con thành bác sỹ từ khi nào? thể tưởng tượng giao cơ thể trung niên của mình cho trong những người trẻ tuổi này. thấy những ánh mắt tò mò và nghe thấy Winnie Bliss thầm.

      - Ông ấy là thám tử điều tra án mạng từ Boston - Đúng vậy, ông già lụ khụ ngồi ở góc phòng.

      Moore ngồi lún sâu hơn chiếc ghế, tập trung vào những bức ảnh. Sau mỗi bức ảnh là tên sinh viên, quê quán và nơi sinh viên đó được nhận thực tập. Khi lật đến bức ảnh Capra, dừng lại. Capra nhìn thẳng vào máy ảnh. Đó là thanh niên trẻ, tươi cười, ánh mắt thẳng thắn như che giấu điều gì. Đây là điều khiến Moore sợ nhất - những kẻ săn mồi lẫn trong những con mồi mà bị phát .

      Sau bức ảnh của Capra là tên chương trình tòa công sứ của . Bác sỹ phẫu thuật, Trung tâm y tế Riverland, Savannali, Georgia.

      tự hỏi có ai khác ngoài Capra thực tập ở Savannah , có ai khác sống ở thị trấn đó khi Capra sát hại những . lật qua những trang giấy và thấy có ba sinh viên khác cũng được nhận thực tập tại Savannah. Hai trong số đó là nữ, người thứ ba là sinh viên nam châu Á.

      Lại là ngõ cụt khác.

      cúi người về phía trước, hoàn toàn thất vọng. Cuốn sách rơi đùi . thấy bức ảnh thầy chủ nhiệm trường y cười với . Dưới đó là khẩu hiệu của ông dành cho các sinh viên tốt nghiệp: “Để hàn gắn thế giới.”



      Hôm nay, trăm linh tám thanh niên tuyên thệ long trọng. Nó kết thúc chuyến dài và gian lao. Lời thề với tư cách là bác sỹ, người chữa bệnh, phải được thực cách qua loa, vì nó kéo dài trong suốt đời họ…



      Moore ngồi lên, đọc lại câu của thầy chủ nhiệm.

      Hôm nay, trăm linh tám thanh niên…

      đứng lên, lại gần bàn của Winnie Bliss.

      - Bliss?

      - Vâng, thưa thám tử?

      - trăm mười sinh viên trong lớp năm nhất của Capra.

      - Chúng tôi nhận trăm mười sinh viên mỗi năm.

      - Ở đây, trong lời phát biểu của thầy chủ nhiệm, thầy trăm linh tám người tốt nghiệp. Còn hai người khác sao?

      Winnie buồn bã lắc đầu.

      - Tôi vẫn chưa quên chuyện đó được, chuyện xảy ra với xấu số đó.

      - nào?

      - Laura Hutchinson. ấy làm việc tại phòng bệnh ở Haiti, trong các khóa học tự chọn của chúng tôi. Đường xá ở đó, ôi, tôi nghe khủng khiếp lắm. Xe tải lao vào rãnh và nghiến lên ấy.

      - Vậy đó là tai nạn.

      - ấy bị xe tải nghiến lên. Trong vòng mười giờ họ thể đưa ấy ra được.

      - Còn sinh viên khác sao? Có người nữa được tốt nghiệp ở lớp đó.

      Winnie nhìn xuống bàn. thấy muốn về chủ đề này.

      - Bliss?

      - Chuyện này xảy ra khá thường xuyên - - sinh viên bị tụt lại. Chúng tôi cố giúp họ vào chương trình, nhưng biết đấy, vài người trong số họ thực có vấn đề về tiền nong.

      - Vậy sinh viên đó tên gì?

      - Warren Hoyt.

      - Cậu ta bị tụt lại?

      - Đúng, có thể vậy.

      - Đó là vấn đề về mặt kiến thức?

      - Ồ… - nhìn quanh, như thể muốn cầu cứu nhưng tìm thấy giúp đỡ - Có lẽ nên chuyện với trong các giáo sư của chúng tôi, bác sỹ Kahn. Ông ấy có thể trả lời câu hỏi của .

      - biết câu trả lời sao?

      - Đó là vấn đề… riêng tư. Bác sỹ Kahn nên cho biết.

      Moore nhìn đồng hồ. nghĩ đêm nay bắt máy bay đến Savannah nhưng có vẻ như làm được việc đó.

      - Tôi có thể tìm bác sỹ Kahn ở đâu?

      - Phòng thí nghiệm giải phẫu.





      có thể ngửi thấy mùi chất ngâm xác fooc-ma-lin khi dọc hành lang. Moore dừng lại trước cửa phòng có ghi GIẢI PHẪU, chuẩn bị tâm lý cho những điều sắp diễn ra. Mặc dù nghĩ sẵn sàng, nhưng khi bước qua cánh cửa, bị choáng lúc. Hai mươi tám chiếc bàn được kê thành bốn dãy được đặt theo chiều dọc căn phòng. bàn nào cũng có xác người bị mổ nhiều lần. giống những xác chết mà Moore quen nhìn thấy trong phòng Khám nghiệm tử thi, những cơ thể này trông như nhân tạo. Da họ dai như nhựa vi-nyl, những phần mạch lộ ra gân xanh và màu đỏ. Hôm nay, các sinh viên tập trung vào phần đầu, họ xẻ các cơ mặt. Mỗi xác chết được giao cho bốn sinh viên. Căn phòng ồn ào tiếng người này đọc cho những người khác nghe thông tin trong sách giáo khoa. Họ trao đổi câu hỏi và lời khuyên. Nếu có những vật thể rùng rợn bàn những sinh viên này có thể trông như công nhân nhà máy, làm việc với những bộ phận máy móc.

      tò mò ngẩng lên nhìn Moore, người khách lạ ăn mặc lịch vừa bước vào phòng họ.

      - Ông tìm ai ạ? - hỏi. Dao mổ của ấn ngập vào má xác chết.

      - Bác sỹ Kahn.

      - Bác sỹ ở bên kia phòng. Ông có thấy người đàn ông to lớn, râu trắng ?

      - Tôi thấy rồi, cảm ơn! - tiếp tục qua những dãy bàn. Ánh mắt thể rời khỏi những xác chết khi qua. phụ nữ, chân tay như những thanh thép nằm bàn. người đàn ông da đen, đùi bị rạch hết da. Cuối dãy bàn có nhóm sinh viên chăm chú lắng nghe người trông như ông già Nô-en. Ông chỉ những thớ cơ phức tạp dây thần kinh mặt.

      - Bác sỹ Kahn phải ? - Moore hỏi.

      Kahn ngẩng lên. Tất cả những nét giống ông già tuyết tan biến. Người đàn ông này có cặp mắt tối sẫm, nghiêm nghị, có chút hài hước.

      - Vâng.

      - Tôi là thám tử Moore. Bliss ở Văn phòng Sinh viên bảo tôi đến đây.

      Kahn đứng thẳng lên. Đột nhiên Moore thấy người đàn ông to lớn, đồ sộ. Con dao mổ trông bé trong bàn tay hộ pháp của ông. Ông đặt dao mổ xuống, tháo găng tay. Khi ông quay lại rửa tay ở bồn nước, Moore thấy mái tóc bạc trắng của ông buộc thành túm đuôi gà.

      - Có chuyện gì vậy? - Kahn và lấy giấy lau.

      - Tôi có vài câu hỏi về sinh viên y năm thứ nhất mà ông dạy cách đây bảy năm. Warren Hoyt.

      Kahn quay lưng lại nhưng Moore chỉ thấy cánh tay khổng lồ của ông dừng lại bồn nước. Nước giọt xuống. Rồi Kahn giật mạnh cuộn giấy khỏi khay, lặng lẽ lau tay.

      - Ông nhớ cậu ta ? - Moore hỏi.

      - Có.

      - Nhớ chứ?

      - Đó là sinh viên khó mà quên được.

      - Ông có thể thêm cho tôi biết ?

      - hẳn - Kahn ném viên giấy vào thùng rác.

      - Đây là vụ điều tra án mạng, thưa bác sỹ Kahn.

      Lúc này, tất cả sinh viên y đều quay lại nhìn họ. Từ án mạng khiến họ chú ý.

      - Hãy vào văn phòng của tôi.

      Moore theo ông vào căn phòng bên cạnh. Qua tấm kính ngăn, họ có thể thấy phòng thí nghiệm và toàn bộ hai mươi tám cái bàn. Đó là ngôi làng của những xác chết.

      Kahn đóng cửa, quay lại nhìn .

      - Tại sao hỏi tôi về Warren? Cậu ta làm gì?

      - Theo chúng tôi biết có gì. Tôi chỉ cần biết mối quan hệ của cậu ta với Andrew Capra.

      - Andrew Capra à? - Kahn khịt mũi - Sinh viên tốt nghiệp nổi tiếng nhất của chúng tôi. Giờ người ta muốn biết đến trường y khác nữa. Ớ đó dạy người ta cách cắt mổ và giết người.

      - Ông nghĩ Capra có điên ?

      - Tôi chắc về những chẩn đoán tâm lý cho loại người như Capra.

      - Vậy ông có ấn tượng gì với cậu ta?

      - Tôi chẳng thấy gì bất thường. Tôi thấy Andrew hoàn toàn bình thường.

      Đây là lời mô tả rùng rợn nhất Moore thường nghe.

      - Còn Warren Hoyt sao?

      - Sao lại hỏi về Warren Hoyt?

      - Tôi cần biết liệu cậu ta và Capra có chơi với nhau .

      Kahn nghĩ kỹ.

      - Tôi biết. Tôi thể với những chuyện xảy ra bên ngoài phòng thí nghiệm này. Tất cả những gì tôi thấy diễn ra trong phòng này. Các sinh viên cố thu được lượng thông tin khổng lồ vào bộ não quá tải của họ. phải ai trong số họ cũng có thể chịu được căng thẳng.

      - Có phải chuyện đó xảy ra với Warren? Đó là lý do cậu ta thôi học trường y ?

      Kahn quay về phía kính ngăn, nhìn phòng giải phẫu.

      - bao giờ tự hỏi những xác chết đó lấy từ đâu ?

      - Xin lỗi!

      - Làm thế nào những trường y có chúng? Tại sao rốt cuộc họ lại nằm những chiếc bàn đó, rồi bị phanh thây?

      - Tôi nghĩ người ta để lại di chúc hiến xác cho trường.

      - Chính xác! Mỗi người trong số những xác chết đó đưa ra quyết định rất hào phóng. Họ hiến xác cho chúng tói. Thay vì nằm cả đời trong quan tài gỗ, họ lựa chọn làm việc gì đó có ích với những gì còn lại của mình. Họ dạy những thế hệ cứu người của chúng tôi. Chúng tôi thể làm gì nếu có xác . Sinh viên cần quan sát ba chiều toàn bộ các bộ phận cơ thể người. Họ cần dùng dao mổ để khám phá từng nhánh động mạch, tĩnh mạch, các bó cơ mặt. Đúng là có thể học vài điều máy tính nhưng việc đó giống với việc thực cắt vào da thịt, lôi ra những sợi thần kinh mỏng nhất. Vì lý do đó, cần xác chết. cần những người cực kỳ hào phóng và rộng lượng để cống hiến phần thân thuộc nhất của chính họ - đó là cơ thể của họ. Tôi coi mỗi xác chết ngoài đó là những người phi thường. Tôi đối xử với họ như vậy. Và tôi mong sinh viên của mình cũng tôn trọng họ. được cười ồn ào trong căn phòng đó. Họ phải đối xử với mỗi cái xác, mỗi bộ phận cơ thể với thái độ tôn trọng. Khi cắt mổ xong những phần còn lại bị thiêu hủy và hỏa táng thỏa đáng theo đúng nghi lễ - ông quay lại nhìn Moore - Đó là cách làm việc tại phòng thí nghiệm của tôi.

      - Chuyện đó có liên quan gì đến Warren Hoyt?

      - Tất cả đều liên quan.

      - Vì lý do cậu ta rút lui à?

      - Đúng - Ông quay về phía cửa sổ.

      Moore chờ đợi, nhìn tấm lưng rộng của vị giáo sư và cho phép mình thêm thời gian để nghĩ những lời sau đó.

      - Việc mổ xẻ - Kahn - Là quá trình lâu dài. Vài sinh viên thể hoàn thành bài tập trong suốt thời gian ở lớp. Vài người trong số họ cần thêm thời gian để xem lại phần giải phẫu phức tạp. Vì vậy tôi cho phép họ vào phòng thí nghiệm bất cứ lúc nào. Mỗi người đều có chìa khóa của tòa nhà này. Họ có thể vào làm việc lúc nửa đêm nếu muốn, vài người làm vậy.

      - Warren làm vậy à?

      Ông dừng lại.

      - Đúng vậy.

      cảm giác rợn người bắt đầu lan lên cổ Moore.

      Kahn về phía tủ hồ sơ, mở ngăn kéo, lục tìm đống tài liệu lộn xộn bên trong.

      - Hôm đó là chủ nhật. Cả ngày cuối tuần tôi ra khỏi thành phố. Đêm đó tôi phải quay lại chuẩn bị bài mẫu cho lớp học vào sáng thứ hai. biết đấy, nhiều người trong số bọn trẻ cắt mổ rất vụng về. Họ biến những mẫu vật thành đống thịt. Vì vậy tôi muốn có mẫu cắt mổ tốt để trưng bày, để cho họ thấy họ tàn phá những xác chết như thế nào. Khi đó chúng tôi làm việc với hệ sinh dục. Họ bắt đầu cắt bỏ những bộ phận đó. Tôi nhớ khi tôi lái xe vào trường rất muộn, có thể quá nửa đêm. Tôi thấy ánh đèn từ cửa sổ phòng thí nghiệm. Tôi nghĩ đó là sinh viên bị bắt buộc đến đây để theo kịp bạn bè. Tôi vào tòa nhà, đọc hành lang, rồi mở cửa.

      - Và Warren Hoyt ở đó - Moore liều.

