Nạn Nhân Thứ Tư - Tess Gerritsen(27c+1kết)(Kinh dị, Trinh thám)

Thảo luận trong 'Các Thể Loại Khác (Kinh Dị, Trinh Thám..)'

  • ^^! Nếu bạn không gửi link bài viết trên Facebook được, hãy sử dụng link trong khung này để chia sẻ bài viết :
    1. vulinh

      vulinh Well-Known Member

      Bài viết:
      20,019
      Được thích:
      24,221
      MƯỜI



      Mắt Nina Peyton mở to, hoang dại. Dây buộc bốn góc cố định cổ tay và cổ chân vào thành giường. Những đường gân cánh tay nổi lên thành những đường rất to khi cố tháo tay ra.

      - ấy tỉnh lại cách đây khoảng năm phút - Stephanie, y tá Bộ phận chăm sóc đặc biệt - Đầu tiên, tôi để ý thấy nhịp tim của ấy tăng. Rồi ấy mở mắt. Tôi cố làm ấy bình tĩnh lại nhưng ấy cố chống cự để tháo dây buộc.

      Catherine nhìn màn hình điện tim và thấy nhịp tim đập rất nhanh, nhưng bị loạn nhịp. Hơi thở của Nina cũng gấp, đôi khi nó bị đứt đoạn thành những tiếng khò khè lớn, chúng thoát ra từ ống khí quản đầy đờm.

      - Đó là ống thở - Catherine - Nó khiến ấy hoảng hốt.

      - Tôi có nên tiêm thêm thuốc mê Valium cho ấy ?

      Moore đứng ở lối vào lên tiếng.

      - Chúng tôi cần ấy tỉnh táo. Nếu ấy bị hôn mê, chúng tôi có câu trả lời.

      - Dù sao ấy cũng thể chuyện với , khi còn thông ống thở - Catherine nhìn Stephanie - Các bọt khí cuối cùng trong máu thế nào? Chúng ta có bỏ ống ra được ?

      Stephanie lật những trang giấy bìa kẹp hồ sơ.

      - Chúng là những đường ranh giới. P02: 65. PC02: 32. Thông số ống truyền là bốn mươi phần trăm ô-xi.

      Catherine cau mày. muốn lựa chọn nào trong số đó. muốn Nina tỉnh táo và có thể chuyện càng nhiều càng tốt như cảnh sát mong đợi. Nhưng lập tức, lo ngại vài vấn đề. Cảm giác bị ống luồn trong cổ họng có thể khiến người hoảng loạn. Nina bị kích động đến mức cổ tay bị buộc của bị chà xát mạnh. Nhưng nếu tháo ống ra cũng rất nguy hiểm. Các chất dịch đọng lại trong phổi sau khi phẫu thuật. Thậm chí khi hít vào bốn mươi phần trăm ô-xi - tức gấp đôi lượng ô-xi bình thường trong phòng - trạng thái bão hòa trong máu của vẫn đủ. Đó là lý do Catherine vẫn giữ nguyên ống thở. Nếu bỏ ống ra, họ mất khoảng cách an toàn. Nếu vẫn để ống bên trong, họ khiến bệnh nhân tiếp tục hoảng loạn và giãy giụa. Nếu họ làm hôn mê những câu hỏi của Moore có lời đáp.

      Catherine nhìn Stephanie.

      - Tôi rút ống.

      - chắc chứ?

      - Nếu có biểu mọi việc xấu , tôi luồn ống vào - dễ, làm khó, đó là điều thấy trong mắt Stephanie. Sau vài ngày luồn ống, các mô thanh quản phần nào sưng lên, khiến việc luồn ống trở lại rất khó khăn. ca phẫu thuật mở thanh quản là giải pháp duy nhất của họ.

      Catherine vòng về sau đầu bệnh nhân, nhàng ôm mặt .

      - Nina, tôi là bác sỹ Cordell. Tôi rút ống. muốn vậy phải ?

      Bệnh nhân gật đầu, cách trả lời dứt khoát nhưng tuyệt vọng.

      - Tôi muốn phải nằm im, được chứ? Để chúng ta làm tổn thương dây thanh của - Catherine ngẩng lên - Mặt nạ sẵn sàng chưa?

      Stephanie giữ mặt nạ ô-xi bằng nhựa.

      Catherine bóp vai Nina vỗ về. tháo băng dính cố định ống thở và xả khí ra như mở đuôi quả bóng bay.

      - Hít sâu, rồi thở ra! - Catherine nhàng bảo. nhìn ngực bệnh nhân nở ra. Nina thở ra. Catherine rút ống ra.

      đống nước nhầy phun ra khi Nina ho và thở khò khè. Catherine vuốt tóc bệnh nhân, nhàng vỗ về khi Stephanie buộc cố định mặt nạ ô-xi.

      - ổn mà - Catherine .

      Nhưng những tiếng kêu màn hình điện tim vẫn tiếp tục. Ánh mắt sợ hãi của Nina vẫn dán chặt vào , như thể là sợi dây cứu ấy và ây dám rời mắt khỏi . Catherine nhìn mắt bệnh nhân và cảm thấy tia nhìn khó chịu quen thuộc. Đây là mình hai năm trước, tỉnh dậy ở bệnh viện Savannah, thức dậy sau cơn ác mộng và…

      nhìn sợi dây buộc chặt cổ tay, cổ chân Nina và nhớ lại sợ hãi như thế nào khi bị trói. Andrew Capra trói như vậy.

      - Tháo dây buộc! - ra lệnh.

      - Nhưng ấy có thể dứt các dây nối.

      - Hãy tháo chúng ra, làm ngay .

      Stephanie tức đỏ mặt lên khi bị quở trách. gì, tháo dây buộc ra. hiểu; ai có thể hiểu được, trừ Catherine. Thậm chí hai năm sau vụ ở Savannah, vẫn thể chịu được tay áo có cổ tay quá chặt. Khi sợi dây buộc cuối cùng được nới ra, thấy môi Nina mấp máy câu gì đó.

      Cám ơn!

      Tiếng kêu đường điện tâm đồ màn hình dần chậm lại. Trong thanh đều đều của nhịp tim, hai người phụ nữ nhìn nhau. Nếu như Catherine nhận ra phần của mình trong đôi mắt Nina Nina cũng nhận ra chính mình trong mắt Catherine. Đó là tình cảm gắn bó im lặng của hai nạn nhân.

      Chúng ta có nhiều điều mà những người khác bao giờ biết.





      - Các vị có thể vào, các thám tử - Y tá thông báo.

      Moore và Frost bước vào phòng, thấy Catherine ngồi bên giường, nắm tay Nina.

      - ấy cầu tôi ở lại - Catherine giải thích.

      - Tôi có thể gọi cảnh sát nữ vào - Moore gợi ý.

      - , ấy muốn tôi - Catherine khẳng định - Tôi .

      nhìn thẳng vào Moore. Ánh mắt thể khuất phục được. Và nhận thấy đây phải là người phụ nữ như người nắm tay chỉ mới cách đây mấy tiếng; đây là tính cách hoàn toàn khác trong : mạnh mẽ và tự vệ. chịu thoái lui trong việc này.

      gật đầu, ngồi xuống bên giường. Frost bật máy thu và tìm chỗ kín đáo ở chân giường. Đó là tính ôn tồn và phép lịch của Frost. Điều đó khiến Moore phải chọn cho mình chỗ ngồi để thẩm tra. Nina Peyton muốn đối diện với cảnh sát quá hung hãng.

      Mặt nạ ô-xi của được tháo ra và thay bằng ngạnh mũi. khí thổi xì xì trong ống, đẩy vào hai lỗ mũi . Mắt nhìn hết người này sang người khác, cặp mắt tỉnh táo trước bất cứ đe dọa hay hành động bất ngờ nào. Moore thận trọng nhàng khi giới thiệu mình và Barry Frost. hướng dẫn qua màn mở đầu, xác nhận tên, tuổi và địa chỉ của . Họ biết những thông tin này nhưng khi cầu xác nhận, họ ổn định lại tình trạng tâm lý của và chứng tỏ tỉnh táo, có khả năng đưa ra lời khai. trả lời câu hỏi của bằng giọng khàn khàn, đều đều, có chút cảm xúc. Thái độ xa cách của khiến bối rối, cảm thấy như thể nghe người chết .

      - Tôi nghe thấy vào nhà - - Mãi đến khi đứng ở cạnh giường, tôi mới thức dậy. Lẽ ra tôi nên mở cửa sổ. Lẽ ra tôi nên uống thuốc..

      - Thuốc gì? - Moore nhàng hỏi.

      - Tôi bị khó ngủ, vì… - Giọng dần.

      - Vì vụ cưỡng bức?

      quay , tránh ánh mắt .

      - Tôi gặp ác mộng. Ở phòng khám, họ cho tôi thuốc để ngủ được.

      cơn ác mộng, cơn ác mộng thực vào phòng ngủ của .

      - thấy mặt chứ?

      - Trời tối. Tôi nghe thấy thở nhưng tôi cử động được. Tôi hét lên được.

      - Lúc đó bị trói?

      - Tôi nhớ làm việc đó khi nào. Tôi nhớ chuyện đó xảy ra như thế nào.

      Thuốc mê, Moore nghĩ, để hạ gục trước, trước khi hoàn toàn tỉnh táo.

      - Sau đó có chuyện gì, Nina?

      Hơi thở của gấp gáp. màn hình điện tim ở đầu giường, những tiếng kêu nhanh hơn.

      - ngồi xuống chiếc ghế bên giường tôi. Tôi thấy bóng .

      - Và làm gì?

      - chuyện với tôi.

      - gì?

      - … - nuốt nước bọt - tôi bẩn thỉu, dơ dáy. Hán tôi nên ghét bẩn thỉu của chính mình. Và cắt bỏ phần bị ô nhục, để tôi trong sạch trở lại - dừng lại và thào - Đó là lúc tôi biết tôi sắp chết.

      Mặc dù mặt Catherine trắng bệch ra nhưng nạn nhân trông vẫn thản nhiên cách kỳ lạ, như thể về cơn ác mộng của phụ nữ khác chứ phải của chính mình. còn nhìn Moore nữa, mà nhìn vào điểm nào đó đằng sau . Như thể thấy ở đằng xa bị trói giường. Và chiếc ghế, gã đàn ông lặng lẽ miêu tả những điều khủng khiếp tiếp theo mà vạch ra. Với tên Bác sỹ phẫu thuật, Moore nghĩ, đây chỉ là màn dạo đầu. Đây là điều khiến thích thú, mùi nỗi sợ của nạn nhân. nhấm nháp nó. ngồi bên giường , nhồi nhét vào đầu những hình ảnh của cái chết. Mồ hôi túa ra da thịt , mồ hôi của như tỏa ra mùi chua của sợ hãi. Đó là thứ nước hoa kỳ lạ mà khao khát. hít nó và thích thú.

      - Sau đó có chuyện gì? - Giọng Moore rất nhàng.

      trả lời.

      - Nina?

      - chiếu đèn, rọi thẳng vào mặt tôi. chiếu thẳng vào mắt tôi khiến tôi thấy . Tất cả những gì tôi thấy chỉ là luồng sáng mạnh. Rồi chụp hình tôi.

      - Sau đó?

      nhìn .

      - Rồi bỏ .

      - bỏ mình trong nhà sao?

      - phải mình. Tôi vẫn nghe thấy lại quanh nhà. Và ti vi… cả đêm tôi nghe thấy tiếng ti vi.

      Cung cách hành động của thay đổi, Moore nghĩ. và Frost ngạc nhiên nhìn nhau. Tên Bác sỹ phẫu thuật giờ tự tin lên rất nhiều, liều lĩnh hơn. Thay vì giết người trong vài giờ, dây dưa kéo dài. Suốt đêm đó và cả ngày hôm sau, để mặc nạn nhân bị trói giường, để mặc suy nghĩ về cực hình tra tấn sắp tới. Khi thèm chú ý đến những mối nguy hiểm, khiến càng hoảng sợ, còn thích thú.

      Nhịp tim màn hình lại nhanh hơn. Mặc dù giọng của có vẻ đều đều, sức sống, nhưng sau khuôn mặt điềm tĩnh đó, nỗi sợ vẫn ngự trị.

      - Sau đó sao, Nina?

      - Đôi lúc trong buổi chiều, chắc tôi ngủ quên. Khi tôi tỉnh lại, trời tối. Tôi khát nước. Tôi chỉ nghĩ về việc đó, tôi cần nước…

      - có bỏ mình lúc nào ? mình trong nhà ?

      - Tôi biết. Tôi chỉ nghe thấy tiếng ti vi. Khi tắt ti vi, tôi biết. Tôi biết trở lại phòng ngủ của tôi.

      - Và khi đó, bật đèn?

      - Đúng.

      - thấy mặt chứ?

      - Chỉ cặp mắt. đeo khẩu trang, loại khẩu trang của bác sỹ.

      - Nhưng thấy mắt .

      - Đúng.

      - nhận ra chứ? Trước đây có thấy ?

      im lặng rất lâu. Moore thấy tim minh đập mạnh khi chờ câu trả lời mà mong đợi.

      Rồi khẽ .

      - .

      ngồi xuống ghế. căng thẳng trong phòng bỗng tan biến. Với nạn nhân, tên Bác sỹ phẫu thuật là kẻ xa lạ, tên. Và lý do chọn vẫn còn là bí .

      Giọng lộ vẻ thất vọng, .

      - Hãy mô tả cho chúng tôi, Nina.

      hít sâu, nhắm mắt như thể để gom hết lại trí nhớ.

      - … tóc ngắn, cắt rất gọn…

      - Màu gì?

      - Nâu. Màu nâu sáng.

      Trùng khớp với sợi tóc tìm thấy mép vết thương của Elena Ortiz.

      - Vậy là người da trắng? - Moore gợi ý.

      - Đúng.

      - Mắt sao?

      - Màu nhạt. Xanh lơ hoặc xám. Tôi dám nhìn thẳng vào mắt .

      - Mặt hình gì? Tròn, hay trái xoan?

      - Bé - dừng lại - Bình thường.

      - Chiều cao và cân nặng?

      - Rất khó…

      - Lời suy đoán chính xác nhất của là gì?

      - Trung bình.

      Trung bình, bình thường. con quỷ dữ trông như những người khác.

      Moore quay lại nhìn Frost.

      - Cho ấy xem “gói sáu”!

      Frost đưa cho cuốn sổ có các bức ảnh căn cước có tên là gói sáu vì mỗi trang có sáu ảnh. Moore đặt cuốn sổ lên chiếc bàn gấp giường và xoay nó về phía bệnh nhân.

      Trong nửa tiếng sau đó, họ quan sát . Hy vọng của họ chìm dần khi lật qua những trang sổ và dừng lại. ai gì, chỉ có tiếng xì xì của khí ô-xi và tiếng lật giở của những trang sách. Các bức ảnh chụp những tên tội phạm tình dục được xác định danh tính. Khi Nina lật hết trang này sang trang khác, Moore thấy dường như những khuôn mặt đó kéo dài vô tận. Những khuôn mặt lướt qua đó thể mặt tối của mỗi người, đó là kẻ mắc chứng bệnh da cóc nhưng lại đội lốt người.

      nghe thấy tiếng gõ cửa. Khi nhìn lên, thấy Rizzoli ra hiệu cho .

      ra ngoài chuyện với .

      - nhận dạng được ai chưa? - hỏi.

      - Chúng ta chẳng tìm được tên nào. đeo khẩu trang bác sỹ.

      Rizzoli cau mày.

      - Tại sao lại đeo khẩu trang?

      - Đó có thể là phần trong thói quen của , phần kích thích . chơi trò làm bác sỹ giả tưởng. với ấy là cắt bỏ bộ phận bị ô uế. biết ấy là nạn nhân bị cưỡng bức. Tại sao lại cắt bỏ bộ phận đó? tìm ngay đến tử cung.

      Rizzoli nhìn vào phòng. khẽ .

      - Tôi có thể nghĩ đến nguyên nhân khác khi hơn đeo khẩu trang đó.

      - Tại sao?

      - muốn ấy nhìn thấy mặt . muốn ấy nhận ra mình.

      - Nhưng điều đó nghĩa là…

      - Đó chính là điều tôi suốt - Rizzoli quay lại nhìn Moore - Tên Bác sỹ phẫu thuật hoàn toàn cố ý để Nina Peyton sống.





      Chúng ta thực chỉ tin tưởng rất ít ở trái tim con người, Catherine nghĩ khi xem phim chụp X-quang lồng ngực Nina. đứng trong bóng tối nhập nhoạng, nhìn tấm phim được kẹp hộp chiếu, xem kỹ hình xương và các nội tạng được in đậm, lồng ngực, cơ hoành và chỏm tim. Đó phải là nơi trú ngụ của tâm hồn, mà chỉ là cái bơm bằng cơ, chẳng có gì huyền bí hơn so với hai lá phổi và thận. Nhưng ngay cả Catherine, người am hiểu sâu về y khoa vẫn thể nhìn quả tim của Nina mà thấy xúc động trước biểu tượng của nó.

      Đó là trái tim của người sống sót.

      nghe thấy tiếng chuyện ở phòng bên. Đó là Peter, cầu nhân viên hồ sơ đưa cho phim chụp của bệnh nhân. lúc sau, vào phòng đọc hồ sơ và khựng lại khi thấy đứng gần hộp chiếu.

      - vẫn ở đây sao?

      - cũng vậy.

      - Nhưng tôi là người trực đêm nay. Sao về nhà?

      Catherine quay lại nhìn tia chụp X-quang lồng ngực Nina.

      - Tôi muốn chắc chắn bệnh nhân này ổn định.

      đứng ngay sau . xem qua phim chụp.

      - có gì ngoài chứng xẹp phổi. Tôi thấy chẳng có gì phải lo lắng quá - chú ý cái tên “Jane Doe” ở góc phim - Đây là ở giường số mười hai phải ? Người mà cảnh sát vây quanh à?

      - Đúng!

      - Tôi thấy tháo ống thở cho ấy.

      - Mấy giờ trước - do dự dừng lại. muốn về Nina Peyton, muốn tiết lộ những liên quan của trong vụ án. Nhưng Peter cứ đặt ra câu hỏi.

      - Khí trong máu của ấy ổn chứ?

      - Chúng vừa đủ.

      - Vậy ấy hoàn toàn ổn định phải ?

      - Đúng vậy.

      - Vậy sao về nhà? Tôi trông nom thay .

      - Tôi muốn tự mình chăm sóc bệnh nhân này.

      đặt tay lên vai .

      - còn tin đồng nghiệp của mình từ bao giờ vậy?

      lập tức cứng người lại khi bị chạm vào. nhận thấy điều đó nên rút tay lại.

      im lặng lúc, rồi quay , treo những tấm phim chụp X-quang của mình lên hộp chiếu, nhanh chóng quan sát chúng. đặt lên loạt hình chụp cắt lớp bụng. Những tấm phim choán hết hộp chiếu. Khi treo xong, đứng im. Mắt bị che mất vì những tấm phim lấp lánh mắt kính.

      - Tôi phải là kẻ thù, Catherine - khẽ , nhìn mà nhìn hộp chiếu - Tôi ước tôi có thể làm tin điều đó. Tôi cứ nghĩ mãi. Chắc là tôi làm gì, điều gì đó khiến mọi việc giữa hai chúng ta thay đổi - Cuối cùng quay lại nhìn - Chúng ta từng tin tưởng nhau, ít ra như những đồng nghiệp. tuyệt, có hôm tôi và cùng ấn tay lên ngực người đàn ông đó! Và giờ để tôi chăm sóc bệnh nhân. Giờ hiểu và tin tưởng tôi.

      - Tôi tin tưởng hơn bất cứ bác sỹ phẫu thuật nào.

      - Vậy có chuyện gì ở đây thế? Tôi đến nơi làm việc vào buổi sáng và thấy chúng ta bị quấy rầy. Còn cho tôi về chuyện đó. Tôi hỏi về bệnh nhân giường mười hai và cũng gì về ấy.

      - Cảnh sát cầu tôi được .

      - Dường như cảnh sát bám theo mỗi ngày. Tại sao vậy?

      - Tôi thể về chuyện đó.

      - Tôi chỉ là bạn đồng nghiệp của , Catherine. Tôi nghĩ tôi là bạn - tiến thêm bước về phía . có dáng vẻ to cao nên chỉ cần tiến bước, cảm thấy như bị bủa vây - Tôi hiểu là sợ hãi. giam mình trong văn phòng. Trông như mấy ngày rồi ngủ. Tôi thể đứng bên nhìn như vậy.

      Catherine giật tấm chụp X-quang của Nina khỏi hộp chiếu, cho vào phong bì.

      - Việc đó chẳng có gì liên quan đến .

      - Có, có chứ, nếu nó ảnh hưởng đến .

      Thái độ cảnh giác của bỗng biến thành cơn tức giận.

      - Hãy mọi chuyện ở đây, Peter. Đúng, chúng ta làm việc cùng nhau. Đúng, tôi tôn trọng bác sỹ phẫu thuật tài ba. Tôi rất muốn là đồng nghiệp của tôi. Nhưng chúng ta sống chung. Và chắc chắn chúng ta cần chia sẻ những bí mật của nhau.

      - Tại sao ? - khẽ hỏi - sợ với tôi điều gì?

      nhìn và mềm lòng bởi giọng nhàng của . Lúc đó, điều muốn hơn hết là giải thoát gánh nặng cho mình và cho biết chuyện gì xảy ra với ở Savannah, kể cả những chi tiết đáng xấu hổ nhất. Nhưng biết hậu quả của việc thú nhận đó. hiểu việc bị cưỡng bức mãi là vết nhơ, mãi là nạn nhân. thể chịu nổi thương hại, nhất là thương hại từ Peter. tôn trọng của rất quan trọng với .

      - Catherine? - đưa tay ra.

      khóc khi nhìn đưa tay ra. Như người phụ nữ chết đuối nhưng lại chọn biển đen, thay vì được cứu sống, cầm lấy tay .

      quay và ra khỏi phòng.

    2. vulinh

      vulinh Well-Known Member

      Bài viết:
      20,019
      Được thích:
      24,221
      MƯỜI HAI



      Jane Doe cử động.

      Tay ta cầm ống xét nghiệm máu của ta và ta thất vọng vì nó lạnh dưới da ta. Nó nằm trong khay tĩnh mạch quá lâu. Hơi nóng từ cơ thể truyền sang chiếc ống này phát tán hết qua tấm kính và tan vào khí. Máu lạnh là thứ chết chóc, có sức mạnh hay tâm hồn. Và nó làm ta cảm động. Ta chỉ chú ý đến tên nhãn của nó, hình chữ nhật màu trắng dán ống thủy tinh có ghi tên bệnh nhân, số phòng và số bệnh viện. Mặc dù đó viết tên “Jane Doe” nhưng ta biết mẫu máu này thực là của ai. ta còn nằm trong Bộ phận chăm sóc đặc biệt. ta được chuyển đến phòng 538 - phòng phẫu thuật.

