Mùa gặt - Tess Gerritsen (26c)(Kinh Dị)

Thảo luận trong 'Các Thể Loại Khác (Kinh Dị, Trinh Thám..)'

  • ^^! Nếu bạn không gửi link bài viết trên Facebook được, hãy sử dụng link trong khung này để chia sẻ bài viết :
    1. vulinh

      vulinh Well-Known Member

      Bài viết:
      20,019
      Được thích:
      24,221
      16



      Mark rót đầy ly rượu.

      - biết cả hai nhưng biết Larry Kunstler hơn Hennessy. Hennessy làm việc với lâu nhưng Larry là người đào tạo ở đây. ta khá tốt, đấy - Mark đặt chai rượu xuống bàn.

      Ở bàn bên cạnh phụ nữ mặc váy rất đẹp bước tới và mọi ngưòi xôn xao: “Em đây rồi” và “Chiếc váy đẹp”, Abby thấy hơi tủi thân. ước gì và Mark ở nhà nhưng Mark lại muốn ăn ở ngoài. Họ có quá ít thời gian ở cùng nhau. Và thậm chí tổ chức được lễ đính hôn. cầu mang rượu, bánh mì tới và giờ uống hết sạch chai rượu đó - gần đây thường xuyên làm như vậy. nhìn Mark uống hết cốc rượu và nghĩ: Tất cả những rắc rối của mình ảnh hưởng đến ấy.

      - Sao bao giờ vói em về họ?

      - nghĩ nó chẳng liên quan.

      - Em nghĩ ai đó phải nêu ra vấn đề này chứ, đặc biệt là sau khi Aaron chết. Đội của chúng ta mất ba người chỉ trong sáu năm mà chẳng ai gì cả. Cứ như là các sợ về nó vậy.

      - Điều đó kinh khủng. Bọn cố gắng đề cập vấn đề đó trước mặt Marilee. ấy quen vợ của Hennessy. Thậm chí ấy còn tắm cho em bé.

      - Đứa bé chết sao?

      Mark gật đầu.

      - Vụ đó sốc. Cả gia đình họ đều chết hết. Marilee rất bấn loạn khi ấy biết điều đó.

      - Vụ đó có là tai nạn ?

      - Họ mua ngôi nhà đó vài tháng trước đây. Họ chưa có dịp sửa hệ thống đường ống cũ và tai nạn xảy ra.

      - Nhưng cái chết của Kunstler như vậy.

      Mark thở dài.

      - Phải, vụ Larry phải là tai nạn.

      - Sao ta lại làm vậy nhỉ?

      - Thế sao Aaron lại tự sát? Tại sao người lại tự sát? Chúng ta có cả tá lý do cho việc tự sát nhưng lý do thực là gì chúng ta bao giờ biết. Chúng ta bao giờ hiểu. Chúng ta nhìn vào bức tranh và : mọi thứ trở nên tốt hơn. Chúng luôn luôn tốt hơn. Đôi khi Larry mất niềm tin. ta thấy được con đường phía trước. Và khi đó người ta xuống dốc, người ta còn thấy gì ở tương lai nữa - Mark uống ngụm rượu nhưng dường như chẳng còn thấy cái gì ngon nữa, cả rượu và thức ăn.

      Họ bỏ qua tráng miệng và rời cửa hàng. Cả hai đều im lặng và mệt mỏi.

      Mark lái xe qua màn sương mỏng và mưa bụi. Nhìn về phía trước Abby nghĩ: Mình nghĩ đến thời điểm đó. Mình chẳng thấy gì nữa. Mình chẳng biết điều gì sắp xảy ra với mình, hay thậm chí là với chúng mình.

      Mark nhàng :

      - muốn chỉ cho em thấy cái này Abby. chỉ muốn biết em nghĩ gì rồi. Có lẽ em nghĩ sắp điên lên hoặc là em phát điên vì ý tưởng này.

      - Ý tưởng gì?

      - Đó là điều luôn mơ tới lâu rồi.

      Họ về phía bắc, xa khỏi Boston, qua cả Revere, Lynn và Swampscott, Đến Marble Marina, đỗ xe lại và .

      - Nó đây rồi, ở cuối ấy.

      Nó là chiếc thuyền.

      Abby đứng sững khi Mark dọc theo con thuyền. Giọng của giờ lạc và cánh tay vung vẩy đầy nhiệt huyết.

      - Nó như chiến hạm - mười lăm mét, trang bị đầy đủ tất cả những gì mà chúng ta cần. Những thiết bị mới, ít khi được dùng tới. Nó có thể đưa ta tới bất kỳ đâu mà ta muốn. Biển Caribê, Thái Bình Dương. Em tìm kiếm tự do phải Abby? - đứng mạn thuyền và cánh tay lên như với con thuyền - Tuyệt đối tự do?

      lắc đầu.

      - Em hiểu.

      - Đó là lối thoát, rời bỏ thành phố đáng nguyền rủa này, bệnh viện này. Chúng ta mua cái thuyền này và chúng ta rời bỏ nơi này.

      - đâu?

      - Bất kỳ đâu.

      - Em muốn đâu cả.

      - Chẳng có lý do nào để ở lại đây Abby, phải bây giờ.

      - Có đấy, với em có. Em thể chỉ đóng gói đồ đạc và bỏ . Em còn ba năm nữa, Mark à! Em phải hoàn thành chúng hoặc em chẳng bao giờ thành bác sĩ phẫu thuật được.

      - đây, Abby. là người mà em muốn trở thành. Vậy em muốn trở thành cái gì? với em rồi, đáng đâu.

      - Em làm việc rất chăm chỉ và em muốn bỏ cuộc.

      - Thế còn sao?

      nhìn , và nhận ra, tất nhiên tất cả là vì ấy. Con thuyền, chạy trốn tới tự do. Người chồng sắp cưới và chợt muốn rời bỏ nhà cửa của mình. Có những điều ấy thể hiểu.

      - muốn làm điều đó, Abby - Mark tới phía , ánh mắt van nài, rực lửa - cố gắng, để có con thuyền này và đó là lý do tại sao về muộn! gặp các nhà môi giới.

      - Sao với em? Thậm chí gọi cho em?

      - nghĩ điều này điên rồ…

      - Làm sao chúng ta có đủ tiền mua thứ này? Em nợ ngập đầu ngập cổ. Em phải mất nhiều năm mới trả hết nợ học phí. Còn mua con thuyền ư?

      - Chúng ta có thể cầm cố mà, chỉ như là mua ngôi nhà thứ hai thôi.

      - Đây phải là nhà.

      - Nhưng vẫn là khoản đầu tư.

      - Nhưng em muốn dùng tiền của mình vào việc này.

      - dùng tiền của em.

      lùi lại và nhìn .

      - phải - giọng thấp xuống - phải tiền của em.

      - Abby, lạy Chúa - rên rỉ.

      Mưa rơi nhiều hơn và hơi lạnh phả vào mặt . quay lại xe và chui vào trong. cũng vào xe và cả hai ai gì, thanh duy nhất là mưa rơi nóc xe.

      lát lặng lẽ .

      - rút lại hóa đơn, mua nó nữa.

      - muốn vậy mà.

      - Vậy em muốn gì?

      - Em nghĩ chúng ta cần chia sẻ nhiều hơn. Em đến tiền. Em quan tâm, nhưng điều làm em đau lòng là nghĩ nó là tiền của . Mọi chuyện như vậy đó, của , của em. Chúng ta có nên gọi luật sư tới và làm bản hợp đồng ? Chia đôi tất cả đồ đạc và con cái?

      - Em hiểu đâu - nghe thấy mệt mỏi trong giọng của .

      khởi động xe.

      Họ được nửa đường về nhà và ai gì.

      Sau đó Abby :

      - Có lẽ chúng ta nên nghĩ lại về việc đính hôn. Có lẽ đám cưới thực phải là điều muốn, Mark.

      - Em muốn thế à?

      nhìn ra ngoài cửa và thở dài.

      - Em biết, em biết nữa.

      Thực là như vậy. biết.



      BI KỊCH CỦA GIA ĐÌNH BA NGƯỜI

      Trong khi bác sĩ Alan Hennessy và gia đình ngủ thần chết bước đến sàn nhà. Khí CO2 chết chóc sinh ra từ hệ thống lò sưởi bị lỗi gây ra cái chết cho bác sĩ Hennessy ba mươi tư tuổi và người vợ là Gail, ba mươi ba tuổi cùng con sáu tháng tuổi - Linda. Thi thể của họ được tìm thấy vào chiều muộn ngày hôm đó bởi những người bạn được mời tới ăn tối ở nhà họ…



      Abby kéo rê chuột, các bức ảnh của Hennessy và vợ xuất màn hình, gương mặt nghiêm trọng của ta và khuôn miệng nửa cười của vợ. có bức ảnh của đứa bé. Có lẽ tờ Globe nghĩ tất cả những đứa trẻ sáu tháng tuổi trông đều giống nhau.

      Abby tìm ngày thứ ba và nửa năm trước cái chết của Hennessy. thấy bài viết mong đợi, trang nhất của tờ Metro.



      THI THỂ CỦA BÁC SĨ MẤT TÍCH ĐƯỢC TÌM THẤY Ở CẢNG INNER.

      thi thể được tìm thấy hôm thứ ba trôi nổi ở cảng Boston được xác định danh tính. Đó là bác sĩ Lawrence Kunstler, bác sĩ địa phương. Xe của ông Kunstler được tìm thấy tuần trước ở phía nam cầu Tobin. Cảnh sát xác định liệu có phải ông ta tự sát hay . có nhân chứng nào được ghi nhận và vụ việc vẫn tiếp tục được điều tra…



      Abby nhìn vào tấm ảnh của Kunstler. Đó là bức ảnh với đồng phục trắng và ống nghe. Bác sĩ nhìn thẳng vào ống kính và giờ đây, nhìn thẳng vào .

      Tại sao làm thế? Tại sao lại nhảy xuống đó? Có phải chính làm thế?



      Điều tuyệt vời là cả buổi chiều đó có ai ở Bayside chú ý tới Abby cả, và khi ra khỏi thư viện, cảm thấy cảm giác trống trải và có lẽ cần phải quay lại bệnh viện. Buổi chiều như mong đợi, là của .

      Abby quyết định lái xe tới chỗ cùa Elaine. Mấy ngày qua, cố gắng gọi cho Elaine nhưng thể liên lạc được, ai biết số mới của Elaine và ai biết ta đổi số.

      Giờ với hình ảnh của Kunstler và Hennessy vẫn còn in đậm trong tâm trí , hướng thẳng tới đường số 9, đến Newton. muốn chuyện với Elaine, cũng mong đợi lắm nhưng thể nghĩ tới Aaron. nhớ vào đám tang của Levi, chẳng có ai đề cập tới cái chết của hai người trước đó. nhóm nào coi đó là chủ đề cần tới, ai nhớ cả, ai : Đây là cái chết thứ ba, tại sao Bayside lại kém may mắn đến thế? Hay có nghĩ có điểm gì chung ở đây ?

      Chẳng ai gì cả, Elaine, người biết về Kunstler và Henessy.

      Ngay cả Mark.

      ấy giấu mình, có cái gì mà với mình.

      tới gần nhà của Elaine và ngồi đó lúc, tay ôm đầu, cố gắng loại bỏ cảm giác mệt mỏi, khủng hoảng nhưng vẫn còn câu hỏi lơ lửng trong đầu: Tất cả đều quay lưng với mình, công việc, và bây giờ mình mất cả Mark. Điều tồi tệ nhất là mình biết chuyện gì xảy ra.

      Từ cái đêm biết Kunstler và Hennessy chết, mọi thứ thay đổi giữa và Mark. Họ sống chung trong nhà, ngủ chung giường nhưng mối quan hệ của họ trở nên vô hồn. Như làm tình vậy. Trong bóng tối, nhắm mắt có thể làm tình với bất cứ ai.

      nhìn lên ngôi nhà. Có thể Elaine biết cái gì đó.

      chui ra khỏi xe và bước lên cầu thang lên cửa trước. Ở đó thấy tờ báo vẫn còn nằm cửa. Chúng được đưa tới tuần rồi và ố vàng. Sao Elaine nhặt chúng lên nhỉ?

      ấn chuông cửa nhưng ai trả lời. gõ cửa và lại nhấn chuông. có thể nghe tiếng chuông vọng vào trong nhà, theo sau đó là im lặng. tiếng bước chân, thanh. nhìn vào hai tờ báo và nhận thấy có điều gì đó khác thường.

      Cửa trước vẫn khóa, rời vòng quanh ngôi nhà, đến vườn sau. Bãi cỏ trông có vẻ xơ xác, hàng rào được kẹp lại, chỗ treo cờ trống rỗng. Sau đó nhớ ra đồ đạc, bàn để ô và ghế mà nhìn thấy hôm đám tang Levi còn đó nữa.

      Bếp khóa, nhưng chỗ sân phơi có cửa kính khóa. Abby kéo khóa ra và nó mở ra. Abby gọi: “Elaine?” và bước vào trong.

      Căn phòng trống rỗng, đồ đạc, mọi thứ đều được dọn hết, cả các bức tranh cũng thế. nhìn chăm chăm vào bức tường trống rỗng, sàn nhà có vết thảm sẫm hình lục giác. vào phòng ngủ và thấy bước chân mình vang vọng trong căn phòng trống trơn. Ngôi nhà được dọn sạch , chỉ còn lại vài tờ quảng cáo bên trong hộp thư cửa truớc. nhặt tờ lên và thấy nó được chuyển từ Occupant.

      bước ra ngoài, đứng ở lối vào, cảm thấy mất phương hướng. Chỉ hai tuần trước đây, vẫn còn ở trong ngôi nhà ấm cúng này. ngồi trong ghế sô pha ở phòng khách và nhìn những bức ảnh gia đình lò sưởi.

      Vẫn tâm trạng như vậy, vào trong xe và trở ra. đặt chế độ tự lái, cảm thấy khó khăn thể tập trung nhìn đường được. Tại sao Elaine lại chuyển ? Cuộc sống của ấy quá khủng khiếp sau khi Levi ra ư? Giống như cái gì đó bị đánh động vậy. Đột ngột nhìn vào gương. có thói quen nhìn vào gương từ hôm thứ bảy, lần đầu tiên nhìn thấy cái xe tải.

      chiếc Volvo màu xanh đậm sau , nó có đậu bên ngoài nhà của Elaine ? cũng chắc, vì chú ý.

      Chiếc Volvo liên tục nháy đèn.

      tăng tốc.

      Nó cũng vậy.

      rẽ phải. Phía trước là trạm xăng. Những người đường, rất nhiều người đường. Nhưng chiếc Volvo vẫn theo , nháy đèn.

      cảm thấy bị theo dõi đủ rồi, cảm thấy sợ hãi đủ rồi. Chuyện quái quỷ gì thế nhỉ? ta muốn quấy rầy . Nếu vậy phải nhảy lên bàn và đối mặt với ta.

      Abby rẽ vào trung tâm mua sắm, ta theo . Chỉ cái liếc mắt, thấy là xung quanh có rất nhiều người, những người mua hàng đẩy xe, những lái xe tìm chỗ đỗ. Đây là chỗ để chuyện đây.

      nhấn phanh.

      Chiếc Volvo đậu cách xe quãng. ra khỏi xe và chạy lại chỗ chiếc Volvo, cách bực dọc gõ vào cửa xe.

      - Mở cửa ra, đồ khốn, mở ra.

      Người lái xe kéo cửa kính xuống và nhìn , sau đó ta bỏ kính ra.

      - Bác sĩ DiMatteo? - Bernard Katzka - Tôi nghĩ đó là .

      - Sao lại theo tôi?

      - Tôi thấy ra từ ngôi nhà đó.

      - theo tôi từ trước à?

      - .

      - Vậy ai chứ?

      - Khi nào?

      - Hôm thứ bảy, chiếc xe tải .

      ta lắc đầu.

      - Tôi chẳng hiểu gì cả.

      lùi lại.

      - Thôi quên , chỉ cần đừng có theo tôi, được ?

      - Tôi chỉ định chuyện với , thấy tôi nháy đèn à?

      - Tôi biết là .