      - Đúng vậy - Kahn thấy thứ ông tìm trong ngăn kéo hồ sơ. Ổng lấy tập tài liệu ra và quay về phía Moore - Khi tôi thấy cậu ta làm gì, tôi… tôi thể kiểm soát nổi mình. Tôi túm áo cậu ta ném về phía bồn nước. Lúc đó tôi hề tay, tôi thú nhận điều đó. Nhưng tôi giận đến nỗi kìm mình được. Bây giờ tôi vẫn còn giận khi nghĩ về việc đó - Ông thở dài. Mặc dù bảy năm trôi qua nhưng ông vẫn bình tĩnh được - Sau khi… sau khi chửi mắng cậu ta xong, tôi lôi cậu ta vào văn phòng. Tôi bảo cậu ta ngồi xuống và ký vào tờ đơn ghi rằng cậu ta rời khỏi trường y đúng tám giờ sáng hôm sau. Tôi cầu cậu ta đưa ra lý do nhưng cậu ta phải rời trường. Nếu tôi báo cáo về việc tôi nhìn thấy trong phòng thí nghiệm. Tất nhiên cậu ta đồng ý. Cậu ta còn lựa chọn nào khác. Dường như cậu ta cũng bận tâm về chuyện đó. Đó là điều mà tôi cảm thấy lạ nhất về cậu ta - gì làm bận tâm. Cậu ta có thể chấp nhận việc đó rất bình tĩnh và sáng suốt. Nhưng đó là Warren. bao giờ buồn vì bất cứ chuyện gì. Cậu ta gần như… - Kahn dừng lại - Như cái máy.

      - Ông thấy điều gì? Ông thấy cậu ta làm gì ở đó?

      Kahn đưa cho Moore tập tài liệu.

      - Tất cả đều được viết trong này. Tôi giữ nó suốt bảy năm nay, phòng khi Warren đưa việc này ra tòa. biết đấy, nay sinh viên y có thể kiện về bất cứ chuyện gì. Nếu cố đăng ký vào trường lần nữa tôi muốn chuẩn bị sẵn câu trả lời.

      Moore cầm tập hồ sơ. Nó chỉ được ghi dòng chữ: Hoyt Warren. Bên trong có ba trang viết bằng tay:

      - Warren được giao bài tập thực hành xác chết phụ nữ - Kahn - Cậu ta và các bạn trong phòng thí nghiệm bắt đầu mổ phần xương chậu, để lộ ra phần bàng quang và tử cung. Các bộ phận đó bị cắt rời, mà để nguyên ở đó. Vào đêm chủ nhật đó, Warren đến phòng thí nghiệm để làm nốt. Nhưng đáng lẽ phải phẫu thuật cẩn thận cậu ta lại cắt bỏ chúng. Như thể cậu ta cầm dao mổ và mất hết lý trí. Cậu ta để lộ các bộ phận đó ra. Cậu ta cắt bỏ chúng ra khỏi cơ thể. Đầu tiên, cậu ta cắt rời bàng quang, đặt nó giữa hai chân xác chết. Sau đó cậu ta cắt tiếp tử cung. Cậu ta làm tất cả những việc đó mà đeo găng tay, như thể cậu ta muốn cảm nhận các bộ phận đó bằng da thịt. Và tôi thấy cậu ta lúc đó. tay cậu ta cầm tử cung rỏ máu, và tay kia… - Giọng của Kahn tỏ vẻ kinh tởm.

      Điều Kahn thể được viết tờ giấy Moore đọc. Moore tự đọc câu cuối “Cậu ta thủ dâm.”

      Kahn đến bên bàn, ngồi xuống ghế.

      - Đó là lý do tôi thể cho cậu ta tốt nghiệp. Lạy Chúa! Cậu ta trở thành loại bác sỹ gì đây? Nếu cậu ta làm vậy với xác chết cậu ta còn dám làm gì với người sống?

      Tôi biết làm gì. Tôi tận mắt nhìn thấy những việc làm.

      Moore lật trang thứ ba trong hồ sơ của Hoyt và đọc ghi chép cuối cùng của bác sỹ Kahn.



      Sinh viên Hoyt đồng ý là cậu ta tự nguyện rời khỏi trường vào đúng tám giờ sáng ngày mai. Đổi lại, tôi giữ bí mật về chuyện này. Do những tổn hại của xác chết, các bạn cùng nhóm trong phòng thí nghiệm của cậu ta được chỉ định làm việc cùng nhóm khác trong bài tập giải phẫu cơ quan sinh dục.



      Các bạn trong phòng thí nghiệm.

      Moore nhìn Kahn.

      - Warren có bao nhiêu bạn thực hành?

      - Mỗi bàn có bốn người.

      - Ba sinh viên còn lại là ai?

      Kahn cau mày.

      - Tôi nhớ. bảy năm rồi.

      - Ông ghi chép lại những bài tập đó sao?

      - - ông dừng lại - Nhưng tôi nhớ sinh viên trong nhóm đó. trẻ - Ông quay mặt về phía máy tính và mở tệp có danh sách sinh viên y khoa của mình. Danh sách các sinh viên năm thứ nhất trong lớp của Warren Hoyt xuất màn hình. Kahn mất lúc để xem kỹ từng tên, rồi ông .

      - Đây rồi. Emily Johnstone. Tôi nhớ ấy.

      - Tại sao?

      - Ồ, đầu tiên là ấy rất dễ thương, trông giống như Meg Ryan. Thứ hai là vì sau khi Warren rời trường, ấy muốn biết lý do. Tôi muốn cho ấy biết nguyên nhân . Vì vậy ấy tiếp và hỏi có chuyện gì liên quan đến phụ nữ . Dường như Warren theo Emily quanh trường. ấy sợ hãi. Chẳng cần cũng hiểu ấy người thế nào khi cậu ta rời trường.

      - Ông có nghĩ là ấy nhớ hai người bạn còn lại ?

      - Có khả năng đó - Kahn nhấc máy và gọi Văn phòng Sinh viên - Này, Winnie, có số điện thoại liên lạc giờ của Emily Johnstone ? - ông lấy bút, ghi số rồi gác máy - ấy ở bệnh viện tư ở Houston - ông , rồi lại quay số - Giờ ở đó là mười giờ, nên có lẽ ấy… Xin chào, Emily phải ?… Đây là giọng từ quá khứ của em. Tôi là bác sỹ Kahn ở Đại học Emory… Đúng vậy, phòng thí nghiệm giải phẫu. Lâu lắm rồi đúng ?

      Moore cúi về phía trước, mạch đập nhanh.

      Khi Kahn gác máy nhìn , thấy câu trả lời trong mắt ông.

      - ấy nhớ hai sinh viên cùng thực tập khác - Kahn - sinh viên nữ tên là Barb Lippman. Còn người kia…

      - Là Capra?

      Kahn gật đầu.

      Người cùng nhóm số bốn là Andrew Capra.

    3. vulinh

      vulinh Well-Known Member

      Bài viết:
      20,019
      Được thích:
      24,221
      HAI MƯƠI HAI




      Catherine dừng lại trước cửa văn phòng của Peter. ngồi ở bàn, biết là nhìn , bút của loạt soạt hồ sơ bệnh án. Trước đây chưa bao giờ dành thời gian để thực quan sát . Và điều thấy lúc này khiến môi nở nụ cười. làm việc tập trung cách đáng sợ. Đó chính là hình ảnh của bác sỹ tận tâm, ngoại trừ chi tiết bất thường: chiếc máy bay giấy nằm sàn. Peter và những chiếc máy bay ngớ ngẩn của ấy.


      gõ cửa. nhìn lên qua mắt kính và giật mình khi thấy ở đó.


      - Tôi chuyện với được ? - hỏi.


      - Tất nhiên. Vào !


      ngồi xuống chiếc ghế đối điện với bàn của . gì, chỉ kiên nhẫn chờ . có cảm giác là dù có ngồi bao lâu vẫn ở đó, chờ .


      - Mọi chuyện… rất căng thẳng giữa hai chúng ta.


      gật đầu.


      - Tôi biết việc đó khiến khó chịu cũng như tôi. Và tôi thấy rất phiền lòng. Vì tôi luôn quý mến , Peter. Có lẽ trông phải vậy, nhưng tôi rất mến - hít sâu, chọn lọc từ cho đúng - Nhưng vấn đề giữa hai chúng ta có gì liên quan đến . Đó là do tôi. Bây giờ có quá nhiều chuyện xảy ra trong đời tôi. Tôi rất khó giải thích.


      - cần làm vậy.


      - Nhưng tôi nhìn thấy hai chúng ta chia rẽ. chỉ tình đồng nghiệp, mà tình bạn cũng sụp đổ. Tôi nhận ra điều đó quan trọng với tôi mức nào cho đến khi tôi cảm thấy bị trôi dạt - đứng lên - Dù sao tôi cũng xin lỗi. Tôi đến để những điều đó - về phía cửa.


      - Catherine - khẽ - Tôi biết về vụ của ở Savannah.


      quay lại nhìn . Ánh mắt rất thản nhiên.


      - Thám tử Crowe cho tôi biết.


      - Khi nào?


      - Mấy hôm trước, khi tôi mời ấy đến đây. ấy nghĩ là tôi biết rồi.


      gì.


      - Tôi có lý do gì để khơi lại chuyện đó. Tôi muốn cảm thấy tự tin và với tôi. Tôi biết cần thời gian và tôi chờ đợi cho đến khi nào tin tưởng tôi.


      thở mạnh.


      - Ồ, vậy biết điều tồi tệ nhất về tôi.


      - , Catherine - đứng lên, đối diện với - Tôi biết điều tốt đẹp nhất về ! Tôi biết mạnh mẽ nhường nào, dũng cảm nhường nào. Trong suốt thời gian qua, tôi biết gặp chuyện gì. Lẽ ra có thể với tôi. có thể tin tưởng tôi.


      - Tôi nghĩ điều đó thay đổi mọi chuyện giữa chúng ta.


      - Sao lại thế?


      - Tôi muốn thương hại tôi. Tôi bao giờ muốn bị thương hại.


      - Thương hại vì điều gì? Vì chiến đấu chăng? Vì sống lại sau những điều tưởng như thể ư? Vì lý do quái gì mà tôi lại phải thương xót cho ?


      chớp mắt.


      - Những người đàn ông khác làm vậy.


      - Vậy họ thực hiểu . Tôi như vậy.


      bước ra khỏi bàn để giữa họ còn ngăn cách.


      - nhớ ngày chúng ta gặp nhau chứ?


      - Khi tôi đến phỏng vấn.


      - nhớ gì hôm đó?


      lắc đầu.


      - Chúng ta chuyện về việc thực hành, và về việc tôi thích hợp với nơi này như thế nào.


      - Vậy nhớ đó là buổi họp công việc?


      - Đúng vậy.


      - buồn cười. Tôi nghĩ về nó hoàn toàn khác. Tôi nhớ những câu tôi hỏi và những gì hỏi tôi. Điều tôi nhớ là khi ngước lên, tôi thấy bước vào văn phòng của tôi. Và tôi rất ngạc nhiên. Tôi thể nghĩ ra điều cần để nghe lố bịch, ngớ ngẩn hay có vẻ quá tầm thường. Tôi muốn là kẻ tầm thường trước mắt . Tôi nghĩ: đây là có tất cả. ấy thông minh, ấy xinh đẹp. Và ấy đứng ngay trước mặt mình.


      - Ôi, lạy Chúa! sai rồi. Tôi có tất cả - chớp mắt - Tôi chưa bao giờ có tất cả. Tôi chỉ cố chịu đựng…


      gì, cầm tay . Mọi việc diễn ra rất tự nhiên và dễ dàng, chút ngượng ngùng trong lần nắm tay đầu tiên. chỉ nắm tay , đòi hỏi gì. người bạn an ủi người bạn.


      - Hãy cho tôi biết tôi có thể giúp gì cho - - Bất cứ chuyện gì.


      thở dài.


      - Tôi rất mệt. Peter. có thể cùng tôi ra ô tô ?


      - Thế thôi à?


      - Đó chính là điều tôi cần ngay lúc này. Ai đó để tôi tin tưởng và cùng tôi.


      lùi lại, cười với .


      - Vậy chắc chắn tôi là người đàn ông của rồi.


      Bãi đỗ xe ở tầng năm bệnh viện vắng tanh. Những khối bê tông vang dội tiếng giày của họ và nghe như bước của những bóng ma. Nếu mình chắc chán phải nhìn trước nhìn sau suốt đường . Nhưng Peter ở bên , cảm thấy sợ hãi. đưa ra chiếc Mercedes. đứng đó khi chui vào xe. đóng cửa xe cho và chỉ vào khóa xe.


      gật dầu, ấn nút khóa và nghe thấy tiếng click an toàn cho thấy toàn bộ cánh cửa được khóa an toàn.


      - Tôi gọi cho sau - .


      Khi lái , nhìn thấy ở gương chiếu hậu, vẫy tay với . Rồi hình ảnh của biến mất khi rẽ vào con đốc.


      thấy mình cười suốt đoạn đường về Back Bay.


      Vài người đàn ông cũng đáng tin. Moore vậy với .


      Đúng vậy, nhưng là người nào? Em thể biết được.


      Em bao giờ biết cho đến khi em mở lòng. Đó là người ở ngay bên cạnh em.


      Dù là người bạn hay tình nhân Peter chắc chắn là trong số những người đàn ông đó.


      lái xe chầm chậm dọc Đại lộ Commonwealth, rẽ vào tòa nhà của mình và ấn nút điều khiển nhà để xe từ xa. Cổng an toàn gầm gừ mở ra và lái xe qua. Qua gương chiếu hậu, thấy cánh cổng đóng lại sau lưng. Chỉ khi đó mới cho phép mình thở phào nhõm. Cảnh giác là bản năng tự nhiên thứ hai của . Và luôn thực đầy đủ những trình tự đó. kiểm tra thang máy trước khi bước vào. kiểm tra hành lang trước khi bước ra ngoài. khóa hết chốt cửa khi vào phòng. pháo đài an toàn. Chỉ khi đó mới cho phép căng thẳng cuối cùng rút hết.


      đứng ở cửa, nhấm nháp trà và tận hưởng mát mẻ trong căn phòng khi nhìn những người đường nhớp nháp mồ hôi. Trong vòng ba mươi sáu giờ qua, chỉ ngủ ba tiếng. Mình có giây phút thư giãn này, nghĩ khi áp chiếc cốc mát lạnh vào má. Mình đêm ngủ sớm và ngày cuối tuần phải làm gì. nghĩ về Moore. để mình cảm thấy đau đớn. bao giờ.


      vừa uống hết cốc nước, đặt nó lên mặt bếp máy nhắn tin của kêu. muốn lại có tin nhắn từ bệnh viện. Khi gọi nhân viên trực điện thoại ở bệnh viện Hành Hương, thể giấu nỗi bực tức trong giọng của mình.