      Ta đặt ống nghiệm vào khay cùng hơn chục ống khác. Chúng được đậy nút cao su màu xanh dương, màu tím, đỏ và xanh lá cây. Mỗi màu biểu thị quá trình khác nhau cần thực . Các nút màu tím là để đếm mẫu máu, nút màu xanh là thử nghiệm đông máu, nút màu đỏ là phân tích hóa chất và điện phân. Trong vài ống có nắp màu đỏ, máu đông lại thành những cột chất lỏng sẫm màu. Ta nhìn qua đống đồ trong phòng thí nghiệm, rồi tìm thấy miếng giấy dành cho Jane Doe. Sáng nay bác sỹ Cordell cầu kiểm tra hai việc: đếm toàn bộ lượng máu và điện phân huyết thanh. Ta xem kỹ toàn bộ cầu trong phòng thí nghiệm đêm qua và thấy bản sao cầu khác có tên của bác sĩ Cordell với tư cách bác sỹ điều trị.

      Họ xét nghiệm bọt khí máu trong động mạch sau khi rút ống thở. Hai lít ô-xi được truyền bằng gạc mũi.

      Ninn Peyton được rút ống thở. ta tự thở, hít khí mà cần hỗ trợ y tế. ta nghĩ ta thắng trận này. ta nghĩ ta là vị cứu tinh của Nina Peyton. đến lúc dạy cho ta bài học. đến lúc ta học nhạo báng là gì.

      Ta cầm điện thoại và gọi cho Bộ phận Ăn kiêng của bệnh viện. người phụ nữ nhấc máy. Giọng ta nghe có vẻ bận, có tiếng khay dụng cụ rơi loảng xoảng. sắp đến giờ ăn tối và ta có thời gian để trò chuyện linh tinh.

      - Đây là nhánh phía Tây số năm - ta dối - Tôi nghĩ có thể chúng ta bị lẫn cầu về chế độ ăn kiêng của hai bệnh nhân. có thể cho tôi biết chế độ ăn kiêng lập cho bệnh nhân phòng 538 ?

      ta dừng lại, gõ lên bàn phím và đọc thông tin.

      - Các chất dịch trong - ta trả lời - Đúng ?

      - Đúng, đúng vậy. Cảm ơn! - Ta gác máy.

      Trong bài báo sáng nay, bọn họ Nina Peyton vẫn trong tình trạng hôn mê và tình hình rất nguy kịch. Điều đó đúng. ta tỉnh rồi.

      Catherine Cordell cứu mạng ta, và ta biết trước điều đó.

      bác sỹ chuyên mở tĩnh mạch đến chỗ ta, rồi đặt khay dụng cụ đầy ống nghiệm máu vào hộp. Bọn ta cười với nhau như mọi ngày. Hai đồng nghiệp thân thiện luôn tự động nghĩ ra những điều tối đẹp nhất để gán cho nhau. ta trẻ trung. Hai bên ngực áo phồng lên như hai quả dưa sau lần vải trắng. Răng ta rất trắng và đều. ta cầm xấp cầu của phòng thí nghiêm, vẫy vẫy rồi ra ngoài. Ta tự hỏi biết máu ta có vị mặn .

      Những chiếc máy kêu ầm ĩ. Tiếng ồng ộc liên tục như điệu hát ru.

      Ta lại gần chiếc máy tính, tìm danh sách bệnh nhân ở nhánh phía Tây số năm. Có hai mươi phòng trong bộ phận đó. Nó được xếp theo hình chữ H và phòng y tá nằm ở thanh giao nhau của chữ H. Ta cuộn dọc danh sách bệnh nhân, tổng cộng có ba mươi ba người. Ta lướt nhanh qua tuổi tác và chẩn đoán của từng người. Ta dừng ở số thứ tự mười hai, trong phòng 521.

      Ông Herman Gwadowski, sáu mươi chín tuổi. Bác sỹ điều trị: bác sỹ Catherine Cordell. Chẩn đoán: sử dụng thủ thuật mở bụng khẩn cấp do chấn thương phức tạp ở bụng.

      Phòng 521 nằm ở cánh song song với phòng của Nina Peyton. Từ phòng 521 có thể thấy phòng của Nina Peyton.

      Ta nhấp vào tên Gwadowski và xem sơ đồ quá trình thực trong phòng thí nghiệm dành cho ông ta. Ông ta nằm viện hai tuần. Hồ sơ của ông ta chạy hết màn hình này đến màn hình khác. Ta có thể hình dung ra cánh tay của ông ta, mạch bị những mũi tiêm đâm chi chít và tím bầm. Căn cứ vào lượng đường trong máu, ta thấy ông ta bị bệnh tiểu đường. Lượng bạch cầu của ông ta chứng tỏ ông ta bị nhiễm bệnh gì đó. Ta cũng nhận thấy có những khối vi khuẩn hình thành do vết thương ở chân. Bệnh tiểu đường ảnh hưởng đến lưu thông của máu trong tứ chi và phần thịt ở chân ông ta bắt đầu bị hoại tử. Ta cũng thấy cụm vi khuẩn hình thành bông gạc ở tĩnh mạch chủ của ông ta.

      Ta đọc kỹ phân tích điện phân của ông ta. Nồng độ chất kali dần tăng lên. Hai tuần trước là 4,5. Tuần trước là 4,8. Hôm qua là 5,1. Ông ta già rồi. Hai quả thận bị tiểu đường của ông ta cố thải chất độc ra mỗi ngày và chúng đọng lại trong mạch máu. Các chất độc như kali chẳng hạn.

      Ta chẳng cần tốn nhiều sức để khiến ông ta lao xuống vực.

      Ta chưa bao giờ thấy ông Gwadowski - ít ra là chưa đối mặt bao qiờ. Ta lại gần khay dựng ống xét nghiệm máu đươc để trong ngăn và nhìn các mã số. Ngăn này dành cho cánh phía Đông và Tây số năm. Có hai mươi ống trong những khe khác nhau. Ta tìm thấy ống nút đỏ của phòng 521. Đó là mẫu của ông Gwadowsky.

      Ta cầm ống nghiệm lên, xem nó kỹ, rồi từ từ đưa nó ra chỗ sáng. Nó bị đóng cục. Chất lỏng bên trong sẫm màu và hơi lợ, như thể kim tiêm đâm thủng mạch của ông Gwadowsky và khiến những chất bị ứ đọng trào lên. Ta mở nút ống nghiệm, hít hơi chất bên trong. Ta thấy mùi nước tiểu của ông già, vị ngọt ôi thối của thứ bệnh truyền nhiễm. Ta thấy cơ thể bắt đầu thối rữa. Bộ não dường như chịu chấp nhận là toàn bộ tế bào quanh nó chết dần.

      Bằng cách này, ta làm quen với ông Gwadowsky.

      Tình bạn đó lâu bền.



      Angela Robbins là y tá tận tâm. bực mình vì liều thuốc kháng sinh của ông Herman Gwadowsky lúc mười giờ vẫn chưa được đem đến. đến chỗ nhân viên ở cánh bệnh viện số năm và :

      - Tôi vẫn chờ thuốc truyền cho ông Gwadowsky. có thể gọi bên Dược lần nữa được ?

      - kiểm tra xe mang thuốc chưa? Xe được đưa đến lúc chín giờ.

      - đó chẳng có gì cho ông Gwadowsky. Ông ấy cần liều Zosyn để truyền ngay bây giờ.

      - Ồ, tôi nhớ rồi - Nhân viên đó đứng lên, lấy cái hộp để nóc tủ - trợ lý tầng bốn vừa mang nó lên cách đây lâu.

      - Tầng bốn à?

      - Túi thuốc bị gửi nhầm tầng - Nhân viên đó kiểm tra nhãn thuốc - Gwadowsky, phòng 521A.

      - Đúng - Angela , rồi cầm túi truyền. đường về phòng, đọc nhãn, xác nhận lại tên bệnh nhân, bác sỹ điều trị và liều thuốc Zosyn được thêm vào túi muối khoáng. Có vẻ như tất cả đều đúng. Mười tám năm trước, khi Angela là y tá mới ra trường. Khi đó là y tá đăng ký và chỉ được phép vào phòng cung cấp đồ của khu bệnh viện, cầm túi dịch truyền và bổ sung thêm những dụng cụ y tá khác. Khi đó những y tá bất cẩn mắc lỗi, vài người còn bị đưa ra kiện cáo. Giờ mọi việc thay đổi. Giờ ngay cả túi muối truyền đơn giản được cho thêm kali cũng phải được phòng dược của bệnh viện kiểm tra. Đó là lớp bảo vệ khác, quy trình được cộng thêm vào cơ chế hoạt động vốn phức tạp của dịch vụ y tế. Angela thích điều đó. Nó khiến túi truyền của đến chậm những giờ.

      chuyển ống tiêm của ông Gwadowsky sang túi truyền mới, rồi treo nó lên thanh truyền. Trong khi làm việc đó, ông Gwadowsky nằm bất động. Ông ấy hôn mê suốt hai tuần và có mùi xác chết. Angela làm y tá đủ lâu để nhận ra thứ mùi đó. Bất cứ khi nào phát thấy nó, lẩm bẩm với các y tá khác.

      - Người này qua khỏi - Đó là điều nghĩ lúc này, khi tăng tốc độ truyền và kiểm tra những tín hiệu cơ bản của bệnh nhân. Người này qua khỏi. Nhưng vẫn thực công việc của mình cẩn thận như với những bệnh nhân khác.

      đến lúc tắm xà bông. mang chậu nước ấm đến bên giường, nhúng khăn tắm và bắt đầu lau mặt cho ông Gwadowsky. Ông nằm há hốc miệng, lưỡi khô, đầy gai. Giá như họ có thể để ông ấy ra . Giá như họ có thể giải thoát cho ông khỏi địa ngục này. Nhưng con trai ông thậm chí cho phép thay đổi tình trạng hôn mê của ông. Và do đó ông vần sống nếu người ta muốn gọi đó là sống. Tim ông vẫn đập trong cơ thể sắp rữa ra.

      cởi quần áo bệnh viện của bệnh nhân, kiểm tra vùng da có đường tĩnh mạch, vết thương hơi tấy đỏ khiến lo lắng. Họ tháo hết ống truyền cánh tay. Lúc này, đây là đường truyền duy nhất của họ. Angela rất tỉ mỉ trong việc giữ cho vết thương sạch và thay băng gạc liên tục. Sau khi lau chùi xong, thay khăn phủ.

      lau phần thân dưới, miết khăn tắm ngang sườn người bệnh. có thể biết là trước đây ông ấy hề lực lưỡng. Và những gì còn lại ngực ông giờ chỉ là lớp da bọc xương.

      nghe thấy tiếng bước chân và vui khi thấy con trai ông Gwadowsky vào phòng. ta chỉ nhìn qua rồi đưa mình vào thế gây gổ với - ta là loại đàn ông như vậy, luôn đào bới sai lầm và điểm yếu của người khác. ta thường làm vậy với chị mình. Có lần, Angela nghe thấy họ cãi nhau và phải cố lắm mới ra can ngăn và bảo vệ cho chị. Rốt cuộc đây phải là nơi Angela được phép giảng cho cậu con trai này bài về thái độ nạt nộ của ta. Nhưng cũng cần quá thân thiện với ta. Vì vậy, chỉ gật đầu và tiếp tục với khăn tắm.

      - Bố tôi sao rồi? - Ivan Gwadowsky hỏi.

      - có gì thay đổi - Giọng lạnh lùng. ước ta bỏ , kết thúc nghi lễ cỏn con là giả vờ quan tâm và để tiếp tục công việc. đủ sâu sắc để hiểu tình thương chỉ là phần lý do rất khiến ta ở đây. ta quan tâm vì đó là điều ta quen làm. ta bỏ qua cơ hội để được kiểm soát người khác, thậm chí là Thần chết.

      - Bác sỹ đến thăm bố tôi chưa?

      - Sáng nào bác sỹ Cordell cũng đến.

      - ta sao về việc bố tôi vẫn hôn mê?

      Angela cho bông tắm vào chậu, đứng thẳng lên nhìn ta.

      - Tôi chắc mình nên gì, thưa ông Gwadowsky.

      - Bố tôi như vậy bao lâu nữa?

      - Cho đến khi nào bắt ông như vậy.

      - có ý gì?

      - nghĩ là tốt hơn nếu để ông ấy ra sao?

      Ivan Gwadowsky trừng mắt nhìn .

      - Đúng, cho người khác sống dễ hơn đúng ? Và như vậy giường bệnh trống.

      - Đó phãi là lý do tôi vậy.

      - Tôi biết dạo này bệnh viện được chi trả thế nào. Bệnh nhân ở quá lâu và các vị ăn hết chi phí.

      - Tôi chỉ muốn điều tốt nhất cho bố .

      - Điều tốt nhất là bệnh viện phải làm phần việc của mình.

      Để điều gì phải hối hận, Angela quay , lấy bông tắm trong chậu, run rẩy vắt kiệt nước. Đừng đôi co với ta. Hãy làm công việc của mình thôi. ta là loại người đòi chiến thắng đến cùng.

      đặt tấm khăn ướt lên bụng bệnh nhân. Khi đó, mới nhận ra bệnh nhân còn thở nữa.

      Lập tức, bắt mạch ở cổ.

      - Chuyện gì thế? - con trai hỏi - Bố tôi ổn chứ?

      trả lời. chạy ngang qua ta, lao ra hành lang.

      - Hôn mê sâu! - hét lên - Hãy gọi Bộ phận hôn mê sâu, phòng 521!

      Catherine lao ra khỏi phòng bệnh của Nina Peyton, rẽ vào khúc ngoặt dẫn sang hành lang tiếp theo. Mọi người tụ tập đầy đủ trong phòng 521 và còn dồn ra ngoài hành lang, ở đó nhóm sinh viên thực tập tròn mắt nhìn, rướn cổ nhìn vào phòng bệnh.

      Catherine lao vào phòng, hét to trong đám người nháo nhác:

      - Có chuyện gì?

      Angela, y tá chăm sóc ông Gwadowsky .

      - Ông ấy vừa ngừng thở! có mạch.

      Catherine thẳng đến bên giường bệnh. thấy y tá khác đeo mặt nạ dưỡng khí cho bệnh nhân và bơm ô-xi vào hai lá phổi. sinh viên thực tập ép lên ngực bệnh nhân. Mỗi lần cậu ta ép ngực là lần bơm máu vào tim người bệnh, ép máu chảy qua động mạch và mao mạch, truyền lên các cơ quan khác và não.

      - gắn các tấm chì điện tâm đồ! - Ai đó hét lên.

      Catherine nhìn màn hình. Màn hình cho thấy tượng sợi cơ hình thành tâm thất. Các khoang tim co bóp nữa. Các bó cơ riêng lẻ co lại và tim bị biến thành bó cơ mềm nhũn.

      - Xạc điện chưa? - Cathenne hỏi….

      - trăm jun.

      - Làm ngay !

      y tá đặt các tấm điện tim lên ngực bệnh nhân và hét to.

      - Tất cả lùi lại!

      Tấm ép tim được xạc điện, truyền luồng điện mạnh vào tim bệnh nhân. Cơ thể ông giật mạnh giường như con mèo bị ném lên vỉ nướng nóng.

      - Vẫn có mạch.

      - Truyền miligam epinefrin! Rồi sốc điện cho ông ấy lần nữa ở mức trăm jun - Catherine .

      viên epinefrin được hòa vào dung dịch truyền.

      - Lùi lại!

      cú sốc khác được truyền từ luồng điện. Toàn thân bệnh nhân lại nảy lên.

      màn hình điện tâm đồ, nhịp tim lao vút lên rồi hạ xuống thành đường thẳng. Đó là những cơn co thắt cuối cùng của quả tim yếu dần.

      Catherine cúi nhìn bệnh nhân và nghĩ: làm sao tôi có thể làm sống lại đống xương bọc da thế này?

      - muốn tiếp tục ? - sinh viên thực tập hỏi. Cậu ta vừa thở dốc, vừa ép tim. giọt mồ hôi chảy dọc má cậu ta.

      Tôi muốn ông ấy bị hôn mê, nghĩ. Và lúc định chấm dứt chuyện đó Angela thầm vào tai .

      - Cậu con trai ở đây. ta theo dõi.

      Catherine quay ngoắt lại nhìn Ivan Gwadowsky đứng ở cửa. Lúc này còn lựa chọn nào khác. Nếu có bất cứ biểu nào cho thấy cố hết sức cậu con trai kiện ra tòa.

      màn hình, đường điện tâm đồ chạy như những con sóng biển khi có bão.

      - Hãy làm lại! - Catherine - Lần này tăng lên hai trăm jun. Hãy đưa máu đến phòng phân tích!

      nghe thấy ngăn kéo xe chứa dụng cụ gây mê kêu cọt kẹt. Những ống nghiệm đựng máu và xi-lanh xuất .

      - Tôi bắt được mạch!

      - Hãy dùng mạch ở khuỷu tay!

      - Lùi lại!

      Mọi người lùi ra khi những tấm ép tim được nạp điện.

      Catherine nhìn màn hình, hy vọng cú sốc dành cho người bại liệt ở mức hai trăm jun làm quả tim bơm máu trở lại. Nhưng đường tim lại sụt xuống thành đường thẳng.

      liều epinefrin khác được tiêm vào ống truyền.

      Cậu sinh viên thực tập đỏ mặt, toát mồ hôi, lại tiếp tục ép ngực. đôi tay khác ấn lên túi cứu thương, bơm ô-xi vào phổi nhưng việc đó như thể họ cố bơm sức sống vào vỏ đậu khô cong. Catherine nghe thấy thay đổi trong giọng của những người đứng quanh. Những giọng nhanh và gấp còn. Thay vào đó, chúng trở nên yên bình và tự động hơn. Giờ đó chỉ là thủ tục, họ thể ngăn điều tất yếu xảy ra. nhìn quanh phòng, nhìn hơn chục con người vây quanh giường và thấy quyết định cuối cùng đều . Họ chỉ chờ ra.

      .

      - Gọi nhà xác! - - Bây giờ là mười giờ mười ba phút.

      Mọi người im lặng lùi lại và nhìn vật chứng của thất bại của chính họ. Đó chính là ông Herman Gwadowsky nằm bất động trong đống dây điện và ống truyền. y tá tắt màn hình điện tâm đồ, màn hình trống trơn.

      - Sao dùng máy điều hòa nhịp tim?

      Catherine định ký vào tờ giấy chuyển xuống nhà xác.

      quay lại, thấy con trai của bệnh nhân vào phòng.

      - Chẳng còn gì để cứu vãn - - Tôi xin lỗi. Chúng ta thể làm quả tim của ông ấy đập lại nữa.

      - Sao họ dùng máy điều hòa nhịp tim trong trường hợp này?

      - Chúng tôi cố hết sức…

      - Tất cả những gì các vị làm là chỉ sốc điện cho bố tôi.

      Tất cả sao? nhìn quanh phòng, nhìn bằng chứng về nỗ lực của họ. Các ống tiêm sử dụng, các loại thuốc tốt nhất và những túi đựng viên tròn. Đó là các dụng cụ y tế còn lại sau mỗi lần đấu tranh. Tất cả những người khác trong phòng đều theo dõi, chờ xem xử lý việc này thế nào.

      đặt bảng ghi chép viết dở xuống. Những lời tức giận chực bay ra khỏi miệng . Nhưng lên những lời đó. Thay vào đó, lao về phía cửa.

      Đâu đó trong khu vực phòng bệnh, phụ nữ hét rất to.

      Lúc Catherine lao ra khỏi phòng, các y tá đứng ngay sau . quặt gấp ở góc rẽ, thấy y tá cấp cứu đứng ở hành lang, khóc thút thít và chỉ về phía phòng bệnh của Nina Peyton. Ghế bên ngoài phòng bệnh trống .

      Phải có cảnh sát ở đó chứ. ta đâu rồi?

      Catherine đẩy cửa bước vào và đứng bất động.

      Đầu tiên thấy máu, vệt máu đỏ tươi chảy dọc tường. Rồi nhìn bệnh nhân của mình nằm úp mặt sàn. Nina ngã ở đoạn giữa giường bệnh và cánh cửa, như thể ấy cố thêm vài bước trước khi gục ngã. Ống truyền của ấy bị rút ra. Dung dịch muối từ đầu ống mở xuống sàn nhà. Nó đọng lại thành vũng lớn, bên cạnh đó là vũng máu còn lớn hơn.

      ở đây. Tên Bác sỹ phẫu thuật ở đây.

      Mặc dù bản năng trong la hét, giục bỏ chạy, chạy trốn, nhưng buộc mình bước về phía trước, quỳ gối bên Nina. Máu thấm ướt quần và vẫn còn ấm. lật mình Nina lên.

      Chỉ cần nhìn khuôn mặt trắng bệch và cặp mắt trừng trừng của Nina, biết ấy chết. Chỉ lúc trước, tôi vẫn thấy tim đập.

      Catherine từ từ thoát khỏi nỗi kinh hoàng, ngẩng lên và thấy những khuôn mặt lo sợ.

      - Cảnh sát - - Cảnh sát đâu rồi?

      - Chúng tôi biết.

      chầm chậm đứng lên. Những người khác lùi lại, tránh đường cho . bận tâm là mình lê theo vết máu, ra khỏi phòng. Mắt điên cuồng tìm kiếm khắp hành lang.

      - Ôi lạy Chúa! - y tá .

      Ở cuối hành lang, vệt màu đen chảy sàn. Máu! Nó chảy ra dưới cánh cửa phòng cung cấp đồ.




      MƯỜI BA



      Rizzoli nhìn dây ngăn cách trường vụ án và phòng bệnh của Nina Peyton. Máu phun ra từ động mạch khô lại thành những vệt như lá cờ đuôi nheo bị ném lên sàn. tiếp tục dọc hành lang, đến phòng cung cấp đồ, ở đó họ tìm thấy xác của viên cảnh sát. Lối vào phòng này cũng được chăng dây ngăn cách trường. Bên trong có đống thanh truyền, những giá đỡ đựng bô và chậu của bệnh nhân, những hộp găng tay. Tất cả đều vấy máu. trong những người của họ chết trong chính căn phòng này. Và đối với mỗi cảnh sát ở Sở cảnh sát Boston, việc truy tìm tên Bác sỹ phẫu thuật giờ trở thành nhiệm vụ riêng và nghiêm túc.

      quay về phía nhân viên tuần tra đứng gần đó.

      - Thám tử Moore đâu?

      - Dưới bộ phận quản lý hành chính. Họ xem đoạn băng ghi hình của bệnh viện.

      Rizzoli nhìn khắp hành lang nhưng thấy máy quay. Chắc chắn họ có đoạn băng nào quay cảnh ở hành lang.

      xuống cầu thang, vào phòng họp. Ở đó, Moore và hai y tá xem lại đoạn băng ghi hình. ai quay ra nhìn , tất cả đều tập trung lên màn hình đoạn băng.

      Máy quay hướng về thang máy tầng năm ở cánh Tây. đoạn băng, cửa thang máy mở. Moore dừng hình.

      - Đó! - - Đây là nhóm đầu tiên ra khỏi thang máy khi bộ phận hôn mê được gọi đến. Tôi đếm được mười người và tất cả đều vội vã lao ra.