      - Có thể cho tôi biết làm gì ở nhà Levi ?

      - Tôi đến gặp Elaine, tôi biết ấy chuyển .

      - Sao vào chỗ kia, tôi muốn chuyện với , hay lại định từ chối câu hỏi của tôi?

      - Tùy thuộc vào định hỏi tôi cái gì ?

      - Về Levi.

      - Chỉ vậy thôi à?

      ta gật đầu.

      nghĩ về điều đó, và quyết định các câu hỏi có thể theo hai hướng, ngay cả người kín tiếng như Katzka cũng phải ra.

      nhìn vào trong khu mua sắm.

      - Tôi thấy hiệu bánh ở đằng kia, sao ta vào và uống ly cà phê nhỉ?



      Cớm và bánh rán. kết hợp này thực trò đùa thành thị, chỉ củng cố trong đầu óc của công chúng về hình ảnh của những tay cảnh sát béo bự. Bernard Katzka có vẻ phải là kẻ thích bánh rán. chỉ gọi cà phê đen và chỉ uống lấy lệ. Katzka phải loại thích vòng vo, thẳng vào vấn đề.

      - Tại sao vào đó?

      - Tôi đến gặp Elaine, tôi muốn chuyện với ta.

      - Về cái gì?

      - Vấn đề cá nhân.

      - Tôi rất ngạc nhiên là hai người thân nhau.

      - ấy với thế à?

      ta lờ câu hỏi .

      - Đó là cách định hình các mối quan hệ à?

      thở dài.

      - Tôi đoán thế, chúng tôi biết nhau qua Aaron, chỉ thế thôi.

      - Vậy tại sao đến gặp ta?

      lần nữa lại thở dài và nhận ra mình để ta để ý tới lo lắng của mình.

      - Gần đây có nhiều điều lạ lùng xảy đến với tôi. Tôi muốn chuyện với Elaine.

      - Chuyện gì?

      - Ai đó theo tôi hôm thứ bảy, cái xe tải màu tím. Tôi thấy nó ở cầu Tobin, rồi tôi lại nhìn thấy nó khi tôi về nhà.

      - Gì nữa ?

      - Vậy chưa đủ lo lắng sao? - nhìn thẳng vào ta - Tôi sợ phát khiếp.

      đáp lại bằng im lặng, như thể cố gắng quyết định xem liệu những gì nhìn thấy mặt có đáng sợ .

      - Điều này liên quan gì tới bà Levi?

      - là người làm tôi nghĩ ngợi về cái chết của Aaron. Liệu ấy có thực tự sát hay ? Tôi biết có hai bác sĩ khác ở Bayside cũng chết.

      Katzka bất ngờ bởi cái tin vừa thông báo.

      - Sáu năm sáu tháng trước, có bác sĩ thần kinh học, ông ta nhảy từ cầu Tobin xuống.

      Katzka gì, nhưng chúi về phía trước cách vô thức.

      - Sau đó ba năm trước, có bác sĩ gây mê - Abby tiếp tục - Bác sĩ Hennessy, ta và vợ cùng em bé con chết vì ngộ độc CO2. Người ta bảo là tai nạn, lò bị hỏng.

      - may là những tai nạn kiểu đó mùa đông nào cũng có.

      - Và giờ là Aaron Levi, ba người rồi. Tất cả bọn họ đều ở đội cấy ghép, nghe có kinh khủng ? Trùng hợp tình cờ sao?

      - Vậy chuyện ở đây là gì? Ai đó cố tình phá hoại đội cấy ghép chắc? Giết từng người à?

      - Tôi chỉ đưa ra vấn đề thôi, là cảnh sát, nên điều tra.

      Katzka ngồi lại vào ghế.

      - Sao mà lại dính vào mấy vụ này thế?

      - Bạn trai tôi ở trong đội, Mark thừa nhận nhưng tôi biết ấy lo lắng, tôi nghĩ, cả đội đều lo, họ lo ngại ai là người kế tiếp, nhưng họ chẳng bao giờ về chuyện đó, giống như cách mà mọi người chẳng bao giờ về các vụ va chạm máy bay khi họ đặt chân đến cổng sân bay ấy.

      - Vậy là lo cho bạn trai à?

      - Đúng.

      Abby trả lời cách đơn giản, che giấu lớn hơn, làm điều này vì muốn Mark trở lại với mình. Tất cả mọi thứ về ấy. hiểu cái gì xảy ra giữa họ nhưng hiểu quan hệ của họ thay đổi, và nó bắt đầu xấu vào cái đêm đề cập tới Kunstler và Hennessy. chuyện này với Katzka vì tất cả chỉ là suy nghĩ và cảm nhận của . Katzka là loại người làm việc lạnh lùng và nguyên tắc.

      ràng ta muốn nhiều hơn, khi giữ im lặng, ta liền hỏi.

      - muốn gì với tôi nữa nào?

      ta muốn đến Mary Allen. nghĩ, nhìn ta, thấy cái gì đó thôi thúc phải hiểu tất cả, ở đây, ngay bây giờ. nhìn chỗ khác, tránh ánh mắt của ta, và đáp lại bằng câu hỏi.

      - theo dõi nhà của Elaine à? Cách của đấy sao?

      - Tôi chỉ chuyện với nhà hàng xóm thôi, khi tôi đến, tôi thấy ra.

      - tra hỏi hàng xóm của Elaine à?

      - Là lẽ thường thôi.

      - Tôi nghĩ thế.

      Trái ngược với mong muốn của , nhìn ta, đôi mắt xám thừa nhận điều gì, chẳng lên điều gì cả.

      - Tại sao cứ theo vụ tự sát?

      - Người quả phụ đóng gói và chuyển giữa đêm, có địa chỉ chuyển đến, điều đó hề bình thường.

      - định Elaine làm cái gì đó mờ ám đấy chứ?

      - , tôi nghĩ ta sợ.

      - Sợ gì?

      - có biết , bác sĩ DiMatteo?

      thấy thể nhìn hướng khác, dường như kiên định im lặng trong mắt ta giữ đứng yên. cảm thấy cái gì đó bất ngờ xảy đến và chẳng hiểu tại sao người đàn ông này lại tìm ra.

      - , tôi hiểu nổi.

      - Có lẽ có thể giúp tôi trả lời câu hỏi khác chăng?

      - Câu gì?

      - Là sao Aaron Levi lại giàu thế?

      lắc đầu.

      - Ông ta đâu dư dả gì, theo như tôi biết vậy mà, bác sĩ tim mạch chỉ có thể kiếm giỏi lắm là hai trăm nghìn đô năm. Và ta gửi phần lớn cho hai đứa con học đại học.

      - Vậy tiền ở đâu ra?

      - muốn tới việc thừa kế?

      - Tôi nghe bố của Aaron chỉ là thợ sửa chữa thôi.

      Katzka ngồi lại, suy nghĩ. Giờ thôi nhìn nữa mà nhìn cốc cà phê của mình. bị thu hút bởi tập trung sâu lắng ấy. có thể bỏ lửng cuộc chuyện, bỏ mặc các cảm giác của .

      - Thám tử chúng ta tới của cải nào thế?

      nhìn lên .

      - Ba triệu đô.

      Abby kinh ngạc, nhìn ta trân trối.

      - Sau khi vợ Levi biến mất, tôi nghĩ tôi nên xem xét tài chính nhà họ chút, vậy nên tôi gọi cho bên kiểm toán, họ với tôi là ngay sau khi Levi chết, vợ ông ta phát ra chồng mình có tài khoản ở ngân hàng Cayman Islands. tài khoản mà ta hề biết, ta nhờ kiểm toán viên tìm cách truy cập vào tài khoản đó, và bây giờ, ta biến mất - Katzka nhìn đầy dò hỏi.

      - Tôi thể hiểu sao Aaron lại có số tiền đó - Abby .

      - Kế toán của ta cũng vậy.

      Họ cùng im lặng. Abby với lấy cốc cà phê và thấy nó lạnh ngắt, và cũng vậy. nhàng hỏi.

      - có biết Elaine ở đâu ?

      - Tôi đoán.

      - cho tôi chứ?

      ta lắc đầu.

      - Tạm thời , bác sĩ DiMatteo. Tôi nghĩ Elaine muốn tiết lộ.



      Ba triệu đô à? Làm sao Aaron có số tiền đó.

      Suốt dọc đường về nhà Abby cứ nghĩ về câu hỏi đó, thể hiểu tại sao bác sĩ phẫu thuật tim có thể kiếm được nhiều thế, thể nào với vợ quen tiêu xài hàng hiệu và hai đứa con học đại học. Mà tại sao ta lại giấu nhỉ? Cayman Islands là chỗ người ta cất tiền nếu muốn bên điều tra biết. Nhưng ngay cả Elaine mà cũng biết về tài khoản đó lạ , là ngạc nhiên đấy, Elaine chẳc hẳn rất sốc khi biết chồng mình giấu khối tài sản khổng lồ đến thế.

      Ba triệu đô.

      rẽ vào lối vào nhà, thấy mình ở khu hàng xóm, với cái xe màu hạt dẻ. Là thói quen của Abby, nhìn lên và xuống dọc khu phố.

      bước đến cửa trước và bước qua cái hòm thư buổi chiều. Hầu hết là tạp chí chuyên ngành, hai cho bác sĩ nội trú. gom chúng lại và đem chúng vào bếp. bàn bắt đầu xếp chúng lại thành các file riêng. Của , của , cuộc sống của , của . Ở đám này chả có cái gì đáng xem lại lần hai.

      Gần bốn giờ rồi, tối nay quyết định nấu bữa ngon, với ánh nến và rượu. Tại sao nhỉ? Giờ quý nhàn nhã. Trong khi Bayside lấy những thời khắc ngọt ngào nhất về tương lai của giờ có thể có thời gian sắp xếp lại mọi thứ giữa và Mark với bữa tối lãng mạn. Mất nghiệp nhưng giữ chân được người đàn ông.

      Khỉ , DiMatteo, tâm hồn mình bắt đầu xuống cấp rồi.

      mở nửa đống thư của mình, xem tiêu đề là gì. Có cái thư mới đến, thấy cái phong bì lớn màu nâu. Dòng chữ: Thuyền buồm in đậm chỗ địa chỉ hồi thu hút . mở phong bì và thấy hình vỏ màu trắng trứng gà với nền màu cà phê.

      Ở góc bên trái có dòng chữ:

      Du thuyền Gió Đông

      Bán hàng và các dịch vụ

      Marblehead Marina.



      Nó được gửi cho Mark nhưng đến địa chỉ nhà của họ ở Brewster Street. Nó được gửi đến địa chỉ bưu điện.

      nhìn lại dòng chữ.

      rời nhà bếp và đến bàn của Mark ở phòng ngủ. Ngăn kéo cuối cùng nơi giữ các đống file tài liệu bị khóa nhưng biết chìa ở đâu. nghe thấy ném nó vào cốc đựng bút. tìm thấy chìa khóa và mở khóa.

      Bên trong thấy các tập tài liệu của . Giấy bảo hiểm, giấy tờ nhà, giấy tờ xe. tìm thấy tập đề: Dịch vụ Thuyền viết bên ngoài. Có tập cho Gimme Shelter, J-35 của . Có tập khác, trông mới hơn. Bên ngoài đề: H-48.

      ngửa ra ghế, cảm thấy như bị ốm.

      giữ bí mật cho riêng mình, với em là hủy nó rồi, nhưng vẫn mua nó. Đó là tiền của , được rồi. Nhưng em làm nó.

      nhìn xuống phía cuối trang, điều kiện thanh toán.

      lát sau, ra khỏi nhà.



      - Tiền để mua nội tạng, có thể nào như thế? - đảo kem trong cốc cà phê của mình, bác sĩ Ivan Tarasoff dừng lại và nhìn Vivian - có bằng chứng ?

      - Chưa, nhưng tôi hỏi ông là liệu có thể ? Nếu có sao?

      Bác sĩ Ivan ngồi lại và uống cà phê như thể ông có câu trả lời. bốn giờ bốn mươi lăm phút, ngoại trừ các bác sĩ quần áo sạch ngang qua để đến phòng để đồ căn phòng Mass Gen hoàn toàn yên lặng. Tarasoff, người vừa ra khỏi phòng mổ hai mươi phút trước đây vẫn còn đeo đôi găng tay tay và khẩu trang ở cổ. Nhìn ông, Abby cảm thấy được an ủi, như hình ảnh của người ông của ở đó. Đôi mắt dịu dàng màu xanh, tóc bạc, giọng trầm lắng. Giọng của quyền lực, nghĩ, thuộc về người đàn ông bao giờ phải dùng nó.

      - Tất nhiên là có những tin đồn - Tarasoff - Mỗi khi có vụ lấy nội tạng, người ta lại tự hỏi liệu có liên quan tới tiền nong gì , nhưng chẳng có bằng chứng nào cả, chỉ là nghi ngờ thôi.

      - Ông nghe những tin đồn nào?

      - người có thể mua vị trí cao hơn trong danh sách chờ đợi, tôi chưa thấy chuyện đó xảy ra bao giờ.

      - Tôi có rồi đấy.

      Tarasoff nhìn Abby.

      - Khi nào?

      - Hai tuần trước đây. Bà Victor Voss, bà ta ở thứ ba trong danh sách và bà ta có trái tim, hai người trước bà ta chết sau đó.

      - Ban điều phối nội tạng Quốc gia cho phép chuyện đó xảy ra đâu. Ngân hàng nội tạng cũng vậy. Họ có hệ thống nghiêm ngặt.

      Tarasoff lắc đầu.

      - Khó mà tin được, nếu tim qua UNOS hay NEOB nó từ đâu ra?

      - Chúng tôi cho là Voss trả tiền để giữ nó vào hệ thống, và đến với vợ ông ta - Vìvian .

      - Đó là những gì chúng tôi biết - Abby - Vài giờ trước khi Voss được ghép tim, điều phối của Bayside nhận được điện thoại từ Wilcox Memorial ở Burlington cho biết họ có người quyên tặng. Tim được lấy và chuyển tới Boston. Nó đến chỗ chúng tôi lúc giờ sáng và được vận chuyển bởi bác sĩ tên Mapes. Các giấy tờ chứng nhận có kèm nhưng giờ chẳng ai biết chúng ở đâu. Tôi tìm cái tên Mapes trong các mục của cuốn các chuyên gia y tế, chẳng có ai như vậy cả.

      - Vậy ai tiến hành ca lấy tim?

      - Chúng tôi nghĩ ai đó tên Tim Nicholls. Tên của ông ta được đề cập trong danh sách, vậy nên chúng tôi biết ông ta tồn tại. Theo hồ sơ của ông ta, ông ta đào tạo vài năm ở Mass Gen, thầy có nhớ ông ta ?

      - Nicholls à? - Tarasoff lắc đầu - Khi nào vậy?

      - Mười chín năm trước.

      - Tôi phải kiểm tra lại danh sách.

      - Chúng tôi nghĩ chuyện đó xảy ra - Vivian - Voss cần tim và chồng bà ta có đủ tiền, vậy nên… Tôi biết thế nào nhưng hình như người quyên tặng tim cho Tim Nicholls và ta chuyển thẳng tim tới Bayside, bỏ qua NEOB và rất nhiều người được trả tiền. Bao gồm cả nhân viên của Bayside.

      Tarasoff bàng hoàng đến sững người.

      - Có thể, đúng, có thể như vậy lắm.

      Cửa phòng mở và hai bác sĩ vào, vừa vừa cười hướng tới bàn pha cà phê. Họ còn cười mãi khi lấy đường và kem. Cuối cùng họ cũng ra.

      Trông Tarasoff vẫn chưa hết bàng hoàng.

      - Tôi từng chuyển các bệnh nhân tới Bayside, chúng ta tới trong những trung tâm cấy ghép chuẩn nhất ở đây. Tại sao chúng có thể ra ngoài hệ thống? Muốn gặp rắc rối với NEOB hay UNOS?

      - Câu trả lời quá còn gì - Vivian khẳng định - Tiền.

      Họ lại rơi vào im lặng khi bác sĩ khác vào phòng, quần áo ta sột soạt. ta có vẻ kiệt sức và ngã vật xuống cái ghế. Dựa về phía sau, ta ngủ luôn.