      - Tôi là bác sỹ Cordell. Tôi biết vừa nhắn tin cho tôi. Nhưng đêm nay tôi trực. Thực tôi chuẩn bị tắt máy nhắn tin bây giờ.


      - Tôi xin lỗi làm phiền , bác sỹ Cordell. Nhưng có điện thoại từ con trai ông Herman Gwadowsky. ta đòi gặp chiều nay.


      - được. Tôi về nhà rồi.


      - Đúng vậy. Tôi với ta là về nghỉ cuối tuần. Nhưng ta hôm nay là ngày cuối cùng ta ở thị trấn. ta muốn gặp trước khi ta gặp luật sư.


      luật sư sao?


      Catherine dựa mình vào mặt bếp. Lạy Chúa, còn sức lực để đương đầu với việc này. phải bây giờ. phải trong khi mệt mỏi và thể suy nghĩ mạch lạc.


      - Bác sỹ Cordell?


      - Cậu Gwadowsky đó có muốn gặp tôi khi nào ?


      - ta chờ ở phòng ăn của bệnh viện cho đến sáu giờ.


      - Cảm ơn! - Catherine gác máy, bất động nhìn những viên gạch lát sáng bóng trong nhà bếp. cẩn thận mức nào để giữ những viên gạch đó sạch ! Nhưng dù cố lau chùi mạnh mức nào hay cố sắp xếp mọi việc trong đời mình nhưng thể nghĩ đến tình huống của Ivan Gwadowsky.


      lấy ví, chìa khóa xe và lại rời thánh địa của mình.


      Trong thang máy, nhìn đồng hồ và giật mình vì năm giờ bốn mươi lăm. kịp đến bệnh viện và chàng Gwadowsky cho là tôn trọng ta.


      Khi ngồi vào chiếc Mercedes, nhấc điện thoại, gọi nhân viên trực điện thoại ở bệnh viện Hành Hương.


      - Tôi là bác sỹ Cordell đây. Tôi cần chuyện với Gwadowsky để thông báo rằng tôi đến muộn. biết ta gọi từ nhánh máy nào ?


      - Để tôi kiểm tra danh bạ điện thoại… Đây rồi. Đây phải là nhánh máy ở bệnh viện.


      - Vậy là số điện thoại di động.


      Nhân viên trực điện thoại dừng lại lát.


      - Ồ, việc này lạ quá.


      - Sao?


      - ta gọi từ số điện thoại dùng ngay lúc này.


      Catherine chết đứng. Nỗi sợ như cơn gió lạnh thổi khắp sống lưng . Xe của mình. Cuộc gọi được thực từ xe của mình.


      - Bác sỹ Cordell?


      Lúc này thấy nhô lên như con rắn hổ mang ở gương chiếu hậu. hít hơi định hét lên nhưng cổ họng nóng rực lên vì khói thuốc gây mê.


      Điện thoại tuột khỏi tay .






      Jerry Sleeper chờ ở khu bên ngoài phòng lấy hành lý. Moore ném hành lý vào ghế sau, bước vào ô tô và đóng sầm cửa xe.


      - Các tìm thấy ấy chưa? - Đó là câu hỏi đầu tiên của Moore.


      - Vẫn chưa - Sleeper khi ra khỏi bãi đỗ xe - Chiếc Mercedes của ấy biến mất. có dấu vết căn hộ của ấy bị lục soát. Dù có chuyện gì xảy ra xảy ra rất nhanh và ở trong hoặc gần xe của ấy. Peter Falco là người cuối cùng thấy ấy vào lúc gần năm giờ mười lăm ở bãi đỗ xe của bệnh viện. Gần nửa tiếng sau, nhân viên trực điện thoại ở bệnh viện Hành Hương nhắn tin cho Cordell, chuyện với điện thoại. Cordell gọi lại từ ô tô. Cuộc gọi đó bị gián đoạn. Nhân viên trực điện thoại cho rằng con trai ông Gwadowsky gọi đến.


      - xác nhận chưa?


      - Ivan Gwadowsky lên máy bay tới California vào lúc mười hai giờ trưa. ta thực cuộc gọi đó.


      Họ cần ai nhắn tin. Cả hai đều biết. Mooroe giận giữ nhìn những ánh đèn đuôi xe nối nhau như sợi dây hạt cườm màu đỏ trong đêm.


      bắt ấy từ lúc sáu giờ tối. làm gì với ấy trong bốn tiếng qua?


      - Tôi muốn xem nơi ở của Warren Hoyt - Moore .


      - Giờ chúng ta đến đó. Chúng tôi biết rời ca trực ở Phòng thí nghiệm liên ngành vào lúc bảy giờ sáng nay. Vào lúc mười giờ, gọi cho người giám sát và rằng nhà có việc khẩn cấp. Ít nhất tuần sau mới trở lại. Từ đó ai thấy , có ở căn hộ, có ở phòng thí nghiệm.


      - Và chuyện khẩn của gia đình là gì?


      - có người thân. Dì chết vào tháng hai.


      Warren Hoyt sống ở North End, mê cung của những con đường hẹp và những tòa nhà xây bằng gạch đỏ. Chúng tạo nên khu vực cổ nhất ở Boston. Đây là khu vực được coi là khu an toàn nhất của thành phố nhờ những con mắt cảnh giác của những người Ý sống quanh khu vực này. Họ có nhiều công ty. Ở đây, đường phố, người dân và du khách lại mà sợ tội phạm, sợ con quỷ sống ở đó.


      Căn hộ của Hoyt nằm ở tầng ba, tòa nhà bằng gạch đỏ. Cách đây vài giờ cả đội cảnh sát lục soát nơi này để tìm bằng chứng. Khi Moore bước vào trong và thấy đồ đạc bị lộn tung, các giá sách gần như trống , cảm thấy dường như mình đứng trong căn phòng vừa bị lấy hết linh hồn. cảm thấy tìm thấy bất cứ thứ gì hay bất cứ ai liên quan đến Warren Hoyt.


      Bác sỹ Zucker xuất ở phòng ngủ và với Moore.


      - Có vấn đề gì đó ở đây.


      - Vậy Hoyt có phải là tên sát nhân ?


      - Tôi biết.


      - Chúng ta có gì? - Moore nhìn Crowe, người vừa bước vào.


      - Chúng ta có rất nhiều cỡ giày. Cỡ tám phẩy năm khớp với dấu chân ở trường vụ án của Ortis. Chúng ta có vài sợi tóc gối - ngắn, màu nâu xám. Trông cũng có vẻ khớp với sợi tóc ở trường. Thêm vào đó chúng ta còn có sợi tóc dài màu đen sàn phòng tắm. Nó dài đến vai.


      Moore cau mày.


      - Có ở đây chăng?


      - Có thể là người bạn.


      - Hay nạn nhân khác - Zucker .


      - Ai đó mà chúng ta vẫn chưa biết.


      - Tôi với bà chủ nhà ở tầng dưới - Crowe - Bà ấy thấy Hoyt lần cuối vào sáng nay, ta làm về. Bà ấy biết giờ ở đâu. có dám cá là bà gì về ? người thuê nhà tốt bụng. thanh niên trầm lặng. bao giờ gây rối.


      Moore nhìn Zucker.


      - Ý là gì khi có vấn đề gì đó ở đây?


      - có dụng cụ giết người. Xe của đỗ ở ngay bên ngoài và trong đó cũng có vũ khí giết người - Zucker chỉ phòng khách trống - Căn hộ này hình như có người sống. Chỉ có vài thứ đồ trong tủ lạnh. Phòng tắm có xà phòng, bàn chải đánh răng và dao cạo râu. Nó như phòng nghỉ ở khách sạn. Đây là nơi để ngủ hơn kém. Đây phải là nơi nuôi những ảo tưởng của mình.


      - Đây chính nơi sống - Crowe - Thư từ của được chuyển đến đây. Quần áo của được chuyển đến đây.


      - Nhưng nơi này thiếu thứ quan trọng nhất - Zucker - Chiến lợi phẩm của . Ở đây có chiến lợi phẩm.


      cảm giác sợ hãi luồn vào xương tủy Moore. Zucker đúng. Bác sỹ phẫu thuật cắt bỏ chiến lợi phẩm từ mỗi nạn nhân, giữ chúng quanh mình để nhớ về những chiến công của , để có hứng thú sau mỗi lần săn.


      - Chúng ta bức tranh toàn diện - Zucker và quay về phía Moore - Tôi cần quan sát nơi Warren Hoyt làm việc, tôi cần xem phòng thí nghiệm của .






      Barry Frost ngồi xuống cạnh máy tính ghi tên: Nina Peyton. màn hình mới ra đầy dữ liệu.


      - Tòa nhà này là nơi tìm con mồi của - Frost - Đây là nơi tìm nạn nhân.


      Moore nhìn màn hình và sửng sốt vì những gì thấy ở những nơi khác trong phòng thí nghiệm máy móc chạy, điện thoại reo, nhân viên y tế xử lý những khay ống nghiệm kêu leng keng. Còn ở đây, trong môi trường vô trùng với những hợp chất thép gỉ và áo khoác trắng phau, nơi dùng để phục vụ cho ngành khoa học cứu người tên Bác sỹ phẫu thuật lại thầm săn mồi. Ở khu nhà có máy tính này, có thể có tên của mọi phụ nữ. Máu và các chất dịch trong người họ được xử lý trong Phòng thí nghiệm Liên ngành.


      - Đây là phòng thí nghiệm chẩn đoán hàng đầu của thành phố - Frost - Nếu người ta lấy máu của ở văn phòng của bác sỹ hay tại bất cứ phòng khám nào ở Boston rất có nhiều khả năng máu được chuyển đến phòng thí nghiệm này.


      Đến chính nơi này, đến tay Warren Hoyt.


      - có địa chỉ nhà của ấy - Moore khi nhìn lướt qua thông tin về Nina Peyton - Tên giám đốc của ấy. Tuổi và tình trạng hôn nhân…


      - Và những chẩn đoán bệnh của ấy - Zucker . chỉ hai chữ màn hình: cưỡng bức - Đây chính là thứ mà tên Bác sỹ phẫu thuật săn lùng. Điều đó khiến chú ý. Những bị tổn thương về mặt tình cảm, những bị đánh dấu vì bị cưỡng bức tình dục.


      Moore nhận thấy hứng thú trong giọng của Zucker. Đây là trò chơi khiến Zucker thích thú, đây là cuộc thi trí khôn. Cuối cùng, ấy thấy động thái của đối thủ và tỏ ra khâm phục thiên tài trong con người .


      - ở đây - Zucker - Xử lý những mẫu máu của họ, nhìn quanh phòng thí nghiệm như thể nhìn nó lần đầu tiên. “ có bao giờ dừng lại để nghĩ xem phòng thí nghiệm y tế có những thông tin gì về ?” - Có phải cho họ biết toàn bộ thông tin cá nhân của mình khi giơ tay ra, để họ cắm kim tiêm vào mạch ? Máu của cho tôi biết những bí mật sâu thẳm nhất của . Trong vòng vài giờ qua, có uống rượu hay hút thuốc ? có uống thuốc Prozac vì trầm uất hay uống thuốc Viagra vì thể gượng dậy ? nắm được những điều cốt lõi nhất của mỗi . có thể nghiên cứu, ngửi và sờ vào máu của họ. Họ bao giờ biết điều đó. Họ bao giờ biết phần cơ thể mình bị kẻ lạ mặt mơn trớn.


      - Nạn nhân biết - Moore - bao giờ nhìn thấy .


      - Nhưng tên Bác sỹ phẫu thuật biết họ, và biết những điều thầm kín nhất - Mắt Zucker sáng lên thích thú - Bác sỹ phẫu thuật săn đuổi như những tên giết người hàng loạt mà tôi từng gặp. chỉ có . nấp khỏi tầm mắt nạn nhân vì chọn những nạn nhân mà chưa biết mặt - tò mò nhìn những ống nghiệm giá. Phòng thí nghiệm này là ổ săn mồi của . Đây là cách tìm ra họ, nhờ máu và nỗi đau của họ.






      Khi Moore ra khỏi trung tâm y tế, khí ban đêm có vẻ mát hơn, khô hơn so với những ngày khác trong tuần. Khắp thành phố Boston có ít cửa sổ để mở và ít dễ bị tấn công hơn.


      Nhưng đêm nay, tên Bác sỹ phẫu thuật săn. Đêm nay, tận hưởng con mồi mới nhất.


      Moore đột ngột dừng lại khi đến cửa ô tô và đứng đó, tê liệt vì nỗi thất vọng. Thậm chí có thể ngay lúc này, Warren Hoyt cầm dao mổ. Thậm chí lúc này…


      Có tiếng bước chân lại gần. thu hết sức lực, ngẩng đầu lên nhìn người đàn ông đứng cách mấy mét trong bóng tối.


      - ấy, phải ? - Peter Falco .


      Moore gật đầu.


      - Ôi, Chúa tôi! - Falco đau đớn nhìn lên trời đêm - Tôi theo ấy ra ô tô. ấy ở ngay đó với tôi và tôi lại để ấy về nhà. Tôi để ấy lái xe…


      - Chúng tôi cố hết sức để tìm ra ấy. Đây là giai đoạn kinh hoàng - Mặc dù Moore điều đó nhưng thấy giọng mình như vô hồn. Đó là những gì người ta thường khi tình hình rất xấu, khi người ta biết rằng dù có cố gắng hết mình họ cũng đến đâu.


      - Các làm gì?


      - Chúng tôi biết là ai.


      - Nhưng các biết đưa ấy đâu.


      - mất thời gian tìm dấu vết của .


      - Hãy cho tôi biết tôi có thể làm gì. Bất cứ việc gì tôi cũng làm.


      Moore cố giữ cho giọng mình bình tĩnh, để giấu nỗi sợ hãi của chính .


      - Tôi biết rất khó đứng sang bên và nhìn những người khác làm việc. Nhưng chúng tôi được huấn luyện để làm việc này.


      - Ồ, đúng vậy. Các là những chuyên gia! Vậy có vấn đề quái gì vậy?


      Moore trả lời.


      Falco tức giận về phía Moore và đứng ngay dưới ánh đèn trong khu đỗ xe. Ánh đèn chiếu thẳng vào khuôn mặt âu lo của .