      - Đó là điều thường nhìn thấy khi gặp ca hôn mê sâu - y tá trực - Thông báo được truyền khắp bệnh viện bằng hệ thống loa. Bất cứ ai có mặt cũng trả lời.

      - Hãy nhìn kỹ những khuôn mặt đó - Moore ! nhận ra tất cả mọi người chứ? Có ai đáng lẽ ở đó ?

      - Tôi thấy mặt. Tất cả đều đồng loạt bước ra.

      - Còn sao, Sharon? - Moore hỏi y tá thứ hai.

      Sharon cúi lại gần màn hình.

      - Ba người ở đây là y tá. Hai người đàn ông ở bên này là sinh viên thực tập. Tôi cũng nhận ra người đàn ông thứ ba đó… - chỉ lên góc màn hình - người già hơn. Những người khác trông khá quen nhưng tôi biết tên họ.

      - Được rồi - Moore . Giọng có vẻ mệt mỏi - Hãy xem phần còn lại! Vậy chúng ta hãy xem máy quay ở cầu thang.

      Rizzoli lại gần hơn cho đến khi đứng ngay sau y tá trực.

      màn hình, những hình ảnh chạy ngược. Cửa thang máy đóng lại. Moore ấn nút Chạy và cánh cửa lại mở ra. Mười người bước ra, di chuyển như sinh vật nhiều chân trong khi vội vã đến nơi xảy ra hôn mê. Rizzoli thấy mặt họ có vẻ vội vã. Và thậm chí thanh, nhưng cảm giác về tình hình nguy kịch rất ràng. Đám người đó biến mất ở góc màn hình bên trái. Cửa thang máy đóng lại. lúc sau, cánh cửa lại mở. đám người khác ra. Rizzoli đếm được mười ba người. Vậy tổng cộng có hai mươi bốn người lên tầng năm trong vòng chưa đầy ba phút - đó là chỉ tính những người bằng thang máy. Có bao nhiêu người nữa cầu thang bộ? Rizzoli theo dõi và ngày càng ngạc nhiên. căn giờ hoàn hảo. Việc gọi bộ phận Hôn mê sâu tạo nên cơn hỗn loạn. Mấy chục người từ khắp nơi trong bệnh viện đổ xô lên tầng năm, cánh Tây. Khi đó, bất cứ ai mặc áo khoác trắng có thể lẻn vào mà bị chú ý. Tên sát nhân chắc chắn đứng ở phía sau thang máy, sau những người khác. cẩn thận để những người khác vây quanh mình trước máy quay. Họ lên cùng kẻ biết phương thức hoạt động của bệnh viện.

      nhìn nhóm người thứ hai ra khỏi màn hình. Hai khuôn mặt vẫn bị che khuất.

      Giờ Moore thay băng. Cảnh nền thay đổi. Họ nhìn cánh cửa ở cầu thang. có gì xảy ra lúc đầu. Rồi cánh cửa mở ra, người đàn ông mặc áo khoác trắng, dáng vẻ to béo xuất .

      - Tôi biết cậu ấy. Đó là Mark Noble, trong các sinh viên tập - Sharon .

      Rizzoli lấy sổ gáy xoắn, ghi lại tên đó.

      Cánh cửa lại mở ra. Hai người phụ nữ xuất , cả hai đều mặc đồng phục màu trắng.

      - Đó là Veronica Tam - y tá trực và chỉ vào người có tóc ngắn hơn - ấy làm việc ở tầng năm, nhánh Tây. ấy nghỉ có thông báo hôn mê sâu.

      - Còn người kia?

      - Tôi biết. Tôi nhìn mặt ấy.

      Rizzoli ghi lại:



      10 giờ 48 phút, máy quay cầu thang.

      Veronica Tam, y tá, tầng năm cánh Tây.

      phụ nữ tên, tóc đen, mặc áo khoác phòng thí nghiệm.



      Tổng cộng có bảy người ra khỏi cửa cầu thang bộ. Hai y tá nhận ra năm người trong số đó. Đến thời điểm này, Rizzoli đếm được ba mươi người bằng thang máy hay cầu thang bộ. Cộng thêm những người làm việc tầng năm họ phải giải quyết với bốn mươi người lên tầng năm, nhánh Tây.

      - Giờ hãy xem chuyện gì xảy ra khi những người này rời trong và sau khi ấy hôn mê - Moore - Lần này, họ vội vã. Có thể hai nhận ra vài khuôn mặt và thêm vài cái tên - tua băng. Ở dưới màn hình, thời gian lên hết tám phút. ấy vẫn hôn mê sâu, nhưng những người cần thiết bắt đầu rút khỏi khu buồng bệnh. Máy quay chỉ bắt được lưng họ khi họ vào cửa cầu thang bộ. Đầu tiên là hai sinh viên nam thực tập. Sau đó lúc là người đàn ông thứ ba chưa xác định được. ta mình. Rồi sau đó rất lâu có ai. Moore tua băng. Tiếp theo, nhóm bốn người đàn ông xuất cùng nhau, vào thang máy. Thời gian là mười giờ mười bốn phút. Lúc đó, việc giúp bệnh nhân thoát khỏi hôn mê kết thúc. Người ta thông báo ông Gwadowsky chết.

      Moore thay băng. Họ lại xem đoạn băng ghi ở thang máy.

      Khi họ chạy lại đoạn băng, Rizzoli ghi kín ba trang giấy, ghi lại tổng số những người lên tầng năm trong suốt thời gian hôn mê. Mười ba người đàn ông và mười bảy phụ nữ hành động khi có việc khẩn cấp đó. Giờ Rizzoli đếm số người rời sau khi việc đó kết thúc.

      - Con số đó đủ.

      Cuối cùng, Moore ấn nút Dừng. Màn hình trống . Họ xem hai đoạn băng hơn tiếng. Hai y tá trông có vẻ vẫn sốc.

      Rizzoli phá tan im lặng. Giọng làm cả hai giật mình.

      - Có nhân viên nam nào làm việc ở tầng năm, cánh Tây trong suốt ca trực của hai ?

      Y tá trực chú ý vào Rizzoli. Dường như ngạc nhiên vì nữ cảnh sát vào phòng mà ai để ý thấy.

      - Có y tá nam đến vào lúc ba giờ sáng. Nhưng có nhân viên nam nào trong ca trực của tôi.

      - Và có người đàn ông nào làm việc ở tầng năm, cánh Tây khi bộ phận hôn mê được thông báo?

      - Có thể có các bác sỹ phẫu thuật tầng năm, nhưng có y tá nam.

      - Bác sỹ nào? nhớ ?

      - Họ liên tục ra vào, quanh đó. Tôi để ý. Chúng tôi còn có công việc của mình - y tá nhìn Moore - Giờ chúng tôi phải lên đó.

      Moore gật đầu.

      - Các có thể . Cám ơn!

      Rizzoli chờ hai y tá ra khỏi phòng rồi với Moore.

      - Tên Bác sỹ phẫu thuật ở khu buồng bệnh, thậm chí trước khi họ thông báo về tình trạng hôn mê đúng ?

      Moore đứng lên, về phía đầu máy ghi hình. nhận thấy tức giận trong hành động của , cách giật mạnh cuốn băng ra khỏi máy và đẩy cuộn băng thứ hai vào.

      - Mười ba người đàn ông lên tầng năm. Và có mười bốn người rời khỏi đó. Có người thừa. Chắc chắn ở đó suốt.

      Moore ấn nút Chạy. Đoạn băng quay cầu thang bộ lại bắt đầu chạy.

      - Khốn nạn , Moore! - Rizzoli chửi - Crowe chịu trách nhiệm về việc cử người bảo vệ. Giờ chúng ta mất nhân chứng duy nhất.

      vẫn gì, chỉ nhìn màn hình. nhìn những dáng người quen thuộc xuất , rồi biến mất sau cửa cầu thang.

      - Tên sát nhân này xuyên tường - vẫn chưa nguôi - lẩn trong khí. Họ có chín y tá làm việc tầng năm và ai nhận ra ở đó. ở cùng họ trong suốt thời gian chết tiệt đó.

      - Đó là khả năng.

      - Vậy sao lại giết viên cảnh sát? Tại sao viên cảnh sát đó lại rời phòng bệnh nhân, rồi vào phòng cung cấp đồ?

      - Đó chắc chắn là người mà ấy biết, hay ai đó có vẻ gây nguy hiểm cho ấy.

      Trong cảnh hỗn loạn của ca hôn mê sâu, khi tất cả mọi người đều cuống cuồng cứu người rất tự nhiên khi nhân viên bệnh viện quay sang nhờ người đàn ông đứng ngay ở hành lang - đó là cảnh sát. rất tự nhiên khi nhờ cảnh sát giúp việc gì đó trong phòng cung cấp đồ.

      Moore ấn nút Dừng.

      - Đó! - khẽ - Tôi nghĩ đó.

      Rizzoli nhìn chăm chăm vào màn hình. Người đàn ông đó mình ra khỏi cửa cầu thang bộ trước ca hôn mê. Họ chỉ thấy lưng . mặc áo khoác trắng và mũ phẫu thuật. túm tóc màu nâu lộ ra dưới mũ. có thân hình mảnh khảnh. Đôi vai chẳng có gì đáng chú ý. Toàn thân cúi về phía trước như dấu hỏi biết .

      - Đây là nơi duy nhất chúng ta thấy - Moore - Tôi thấy trong đoạn băng ở thang máy. Và tôi cũng thấy lên qua cánh cửa cầu thang bộ. Nhưng bằng lối này. có thấy mở cửa bằng hông, chứ dùng tay chứ? Tôi cá là để lại bất kỳ dấu vân tay nào. rất cẩn thận. Và thấy cúi người về phía trước ? Như thể biết mình bị ghi máy quay. biết chúng ta tìm .

      - Có ai nhận ra ?

      - ai trong hai y tá biết tên .

      - Khốn nạn! tầng năm cùng họ.

      - Và nhiều người khác cũng vậy. Mọi người đều tập trung vào việc cứu sống ông Herman Gwadowsky. Tất cả, trừ .

      Rizzoli lại gần màn hình. Toàn thân như khựng lại khi nhìn bóng người duy nhất in hành lang trắng toát. Mặc dù thấy mặt nhưng thấy lạnh khắp người, như thể nhìn vào mặt của quỷ. Ngươi có phải là Bác sỹ phẫu thuật ?

      - ai nhớ là thấy - Moore - ai nhớ cùng lên bằng thang máy. Nhưng ở đó, bóng ma, xuất và biến mất bằng ý nghĩ.

      - bỏ tám phút sau khi việc cứu hôn mê bắt đầu - Rizzoli và nhìn thời gian ghi màn hình - Có hai sinh viên y khoa bước ra ngay trước .

      - Đúng. Tôi chuyện với họ. Họ phải nghe giảng lúc mười giờ. Đó là lý do họ rời bộ phận hôn mê sâu sớm như vậy. Họ để ý người đàn ông theo họ vào cầu thang bộ.

      - Vậy là chúng ta có nhân chứng.

      - Chỉ có chiếc máy quay này.

      vẫn nhìn thời gian màn hình. Tám phút suốt thời gian hôn mê sâu. Tám phút là khoảng thời gian dài. cố dựng lại mọi việc trong đầu. Tiến lại gần viên cảnh sát: mười giây. Bảo ấy theo ngươi về cuối hành lang vài mét và vào phòng cung cấp đồ: ba mươi giây, cắt cổ ấy: mười giây. Ra ngoài, đóng cửa, vào phòng Nina Peyton: mười lăm giây. Giết nạn nhân thứ hai, ra ngoài: mười giây. Nếu cộng thêm nhiều nhất là hai phút nữa vẫn còn dư sáu phút. dùng thời gian thừa đó làm gì? Để dọn sạch mọi đấu vết chăng? Có rất nhiều máu, có thể bị dính máu.

      có rất nhiều thời gian hành động. Mãi mười phút sau khi người đàn ông ra khỏi cánh cửa cầu thang bộ, y tá mới phát ra xác của Nina Peyton. Khi đó lên ô tô và cách bệnh viện dặm rồi.

      Căn giờ chính xác. Tên sát nhân này hành động chính xác như chiếc đồng hồ Thụy Sỹ.

      Đột nhiên đứng thẳng người lên. Khi nhận ra điều đó, như bị điện giật.

      - biết. Lạy Chúa, Moore. biết có ca hôn mê - nhìn . Dựa vào phản ứng bình tĩnh của , hiểu là biết điều đó - Có người nào đến thăm ông Gwadowsky ?

      - Con trai ông ấy. Nhưng y tá ở trong phòng suốt thời gian đó. Và ấy cũng ở đó khi nạn nhân rơi vào trạng thái hôn mê sâu.

      - có chuyện gì trước đó?

      - ấy thay túi truyền. Chúng tôi vừa gửi túi truyền phân tích.

      Rizzoli lại nhìn lên màn hình. đó, hình ảnh người đàn ông mặc đồ trắng vẫn dừng giữa màn hình.

      - Đây là vụ thanh toán, trừ khử nhân chứng cuối cùng.

      - Nhưng điều Nina Peyton thấy hẳn là chứng cứ. ấy thấy khuôn mặt đeo khẩu trang. biết ấy thể nhận ra . biết ấy gây nguy hiểm gì cho . Nhưng tự chuốc nhiều rắc rối khi giết ấy. để mình bị ghi hình. Làm vậy được gì?

      - thỏa mãn. Cuối cùng hoàn thành việc giết người.

      - Nhưng có thể làm xong việc đó ở nhà ấy. Moore, cho Nina sống đêm đó. Điều đó nghĩa là sắp đặt để mọi việc kéo dài đến hôm nay?

      - Trong bệnh viện sao?

      - Đúng vậy!

      - Để làm gì?

      - Tôi biết. Nhưng tôi thấy thú vị là trong tất cả những bệnh nhân ở khu buồng đó, lại chọn ông Gwadowsky để đánh lạc hướng. Đó là bệnh nhân của Catherine Cordell.

      Máy nhắn tin của Moore kêu. Khi nhận điện, Rizzoli lại chú ý màn hình. ấn nút Chạy và nhìn người đàn ông mặc áo khoác trắng tiến lại gần cánh cửa. lách hông vào, đẩy tay cầm để mở cửa và bước vào trong cầu thang. để mặt mình bị lộ trước máy quay đến lần. ấn nút Chạy và xem lại đoạn đó. Lần này, hông xoay , thấy có cái gì đó phồng lên dưới áo khoác của . Nó nằm ở bên phải, ở tầm gần thắt lưng. giấu gì trong đó? Quần áo để thay ư? Hay vũ khí giết người?

      nghe thấy Moore điện thoại:

      - Đừng sờ vào! Để nó yên đấy! Tôi đến ngay.

      Khi gác máy, Rizzoli hỏi.

      - Ai đó?

      - Catherine - Moore - Cậu bé của chúng ta vừa gửi lời nhắn cho ấy.





      Nó được gửi bằng thư liên lạc giữa các bộ phận - Catherine - Khi mở phong bì, tôi biết ngay đó là .

      Rizzoli nhìn Moore đeo găng tay - hành động vô nghĩa, nghĩ, vì tên Bác sỹ phẫu thuật bao giờ để lại vân tay bất cứ vật chứng nào. Đó là phong bì lớn màu nâu, được đóng bằng sợi dây và nút thắt. Dòng cùng có chữ bằng mực xanh: “Gửi Catherine Cordell. Lởi chúc mừng sinh nhật từ A.C.”

      Andrew Capra, Rizzoli nghĩ.

      - chưa mở ra chứ? - Moore hỏi.

      - Chưa. Tôi đặt xuống bàn ngay. Rồi tôi gọi cho .

      - Tốt lắm!

      Rizzoli nghĩ câu trả lời của rất hạ mình. Nhưng ràng Catherine hiểu theo nghĩa đó và cười với . Moore và Catherine trao đổi với nhau điều gì đó, ánh mắt, luồng điện ấm áp. Đó là điều Rizzoli nhận thấy và thấy thoáng ghen tị. Chuyện giữa hai người xa hơn mức tôi tưởng.

      - Hình như có gì - . Tay đeo găng, tháo sợi dây, Rizzoli thoáng thấy tờ giấy trắng tinh ở để bọc cái bên trong. mở nắp giấy, dốc ngược phong bì xuống.

      Rizzoli bỗng lạnh khắp sống lưng.

      - Trông giống như tóc người.

      - Ôi Chúa, ơi! Lạy Chúa…

      Rizzoli quay lại và thấy Catherine sợ hãi quay . Rizzoli nhìn tóc Catherine, rồi lại nhìn những sợi tóc rơi khỏi phong bì. Đó là của ấy. Đó là tóc của Cordell.

      - Catherine - Moore khẽ an ủi - Có thể đó phải là của .

      hoảng loạn nhìn .

      - Nếu nó là của tôi sao? Làm sao

      - có để lược trong tủ khóa phòng mổ ? Hay văn phòng của ?

      - Moore - Rizzoli - Hãy kiểm tra những sợi tóc này. Chúng phải được gỡ từ lược. Chân tóc bị cắt - quay về phía Catherine - Ai là người cuối cùng cắt tóc cho , bác sỹ Cordell?

      Catherine từ từ lại gần bàn, nhìn những sợi tóc được buộc lại như thể nhìn con rắn độc.

      - Tôi biết làm việc đó lúc nào - thào - Tôi nhớ rồi!

      - Khi nào?

      - Vào đêm đó… - nhìn Rizzoli kinh hoàng - Ở Savannah.





      Rizzoli gác máy, nhìn Moore.

      - Thám tử Singer xác nhận điều đó. mớ tóc của ấy bị cắt.

      - Tại sao điều đó được ghi trong báo cáo của Singer?

      - Mãi đến ngày thứ hai nằm viện, Cordell mới nhận ra điều đó, khi ấy soi gương. Kể từ lúc Capra chết, họ tìm thấy sợi tóc nào ở trường. Singer cho rằng nhân viên bệnh viện cắt tóc ấy, có thể trong khi điều trị khẩn cấp. Mặt Cordell bị bầm tím. nhớ chứ? Phòng cấp cứu có thể cắt tóc ấy để lộ vùng da đầu.

      - Singer có xác nhận là ai đó trong bệnh viện làm việc đó ?

      Rizzoli ném bút chì xuống, thở dài.

      - . ta bao giờ truy cứu việc đó.

      - ta dừng lại ở đó sao? Và nhắc đến nó trong báo cáo chỉ vì nó vô nghĩa.

      - Ồ, nó có ý nghĩa gì! Tại sao có dụng cụ cắt tóc nào được tìm thấy ở trường, cùng cái xác của Andrew Capra?

      - Catherine nhớ phần lớn đêm đó. Thuốc Rohypnol xóa phần trí nhớ của ấy. Có thể Capra ra khỏi nhà, sau đó quay lại.

      - Được rồi. Đây là câu hỏi lớn nhất. Capra chết. Tại sao chiến lợi phẩm của lại nằm trong tay Bác sỹ phẫu thuật?

      Moore thể trả lời câu hỏi này. Hai tên sát nhân, kẻ chết, kẻ còn sống. Mối liên hệ giữa chúng còn hơn cả sức mạnh tinh thần; giờ nó có cả chiều hướng của những vật hữu hình. Chúng có thể thực nhìn thấy và chạm vào thứ gì đó.

      cúi nhìn túi vật chứng. túi ghi: đoạn tóc chưa của ai. Túi thứ hai có mẫu tóc của Catherine để so sánh. Chính tay cắt những sợi tóc màu đồng và cho vào túi đựng tang vật Ziploc. Những sợi tóc đó thực thứ đồ lưu niệm hấp dẫn. Phụ nữ có mái tóc, ngủ cùng nó. Nó có mùi thơm, màu sắc và cấu trúc. Đó là phần cốt lõi của phụ nữ. Vì vậy có gì ngạc nhiên khi Catherine hoảng sợ khi biết gã xa lạ lại sở hữu phần cơ thể gắn bó của , khi biết vuốt ve, hít ngửi và làm quen dần với mùi thơm của như gã tình nhân.

      Giờ Bác sỹ phẫu thuật biết mùi của .





      Lúc đó gần nửa đêm nhưng điện trong phòng vẫn bật. Qua lớp rèm cửa khép lại, thấy dáng người bé của lại lại. biết còn thức.

      Moore lại gần xe tuần tra đỗ gần đó, cúi xuống hỏi nhân viên cảnh sát.

      - Có gì mới ?

      - ấy ra khỏi tòa nhà từ khi trở về. ấy lại rất nhiều. Có vẻ như đêm nay ấy mất ngủ.

      - Tôi chuyện với ấy - Moore , quay và sang đường.

      - ở lại cả đêm sao?

      Moore đừng lại, chỉ hơi xoay người nhìn viên cảnh sát.

      - Gì cơ?

      - ở cả đêm à? Vì nếu vậy, chúng tôi thông báo với nhóm tiếp theo. Họ biết là có người ở cùng ấy.

      Moore nuốt giận. Câu hỏi của viên cảnh sát tuần tra rất có lý. Tại sao lại định bào chữa?

      Vì mình biết mọi việc trông có vẻ thế nào khi mình bước vào căn hộ của ấy lúc nửa đêm. Mình biết chắc chắn họ nghĩ gì. Đó cũng chính là điều mình nghĩ.

      Khi bước vào căn hộ của , chỉ khẽ gật đầu buồn bã.

      - Tôi rất tiếc phải báo với là phòng thí nghiệm xác nhận điều đó. gửi tóc của đến.

      nhận tin đó cách bình tĩnh và lặng lẽ.

      Trong bếp, ấm nước kêu to. quay lại, ra khỏi phòng khách.

      Khi khóa cửa, mắt nán lại khóa cửa mới. Dường như cả chất liệu thép cũng khó tin tưởng khi đối diện với đối thủ có thể xuyên tường. theo vào bếp, thấy tắt bếp vì ấm nước sôi. mở túi trà. Miệng há hốc kinh ngạc khi nó bị đổ và vãi tung tóe mặt bếp. Đó chỉ là hậu đậu vụn vặt nhưng lại là cú đấm mạnh với . úp mình uống mặt bếp, tay nắm chặt, những đốt tay nền lát trắng. cố khóc, sụp đổ trước mắt nhưng thua cuộc. thấy hít sâu, vai xốc lên, toàn thân bắt đầu run lên khi khóc rất khẽ.

      thể chỉ đứng nhìn. lại gần , kéo về phía mình, ôm chặt khi cố giãy giụa thoát khỏi vòng tay . Cả ngày hôm nay nghĩ về việc được ôm khao khát được làm như vậy. muốn mọi việc như thế này, muốn sợ hãi mà ngả vào vòng tay mình muốn bến đỗ an toàn, người đàn ông đáng tin cậy để nương tựa.

      Nhưng đó chính là điều cần lúc này. Vì vậy, ôm chặt trong vòng tay, che chở khỏi những mối đe dọa trong đêm.

      - Tại sao chuyện này lại tiếp tục? - thầm.

      - Tôi biết, Catherine.

      - Đó là Capra…

      - . chết rồi - ôm mặt , buộc nhìn mình - Andrew Capra chết rồi.

      nhìn , bất động trong tay .