      Abby nhàng với Tarasoff.

      - Chúng tôi mong ông có thể nhìn lại các file lưu trữ có Tim Nicholls, tìm bất cứ điều gì ông có thể tìm về ông ta, cho chúng tôi biết ông ta đào tạo cái gì ở đây, hay hồ sơ của ông ta hoàn toàn chỉ là bịa.

      - Tôi gọi cho ta, đặt câu hỏi trực tiếp.

      - , đừng. Chúng ta biết chuyện này xa thế nào đâu.

      - Bác sĩ DiMatteo, tôi tin vào công lý, nếu có cái gì mờ ám ở đây, tôi muốn biết về nó.

      - Chúng tôi cũng vậy, nhưng phải cẩn thận, bác sĩ Tarasoff - Abby nhìn cách cẩn thận vào vị bác sĩ ngủ gật ghế. hạ giọng như thầm - Hai vụ tự tử và tai nạn, tất cả họ đều là thành viên đội cấy ghép.

      nhìn thấy vẻ khiếp đảm mặt Tarasoff và biết việc cảnh báo cùa có tác dụng như ý.

      - cố làm tôi sợ đấy à?

      Abby gật đầu.

      - Ông nên sợ, tất cả chúng ta đều nên sợ.



      Bên ngoài chỗ để xe, Abby và Vivian đứng cùng nhau dưới bầu trời xám, buồn tẻ. Họ đến bằng hai xe riêng và giờ đến lúc phải . Dạo này ngày càng lúc càng ngắn. Mới chỉ năm giờ chiều mà trời mờ tối. Abby kéo áo chặt hơn và nhìn quanh, có chiếc xe màu hạt dẻ.

      - Chúng ta chưa có đủ bằng chứng, Abby. Chúng ta chưa thể cầu điều tra được, nhưng nếu chúng ta cố gắng, Victor thể giấu được mãi.

      - Nina Voss phải là người duy nhất, tôi nghĩ Bayside làm chuyện này trước đó rồi. Aaron có tới ba triệu đô trong tài khoản, ta hẳn phải được trả vào lúc nào đấy.

      - nghĩ là ta nghĩ lại?

      - Tôi biết ta định rời Bayside, rời khỏi Boston, có lẽ họ muốn cho ta .

      - Vậy có thể chuyện đó cũng xảy ra với Kunstler và Hennessy.

      Abby hít hơi sâu, lần nữa lại nhìn xung quanh, tìm kiếm cái xe tải đó.

      - Tôi sợ điều xảy đến với họ.

      - Chúng ta cần những cái tên khác, những vụ cấy ghép khác, hoặc là nhiều thông tin hơn về người quyên tặng.

      - Tất cả những thông tin về các người quyên tặng được khóa ở phòng của điều phối viên cấy ghép, có lẽ tôi phải đột nhập và ăn trộm mất. Nếu chúng có ở đó. nhớ vụ họ xếp nhầm thông tin của Nina Voss ?

      - Được. Vậy chúng ta bắt đầu từ phía người nhận.

      - Các ghi nhận y tế à?

      Vivian gật đầu.

      - Phải tìm ra cái tên của những người được cấy ghép, và những người ở trong danh sách đợi chờ đâu.

      - Chúng ta cần thông tin giúp đỡ của NEOB.

      - Đúng vậy, chúng ta cần tên và ngày tháng trước .

      Abby gật đầu.

      - Tôi làm được.

      - Tôi giúp , nhưng Bayside cho tôi bước vào cửa phòng họ đâu, tôi là ác mộng của họ.

      - Cả hai ta.

      Vivian cười như thể có cái gì đó để tự hào, có vẻ bé, giống như đứa trẻ trong chiếc áo khoác quá khổ. Trông yếu đuối và dễ tổn thương. Bề ngoài của tạo ra nhiều lòng tin nhưng ánh mắt có. Nó thẳng thắn, khoan nhượng. Và nó nhìn thấy nhiều.

      - Được rồi, Abby. Giờ cho tôi về Mark , tại sao giấu ta chuyện này?

      Abby lại hít hơi thở sâu. Câu trả lời bật ra như hơi thở.

      - Tôi nghĩ ấy là phần của vụ đó.

      - Mark á?

      Abby gật đầu, nhìn lên bầu trời xám.

      - ấy muốn khỏi Bayside, ấy nhiều về việc chèo thuyền , chạy trốn, giống như Aaron làm trước khi ta chết.

      - nghĩ Mark lấy tiền rồi sao?

      - Vài ngày trước, ấy mua thuyền. Ý tôi chỉ là cái thuyền mà là cái du thuyền.

      - ta luôn phát điên vì thuyền mà.

      - Nhưng nó có giá nửa triệu đô.

      Vivian gì.

      - Điều tệ nhất là ấy trả bằng tiền mặt - Abby buồn rầu .

    2. vulinh

      vulinh Well-Known Member

      Bài viết:
      20,019
      Được thích:
      24,221
      17



      Phòng lưu trữ dữ liệu trong tầng hầm của Bayside, ngay bên dưới khoa bệnh lý và nhà xác. Đây là chỗ các bác sĩ ký vào bệnh án, ghi chép, lấy các báo cáo xét nghiệm và ra các cầu miệng. Căn phòng được trang trí với bàn ghế êm, thường xuyên có các bác sĩ đến làm việc, nó mở cửa đến chín giờ tối.

      Lúc đó là sáu giờ tối, Abby đến phòng lưu trữ. Như mong đợi, căn phòng đến giờ ăn tối, chỉ có thực tập sinh, bàn ta đầy những bệnh án.

      Hơi hồi hộp, Abby tiến đến bàn và cười.

      - Tôi tìm số liệu cho bác sĩ Wettig, ông làm nghiên cứu về tỷ lệ cấy ghép tim. Làm ơn giúp tôi lấy danh sách trong máy tính của ? Tên và số của các ca cấy ghép tim thực ở đây suốt hai năm qua.

      - Với những thông tin đó phải có đơn cầu từ văn phòng.

      - Họ về nhà cả rồi, tôi có thể lấy cái đơn đó lúc khác mà. Tôi muốn chuẩn bị sẵn sàng cho bác sĩ Wettig vào sáng mai, biết Giám đốc thế nào rồi đấy.

      Viên thu ngân cười vang. Tất nhiên ta biết chính xác giám đốc là người thế nào. ta ngồi xuống và gõ vào màn hình tìm kiếm. Dưới mục “chẩn đoán” ta gõ “cấy tim”, sau đó là năm thực , sau đó ta gõ Enter.

      Tên từng người lên, danh sách, số bắt đầu ra. ta đặt lệnh in và vài giây sau, danh sách có ở máy in, ta đưa trang giấy cho Abby.

      - Có hai mươi chín tên trong danh sách, người cuối cùng là Nina Voss.

      - Tôi có thể có mười bệnh án đầu tiên ? Có lẽ tôi nên bắt đầu làm việc đêm nay luôn.

      thực tập sinh biến mất sau tủ dữ liệu, lát sau, ta mang ra đống hồ sơ phủi bụi.

      - Đây chỉ là hai bệnh án đầu tiên, tôi mang cho số còn lại.

      Abby mang đống bệnh án ra bàn, chúng nặng . Mỗi bệnh nhân cấy ghép tim có cả đống giấy tờ, và hai bệnh nhân này cũng ngoại lệ. Abby mở tập đầu tiên ra xem.

      Tên bệnh nhân là Gerald Luray, năm mươi tư tuổi, trả bằng bảo hiểm cá nhân. biết những thông tin ở đây hợp lệ đến thế nào nên phải copy hết chúng ra giấy. cũng xem xét luôn tên, ngày tháng của các ca và những người tham gia. nhận ra tất cả những cái tên: Aaron Levi, Bill Archer, Frank Zwick, Rajiv Mohandas và Mark. Y như dự đoán, có thông tin về người cho. Chúng luôn được giữ kín. Tuy nhiên, giữa các ghi chú của các y tá tim được cho đến từ Norwalk, Connecticut. Bệnh nhân được đưa đến phòng mổ để… Abby viết: 0830, lấy từ Norwalk, Conn.

      thực tập sinh lại mang thêm tài liệu cho Abby, thêm năm cái nữa, và trở lại để lấy thêm.

      Abby làm việc qua cả giờ ăn tối. ngừng lại để ăn, cho phép được nghỉ ngơi, ngoại trừ dừng lại lát gọi cho Mark với ấy về muộn.

      Đến giờ đóng cửa mới về.

      dừng lại ở cửa hàng McDonald đường về nhà và mua suất Big Mac, gà rán và nước. Để có thêm Cholesterol lên não, ăn tất cả những gì mua, vừa ăn vừa nhìn vào phòng khách, có cả tá bé cậu bé hẹn hò, vài cử nhân mệt mỏi. ai chú ý khi ở đó, ăn rất nhanh rồi ra về.

      Trước khi mở máy, nhìn quanh, có xe tải.

      Khoảng mười giờ mười lăm phút, về nhà và thấy Mark ngủ, đèn tắt hết. nghĩ mình thể trả lời câu hỏi nào. cởi bỏ đồ và nhàng leo lên giường nhưng động vào . sợ phải chạm vào .

      Khi bất ngờ trở mình và tìm , thấy toàn thân mình cứng lại.

      - Hôm nay thấy nhớ em quá - thầm, xoay mặt về phía mình và hôn rất lâu. Bàn tay bắt đầu luồn xuống eo và xoa mông . nhúc nhích, cảm thấy cơ thể mình căng cứng, thể đáp lại. nằm đó, nhắm mắt, tim đập thình thịch khi kéo vào lòng, ôm chặt lấy .

      Mình làm tình với ai vậy? tự hỏi khi áp người vào .

      Khi xong việc, bỏ ra, thầm.

      - em.

      lúc rất lâu sau, khi ngủ say mới .

      - Em cũng .



      Bảy giờ bốn mươi phút sáng, trở lại phòng lưu trữ, mấy cái bàn bị chiếm dụng và các dược sĩ dọn đống giấy tờ cho buổi sáng. Abby cầu thêm 5 bệnh án nữa. Rất nhanh, lấy bút, ghi chép rồi trả lại bệnh án, rồi ra ngoài.

      ở thư viện vài tiếng, tìm thêm các bài báo cho bác sĩ Wettig. Mãi đến chiều muộn hôm đó mới quay lại phòng lưu trữ, rồi cầu thêm bệnh án.



      Vivian ăn nốt miếng pizza, sức ăn của luôn là điều kỳ lạ với Abby. Thân thể gầy gò đó mà lại như cái lò. Khi họ ngồi xuống ở Gianelli. Abby chỉ ăn vài miếng.

      Vivian lau tay vào khăn tay.

      - Vậy là Mark vẫn biết à?

      - Tôi với ấy, tôi sợ.

      - Làm sao có thể chịu được nhỉ? Sống trong cùng mái nhà và chuyện?

      - Chúng tôi vẫn chuyện, nhưng về chuyện đó.

      Abby với lấy tập giấy tờ mang theo, giữ nó cẩn thận cho Mark biết. Đêm qua, khi về đến nhà phải giấu nó vào trong bụng. Gần đây, giấu nhiều quá. Và biết có thể chịu đựng được bao lâu.

      - Abby, phải chuyện này với Mark.

      - Chưa phải bây giờ, cho đến khi nào tôi biết tất cả .

      - sợ Mark đấy chứ, phải ?

      - Tôi sợ ấy phủ nhận mọi thứ. Và tôi chẳng biết ấy có hay - lùa tay vào tóc - Lạy Chúa. kinh khủng, tôi nghĩ mình ổn định rồi cơ đấy. Tôi chẳng muốn có cái gì tồi tệ thêm nữa, tôi làm việc như điên vì nó. Bây giờ tôi thể quyết định làm gì nữa, đâu tiếp nữa, tất cả những thứ tôi tính toán đều còn phù hợp nữa.

      - muốn tới Mark hả?

      - Đặc biệt là Mark.

      - Trông kinh khủng quá, Abby.

      - Tôi ngủ ngon giấc. Tôi có quá nhiều thứ phải nghĩ phải chỉ là Mark. Cả Mary Allen nữa. Tôi phải đợi thám tử Katzka để cho ta thấy tôi tới cái còng của ta.

      - nghĩ ta nghi à?

      - Tôi nghĩ ta quá sáng suốt để nghĩ tới.

      - vẫn chưa nghe ta gì mà, có lẽ ta bỏ qua nó, có lẽ tin ta quá đấy.

      Abby nghĩ về đôi mắt trầm lắng của Bernard Katzka, .

      - ta quả là khó đoán, nhưng tôi nghĩ Katzka chỉ thông minh và còn kiên định nữa, tôi sợ ta. Tôi thấy đủ rắc rối và lo sợ vì ta rồi.

      Vivian ngồi ngửa ra.

      - Thú vị nhỉ, con mồi thấy thú vị vì thợ săn.

      - Đôi khi tôi chỉ muốn gọi điện cho Katzka và tung hê mọi thứ, chấm dứt tất cả - Abby úp mặt vào bàn tay - Tôi mệt mỏi quá, tôi ước gì mình đâu đó, tuần thôi.

      - Có lẽ nên chuyển ra khỏi nhà Mark. Tôi có phòng ngủ đấy, bà tôi dọn .

      - Bà tất cả nhà các cháu của bà. Bây giờ tôi có người bà con từ Concord chuẩn bị cho viếng thăm của cụ.

      Abby lắc đầu.

      - Tôi biết nữa, vấn đề là tôi Mark, tôi chỉ tin ấy nữa, nhưng tôi vẫn ấy. Tôi biết những gì chúng ta làm có thể hủy hoại ấy.

      - Nhưng có thể cứu ta.

      Abby nhìn Vivian cách đau khổ.

      - Tôi cứu mạng ấy, nhưng hủy hoại nghiệp của ấy, ấy chắc chắn cảm ơn tôi đâu.

      - Aaron cảm ơn . Kunstler cảm ơn , vợ con Hennessy nữa.

      Abby gì.

      - đoán chắc Mark liên quan khoảng bao nhiêu phần trăm?

      - Tôi chắc, điều đó mới khó khăn. Tôi muốn tin vào ấy và có đủ bằng chứng - chạm vào mớ giấy tờ của mình - Tôi tìm cả hai mươi lăm file rồi, vài ca thực hai năm trước đây. Tên của Mark có ở tất cả các ca.

      - Archer cũng thế, Aaron cũng vậy. Điều đó chưa lên nhiều điều. Được, thế còn người cho?

      - Thú vị đấy - Abby nhìn quanh cửa hàng và cúi về phía Vivian - phải tất cả các bệnh án đều có đề cập nội tạng cho đến từ thành phố nào, chỉ số có nhưng rất mập mờ, bốn trong số chúng đến từ Burlington, Vermont.

      - Còn Wilcox Memorial?

      - Tôi biết, bệnh viện đó chẳng bao giờ có tên trong ghi chú của y tá. Nhưng tôi thấy rất lạ là thành phố như Burlington lại có nhiều người chết vì não đến thế.

      Vivian trao cái nhìn đầy ý.

      - Có cái gì đó bình thường rồi. Chúng tôi đưa ra giả thiết có gì hơn là mạng lưới. Những người cho là những người bên ngoài hệ thống, nhưng giải thích tại sao có nhiều người như vậy từ thành phố. Trừ khi…

      - Trừ khi người cho là bịa ra.

      Cả hai im lặng.

      Burlington là thành phố của các trường đại học. Abby nghĩ thầm. Ở đó đầy các sinh viên trẻ, khỏe, với trái tim khỏe mạnh.

      - Tôi có thể xem ngày của bốn vụ lấy tim ở Burlington ?

      - Tôi có chúng đây, Vivian.

      - Tôi kiểm tra lại chúng với dịch vụ tang lễ ở Burlington. Tìm xem ai chết vào ngày hôm đó, có thể chúng ta tìm ra tên của bốn người và tìm ra tại sao họ chết vì não.

      - Họ có đủ hết đâu. Sao vậy nhỉ?

      - Vậy ta phải đến chỗ chứng tử. trong hai ta , chỗ dù có phải chết tôi cũng đến.