      - Tôi biết có chuyện quái gì giữa hai người - - Nhưng tôi biết ấy tin tưởng . Tôi hy vọng Chúa có ý gì đó khi cử đến. Tôi hy vọng ấy được quan tâm hơn những vụ án khác. ấy chỉ là cái tên trong danh sách.


      - Đúng vậy - Moore .


      Hai người đàn ông nhìn nhau và tôn trọng im lặng mà cả hai hiểu. Họ tôn trọng những gì họ bỏ lỡ.


      - Tôi quan tâm đến ấy hơn nghĩ - Moore .


      Và Falco khẽ .


      - Tôi cũng vậy.

    4. vulinh

      vulinh Well-Known Member

      Bài viết:
      20,019
      Được thích:
      24,221
      HAI MƯƠI BA



      - để ấy sống mặt thời gian - Bác sỹ Zucker - Như cách để Nina Peyton sống cả ngày. Giờ kiểm soát hoàn loàn. có thể lấy tất cả khi nào muốn.

      Rizzolli rùng mình khi nghi điều đó có ý nghĩa gì. Tất cả những gì muốn. nghĩ xem cơ thể người có bao nhiêu đầu dây thần kinh và con người phải chịu bao nhiêu đau đớn trước khi Thần chết thương tình. nhìn quanh phòng họp và thấy Moore gục đầu vào tay. Trông ốm yếu và mệt mỏi. Bây giờ quá nửa đêm, những khuôn mặt thấy trong phòng họp đều buồn rầu, thất vọng. Rizolli lách mình khỏi dám người đó, đứng dựa vào tường. phụ nữ vô hình, ai tôn trọng . Họ cho phép lắng nghe, nhưng cho tham gia. bị giới hạn trong nhiệm vụ quản lý hành chính, được dùng vũ khí. Giờ chỉ là người đứng ngoài quan sát trong khi là người hiểu vụ án hơn bất cứ ai ngồi quanh bàn.

      Moore nhìn về phía , nhưng nhìn xuyên qua, chứ nhìn . Dường như muốn nhìn thấy .

      Bác sỹ Zucker tổng hợp những gì họ biết về Warren Hoyt, Bác sỹ phẫu thuật.

      - làm việc trong thời gian rất lâu để đạt đến mục tiêu cuối cùng - Zucker - Giờ có nó. kéo dài thỏa mãn càng lâu càng tốt.

      - Vậy Cordell luôn là mục tiêu của ? - Frost - Các nạn nhân khác - họ chỉ là phần thực hành của ?

      - , họ cũng khiến thỏa mãn. Họ cuốn , giúp giảm bớt áp lực giới tính khi làm việc để đạt được đích cuối cùng. Trong bất cứ chuyến săn nào. hồi hộp của kẻ săn mồi lên cao trào nhất khi săn con mồi khó nhất. Và Cordell có lẽ là người phụ nữ mà thể dễ dàng tiếp cận. ấy luôn cảnh giác, đề phòng an ninh. ấy nhốt mình sau những ổ khóa và hệ thống chuông báo động. ấy tránh những mối quan hệ gần gũi. ấy hiếm khi ra ngoài vào ban đêm, trừ khi phải làm việc ở bệnh viện. ấy là con mồi thách thức nhất mà săn đuổi và cũng là con mồi khao khát nhất. làm cho cuộc săn của mình khó khăn hơn bằng cách để ấy biết ấy là con mồi. dùng nỗi sợ là phần trong trò chơi. muốn ấy cảm thấy ở rất gần. Những khác chỉ là bước đệm. Cordell là chú ý chính của .

      - Bây giờ vẫn vậy - Moore . Giọng gằn lên giận dữ

      - ấy vẫn chưa chết.

      Căn phòng đột nhiên im lặng. Tất cả cặp mắt đều nhìn Moore.

      Zucker gật đầu, giọng vẫn lạnh như băng, đứt quãng.

      - Cảm ơn sửa lại lời của tôi.

      Marquette .

      - đọc hồ sơ lý lịch của chưa?

      - Rồi - Zucker - Warren là con . ràng đứa con được nuông chiều, sinh ra ở Houston. Bố nhà khoa học tên lửa - Tôi đùa với các bạn đâu. Mẹ sinh ra trong gia đình chuyên buôn bán dầu mỏ lâu đời. Giở cả hai chết. Vì vậy Warren được thừa hưởng trí thông minh và tài sản lớn của gia đình. có tiền án gì khi còn , bị bắt, trốn vé tàu, có dấu hiệu gì của tội ác. Ngoại trừ vụ việc trong phòng thí nghiệm giải phẫu ở trường y ra tôi thấy hề có dấu hiệu cảnh báo nào trước đó. có chi tiết nào cho tôi thấy biến thành kẻ săn mồi. Vì tất cả những lý do , cậu bé hoàn hảo, lịch và đáng tin cậy.

      - Bình thường - Moore khẽ - Rất bình thường.

      Zucker gật đầu.

      - Đây là thanh niên bao giờ nổi bật, bao giờ khiến mọi người chú ý. Đây là loại sát nhân đáng sợ nhất vì chúng ta có chẩn đoán về mặt tâm sinh lý nào cho . giống như Ted Bundy, thông minh, khoa học và vẻ ngoài hoàn toàn bình thường. Nhưng tật xấu riêng: thích tra tấn phụ nữ. Đây là loại người các bạn gặp hàng ngày. Và các bạn bao giờ nghi ngờ rằng khi nhìn bạn, cười với bạn cũng là lúc nghĩ ra cách mới để moi hết ruột bạn ra.

      Rizzoli rùng mình vì giọng rít lên của Zucker. nhìn quanh phòng. Điều ấy rất đúng. Mình gặp Barry Frost hàng ngày. Dường như ấy là gã tốt bụng, người đàn ông vui tính có vợ, bao giờ rầu rĩ. Nhưng mình bao giờ biết thực ấy nghĩ gì.

      Frost thấy nhìn mình, mặt đỏ lên.

      Zucker tiếp tục.

      - Sau vụ việc ở đại học y, Hoyt bị buộc phải rời trường. tham gia chương trình rèn luyện kỹ năng về mặt kỹ thuật y. theo Capra đến Savannah. Có vẻ như mối quan hệ giữa chúng kéo dài vài năm. Những tấm vé máy bay và thẻ tín dụng cho thấy chúng cùng nhau đến Hy Lạp và Ý, đến Mexico. Ở đó chúng đều tình nguyện làm việc ở những phòng khám ở nông thôn. Hai tên em máu mủ cùng chung những thú vui độc ác.

      - Chỉ ruột mèo - Rizzoli .

      Zucker ngạc nhiên nhìn .

      - Gì?

      - Ở những nước thứ ba, họ vẫn dùng chỉ ruột mèo trong phòng mổ. lấy chỉ ở đó.

      Marquette gật đầu.

      - Có thể ấy đúng.

      - Tôi đúng - Rizzoli nghĩ, đỏ mặt lên vì tức giận.

      - Khi Cordell giết Andrew Capra - Zucker - ấy phá hỏng nhóm giết người hoàn hảo đó. ấy cướp mất kẻ mà Hoyt thấy thân cận nhất. Đó là lý do ấy trở thành mục tiêu và nạn nhân cuối cùng của .

      - Nếu Hoyt ở trong nhà Cordell vào đêm Capra bị giết tại sao giết ấy ngay lúc đó? - Marquette hỏi.

      - Tôi biết. Có nhiều việc xảy ra đêm hôm đó ở Savannah mà chỉ Hoyt biết. Điều chúng ta biết là chuyển đến Boston hai năm trước, lâu sau khi Catherine đến đây. Trong vòng năm, Diana Sterling chết.

      Cuối cùng, Moore , giọng như lời ám ảnh.

      - Làm sao chúng ta tìm ra ?

      - có thể theo dõi căn hộ đó, nhưng tôi nghi sớm trở về. Đó còn là hang ổ của . Đó phải là nơi tận hưởng bệnh hoạn của mình - Zucker ngồi xuống, mắt xa xăm, chuyển hóa những gì biết về Warren Hoyt thành lời và hình ảnh - Hang ổ của là nơi tách khỏi cuộc sống đời thường, nơi lui về, mai danh tích. Có lẽ nơi đó khá xa căn hộ của . Có thể nơi đó được thuê dưới tên của người khác.

      - Khi thuê, phải trả tiền - Frost - Chúng ta lần theo số tiền dùng.

      Zucker gật đầu.

      - biết đó là hang ổ của nếu tìm ra. Vì những chiến lợi phẩm của để ở đó. Đó là những đồ lưu niệm lấy được sau những vụ giết người. Có thể chuẩn bị hang ổ đó làm nơi để cuối cùng mang nạn nhân về. Đó là phòng tra tấn cuối cùng. Đó chắc chắn nơi riêng tư để bị làm phiền. Đó là tòa nhà tách biệt, hay căn hộ được cách tốt.

      Vậy là ai nghe thấy tiếng la hét của Catherine, Rizzoli nghĩ.

      - Ở nơi đó, có thể trở thành con thú. cảm thấy thoải mái, bị cưỡng chế. bao giờ để lại tinh dịch ở trường. Điều đó cho tôi thấy có thể hoãn việc sung sướng về tình dục cho đến khi nơi an toàn. Hang ổ này chính là nơi đó. Có lẽ thi thoảng mới đến đó để tận hưởng lại cảm giác hồi hộp sau khi giết người, để thỏa mãn bản thân sau mỗi lần giết người - Zucker nhìn quanh phòng - Đó là nơi đưa Catherine Cordell về.





      Người Hy Lạp gọi nó là “dere”, tức là phần trước cổ, hay cổ họng. Đâv là phần đẹp nhất, dễ bị tổn thương nhất cơ thể phụ nữ. Trong cổ có sống và hơi thở. Dưới lớp da trắng như sữa của Iphigenia, những đường gân màu xanh chắc chắn đập rất mạnh dưới mũi dao của cha nàng. Khi Iphigenia nằm duỗi mình khu tế lễ, Agamemnon có dừng lại để chiêm ngưỡng những đường gân mỏng manh cổ con ? Hay ông ta nghiên cứu kỹ bộ phận đó, chọn điểm tốt nhất để đặt mũi dao lên đó? Mặc dù đau đớn khi phải làm lễ tế thần này nhưng khi mũi dao cắm ngập vào cổ, ông có cảm thấy chút rùng mình ở bộ phận sinh dục của mình và luồng khoái cảm khi ông ấn lưỡi dao vào da thịt con ?

      Ngay cả người Hy Lạp với những câu chuyện gớm ghiếc về việc cha mẹ ăn sống con cái mình và những đứa con trai giao hợp với mẹ mình, cũng dám nhắc đến những chi tiết đồi bại đó. Họ cần làm vậy, đó là trong những bí mật mà chúng ta có thể hiểu được mà cần dùng đến từ ngữ. Trong số những chiến binh đứng đó với vẻ mặt lạnh như băng và trái tim rắn lại trước tiếng la hét của người hầu, trong số những người nhìn thấy Iphigenia bị lột hết quần áo và cái cổ trắng như thiên nga của bị phơi trần dưới lưỡi dao có bao nhiêu người trong số binh lính cảm thấy luồng khí nóng chạy khắp “cái đó” của họ? Họ có cảm thấy “cái đó” của họ nóng lên ?

      Có bao nhiêu người nhìn thấy chiếc cổ đó mà lại muốn cắt nó?





      Cổ ta cũng xanh xao như của Iphigenia. ta bảo vệ mình khỏi ánh nắng như những tóc đỏ hoe nên làm. Chỉ có vài vết tàn nhang lốm đốm nước da gần như trong suốt của ta. Trong hai năm qua, ta giúp ta giữ cho cái cổ của ta chút tì vết. Và ta trân trọng điều đó.

      Ta kiên nhẫn chờ ta tỉnh lại. Ta biết giờ ta thức và biết có ta ở bên vì mạch ta đập nhanh hơn. Ta chạm vào cổ ta, vào phần lõm ở ngay ngực và ta hít rất mạnh. ta thở ra khi ta sờ lên cổ để tìm động mạch cảnh. Mạch của ta đập mạnh khiến da ta run rẩy từng nhịp. Ta cảm thấy mồ hôi ta nhơm nhớp dưới ngón tay. Mồ hôi túa ra như sương mù da ta và mặt ta sáng lên vì mồ hôi. Khi ta lướt lên hàm ta, ta mới dám thở ra. Nó thoát ra như tiếng khóc sụt sịt và bị chặn lại do băng dính miệng ta. chẳng giống Catherine khi ta khóc. Những khác là những con linh dương ngu ngốc, nhưng Catherine là con hổ cái, là người duy nhất từng phản ứng lại và hút máu kẻ khác.

      ta mở mắt, nhìn ta. Ta thấy rằng ta hiểu. Cuối cùng ta thắng. ta, kẻ đáng giá nhất, bị đánh bại.

      Ta xếp đống dụng cụ lên bàn. Chúng tạo thành tiếng leng keng dễ chịu khi ta đặt chúng lên chiếc bàn cạnh giường. Ta cảm thấy ta nhìn ta và ta biết ánh mắt ta dán vào những tấm thép gỉ sắc nhọn. ta biết mỗi dụng cụ dùng để làm gì, vì chắc chắn ta dùng chúng nhiều lần. Cái banh vết mổ dùng để tách hai mép vết mổ. Cái kẹp máu dùng để kẹp chặt các mô và mạch máu. Còn dao mổ - ồ, cả hai chúng ta đều biết dao mổ dùng để làm gì.

      Ta đặt cái khay cạnh giường ta, để ta có thể thấy và tưởng tượng chuyện gì xảy ra tiếp theo. Ta cần lời nào, vẻ lộng lẫy của những dụng cụ đó lên tất cả.

      Ta sờ phần bụng che đậy của ta, khiến những bó cơ bụng của ta cứng lại. Đây là cái bụng còn thanh khiết, có vết sẹo nào in mặt phẳng đó. Con dao của ta mổ ta như mổ con lợn.

      Ta cầm dao mổ, ấn mũi dao lên bụng ta. ta hớp khí, mắt đảo cuống cuồng.

      Ta từng thấy ảnh con ngựa vằn. Cổ họng nó bị răng con sư tử cắm ngập. Mắt con ngựa vằn lộn ngược sợ hãi. Đó là hình ảnh ta bao giờ quên. Đó chính là điều ta thấy ngay lúc này trong mắt Catherine.