      - Vậy tại sao tên Bác sỹ phẫu thuật lại chọn tôi?

      - Nếu ai đó biết câu trả lời người đó chính là .

      - Tôi biết.

      - Có thể tỉnh táo. nhớ tất cả mọi chuyện xảy ra ở Savannah. nhớ bắn viên đạn thứ hai. nhớ ai cắt tóc mình và cắt khi nào. còn nhớ gì khác nữa?

      lắc đầu, chớp mắt và giật mình vì tiếng máy nhắn tin của .

      Sao họ để mình yên nhỉ đến lấy điện thoại treo tường trong bếp để trả lời tin nhắn.

      Giọng của Rizzoli chào như kết tội.

      - ở chỗ ấy.

      - Đoán giỏi lắm!

      - , dựa vào số điện thoại thôi. Nửa đêm rồi. nghĩ định làm gì ở đó?

      giận dữ .

      - Tại sao gọi loa cho tôi?

      - ấy có nghe ?

      nhìn Catherine ra khỏi bếp. , căn phòng bỗng trở nên trống trải, chẳng còn gì thú vị nữa.

      - - .

      - Tôi vừa nghĩ về những sợi tóc bị cắt của ấy. biết , có lời giải thích tại sao ấy có nó.

      - Là gì vậy?

      - ấy tự gửi cho mình.

      - thể tin nổi là tôi nghe điều này.

      - Và tôi lại thể tin sao chưa bao giờ nghĩ đến khả năng đó.

      - Động cơ là gì?

      - Đó cũng chính là động cơ khiến những gã đàn ông chạy ra ngoài đường và thú nhận thực những vụ giết người mà họ làm. Hãy xem tất cả những chú ý mà ta có! chú ý của . nửa đêm rồi, và vẫn ở đó, luẩn quẩn quanh ta. Tôi là Bác sỹ phẫu thuật săn đuổi ta. Nhưng những sợi tóc này khiến tôi lùi lại bước và ồ. đến lúc xem xét việc gì có thể xảy ra. Tại sao tên Bác sỹ phẫu thuật lại có tóc của ta? Có phải Capra đưa cho hai năm trước? Sao có thể làm vậy trong khi nằm chết vật trong phòng ngủ của ta? thấy mâu thuẫn trong lời khai của ta và báo cáo xét nghiệm tử thi của Capra. Chúng ta đều biết ta toàn bộ .

      - ấy bị thám tử Singer dụ dỗ để lời khai đó.

      - nghĩ ta dựng lên câu chuyện?

      - Hãy nghĩ đến áp lực mà thám tử Singer phải chịu đựng. Bốn vụ giết người. Mọi người la hét đòi bắt tên sát nhân. ta có giải pháp tốt đẹp và gọn nhất: đó là tên sát nhân chết, bị nạn nhân thành bắn chết. Catherine khép lại vụ án cho ta, mặc dù ta phải mớm từng lời cho ấy - Moore dừng lại - Chúng ta cần biết thực có chuyện gì vào đêm đó ở Savannah.

      - ấy là người duy nhất ở đó. Và ấy cho là mình chẳng nhớ gì.

      Moore ngẩng lên khi Catherine trở lại phòng.

      - Vẫn chưa xong!

    3. vulinh

      vulinh Well-Known Member

      Bài viết:
      20,019
      Được thích:
      24,221
      MƯỜI BỐN




      - có chắc là bác sỹ Cordell muốn làm việc này ? - Alex Polochek băn khoăn.


      - ấy ở đây đợi - Moore .


      - dụ dỗ ấy làm việc này chứ? Vì việc thôi miên có tác dụng nếu chủ thể còn e ngại. ấy phải có thái độ hợp tác, nếu lãng phí thời gian.


      Lãng phí thời gian là cụm từ Rizzoli về quá trình này. Và ý kiến của được khá nhiều người trong Bộ phận điều tra Án mạng đồng tình. Họ cho rằng thôi miên là hành động vô bổ. Chỉ có những người ham chơi ở Vegas và những người làm ảo thuật ở các quán mới dùng nó. có thời Moore cũng đồng tình với họ.


      Nhưng vụ án của Meghan Florence khiến thay đổi suy nghĩ.


      Vào ngày ba mươi mốt tháng mười năm nghìn chín trăm chín mươi tám, bé Meghan mười ba tuổi bộ từ trường về nhà chiếc ô tô đỗ lại cạnh bé. Và người ta bao giờ thấy bé trở về nữa.


      Nhân chứng duy nhất của vụ bắt cóc là cậu bé mười hai tuổi đứng gần đó. Mặc dù chiếc ô tô có kiểu dáng bình thường và cậu bé nhớ được hình dáng và màu sắc của nó, nhưng cậu bé nhớ số đăng ký. tuần sau, vụ án có gì tiến triển. Bố mẹ cầu thuê nhà thôi miên để thẩm tra cậu bé. Vì mọi hướng điều tra đều bó tay nên cảnh sát miễn cưỡng đồng ý.


      Moore có mặt trong suốt quá trình đó. xem Alex Polochek dễ dàng đưa cậu bé vào tình trạng thôi miên và kinh ngạc khi nghe cậu bé từ từ đọc biển số xe.


      Hai ngày sau, xác bé Meghan Florence được tìm thấy, bị chôn ở sân sau của kẻ bắt cóc.


      Moore hy vọng nhà ảo thuật Polochek khơi gợi được trí nhớ của cậu bé, giờ có thể lặp lại việc đó với trí nhớ của Catherine Cordell.


      Lúc này, hai người đàn ông đứng ngoài phòng thẩm tra. Họ nhìn Catherine và Rizzoli qua chiếc gương chỉ thấy được bên. Hai người phụ nữ ngồi bên kia cửa sổ. Catherine có vẻ thoải mái. nhúc nhích ghế, nhìn cửa sổ như thể biết mình bị quan sát. chiếc bàn ngay trước mặt tách trà vẫn còn nguyên.


      - Đây là ký ức đau lòng khi nhớ lại - Moore - ấy có thể muốn hợp tác nhưng nó khiến ấy thoải mái. Khi bị tấn công, ấy vẫn bị ảnh hưởng của thuốc Rohypnol.


      - Ký ức bị loại thuốc ảnh hưởng hai năm trước sao? còn là nó đúng .


      - thám tử ở Savannah có lẽ đưa ra vài lời gợi ý trong suốt thời gian thẩm tra.


      - biết là tôi làm được những điều kỳ diệu. Và những gì chúng ta lấy được sau lần hỏi cung này có ích gì để làm bằng chứng cho việc điều tra. Việc này thể được dùng làm bằng chứng khi ấy ra tòa.


      - Tôi biết.


      - Và vẫn muốn tiếp tục?


      - Đúng.


      Moore mở cửa. Hai người đàn ông bước vào phòng hỏi cung.


      - Catherine - Moore nhàng - đây là người tôi với , Alex Polochek. ấy là nhà thôi miên hình của Sở cảnh sát Boston.


      Khi và Polochek bắt tay, cười vẻ lo lắng.


      - Tôi xin lỗi. Tôi nghĩ tôi biết có chuyện gì.


      - nghĩ là tôi có chiếc áo choàng màu đen và cây đũa phép của ảo thuật gia - Polochek .


      - Liên tưởng đó ngu xuẩn, nhưng đúng là như vậy.


      - Và thay vào đó, lại thấy chàng béo, lại còn hơi hói đầu.


      lại cười, toàn thân thả lỏng hơn.


      - bao giờ bị thôi miên chưa?


      - , lòng, tôi nghĩ là tôi bị thôi miên.


      - Tại sao nghĩ vậy?


      - Vì tôi thực tin vào việc đó.


      - Nhưng vẫn đồng ý để tôi thử nó chứ?


      - Thám tử Moore nghĩ tôi nên thử.


      Polochek ngồi lên chiếc ghế đối diện .


      - Bác sỹ Cordell, nhất thiết phải tin rằng việc thôi miên này có tác dụng. phải tin tôi. Và phải hoàn toàn thư giãn, để mặc tất cả, để tôi hướng dẫn vượt qua trạng thái còn tỉnh táo. Nó rất giống với giai đoạn trải qua trước khi ngủ vào buổi tối. ngủ. Tôi hứa, ý thức được tất cả mọi việc xảy ra quanh mình. Nhưng thoải mái đến mức đến với những ký ức mà thường nhớ được. Nó giống như mở két đựng tài liệu ở trong đó, ngay trong bộ não của . Và cuối cùng, mở được ngăn kéo và lấy tập hồ sơ đó.


      - Đó chính là phần tôi tin. Tôi tin việc thôi miên buộc tôi nhớ lại.


      - phải buộc nhớ lại. Nó giúp .


      - Thôi được, giúp tôi nhớ lại. Việc này thể giúp tôi lấy lại những ký ức mà chính tôi lấy lại được.


      Polochek gật đầu.


      - Đúng, nên hoài nghi. Việc đó có vẻ như khả thi. Nhưng có những ví dụ về việc trí nhớ của chúng ta có thể bị chặn lại như thế nào. Nó có tên là Quy luật về Hiệu ứng Tự vệ. càng cố nhớ việc gì càng ít có khả năng nhớ lại. Tôi chắc tự chiêm nghiệm quy luật đó. Tất cả chúng ta đều trải qua. Ví dụ như thấy nữ diễn viên nổi tiếng ti vi và biết tên ấy. Nhưng thể nhớ cái tên đó. Nó khiến phát điên lên. mất tiếng liền, lục trong trí óc mình để tìm tên ấy. tự hỏi, biết mình có mắc bệnh Alzheimer giai đoạn đầu . Hãy cho tôi biết chuyện đó gặp chưa?


      - Suốt ngày - Giờ Catherine cười. ràng là thích Polochek và thấy thoải mái khi chuyện với . Đó là khởi đầu tốt.


      - Cuối cùng, cũng nhớ ra tên của diễn viên đó, đúng ?


      - Đúng.


      - Và chuyện đó thường xảy ra khi nào?


      - Khi tôi quá cố gắng nhớ lại. Khi tôi thấy thoải mái và nghĩ về chuyện khác. Hay khi tôi nằm giường, chuẩn bị ngủ.


      - Chính xác. Đó là khi thư giãn, khi đầu óc cố sức tuyệt vọng để mở tủ hồ sơ. Đó là khi phép màu xảy ra. Ngăn kéo mở và những tập hồ sơ nhảy ra. Việc này có khiến khái niệm thôi miên có ý nghĩa hơn ?


      gật đầu.


      - Ồ, đó là điều chúng ta làm. Giúp thư giãn, giúp mở được tủ hồ sơ đó.


      - Tôi chắc mình có thể thư giãn được .


      - Tại căn phòng hay tại cái ghế?


      - Cái ghế này êm lắm. Đó là vì… - rụt rè nhìn chiếc máy ghi hình - Đó là khán giả.


      - Thám tử Moore và Rizzoli ra khỏi phòng, về chiếc máy quay nó chỉ là vật thể, loại máy móc. Hãy nghĩ về nó như vậy.


      - Tôi nghĩ là…


      - còn lo gì?


      dừng lại, rồi khẽ .


      - Tôi sợ.


      - Sợ tôi?


      - . Sợ ký ức, sợ nó sống lại.


      - Tôi bao giờ khiến phải làm vậy. Thám tử Moore với tôi đó là việc đau buồn. Chúng ta làm sống lại trong ký ức đó. Chúng ta tiếp cận nó theo cách khác. Vì vậy, nỗi sợ chặn lại toàn bộ trí nhớ.


      - Làm sao tôi biết những ký ức đó có hay là do tôi bịa?


      Polochek dừng lại.


      - Đó cũng là điều đáng lo ngại khi nghĩ những ký ức của còn tinh khiết. quãng thời gian dài qua. Chúng ta chỉ làm việc với những gì còn ở đó. Giờ tôi phải với là tôi biết nhiều về vụ án của . Tôi cố tình tìm hiểu nhiều để tránh nguy cơ ảnh hưởng đến trí nhớ của . Tất cả những gì tôi được cho biết là vụ án xảy ra cách đây hai năm. Nó liên quan đến vụ tấn công và thuốc Rohypnol được tiêm vào người . Còn những việc khác tôi . Vì vậy bất cứ ký ức nào ra đều thuộc về . Tôi chỉ ở đây để giúp mở tủ hồ sơ đó.


      thở dài.


      - Tôi nghĩ tôi sẵn sàng.


      Polochek nhìn hai thám tử.


      Moore gật đầu, và Rizzoli ra khỏi phòng.


      Ở bên kia cửa sổ, họ thấy Polochek lấy chiếc bút bi, tờ giấy rồi đặt chúng lên chiếc bàn bên cạnh. hỏi thêm vài câu. Ví dụ như làm gì khi nghỉ ngơi. Có nơi nào hay ký ức nào khiến thấy yên bình ?


      - Vào mùa hè, khi tôi lớn lên - - Tôi thường đến thăm ông bà ở New Hamsphire. Họ có ngôi nhà gỗ bên hồ.


      - Hãy miêu tả nó cho tôi! chi tiết.


      - Nó khá yên tĩnh, . Hiên nhà lớn, nhìn ra mặt nước. Quanh nhà có những bụi mâm xôi dại. Tôi thường hái hoa. con đường mòn dẫn ra bờ hồ, bà tôi trồng rất nhiều hoa cúc.


      - Vậy nhớ những bông mâm xôi. Những bông hoa đó.


      - Đúng, và mặt nước. Tôi khu hồ đó. Tôi thường tắm nắng boong tàu.


      - tuyệt khi biết điều đó - ghi chép lên giấy, rồi lại bỏ bút bi xuống - Được rồi! Giờ hãy bắt đầu bằng cách hít sâu! Hãy thở ra chậm. Đúng rồi! Giờ hãy nhắm mắt và chỉ tập trung vào giọng của tôi.


      Moore thấy mí mắt Catherine từ từ nhắm Ịai.


      - Bắt đầu ghi hình - với Rizzoli.


      ấn nút Ghi máy quay. Đoạn băng bắt đầu quay.


      Ở phòng bên, Polochek hướng dẫn cho Catherine vào trạng thái thư giãn hoàn toàn. Đầu tiên hướng dẫn tập trung vào những ngón chân của , căng thẳng tan biến. Giờ chân như tê khi cảm giác thư giãn từ từ lan khắp bắp chân .


      - thực tin việc ngu ngốc này sao? - Rizzoli nghi ngờ.


      - Tôi thấy nó có tác dụng.


      - Ồ, có thể là vậy. Vì nó bắt đầu khiến tôi buồn ngủ.


      nhìn Rizzoli. đứng khoanh tay. Môi ương bướng bĩu ra, tỏ vẻ hoài nghi.


      - Hãy nhìn xem! - lưu ý.


      Polochek đưa trạng thái thư giãn ngày càng cao lên các bó cơ bên của Catherine. Nó lan lên đùi, lưng, rồi vai. Giờ tay buông thõng hai bên. Mặt yên bình, vô lo. Hơi thở của chậm và sâu dần.


      - Giờ chúng ta hình ảnh hóa những gì quý - Polochek dẫn dắt - Ngôi nhà gỗ của bà bên hồ. Tôi muốn thấy mình đứng ở mái hiên lớn, nhìn ra mặt nước. Hôm nay trời ấm áp. khí yên bình và tĩnh lặng. thanh duy nhất là tiếng chim kêu, có gì khác. Ở đây rất yên tĩnh và thanh bình. Ánh nắng lấp lóa mặt nước…


      vẻ thanh thản thoáng qua mặt , khiến Moore thể nhận ra . thấy ấm áp mặt và những mơ ước màu hồng của trẻ. Mình nhìn thấy ấy khi còn là bé, nghĩ. Đó là trước khi mất vô tư, trước những thất vọng khi làm người lớn, trước khi Andrew Capra để lại dấu ấn của .


      - Mặt nước mời gọi, đẹp - Polochek tiếp tục - bước xuống những bậc thang ở mái hiên, bắt đầu dọc con đường , về phía hồ.


      Catherine ngồi im, mặt hoàn toàn thư giãn, tay đặt yên đùi.


      - Đất dưới chân mềm. Ánh nắng chiếu xuống ấm áp vai . Những chú chim líu lo trong những lùm cây. dừng hẳn lại. Sau mỗi bước , càng thấy bình yên. thấy yên bình xâm chiếm sâu vào . Có những bông hoa hai bên đường, hoa cúc vàng. Chúng có mùi thơm. Khi qua chúng, ngửi thấy mùi thơm đó. mùi thơm đặc biệt và kỳ ảo, kéo vào giấc ngủ. Càng , thấy chân mình càng nặng. Hương hoa như thứ thuốc phiện, khiến càng thư giãn. Hơi nóng của mặt trời làm tan hết căng thẳng trong cơ bắp của .


      - Giờ đứng cạnh mép nước. Và thấy chiếc thuyền ở cuối vũng đậu tàu. lên vũng đậu. Nước phẳng lặng như gương, như tấm kính. Con thuyền mặt nước đứng im. Nó chỉ trôi nổi đó, lặng lẽ hết mức. Đó là con thuyền kỳ diệu. Nó có thể tự đưa đến nhiều nơi. Dù muốn đến đâu. Tất cả những gì cần làm là lên thuyền. Vì vậy giờ hãy đặt chân phải lên thuyền.


      Moore nhìn chân phải của Catherine và thấy chân phải nâng lên , và lơ lửng hơn ba centimet sàn nhà.


      - Đúng thế! bước lên bằng chân phải. Con thuyền đứng im. Nó giữ cho an toàn. hoàn toàn tự tin và thoải mái. Giờ đặt chân trái lên.


      Catherine nhấc chân khỏi sàn nhà, rồi từ từ hạ xuống.


      - Lạy Chúa, tôi tin chuyện này - Rizzoli .


      - thấy nó - Moore đắc ý.


      - Đúng, nhưng làm sao tôi biết ấy có thực bị thôi miên ? Và ấy giả vờ?


      - biết được đâu.


      Polochek cúi sát về phía Catherine, nhưng chạm vào , chỉ dùng giọng để hướng dẫn vào giai đoạn bị thôi miên.


      - tháo dây thuyền khỏi vũng tàu đậu. kiểm soát. Tất cả những gì phải làm là nghĩ về nơi nào đó.


      - Và con thuyền đưa đến đó bằng phép màu - Polochek nhìn tấm gương chiều và gật đầu.


      - Giờ ấy đưa ấy trở lại - Moore .


      - Được rồi, Catherine - Polochek ghi lên tờ giấy, ghi lại thời gian truyẻn cảm ứng kết thúc - lái thuyền đến nơi khác, thời gian khác. vẫn làm chủ. thấy dải sương mù mặt nước, đám sương mù ấm và , cảm thấy dễ chịu khi nó phả vào mặt . Con thuyền thẳng vào màn sương. cúi xuống nước, trông nó như thảm lụa, rất ấm và lặng lẽ. Giờ màn sương bắt đầu tan . Ở phía trước, thấy tòa nhà bờ. Đó là tòa nhà chỉ có cánh cửa.


      Moore thấy mình cúi về phía cửa sổ. Tay nắm chặt, mạch đập nhanh hơn.


      - Con thuyền đưa lên bờ. bước lên. lên con đường dẫn đến ngôi nhà, rồi mở cửa. Bên trong có phòng đơn. Nó được rải thảm dày, rất đẹp. Và chiếc ghế.


      - ngồi lên ghế. Đó là chiếc ghế dễ chịu nhất từng ngồi. hoàn toàn thoải mái và kiểm soát mọi việc.


      Catherine hít sâu, như thể vừa mới ngồi lên tấm nệm dày.


      - Giờ nhìn bức tường trước mặt. thấy màn hình ti vi. Đó là màn hình thần kỳ vì nó có thể chiếu bất cứ thời điểm nào trong đời . Nó có thể quay về thời điểm muốn. vẫn kiểm soát nó. có thể làm nó tua nhanh hay chạy ngược lại. có thể dừng nó lại ở bất cứ thời điểm nào. Đó là . Giờ hãy thử nó! Hãy quay trở lại quãng thời gian hạnh phúc, khi ở ngôi nhà gỗ của ông bà ở gần hồ. hái hoa mâm xôi. thấy nó màn hình chứ?


      Rất lâu mà Catherine trả lời. Cuối cùng, khi , những từ đến nỗi Moore nghe thấy gì.


      - Có, tôi thấy rồi!


      - làm gì màn hình? - Polochek hỏi khẽ.


      - Tôi cầm giỏ giấy, hái hoa mâm xôi, bỏ chúng vào giỏ.


      - Và ăn khi hái chúng?


      nụ cười lên mặt , nhàng như trong mơ.


      - Ồ, đúng! Chúng ngọt lắm, và ấm áp trong nắng.


      Moore cau mày. Điều này bất ngờ! ấy trải qua cảm giác về vị giác và xúc giác. Điều đó nghĩa là ấy sống lại thời điểm đó. ấy chỉ xem nó màn hình ti vi, còn ở trong màn hình. thấy Polochek lo lắng nhìn về phía cửa sổ. ấy chọn hình ảnh ti vi là phương tiện tách ra khỏi những việc chấn động trong đời sống thực của mình. Nhưng ấy bị tách ra. Giờ Polochek lưỡng lự, xem cần làm gì tiếp theo.


      - Catherine - - Tôi muốn tập trung vào tấm nệm ngồi. ngồi ghế, trong căn phòng và xem màn hình. Hãy để ý xem tấm nệm đó mềm thế nào. Chiếc ghế đó ôm lấy lưng thế nào. thấy sao?


      dừng lại.


      - Có.


      - Được. Được. Giờ ngồi chiếc ghế đó. rời chiếc ghế. Chúng ta dùng màn hình thần kỳ để xem những cảnh khác nhau trong đời . vẫn ngồi ghế. vẫn cảm thấy tấm nệm mềm mại sau lưng. Và chỉ xem bộ phim màn hình. Được chứ?


      - Được!


      - Giờ - Polochek hít sâu - Chúng ta quay lại đêm ngày mười lăm tháng sáu ở Savannah. Đêm đó, Andrew Capra gõ cửa trước nhà . Hãy cho tôi biết chuyện gì xảy ra màn hình!


      Moore theo dõi, dám thở.


      - đứng bậc thềm trước cửa nhà tôi - Catherine - cần chuyện với tôi.


      - Về chuyện gì?


      - Về những sai lầm mắc phải ở bệnh viện.


      Những điều sau đó khác với lời khai với thám tử Singer ở Savannah. miễn cưỡng mời Capra vào nhà. Đêm đó rất nóng bức. khát nước nên lấy cho cốc bia. tự mở bia cho mình. bồn chồn, lo cho tương lai của mình. Đúng, mắc lỗi. Nhưng phải bác sỹ nào cũng vậy sao? là lãng phí tài năng của nếu loại ra khỏi chương trình tập . biết sinh viên y khoa ở Emory, thanh niên trẻ, tài năng. ta chỉ mắc sai lầm và nó chấm dứt toàn bộ nghiệp y khoa của ta. Catherine có quyền tạo dựng hay làm sập nghiệp. Mọi người nên có cơ hội thứ hai.