      Vivian vốn bình tĩnh và can đảm. Người phụ nữ quả cảm này chẳng sợ bất cứ nguy hiểm nào.

      Abby hỏi:

      - Sao chị lại muốn đến đó?

      - Nếu chúng ta làm, Victor Voss thắng, và những kẻ thua cuộc giống như Josh O’Day - ngừng lại và thào - muốn vậy à, Abby?

      Abby lại ôm lấy mặt.

      - , tôi nghĩ mình có lựa chọn nào nữa.



      Xe của Mark ở chỗ đỗ.

      Abby đỗ phía sau nó và tắt máy, ngồi rất lâu trong đó, tìm kiếm dũng khí để ra khỏi xe, vào nhà, đối mặt với .

      Cuối cùng cũng ra khỏi xe và vào nhà.

      ở trong phòng khách xem chương trình đêm khuya. Khi vừa bước vào, tắt ti vi.

      - Vivian dạo này làm ăn sao rồi?

      - ấy vẫn tốt. Dừng lại rất đúng điểm, ấy làm ở Wakefield.

      Abby treo áo khoác lên móc.

      - Hôm nay thế nào?

      - Bọn vụ vỡ động mạch. phải làm mãi tới tận bảy giờ mới xong.

      - ta có được cứu ?

      - , ta rồi.

      - tệ, em rất tiếc.

      đóng cửa.

      - Em mệt quá, em tắm .

      - Abby?

      dừng lại và nhìn Mark. Họ bị chia cắt bởi căn phòng rộng, nhưng khoảng cách giữa họ thậm chí còn xa hơn.

      - Chuyện gì xảy ra với em vậy? Chuyện gì thế?

      - biết đấy, em chỉ lo về công việc thôi.

      gì.

      - Thậm chí còn ít nhìn thấy em hơn. Em ở chỗ Vivian nhiều hơn ở nhà, khi em ở nhà, em cứ như là ai khác chứ phải là em.

      - Em chỉ mệt thôi, hiểu tại sao ?

      ngửa ra, có vẻ mệt mỏi.

      - muốn biết đấy Abby, có phải em hẹn hò với ai đó ?

      nhìn chằm chằm, thể tin Mark lại vậy. gần như phá lên cười vì nghi ngờ của . Nếu chỉ đơn giản như vậy chúng ta cũng có khác gì những cặp đôi khác.

      - đâu, tin em .

      - Tại sao em chuyện với nữa?

      - Bây giờ em với đây.

      - Đây phải là chuyện! Là cố tìm lại Abby trước đây. Hình như đánh mất ấy, mất em rồi - lắc đầu và nhìn chỗ khác - muốn có lại em.

      ngồi xuống bên cạnh , đủ gần để chạm vào , nhưng đủ để cảm thấy có liên kết.

      - chuyện với , Abby, làm ơn mà.

      nhìn , và đột ngột nhận ra vẫn là Mark mà biết, vẫn khuôn mặt và nụ cười đó với qua bàn mổ, khuôn mặt mà .

      - Làm ơn - nhắc lại nhàng. nắm tay rút lại.

      để ôm vào lòng, ở đó, nơi thường cảm thấy an toàn, thể nghỉ được, nằm xuống dựa vào ngực .

      - cho nghe chuyện gì xảy ra giữa chúng ta vậy?

      nhắm mắt lại để ngăn những giọt nước mắt trào ra.

      - Chẳng có gì.

      thấy vòng tay của ôm rất chặt quanh , nhìn vào mặt biết có thể biết rằng dối, lần nữa.



      Bảy giờ rưỡi sáng hôm sau, Abby lại đến Bayside.

      ngồi trong xe lúc, mắt nhìn vỉa hè ẩm ướt. Mới giữa tháng mười mà thời tiết mang cái giá lạnh của mùa đông về. Đêm qua ngủ chẳng ngon giấc, thực ra thể nhớ nổi lần cuối ngủ ngon là khi nào. Người ta có thể sống bao lâu mà ngủ nhỉ? Nhìn vào gương xe, gần như nhận ra mình nữa, trong hai tuần mà như già mười tuổi.

      Ánh đèn đằng trước làm chú ý. quay đầu lại đủ để nhìn cái xe vào, đợi nó xuất lại, nhưng .

      Ngay lập tức ra và bắt đầu bộ vào bệnh viện, cái vali nặng như cối đá kéo xuống. Bỗng ở bên phải , tiếng động cơ xe bất ngờ rú lên, quay lại, hy vọng nhìn thấy cái xe tải nhưng chỉ có cái xe thùng bịt kín lao tới.

      Tim đập mạnh, đập liên hồi cho tới khi vào bên trong bệnh viện. lên tầng trệt và vào phòng lưu trữ. Có lẽ đây là đợt đến cuối cùng của , chỉ còn bốn cái tên trong danh sách.

      đặt tập giấy lên bàn và :

      - Xin lỗi, tôi có thể lấy bệnh án được ?

      Thủ thư quay mặt về phía , có lẽ Abby chỉ tưởng tượng, nhưng thấy mặt ta lập tức đanh lại. Họ làm việc với nhau trước đó, ta có vẻ khá thân thiện nhưng hôm nay ta thậm chí còn cười.

      - Tôi cần thêm bốn bệnh án nữa.

      Thủ thư nhìn vào tờ giấy cầu và :

      - Tôi xin lỗi bác sĩ DiMatteo, tôi thể đưa cho được.

      - Tại sao?

      - Chúng có ở đây.

      - Nhưng còn chưa kiểm tra mà.

      - Tôi được lệnh là cung cấp thêm file nào cho nữa, bác sĩ Wettig ra lệnh thế. Ông ấy khi nào tới xin vui lòng tới chỗ ông ấy lập tức.

      Abby cảm thấy máu dồn hết xuống mặt, gì.

      - Ông ấy chưa bao giờ cầu ai cung cấp bệnh án nào để nghiên cứu cả - Giọng thủ thư chợt trở nên cay nghiệt. dối chúng tôi, bác sĩ DiMatteo.

      Abby trả lời, thấy hình như cả căn phòng im lặng, quay lại và nhìn thấy ba bác sĩ khác ở trong phòng, tất cả đều nhìn .

      ra khỏi phòng lưu trữ.

      Điều đầu tiên mà muốn là rời khỏi tòa nhà, để tránh phải đối mặt với Wettig và chỉ cần lái xe . lái bỏ lại hàng nghìn dặm đằng sau. tự hỏi mất bao lâu mới tới Florida, với bãi biển. chưa tới Florida bao giờ, chưa từng làm những điều mà người khác làm. có thể làm bây giờ, chỉ cần ra khỏi cái bệnh viện khốn kiếp này, leo lên xe và : Đồ khốn, các người thắng.

      Nhưng ra khỏi tòa nhà, vào thang máy và ấn số tầng hai.

      Qua phòng hành chính mọi thứ bỗng trở nên ràng với . Thứ nhất là quá cứng đầu hoặc quá ngốc thèm bỏ chạy. Thứ hai là thấy bãi biển phải là nơi thực muốn. Những gì muốn là mang ước mơ trở lại.

      ra khỏi thang máy và tới hội trường có trải thảm, phòng nội trú ở góc, qua phòng của Jeremiah. Khi ngang qua chỗ thư ký của Parr, thấy ta lập tức ngồi xuống và gọi điện thoại.

      Abby vào góc tới phòng nội trú, có hai người đàn ông đứng ở bàn thư ký, Abby đều chưa nhìn thấy cả hai bao giờ. Thư ký nhìn với biểu kinh khủng như thư ký của Parr, ta kêu lên:

      - Ôi, bác sĩ DiMatteo!

      - Tôi cần gặp bác sĩ Wettig.

      Hai người đàn ông lập tức quay lại nhìn , khoảnh khắc tiếp theo Abby thấy đèn chói sáng, lùi lại khi thấy ánh đèn tiếp tục sáng lên. Đèn máy ảnh.

      - Các người làm gì vậy?

      - Bác sĩ, có thể cho ý kiến về cái chết của Mary Allen ? - trong hai người đó hỏi..

      - Cái gì?

      - Bà ấy là bệnh nhân của , phải ?

      - Các người là ai?

      - Gary Starke, Boston Herald. Có phải người ủng hộ cái chết êm ái ?

      - Chúng tôi biết từng phát biểu về điều đó.

      - Tôi chưa bao giờ về…

      - Tại sao lại ở hành lang khi trong ca trực?

      Abby lùi lại.

      - Tránh xa tôi ra, tôi muốn chuyện với các người.

      - Bác sĩ DiMatteo…

      Abby quay lại và về phía văn phòng, suýt đụng phải Parr ra.

      - Tôi muốn đám phóng viên các ra khỏi văn phòng tôi ngay - Parr hét lên và quay về phía Abby - Bác sĩ, với tôi.

      Abby theo Parr ra khỏi chỗ đó, họ nhanh xuống sảnh và vào văn phòng ông ta. Ông ta đóng cửa rồi quay lại nhìn .

      - Tờ Tin tức bắt đầu gọi điện nửa giờ trước, tờ Globe cũng gọi kéo theo cả đám báo chí khác.

      - Brenda Hainey với họ à?

      - Tôi nghĩ là ta, có thể họ biết về vụ moocphine và lọ thuốc trong tủ của , những điều mà ta biết.

      Abby lắc đầu.

      - Sao?

      - Có lẽ thông tin bị rò rỉ - Parr ngồi vào ghế đằng sau bàn - Chuyện này giết chúng ta mất, vụ điều tra hình , cảnh sát chuẩn bị lên rồi.

      Cảnh sát? Tất nhiên rồi, giờ mọi chuyện cũng đến tai họ.

      Abby nhìn Parr, cổ họng nghẹn ứ nên lời. tự hỏi liệu ông ta có phải là kẻ gây rò rỉ nhưng rồi nhận ra là thể. Vụ xì căng đan này cũng ảnh hưởng đến ông ta mà.

      Có tiếng gõ cửa và bác sĩ Wettig vào.

      - Tôi phải làm thế quái nào với đám phóng viên đó nhỉ?

      - Ông phải chuẩn bị bài phát biểu, giám đốc. Susan giúp ông, ta tới đấy. Cho tới lúc đó ai được gì cả.

      Wettig gật đầu, rồi ông quay sang nhìn Abby.

      - Tôi xem vali của được chứ?

      - Tại sao ạ?

      - biết tại sao mà, có thẩm quyền tìm kiếm những thứ đó. Đó là bí mật và là vấn đề nhạy cảm. Tôi muốn giao cho tôi toàn bộ những ghi chép của .

      gì. làm gì.

      - Tôi nghĩ vụ kiện ăn trộm khác giúp đâu.

      - Ăn trộm ư?

      - Bất cứ thông tin nào lấy ra từ nghiên cứu bất hợp pháp đều là ăn trộm, đưa tôi vali, nhanh lên.

      Abby đưa nó cho ông ta và gì cả. nhìn ông mở nó ra, xem các tờ giấy và ghi chú của . chẳng thể làm gì ngoài giơ đầu chịu thất bại, lần nữa họ lại đánh bại . Họ phủ đầu trước và kịp chuẩn bị. Lẽ ra phải cẩn thận hơn nhưng lại quá tập trung vào việc xem mình gì để giải trình.

      Ông ta đóng cặp lại và đưa cho Abby.

      - Tất cả đấy à?

      chỉ gật đầu.

      Wettig im lặng nhìn lát, rồi ông lắc đầu.

      - Lẽ ra bác sĩ khá đấy, nhưng giờ tôi nghĩ đến lúc cần giúp đỡ. Tôi nghĩ nên xem lại tinh thần của mình, và tôi sa thải khỏi đội, bắt đầu từ hôm nay - Quá ngạc nhiên nhưng vẫn nhận thấy nuối tiếc chân thành trong giọng của ông - Tôi rất tiếc.

    3. vulinh

      vulinh Well-Known Member

      Bài viết:
      20,019
      Được thích:
      24,221
      18



      Thám tử Lundquist là mẫu người đẹp trai tóc vàng lý tưởng, chuyện với Abby hai tiếng trong phòng kính, nếu có ý định làm hoảng sợ có vẻ chiến thuật của hoạt động hiệu quả. Ở thị trấn bé Maine nơi Abby lớn lên, các cảnh sát là những người vẫy chào bạn trong xe, hay bộ cách hào hứng quanh thành phố với chùm chìa khóa leng keng ở thắt lưng, những người trao học bổng danh dự cho các sinh viên. Họ phải là người làm bạn thấy sợ.

      Nhưng Abby thấy sợ Lundquist, sợ từ lúc bước vào phòng và đặt máy ghi lên bàn, còn thấy sợ hơn khi lấy ra cái thẻ từ túi áo và đọc lên. là người bước vào đồn cảnh sát, đề nghị được chuyện với Katzka. Thay vì Katzka họ lại đem Lundquist tới cho , và ta hỏi với cái cách thèm che giấu tính hiếu chiến của điều tra viên.

      Cửa mở, cuối cùng Katzka cũng bước vào, việc nhìn thấy người quen làm Abby cảm thấy đỡ hơn nhưng ấy lại chẳng tỏ thái độ gì cả. ấy đứng đối diện cái bàn và tỏ thái độ rất đáng sợ.

      - Tôi biết gọi luật sư, có muốn gọi ? - ta hỏi.

      - Tôi bị bắt à?

      - , tạm thời chưa.

      - Tức là tôi muốn lúc nào cũng được sao?

      ta ngừng lại và nhìn Lundquist.

      - Đây chỉ là hỏi cung bước đầu thôi.

      - Vậy ông có nghĩ tôi cần luật sư ?

      Katzka lại lần nữa ngập ngừng.

      - Đó là quyết định của .

      - Xem nào, tôi tự vào đây, tôi làm vậy vì tôi muốn chuyện với . Tôi cho chuyện gì xảy ra. Tôi sẵn sàng trả lời các câu hỏi của người đàn ông này, nhưng nếu các định bắt giữ tôi vâng, tôi gọi luật sư. Nhưng tôi muốn làm từ đầu là phải bởi vì tôi làm gì sai cả - nhìn vào mắt Katzka - Vậy nên tôi đoán câu trả lời của tôi là, tôi cần luật sư.

      lần nữa, Katzka và Lundquist trao nhau ánh nhìn khó hiểu và rồi Lundquist :

      - ta là của đấy, Sên Mập - rồi ta ra.

      Katzka ngồi xuống bàn.

      - Tôi đoán hỏi tôi như ta.

      - Tôi bỏ lỡ đoạn đầu nhưng tôi nghĩ tôi nghe thấy hầu hết các câu trả lời của . ta hất đầu về phía tấm gương, nó là cửa sổ, nhận ra điều đó. ta lắng nghe cuộc hội thoại của và Lundquist. tự hỏi bao nhiêu người khác nghe sau tấm kính đó, câu chuyện của . cảm thấy như mình bị phơi bày, bị tra tấn. lay lay cái ghế quay lại và thấy mình đối diện thẳng với Katzka.

      - Vậy định hỏi tôi gì nào?

      - ai đó kiếm chuyện với ? cho tôi nghe là ai thế?

      - Tôi nghĩ là Victor Voss, giờ tôi chắc.

      - có kẻ thù nào khác ?

      - .

      - Ai đó thích tới mức ghét cả bệnh nhân của à?

      - Có lẽ đó phải vụ giết người, mức moocphine cao quá mà chưa được thẩm định.

      - Vậy à? Bà Mary được chôn cất vài ngày trước, và vụ đó được khơi ra bởi cháu bà ta à? Đội kiểm nghiệm xác định sáng nay.

      Abby tiếp nhận thông tin của ông ta trong im lặng, có thể nghe thấy tiếng máy ghi chạy, ngồi lại sâu hơn vào chiếc ghế, giờ chẳng có câu hỏi nào cà, Allen chết vì thuốc quá liều.

      - Bác sĩ, vài ngày trước có cái xe màu tím theo à?

      - Xe tải , màu hạt dẻ, tôi thấy nó lại, hôm nay.

      - có nhớ biển số ?

      - Tôi nhìn .

      - Để tôi xem tôi liệu có đúng nào. Ai đó tiêm moocphine quá liều cho bệnh nhân của , bà Allen. ta hoặc ta ném lọ moocphine hết vào trong tủ của . Và giờ bị theo dõi bởi cái xe tải, tất cả những điều đó là do Victor Voss?