      Ôi, lạy Chúa, Chúa ơi!

      Hơi thở Catherine rất mạnh, vào rồi ra khỏi hai lá phổi khi cảm thấy mũi dao mổ ấn lên da thịt. Người đẫm mồ hôi. nhắm mắt, sợ đau đớn sắp đến. Cổ họng chợt bật ra tiếng khóc thút thít, tiếng khóc lên đến trời xin tha thứ. xin được chết nhanh chóng, chứ phải như thế này, bị cứa vào da thịt.

      Rồi con dao mổ nâng lên.

      mở mắt, nhìn thẳng vào mặt . Khuôn mặt rất bình thường, rất dễ quên. Có lẽ đó là người thấy hàng chục lần nhưng chú ý. Nhưng biết . lượn lờ bên cạnh , đặt vào trung tâm vũ trụ của . Trong khi đó, lượn quanh , và ai thấy trong bóng tối.

      Và mình bao giờ biết ở đó.

      đặt dao mổ lên khay. cười và .

      - Vẫn chưa đâu.

      Chỉ khi ra khỏi phòng, mới biết việc tra tấn hoãn lại. thở mạnh nhõm.

      Đây chính là trò chơi của . kéo dài sợ hãi của nạn nhân và kéo dài niềm vui của . Giờ cho sống, cho thời gian để tưởng tượng ra những gì xảy ra tiếp theo.

      Mỗi phút còn sống là phút để trốn thoát.

      Tác dụng của thuốc gây mê hết. hoàn toàn tỉnh táo.

      Đầu óc chỉ toàn sợ hãi. nằm dang rộng chân tay chiếc giường khung sắt. Quần áo bị lột hết, cổ tay và cổ chân bị buộc chặt vào giường bằng băng dính ống nhựa. Mặc dù giật mạnh và cựa mình để cởi dây trói nhưng thể thoát ra được. Bốn năm trước, ở Savannah, Capra đùng dây ni-lông để trói cổ tay . cố cởi trói được tay, và tên Bác sỹ phẫu thuật lặp lại sai lầm đó.

      Mình đẫm mồ hôi, quá mệt nên thể chống cự được. để ý đến những vật xung quanh.

      bóng điện huỳnh quang trần trụi treo ngay bên giường. Mùi đất và mùi đá hôi cho biết là ở trong tầng hầm. quay đầu. Sau vòng tròn sáng trưng của ánh đèn, chỉ thấy mặt đá cuội sần sùi.

      đầu có tiếng bước chân. nghe thấy tiếng chân ghế kêu kèn kẹt. Sàn bằng gỗ. Đây là ngôi nhà cũ. tầng bật ti vi. nhớ đến căn phòng này như thế nào và chuyến mất bao lâu. Có thể họ cách Boston hàng trăm dặm, ở nơi mà ai nghĩ đến việc tìm kiếm.

      cái khay sáng bóng khiến chú ý. nhìn chằm chằm dãy dụng cụ được đặt gọn gàng để chuẩn bị cho quy trình sắp tới. cầm những dụng cụ đó biết bao nhiêu lần và nghĩ đó là những công cụ để cứu người. Bằng dao mổ và kẹp cầm máu, cắt bỏ những khối u, những viên đạn, cầm máu khi động mạch bị vỡ và thấm máu cho lồng ngực ngập máu. Giờ nhìn những dụng cụ mà từng dùng để cứu người và thấy đó là dụng cụ để giết chính mình. đặt chúng ở gần giường để có thể xem kỹ và hình dung trước mũi dao mổ và những chiếc răng thép của kẹp cầm máu.

      Đừng hoảng loạn. Nghĩ . Nghĩ !

      nhắm mắt. Nỗi sợ là vật thể sống, quấn vòi quanh cổ .

      Mình đánh bại chúng lần. Mình có thể làm lại điều đó.

      cảm thấy giọt mồ hôi chảy xuống ngực, thấm vào cái đệm ướt sũng. Có cách thoát ra. Chắc chắn phải có cách thoát ra và chống cự. Phương án đó quá đáng sợ đến nỗi dám nghĩ đến.

      mở mắt, nhìn bóng điện ngay đầu và tập trung toàn bộ đầu óc sắc bén của mình để nghĩ xem nên làm gì tiếp. nhớ Moore với : tên Bác sỹ phẫu thuật vui sướng nỗi sợ. tấn công những bị tổn thương và là nạn nhân, những người mà cảm thấy họ bậc. giết mình cho đến khi đánh bại mình.

      hít sâu và hiểu bây giờ phải chơi trò này như thế nào. Đấu tranh với nỗi sợ. Đón nhận tức giận. Cho thấy dù làm gì, cũng khuất phục được mình.

      Thậm chí cả khi bị giết.




      HAI MƯƠI BỐN



      Rizzolli giật mình tỉnh giấc. Cơn đau kéo lên cổ như thể vừa bị dao đâm. Lạy chúa, phải mình lại bị co cơ nữa chứ, nghĩ khi chầm chậm nâng đầu lên và nhắm mắt lại vì ánh nắng bên ngoài cửa sổ văn phòng. Những ô làm việc khác trong văn phòng của đều trống , là người duy nhất ngồi ở bàn. Vào lúc gần sáu giờ, mệt mỏi gục đầu xuống và tự hứa với mình là chỉ ngủ lúc. Giờ chín rưỡi, chồng giấy in máy tính dùng làm gối ướt đầy nước miếng của .

      nhìn ngăn làm việc của Frost và thấy áo khoác của treo lưng ghế. túi bánh rán nằm bàn của Crowe. Vậy là những người còn lại trong đội vào đây khi ngủ và chắc chắn họ thấy cằm trễ xuống, ra những giọt nước miếng. Chắc chắn cảnh đó rất buồn cười.

      đứng lên, vươn vai, cố làm vài động tác để thả lỏng khớp cổ nhưng biết ích gì. vừa làm việc cả ngày và bị vẹo đầu.

      - Này, Rizzoli. Ngủ đẹp đấy chứ?

      quay lại thấy thám tử khác trong đội nhìn qua kính chắn.

      - Trông tôi tệ lắm à? - gầm gừ - Mọi người đâu hết rồi?

      - Đội của vào họp từ tám giờ.

      - Gì cơ?

      - Tôi nghĩ cuộc họp vừa kết thúc.

      - ai thèm thông báo với tôi - về phía hành lang- cơn buồn ngủ cuối cùng cũng tan vì nỗi tức giận. Ồ, biết chuyện gì xảy ra. Đây là cách họ gạt mình ra, phải bằng những lời nhục mạ ngay trước mặt, mà bằng cách dần dần. Họ loại mình khỏi cuộc họp, cho mình ra rìa. Họ biến mình thành thứ cần thiết.

      vào phòng họp. Người duy nhất ở đó là Barry Frost thu lượm giấy tờ bàn. ngẩng lên và hơi đỏ mặt khi thấy .

      - Cảm ơn cho tôi biết về cuộc họp - .

      - Trông rất mệt. Tôi nghĩ tôi có thể thông báo cho sau về mọi việc.

      - Khi nào, tuần tới chăng?

      Frost cúi xuống, tránh ánh mắt . Họ cộng tác với nhau rất lâu, đủ để có thể nhận ra tội lỗi mặt .

      - Vậy tôi bị ghẻ lạnh - - Đó có phải là quyết định của Marquette ?

      Frost buồn bã gật đầu.

      - Tôi phản đối việc đó. Tôi bảo ông ấy là chúng tôi cần . Nhưng ông ấy do vụ bắn người và…

      - Ông ấy gì?

      Frost lưỡng lự rồi hết.

      - Rằng còn thuộc Bộ phận này nữa.

      còn thuộc Bộ phận này nữa. Điều đó dịch ra nghĩa là: nghiệp của chấm hết.

      Frost ra khỏi phòng. bỗng thấy chóng mặt vì thiếu ngủ và đói. ngồi phịch xuống ghế, nhìn chiếc bàn trống trơn. Trong thoáng chốc, chợt nhớ lại chín năm trước khi bà chị cả được ai quan tâm. khao khát được trong những cậu em trai của mình chấp nhận, nhưng vô vọng. Những cậu em của từ chối như mọi khi. biết cái chết của Pacheco phải là lý do họ cho ra rìa. Những lần bắn nhầm phá hoại nghiệp của cảnh sát. Nhưng nếu là phụ nữ, hơn bất cứ ai khác, nếu bạn chỉ mắc lỗi lầm rất hay lỗi lầm duy nhất như việc bắn Pacheco của bạn mất tất cả.

      Khi quay lại bàn, thấy phòng làm việc trống trơn. Áo khoác của Frost còn ở đó nữa, cả túi bánh rán cũng vậy. Có lẽ cũng nên rời khỏi đây. Thực bây giờ nên thu dọn bàn làm việc của mình vì chẳng còn tương lai ở đây nữa.

      mở ngăn kéo, lấy ví và dừng lại. Bức ảnh khám nghiệm tử thi của Elena Ortiz nằm trong đống giấy tờ lộn xộn nhìn chằm chằm. Mình cũng là nạn nhân, nghĩ. Dù có bực tức đồng nghiệp mức nào cũng quên tên Bác sỹ Phẫu thuật, mới chính là nguồn gốc của mọi thất bại của . Tên Bác sỹ phẫu thuật chính là kẻ hạ bệ .

      đóng mạnh ngăn kéo, Chưa đâu. Mình đầu hàng.

      nhìn bàn của Frost và thấy đống giấy tờ vừa thu bàn họp. nhìn quanh để chắc chắn ai nhìn thấy. Các thám tử khác ngồi ở góc xa của phòng.

      cầm đống giấy tờ của Frost, mang ra bàn mình, rồi ngồi xuống đọc.

      Đó là những ghi chép chi tiêu tài chính của Warren Hoyt.

      Vụ án cuối cùng trở nên như thế này: cuộc truy tìm giấy, lần theo số tiền Hoyt chi tiêu để tìm ra . thấy số thẻ tín dụng, ngân phiếu, ký gửi và những đơn rút tiền. Những con số rất lớn. Bố mẹ Hoyt để lại cho gia tài lớn. tiêu tốn rất nhiều vào mỗi dịp nghỉ đông - Caribe và Mexico. thấy dấu hiệu nào về nơi ở khác của , có hóa đơn thuê nhà hay hóa đơn trả tiền hàng tháng.

      Tất nhiên là rồi. đâu có ngu. Nếu có hang ổ trả bằng tiền mặt.

      Tiền mặt. Người ta thể biết được khi nào hết tiền mặt. Những lần rút tiền từ máy ATM thường bất ngờ và là những giao dịch tính trước.

      lật qua những ghi chép của ngân hàng, tìm những giấy tờ có ghi số lần rút tiền của và ghi vào mẩu giấy. Hầu hết những lần rút tiền đều được thực gần nơi ở của Hoyt hay trung tâm y tế, những khu nằm trong phạm vi làm việc và hoạt động bình thường của . tìm dấu hiệu bất thường, những giao dịch giống như những việc thường làm.

      thấy hai giao dịch, ở ngân hàng thuộc Nashua, New Hampshire vào ngày hai mươi sáu tháng sáu, lần khác tại ở máy ATM trong siêu thị Hobb’s Food ở Lithia, bang Massachusettes, vào ngày mười ba tháng năm.

      cúi xuống, tự hỏi biết Moore lần theo hai giao dịch đó chưa. Họ có quá nhiều chi tiết kèm theo và phải phỏng vấn các đồng nghiệp của Hoyt ở phòng thí nghiệm nên rất có thể hai lần rút tiền bằng máy ATM được đội điều tra chú ý hàng đầu.

      nghe thấy tiếng bước chân, giật mình ngẩng lên và biết mình bị bắt gặp đọc những giấy tờ của Frost. Nhưng đó chỉ là nhân viên đến từ phòng thí nghiệm vừa đến sở cảnh sát. Nhân viên đó cười với Rizzoli, đặt tập hồ sơ lên bàn Moore và lại ra ngoài.

      lúc sau, Rizzoli đứng lên, đến bàn của Moore nhìn tập hồ sơ. Trang đầu tiên là báo cáo từ phòng Tóc và Sợi vải, báo cáo phân tích sợi tóc nâu sáng màu được tìm thấy gối của Warren Hoyt.

      Trichorrehexisinvaginata, khớp với sợi tóc tìm thấy ở mép vết thương của nạn nhân Elena Ortiz. Trúng rồi! Vậy báo cáo này xác nhận Hoyt chính là kẻ họ tìm.

      lật trang thứ hai. Trang này cũng là báo cáo của Bộ phận giám định Tóc và Sợi vải về sợi tóc tìm thấy sàn phòng tắm của Hoyt. Sợi tóc này có ý nghĩa gì. Nó khớp với mẫu tóc nào.

      đóng tập hồ sơ, vào phòng thí nghiệm.





      Erin Volchko ngồi trước lăng kính dùng công nghệ tia gam-ma. xem qua loạt hình ảnh cấp độ phân tử. Khi Rizzoli vào phòng thí nghiệm, Erin dừng lại ở tấm ảnh và thách thức.

      - Nhanh lên! Đố biết đây là cái gì?

      Rizzoli cau mày nhìn những vệt màu đen trắng.

      - Xấu quá!

      - Đúng, nhưng đó là cái gì?

      - Có thể là vật gì đó rất xấu xí. Trông giống như chân con gián.

      - Đó là lông con hươu. Tuyệt phải ? Trông nó giống tóc người.

      - Vậy về tóc người - Rizzoli đưa cho bản báo cáo vừa đọc - có thể cho tôi hơn về vật này ?

      - Lấy từ căn hộ của Warren Hoyt phải ?

      - Đúng vậy.

      - Sợi tóc màu nâu sáng tìm thấy gối của Hoyt là loại tóc Trichorrehexisinvaginata. Có vẻ như là kẻ tinh nghi số của các bạn.

      - , sợi tóc khác. sợi tóc màu đen tìm thấy sàn phòng tắm của Hoyt.

      - Để tôi cho xem ảnh - Erin lấy tập ảnh chụp mức độ phân tử. trộn chúng lên như những quân bài, rải lên bàn - Đây là sợi tóc tìm được trong nhà tắm. thấy những con số của nó lớn mức nào ?