      Mặc dù cố giải thích với nhưng thấy ngày càng tức giận và thấy tay run lên như thế nào. Cuối cùng, vào nhà vệ sinh, cho thời gian bình tĩnh lại.


      - Và khi ra khỏi phòng tắm? - Polochek hỏi - Chuyện gì xảy ra trong phim? thấy gì?


      - Andrew im lặng hơn, quá tức giận nữa. hiểu vị trí của tôi. cười với tôi khi tôi uống hết chỗ bia.


      - Cười ư?


      - Lạ lắm. nụ cười rất lạ, như khi cười với tôi ở bệnh viện…


      Moore nghe thấy hơi thở gấp hơn. Mặc dù là người quan sát tách biệt, xem bộ phim màn hình tưởng tượng nhưng thể tránh khỏi nỗi sợ hãi.


      - Tiếp theo có chuyện gì?


      - Tôi ngủ mất.


      - thấy việc này màn hình ?


      - Có.


      - Và sau đó?


      - Tôi chẳng thấy gì. Màn hình tối đen.


      Thuốc Rohypnol. có ký ức về phần này.


      - Được rồi - Polochek - Hãy tua nhanh về phần sau đoạn băng đen! tiếp , sang phần sau của bộ phim. Tới hình ảnh tiếp theo thấy màn hình.


      Hơi thở Catherine ngày càng gấp gáp.


      - Tôi… tôi nằm giường, trong phòng tôi. Tôi cử động tay chân được.


      - Tại sao ?


      - Tôi bị trói vào giường. Quần áo tôi bị lột hết và nằm lên tôi. vào trong tôi, vào sâu trong tôi…


      - Andrew Capra ư?


      - Đúng, đúng… - Giờ hơi thở đều nữa. Cổ thoát ra những thanh sợ hãi.


      Tay Moore nắm chặt, thở nhanh hơn. cố kìm mong muốn đập vào cửa sổ để ngừng việc này lại. gần như thể chịu đựng nổi khi nghe những lời đó. Họ thể để quá tập trung đến mức sống lại lúc bị cưỡng bức đó.


      Nhưng Polochek nhận thấy nguy cơ. nhanh chóng hướng dẫn khỏi ký ức đau đớn đó.


      - vẫn ngồi ghế. an toàn trong căn phòng có màn hình ti vi. Đó chỉ là bộ phim, Catherine. Nó xảy ra với ai đó. an toàn, tự tin.


      Hơi thở lại chậm lại, từ từ thành điệu nhịp nhàng. Hơi thở Moore cũng vậy.


      - Được rồi! Hãy xem phim! Hãy chú ý những gì làm, chứ phải Andrew. Hãy cho tôi biết tiếp theo có chuyện gì.


      - Màn hình lại tối đen. Tôi thấy gì.


      ấy vẫn hết ảnh hưởng của thuốc Rohypnol.


      - Hãy tua nhanh, bỏ qua phần màu đen. Hãy tới phần thấy sau đó. Đó là gì?


      - Ánh sáng. Tôi thấy ánh sáng…


      Polochek dừng lại.


      - Tôi muốn phóng to lên, Catherine! Tôi muốn lùi lại để thấy toàn diện ngôi nhà. màn hình có gì?


      - Đồ vật. Nằm bàn đầu giường.


      - Vật gì?


      - Các dụng cụ, con dao mổ. Tôi thấy con dao mổ.


      - Andrew ở đâu?


      - Tôi biết.


      - có trong phòng sao?


      - rồi. Tôi nghe thấy tiếng nước chảy.


      - Sau đó có chuyện gì?


      thở gấp. Giọng rất tức giận.


      - Tôi giật dây buộc, cố giải thoát cho mình. Tôi nhúc nhích chân được. Nhưng tay phải tôi - dây buộc lỏng ở đầu cổ tay tôi. Tôi kéo mạnh. Tôi cứ kéo mãi. Cổ tay tôi chảy máu.


      - Andrew vẫn có trong phòng?


      - Đúng. Tôi nghe cười. Tôi nghe thấy giọng . Nhưng nó vọng lại từ đâu đó trong ngôi nhà.


      - Có chuyện gì với sợi dây ?


      - Nó lỏng ra. Máu khiến nó trơn hơn, và tay tôi tuột ra…


      - Sau đó làm gì?


      - Tôi lấy dao mổ. Tôi cắt dây thừng cổ tay còn lại. Mọi việc mất quá nhiều thời gian. Tôi thấy bụng nôn nao. Tay tôi cử động dễ dàng. Chúng rất chậm chạp. Căn phòng cứ tối, rồi sáng, rồi tối. Tôi vẫn nghe thấy giọng của chuyện. Tôi luồn xuống, cắt đứt dây trói bên cổ chân trái. Giờ tôi nghe thấy tiếng bước chân của . Tôi cố ra khỏi giường nhưng chân phải tôi vẫn bị trói. Tôi lăn mình sang bên, rơi phịch xuống sàn, úp mặt xuống.


      - Và sau đó?


      - Andrew ở đó, đứng ở cửa. có vẻ ngạc nhiên. Tôi luồn xuống dưới giường. Tôi thấy có khẩu súng.


      - Có khẩu súng dưới giường ?


      - Đúng. Súng của bố tôi. Nhưng tay tôi quá run, tôi gần như cầm nổi nó. Và tất cả lại bắt đầu biến thành màu đen.


      - Andrew ở đâu?


      - về phía tôi…


      - Và có chuyện gì, Catherine?


      - Tôi cầm khẩu súng. Và có thanh gì đó. thanh lớn.


      - Khẩu súng bắn ra?


      - Đúng.


      - bóp cò?


      - Đúng.


      - Andrew làm gì?


      - ngã. Tay ôm bụng. Máu rỉ ra qua những ngón tay .


      - Sau đó có chuyện gì?


      dừng lại rất lâu.


      - Catherine? thấy gì màn hình?


      - Màu đen. Màn hình lại tối đen.


      - Và khi nào hình ảnh tiếp theo xuất màn hình?


      - Người. Có rất nhiều người trong phòng.


      - Người nào?


      - Cảnh sát…


      Moore gần như gầm lên thất vọng. Đây là khoảng trống quan trọng trong ký ức của . Thuốc Rohypnol, cùng ảnh hưởng của cú đánh vào đầu khiến ấy bị bất tỉnh. Catherine nhớ bắn viên đạn thứ hai như thế nào. Họ vẫn biết Andrew Capra bị viên đạn thứ hai găm vào đầu thế nào.


      Polochek nhìn ra cửa sổ, mắt lộ vẻ băn khoăn. Họ hài lòng chưa?


      Trước ngạc nhiên của Moore, Rizzoli bỗng mở cửa, ra hiệu cho Polochek sang phòng bên. làm vậy, để Catherine mình và đóng cửa lại.


      - Hãy bảo ấy quay trở lại trước khi ấy bắn . Khi ấy vẫn nằm giường - Rizzoli - Tôi muốn tập trung vào những gì ấy nghe thấy từ phòng khác. Nước chảy. Tiếng cười của Capra. Tôi muốn biết từng thanh ấy nghe thấy.


      - Vì lý do đặc biệt gì vậy?


      - Hãy làm !


      Polochek gật đầu, trở lại phòng hỏi cung. Catherine cử động - vẫn ngồi im như thể vắng mặt của Polochek khiến bị dừng lại tạm thời.


      - Catherine - khẽ - Tôi muốn tua lại đoạn phim đó. Chúng ta quay lại trước khi nổ súng, trước khi tuột tay ra và lăn xuống sàn nhà. Chúng ta ở thời điểm trong bộ phim khi vẫn nằm giường và Andrew có trong phòng. nghe thấy tiếng nước chảy.


      - Đúng.


      - Hãy tôi nghe tất cả những gì nghe thấy.


      - Nước. Tôi nghe thấy nó chảy trong ống dẫn. Tiếng xì xì. Và tôi nghe nó chảy xuống lỗ thông.


      - vặn nước ra bồn?


      - Đúng.


      - Và nghe thấy tiếng cười.


      - Andrew cười.


      - chuyện?


      dừng lại.


      - Đúng!


      - gì?


      - Tôi biết. đứng quá xa.


      - chắc đó là Andrew chứ? Đó có thể là ti vi ?


      - , chính . Đó là Andrew.


      - Được. Hãy làm chậm bộ phim. từng giây . tôi biết nghe thấy gì?


      - Nước vẫn chảy. Andrew “Dễ ợt!”. Từ “dễ”.


      - Thế thôi sao?


      - “Thấy , làm , dạy ”.


      - Thấy , làm , dạy ? Đó là những gì sao?


      - Đúng.


      - Và những từ nghe thấy sau đó?


      - “Đến lượt tôi, Capra”.


      Polochek dừng lại.


      - nhắc lại được chứ?


      - “Đến lượt tôi, Capra”.


      - Andrew vậy?


      - . Đó phải là Andrew.


      Moore cau mày, nhìn người phụ nữ ngồi bất động ghế. Polochek nhìn về phía cửa sổ, mặt lộ vẻ kinh ngạc. quay về phía Catherine.


      - Ai những lời đó? - Polochek hỏi - Ai câu “Đến lượt tôi, Capra”?


      - Tôi biết. Tôi nhận ra giọng của .


      Moore và Rizzoli nhìn nhau.


      người nữa trong phòng.

    4. vulinh

      vulinh Well-Known Member

      Bài viết:
      20,019
      Được thích:
      24,221
      MƯỜI LĂM




      Giờ ấy ở cùng ta.


      Con dao trong tay Rizzoli chuyển động vụng về thớt. Những thớ hành thái vương vãi sàn nhà. Ở phòng bên, bố và các trai xem ti vi và la lối om sòm. Ti vi trong nhà này lúc nào cũng ầm ĩ, điều đó nghĩa là ai cũng phải to hơn nó. Nếu người ta la hét trong nhà của Frank Rizzoli ai nghe thấy họ. Trong nhà họ, cuộc chuyện bình thường nghe cứ như trận cãi nhau. cho hành vào bát, rồi lại bắt đầu băm tỏi. Mắt cay xè. Đầu óc vẫn nghĩ đến hình ảnh Moore và Catherine Cordell.


      Sau khi làm việc với bác sỹ Polochek, Moore đưa Catherine về nhà. Rizzoli nhìn họ cùng vào thang máy và thấy tay ôm lấy vai Catherine. Cử chỉ đó còn hơn bảo vệ. nhận thấy cách nhìn Catherine Cordell, tình cảm hiển mặt , trong mắt . đơn thuần là cảnh sát bảo vệ người dân, là người đàn ông .


      Rizzoli bóc tỏi, đập từng nhánh bằng lưỡi dao phẳng. Con dao đập mạnh thớt. Mẹ đứng cạnh đó, nhìn bếp lửa và gì.


      Giờ ấy ở bên ta, trong nhà ta, có lẽ là giường.


      Những nhát đập mạnh, những nhánh tỏi nát nhừ, cũng làm cơn giận của dịu , bang - bang - bang. biết tại sao Moore và Cordell khiến rất bực mình. Có lẽ đó là vì có quá ít vị thánh thế giới, quá ít người nghiêm túc tuân thủ các quy định, và nghĩ Moore là trong số đó. khiến nghĩ phải ai cũng mắc sai lầm. Và giờ lại làm thất vọng.


      Có lẽ đó là vì nhận thấy việc này làm hỏng vụ điều tra. người đàn ông bị vướng vào những mối quan hệ cá nhân thể suy nghĩ hay hành động lôgic được.


      Hoặc có lẽ mình ghen với ta. Ghen với người phụ nữ khiến đàn ông quay đầu lại chỉ bằng ánh mắt liếc qua. Đàn ông chính là miếng gạc thấm nỗi buồn đau của phụ nữ.


      Ở căn phòng kế bên, bố và các em hò hét rất to khi xem ti vi. chỉ muốn trở về căn hộ yên tĩnh của mình và bắt đầu nghĩ ra đủ lý do để được về sớm. Ít nhất cũng phải ngồi cho hết bữa tối. Khi mẹ cứ nhắc là Frank Jr. hay về nhà. Vì vậy, làm sao Janie có thể muốn ở bên cậu em trai lát? phải chịu đựng cả buổi tối để nghe những câu chuyện về trại lính của Frankie. Những cậu lính mới tội nghiệp thế nào, giới trẻ Mỹ ngày càng mềm yếu thế nào. Và cậu em trai của phải đá đít nhiều tân binh để giúp những cậu trai nữ tính đó vượt qua thử thách. Mẹ và bố nuốt lấy từng lời. Điều khiến bực bội là cả nhà hỏi gì về công việc của . Từ trước đến nay, trong công việc của mình, Frankie, lính thủy chỉ thực những cuộc diễn tập chiến tranh. Còn chứng kiến những trận đấu diễn ra mỗi ngày, chống lại những con người , những tên sát nhân .


      Frankie khệ nệ bước vào bếp, lấy bia trong tủ lạnh.


      - Khi nào được ăn tối đây? - Cậu ta hỏi, mở nắp chai. Cách cư xử của cậu ta như thể Rizzoli là người hầu.


      - tiếng nữa - Mẹ nhàng .


      - Trời ơi, mẹ ơi! bảy rưỡi rồi. Con đói lắm.


      - Đừng than vãn, Frankie!


      - Em biết đấy - Rizzoli nhắc nhở - chúng ta ăn tối sớm hơn nhiều nếu mấy người đàn ông cũng vào phụ giúp.


      - Em có thể chờ - Frankie rồi quay lại phòng xem ti vi ở lối vào, cậu ta dừng lại - Ôi, em suýt quên. Chị có tin nhắn.


      - Gì?


      - Di động của chị kêu. Có ái đó tên là Frosty.


      - Ý em là Barry Frost?


      - Đúng, đúng rồi. ấy muốn chị gọi lại.


      - ấy gọi khi nào?


      - Khi chị ra ngoài lái mấy cái ô tô ra chỗ khác.


      - Khốn kiếp, Frankie! hơn giờ rồi.


      - Janie! - Mẹ cố nài.


      Rizzoli tháo tạp dề, ném lên mặt bếp.


      - Đây là công việc của con, mẹ ạ! Tại sao chẳng ai tôn trọng nó? - giật mạnh điện thoại trong bếp, bấm số di động của Barry Frost.


      trả lời sau hồi chuông đầu tiên.


      - Tôi đây - - Tôi vừa nhận được tin nhắn và gọi lại cho .


      - sắp bỏ lỡ mất chuyện.


      - Gì vậy?


      - Chúng ta có mã số ADN lấy từ Nina Peyton.


      - Ý là mẫu tinh dịch, chúng ta có mã số ADN sao?


      - Nó khớp với tội phạm tên là Karl Pacheco. Bị bắt năm nghìn chín trăm chín mươi bảy, bị cáo bị buộc tội xâm phạm tình dục nhưng trắng án. việc đó là hành động tự nguyện. Và quan tòa tin .


      - cưỡng bức Nina Peyton?


      - Và chúng ta có mẫu ADN để chứng minh điều đó.


      vui sướng vung tay lên.


      - Địa chỉ của ?


      - 4578 Đại lộ Colombus. Cả đội ở đó.


      - Tôi đến ngay.


      chạy ra cửa mẹ gọi.


      - Janie! Còn bữa tối sao?


      - Con phải , mẹ ạ.


      - Nhưng Frankie mới đến đây tối qua!


      - Bọn con sắp bắt được tội phạm.


      - Họ thể làm việc đó mà có con sao?


      Rizzoli dừng lại, tay đặt cửa. Cơn giận của lộ . Và bỗng nhận ra là dù đạt được gì hay nghiệp của có xuất sắc đến đâu giây phút này luôn là của đời . là Janie, bà chị tầm thường. chỉ là .


      gì, ra ngoài và đóng sầm cửa lại.






      Đại lộ Colombus nằm ở rìa phía bắc Roxbury, nằm ngay trung tâm giết người của tên Bác sỹ phẫu thuật. Nó giáp Jamaica Plain ở phía nam, nơi ở của Nina Peyton, phía đông bắc là khu sinh sống của Elena Ortiz. Phía bắc giáp Back Bay, chỗ ở của Diana Sterling và Catherine Cordell. Nhìn hai hàng cây bên đường, Rizzoli thấy những ngôi nhà san sát, quanh đó đầy sinh viên và giáo viên của trường Đại học Northeastern. Rất nhiều con mồi.


      Rất nhiều cuộc săn đuổi.


      Đèn giao thông phía trước chuyển thành màu vàng. Chất kích thích adrenalin của tăng mạnh. nhấn ga, lái qua khu đường giao nhau. Niềm vinh dự được tham gia vào lần bắt tội phạm này thuộc về . Trong nhiều tuần qua, Rizzoli sống, hít thở, thậm chí còn mơ về Bác sỹ phẫu thuật. xâm nhập vào từng giây phút trong cuộc sống của , cả khi thức và khi ngủ. ai làm việc hết mình hơn để bắt được . Và giờ chạy đua để đạt giải thưởng.


      Khi chỉ còn khu nhà nữa là đến chỗ ở của Karl Pacheco, phanh gấp sau chiếc xe tuần tra. Bốn xe khác đậu phân tán dọc con đường.


      quá muộn, nghĩ, để chạy về phía tòa nhà. Họ vào rồi.


      Bên trong, nghe tiếng bước chân, tiếng những người đàn ông hét to vang vọng ở cầu thang bộ. lần theo thanh đó lên tầng hai và bước vào căn hộ của Karl Pacheco.


      Ở đó, thấy cảnh tượng hỗn loạn. Gỗ vương vãi từ cánh cửa đến ngưỡng cửa. Những chiếc ghế lật nhào, cái đèn bị đập vỡ như thể con bò tót vừa chạy qua phòng này, để lại rất nhiều thiệt hại. khí cũng sực lên mùi đàn ông. Đó là cơn bạo lực của cảnh sát. Họ săn lùng thủ phạm giết chết trong những đồng nghiệp của họ cách đây mấy hôm.


      sàn, gã nằm úp mặt. Da đen - đó phải là Bác sỹ phẫu thuật. Crowe ấn mạnh gót giày lên sau gáy gã da màu.


      - Tao hỏi mày rồi, tên khốn - Crowe hét lên – Pacheco đâu?


      Gã đó rên rỉ và mắc sai lầm là cứ cố ngóc đầu lên. Crowe dí mạnh gót giày, rất mạnh, làm cằm gã bẹp xuống sàn. Gã phát ra những thanh như bị tắc thở và cố giãy giụa.


      - Để đứng lên! - Rizzoli hét.


      - đứng im!


      - Hãy thả , có thể cho biết! - Rizzoli đẩy Crowe sang bên. Gã đó lồm cồm bò dậy, thở dốc như con cá mắc cạn.


      Crowe hét lên.


      - Pacheco đâu?


      - biết.


      - Mày ở căn hộ của !


      - rồi. rồi…


      - Khi nào?


      Gã bắt đầu ho rất dữ dội, như thể phổi sắp nổ tung. Những cảnh sát khác quây lại, căm tức nhìn tên tù nhân sàn. Đó là bạn của kẻ giết cảnh sát.


      Rizzoli bực bội, dọc hành lang vào phòng ngủ. Cửa tủ quần áo mở toang và những bộ quần áo treo mắc bị ném xuống sàn. Căn hộ bị lục soát kỹ và quá mạnh tay. Mọi cánh cửa bị mở tung, bất cứ nơi nào có thể trốn được đều bị phơi bày. đeo găng tay, bắt đầu xem từng ngăn kéo, mở từng túi áo quần, tìm cuốn sổ ghi chép, cuốn sổ địa chỉ, bất cứ thứ gì có thể cho biết Pacheco trốn ở đâu.


      ngước lên, thấy Moore vào phòng.


      - gây ra đống lộn xộn này à? - hỏi.


      lắc đầu.


      - Marquette hạ lệnh lục soát. Chúng tôi nhận được thông tin là Pacheco ở trong tòa nhà này.


      - Vậy đâu? - đóng mạnh ngăn kéo, về phía cửa sổ phòng ngủ. Nó đóng nhưng bị chốt khóa. Lối thoát hiểm ở ngay bên ngoài. mở cửa, thò đầu ra. xe tuần tra đỗ ở con hẻm bên dưới, tiếng đài léo nhéo. thấy cảnh sát tuần tra chiếu đèn vào xe chở rác di động Dumpster.


      định thụt đầu vào đột nhiên thấy có gì đó đập vào sau đầu. nghe thấy tiếng sỏi rơi ống thoát hiểm. kinh ngạc, nhìn lên. Bầu trời đêm cuộn mây, chỉ có ánh sáng thành phố, những ngôi nhà gần như nhìn thấy được. nhìn kỹ lúc, nhìn kỹ đường viền nóc nhà nền trời xanh đen, nhưng có động tĩnh gì.


      trèo ra ngoài cửa sổ, leo lên lối thoát hiểm và trèo thang lên tầng ba. dừng lại, kiểm tra cửa sổ căn hộ ngay căn hộ của Pacheco. Rèm cửa bị khép lại, và cánh cửa tối om.


      nhìn lên mái nhà. Mặc dù nhìn thấy và nghe thấy gì bên , nhưng tóc gáy dựng đứng.


      - Rizzoli? - Moore gọi bên dưới cửa sổ. trả lời, mà chỉ lên mái nhà, ra hiệu là chú ý lên đó.


      lau lòng bàn tay đẫm mồ hôi vào quần, im lặng leo lên thang dẫn lên mái nhà. Đến thanh ngang cuối cùng, dừng lại, hít sâu và chầm chậm thò đầu lên khỏi mép tòa nhà.


      Dưới bầu trời đêm trăng, mái nhà trông như rừng bóng tối. thấy những bóng đen của bàn, ghế, đống thanh sắt hình cung. khu vườn sân thượng. leo lên khỏi mép, hơi khom mình ván lợp rải nhựa đường và rút súng. bước thêm hai bước nữa, chân đá vào vật gì đó, làm nó kêu mạnh. ngửi thấy mùi hăng của cây phong lữ. nhận thấy xung quanh là những chậu cây. Tất nhiên, chúng cản đường .


      Ở bên trái, cái gì đó chuyển động.


      cố nhận ra dáng người trong những bóng đen đó. Giờ thấy , lom khom như người lùn.


      thấy cầm vật gì đó trong tay. chuẩn bị ném vật đó về phía .


      Chỉ tích tắc trước khi cái xẻng làm vườn đánh trúng mặt , thấy có luồng gió xé mạnh về phía mình, như cơn gió từ địa ngục xé toang màn đêm. Cái xẻng đập vào má mạnh đến nỗi thấy nổ đom đóm mắt.


      khuỵu xuống. Cơn đau cuộn lên như sóng khắp đốt thần kinh của . Cơn đau khủng khiếp đến nỗi thấy khó thở.


      - Rizzoli? - Đó là Moore. Thậm chí nghe thấy tiếng nhảy lên mái nhà.


      - Tôi ổn. Tôi sao… - chỉ về phía bóng người nấp ở đó. Nó biến mất - ở đó - thào - Tôi thấy tên chó đẻ đó.


      Moore dừng lại trong bóng tối. ôm đầu, chờ cho hết chóng mặt, nguyền rủa bất cẩn của mình. cố giữ cho đầu óc tỉnh táo, lảo đảo đứng lên. tức giận là nguồn năng lượng tiềm tàng, nó khiến chân đứng vững và cầm chắc súng hơn.