      - Tôi nghĩ vậy, nhưng có thể là ai đó khác.

      Katzka ngồi lùi lại và nhìn , cái nhìn băn khoăn lan cả xuống vai của ta, giờ chúi về phía trước.

      - Cho tôi biết về vụ cấy ghép .

      - Tôi cả rồi.

      - Tôi nó liên quan gì tới vụ bà Allen chết.

      hít hơi sâu. với gã kia toàn bộ câu chuyện về Josh O’Day và những nghi vấn xung quanh vụ của Nina Voss. Lại phí phạm thời gian nữa đây, cảm thấy mệt mỏi, nhắm mắt lại:

      - Tôi xin ly nước.

      Lundquist rời căn phòng, khi ta , cả và Katzka ai lời, ngồi đó, nhắm mắt, hy vọng mọi thứ qua , nhưng . vẫn ở căn phòng này, trả lời các câu hỏi, y như nhau, mãi mãi. Có lẽ nên gọi luật sư, có lẽ nên ra ngoài. Katzka rằng chưa bị bắt, vẫn chưa.

      Lundquist quay lại với cốc nước, uống hơi hết sạch và đặt cái cốc rỗng lên bàn.

      - Vậy còn vụ ghép tim sao, bác sĩ?

      thở dài:

      - Tôi nghĩ đó là cách Aaron kiếm được ba triệu đô, bằng việc tìm kiếm người cho cho các bệnh nhân lắm tiền muốn phí thời gian chờ đợi.

      - Chờ đợi?

      gật đầu.

      - Ở nước này, chúng ta có năm nghìn người cần tim cấy ghép, rất nhiều người chết vì thiếu tim. Người cho phải là người trẻ và khỏe, có nghĩa là phần lớn những người cho là nạn nhân của bệnh não, thế vẫn là chưa đủ đâu.

      - Vậy ai quyết định bệnh nhân nào được cho?

      - Hệ thống máy tính, hệ thống vùng chúng ta được điều hành bởi Ngân hàng nội tạng England, tất nhiên họ rất công bằng. được ưu tiên dựa điều kiện sức khỏe của .

      - Điều đó có nghĩa là nếu ở tốp dưới của danh sách, phải đợi lâu đấy. Nếu giàu, lo lắng mình có thể chết tiêu trước khi nhận được tim. ràng, phải tìm cách ra ngoài mà lấy tim chứ.

      - Có thể như thế sao?

      - Có lẽ liên quan tới chợ đen. Có cách để giữ những người cho ở trong danh sách của hệ thống và chuyển thẳng tim đến cho bệnh nhân, hoặc đó là khả năng tồi tệ nhất.

      - Nghĩa là gì?

      - Sinh ra những người cho mới.

      - muốn tới giết người à? - Lundquist hỏi - Vậy còn tất cả xác của họ sao? Các báo cáo mất tích sao?

      - Tôi chuyện đó xảy ra. Tôi chỉ là có thể - Giọng bình tĩnh hơn - Tôi nghĩ Aaron Levi có phần trong đó, lý do của ba triệu đô.

      Vẻ mặt của Katzka liền thay đổi. bắt đầu chú ý những tình tiết mà đưa ra.

      - Ông thấy sao? Bây giờ tôi phải quan tâm chuyện này, vì tôi có đến mấy cái đơn kiện bị hủy bỏ, họ hy vọng tôi ngừng lại, nhưng tôi vẫn tiếp tục, và giờ họ phải tìm cách thủ tiêu tôi, vì tôi có thể tung hê mọi thứ, tôi có thể phá hủy mọi thứ.

      - Vậy tại sao họ giết ? - Lundquist hỏi.

      ngừng lại.

      - Tôi biết, có lẽ họ nghĩ tôi chưa biết nhiều, hoặc họ sợ. Có thể là quá sớm sau cái chết của Aaron.

      - Rất thông minh đấy - Lundquist cười.

      Katzka ra dấu bảo ta câm miệng.

      - Bác sĩ DiMatteo, tôi chân thành với , đây thực phải vở kịch đâu.

      - Tôi là người duy nhất nghĩ vậy.

      - Tôi có thể tự đề xuất ? - Lunquist - Như thế hoàn chỉnh hơn - ta tới phía bàn và nhìn Abby - Bệnh nhân Allen của chịu đụng đau đớn, có lẽ bà ta nhờ giúp đỡ vượt qua chăng, có lẽ nghĩ đó là chuyện nhân đạo nên làm và cho bà ta liều, vấn đề là, y tá nhìn thấy và ta gửi thư nặc danh tới cho Brenda, đột nhiên gặp rắc rối, bởi lòng trắc của mình, giờ đối mặt với bản án, tù tội, kinh khủng, phải ? Vậy nên mới đến đây và đưa ra mớ giả thuyết. Ai có thể đồng ý hay chối bỏ, chẳng quan trọng.

      - phải chuyện như vậy đâu.

      - Vậy là chuyện gì?

      - Tôi rồi, tất cả…

      - có giết Mary Allen ?

      - - đứng dậy, dựa vào bàn và thấy bàn tay mình nắm lại - Tôi giết bệnh nhân của mình.

      Lundquist nhìn Katzka.

      - ta giỏi dối, phải ? - Rồi ta ra.

      Katzka và Abby gì.

      Sau đó, hỏi, nhàng.

      - Tôi có bị bắt ?

      - , có thể về.

      Cả hai cùng đứng dậy, họ nhìn nhau như thể ngầm hiểu cuộc chuyện kết thúc.

      - Tại sao tôi được thả?

      - Để điều tra thêm.

      - nghĩ tôi có tội ?

      ta im lặng, biết đó phải là câu hỏi ta có thể trả lời, ta có vẻ cân nhắc mức độ thành của mình, rồi ta chọn cách lẩn tránh.

      - Bác sĩ Hodell chờ , ấy ở bên ngoài - ta quay lưng mở cửa - Tôi chuyện với sau, bác sĩ.

      xuống và đến phòng chờ.

      - Abby? - Mark gọi .

      để kéo vào lòng nhưng cơ thể vô cảm lạ lùng. Như thể lơ lửng đầu cả hai, quan sát hai người lạ ôm hôn nhau.

      Và từ khoảng cách đó, nghe :

      - Chúng ta về nhà thôi.

      Qua cửa kính, Katzka nhìn theo cặp đôi ra cửa, quan sát Hodell ôm chặt người phụ nữ như thế nào. Đó phải là chuyện các cảnh sát thường thấy. Vuốt ve, tình . thường thấy các cặp đôi chửi bới nhau, buộc tội nhau. Katzka thấy mình hoàn toàn miễn dịch với chuyện đó, cũng muốn được ôm ấp cơ thể phụ nữ.

      Nhưng tình là thứ lâu lắm rồi cảm nhận được, cảm thấy ghen tị với Mark.

      - Này Sên! - Ai đó gọi - Đường dây số ba nhé.

      Katzka cầm lấy điện thoại và :

      - Katzka nghe đây.

      - Đây là phòng xét nghiệm, giữ máy cho bác sĩ Rowbotham nhé.

      đợi, mắt quay lại phòng chờ, và thấy cặp đôi khỏi. cặp đôi có mọi thứ: tiền, nghiệp chói sáng. Sao ta có thể liều mình để xua nỗi đau của bệnh nhân?

      Rowbotham .

      - Sên bò!

      - Ừ, gì thế.

      - Ngạc nhiên nhé.

      - Lành hay dữ?

      - Bất ngờ thôi. Tôi có mẫu xét nghiệm tế bào C5C- MS từ Levi.

      - Tôi nghĩ tìm ra mọi thứ? - Katzka .

      - Chúng tôi tiến hành các xét nghiệm thông thường, narcotic, bard, nhưng đó là những thứ thông thường thôi. Chúng ta về bác sĩ này mà, nên chúng tôi chỉ dừng lại ở những xét nghiệm thông thường. Tôi kiểm tra các thứ khác và phát ra suczi clorua.

      - Đó là cái quái gì vậy?

      - hợp chất phong tỏa tế bào thần kinh, cùng với các loại axit trong cơ thể, gây hiệu ứng như d-tubocurarine.

      - Thuốc độc à?

      - Ừ, nhưng hơi khác chút. Nó được dùng trong các phòng mổ thường xuyên, để làm co cứng các cơ cho việc phẫu thuật, dễ lấy ven hơn.

      - Ý ta bị tê liệt?

      - Hoàn toàn chống cự được. Tệ nhất là ta nhận thức được nhưng làm gì được - Rowbotham ngừng lại - Cách tệ hại nhất để chết đấy.

      - Thuốc vào cơ thể thế nào?

      - Tiêm thôi.

      - Nhưng có thấy vết tiêm nào đâu?

      - đầu ấy, giấu sâu trong tóc. Chỉ như mũi kim thôi, làm sao mà biết được, ta dễ dàng bỏ qua vì cho rằng nó giống như viêm da.

      Katzka nghĩ lát, nhớ Abby tới cái gì đó mà vẫn chưa bám vào để theo dõi tiếp.

      .

      - có thể tìm giúp tôi hai báo cáo khám nghiệm tử thi của sáu năm trước ? nhảy xuống cầu Tobin tự tử - Lawrence Kunstler.

      - Đánh vần cho tôi… được rồi, tiếp.

      - Bác sĩ Hennessy, tôi nhớ tên lắm, nhưng ba năm trước đây, ngộ độc CO2, chết cả nhà.

      - Tôi nhớ vụ đó đấy, có em bé.

      - Chính nó đấy, tôi xem liệu có cái gì hay .

      - tìm kiếm điều gì , Sên Mập?

      - Tôi biết, có lẽ cái gì đó bị bỏ sót trước đây và giờ ta phải lấy lại.

      - cái chết sáu năm trước à, sắp thành kẻ lạc quan rồi đấy.



      - Thêm hoa nữa, bà Voss. Chúng vừa được chuyển đến, bà có muốn để nó ở đây , hay tôi đem ra phòng ngoài?

      - Đem chúng vào đây nhé.

      Nina ngồi bên cửa sổ thích của mình, bà nhận những lọ hoa được đem vào phòng ngủ và đặt xuống bàn. Giờ bà băn khoăn với việc sắp xếp.

      - Đem chúng lại đây, gần tôi ấy.

      - Tất nhiên rồi, thưa bà.

      Người hầu đem lọ hoa tới cái bàn trà bên cạnh Nina, tạo chỗ cho nó bằng cách đem lọ lyly.

      - Chúng phải hoa thường phải ?

      Hầu và giọng của lấy gì làm tán thưởng khi nhìn lọ hoa:

      - ạ.

      Nina cười. Đôi mắt của người làm vườn của nhặt và soi xét các màu sắc. Cây xô nga và hoa nón tím, cúc. Nhiều cúc. Chỉ đơn giản thôi, phải hoa đặc biệt. Sao có thể tìm thấy cúc vào mùa này nhỉ?

      Bà luồn tay vào nụ hoa và cảm thấy vị hè muộn, bà nhớ mảnh vườn mà bà quá ốm chăm sóc được, giờ mùa hè qua rồi, căn nhà mới của họ ở New Port đóng cửa vào mùa đông. Bà ghét mùa này, mảnh vườn bị tàn phá. Bà quay lại ngôi nhà ở Boston với mái nhà màu vàng và cửa hình bán nguyệt với phòng tắm lát đá hoa cương.

      Bà thấy tất cả tối tăm, ngôi nhà mùa hè của họ tràn ngập ánh nắng và mùi của biển, ngôi nhà này chỉ làm bà nhớ mùa đông, bà lấy bông hoa cúc lên và ngửi.

      - Bà nên để lọ lyly cạnh bà hơn. Mùi của nó dễ chịu - người hầu gợi ý.

      - Tôi chỉ thấy nhức đầu. Ai gửi thế?

      Hầu mở phong bì dán lọ hoa và đọc.

      - Gửi bà Voss, chúc bà mau bình phục, Joy.

      - Tôi quen ai tên thế cả.

      - Có lẽ họ đến thăm bà, bà có muốn nằm lại giường ? Ông nhà bà nên nghỉ ngơi.

      - Tôi nằm giường quá đủ rồi.

      - Nhưng…

      - Tôi ngủ sau, tôi muốn ngồi đây lát, mình.

      Hầu lưỡng lự, rồi gật đầu rời khỏi căn phòng.

      Cuối cùng mình cũng được yên thân, Nina nghĩ.

      Suốt cả tuần rồi, từ khi rời viện, bà bị bao bọc bởi mọi người. Các y tá riêng, các bác sĩ, người phục vụ và Victor. ấy đọc các tấm thiếp, trả lời điện thoại của bà và luôn bên giường bà, bảo vệ bà, cách ly bà, cầm tù bà.

      Bởi vì ấy bà, có lẽ ấy bà quá nhiều.

      nhàng đặt mình xuống ghế và thấy mình nhìn chằm chằm lên bức tranh chân dung họ chụp sau khi cưới. Victor cầu, và thậm chí chọn cả quần áo cho bà mặc, cái váy dài lụa với hoa hồng. Trong ảnh bà đứng thuyền, bó hồng trắng tay, tay kia nắm vào cái dây đu bên cạnh. Nụ cười của bà e thẹn, ngập ngừng như thể nghĩ: mình chỉ thuộc về người.

      Giờ bà thấy bức chân dung đó là bà lúc trẻ, bà nhận ra mình chỉ thay đổi chút xíu từ khi lấy chồng, là dâu bé trong vườn. Nhiều năm trôi qua, bà mất sức khỏe nhưng vẫn là người phụ nữ mà Victor Voss sở hữu.

      Bà nghe thấy tiếng bước chân của ấy, hình như ấy lên phòng ngủ.

      - Louisa với em vẫn ngồi đây. Em nên chợp mắt lát.

      - Em ổn mà.

      - Trông em ổn lắm đâu.

      - ba tuần rưỡi rồi, bác sĩ Archer người khác thậm chí còn lại được.

      - Em giống họ, em nên ngủ .

      Bà bắt gặp ánh mắt của Victor, bà chắc chắn.

      - Em muốn ngồi đây, Victor, em muốn nhìn ra ngoài cửa sổ.

      - Nina, chỉ muốn điều tốt nhất cho em.

      Nhưng bà quay mặt và nhìn ra công viên, dưới gốc cây, lá ngả màu.

      - Em muốn loanh quanh.

      - Còn quá sớm.

      - Đến công viên, dòng sông, bất cứ đâu, chỉ cần ra khỏi ngôi nhà này.

      - Em nghe , Nina.

      Bà thở dài, buồn bã.

      - mới là người nghe.

      Im lặng.

      - Cái gì thế này? - Ông ta chỉ vào lọ hoa.

      - Chúng vừa được gửi đến.

      - Ai gửi chúng vậy?

      Bà lắc đầu.

      - Người nào đó tên Joy.

      - Em nhặt ngoài đường cũng được thứ này.

      - Vậy nên người ta gọi nó là hoa dại.

      Ông ta bỏ lọ hoa ra và mang lọ lyly lại.

      - Ít nhất thứ này cũng phải là cỏ dại - rồi ông ta ra khỏi phòng.

      Bà nhìn lọ lyly. Chúng đẹp hoàn hảo, nhưng chúng làm bà muốn ốm thêm. Bà chớp mắt, dòng nước mắt trào ra, bà nhìn thấy chiếc phong bì bàn. Là người gửi bó hoa dại.

      Joy, là ai thế nhỉ? Bà băn khoăn.

      Bà mở nó ra và thấy có dòng chữ được viết phía sau tấm card.

      Có vài bác sĩ luôn .

      Dưới là số điện thoại.



      Abby ở nhà mình khi Nina gọi , lúc đó khoảng năm giờ chiều.

      - Bác sĩ DiMatteo phải ? Người luôn .

      - Bà Voss, bà nhận được hoa của tôi rồi sao?

      - Vâng, cảm ơn và tôi có nhận được cả cái ghi chú của nữa.

      - Tôi tìm mọi cách để liên hệ với bà, thư, điện thoại, nhưng ăn thua.