      Rizzoli nhìn tờ giấy có nét chữ gọn gàng của Erin. A00 - B00- C05- D33.

      - Đúng vậy, cho dù những con số đó có ý nghĩa gì.

      - Hai số đầu tiên A00 và B00 cho biết sợi tóc thẳng, màu đen. Dưới kính hiển vi nhiều lớp, có thể thấy thêm nhiều chi tiết khác - đưa tờ giấy cho Rizzoli - Hãy nhìn chân tóc! Nó rất dày. Hãy chú ý những hình ảnh bị cắt ngang gần như hình tròn.

      - Điều đó nghĩa là?

      - Đó là đặc điểm giúp chúng ta phân biệt các chủng người. Ví dụ như sợi tóc của người châu Phi thẳng gần như rải ruy băng. Giờ hãy nhìn sắc tố, thấy nó dày đặc. thấy lớp biểu bì dày chứ? Tất cả các chi tiết đó dẫn đên kết luận - Erin nhìn - Mái tóc này rất đặc trưng cho người Đông Á.

      - Đông Á nghĩa là sao?

      - Trung Quốc hay Nhật Bản, lục địa của Ấn Độ, có thể là người Mỹ gốc.

      - có xác nhận điều đó ? Có đủ chân tóc để xét nghiệm ADN ?

      - tiếc là . Có vẻ như nó bị cắt, chứ phải do quá trình rụng tự nhiên. có mô nang trong sợi tóc này. Nhưng tôi dám chắc rằng những sợi tóc này phải của người châu Âu, mà là con cháu của người châu Á.

      châu Á, Rizzoli nghĩ khi trở về Bộ phận điều tra Án mạng. Tại sao sợi tóc này lại có liên quan đến vụ án? Khi đến hành lang dẫn đến cánh trái tòa nhà, dừng lại, nhìn ra khu Roxbury gần đó. Liệu có nạn nhân nào họ vẫn chưa tìm thấy xác ? Có phải Hoyt cắt tóc ấy làm vật kỷ niệm như cách làm với Catherine Cordell ?

      quay lại, giật mình khi thấy Moore ngang qua. đến cánh bên phải tòa nhà. Có vẻ như thèm để ý đến diện của nếu gọi .

      dừng lại, lưỡng lự quay lại đối diện với .

      - Sợi tóc đài màu đen sàn phòng tắm đó - - Phòng thí nghiệm cho biết đó là sợi tóc của người Á Đông. Có thể đó là nạn nhân chúng ta bỏ qua.

      - Chúng tôi bàn về khả năng đó.

      - Khi nào?

      - Ở cuộc họp sáng nay.

      - Khốn kiếp, Moore! Đừng bỏ tôi ngoài cuộc!

      im lặng lạnh lùng của càng làm tăng cơn giận của .

      - Tôi cũng muốn - . chầm chậm, nhàng đến gần cho đến khi đứng ngay trước mặt - Tôi cũng muốn bắt như . Hãy cho tôi trở lại!

      - Đó phải là quyết định của tôi. Đó là quyết định của Marquette - quay đầu, định bỏ .

      - Moore?

      ngần ngại dừng lại.

      - Tôi thể chịu nổi chuyện này - - hận thù giữa chúng ta.

      - Đây phải là lúc về chuyện đó.

      - Nghe này, tôi xin lỗi. Tôi bị phỉ báng về vụ của Pacheco. Tôi biết việc tôi làm tệ khi với Marquette về và Catherine.

      quay lại nhìn .

      - Tại sao làm vậy?

      - Tôi vừa với lý do rồi đó thôi. Vì tôi cảm thấy bị sỉ nhục.

      - , chỉ vì vụ Pacheco. Đó là vì Catherine phải ? thích ấy ngay từ ngày đầu tiên. thể chấp nhận thực là…

      - Rằng ta phải ?

      im lặng rất lâu.

      Khi tiếp, Rizzoli thể giấu thái độ mỉa mai trong giọng của mình.

      - biết đấy, Moore. Dù luôn hết lời ca ngợi trí óc phụ nữ, ngưỡng mộ khả năng của phụ nữ, nhưng vẫn sụp đổ như những gã khác. Chỉ vì bộ ngực và cái mông.

      cay đắng nhìn bỏ . Cách đây mấy tuần thôi, coi Moore là người đàn ông cuối cùng trái đất này biết điều độc ác như vậy. Những lời đó từ miệng đau đớn hơn nhiều nếu chúng do người khác .

      nghĩ có thể chịu chấp nhận.

      Xuống tầng dưới, khi dọc hành lang, dừng lại ở bảng tưởng niệm những cảnh sát Boston hy sinh. Tên người chết được khắc bức tường theo trật tự thời gian, bắt đầu là Ezekiel Hodson năm 1854. bình hoa được trân trọng đạt lên sàn đá granit. Hãy hy sinh trong nhiệm vụ nào đó, và bạn người hùng. đơn giản, bền lâu! biết gì về những người đàn ông này, giờ tên tuổi của họ thành bất tử. Tất cả những gì biết là rất có thể trước đây là những cảnh sát bẩn thỉu. Nhưng cái chết vinh danh tên tuổi và danh tiếng của họ. Khi đứng trước bức tường đó, gần như ghen tị với họ.

      đến chỗ để xe, lục ngăn để găng tay, tìm thấy tấm bản đồ New England. trải nó lên ghế, nhìn hai lựa chọn: Nashua, New Hampshire hay Lithia ở phía tây Massachusetts. Warren Hoyt dùng thẻ ATM ở cả hai nơi. Đây chỉ là phỏng đoán, trò tung đồng xu.

      nổ máy. Bây giờ là mười rưỡi, đến trưa mới tới Lithia.





      Nước. Đó là tất cả những gì Catherine nghĩ đến. nghĩ về mát lạnh và mùi vị tinh khiết khi nó chảy vào miệng. nghĩ về những bồn phun nước mà mình uống ở đó, những vòi nước bằng thép gỉ đặt dọc hành lang bệnh viện, nơi vã nước mát lạnh lên môi và cằm. nghĩ về những cục đá nghiền mà bệnh nhân sau khi mổ của vươn cổ, mở miệng mút như con chim non chờ chút mồi hiếm hoi từ chim mẹ.

      nghĩ về Nina Peyton bị trói trong phòng ngủ, biết mình sắp chết nhưng chỉ nghĩ về cơn khát khủng khiếp.

      Đây là cách tra tấn chúng ta. Đây là cách đánh gục chúng ta. muốn chúng ta cầu xin cho ít nước, xin tha mạng. muốn kiểm soát hoàn toàn. muốn chúng ta biết ơn quyền lực của .

      Suốt đêm rời mắt khỏi ánh đèn duy nhất đó. ngủ gật mấy lần, rồi lại giật mình tỉnh dậy. Dạ dày cuộn lên vì hoảng sợ. Những cơn hoảng sợ thể chịu đựng nổi. Hàng giờ trôi qua và dù cố giãy giụa, vẫn thể làm lỏng dây trói. Cơ thể dường như rơi vào trạng thái hưng phấn lơ lửng. bay lượn đó, trong ánh sáng nhập nhoạng như cơn ác mộng giữa và thái độ chấp nhận đó. Tâm trí chỉ nghĩ đến cơn khát cháy cổ.

      Tiếng bước chân cọt kẹt. Cánh cửa mở ra, kêu cót két.

      hoàn toàn tỉnh táo. Tim đập mạnh như con thú cố vùng vãy để nhảy ra khỏi lồng ngực. cố hít khí, khí ẩm thấp dưới tầng hầm có mùi đất và đá ẩm. thở gấp hơn khi có tiếng bước chân xuống cầu thang, và ở đó, đứng ngay cạnh . Ánh sáng bóng điện in những vệt đen lên mặt , khiến nó như cái đầu lâu cười với hai hốc mắt sâu hoắm.

      - muốn uống nước phải ? - . Giọng , như thể đó là giọng của kẻ điên.

      được vì miệng bị dính băng dính, nhưng biết câu trả lởi khi nhìn ánh mắt cầu khẩn của .

      - Xem tôi có gì này, Catherine - giơ cốc nước lên. nghe thấy tiếng những cục đá mát lạnh vui tai, đập vào thành cốc. thấy những giọt nước lấp lánh bên thành cốc - muốn ngụm chứ?

      gật đầu. nhìn , mà nhìn cốc nước. Cơn khát khiến phát điên, nhưng nghĩ xa hơn chuyện đó, xa hơn chuyện được nhấp ngụm nước mát. tính toán hành động của mình và cân nhắc cơ hội thành công.

      khuấy cốc nước. Những viên đá kêu như chuông khi va vào thành cốc.

      - Chỉ cần cư xử cho ngoan.

      Tôi làm vậy, ánh mắt hứa với điều đó.

      Băng dính làm đau khi giật nó ra. nằm hoàn toàn bị động, để cắm ống hút vào miệng. uống rất nhiều nhưng nó chẳng thấm tháp gì so với cơn khát cháy cổ của . lại uống ngụm nữa và lập tức ho sặc sụa. Những giọt nước quý giá chảy khỏi miệng .

      - thể… tôi thể uống khi nằm được - hổn hển - Làm ơn, cho tôi ngồi dậy. Làm ơn!

      đặt cốc xuống, nhìn kỹ. Mắt đen như đáy. thấy phụ nữ sắp ngất, phụ nữ cần làm sống lại nếu muốn tận hưởng hết sợ hãi của ta.

      bắt đầu cắt băng dính ở tay .

      Tim đập mạnh đến nỗi nghĩ chắc chắn nhìn thấy nó phồng lên trong lồng ngực mình. Dây buộc bên phải tuột ra, tay để im. cử động, co thớ cơ nào.

      Rồi im lặng như vô tận. Tiếp ! Hãy cắt dây buộc tay trái của ta ! Cắt !

      Nhưng quá muộn. nhận ra là nín thở và chú ý thấy điều đó. thất vọng nghe thấy tiếng băng dính kêu to khi kéo ngược nó về phía sau.

      Bây giờ hay là chết?

      điên cuồng chộp lấy dụng cụ khay. Cốc nước văng ra, những cục đá kêu leng keng sàn. Những ngón tay cầm chặt thanh thép. Con dao mổ!

      Khi vừa lao về phía , giơ con dao mổ lên và cảm thấy nó cứa vào thịt .

      lùi lại, rú lên, túm chặt tay.

      xoay sang bên, dùng dao mổ cứa đứt băng dính buộc tay trái. Tay hoàn toàn thả lỏng!

      ngồi thẳng dậy giường, mắt đột nhiên tối sầm lại. Cả ngày được uống nước nên kiệt sức. cố tập trung, cố dùng dao cứa đứt băng dính buộc chân phải. điên cuồng rạch đường và thấy đau nhói ở chân. giật mạnh cái và chân phài được cởi trói.

      với tay, định cứa nốt đoạn băng dính cuối cùng.

      Dụng cụ banh vết mổ rất nặng đập vào thái dương . Cú đánh mạnh đến nỗi thấy luồng sáng xẹt qua.

      Cú đánh thứ hai giáng vào má . nghe thấy tiếng xương vỡ.

      nhớ mình đánh rơi dao mổ thế nào.

      Khi bắt đầu tỉnh lại, mặt giật mạnh. Mắt phải nhìn thấy gì. cố cử động tay chân nhưng thấy cổ tay và cổ chân mình lại bị trói vào giường. Nhưng vẫn chưa dính băng dính vào miệng . vẫn chưa làm im miệng được.

      đứng bên đầu . thấy những vết máu áo . Máu của , nhận ra điều đó và thấy hài lòng như con thú dữ. Con mồi của chống cự và khiến đổ máu. Mình dễ khuất phục. vui mừng khi kẻ khác sợ hãi, mình cho thấy điều đó ở mình.

      lấy dao mổ khay, tiến về phía . Dù tim đập ầm ầm trong lồng ngực, nhưng nằm im thin thít, mắt nhìn thẳng vào . giễu cợt, thách thức . Giờ biết tránh khỏi cái chết. Thái độ chấp nhận đó là giải thoát với . Đó là dũng cảm của kẻ bị tuyên án. Trong hai năm qua mình như con thú bị thương trong hang. Hai năm qua, để bóng ma của Andrew Capra điều khiển toàn bộ cuộc sống của . Nhưng giờ hết.

      Tiếp , mổ ta ! Nhưng ngươi thắng. Ngươi thấy ta chết trong tư thế đầu hàng.

      ấn mũi dao lên bụng . Các thớ cơ bụng tuân theo ý và cứng lại. chờ xem mật biến sắc vì sợ.

      Nhưng chỉ cho thấy thái độ thách thức.

      - Mày thể làm việc đó mà có Andrew phải ? - mỉa mai - Thậm chí mày thể tự làm việc đó. Andrew phải thực tất cả những chuyện khốn nạn. Mày chỉ dám đứng nhìn .

      ấn mạnh mũi dao, chọc vào da . Dù đau đớn và những giọt máu đầu tiên rỉ ra, nhưng vẫn nhìn chằm chằm, tỏ chút sợ hãi, để cho thích chí.

      - Mày thậm chí còn biết hiếp đàn bà, đúng ? , thằng Andrew người hùng của mày làm chuyện đó - cũng là kẻ bại trận.

      Dao mổ của bỗng khựng lại, nâng lên. thấy nó lơ lửng trong ánh sáng lờ mờ.

      Andrew. Chìa khóa là Andrew, kẻ tôn thờ, vị Chúa của .

      - Kẻ thua cuộc, Andrew là kẻ thua cuộc - - Mày biết tại sao đến gặp tao đêm đó chứ? đến cầu xin tao.

      - - như thào.

      - xin tao đừng sa thải . van tao - cười, giòn tan khiến giật mình trong nơi chết chóc đó - đáng thương. Đó chính là Andrew, người hùng của mày. cầu xin tao giúp .

      Tay cầm dao mổ của cứng lại. Lưỡi dao lại ấn sâu vào bụng , máu tươi ộc ra, chảy xuống hông . cố chịu đựng hết sức để nén bản năng nhìn mặt và hét lên. Thay vào đó, tiếp. Giọng mạnh mẽ, tự tin như thể chính mới là người cầm dao mổ.

      - với tao về mày. Mày biết điều đó, đúng ? mày thậm chí chưa từng chuyện với . Mày hèn thế đấy. phải tìm những cho mày.

      - dối!