      Moore cách vài mét ở bên phải. chỉ nhìn thấy dáng người , di chuyển qua chiếc bàn và những cái ghế. sang trái, vòng theo hướng ngược lại. Mỗi cú giật má, mỗi cơn đau cuộn lên nhắc nhở là bị choáng. phải lần này! Mắt lướt quanh những bóng cây mờ ảo. Bỗng có tiếng loảng xoảng. xoay sang phải. nghe thấy tiếng bước chân chạy và thấy bóng đen chạy ngang mái nhà, lao về phía .


      Moore hét lên.


      - Đứng im! Cảnh sát đây!


      Người đàn ông vẫn chạy.


      Rizzoli ngồi thụp xuống, chĩa súng về phía trước. Mặt giật mạnh dần, và thấy đau khủng khiếp. Tất cả những lời nhạo báng chịu đựng, khinh rẻ và lăng mạ hàng ngày, tra tấn dường như dứt của Darren Crowe dường như tụ lại thành cơn tức giận.


      Lần này, tên khốn, ngươi là của ta. Mặc dù người đàn ông bỗng dừng lại trước mặt , mặc dù tay giơ lên trời, nhưng quyết định của thể xoay chuyển được.


      bóp cò.


      Người đàn ông co rúm lại, ngã vật về phía sau.


      bắn viên thứ hai, rồi viên thứ ba. Mỗi lần bóp cò, lại thấy thỏa mãn truyền khắp lòng bàn tay mình.


      - Rizzoli! Dừng bắn!


      Tiếng thét của Moore cuối cùng cũng lọt vào tai . bất động, vũ khí vẫn chĩa về phía trước. Tay co rút, đau đớn.


      Kẻ tình nghi gục xuống, bất động. đứng thẳng lên từ từ tiến lại bóng người vừa sụp xuống. Mỗi bước khiến càng khiếp sợ việc mình vừa làm.


      Moore quỳ bên người đàn ông, kiểm tra mạch. ngẩng lên nhìn . Mặc dù nhìn thấy vẻ mặt mái nhà tối om, nhưng biết ánh mắt tỏ vẻ trách móc.


      - chết rồi, Rizzoli.


      - cầm vật gì đó trong tay…


      - Chẳng có gì.


      - Tôi thấy mà. Tôi biết chắc như vậy!


      - giơ tay lên.


      - Khốn kiếp, Moore. Đó là cú bắn rất tuyệt! phải ủng hộ tôi về việc này!


      Những giọng khác đột ngột xen vào khi các cảnh sát khác leo lên mái nhà cùng họ. Moore và Rizzoli gì với nhau.


      Crowe chiếu đèn pin vào người đàn ông. Rizzoli thấy mắt mở to như quỷ dữ và áo sơ mi của đầy máu.


      - Này, đó là Pacheco! - Crowe - Ai bắn vậy?


      Rizzoli như người vô hồn.


      - Tôi.


      Ai đó vỗ lưng .


      - Nữ cảnh sát làm tốt lắm!


      - Câm ! - Rizzoli - Hãy câm ! - loạng choạng bỏ , leo xuống lối thoát hiểm và vụng về chui vào xe. ngồi đó, nắm chặt tay lái. Cơn đau của biến thành trận buồn nôn. Trong đầu , việc xảy ra mái nhà cứ lặp lặp lại, những việc Pacheco làm, những việc làm. thấy lại chạy, chỉ còn là bóng đen và lại chạy về phía . thấy đừng lại. Đúng, dừng lại. thấy nhìn .


      Vũ khí. Trời ơi, hãy cho cầm vũ khí!


      Nhưng thấy vũ khí. Trong tích tắc trước khi nổ súng, hình ảnh đó khắc sâu vào não . người đàn ông, đứng bất động, người đàn ông đứng giơ tay đầu hàng.


      Ai đó gõ cửa xe. Đó là Barry Frost. cuộn cửa xuống.


      - Marquette tìm .


      - Được rồi.


      - Có chuyện gì sao? Rizzoli, ổn chứ?


      - Tôi cảm thấy như thể chiếc xe tải vừa nghiến lên đầu tôi.


      Frost cúi xuống, nhìn bên má sưng vù của .


      - Ồ. Tên khốn đó thực tấn công.


      Đó cũng là điều Rizzoli muốn tin: rằng Pacheco đáng chết. Đúng, đáng chết. Và dằn vặt mình vô lý.


      - Chẳng phải bằng chứng mặt rất hay sao? tấn công . con quỷ. Và khi bắn , chỉ thực thi công bằng cách nhanh chóng và đỡ tốn kém. Elena Ortiz, Nina Peyton và Diana Sterling chắc chắn an lòng. ai than khóc vì những kẻ cặn bã của xã hội.


      ra khỏi xe và cảm thấy khá hơn vì đồng cảm của Barry Frost. thấy mạnh mẽ hơn. về phía tòa nhà và thấy Marquette đứng gần bậc cầu thang. Ông chuyện với Moore.


      Cả hai đều quay lại nhìn khi đến. thấy Moore nhìn mà lơ đãng nhìn đâu đó. tránh ánh mắt . Trông được khỏe.


      Marquette .


      - Tôi muốn khẩu súng của , Rizzoli.


      - Tôi bắn tự vệ. tấn công tôi.


      - Tôi hiểu điều đó. Nhưng biết luật mà.


      nhìn Moorre. Tôi mến . Tôi tin . mở bao súng, ném nó về phía Marquette.


      - Cuối cùng kẻ thù khốn kiếp ở đây là ai? - bực tức - Đôi khi tôi tự hỏi điều đó - quay và trở về ô tô.






      Moore nhìn tủ quần áo của Karl Pacheco và nghĩ: Tất cả đều sai hết! sàn nhà có gần sáu đôi giày, cỡ mười , loại rất to. giá có những chiếc áo lót bám bụi, hộp đựng giày. Trong đó đựng những cục pin cũ và tiền lẻ. Ngoài ra, còn có chồng tạp chí Nhà đất.


      nghe thấy tiếng ngăn kéo khẽ mở, liền quay lại và thấy Barry Frost đeo găng tay lục ngăn kéo đựng tất của Pacheco.


      - Có gì ? - Moore hỏi.


      - dao mổ, thuốc gây mê, thậm chí có lấy cuộn băng dính ống nhựa.


      - Ding ding ding! - Crowe gọi ở phòng tắm. ta thong thả ra, vẫy vẫy túi Ziploc đựng lọ nhựa . Trong đó có chất lỏng màu nâu.


      - Từ vùng Mexico đầy nắng, mảnh đất thừa thãi dược phẩm.


      - Tang chứng à? - Frost hỏi.


      Moore nhìn nhãn mác, in chữ Tây Ban Nha.


      - Thuốc Gamma hydroxybutyrate. Tác dụng kích dục.


      Crowe lắc túi.


      - Ít nhất trăm vụ cưỡng bức ở đây. Chắc hẳn của quý của tên Pacheco đó mệt lắm - ta cười.


      thanh đó khiến Moore điên tiết. nghĩ về bộ phận cơ thể đó của và những gì nó gây ra cho các . Đó chỉ là tổn thương về sức khỏe, mà tổn thương về tinh thần. Tâm hồn họ bị xé ra làm hai. nhớ những gì Catherine kể với : rằng cuộc sống của nạn nhân bị cưỡng bức chia thành trước khi và sau khi việc đó xảy ra. Hành động cưỡng bức tình dục biến thế giới của phụ nữ thành nơi hoang vắng, xa lạ. Trong thế giới đó, mỗi nụ cười, mỗi giây phút tươi sáng đều nhuốm màu tuyệt vọng. Mấy tuần trước, chẳng mấy khi để ý đến điệu cười của Darren Crowe. Đêm nay, nghe thấy nó quá . Và thấy điệu cười đó đáng ghét.


      vào phòng khách. Ở đó người da đen bị thám tử Sleeper hỏi cung.


      - Tôi với các vị rồi. Chúng tôi vừa mới lang thang ra ngoài - gã .


      - ra ngoài và chỉ mang theo sáu trăm đô trong túi sao?


      - Lúc nào tôi cũng thích tiền rủng rỉnh. Lạy Chúa!


      - định mua gì?


      - Chẳng gì hết.


      - Sao biết Pacheco?


      - Tôi biết , vậy thôi.


      - Ồ, người bạn thân . Vậy bán gì?


      Thuốc Gamma hydroxybutyrate, Moore nghĩ, thuốc kích đục. đến để mua thứ đó. Lại là tên bệnh hoạn khác.


      ra ngoài, trời vẫn tối và cảm thấy mất phương hướng vì ánh đèn chói mắt của những chiếc xe tuần tra. Xe của Rizzoli còn ở đó. nhìn khoảng trống. Áp lực của việc làm với Rizzoli đè nặng lên vai. cảm thấy nhúc nhích nổi. Chưa bao giờ trong nghề lại đối mặt với lựa chọn khủng khiếp như vậy. Mặc dù trong thâm tâm, nghĩ mình quyết định đúng, nhưng bị nó giày vò. cố dung hòa thái độ tôn trọng của mình dành cho Rizzoli với những gì thấy mái nhà. Vẫn chưa muộn để có thể rút lại những gì với Marquette. Khi đó mái nhà rất tối và khó nhìn, có lẽ Rizzoli thực nghĩ Pacheco cầm vũ khí. Có lẽ ấy nhìn thấy hành động, động thái nào đó mà Moore bỏ qua. Nhưng dù cố thế nào cũng thể xóa hết trí nhớ của mình. Trí nhớ của ghi nhận hành động của . thể lý giải những gì nhìn thấy. Đó là lạnh lùng và nhuốm máu.


      Khi gặp lại , thấy úp mặt bàn, cầm túi đá áp vào mặt. quá nửa đêm và muốn chuyện. Nhưng ngẩng lên khi qua và lập tức ánh mắt khiến khựng lại.


      - gì với Marquette? - hỏi.


      - Những gì ông ấy muốn biết. Tại sao Pacheco chết. Tôi dối ông ấy.


      - khốn nạn.


      - nghĩ tôi muốn với ông ấy sao?


      - còn lựa chọn khác.


      - cũng vậy, khi ở mái nhà. đưa ra quyết định sai lầm.


      - Và bao giờ sai, đúng ? bao giờ mắc lỗi.


      - Nếu có tôi chịu trách nhiệm về nó.


      - Ồ, đúng rồi. Vị thánh Thomas khốn nạn.


      đến bàn làm việc của , cúi nhìn .


      - trong những cảnh sát giỏi nhất mà tôi từng làm việc cùng. Nhưng đêm nay lạnh lùng bắn người đàn ông. Và tôi chứng kiến chuyện đó.


      - phải nhìn thấy nó.


      - Nhưng tôi thấy.


      - Thực chúng ta nhìn thấy gì đó, Moore? Rất nhiều bóng đen, nhiều chuyển động. Khoảng cách giữa quyết định đúng và quyết định sai lầm mong manh như thế này này - giơ hai ngón tay gần chạm nhau - Và chúng ta được phép làm như vậy. Chúng ta cho phép nhau được hưởng lợi từ nghi ngờ.


      - Tôi cố làm vậy.


      - cố chưa đủ đâu.


      - Tôi dối vì cảnh sát khác. Thậm chí là bạn của tôi.


      - Hãy nhớ đến những tên khốn ngoài đó, chứ phải chúng ta.


      - Nếu chúng ta dối sao chúng ta có thể vạch ranh giới giữa bọn chúng và chúng ta? Việc này đến đâu?


      bỏ túi đá khỏi mặt, chỉ vào má. mắt sưng to, toàn bộ phần mặt bên trái sưng lên như quả khinh khí cầu vằn vện. Khuôn mặt bị thương nặng của làm bị sốc.


      - Đây chính là điều Pacheco gây ra cho tôi. Đây phải là cú đánh , đúng ? về bọn chúng và chúng ta. ở bên nào? Tôi giúp cả nhân loại việc là trừ khử . ai nhớ thương tên Bác sỹ phẫu thuật đó.


      - Karl Pacheco phải là Bác sỹ phẫu thuật. bắn nhầm người.


      nhìn chớp mắt. Bộ mặt trông gớm ghiếc, nó như bức tranh của Picasso, nửa xấu xí, nửa bình thường.


      - Chúng ta khớp ADN! chính là kẻ…


      - Là kẻ cưỡng bức Nina Peyton, đúng vậy. Nhưng chẳng có gì khớp với Bác sỹ phẫu thuật - ném báo cáo từ Bộ phận phân tích Tóc và Sợi lên bàn .


      - Cái gì đây?


      - Các phân tích cấp phân tử sợi tóc đầu Pacheco. Màu khác, độ xoăn khác, mức độ biểu bì khác với sợi tóc tìm thấy ở mép vết thương của Nina Peyton. có bằng chứng về tóc rễ tre.


      ngồi bất động, nhìn bản báo cáo của phòng thí nghiệm.


      - Tôi hiểu.


      - Pacheco cưỡng bức Nina Peyton. Đó là tất cả những gì chúng ta có thể chắc chắn về .


      - Cả Diana Sterling và Ortiz đều bị cưỡng bức…


      - Chúng ta thể chứng minh làm vậy. Giờ chết rồi. Và chúng ta bao giờ biết được.


      ngước lên nhìn . Bên mặt bị thương của nhăn nhúm lại vì tức giận.


      - Chắc chắn là . chọn ngẫu nhiên ba ở thành phố này. Và việc họ bị cưỡng bức sao? Đó chính là điều tên Bác sỹ phẫu thuật làm. giết chết cả ba. Nếu phải là kẻ cưỡng bức họ sao biết nên chọn ai và nên giết ai? Nếu đó phải là Pacheco là do bạn . Đó là con chim kền kền khốn kiếp nào đó xơi nốt phần xác thối mà Pacheco để lại - đóng mạnh bản báo cáo trước mặt - Có thể tôi bắn chết tên Bác sỹ phẫu thuật, nhưng kẻ tôi bắn là kẻ cặn bã. Mọi người dường như đều nhận thấy thực đó. Pacheco là đồ cặn bã. Tôi có nên nhận được huy chương ? - đứng lên, đẩy mạnh ghế - Bằng quyền hành quản lý của mình, Marquette biến tôi thành sát nhân khốn kiếp, cảm ơn nhiều!


      im lặng nhìn bỏ . biết phải gì. thể làm gì để lấp đầy khoảng cách giữa họ.


      vào ngăn làm việc của mình, ngồi xuống ghế. Mình là người lỗi thời, nghĩ, lang thang trong thế giới mà những kẻ bị khinh rẻ. Giờ thể nghĩ về Rizzoli. Vụ án với kẻ tinh nghi số là Pacheco tan tành. Họ lại quay về vạch xuất phát, tìm tên sát nhân vô danh.


      Ba bị cưỡng bức. Mọi việc cứ trở lại điểm đó. Tên Bác sỹ phẫu thuật tìm ra họ bằng cách nào? Chỉ có Nina Peyton báo với cảnh sát về vụ cưỡng bức. Những vụ cưỡng bức của các còn lại đều là những tổn thương riêng tư; chỉ tên cưỡng bức, nạn nhân và những chuyên gia y tế điều trị cho họ biết chuyện. Nhưng ba tìm đến những cơ sở y tế khác nhau: Sterling đến gặp bác sỹ phụ khoa ở Back Bay. Ortiz đến phòng cấp cứu của bệnh viện Hành Hương. Nina Peyton đến phòng khám phụ khoa Forest Hill. có mối liên hệ giữa nhân viên, bác sỹ, y tá hay nhân viên lễ tân, những người tiếp xúc với hai trong số các đó.


      Bằng cách nào đó, tên Bác sỹ phẫu thuật biết những đó bị xâm phạm. đau đớn của họ thu hút . Những tên giết người có liên quan đến tình dục thường chọn nạn nhân là những người đễ bị tổn thương nhất trong xã hội. Chúng tìm những phụ nữ mà chúng có thể kiểm soát, hạ nhục. Những người đó thể đe dọa chúng. Và còn ai yếu đuối hơn phụ nữ từng bị xâm hại tình đục?


      Khi Moore ra ngoài, dừng lại, nhìn bức tường dán ảnh Sterling, Ortiz và Peyton. Ba , ba vụ cưỡng bức.


      Và người thứ tư. Catherine bị cưỡng bức ở Savannah.


      chớp mắt khi hình ảnh bỗng ập vào tâm trí. thể kìm mình thêm hình ảnh đó vào những bức ảnh tường.


      Nếu suy nghĩ theo lối nào đó tất cả mọi chuyện đều trở về việc xảy ra đêm đó ở Savannah. Tất cả đều quay về với Andrew Capra.





      MƯỜI SÁU




      Ở trung tâm thành phố Mexico, máu người từng chảy qua. Bên dưới thủ đô đại là đống đổ nát của khu đền Mayor, khu vực lớn nhất của tộc người Ax-tec, những người thống trị toàn bộ vùng đất Tenochtikm. Tại đây, hàng nghìn những nạn nhân xấu số bị cống hiến cho Chúa.


      Vào hôm ta đến khu đất cũ của ngôi đền, ta cảm thấy khá thích thú với nhà thờ lớn gần đó. Ở đó có những ánh nến của đạo Thiên chúa và những người cầu nguyện thầm xin Chúa rủ lòng lành. Họ quỳ chính nơi mà trước khi những tấm đá trơn nhẫy vì máu. Ta đến đó vào chiều thứ bảy. Ta biết là thứ bảy họ miễn vé cho người đến thăm.


      Bảo tàng Đền Mayor đầy trẻ con. Những giọng lanh lảnh của chúng vang vọng khắp dãy hành lang. Ta quan tầm đến trẻ con hay những thứ lộn xộn chúng gây ra và nếu có dịp trở lại, ta thăm Bảo tàng vào thứ bảy.


      Nhưng hôm đó là ngày cuối cùng của ta trong chuyến thăm thành phố. Vì vậy ta chịu đựng tiếng ồn. Ta muốn xem khu khai quật. Ta muốn tham quan sảnh đường số hai. Đó là Sảnh đường tổ chức Nghi lễ và Tế thần.


      Những người Ax-tec tin rằng cái chết rất cần cho sống. Để duy trì năng lượng vĩnh cửu cho thế giới, để tránh tai ương và bảo đảm mặt trời mọc mỗi ngày, những vị thần phải ăn những quả tim người. Ta đứng ở Sảnh đường Nghi lễ và thấy trong lồng kính có con dao tế thần cứa vào xác thịt của con người. Nó có tên là: Tecpatl Ixcuahua, nghĩa là Con dao có Bản rộng. Nó được chế tạo từ đá lửa, tay cầm có hình người quỳ.


      Ta tự hỏi làm sao họ có thể cắt quả tim người bằng con dao đá như vậy?


      Câu hỏi đó ám ảnh ta khi ta bộ ở Trung tâm Alameda vào tầm chiều muộn hôm đó. Ta để ý đến bọn trẻ bẩn thỉu lõng nhõng theo ta xin tiền xu. lúc sau, chúng nhận ra là ta bị lừa phỉnh bởi những cặp mắt nâu và những nụ cười nhe răng. Vì vậy chúng để ta yên. Cuối cùng, ta cũng được chút yên tĩnh - giả sử như điều đó tồn tại ở thành phố Mexico náo nhiệt này. Ta tìm quán cà phê, ngồi xuống chiếc bàn gần cửa sổ và nhấm nháp cà phê. Người duy nhất phải đứng ngoài nắng là viên cảnh sát tuần tra. Ta khao khát hơi ấm, nó giúp làn da sần sùi của ta mềm lại. Ta thấy loài bò sát tìm những viên đá ấm. Vì vậy, vào ngày oi bức đó, ta uống cà phê và suy nghĩ về ngực của con người. Ta tự hỏi làm cách nào để tiếp cận tốt nhất với vật đập bên trong đó.


      Nghi lễ tế thần của người Ax-tec được mô tả diễn ra rất nhanh, chỉ hơi đau đớn và điều này tượng trưng cho việc khó xử. Ta biết việc đập vỡ xương ức, xé toang lồng ngực như tấm khiên bảo vệ quả tim bên trong là công việc hề dễ dàng. Các bác sỹ tim mạch rạch đường dọc theo ức và dùng cưa xẻ đôi phần ngực. Họ có người giúp họ tách phần xương làm đôi. Họ dùng những dụng cụ phức tạp để mở rộng ổ bụng. Mỗi dụng cụ đó đều được làm bằng chất liệu thép gỉ đại.


      thầy tu người Ax-tec chỉ cầm con dao đá gặp khó khăn nếu sử dụng phương pháp đó. Ông ta cần cái đục để làm vỡ xương ức, chọc thẳng vào giữa ngực. Nạn nhân giãy giụa, và la hét rất dữ dội.


      , quả tim chắc chắn được lấy ra bằng cách khác.


      đường rạch ngang xương sườn, dọc hai bên chăng? Cách này cũng có vấn đề. Bộ xương người là cấu trúc cứng cáp. Để tách hai xương sườn đủ rộng để cho tay vào cần sức khỏe và những dụng cụ đặc biệt. Liệu phương pháp sau có khả thi ? đường rạch rất gọn xuống bụng mở khoang bụng. Tất cả những gì các thầy tu cần làm là cắt đứt cơ hoành và thọc tay lên gần quả tim. À, nhưng đây là phương án được gọn gàng cho lắm, vì ruột xổ ra bệ thờ. Trong các bức tranh khắc đá cửa người Ax-tec, bức tranh nào có hình ảnh vẽ nạn nhân bị lòi ruột.


      Sách là những vật kỳ thú: chúng có thể cho ta biết bất cứ điều gì, tất cả mọi điều, thậm chí là làm cách nào để cắt quả tim bằng dao đá và để lại đống lộn xộn. Ta tìm thấy câu trả lời trong cuốn sách tựa đề hy sinh và những cuộc chiến của con người. Nó được viết bởi học giả, người đàn ông tên là Sherwood Clarke. (Dạo này trường học của ta rất hay ho!). Ta rất muốn gặp ông ấy ngày nào đó.


      Ta nghĩ chúng ta có thể dạy cho nhau nhiều điều.


      Ông Clarke người Ax-tec dùng cách cắt ngang để lấy quả tim. Vết thương rạch ngang phần ngực trước, bắt đầu ở giữa xương sườn số hai và số ba, ở bên xương ức. Ta rạch ngang xương ức sang bên kia. Xương bị tách ra theo chiều ngang, có thể bằng cách dùng cái đục và cú đập mạnh. Kết quả cho ta lỗ thủng mở ngoác ra. Phổi bị tiếp xúc với khí bên ngoài nên lập tức ngừng hoạt động. Nạn nhân nhanh chóng bất tỉnh. Trong khi tìm vẫn còn đập, thầy tu cho tay vào khoang ngực, dứt đứt động mạch và mạch máu. Ông ta giật đứt quả tim vẫn co thắt khỏi phần cuống đầy máu và giơ lên trời.