      - Tôi ở nhà cả tuần.

      - Nhưng bà được gọi điện.

      Yên ắng, rồi im lặng lát.

      - Tôi biết.

      ta biết mình bị cầm tù thế nào, ta chẳng biết mình bị chồng cách ly khỏi thế giới bên ngoài.

      - Có ai nghe cuộc điện thoại này ? - Abby cẩn thận hỏi.

      - Tôi ở mình, chuyện gì vậy?

      - Tôi cần gặp bà, tôi cần gặp bà mà để chồng bà biết. Bà sắp xếp được ?

      - Nhưng cho tôi biết lý do trước .

      - thể qua điện thoại được.

      - Tôi gặp nếu cho tôi biết.

      Abby ngập ngừng.

      - Về tim của bà.

      - Vậy sao?

      - ai biết nó từ đâu ra hay nó là tim của ai - ngừng lại giây rồi nhàng hỏi - Bà biết , bà Voss?

      im lặng kèm theo tiếng Nina thở, gấp và đột ngột.

      - Bà Voss?

      - Tôi phải .

      - Đợi , khi nào chúng ta gặp nhau.

      - Mai.

      - Mấy giờ, ở đâu?

      Lại im lặng, rồi tiếng bà xen lẫn tiếng thở.

      - Tôi tìm cách.



      Mưa bắt đầu rơi xuống đầu Abby ngày càng nhiều hơn, hơn bốn mươi phút rồi, đứng đây đợi Nina trước cửa Celluci. đoàn xe tải dừng lại để dỡ hàng, những người đàn ông mang những chiếc thùng các tông và những cái sọt , trong đựng toàn thuốc lá Snapple, Frito-lay, Winston, bánh Debbie và snack cho trẻ con.

      bốn giờ hai mươi phút, trời bắt đầu mưa nặng hạt hơn, kèm theo gió, nước mưa thấm vào giầy của Abby. Chân tê cóng, giờ trôi qua mà thấy Nina Voss đâu.

      Abby do dự khi chiếc xe tải chở thức ăn Progresso đột ngột tiến đến gần và nhấn còi. Khi nhìn lên, thấy chiếc Limousine đen dừng bên kia đường và cửa xe hạ xuống khi lái xe gọi:

      - Bác sĩ DiMatteo! Lên xe .

      do dự, xe quá tối nhìn thấy bên trong, nhưng có thể thấy có ai đó ngồi băng ghế sau.

      - Chúng ta có nhiều thời gian đâu - Lái xe giục Abby.

      băng qua đường, để đầu trần dưới mưa và mở cửa xe. Nước chảy giọt xuống sàn xe, tập trung vào người ngồi phía sau, gần như nhận ra bà ta. Trong bóng tối của chiếc xe, Nina Voss trông nhợt nhạt, da bà ta trắng bệch.

      - Vui lòng vào , bác sĩ - Bà Nina bảo.

      Abby ngồi bên cạnh bà ta và đóng cửa, chiếc xe lao tiếng động.

      Nina trông thực kinh khủng trong chiếc áo khoác đen và khăn quàng, mặt bà ta như trôi bồng bềnh, sức sống trong bóng tối của chiếc xe. Đó phải là viễn cảnh bệnh nhân hồi phục. Abby nhớ đến Josh, khuôn mặt hồng hào và đầy sức sống của cậu bé.

      Nina Voss trông như xác chết.

      - Tôi xin lỗi đến muộn, chúng tôi mãi mới ra khỏi nhà được.

      - Chồng bà biết ?

      - - Nina ngồi sâu vào ghế, mặt bà ta chìm trong bóng tối - Tôi nghiệm ra rằng bí mật của hôn nhân hạnh phúc là im lặng, bác sĩ ạ.

      - Có vẻ giống cuộc hôn nhân hạnh phúc.

      - Có đấy, rất lạ - Nina mỉm cười và nhìn ra ngoài cửa sổ, những hạt mưa làm bóng tối dầy hơn, nó che chở cho bà - Những người đàn ông cần che giấu nhiều thứ, hầu hết là về bản thân họ. buồn cười là họ chịu thừa nhận chúng, họ nghĩ họ quan tâm ta, nhưng qua thời gian, ta biết là gì - Bà quay sang Abby - Giờ tôi muốn biết, Victor làm gì.

      - Tôi hy vọng bà có thể cho tôi biết.

      - có cái gì đó với tim của tôi à? - Nina đặt tay lên ngực, trong bóng tối của chiếc xe, giống như cử chỉ làm dấu thánh: Cha Con và Thánh thần - biết những gì?

      - Tôi biết quả tim đến qua những kênh thông thường. Hầu hết nội tạng phải qua hệ thống đăng ký mới tới được người nhận, nhưng của bà , theo như ngân hàng nội tạng bà đâu có được nhận.

      Nina sững người, tay vẫn đặt lên ngực.

      - Vậy nó từ đâu ra?

      - Tôi biết, còn bà? Tôi nghĩ chồng bà biết đấy.

      - Sao?

      - Ông ta mua nó.

      - thể mua tim được.

      - Có đấy, có tiền mua tiên cũng được.

      Nina gì, bà ta im lặng và im lặng đó thừa nhận kinh hoàng: tiền có thể mua được mọi thứ.

      Xe chạy đến đường Embankment, họ dọc theo sông Charles, mặt sông xám màu và mưa dày đặc.

      Nina hỏi.

      - Sao biết?

      - Gần đây tôi rảnh - cũng thấy ngạc nhiên là bỗng nhiên mình thất nghiệp - Tôi tìm ra nhiều thứ trong vài ngày thôi, chỉ về tim của bà, mà còn về những thứ khác, càng tìm tôi càng thấy sợ ông chồng của bà.

      - Tại sao lại tìm tôi về chuyện này? Sao đến nhà chức trách?

      - Bà biết à? Gần đây tôi có biệt danh mới. Bác sĩ Hemlock. Họ tôi giết bệnh nhân, biết có đúng nhưng người ta sẵn sàng tin điều tệ nhất - Abby nhìn ra bờ sông - Tôi việc làm, uy tín, bằng chứng.

      - có gì?

      - Tôi chỉ có .

      Xe chạy qua khúc quanh, nước chảy xuống gầm xe, họ khỏi bờ sông và tới con đường Back Bay Fen.

      - Khoảng mười giờ hôm có ca phẫu thuật của bà - Abby - Bệnh viện Bayside nhận được điện thoại cho biết người cho tim có, ở Burlington, Vermont. Ba tiếng sau đó, tim được chuyển tới bệnh viện chúng tôi. Vụ lấy tim được cho là tiến hành ở bệnh viện Wilcox Memorial, bởi bác sĩ tên Tim Nicholls. Việc cấy ghép cho bà được tiến hành và có gì khác biệt cả, nó giống như nhiều ca làm ở Bayside, nhưng chỉ có điểm khác duy nhất: ai biết tim của bà từ đâu ra.

      - nó đến từ Burlington mà.

      - Tôi đoán thế nhưng bác sĩ Nicholls gì đó biến mất tăm, có lẽ ta bị giấu hoặc chết rồi cũng nên. Còn bệnh viện Wilcox phủ nhận việc lấy tim hôm đó.

      Nina lại im lặng, bà ta giấu mình trong chiếc áo khoác.

      - Bà phải là người đầu tiên - Abby - ít nhất có bốn người rồi, tôi xem các bệnh án của hai năm trước, giống y như bà. Bayside cũng nhận được điện thoại từ Burlington thông báo có người cho, và tim được chuyển tới đội của chúng tôi sau nửa đêm, rồi tim được ghép và tất cả thế là xong. Nhưng sai phạm là ở đó, chúng tôi về bốn quả tim, bốn người chết. Tôi và bạn tôi tìm hiểu dịch vụ tang lễ ở Burlington rồi, hôm đó chẳng có ai chết cả.

      - Vậy nó từ đâu ra?

      Abby ngừng lại, bắt gặp ánh mắt tin tưởng của Nina.

      - Tôi biết.

      Chiếc xe chạy tới phía bắc và lại trở về sông, họ hướng về đồi Beacon.

      - Tôi có bằng chứng, tôi thể chuyển nó cho NEOB hay bất cứ ai, họ biết tôi bị điều tra, họ nghĩ tôi bị điên, thế nên tôi mới đến gặp bà. Cái đêm tôi gặp bà ở phòng chăm sóc đặc biệt ấy, tôi nghĩ con người này có thể tin tưởng được. Tôi cần bà giúp, Nina.

      lúc sau, Nina gì, bà cũng nhìn Abby mà nhìn về đằng trước, rồi đột ngột ngẩng đầu lên, mặt như miếng xương bọc da trắng bệch. Cuối cùng bà quyết định, bà thở dài và .

      - Tôi để xuống đây, có tiện ?

      - Bà Voss, chồng bà mua quả tim, nếu thế, người khác cũng có thể. Chúng ta biết ai cho cả, chúng ta biết làm sao họ có…

      - Dừng ở đây - Nina với tài xế.

      Chiếc xe dừng lại.

      - Làm ơn xuống .

      Abby chịu xuống, ngồi im gì, mưa rơi mái xe.

      - Làm ơn - Nina thầm. Tôi nghĩ tôi có thể tin , nhưng…

      Abby , lắc đầu.

      - Tạm biệt bà Voss.

      bàn tay nắm tay , Abby quay lại bắt gặp cái nhìn chan chứa của Nina.

      - Tôi chồng tôi, và ấy cũng vậy.

      - Như vậy có thể bỏ qua mọi thứ sao?

      Nina trả lời

      Abby bước ra và đóng cửa xe lại. Cái xe lao . Khi nhìn chiếc xe biến mất hút, Abby nghĩ mình bao giờ gặp lại bà ta nữa.

      Sau đó, vai run lên, Abby bước trong mưa.

      - Về nhà chứ, bà Voss? - Người lái xe nhàng hỏi.

      - Ừ, về thôi.

      Bà lại chui sâu vào trong chiếc áo len đen và nhìn mưa qua cửa sổ, bà nghĩ về việc gì với Victor, gì đây.

      Đây là tình của chúng ta, bà nghĩ, bí mật nối tiếp bí mật, và giữ bí mật kinh khủng nhất.

      Bà cúi đầu xuống và khóc, vì Victor, và vì những gì xảy đến với cuộc hôn nhân của họ. Bà biết bà phải làm gì, và bà sợ.

      Mưa như nước mắt rơi ngoài cửa xe, và chiếc Limousine đưa bà về nhà, với Voss.

    4. vulinh

      vulinh Well-Known Member

      Bài viết:
      20,019
      Được thích:
      24,221
      19



      Shu-Shu cần tắm rồi đấy, các cậu bé lớn hơn điều này mấy ngày nay rồi, còn dọa ném Shu-Shu xuống biển nếu Aleksei tắm cho nó. Nó bốc mùi và là tại cậu đấy, chúng . Aleksei nghĩ thế, nó thích mùi của Shu-Shu, nó chưa bao giờ được tắm cả, và nó mang ký ức của Aleksei, nó làm cậu nhớ tới bữa ăn đêm qua, Nadiya cho cậu gấp đôi (và cười với cậu nữa chứ). Mùi thuốc lá mốc của chú Misha, ấm áp, mùi chua chua là của buổi sáng cuối cùng ở Easter khi họ cười và cùng ăn trứng rán và cậu làm đổ súp lên đầu Shu-Shu. Khi nó nhắm mắt và thở sâu, nó cảm thấy có cái gì đó bảo vệ nó, nhiều năm rồi.

      Đó là cái ra chua hay ngọt, cậu nhận ra nó bởi cảm giác thời thơ ấu của mình, mùi được quan tâm, chăm sóc và thương.

      Ôm Shu-Shu vào lòng, Aleksei chui sâu hơn vào trong chăn, mình bao giờ tắm cho Shu-Shu đâu, nó nghĩ.

      Nhưng rồi cũng chẳng có nhiều đứa ép nó tắm cho Shu-Shu. Năm ngày trước đây, con tàu khác tới trong sương mù và đậu cạnh chúng, trong khi tất cả bọn nó háo hức nhòm ngó Nadiya và Gregor chạy tới gọi tên chúng: Nicholai Alekseyenko và Pavel Prebazhensky.

      Chà có tiếng vỗ tay, tiếng đấm trong khí. Mình được chọn.

      Sau đó những người được chọn bị bỏ lại phía sau, chúng im lặng nhìn xuống chiếc xuồng chở bạn bè sang con tàu khác.

      - Họ đâu thế nhỉ? - Aleksei hỏi.

      - Đến gia đình nào đó ở phương Tây - Nadiya trả lời - Nào về phòng thôi, ở đây bắt đầu lạnh rồi.

      Các cậu bé nhúc nhích, sau đó Nadiya có vẻ quan tâm chúng còn đứng đó hay , ta bỏ vào phía sau.

      - Những gia đình ở phương Tây là ngốc - Yakov .

      Aleksei nhìn nó, trông đáng sợ, cằm nó hất ra như kiểu ai đó muốn đánh nhau.

      - Mày nghĩ mọi người đều ngốc - Aleksei .

      - Đúng thế, tất cả những người thuyền này.

      - Vậy mày cũng thế.

      Yakov trả lời, nó bám vào lan can với tay, mắt nhìn sang con tàu biến mất trong sương sớm. Rồi nó bỏ .

      Vài ngày sau đó, Aleksei hiếm khi thấy nó.

      Đêm nay, như thường lệ, Yakov lại biến mất sau bữa ăn đêm. Chắc nó lại đến chỗ thần tiên của nó, với đống chuột.

      Aleksei kéo chăn qua đầu, nó vẫn hay ngủ như thế, ôm con Shu-Shu bẩn thỉu vào người.

      bàn tay lay nó, giọng thào.

      - Aleksei, Aleksei.

      - Mẹ.

      Nó từ từ ra khỏi giấc ngủ, nhìn thấy tối om. Bàn tay vẫn tiếp tục lay nó, nó nhận ra là Nadiya.

      - Đến lúc phải rồi.

      - đâu?

      - Em phải sẵn sàng gặp mẹ mới chứ.

      - Bà ở đây à?

      - Chị dẫn em tới gặp bà ta. Em được chọn đấy, em rất may mắn, nào, nhàng thôi.

      Aleksei ngồi dậy, chưa tỉnh ngủ hẳn, chưa biết chắc có phải là mơ .

      - Shu-Shu.

      Nadiya để con chó vào tay Aleksei.

      - Tất nhiên em có thể mang theo Shu-Shu.

      ta nắm tay Aleksei. Chưa bao giờ ta nắm tay nó cả. Giờ nó cầm tay trong niềm hạnh phúc, nó tỉnh ngủ hẳn. Nó gặp mẹ. Trời tối và nó sợ tối lắm nhưng Nadiya đảm bảo vấn đề gì. Đây là cách nó vẫn cầm tay mẹ.

      Họ rời cabin và xuống dưới. Nó quá sợ hãi, chẳng tập trung được vào cái gì cả và biết mình ở đâu, đâu. Nadiya chú ý mọi thứ. Họ đẩy cửa.

      Vào vùng đất thiên thần.

      Lối bằng thép trước mặt họ, đối diện là cửa màu xanh.

      Aleksei dừng lại.

      - Sao thế? - Nadiya hỏi.

      - Em muốn vào đâu.

      - Nhưng em phải vào.

      - Có người ở trong đó.

      - Aleksei, đừng rắc rối thế - Nadiya giữ tay nó chặt hơn - Em phải vào trong đó.

      - Tại sao?

      Đột nhiên ta hiểu cái gì xảy ra. ta ngồi xuống, và họ nhìn thẳng vào nhau, ta nắm lấy vai Aleksei.

      - Em có muốn hủy hoại mọi thứ ? Em muốn làm bà ấy giận à? Bà ấy muốn đứa trẻ ngoan biết nghe lời và em bây giờ như vậy.

      Nó cắn môi. Nó cố để khóc nhưng nước mắt cứ chực trào ra, giờ nó có thể phá hủy mọi thứ.

      - Vẫn chưa có gì là quyết định, bà ta có thể chọn người khác, em muốn thế à?

      Aleksei lắc đầu.

      - .

      - Vậy sao em lại ngoan?

      - Em sợ người lạ.