      - Mày chẳng là gì với hết. Mày chỉ là kẻ ăn bám, con giun.

      - dối!

      Mũi dao ấn sâu vào da . Mặc dù cố chịu đựng nhưng miệng thở hổn hển. Mày thắng tao, thằng khốn! Vì tao sợ mày nữa. Tao sợ gì hết.

      trừng mắt. Mắt đỏ rực lên, thách thức tên khốn khi rạch nhát dao nữa.

    5. vulinh

      vulinh Well-Known Member

      Bài viết:
      20,019
      Được thích:
      24,221
      HAI MƯƠI LĂM



      Rizzoli đứng nhìn đống bột làm bánh và tự hỏi biết bao nhiêu hộp đựng bánh chứa đầy sâu ăn bột. Hobbs’ FoodMart là loại cửa hàng rau quả như vậy - tối tăm và bốc mùi khó chịu. Đây thực là loại cửa hàng của Mom và Pop, cặp ông già, bà già chuyên bán sữa hỏng cho trẻ con học. Ông già Pop là Dean Hobbs, ông già Mỹ có cặp mắt đa nghi, luôn dừng lại kiểm tra kỹ tờ hai mươi lăm xu của khách trước khi chấp nhận số tiền đó. Ông ta khó chịu trả lại hai xu tiền lẻ, rồi đóng sầm ngăn kéo đựng tiền lại.

      - Đừng có tìm những kẻ dùng cái ATM gì đó nữa - ông ta với Rizzoli - Tôi cất nó rồi, chỉ để tiện cho khách hàng của tôi thôi. Tôi chẳng dùng nó làm gì hết.

      - Số tiền đó được rút vào tháng năm. Hai trăm đô. Tôi có ảnh của người đàn ông

      - Tôi cũng muốn cho cảnh sát liên bang biết lắm chứ. Nhưng khi đó là tháng năm. Giờ là tháng tám. nghĩ tôi có thể nhớ các vị khách lâu thế sao?

      - Cảnh sát liên bang đến đây sao?

      - Sáng nay, họ cũng hỏi tôi những câu như vậy. Cảnh sát thông báo cho nhau hay sao?

      Vậy là họ lần theo các giao dịch bằng thẻ ATM. Đó phải là Sở cảnh sát Boston, mà là cảnh sát của liên bang. Khốn kiếp, lãng phí thời gian ở đây.

      Ông già Hobbs quay ngoắt sang nhìn cậu bé tò mò nhìn khu để kẹo.

      - Này, mày phải trả tiền thanh kẹo Snickers đó đấy?

      - À… vâng.

      - Vậy lấy tiền ra khỏi túi . Có ?

      Cậu bé lại trả thanh kẹo về chỗ cũ, lủi ra khỏi cửa hàng.

      Dean Hobbs gầm gừ.

      - Thằng nhóc đó lúc nào cũng quấy rối.

      - Ông biết thằng bé đó? - hỏi.

      - Biết cả họ hàng nhà nó.

      - Còn những người khách khác sao? Ông biết hầu hết khách hàng của mình chứ?

      - vòng quanh thị trấn chưa?

      - Rồi, nhưng nhanh thôi.

      - Đúng vậy, nhanh thôi. thăm Lithia chỉ cần thế. nghìn hai trăm người. Chẳng có gì đáng xem lắm.

      Rizzoli lấy bức ảnh của Warren Hoyt ra. Đây là bức ảnh tốt nhất họ thu được. Bức ảnh chụp từ hai năm trước, lấy từ bằng lái xe của . nhìn thẳng vào máy ảnh. Đó là thanh niên có khuôn mặt gày gò, mái tóc cắt gọn và nụ cười rất chung chung và kỳ quặc. Mặc dù Dean Hobbs xem rồi nhưng vẫn giơ ra cho ông ta xem.

      - tên là Warren Hoyt.

      - Đúng vậy. Tôi nhìn rồi. Cảnh sát chính phủ cho tôi xem.

      - Ông nhận ra chứ?

      - Sáng nay tôi nhận ra . Giờ cũng thế.

      - Ông chắc chứ?

      - Nghe giọng tôi có vẻ chắc sao?

      Đúng là nghe ông ta rất chắc chắn, ông ta giống kiểu người bao giờ thay đổi ý kiến của mình về bất cứ chuyện gì.

      Có tiếng chuông kêu, cánh cửa mở ra. Hai nữ sinh bước vào, mái tóc vàng óng. Hai mặc quần đùi, để lộ đôi chân trần rất dài và rám nắng. Dean Hobbs thoáng bị phân tâm khi hai qua, cười khúc khích và về góc tối ở cuối cửa hàng.

      - Chắc chắn bọn chúng lớn - ông lẩm bẩm ngạc nhiên.

      - Ông Hobbs.

      - Hả?

      - Nếu ông thấy người đàn ông trong bức ảnh, tôi muốn ông gọi ngay cho tôi - đưa cho ông ta danh thiếp - ông có thể gọi cho tôi hai tư hai tư. Bằng máy nhắn tin hay điện thoại đều được.

      - Rồi, rồi.

      Những mang ra giỏ khoai tây và sáu lon Pepsi đường để tính tiền. Họ đứng đó, nổi bật vì mặc áo lót. Đầu vú họ lộ sau lớp áo phông. Dean Hobbs nhìn họ hau háu và Rizzoli tự hỏi biết ông ta quên là có ở đó hay .

      Đây là câu chuyện đời mình. Nhữnq xinh đẹp bước vào, và mình trở nên vô hình.

      rời cửa hàng bán rau quả, trở lại xe. Chỉ trong thời gian ngắn, mặt trời thiêu đốt phần bên trong ô tô. mở cửa xe, đứng đó chờ xe nguội bớt. con đường chính ở Lithia, có gì di chuyển. thấy trạm xăng, cửa hàng bán linh kiện máy tính, quán cà phê, nhưng tất cả đều vắng tanh. Cái nóng khiến tất cả rút lui hết vào trong nhà. nghe thấy tiếng máy điều hoà kêu ro ro dọc con phố. Ngay ở thị trấn của Mỹ, người ta cũng thể ngồi quạt mát cho mình. kỳ diệu của máy điều hòa khiến việc ngồi trước hiên nhà trở nên vô nghĩa.

      nghe thấy cánh cửa của hàng rau quả đóng lại. Hai chầm chậm ra ngoài trời nắng. Đó là những sinh vật duy nhất di chuyển. Khi họ qua đường, Rizzoli thấy tấm rèm ô cửa hất lên. Người ta chú ý đến mọi việc trong thị trấn này. Chắc chắn họ chú ý đến những trẻ xinh đẹp.

      Liệu họ có để ý nếu ai đó bị mất tích ?

      đóng cửa xe, trở lại hàng rau quả.

      Ông Hobbs ở hành lang bán rau, khéo léo xếp đống rau diếp tươi gần khu làm lạnh lên trước phần rau héo.

      - Ông Hobbs?

      Ông ta quay lại.

      - Lại là à?

      - Tôi muốn hỏi ông câu nữa.

      - Đừng có là tôi biết câu trả lời.

      - Có người phụ nữ châu Á nào sống ở thị trấn này ?

      Ông ta nghĩ hỏi vậy nên kinh ngạc quay lại nhìn .

      - Gì?

      - phụ nữ người Hoa hay người Nhật. Hay có thể là phụ nữ người bản địa Mỹ.

      - Ở đây có mấy gia đình người da đen - ông ta như thể họ có thể thay thế cho người phụ nữ kia.

      - Có thể bị mất tích, tóc dài, đen, rất thẳng, dài ngang lưng.

      - ta là người Á Đông à?

      - Hoặc có thể là người gốc Mỹ.

      Ông ta cười.

      - Quỷ quái , tôi chắc đó là ta.

      Rizzoli chú ý cao độ. ông ta lại quay về phía giỏ rau, bắt đầu lộn đống rau ở dưới lên rau tươi.

      - ta là ai, ông Hobbs?

      - phải là người Á Đông, tôi chắc điều đó. Nhưng cũng phải người Ấn Độ.

      - Ông biết ta?

      - Tôi thấy ta ở đây, hay hai lần gì đó. ta thuê Trang trại Sturdee cũ nát suốt mùa hè. cao to, đẹp như vậy đâu.

      Đúng, ông ta chú ý đến chi tiết cuối cùng đó.

      - Lần cuối ông nhìn thấy ta là khi nào?

      Ông quay lại, gọi to.

      - Này, Margaret!

      Cánh cửa sau bật mở, bà Hobbs bước ra.

      - Gì đấy?

      - Bà chuyển hàng đến trang trại Sturdee tuần trước đúng ?

      - Ừ.

      - ở đó thế nào?

      - ta trả tiền cho tôi.

      Rizzoli hỏi.

      - Kể từ đó bà có thấy ta , bà Hobbs?

      - Chẳng có lý do gì để gặp ta.

      - Trang trại Sturdee ở đâu?

      - Ngoài phố West Fork, ở cuối đường.

      Rizzoli cúi xuống khi máy nhắn tin của kêu.

      - phải là gọi đường dài chứ?

      - Đến Boston.

      Ông ta gầm gừ, quay lại xếp đống rau.

      - Điện thoại trả tiền ở bên ngoài.

      Rizzoli chửi thề, lại ra ngoài nắng và tìm thấy điện thoại trả tiền. ném xu vào lỗ.

      - Thám tử Frost đây!

      - vừa nhắn tin cho tôi.

      - Rizzoli! làm gì ở Western Mass vậy?

      ngạc nhiên. nhận ra là biết ở đâu nhờ mã vùng.

      - Tôi lái xe loanh quanh.

      - vẫn tham gia vào vụ án phải ?

      - Tôi chỉ thẩm tra vài việc, có gì nhiều đâu.

      - Tệ , nếu… - Frost bỗng hạ giọng - Nếu Marquette mà biết

      - cho ông ấy biết chứ?

      - đời nào! Nhưng hãy về đây ngay! Ông ấy tìm và ông ấy điên.

      - Tôi cần kiểm tra nơi nữa ở đây.

      - Nghe tôi này, Rizzoli. Hãy để kệ nó , nếu còn cơ hội được ở lại đội.

      - thấy ? Tôi mất cơ hội đó rồi! Tôi bị mọi người ghẻ lạnh! - chớp mắt để nước mắt trào ra. quay , cay đắng nhìn con phố vắng tanh. Bụi bay lên như khói - Giờ tôi chỉ còn lại . Tên Bác sỹ phẫu thuật. Tôi chẳng còn gì, ngoài việc bắt được .

      - Cảnh sát liên bang đến đó. Họ về tay .

      -Tôi biết.

      - Vậy còn làm gì ở đó?

      - Hỏi những câu mà họ hỏi - gác máy.

      Rồi vào xe, lái về phía trang trại có tóc đen.




      HAI MƯƠI SÁU



      Trang trại Sturdee chỉ là ngôi nhà biệt lập ở cuối con đường dài bụi bẩn. Đó là ngôi nhà xây kiểu nông thôn với ống khói trắng, mái hiên trũng xuống vì chịu sức nặng của đống củi. Rizzoli ngồi trong ô tô lúc, quá mệt nên muốn bước ra ngoài. nản lòng khi nghĩ đến nghiệp thời của mình giờ sắp tan thành mây khói. ngồi mình con đường bụi bẩn. biết trước việc bước lên những bậc đá đó, gõ cánh cửa đó vô nghĩa. thấy phụ nữ với vẻ mặt ngạc nhiên ra mở cửa và tình cờ ta có mái tóc đen. nghĩ về Ed Geiger, cảnh sát khác ở Boston cũng từng đỗ xe con đường đầy bụi. Khi đó ta sang tuổi bốn chín, và ta quyết định đây thực là đoạn cuối con đường của ta. Rizzoli là người đầu tiên đến trường. Trong khi tất cả các cảnh sát khác đứng quanh chiếc xe, kính chắn gió bắn đầy máu, lắc đầu và lẩm bẩm về chàng Ed đáng thương Rizzoli cảm thấy đồng cảm sâu sắc với viên cảnh sát tự bắn vào đầu mình.

      dễ dàng, nghĩ. bỗng nhớ ra khẩu súng để bên hông. Đây phải là khẩu súng do sở cảnh sát cấp. giao nộp nó cho Marquette. Đây là khẩu súng tự mua. Khẩu súng có thể là người bạn tốt nhất, nhưng cũng có thể là kẻ thù nguy hiểm nhất của con người. Đôi khi nó có hai vai trò đó cùng lúc.

      Nhưng phải là bạn cảnh sát Ed Geiger. phải là kẻ thua cuộc, tự gí súng vào đầu mình. tắt máy, ngập ngừng bước ra khỏi xe để làm phần việc của mình.

      Rizzoli sống cả đời ở thành phố. im lặng ở nơi này rất lạ lẫm với . bước lên những bậc thềm. Tiếng gỗ kêu kẽo kẹt dường như được khuếch đại lên. Ruồi bay vo ve đầu. gõ cửa, chờ đợi, thử xoay tay cầm và thấy nó bị khóa bên trong. gõ cửa lần nữa, gọi to.

      - Có ai ?

      Lúc này, bọn muỗi phát ra . vỗ vào mặt, thấy bàn tay đầy máu. Cuộc sống ở miền quê khủng khiếp. Ít ra ở thành phố, những người hút máu lại bằng hai chân và có thể nhìn thấy họ.

      gõ mạnh lên cửa vài lần nữa, vỗ thêm mấy con muỗi, rồi bỏ cuộc. Hình như có ai ở nhà.

      lượn về phía sau ngôi nhà, xem có đường đột nhập vào trong . Nhưng toàn bộ cửa sổ đều đóng, những tấm kính bị gạt xuống. Những ô cửa quá cao nên kẻ đột nhập thể vào bằng thang vì ngôi nhà được xây bằng đá phẳng lì.

      nhìn ngôi nhà nữa, quay lại nhìn sân sau. Có nhà kho cũ kỹ và cái đầm đầy rêu xanh. con vịt trời bơi lội thong thả mặt nước - có lẽ nó bị lạc đàn. có dấu hiệu gì cho thấy người ta từng trồng rau ở đây. Chỉ có cỏ dại cao quá đầu gối. Có nhiều cỏ nghĩa là có nhiều muỗi. Và rất nhiều muỗi.

      Có vết xe dẫn đến nhà kho. đám cỏ bị bánh xe nghiến nát và dạt sang bên.