      Vì vậy việc đó được mô tả trong cuốn Bernadino de Sahagan của tác giả Coclex Florentino, cuốn sách đó tên là Sơ lược lịch sử của Tân Tây Ban Nha:


      Thầy tu cúng tế giơ cao thanh gậy,


      Đặt nó lên ngực người bị bắt giữ,


      từng có quả tim ở đó,


      Cây gậy bị nhuốm máu và thực chìm trong máu.


      Rồi vị thầy tu giơ cây gậy nhuốm máu về phía mặt trời


      Thầy tu : “Mặt trời, xin hãy uống


      Và người bắt giữ lấy máu của người bị bắt,


      Đựng trong chiếc bát xanh có lông vũ viền quanh.


      Những thầy tu cúng tế đổ máu vào cái bát.


      Rồi máu đổ lên cây gậy rỗng, cũng có lông vũ viền quanh


      Và những người bắt giam hiến máu cho quỷ dữ.




      Hiến máu cho quỷ dữ.


      Máu có ý nghĩa lớn lao.


      Ta nghĩ về việc này khi ta nhìn sợi chỉ được nhúng vào chiếc ống hút như lỗ kim. Quanh ta là những ống nghiệm và tiếng máy lì rì trong khí. Những người cổ xưa coi máu là vật hiến tế thiêng liêng, là vật chứa đựng sống, là thức ăn của quỷ dữ. Ta và họ có chung đam mê với máu, mặc dù ta hiểu đó chỉ là chất dịch sinh học, chuỗi các tế bào được liên kết bởi huyết tương. Đây là thứ ta làm việc và tiếp xúc hàng ngày.


      Trung bình, người nặng bảy mươi cân có năm lít máu. Trong đó, bốn mươi lăm phần trăm là tế bào máu, còn lại là huyết tương. Đó là súp hóa học được tạo thành từ mười lăm phần trăm nước, còn lại là pro-tê-in, chất điện phân và chất dinh dưỡng. số người rằng nếu giới hạn nó vào bộ phận sinh học việc đó làm mất bản chất thiêng liêng của nó. Nhưng tôi đồng ý với ý kiến đó. Khi nhìn chúng như những khối chất kết cấu chúng ta mới nhận ra những đặc tính tuyệt vời của nó.


      Chiếc máy kêu. Đó là tín hiệu cho biết máy phân tích xong, tờ kết quả cuộn ra từ máy in. Ta xé tờ giấy, xem kết quả.


      Chỉ cần nhìn qua, ta biết nhiều điều về bà Susan Carmichael, người ta chưa gặp bao giờ. Nồng độ hồng cầu của bà ta rất thấp - chỉ ở mức hai mươi tám, trong khi mức độ bình thường là bốn mươi. Bà ta bị thiếu máu, thiếu các tế bào máu màu đỏ bình thường. Chúng chính là các tế bào vận chuyển ô-xi. Đó là pro-tê-in hemoglobin được bao bọc trong các tế bào hình đĩa. Nó khiến máu chúng ta có màu đỏ, làm đỏ viền mắt và làm hồng đôi má của những . Viền mắt của bà Carmichael tái xám. Nếu lật ngược mí mắt của bà ta màng kết chỉ có màu hồng rất nhạt. Do bà ta bị thiếu máu nên tim phải đập nhanh hơn để bơm máu vào các động mạch. Vì vậy mới leo được vài bậc cầu thang, bà ta phải dừng lại lấy hơi, và làm mạch chậm lại. Ta hình dung ra bà ta cúi về phía trước, tay ôm cổ, ngực đập như trống dồn. Bất cứ ai thấy bà ta leo cầu thang đều nhận thấy bà ta khỏe.


      Chỉ cần nhìn tờ giấy này, ta hình dung ra điều đó.


      Còn nữa! Miệng bà ta có những đốm đỏ - đó là các đốm xuất huyết. Ở đó máu bị vỡ qua những mao mạch và tụ lại dưới lớp màng mỏng. Có lẽ bà ta nhận ra chứng xuất huyết như mũi kim đó. Có lẽ bà ta chú ý đến tượng đó ở bộ phận nào đó cơ thể như dưới móng tay, hay dưới ống quyển. Có lẽ bà ta thấy những vết thâm tím mà bà ta thể gỉải thích nổi. Có những vệt màu xanh đậm khó hiểu cánh tay và đùi bà ta. Bà ta nghĩ nghĩ lại xem có thể mình bị thương ở đâu. Liệu có phải do ba ta vấp vào cửa ô tô ? Hay đứa bé nào đó bám chặt vào đùi bà ta? Bà ta tìm những nguyên nhân bên ngoài, trong khi nguyên nhân lại nấp trong mạch máu.


      Số lượng tiểu huyết cầu của bà ta là hai nghìn. Lẽ ra nó phải cao gấp mười lần. Nếu có tiểu huyết cầu, các tế bào hình thành nên cấc vết máu tụ và chỉ cần va chạm để lại vết thâm tím.


      Vẫn còn nhiều điều có thể biết được từ tờ giấy này.


      Ta quan sát các tế bào máu dị thường và thấy nguyên nhân chứng bệnh của bà ta. Máy xét nghiệm phát ra tượng rối loạn bạch cầu, đó là dạng nguyên thủy của tế bào máu và nó vốn có trong mạch máu. Susan Carmichael mắc bệnh rối loạn bạch cầu cấp tính.


      Ta hình dung ra cuộc sống của bà ta diễn ra trong những tháng sau này. Ta thấy bà ta nằm bàn điều trị. Mắt bà ta nhắm nghiền vì đau đớn khi những chiếc kim cắm ngập vào xương tủy bên hông bà ta.


      Ta thấy tóc bà ta rụng thành đống cho đến khi bà ta khuất phục trước điều tất yếu. Đó là dùng đến dao cạo bằng điện.


      Ta thấy những buổi sáng, bà ta bò toài bên bệ nhà vệ sinh và những ngày dài đằng đẵng nhìn lên trần nhà. Vũ trụ của bà ta thu lại trong bốn bức tường trong phòng ngủ.


      Máu là sống, là chất lỏng kỳ diệu duy trì sống của chúng ta. Nhưng máu của Susan Carmichael quay lại chống bà ta, nó như chất độc chảy trong mạch máu bà ta.


      Ta biết hết những chi tiết vụn vặt nhất về bà ta mà cần gặp bà ta lấy lần.


      Ta chuyển kết quả phân tích máu bằng fax cho bác sỹ điều trị của bà ta, cho báo cáo thí nghiệm vào ngăn hồ sơ để nghiên cứu sau này. Rồi ta lấy mẫu máu tiếp theo, lại bệnh nhân khác, ống nghiệm khác.


      Mối liên hệ mật thiết giữa máu và sống được con người biết đến từ thuở sơ khai. Người xưa biết rằng máu được tạo ra bên trong tủy. Phần lớn chất tạo nên máu chỉ là nước nhưng họ đề cao sức mạnh của nó trong các nghi lễ và lễ hiến tế. Người Ax-tec dùng dụng cụ đục thủng xương, những cái kim làm từ cây thùa để đâm vào da mình, lấy máu. Họ đục lỗ mô, lưỡi hay ngực. Cuối cùng họ có máu của chính họ để dâng hiến lên thần linh. nay, việc tự cắt cơ thể mình như vậy được coi là bệnh hoạn, kỳ quái và là biểu của bệnh điên.


      Ta tự hỏi người Ax-tec nghĩ gì về chúng ta.


      Ta ngồi đây, trong gian tiệt trùng tuyệt đối toàn màu trắng toát. Tay ta đeo găng để bảo vệ ta khỏi những chất dịch bị đổ ra. Chúng ta làm mất bản chất cốt lõi của mình từ khi nào? Chỉ cần nhìn thấy máu, số kẻ ngất xỉu. Người ta vội vã che giấu cho người khác biết nỗi sợ đó. Họ rửa sạch những vỉa hè dính máu, hay che mắt trẻ con khi có cảnh bạo lực ti vi. Con người thực quên mất họ thực là ai và là gì thế giới này.


      Tuy nhiên, vài người trong số chúng ta vẫn chưa quên.


      Chúng ta thuộc số còn lại, bình thường ở mọi phương diện; có lẽ chúng ta bình thường hơn bất cứ ai khác, vì chúng ta cho phép mình bị bao bọc, bị ướp xác trong những lố băng tiệt trùng của nhân loại văn minh. Chúng ta thấy máu, và quay . Chúng ta nhận ra vẻ đẹp huyền bí của nó, chúng ta cảm thấy sức lôi cuốn nguyên thủy của nó.


      Bất cứ ai thấy tai nạn khi lái xe và thể cưỡng lại mong muốn nhìn thấy máu hiểu điều này. Đằng sau nỗi sợ hãi, sau thôi thúc muốn quay sức mạnh lớn hơn. Đó là lôi cuốn.


      Tất cả chúng ta. đều muốn nhìn. Nhưng phải tất cả chúng ta đều dám thú nhận điều đó.


      đơn khi lại quanh những kẻ bị hôn mê. Vào buổi chiều, ta lang thang trong thành phố và hít thở khí. khí dày đặc đến nỗi dường như ta nhìn thấy nó. Nó khiến phổi ta như nước ngọt bị đun nóng. Ta nhìn những mặt người phố. Ta tự hỏi có ai trong số họ là em có quan hệ máu mủ thân thiết với ta, giống như bạn trước đây. Có ai vẫn chưa mất sức mạnh nguyên thủy vốn chảy trong người chúng ta? Ta tự hỏi chúng ta có nhận ra nhau nếu gặp nhau . Ta e là , vì chúng ta giấu mình trong những chiếc áo choàng để vượt qua tiêu chuẩn bình thường.


      Vì vậy ta mình. Và ta nghĩ về , người duy nhất từng hiểu ta.

    5. vulinh

      vulinh Well-Known Member

      Bài viết:
      20,019
      Được thích:
      24,221
      MƯỜI BẢY




      Là bác sỹ chuyên khoa, Catherine nhiều lần chứng kiến cái chết và hình ảnh của nó quen thuộc với . nhìn khuôn mặt bệnh nhân, thấy đôi mắt mất dần sống. Chúng trống rỗng và vô hồn. thấy nước da họ chuyển thành màu xám, phần hồn của họ bị rút hết vào trong và bị ngấm dần như máu. Việc thực tập của ngành y được thực người chết nhiều tương đương người sống. Từ lâu. Catherine quen với những gì lạnh lẽo còn lại của bệnh nhân chết. sợ những xác chết.


      Nhưng khi Moore rẽ vào phố Albany, thấy tòa nhà bằng gạch. Đó là văn phòng Xét nghiệm tử thi. Tay ướt đẫm mồ hôi.


      đậu ở khu đỗ xe sau tòa nhà, cạnh chiếc xe tải màu trắng, bên xe có dòng chữ “Hội đồng Massachussetts. Văn phòng khám nghiệm tử thi”. muốn rời ô tô. Cuối cùng, khi vòng ra sau mở cửa, mới bước ra.


      - sẵn sàng cho việc này chưa? - hỏi.


      - Tôi muốn chút nào - thú nhận - Nhưng hãy vượt qua chuyện này!


      Mặc dù chứng kiến hàng chục lần khám nghiệm tử thi nhưng khi họ bước vào phòng khám nghiệm, chưa hoàn toàn chuẩn bị tâm lý để ngửi thấy mùi máu và cắt đứt những đoạn ruột khi chúng xổ ra. Lần đầu tiên trong nghề y của mình nghĩ nôn mửa khi nhìn thấy tử thi.


      người đàn ông già dặn hơn quay lại nhìn họ. Mắt được bảo vệ bởi tấm kính nhựa. nhận ra bác sỹ chuyên khoa Ashford Tierney. gặp tại cuộc hội thảo y học hình sáu tháng trước. Những ca thất bại của bác sỹ phẫu thuật chấn thương luôn được đưa đến phòng khám nghiệm tử thi của bác sỹ Tierney. Lần cuối cùng chuyện với cách đây tháng. Lần đó có liên quan đến những chi tiết gây tranh cãi về cái chết của đứa bé bị thủng lá lách.


      Nụ cười hiền từ của bác sỹ Tierney tương phản nét với đôi găng tay cao su đầy máu đeo.


      - Bác sỹ Cordell, vui khi gặp lại - dừng lại khi chợt nhận ra ý châm biếm trong câu đó - Mặc dù vui hơn nếu gặp trong hoàn cảnh khác.


      - bắt đầu mổ rồi sao? - Moore ngạc nhiên.


      - Trung úy Marquette muốn có câu trả lời ngay lập tức - Tierney giải thích - Mỗi lần cảnh sát bắn tội phạm báo chí lại dí dao vào cổ ông ấy.


      - Nhưng tôi gọi trước để sắp xếp vụ này.


      - Bác sỹ Cordell chứng kiến nhiều lần mổ tử thi trước đây. Lần này chẳng có gì mới với ấy. Hãy để tôi rạch nốt đường này, rồi ấy có thể nhìn mặt tử thi.


      Tierney quay sang chú ý phần bụng. dùng dao mổ, rạch, rồi cắt bỏ xong phần ruột , lôi ra đống ruột, bỏ vào chậu thép. tránh xa cái bàn, gật đầu với Moore.


      - Tiếp !


      Moore cầm tay Catherine. miễn cưỡng lại gần cái xác. Đầu tiên, chú ý vết mổ ngoác to. Phần bụng bị mổ quen nhìn thấy. Bên trong có các bộ phận mà ai cũng có và bất cứ người lạ nào cũng có thể có những đống mô đó. Các bộ phận cơ thể có ý nghĩa cảm xúc gì, phải là con tem có dấu nhận dạng riêng của mỗi người. có thể xem xét chúng bằng con mắt khách quan của chuyên gia. Và làm vậy. thấy dạ dày, lá lách và gan vẫn ở nguyên vị trí và chờ được cắt rời thành khối, vết cắt hình chữ Y kéo dài từ cổ đến xương chậu làm lộ ra cả khoang ngực và khoang bụng. Tim và phổi bị cắt rời, khiến phần ngực chỉ còn là khoang trống rỗng. thành ngực thấy hai vết thương do đạn gây ra. vết thương nằm ngay núm vú trái, vết còn lại cách đó mấy đốt xương sườn, cả hai viên đạn chắc chắn xuyên qua lồng ngực, găm vào tim hoặc phổi. Ở phần bụng bên trái phía còn có vết thương khác, dẫn thẳng đến chỗ có lá lách, vết thương đó cũng rất hiểm. Dù ai bắn Karl Pacheco người đó có ý giết .


      - Catherine? - Moore nhắc. nhận ra mình im lặng khá lâu.


      hít sâu và ngửi thấy mùi máu, mùi thịt ướp lạnh. Giờ khá quen với những phần nội tạng của Karl Pacheco, đến lúc xem mặt .


      thấy mái tóc màu đen, khuôn mặt dài, mũi nhọn như sống dao. Những thớ cơ ở cằm mềm nhão, miệng há hốc, răng thẳng. Cuối cùng, nhìn mắt . Moore gì với về người đàn ông này. chỉ tên và bị cảnh sát bắn trong khi trốn chạy. có phải là Bác sỹ phẫu thuật ?


      Giác mạc mắt mờ đục sau khi chết và chúng gợi cho nhớ điều gì. nhìn kỹ mặt , cố cảm nhận tội ác còn sót lại thi thể của Karl Pacheco. Nhưng cảm thấy gì. Các xác này trống rỗng và có dấu vết gì của những người gặp.


      .


      - Tôi biết người này - và ra khỏi phòng.


      chờ ở ngoài xe khi Moore ra khỏi tòa nhà. Hai lá phổi của ứ đầy xú uế trong phòng mổ tử thi. cố hít khí nóng như thiêu đốt, như thể muốn xóa hết mùi chết chóc. Dù bây giờ vã mồ hôi nhưng hơi lạnh của tòa nhà lắp điều hòa đó ăn sâu vào xương , sâu đến tủy.


      - Karl Pacheco là ai? - hỏi.


      quay , nhìn về phía bệnh viện Hành hương và nghe thấy tiếng xe cứu thương ngày càng .


      - tên săn .


      - Đó có phải là Bác sỹ phẫu thuật ?


      Moore thở dài.


      - Có vẻ như phải.


      - Nhưng nghĩ là có thể đó chính là .


      - Các dấu vết ADN của khớp với ADN tìm thấy cơ thể Nina Peyton. Hai tháng trước, cưỡng bức ấy. Nhưng chúng ta có bằng chứng để kết nối với vụ của Elena Ortiz hay Diana Sterling. Chẳng có bằng chứng gì chứng tỏ xâm nhập vào cuộc sống của họ.


      - Hoặc của chính tôi.


      - chắc là chưa từng gặp chứ?


      - Tôi chỉ chắc là tôi nhớ .


      Mặt trời thiêu đốt, khiến ô tô của họ càng nóng hơn. Họ đứng đó, mở cửa xe để bên trong nguội bớt. Khi nhìn Moore ở bên kia mui xe, thấy rất mệt mỏi. Áo sơ mi của lấm tấm mồ hôi. Đây là cách hay ho để giết thời gian vào chiều thứ bảy. đưa nhân chứng đến nhà xác. Cảnh sát và bác sỹ giống nhau ở nhiều điểm. Họ làm việc trong nhiều giờ đồng hồ và có tiếng chuông báo hết ngày làm việc vào lúc năm giờ. Họ gặp gỡ mọi người vào những khi trời tối và cơ thể rã rời. Họ thấy những cơn ác mộng và phải học cách sống cùng nó.


      mang theo những cơn ác mộng gì? tự hỏi khi đưa về. Bao nhiêu khuôn mặt của các nạn nhân, bao nhiêu trường các vụ giết người được lưu trữ trong bộ nhớ hình ảnh của ? chỉ là yếu tố trong vụ án này. băn khoăn về tất cả những nạn nhân khác, cả người còn sống và người chết, được quan tâm thế nào?


      dừng xe trước khu chung cư của rồi tắt máy. nhìn lên cửa sổ căn hộ, muốn bước ra khỏi xe, muốn về. Trong những ngày vừa qua, họ ở bên nhau rất nhiều, tin cậy vào sức mạnh và lòng tốt của . Nếu họ gặp nhau trong những hoàn cảnh vui vẻ hơn chỉ riêng vẻ đẹp trai của cũng khiến chú ý rồi. Lúc này, điều quan trọng nhất với phải là lôi cuốn của , thậm chí cũng phải thông minh của mà chính là những gì trong trái tim . Đây là người đàn ông có thể tin tưởng.


      cân nhắc những lời tiếp theo và nghĩ xem những lời đó có thể dẫn tới điều gì. Và cuối cùng, thèm để ý đến hậu quả của nó.


      khẽ.


      - muốn vào uống chút gì đó ?


      trả lời ngay. thấy đỏ mặt vì im lặng của có ý nghĩa mà thể chịu đựng nổi. đấu tranh để đưa ra quyết định, cũng hiểu giữa họ sắp có chuyện gì và chắc có nên làm vậy hay .


      Cuối cùng, nhìn .


      - Có, tôi muốn uống chút gì đó - cả hai đều biết việc đó chỉ là uống nước.


      Họ vào cánh cửa chỗ đại sảnh. Tay khoác lấy . Đó chỉ là hành động bảo vệ. Tay đặt thoải mái vai . cảm nhận được hơi ấm của . Điều đó làm lúng túng và loay hoay với mật mã an ninh. mong đợi khiến chậm chạp và vụng về. Khi lên tầng hai, tay run rẩy mở cửa. Họ bước vào trong, tận hưởng mát mẻ phả ra từ máy điều hòa. chỉ dừng lại lúc để đóng cửa và chốt khóa.


      Rồi ôm vào lòng.


      lâu lắm rồi mới được người đàn ông ôm. có thời, ý nghĩ về cánh tay của người đàn ông ôm lấy mình khiến hoảng sợ. Nhưng trong vòng tay Moore, chút hoảng loạn. đáp lại bằng nụ hôn khiến cả hai đều ngạc nhiên. bị cướp hết tình thương quá lâu đến nỗi mất hết khao khát. Chỉ lúc này, mỗi bộ phận trong cơ thể mới trỗi dậy. nhớ cảm giác khao khát là như thế nào. Môi háo hức tìm môi như phụ nữ đói khát. đẩy dọc hành lang vào phòng ngủ, hôn trong suốt thời gian đó. là người chủ động cởi áo sơ mi và tháo dây lưng của . biết nên quá mạnh mẽ, nếu sợ. Vì thế, trong lần đầu tiên này, phải là người chủ động. Nhưng thể giấu kích động của mình và cảm thấy điều đó khi kéo khóa và quần tụt xuống.


      đưa tay lần cúc áo khoác của rồi dừng lại nhìn . Ánh mắt và hơi thở gấp gáp của cho thấy muốn gì. Chiếc áo khoác từ từ mở ra, tuột khỏi vai . Áo lót rơi xuống sàn nhà. làm việc đó hết sức nhàng. đánh đổ mọi thái độ cảnh giác của mà để nhàng đón nhận. Đó là tự do. nhắm mắt và thở mạnh sung sướng khi cúi xuống hôn ngực . Đó phải là hành động xâm phạm, mà là thái độ tôn trọng .


      Và như vậy, lần đầu tiên trong vòng hai năm, Catherine cho phép người đàn ông làm tình với . ý nghĩ nào về Andrew Capra xâm nhập vào đầu khi và Moore nằm giường. chút hoảng loạn, ký ức đáng sợ nào trở lại khi họ cởi bỏ lớp quần áo cuối cùng và sức nặng cơ thể đè lên tấm nệm. Điều mà người đàn ông khác làm với là hành động bạo lực. Nó liên quan gì với giây phút này và với cơ thể của tận hưởng. Bạo lực phải là tình dục, tình dục phải là tình . Tình là những gì cảm nhận được khi Moore tan vào , tay ôm mặt , mắt nhìn đắm đuối. quên mất khoái lạc mà đàn ông có thể đem đến cho . đánh mất mình trong giây phút và tận hưởng niềm hạnh phúc như thể đây là lần đầu tiên.


      Trời tối khi thức dậy trong vòng tay . thấy cựa mình và hỏi.


      - Mấy giờ rồi em?


      - Tám giờ mười lăm.


      - Ồ - cười ngạc nhiên và nằm sấp xuống - tin nổi là chúng ta ngủ cả buổi chiều. nghĩ ngủ nổi.


      - Lâu lắm rồi được ngủ mà.


      - Ai mới cần ngủ đây?


      - như bác sỹ vậy.


      - Chúng ta có những điểm giống nhau - Tay chầm chậm tìm cơ thể - cả hai chúng ta đều mất cảm giác này từ lâu lắm…


      Họ nằm im lúc. Rồi khẽ hỏi.


      - Em thấy thế nào?


      - hỏi em làm tình thế nào ư?


      - . Ý là em cảm thấy thế nào? Khi chạm vào em.


      cười.


      - Rất tuyệt!


      - có làm sai chuyện gì ? có khiến em sợ ?


      - làm em thấy an toàn. Đó là điều em cần, chỉ có thế. Em nghĩ là người đàn ông duy nhất hiểu được điều đó. Em nghĩ là người đàn ông duy nhất em có thể tin tưởng.


      - Vài người cũng đáng tin.