      - Cái gì, em buồn cười. Như vậy chẳng có ai muốn nuôi em cả. nào.

      Aleksei nhìn cánh cửa màu xanh, nó thầm.

      - với em.

      - Em lớn rồi đấy.

      - Làm ơn .

      - Em phải vào , Aleksei, nhanh lên muộn đấy - ta ôm nó.

      Nó bắt đầu , chỉ bởi vì có bên cạnh nó, ôm nó rất chặt, như nó ôm con Shu-Shu vậy, chẳng có gì xảy ra cả.

      Nadiya gõ và cánh cửa mở ra.



      Yakov nghe thấy tiếng họ đầu, là Aleksei và Nadiya bước vội vã. Nó bò lên và nhìn xuống cảnh giác. Họ qua cánh cửa màu xanh. Lát sau, họ biến mất.

      Sao Aleksei vào đó mà phải mình nhỉ?

      Yakov trượt theo rãnh và leo lên cầu thang tới căn phòng đó, nó cố mở ra nhưng cửa khóa.

      Bất lực, nó đành quay lại chỗ cũ, quả là chỗ náu tuyệt vời.

      Tuần trước, nó tìm thấy chăn, đèn, và cả đống tạp chí đầy hình phụ nữ khỏa thân. Nó cũng thấy đèn và mẩu thuốc lá của Koubichev. Thỉnh thoảng Yakov hút thử nhưng dạo này có ít thuốc nên ta tiết kiệm lắm. lần ta để nó rơi vào lửa, thú vị. ta thường xuyên có thuốc lá bên người.

      Yakov nghe thấy Nadiya và Aleksei vào.

      Sao họ vào lâu thế nhỉ? Họ làm gì trong đó?

      Yakov ném mẩu thuốc xuống, chẳng công bằng.

      Nó nhìn các bức hình tạp chí, bật lên xuống công tắc đèn, rồi nó quyết định ngủ. Nó chui vào chăn và ngủ.

      lát sau, nó bị đánh thức bởi tiếng ầm ầm đầu. Mới đầu nó tưởng động cơ bị hỏng, nhưng nó nhận ra tiếng động có vẻ to hơn, ôi, trực thăng.



      Gregor dán cái túi và bỏ vào thùng. ta đưa nó cho Nadiya.

      - Cầm lấy này.

      Đầu tiên ta có vẻ nghe thấy gì, rồi ta nhìn ta, mặt ta trắng bệch, ta nghĩ: đồ khỉ này, được rồi.

      - Cần cho đá vào, nhanh lên - ta vẫy vẫy ta.

      Rồi ta làm việc đó trong kinh hãi. Sau đó, thở dốc, ta bắt đầu bỏ đá vào. ta thấy chân ta run run. Lần đầu tiên bao giờ chả sốc, đến Gregor mà còn sợ nữa là. Nadiya quen thôi.

      ta lật ngược cái bàn mổ, người gây mê mở khóa cái túi và giờ cho cái xác máu me be bét vào. Bác sĩ phẫu thuật chẳng giúp gì, thay vào đó ta dựa vào phía sau, như cố thở. Gregor nhìn ta khinh bỉ. Có cái gì đó kinh tởm ở những gã bác sĩ quá béo. Tên bác sĩ này hôm nay trông khỏe. ta ngắt quãng trong khâu cuối cùng và tay có vẻ dẻo như mọi hôm.

      - Tôi đau đầu quá - tên bác sĩ bảo.

      - Chắc uống quá nhiều, tụ tập mà.

      Gregor tới cái bàn, ta cùng người gây mê dọn dẹp. Tiếp đó, Gregor vứt đống quần áo bẩn thỉu vào cái túi luôn thể. ta nhìn thấy con chó nhồi bông. Nó nằm sàn nhà, lông đầy máu. ta vứt nó lên đống quần áo và vứt cái túi vào thùng hủy. Họ mở chốt và vứt tất cả xuống rãnh.

      Bác sĩ lại kêu lên.

      - Cơn đau đầu khốn kiếp.

      Gregor bỏ qua ta, cởi găng tay và vào chỗ rửa tay. người chưa bao giờ biết đến mớ quần áo bẩn thỉu đó, ta nghĩ khi bác sĩ chuẩn bị mổ.

      Có tiếng rầm vang lên, Gregor quay lại.

      Bác sĩ nằm sàn nhà, mặt đỏ gay và run bần bật như con rối.

      Nadiya và người gây mê đứng im kinh sợ.

      - Chuyện gì vậy? - Gregor hỏi.

      - Tôi biết - người gây mê kêu lên.

      - Làm gì chứ.

      Người gây mê quỳ bên cạnh nạn nhân và cố làm ta hồi tỉnh. Nới lỏng quần áo, chụp mặt nạ dưỡng khí vào nhưng tình hình chỉ tồi tệ thêm, tay gã đập đập như cánh ngỗng.

      - Giữ cái mặt nạ cho tôi! Tôi tiêm cho ta! - người gây mê hét.

      Gregor quỳ bên đầu ta và giữ cái mặt nạ. Mặt gã bác sĩ trông nhợt nhạt. Da mặt trở nên xanh xám. Gregor biết điều đó, trong bóng tối, mọi nỗ lực của họ là vô vọng.

      Vài phút sau, ta chết.

      Cả ba người họ chết lặng lúc lâu, trông họ như quả bóng sắp xì hơi.

      - Chúng ta làm gì bây giờ? - người gây mê lo lắng hỏi.

      - Chúng ta cần bác sĩ khác - Gregor nhanh.

      - thể kéo người ra biển. Chúng ta phải đến cảng sớm hơn dự định.

      - Hoặc chuyển cái hộp sống… - Gregor bất ngờ nhìn lên trần nhà. Nadiya và người còn lại cũng vậy, tất cả họ đều nghe tiếng trực thăng - ta nhìn vào cái hộp dưới chân - Sẵn sàng chưa?

      - Cho đá vào rồi - Nadiya lên tiếng.

      - thôi, đem cho họ - Gregor nhìn xuống cái xác chết bên dưới - Ta phải đá cái thứ này thôi, cho cá mập.



      Đôi mắt xanh vẫn dán xuống sàn nhà.

      Từ chỗ nấp của mình, Yakov nhìn thấy ánh đèn xanh đầu tiên, theo sau là đống đèn xung quanh, họ chiếu sáng và sáng quá nó thể nhìn thẳng vào họ. Thay vào đó, nó nhìn lên bầu trời, chỗ trực thăng dừng. Yakov nhắm mắt lại khi có cái gì đó quét qua nó, nhưng khi nó mở mắt lại, nó thấy trực thăng đậu xuống.

      Cửa mở, nhưng ai bước xuống, họ chờ ai đó lên.

      Yakov bò lên phía trước và nhìn qua kẽ hở hai bậc thang, thẳng tới chỗ trực thăng. Aleksei may mắn , Aleksei được tối nay rồi. Nó nghĩ.

      Nó nghe tiếng cửa mở và ai đó bước ra. Nadiya. ta qua boong, ta lom khom, vì sợ cái trực thăng quạt vào cái đầu ngu ngốc của ta. ta vào trong cửa và trở ra.

      lát sau, trực thăng cất cánh.

      Yakov bò ra khỏi cầu thang để xem trực thăng. Nó nhìn thấy đuôi nó bay như con lắc. Sau đó biến mất, chỉ còn sóng nước, nó biến mất hẳn trong đêm.

      bàn tay tóm lấy Yakov, nó thét lên.

      - Mày làm gì ở đây? - Gregor hỏi.

      - Chẳng làm gì cả.

      - Mày nhìn thấy gì?

      - Chỉ là trực thăng thôi mà.

      - Mày thấy gì?

      Yakov nhìn gã đó chằm chằm, sợ quá nổi.

      Nadiya nghe thấy tiếng họ, ta đến gần.

      - Gì thế?

      - Thằng này lại nhòm ngó rồi, tôi bảo đóng cửa cabin lại cơ mà.

      - Tôi có, nhưng nó chui ra trước đó - ta nhìn Yakov - Luôn là nó, tôi thể theo dõi nó từng giây được.

      - Tôi thấy đủ lắm rồi - Gregor véo tai Yakov cái, ném nó xuống sàn - Nó được quay lại với hội kia.

      Yakov đá ta.

      Yakov chạy, nó nghe thấy tiếng Nadiya hét lên, đuổi theo nó, và nhiều bước chân hơn. Nó chạy phía trước, vòng ra phía sau, quá muộn, nó thấy mình lên boong, Yakov vận dụng mọi khả năng của mình, liếc mắt, nó thấy tiếng chân người đuổi theo, họ vây quanh nó, tiến đến và túm lấy áo của nó.

      Ai đó tát vào mặt nó, làm nó ngã sấp. Nó định chạy nhưng ai đó đá chân nó từ phía sau.

      - Đủ rồi - Nadiya can - định giết nó à?

      - Thằng ranh con - Gregor tức giận.

      Yakov bị túm tóc và Gregor lôi nó xềnh xệch đến chỗ cầu thang. Yakov làm gì được, nó biết bị lôi đâu. Chỉ biết đến cầu thang, dọc theo hành lang. Gregor kéo nó.

      Cửa mở và Yakov bị tống vào trong.

      - Mày cứ ở đó - Gregor và đóng cửa lại.

      Yakov nghe tiếng cửa khóa lại, bước chân xa dần, nó ở trong bóng tối mình.

      Nó quỳ xuống và ôm lấy hai vai. cảm giác kỳ lạ bao bọc nó, nó cố dừng lại mà được. Nó nghe tiếng răng va vào nhau, phải vì lạnh mà là vì cái gì đó chấn động trong tâm hồn nó. Nó nhắm mắt lại và đối mặt với những gì nó nhìn thấy tối nay. Nadiya qua sàn, cửa trực thăng mở và chờ đợi, rồi Nadiya đến, đến cửa và đưa gì đó cho phi công.

      cái hộp.

      Yakov co chân lên ngực nhưng nỗi sợ hãi tan .

      Từ từ nó đưa tay vào miệng và nấc lên.




      20



      Với Abby, những buổi sáng kinh khủng, thức dậy với cảm giác chán ghét ngày mới. Rồi nhận ra: mình chẳng biết đâu. nằm giường, nghe tiếng Mark thay đồ, thấy ra khỏi nhà lúc còn tối và cảm thấy chán vì chẳng biết gì với . Họ ở chung nhà, và ngủ chung giường nhưng nhiều ngày rồi với nhau. Tình chết thế này sao? phải với những ngôn từ giận dữ, mà với im lặng.

      Khi Abby mười hai tuổi, bố nghỉ việc ở xưởng đồ hộp. Hàng tuần sau đó, ông lái xe ra khỏi nhà mỗi sáng, như thể vẫn làm. Abby biết ông đâu, làm gì, đến khi ông chết, ông cũng với . Tất cả những gì biết là bố sợ ở nhà, đối mặt với thất bại của chính mình, thế nên ông cứ , ra khỏi nhà mỗi sáng.

      Giống hệt như Abby lúc này.

      để xe ở nhà và bộ, qua các dãy nhà, cần biết mình đâu. Đêm, trời trở nên lạnh hơn, lúc dừng lại ở hiệu đồ ăn, mặt lạnh cóng. mua cà phê và bánh nhân rồi cho cả vào túi. mới cắn hai miếng nhìn thấy người đàn ông phía trước. ta đọc tờ báo Boston.

      Hình của Abby ở trang nhất.

      cảm thấy mình như bò ra bàn. nhìn xung quanh tiệm cà phê, mong ai đó nhìn , nhưng chả có ai.

      vứt túi bánh vào thùng rác và ra, chẳng có bụng dạ nào để ăn nữa. mua tờ báo và nhìn tiêu đề.

      XÁC CHẾT Ở TRUNG TÂM PHẪU THUẬT CÓ THỂ DẪN TỚI BI KỊCH

      Bác sĩ Abigail DiMatteo là bác sĩ nổi bật, trong những người giỏi nhất của bệnh viện Bayside theo lời ông Wettig nhưng chỉ vài tháng sau khi ta vào năm thứ hai, mọi thứ tệ hơn trông thấy…



      Abby dừng đọc, thở nhanh và mạnh. mất lúc để bình tĩnh lại và đọc nốt. Khi đọc xong, rã rời như người ốm. Phóng viên kết luận tất cả, các vụ kiện, cái chết của Mary, cãi lộn với Brenda, thể chối cãi. Tất cả miêu tả chân dung của tính cách nguy hiểm.

      thể tin được họ về mình.

      Ngay cả khi cố gắng lấy lại bằng y của mình, ngay cả khi hoàn thành chương trình những bài báo này theo suốt đời, chẳng ai thèm nhớ lưỡi dao của nữa.

      biết cầm tờ báo đó trong tay bao lâu, cuối cùng thấy mình đứng ở đại học Harvard, và vai đau vì lạnh, nhận ra mình qua giờ ăn trưa, loanh quanh cả buổi sáng, nửa ngày trôi qua, biết đâu cả. Các sinh viên ở đây, với ba lô phía sau, đều biết họ phải đâu, trừ .

      nhìn lại tờ báo, bức ảnh họ chụp khi thực tập, mỉm cười nhìn thẳng vào camera, khuôn mặt sáng, háo hức. Cái nhìn của người trẻ sẵn sàng chiến đấu cho giấc mơ của mình. ném nó vào thùng rác và nghĩ: phải chiến đấu thôi.

      Nhưng cả và Vivian mò mẫm, hôm qua Vivian tới Burlington, khi ấy gọi Abby lúc nửa đêm, ấy có tin xấu. Chương trình của Tim Nicholls đóng cửa, ai biết ta ở đâu. Rơi vào ngõ cụt. Mà Wilcox Memorial cũng có vụ lấy nội tạng nào trong bốn ngày đó. Lại ngõ cụt. Cuối cùng, Vivian kiểm tra với cảnh sát địa phương và thấy chẳng có báo cáo mất tích nào hay có xác ai tim nhận dạng được cả. còn đầu mối nào.

      Họ xóa dấu vết, chúng ta thể thắng họ được.

      Khi đến cửa trước thấy có tin nhắn của Vivian, bảo gọi lại. lấy số của Burlington, rồi gọi nhưng ai trả lời.

      gọi cho NEOB nhưng họ cho chuyện với Helen Levis, dường như chả có ai muốn nghe cả. chạy qua hàng dài những người biết ở Bayside. Wettig, Mark, Mohandas và Zwick, cả Parr và Susan nữa, nhưng chẳng tin ai được nữa.

      nhấc máy và gọi lại cho Vivian và nhìn ra cửa sổ, thấy cuối hàng xe đậu bên ngoài là cái xe màu hạt dẻ.

      Đồ khốn, tao bắt được mày rồi.

      Nhìn ra cửa sổ, thấy có thể nhìn thấy biển xe.

      Tao tóm được mày rồi.

      nhấc điện thoại và gọi cho Katzka, thấy sốt ruột, đợi đến nghe máy, ấy sao có thể lạ lùng như thế khi gọi chứ?

      Có thể là máy trả lời tự động. Mình cần giúp đỡ, mình cần gọi cảnh sát và ấy là cảnh sát duy nhất mà mình biết.

      - Katzka đây - giọng bình thản và xã giao của ta vang lên.

      - Katzka, cái xe trở lại rồi.

      - Xin lỗi, ai đấy?

      - Tôi, Abby đây. Cái xe theo tôi, nó đậu ngay bên dưới nhà tôi, biển số là 539, biển Massachusett.

      Yên lặng, ấy viết.

      - ở phố Brewster đúng ?

      - Đúng vậy. Làm ơn gửi ai đó đến đây , tôi biết ta sắp làm gì.

      - Chỉ cần ngồi yên và khóa cửa nhà, được ?

      - Được.

      biết cửa khóa rồi nhưng vẫn phải kiểm tra lại, mọi thứ an toàn, quay lại phòng khách và ngồi gần rèm cửa. Có thể nhìn ra ngoài và thấy cái xe vẫn ở đó. muốn bắt nó ngay, muốn thấy phản ứng của gã lái xe khi cảnh sát tới.