      Đây là nơi cuối cùng để kiểm tra.

      dọc theo lối đó, phát cỏ sang bên và ngập ngừng dừng lại. có giấy phép khám nhà, nhưng mà ai biết được? chỉ ngó vào để xác nhận là bên trong có chiếc ô tô nào.

      nắm chắc tay cầm, mở cánh cửa nặng nề.

      Ánh nắng chiếu vào, quét vệt trong bóng tối nhà kho. đám bụi bay lơ lửng trong khí. đứng chết lặng, nhìn chằm chằm chiếc ô tô bên trong.

      Đó là chiếc Mercedes màu vàng.

      Mồ hôi lạnh toát vã ra mặt . Ở đây im lặng, chỉ có tiếng ruồi o o trong bóng tối. Ở đây quá tĩnh lặng và ẩm ướt.

      nhớ nổi minh sờ vào bao súng, rút súng ra. Nhưng nó ở trong tay khi lại gần chiếc xe. nhìn vào cửa trước. Chỉ cần nhìn qua, biết nó trống . Trong tích tắc, khi nhìn kỹ hơn, xem hết phần bên trong. nhìn khối đen lù lù ghế của hành khách. bộ tóc giả.

      Bộ tóc giả màu đen đó từ đâu ra? Của Á Đông chăng?

      tóc đen.

      nhớ đoạn băng theo dõi ở bệnh viện vào hôm Nina Peyton bị sát hại. Trong đoạn băng đó, họ thấy Warren Hoyt trong đoạn băng.

      Bởi vì giả làm con để vào khu bệnh nhân, rồi bỏ lốt đó để ra ngoài.

      Có tiếng thét.

      quay về phía ngôi nhà, tim đập mạnh. Cordell chăng?

      lao vụt ra khỏi nhà kho như tên bắn, lao qua đám cỏ dại, đến cửa sau ngôi nhà.

      Nó bị khóa.

      Phổi đàn hồi như ống bễ. cúi xuống, nhìn cánh cửa và khung cửa. Để đá tung cánh cửa, cần chất kích thích chứ chỉ sức mạnh cơ bắp. Là tân binh và là phụ nữ duy nhất trong đội, có lần người ta ra lệnh cho đá cửa xông vào nhà kẻ tình nghi. Đó là bài thử nghiệm. Và những cảnh sát khác nghĩ rằng, có lẽ họ còn mong rằng làm được. Trong khi họ đứng đó, chuẩn bị làm bẽ mặt Rizzoli tập trung tất cả bực tức, nỗi căm giận vào cánh cửa đó. Chỉ cần hai cú đá, đá vỡ cánh cửa, chui vào như con quỷ xứ Tasmania.

      Chất kích thích đó giờ gào thét trong khi chĩa súng vào khung cửa, bắn ba phát. đá mạnh gót chân vào cánh cửa. Gỗ vỡ tung. đá thêm cú nữa. Lần này cánh cửa mở tung. luồn vào trong, cúi người, nhìn chăm chăm về phía trước. Súng của lia khắp phòng. gian bếp. Bên trong rất tối nhưng vẫn có đủ ánh sáng, và thấy có ai bên trong. Những chiếc đĩa bẩn để trong bồn. Tủ lạnh kêu ro ro.

      ở đây ? Hay ở phòng khác chờ ta?

      Mồ hôi chảy xuống ngực , thấm ướt áo nịt. thấy chiếc điện thoại tường. lại gần nó, nhấc ống nghe khỏi móc treo. có tiếng máy kêu. Vậy là có cơ hội được yểm trợ.

      để nó lơ lửng, về phía lối vào. nhìn quanh căn phòng kế tiếp và thấy đó là phòng khách với chiếc ghế dài cũ nát và vài ghế tựa.

      Hoyt đâu? đâu?

      vào phòng khách. Khi được nửa phòng, thét lên sợ hãi khi máy nhắn tin của rung. Khốn kiếp! tắt máy, tiếp tục ngang phòng khách.

      Khi đến căn phòng kế bên, dừng lại, quan sát.

      Cửa trước mở toang.

      ra khỏi nhà.

      ra ngoài mái hiên. Muỗi vo ve đầu . nhìn sân trước, qua con đường đầy bụi. Xe của đỗ ở đó. nhìn đám cỏ cao và bìa rừng gần đó, đầy cây non. Ngoài đó có quá nhiều chỗ để trốn. Trong khi húc vỡ cửa sau như con bò ngu xuẩn chuồn ra bằng cửa trước và trốn vào rừng.

      Cordell ở trong nhà. Hãy tìm ấy!

      lại vào bên trong nhà, chạy lên cầu thang. Tầng rất nóng và ngột ngạt. Mồ hôi vã ra như tắm khi vội vàng xem ba phòng ngủ, phòng tắm và nhà vệ sinh. thấy Cordell.

      Lạy Chúa, sắp chết ngạt ở đây.

      lại chạy xuống cầu thang. im lặng trong ngôi nhà làm tóc gáy đựng đứng. Khi đó, nghĩ Cordell chết. Tiếng thét nghe thấy khi ở trong nhà kho chắc là tiếng thét của người chết, là thanh cuối cùng thoát ra từ cổ họng người hấp hối.

      trở lại nhà bếp. Qua ô cửa ngay bồn nước, thấy nhà kho.

      thấy mình qua đám cỏ, vào nhà kho. thấy mình mở cửa. biết mình thấy chiếc Mercedes. biết còn thời gian nữa.

      Vì vậy kết thúc mọi chuyện. Rồi bỏ chạy.

      Tủ lạnh kêu ro ro lúc rồi im bặt. nghe thấy tim mình đập thình thịch như cái trống.

      quay lại, thấy cánh cửa dẫn xuống tầng hầm. Đó là nơi duy nhất chưa tìm.

      mở cửa. Bên dưới tối om. Ôi ! rất ớn điều này. phải rời chỗ sáng, lần mò từng bước xuống nơi mà biết có rất nhiều chuyện rùng rợn. muốn làm việc đó, nhưng biết chắc chắn Cordell có dưới đó.

      lục túi, lấy chiếc đèn pin Maglite siêu . Được ánh sáng yếu ớt của nó dẫn đường, bước xuống hước, rồi bước nữa. khí dường như lạnh và ẩm hơn.

      ngửi thấy mùi máu.

      Có vật gì đó quệt qua mặt . lùi lại, hoảng hốt. thở phào nhõm khi nhận ra đó chỉ là dây công tắc đèn, lơ lửng cầu thang. giơ tay, kéo mạnh sợi dây. Nhưng có gì.

      Chắc chắn đèn pin của phải hoạt động hết công suất.

      lại soi đèn xuống bậc thang, thắp sáng lối . giữ chặt súng bên mình. khí ở ngột ngạt, nhưng xuống đây nó trở nên gần như lạnh lẽo, khiến mồ hôi da như bị đóng băng.

      đến chân cầu thang, giày chạm đất. Dù ở dưới này mát hơn nhưng mùi máu nồng nặc hơn. khí dày đặc và ẩm ướt. Im lặng, hoàn toàn im lặng như cõi chết. Tiếng động lớn nhất nghe thấy là hơi thở gấp gáp của chính mình.

      quét đèn pin thành hình vòng cung. suýt hét lên khi thấy bóng mình phản lại dưới ánh đèn. đứng đó, chĩa súng về phía trước, tim đập mạnh khi thấy vật phản chiếu ánh sáng.

      Những bình thủy tinh. Đó là những bình thuốc lớn, bên có đậy nút. cần nhìn vật lơ lửng bên trong, biết chúng là gì.

      Những chiến lợi phẩm của .

      Có sáu bình. Mỗi bình đều dán tên người. Ở đây có nhiều nạn nhân hơn cảnh sát biết.

      Bình cuối trống , nhưng tên nạn nhân được viết nhãn. Cái bình sẵn sàng chờ phần thưởng. Đó là phần thưởng lớn nhất.

      Đó là Catherine Cordell.

      Rizzoli lượn sang bên. Chiếc đèn của uốn éo quanh hầm chứa, lướt qua những cây cột và phiến đá ốp tường lớn. Rồi ánh đèn đột ngột dừng lại ở góc xa. Có vật gì đó màu đen bắn lên tường.

      Máu!

      lia đèn sang bên khác. Nó chiếu thẳng lên người Cordell. Cổ tay và chân bị buộc vào giường bằng băng dính ống nhựa. Máu bên hông lấp lánh, còn mới và ướt. bên đùi in hình bàn tay dính máu. Đó là bàn tay của tên Bác sỹ phẫu thuật khi ấn găng tay lên da thịt , như muốn để lại dấu ấn của riêng . khay dụng cụ phẫu thuật vẫn ở giường. phân loại dụng cụ tra tấn rất kỹ.

      Ôi, lạy Chúa! Suýt nữa tôi cứu được

      thấy nôn nao và căm giận. lướt đèn pin dọc cơ thể bê bết máu của Catherine cho đến khi nó dừng lại ở cổ . có vết mổ nào, có lớp cắt nào.

      Ánh sáng bỗng dao động. , phải là ánh sáng. Ngực Catherine động đậy.

      ấy vẫn còn thở.

      Rizzoli giật băng dính miệng Cordell và cảm thấy hơi thở ấm nóng của ấy tay. thấy mí mắt Catherine động đậy.

      Đúng vậy!

      cảm thấy vui mừng, nhưng cũng cảm thấy có điều gì đó ổn ở đây. có thời gian nghĩ đến việc đó. phải đưa Cordell ra khỏi đây.

      giữ chặt đèn pin bằng miệng, nhanh chóng cắt dây trói tay Catherine và bắt mạch. thấy mạch, dù rất yếu nhưng chắc chắn có mạch.

      Nhưng vẫn thể rũ bỏ cảm giác có vấn đề gì đó ở đây. Thậm chí khi cắt đứt dây buộc cổ chân phải Catherine. Nhưng khi chuẩn bị cắt dây bên trái bỗng đầu tỉnh táo trở lại. Và lúc này biết tại sao.

      Tiếng thét đó. nghe thấy tiếng thét của Cordell khi chạy ra khỏi nhà kho.

      Nhưng sau đó lại thấy miệng Cordell bị dính băng.

      tháo ra. muốn ấy hét lên. muốn mình nghe thấy.

      Đây là cái bẫy.

      Lập tức, giơ tay định với khẩu súng đặt giường. Nhưng thấy nó đâu.

      Khẩu 2x4 ly đập vào thái dương . Cú đánh mạnh đến nỗi bò úp mặt nền đất. chống tay và đầu gối, cố gượng dậy.

      Khẩu 2x4 ly lại giáng xuống lần nữa, thúc vào sườn. nghe thấy tiếng xương sườn gãy răng rắc. thở khò khè. lật ngửa mặt lên. đau đến nỗi thể đẩy khí qua phổi được.

      Đèn bật. Bóng đèn duy nhất lơ lửng đầu .

      đứng bên . Mặt như quả bóng bầu dục đen ngòm dưới ánh điện. Tên Bác sỹ phẫu thuật nhìn phần thưởng mới của mình.

      nghiêng mình sang bên bị đau, cố đẩy mình lên khỏi mặt đất.

      đá tay khuỵu xuống. lại gục xuống, phần xương gãy đau buốt. kêu lên đau đớn và thể cử động được. lại gần . thấy khẩu súng lơ lửng đầu.

      với khay dụng cụ, lấy con dao mổ.

      , Chúa ơi! !

      ngồi xuống, ủng vẫn giẫm lên cổ tay , giơ dao mổ lên. thương tiếc đâm vào lòng bàn tay .

      Lần này rú lên khi con dao thép đâm xuyên thịt, cắm ngập xuống nền đất. Nó cố định tay ở đó.

      lại lấy con dao mổ khác khay, túm chặt tay phải và kéo duỗi thẳng ra. giậm mạnh ủng xuống, gí mạnh cổ tay . lại vung dao mổ lên. Rồi lại đâm xuống, cắm xuyên thịt xuống đất.

      Lần này, tiếng thét của hơn. bị hạ gục.

      đứng lên, nhìn lúc như kẻ thích sưu tập chiêm ngưỡng con bướm rực rỡ mà vừa ghim vào bảng.

      lại gần khay dụng cụ, lấy con dao mổ thứ ba. Hai tay dang rộng, bị ghim chặt xuống đất. chỉ có thể nhìn và chờ hành động cuối cùng của . lượn về sau đầu , ngồi xuống. túm tóc ở đỉnh đầu , giật mạnh về phía sau khiến cổ căng hết mức. nhìn thẳng vào và mặt vẫn chỉ là hình bầu dục tối om. Đó là cái hố đen, nuốt hết ánh sáng. thấy động mạch cảnh thình thịch trong cổ họng. Nó đập cùng nhịp với tim . Máu là sống, nó chảy trong động mạch và mạch máu của . tự hỏi phải chờ bao lâu con dao mổ mới làm xong phần việc cuối cùng của nó. tự hỏi cái chết có đến từ từ và mắt có dần tối lại . thấy điều thể tránh khỏi, cả đời đấu tranh, cả đời đứng lên sau mỗi lần thất bại, nhưng lần này bị hạ gục. thấy con dao lóe lên. nhắm mắt khi chạm con dao lên da cổ .

      Lạy Chúa! Hãy để cái chết đến nhanh!

      nghe thấy thở mạnh, rồi tay bỗng nới lỏng tóc .

      Tiếng súng khiến kinh ngạc.

      mở mắt. vẫn ngồi đầu nhưng túm tóc nữa. Con dao mổ tuột khỏi tay . Cái gì đó lên mặt . Máu.

      phải là máu của , mà là của .

      đổ gục về phía sau, biến mất khỏi tầm mắt .

      Rizzoli chấp nhận cái chết. Giờ nằm đó, kinh ngạc vì biết mình lại được sống. cố phân tích toàn bộ các chi tiết cùng lúc. thấy bóng điện lơ lửng như mặt trăng treo đầu sợi dây. tường có bóng đen động đậy. quay đầu lại, thấy cánh tay Catherine Cordell lại rơi xuống giường.

      thấy khẩu súng tuột khỏi tay Cordell, rơi xuống sàn.

      Ở đằng xa có tiếng còi xe cảnh sát.

    6. ^^! Nếu bạn không gửi link bài viết trên Facebook được, hãy sử dụng link trong khung này để chia sẻ bài viết :