      - Đúng, nhưng là ai? Em biết họ.


      - Em biết được cho đến khi em có động lực. Người đó là người luôn ở bên em.


      - Vậy em nghĩ em bao giờ tìm thấy người đó. Em nghe những phụ nữ khác rằng: chỉ cần bạn kể với người đàn ông chuyện gì xảy ra với bạn, ngay khi bạn dùng từ cưỡng bức, người đó quay . Như thể chúng ta là những thứ đồ bị hỏng. Đàn ông muốn nghe chuyện đó. Họ thích im lặng hơn là lời thú nhận. Nhưng im lặng cứ lan tỏa. Nó xâm chiếm bạn cho đến khi bạn thể được gì nữa. Toàn bộ cuộc đời bạn trở thành chủ đề cấm kỵ.


      - ai có thể sống như vậy.


      - Đó là cách duy nhất mà những người khác có thể chịu đựng khi ở quanh chúng ta. Miễn là chúng ta im lặng. Nhưng dù em về chuyện đó, nó vẫn tồn tại.


      hôn . Và cử chỉ đơn giản đó là cử chỉ thân thiết nhất của tình . Bởi vì nó xuất phát từ thông cảm với những lời bộc bạch của .


      - ở đây cùng em đêm nay chứ? - thầm.


      Hơi thở ấm nóng của phả vào tóc .


      - Nếu em cho ăn tối.


      - Ôi! Em quên khuấy mất chuyện ăn uống.


      - Đàn ông và phụ nữ có những điểm khác hiệt. Đàn ông bao giờ quên ăn.


      cười rồi ngồi dậy.


      - Vậy pha đồ uống. Em nấu ăn.


      pha hai cốc rượu mac-ti-ni. Họ nhấm nháp rượu khi trộn rau sống và xếp những miếng thịt bò lên vỉ nướng. Đồ ăn cho nam giới, nghĩ và thấy buồn cười. Đây là miếng thịt đỏ tươi dành cho người đàn ông mới trong đời . Chưa bao giờ thấy việc nấu nướng lại vui như tối nay. Moore cười khi đưa cho muối, lọ tiêu. cười nghiêng ngả. nhớ nổi lần cuối cùng ăn bữa ngon như vậy là khi nào. Như thể vừa thoát khỏi cái chai bịt kín và tận hưởng cả mùi thơm và hương vị lần đầu tiên.


      Họ ngồi ăn ở bàn bếp, nhấm nháp rượu. Căn bếp của với những viên gạch ốp trắng tinh và những ngăn tủ cũng trắng tinh đột nhiên sáng lên vì màu sắc đó. Rượu đỏ như ngọc ru bi, rau diếp giòn tan như khoai tây chiên và khăn ăn kẻ sọc xanh. Moore ngồi đối diện với . từng nghĩ người nhạt nhẽo như bất cứ người đàn ông có nét gì đặc biệt khi họ thoáng qua đường phố. Họ chỉ là những nét vẽ phác họa vải vẽ. Chỉ lúc này mới thực nhìn kỹ . Da ấm áp, hồng hào, những nếp nhăn vòng quanh khóe mắt khi cười. Tất cả những khiếm khuyết khuôn mặt đó đều hài hòa cách kỳ lạ.


      Chúng ta có trọn đêm, nghĩ, và viễn tưởng về những ngày tiếp theo khiến nở nụ cười. đứng lên, lại gần và ôm cổ .






      Bác sỹ Zucker dừng đoạn băng hỏi cung của bác sỹ Polochek, quay lại nhìn Moore và Marquette.


      - Đó có thể là ký ức sai. Cordell tưởng tượng ra giọng thứ hai hề tồn tại. Các vị thấy đấy, thuật thôi miên cũng có vấn đề. Ký ức là thứ bền vững. Nó có thể bị thay đổi, được sửa lại cho khớp với mong muốn. ấy rơi vào quá trình khiến ấy tin rằng tên Andrew Capra có đồng bọn. Và tách cái, ký ức đó xuất ! Đó là giọng thứ hai, người đàn ông thứ hai trong nhà - Zucker lắc đầu - tin được.


      - chỉ ký ức của ấy chứng tỏ có tên tội phạm thứ hai - Moore - gửi đoạn tóc của ấy. Mà chỉ có thể lấy được túm tóc đó ở Savannah.


      - ấy tóc ấy bị cắt ở Savannah - Marquette biện luận.


      - Ông cũng tin ấy phải ?


      - Trung úy rất đúng - Zucker - Trong vụ này, chúng ta gặp yếu đuối về mặt tình cảm. Thậm chí hai năm sau vụ tấn công nhưng ấy vẫn chưa ổn định lại được.


      - ấy là bác sỹ phẫu thuật chấn thương.


      - Đúng vậy. ấy làm việc rất tốt ở bệnh viện. Nhưng ấy bị tổn thương. biết điều đó. Vụ tấn công để lại dấu ấn.


      Moore im lặng, nghĩ về ngày đầu tiên gặp Catherine. Những cử chỉ của rất chính xác và tự tin. Đó là phụ nữ khác hẳn với vô tư lự trong suốt quá trình thôi miên. Đó là Catherine khi còn trẻ, vui đùa dưới ánh nắng khu đậu thuyền của ông bà. Vì đêm qua, Catherine tươi trẻ hạnh phúc lao vào vòng tay . nằm trong tay rất lâu. bị giữ lại trong vỏ sò cứng cáp đó, chờ thả ra.


      - Vậy việc thôi miên này giúp ích gì cho chúng ta? - Marquette hỏi.


      Zucker .


      - Tôi ấy tin điều đó. ấy nhớ chính xác việc đó. Việc đó giống như việc với đứa bé là có con voi ở sân sau. lúc sau, đứa bé tin điều đó đến mức nó có thể miêu tả cái vòi, những cọng rơm lưng con voi và cái ngà bị sứt. Ký ức đó biến thành thực thậm chí việc đó chưa hề tồn tại.


      - Chúng ta thể phủ nhận hoàn toàn ký ức - Moore bác lại - Có thể hai ví dụ tin tưởng Catherine nhưng ấy là trung tâm chú ý của tên sát nhân. Việc tên Capra bắt đầu là cưỡng bức, rồi giết hại vẫn chưa dừng lại. Nó theo ấy đến tận đây.


      - kẻ bắt chước chăng - Marquette đưa ra giả thiết - Hay tên đồng bọn.


      Moore .


      - Trước đây có chuyện này rồi.


      Zucker gật đầu.


      - Việc có đồng bọn của những tên sát nhân phải là chuyện lạ. Chúng ta nghĩ những tên sát nhân hàng loạt như những con sói đơn độc, nhưng có đến phần tư những vụ giết người hàng loạt lại do đồng bọn của chúng thực . Henry Lee Lucas đồng bọn. Kenneth Bianchi cũng vậy. Điều đó khiến bọn chúng hoạt động dễ dàng hơn, chủ động và kiểm soát hơn. Đó là chuyến săn phối hợp để đảm bảo thành công.


      - Những con sói săn cùng nhau - Moore - Có thể Capra cũng làm vậy.


      Marquette cầm điều khiển, ấn nút tua lại và nhấn nút chạy. màn hình ti vi Catherine ngồi nhắm mắt tay thả lỏng. “Ai câu đó, Catherine? Ai “Đến lượt tôi, Capra?” “Tôi biết. Tôi nhận ra giọng đó.”


      Marquette nhấn nút dừng, khuôn mặt Catherine bất động màn hình.


      Ông nhìn Moore.


      - hai năm trôi qua kể từ khi ấy bị tấn công ở Savannah. Nếu là đồng bọn của Capra tại sao lại phải chờ lâu như vậy mới gây áp lực với ấy? Tại sao bây giờ việc đó mới xảy ra?


      Moore gật đầu.


      - Tôi cũng băn khoăn về điều đó. Tôi nghĩ là tôi tìm ra câu trả lời - mở tập hồ sơ mà mang đến buổi họp hôm nay, lấy ra bài báo được xé ra từ tạp chí Boston toàn cẩu - Bài báo này xuất mười bảy ngày trước vụ tấn công của Elena Ortiz. Bài báo viết về các nữ bác sỹ phẫu thuật ở Boston. phần ba bài báo dành cho bác sỹ Catherine Cordell, về thành công và những gì ấy đạt được. Cộng thêm bức ảnh màu của ấy - đưa bài báo cho Zucker.


      - Giờ mọi chuyện mới thú vị đây - Zucker - thấy gì khi nhìn bức ảnh này, Moore?


      - phụ nữ lôi cuốn.


      - Còn gì nữa? Phong thái và vẻ mặt ấy cho thấy điều gì?


      - tự tin - dừng lại - Và xa cách.


      - Đó cũng là điều tôi thấy. phụ nữ đứng đầu trong ngành của mình. phụ nữ thể chạm đến được, tay khoanh trước ngực, cằm hếch cao và cái chết cũng thể chạm đến ấy.


      - Ý là sao? - Marquette hỏi.


      - Hãy nghĩ xem việc gì khiến tên sát nhân của chúng ta trở lại. Những người phụ nữ bị tổn thương, bị vấy bẩn sau vụ cưỡng bức. Những người phụ nữ bị tàn phá nếu cách bóng bẩy. Và Catherine Cordell ở đây, người phụ nữ giết chết đồng bọn của , Andrew Capra. Trông ấy hề có vẻ bị tổn thương. Trông ấy giống nạn nhân. , trong bức ảnh này, trông ấy như người chiến thắng. nghĩ cảm thấy gì khi nhìn hức ảnh?


      - Tức giận.


      - chỉ tức giận, thưa ngài thám tử. Mà đó là nỗi tức giận điên cuồng, thể kiểm soát nổi. Sau khi ấy rời Savannah, theo ấy đến Boston. Nhưng thể tiếp xúc với ấy vì ấy tự vệ. Vì vậy chờ cơ hội tốt để giết những mục tiêu khác. Có thể tưởng tượng ra Cordell là phụ nữ bị tổn thương, sinh vật còn là người nữa, chờ đợi để bị biến thành nạn nhân. Rồi hôm, mở cuốn tạp chí, thấy tận mặt . Nhưng ấy phải là nạn nhân, ấy là con chó cái khốn kiếp giành ưu thế - Zucker trả lại bài báo cho Moore - Tên sát nhân cố dìm ấy xuống. dùng nỗi sợ hãi để chế ngự ấy.


      - Vậy mục đích cuối cùng của là gì?


      - Hạ ấy xuống mức độ nào đó để lại có thể xử lý ấy lần nữa. chỉ tấn công những phụ nữ cư xử như những nạn nhân. cảm thấy bị đe dọa bởi những người phụ nữ bị tổn thương và bị sỉ nhục. Và nếu thực Andrew Capra là đồng bọn của tên sát nhân của chúng ta cũng có động lực khác. Đó là trả thù cho những gì ấy phá hoại .


      Marquette .


      - Vậy chúng ta đến đâu nếu bám vào giả thuyết về tên đồng bọn mình này?


      - Nếu Capra có đồng bọn - Moore nhận định - Vậy việc này đưa chúng ta trở lại Savannah. Ở đây chúng ta hoàn toàn bế tắc. Đến nay chúng ta thực gần nghìn cuộc thẩm tra và có kẻ tình nghi nào. Tôi nghĩ đến lúc xem xét lại tất cả những ai có liên quan đến Andrew Capra. Và để xem có tên ai xuất ở Boston này . Frost gọi điện cho người đứng đầu sở cảnh sát Savannah, thám tử Singer. ấy có thể máy bay đến đó và xem lại các bằng chứng.


      - Tại sao lại là Frost?


      - Tại sao ?


      Marquette nhìn Zucker.


      - Chúng ta săn ngỗng trời à?


      - Đôi khi chúng ta bắt được ngỗng trời.


      Marquette gật đầu.


      - Được rồi! Hãy tới Savannah!


      Moore đứng lên, định ra khỏi phòng Marquette .


      - Cậu có thể ở lại lúc ? Tôi cần chuyện với cậu - Họ chờ cho đến khi Zucker ra khỏi văn phòng; rồi Marquette đóng cửa và - Tôi muốn thám tử Frost .


      - Tôi có thể biết lý do ?


      - Vì tôi muốn chính cậu Savannah.


      - Frost sẵn sàng. ấy chuẩn bị xong xuôi.


      - Chuyện này phải vì Frost. Đó là vì cậu. Cậu cần phải tách khỏi vụ này.


      Moore im lặng. biết chuyện này đến đâu.


      - Cậu ở bên Catherine Cordell quá nhiều - Marquette .


      - ấy là chìa khóa trong việc điều tra.


      - Có quá nhiều tối cậu ở bên ấy. Cậu ở trong nhà ấy đến tận nửa đêm hôm thứ ba.


      Rizzoli. Rizzoli biết chuyện đó.


      - Và hôm thứ bảy, cậu ở lại nhà ấy suốt đêm. Việc gì xảy ra ở đây vậy?


      Moore gì. có thể gì đây? Đúng, tôi vượt qua giới hạn. Nhưng tôi thể kìm mình.


      Marquette ngồi xuống ghế, vẻ mặt ông lộ vẻ thất vọng sâu sắc.


      - Tôi thể tin là tôi chuyện với cậu về vấn đề này. Là cậu chứ phải những người khác - ông thở dài - đến lúc cậu phải lùi lại. Chúng tôi cử người khác lo cho ấy.


      - Nhưng ấy tin tôi.


      - Liệu đó có phải là tất cả những gì giữa hai người ? Tin tưởng à? Chuyện tôi nghe được còn vượt qua điều đó. Nghe này, cả hai chúng ta đều chứng kiến chuyện này xảy ra với các cảnh sát trước đây. Nó bao giờ có kết quả. Lần này cũng vậy. Ngay lúc này, ấy cần cậu và cậu có vẻ có ích cho ấy. Cậu trở nên nóng bỏng và có trọng lượng trong vòng vài tuần hay vài tháng. Rồi cả hai người tỉnh dậy sáng nào đó. Rồi bum, tất cả chấm hết. Cả ấy và cậu đều bị tổn thương. Và mọi người đều nuối tiếc vì những gì xảy ra - Marquette dừng lại, chờ câu trả lời của . Nhưng Moore gì.


      - Ngoài những vấn đề cá nhân - Marquette - việc này khiến quá trình điều tra trở nên phức tạp. Và nó là nỗi xấu hổ khốn kiếp với cả Bộ phận điều tra Án mạng - Ông tức giận quạt tay về phía cánh cửa - Hãy đến Savannah ! Và tránh xa Catherine quái quỷ đó.


      - Tôi cần giải thích với ấy.


      - Đừng gọi cho ấy. Chúng tôi báo với ấy. Tôi cắt cử Crowe thay thế .


      - Crowe được - Moore gằn giọng.


      - Vậy ai?


      - Frost - Moore thở dài - Hãy để Frost làm việc đó.


      - Thôi được, Frost. Giờ hãy ra sân bay. cần ra khỏi thành phố để bình tĩnh lại. Có thể bây giờ phỉ báng tôi. Nhưng biết đấy, tôi chỉ bảo làm việc đúng đắn.


      Moore biết điều đó. đau đớn khi có tấm gương phản chiếu mọi hành vi của . Trong tấm gương đó, thấy vị thánh Thomas, Kẻ thất bại bị hạ bệ bởi chính nỗi khao khát của . Và phũ phàng đó làm tức điên lên, vì thể xỉ vả điều đó. thể phủ nhận điều đó. cố im lặng cho đến khi ra khỏi văn phòng của Marquette. Nhưng khi nhìn thấy Rizzoli ngồi ở bàn làm việc, thể kìm cơn giận của mình.


      - Chúc mừng - - trả đũa rồi. thấy vui khi hút máu người khác đúng ?


      - Tôi làm sao cơ?


      - với Marquette.


      - Đúng. À, nếu tôi có làm vậy tôi cũng phải là cảnh sát đầu tiên phản bội đồng nghiệp.


      Lời châm chọc của rất sâu cay và nó có tác dụng như mong muốn. lạnh lùng gì và bỏ .


      ra khỏi tòa nhà, hít thở khí trong gió và cố nghĩ đến việc gặp Catherine tối nay. Nhưng Marquette đúng, mọi chuyện nên như vậy. Lẽ ra ngay từ đầu, mọi việc phải như vậy, phải có ngăn cách giữa họ. Họ phải lờ hấp dẫn của người kia. Nhưng dễ bị tổn thương, còn ngốc nghếch và cả hai đều cuốn vào vòng xoáy đó. Sau nhiều năm thăng trầm trong công việc, thấy mình lạc vào lãnh địa xa lạ, nơi phải do lý trí mà do cảm xúc chế ngự. cảm thấy thoải mái trong thế giới này. Và biết làm thế nào để thoát khỏi nó.






      Catherine ngồi trong ô tô, thu hết can đảm để vào Tòa nhà Schroeder số . Cả chiều nay, trong những buổi hẹn trong phòng khám, đưa ra những lời bông đùa như mọi khi khi chuyện với bệnh nhân, góp ý cho đồng nghiệp và thu dọn những đống đồ vụn vặt luôn ùn lên sau ngày làm việc của . Nhưng nụ cười của như vô hồn. Sau lớp mặt nạ vui vẻ là tâm trạng thất vọng chán chường. Chỉ đêm bên nhau và mọi chuyện giữa họ phút chốc tan tành.


      Cuối cùng, ra khỏi xe, vào Sở cảnh sát Boston.


      đến đây lần trong lần hỏi cung của bác sỹ Polochek nhưng dường như tòa nhà này vẫn là pháo đài gớm ghiếc và thuộc về nó. Ấn tượng đó càng mạnh khi nhân viên mặc đồng phục cảnh sát ngồi ở bàn tiếp đón nhìn chằm chằm.


      - Tôi có thể giúp gì cho ? - ta hỏi, lạnh lùng, cũng thân thiện.


      - Tôi tìm thám tử Thomas Moore - Bộ phận điều tra Án mạng.


      - Để tôi gọi lên tầng . tên gì?


      - Catherine Cordell.


      Khi ta gọi điện, chờ ở đại sảnh. thấy choáng ngợp khi nhìn những phiến đá granit bóng loáng, những người đàn ông mặc thường phục hay đồng phục qua lại và liếc nhìn . Đây là vũ trụ của Moore. Ở đây là người lạ. xâm nhập vào nơi mà những người đàn ông cứng rắn có cái nhìn lạnh lùng. Súng của họ lấp lánh trong bao súng. Đột nhiên nhận thấy đây là hành động sai lầm, rằng nên đến. Và nhìn về phía lối ra, khi vừa nắm lấy tay cầm ta gọi .


      - Bác sỹ Cordell?


      quay lại và nhận ra người đàn ông có mái tóc vàng hoe, khuôn mặt ôn hòa, dễ gần. vừa ra khỏi thang máy. Đó là thám tử Frost.


      - Sao lên ? - thân thiện hỏi.


      - Tôi đến gặp Moore.


      - Vâng, tôi biết. Tôi xuống gặp - chỉ về phía thang máy - Chúng ta chứ?


      Khi lên tầng hai, dẫn dọc hành lang vào Bộ phận Điều tra Án mạng. Trước đây chưa từng đặt chân đến bộ phận này. ngạc nhiên vì trông nó rất giống văn phòng công ty. Các máy tính và bàn làm việc được nhóm lại thành từng ô. đưa đến gần cái ghế, ngồi xuống. Mắt ánh lên vẻ tốt bụng. cũng nhận thấy thoải mái ở nơi xa lạ này. cố giúp thấy thư giãn.


      - tách cà phê nhé? - hỏi.


      - . Cảm ơn !


      - Tôi lấy gì cho đây? Sô-đa? Hay ly nước?


      - Tôi ổn mà!


      cũng ngồi xuống.


      - Vậy cần về chuyện gì, bác sỹ Cordell?


      - Tôi mong được gặp thám tử Moore. Tôi ở phòng mổ cả sáng nay. Tôi nghĩ có thể ấy cố liên lạc với tôi…


      - Thực … - Frost dừng lại, mắt lộ vẻ bối rối - Tôi để lại tin nhắn ở văn phòng của vào tầm trưa. Kể từ bây giờ, nên gọi điện cho tôi, chứ phải thám tử Moore nếu có bất cứ thắc mắc gì.


      - Vâng, tôi nhận được tin nhắn đó. Tôi chỉ muốn biết… - cố nuốt nước mắt - Tôi muốn biết tại sao mọi việc lại thay đổi.


      - À, để thống nhất việc điều tra.


      - Điều đó nghĩa là sao?


      - Chúng tôi cần Moore tập trung vào các khía cạnh khác của vụ điều tra.


      - Ai quyết định điều đó?


      Frost tỏ ra ngày càng lúng túng.


      - Tôi thực biết, bác sỹ Cordell.


      - Có phải chính Moore ?


      dừng lại lát.


      - .


      - Vậy phải là ấy muốn gặp tôi đúng ?


      - Tôi chắc phải vậy.


      biết với hay chỉ cố an ủi . thấy hai thám tử ở hai ô làm việc khác nhìn về phía mình khiến đỏ mặt vì giận dữ. Liệu có phải tất cả mọi người, trừ đều biết ? Có phải nhận thấy thương hại trong mắt họ ? Cả sáng nay mơ mộng trong kỷ niệm đêm qua. chờ Moore gọi điện, khao khát được nghe thấy giọng của biết nghĩ về . Nhưng gọi.


      Đến trưa, được người ta chuyển lời nhắn điện thoại của thám tử Frost. Nó rằng trong thời gian tới, mọi vấn đề của do Frost giải quyết.


      Tất cả những gì có thể làm lúc này là ngẩng cao đầu và cố nén nước mắt. hỏi.


      - Có lý do nào đó khiến tôi thể chuyện với ấy ?


      - Tôi e là bây giờ ấy có ở Boston. ấy chiều qua.


      - Tôi hiểu rồi - hiểu. cần hỏi, cũng biết đó là tất cả những gì Frost có thể với . hỏi Moore đâu, cũng hỏi làm cách nào để liên lạc với . thấy xấu hổ khi đến đây. Lòng tự trọng là nguồn sức mạnh chính của . Nó giúp tiến về phía trước, ngày này qua ngày khác và chịu khoác bộ dạng của nạn nhân. Những người khác nhìn chỉ thấy lạnh lùng, xa cách về tình cảm vì chỉ cho phép họ thấy điều đó.


      Chỉ Moore nhìn thấy con người của mình. Bị tổn thương và dễ tổn thương. Và kết cục như thế này đây. Đây là lý do mình thể yếu đuối lần nữa.


      Khi đứng lên ra về, đứng thẳng lưng, mắt nhìn thẳng. Khi ra khỏi Bộ phận Điều tra Án mạng, qua ngăn làm việc của Moore. biết đó là ngăn của vì có tên ghi đó. dừng lại đủ lâu để thấy bức ảnh đặt đó. Bức ảnh chụp người phụ nữ cười tươi trong nắng và gió.


      rời khỏi đó, bỏ lại thế giới của Moore phía sau, trở về với thế giới buồn đau của chính mình.

    6. ^^! Nếu bạn không gửi link bài viết trên Facebook được, hãy sử dụng link trong khung này để chia sẻ bài viết :