      Mười lăm phút sau, thấy cái Volvo màu xanh quen thuộc rẽ vào và dừng lại. mong Katzka ra mặt, nhưng ra khỏi cái xe. Lần đầu tiên gặp cảm thấy tin cậy, biết phải làm gì. Katzka đủ thông minh để giải quyết mọi chuyện, băng qua đường và chậm rãi tiến tới chỗ cái xe tải.

      Abby tiến sát đến cửa sổ hơn và tim đập mạnh hơn, tự hỏi Katzka có như . đến trước cửa xe và Abby thấy ấy rút súng ra.

      sợ phải nhìn, sợ .

      tới và nhìn cửa xe, ràng là chẳng có gì đáng ngờ cả. vòng vòng quanh xe tải và lại nhìn lại, bất ngờ rút súng ra và nhìn dọc theo con phố.

      Ở ngôi nhà bên cạnh, cửa trước đột ngột có người đàn ông đứng ở cửa, gì đó và vẫy tay. Katzka đáp lại bằng cách giơ huy hiệu ra, người đàn ông cầm lấy nó xem xét rồi đưa trả lại. Sau đó ta lấy ví ra và rút chứng minh nhân dân ra.

      Hai người đàn ông đứng chuyện lát, họ chỉ tay về phía chiếc xe tải và ngôi nhà phía trước, cuối cùng người đàn ông trở vào nhà.

      Katzka trở lại chỗ Abby.

      đón ở cửa.

      - Sao rồi?

      - Chẳng có gì cả.

      - Ai là người lái xe, tại sao ta lại theo tôi?

      - ta ta chẳng hiểu gì.

      theo vào tận phòng khách.

      - Tôi mù, tôi nhìn thấy cái xe đó lần, ở phố này.

      - Người lái xe chưa tới đây bao giờ.

      - Ai là người lái xe?

      Katzka lôi cuốn sổ ra.

      - John Doherty, ba mươi sáu tuổi, người Massachusett. Sửa đường ống. ta đây là lần đầu tiên nhận được cầu từ phố này. Cái xe đăng ký bởi công ty Back Bay và nó chở toàn dụng cụ.

      gập sổ lại và bỏ vào túi áo, sau đó nhìn .

      - Tôi chắc chắn - thầm - Tôi chắc chắn là mà.

      - vẫn khăng khăng như vậy à?

      - Phải, khỉ .

      phản ứng lại với cái nhíu mày.

      thở hơi sâu, hoàn toàn logic, hoàn toàn có lý. thám tử có huy hiệu.

      , bình tĩnh hơn.

      - Tôi tưởng tượng, tôi hề bịa chuyện.

      - Nếu nghĩ nhìn thấy cái xe lần nữa, vậy lần trước có biết biển số ?

      - nghĩ tôi nhìn thấy à?

      - Tôi gọi lại công ty Back Bay, để xác định lại thông tin của Doherty nhưng tôi thực tin ta là thợ ống nước.

      nhìn qua căn phòng, điện thoại reo.

      - định trả lời à?

      - Làm ơn đừng về vội, từ từ, tôi có vài thứ với .

      ra đến cửa, giờ ngừng lại, nhìn nhấc máy.

      - A lô?

      Giọng phụ nữ nhàng.

      - Bác sĩ DiMatteo à?

      Abby nhìn Katzka, dường như hiểu cái nhìn của , cuộc gọi quan trọng.

      - Bà Voss? - Abby hỏi.

      Katzka đến bên cạnh Abby, nhanh đến nỗi nhận ra. ghé đầu vào nghe điện thoại.

      - Bà tìm ra điều gì à? - Abby hỏi.

      - Tôi gọi đến vài chỗ, đến ngân hàng, kế toán. Vào ngày 23 tháng 9, Victor chuyển số quỹ tới công ty là Amity Corporation ở Boston.

      - Bà chắc ?

      - Chắc.

      Abby nghĩ, đó là ngày trước khi Nina phẫu thuật.

      - Bà biết gì về Amity?

      - Chẳng biết gì cả, Victor chưa bao giờ cho tôi biết về cái tên đó, hình như vụ chuyển đó lớn lắm.

      chút im lặng và Abby nghe thấy tiếng động ở bên kia, rồi tiếng quay lại. Giọng của Nina, hơn, hơn.

      - Tôi phải cúp máy .

      - Bà đó là giao dịch rất lớn là sao?

      có tiếng trả lời, Abby nghĩ có thể Nina gác máy. Sau đó lại là tiếng thào.

      - Năm triệu - Nina - ấy chuyển năm triệu đô la.



      Nina gác máy, bà nghe thấy tiếng bước chân của Victor nhưng bà nhìn lên khi ấy bước vào.

      - Em chuyện với ai thế?

      - Cynthia, em cảm ơn ấy về mấy bông hoa.

      - Hoa gì vậy?

      - Phong lan.

      ấy nhìn lọ và .

      - À ừ, rất đẹp.

      - Cynthia mùa xuân tới Ai Cập, ấy chán Caribe rồi - bà có thể dối chồng dễ dàng, từ khi nào thế nhỉ? Họ còn với nhau từ khi nào nhỉ?

      ấy ngồi xuống bên giường và bà cảm thấy ấy nghi ngờ mình.

      - Khi em khỏe lại, có lẽ chúng ta Ai Cập. Có thể cùng Cynthia và Robert.

      Bà gật đầu nhìn xuống, bàn tay bà, những ngón tay gầy guộc. Em chẳng bao giờ khá hơn, chúng ta đều biết vậy mà.

      Bà định dậy.

      - Em cần vào nhà tắm.

      - Cần giúp ?

      - cần đâu.

      Bà đứng dậy, cảm thấy hơi váng đầu. Gần đây bà thấy như vậy thường xuyên. Bà gì với Victor, chỉ chờ cảm giác đó qua . Sau đó bà tiếp tục về phía nhà tắm.

      Bà thấy ấy nhấc điện thoại lên. Chỉ khi bà đóng cửa nhà tắm lại, bà mới nhận ra mình mắc sai lầm. Victor chỉ cần kiểm tra lại bộ nhớ điện thoại và ấy có thể biết mình dối. ấy biết bà hề gọi cho Cynthia, ấy biết bà gọi cho Abby.

      Nina đứng dựa vào tường nhà tắm, lắng nghe. Bà thấy ấy cúp điện thoại và gọi.

      - Nina?

      Bà lại cảm thấy choáng váng, bà cúi đầu xuống và cảm thấy bóng tối bắt đầu choán lấy tâm trí mình, chân bà gần như chảy ra và bà thấy mình trượt ngã.

      ấy mở cửa.

      - Nina, cần chuyện với em.

      - Victor - bà thầm, nhưng dường như có ai nghe thấy bà gọi. Bà nằm sàn nhà tắm, thể cựa quậy cũng thể gọi ấy. Bà cảm thấy giống như có cánh bướm trườn qua ngực mình.



      - Nhầm rồi - Abby .

      và Katzka đỗ xe tại dãy phố đổ nát ở Roxbury. Đó là khu bên cạnh mặt trước cửa hàng có vạch kẻ dọc và những khu thương nhân ngay sát đống đổ nát. Khu kinh doanh thịnh vượng duy nhất là phòng tập thể dục thẩm mỹ có vài cánh cửa. Nhìn qua cánh cửa phòng tập mở, họ có thể nghe thấy những tiếng loảng xoảng và những tràng cười của cánh đàn ông ở đó. Kề sát phòng tập có tòa nhà trống có đề biển “CHO THUÊ”. Và tòa nhà Hữu nghị - bốn tầng màu nâu. Tại lối có treo biển.



      “CUNG CẤP CHĂM SÓC Y TẾ THÂN THIỆN BÁN VÀ DỊCH VỤ”



      Đằng sau cửa hàng có vạch kẻ dọc là biển hiệu trưng bày rất bắt mắt các sản phẩm: nạng và batoong. Bình thở ô xi. Miếng nệm bọt biển ngăn cách với giường. Bên cạnh chiếc tủ đựng đồ, người đàn ông mặc áo y tế và đội mũ đứng thẳng bên cạnh cụ già khoảng sáu mươi tuổi.

      Abby liếc nhìn ra phố trong khung cảnh khá tồi tàn và .

      - Đúng là Amity rồi.

      - Đây chỉ là danh bạ thôi - Katzka .

      - Tại sao lại dùng tới năm triệu đô cho vụ này nhỉ?

      - Có thể chỉ là chi nhánh của tập đoàn lớn thôi. Có thể biết đây có thể là cơ hội đầu tư lớn.

      lắc đầu.

      - Mọi tính toán đều lệch hướng hết rồi. Ở nhà Victor Voss, vợ ông ta chết lịm. Ông ta luôn hy vọng đưa bà ấy phẫu thuật nếu cần thiết. Còn ông ấy, ông ấy nghĩ đến cơ hội đầu tư nữa.

      - Điều đó phụ thuộc vào tình trạng của vợ ông ta - Katzka .

      - chăm sóc vợ rất chu đáo.

      - Sao biết?

      nhìn .

      - Tôi biết mà.

      biết vẫn nhìn theo cái cách yên ả như vậy. là lạ, lại nghĩ rằng đó là cách nhìn bình thản từng làm cho cảm thấy yên tâm.

      ấy mở cửa xe.

      - Tôi biết điều mình cần phải làm.

      - làm gì vậy?

      - ở đây và quan sát .

      - Tôi với .

      - , ở yên trong xe - và bắt đầu bước ra nhưng kéo lại.

      - Xem này - - Tôi là người mất tất cả. Công việc. Bằng lái xe. Và bị coi như kẻ giết người hoặc đại loại như kẻ thần kinh. khốn nạn. Và tôi phải đứng ngoài ư?

      - Chúng ta thể cùng làm chuyện này, đúng ? Có ai đó có thể nhận ra . Đó là cảnh báo. Liệu có muốn điều đó ?

      lặng yên. Katzka đúng. Chết tiệt là ấy đúng. ấy muốn , nhưng vẫn khăng khăng đòi . với ấy là có thể lái xe mình về nhà được mà cần có . ở đó mình và cũng thể bộ vào trong tòa nhà. thậm chí còn thể tự mình “chiến đấu” được nữa. Họ khuất . lắc đầu quầy quậy, uất hận vì bất lực của chính mình. Tức giận vì Katzka cho vào.

      bảo “khóa cửa mau”. Rồi từ từ bước ra khỏi xe. nhìn theo lướt qua con phố, trông theo qua lối vào tồi tàn. mường tượng ra nơi đến. Nhìn cái xe lăn đến chán nản, cái chậu nôn cũng vậy. giá treo đồ của y tá dưới bìa sách nhựa màu vàng, hộp giầy chỉnh hình. tưởng tượng từng chi tiết bởi lẽ từng mua hàng tại cửa hàng.

      Năm phút trôi qua. Rồi mười phút.

      Katzka, Katzka. làm gì trong đó vậy?

      trả lời nhưng có lẽ là phải bây giờ. tin vào lời phán quyết đó. Mức độ trung bình của kẻ cố ý giết người, quyết định, đau đớn hơn cuộc phẫu thuật.

      Hai mươi phút trôi qua, những tia sáng yếu ớt mờ dần . Cửa kính của xe đóng nên nghe thấy tiếng xe kêu rít đại lộ Martin Luther King. đến giờ cao điểm. con phố, hai người đàn ông to lớn bước ra khỏi phòng tập và kéo lê những chiếc xe ô tô.

      vẫn tiếp tục quan sát lối vào và chờ đợi tín hiệu của Katzka.

      Hai mươi lăm phút trôi qua.

      Ngày càng có nhiều xe hơn và qua dòng xe thấy có chỗ trống. Đột ngột, qua chỗ trống đó nhìn thấy người đàn ông băng qua đường từ phía cửa ra vào của tòa nhà Amity. ta dừng lại bên vỉa hè và nhìn đồng hồ. Khi ta nhìn lên Abby thấy tim mình đập mạnh. nhận ra khuôn mặt đó, đó là người có hàng lông mày rậm, cái mũi đại bàng.

      Đó là bác sĩ Mapes. Người mang tới cho Nina Voss cái hộp đựng tim vào phòng mổ của Bayside.

      Mapes bắt đầu , ta qua nửa đường và dừng ở chỗ đậu xe Trans Am. ta lôi chìa khóa xe trong túi ra.

      Abby nhìn lại tòa nhà Amity, hy vọng và cầu nguyện Katzka ra. Nhanh lên, làm ơn , nhanh lên, tôi sắp mất dấu rồi. nhìn lại chỗ đậu xe, ta vào trong xe, thắt dây bảo hiểm và khởi động xe, cách nhàng cái xe ra khỏi chỗ đậu và ta đợi đèn xanh.

      Abby thấy Katzka bỏ chìa khóa xe ở trong xe.

      Chỉ có cơ hội duy nhất cho mà thôi, dịp may duy nhất, phải bắt kịp .

      còn thời gian để nghĩ nữa.

      Abby ngồi vào chỗ và khởi động xe của Katzka, hòa vào đám đông và chiếm lấy đường , có thể thấy tiếng còi tức giận của chiếc xe phía sau.

      tòa nhà trước mặt, Mapes nhìn và nhấn phanh khi đèn chuyển sang đỏ.

      Abby vượt lên đầu, có bốn chiếc xe chặn giữa và lối rẽ, có cách nào vượt qua họ cả. Khi đèn chuyển sang màu xanh, Mapes có thể vụt mất. ngồi tính toán vài giây, đếm từng giây đèn giao thông.

      Giá mà có thể ra khỏi chỗ đó sớm hơn, giá mà có ít xe hơn và cái đèn chạy nhanh hơn. Khỉ , cái đèn làm sao thế nhỉ?

      Cuối cùng đèn cũng chuyển sang màu xanh, nhưng sao có ai di chuyển? Gã lái xe phía trước chắc là ngủ gật mất rồi. Abby dựa vào bánh lái, chửi thề. Những cái xe phía trước cuối cùng cũng di chuyển. nhấn ga và thả nó ra.

      Ai đó bên cạnh xe.

      Nhìn sang phải, thấy Katzka chạy dọc theo xe. nhấn phanh và mở khóa.

      mở cửa.

      - làm cái quái gì vậy?

      - Vào .

      - , dừng lại .

      - Vào , đồ khốn.

      chớp mắt ngạc nhiên và chui vào xe.

      Ngay lập tức nhấn ga và họ vượt qua chỗ giao nhau. Hai tòa nhà phía trước, màu xanh. Giờ đường Cottage ở phía trước, nếu tiếp tục bám theo để mất ta ở chỗ đèn đỏ tiếp theo. Abby thấy Katzka thắt dây lưng an toàn, tốt, bởi vì đây chuyến bão táp đấy. Họ đến đường Cottage.

      - định cho tôi à?

      - ta bước ra khỏi tòa nhà Amity, cái gã trong xe màu xanh ấy.

      - ta là ai?

      - Kẻ vận chuyển nội tạng, ta tên ta là Mapes - dừng ở đèn đỏ.

      Katzka .

      - Tôi nghĩ để tôi lái cho.

      có biểu gì là để lái, .

      - ta đến chỗ bùng binh, giờ đâu rồi? ta đường nào?

      Con đường Trans Am cắt vòng tròn.

      - Có lẽ ta đến lối ra - Katzka bảo.

      - Vậy chúng ta cũng đến đó.

      Katzka đoán đúng, Mapes hướng về phía đường ra. theo sát ta, tim nhảy múa trong lồng ngực, tay dính chặt vào bánh lái. Đây là chỗ có thể mất dấu ta, đường cao tốc này cho phép chạy tốc độ tối đa sáu mươi dặm giờ, mọi lái xe đều muốn chạy nhanh để về nhà. đến đèn đỏ và thấy Mapes xi nhan rẽ trái.

      cố gắng tìm cách lách, tránh cái xe tải. Cái xe tải ép vào phía xe . Nguy hiểm đây, nghĩ và giờ quá sốt ruột thể dùng adrenaline được, thể để mình sợ hãi và phải tiếp tục theo Mapes. Sau bánh lái thấy mình biến thành phụ nữ khác, liều lĩnh, chính cũng còn nhận ra mình nữa. phải chiến đấu chống lại họ, giờ đây cảm thấy tinh thần mình rất tốt, rất quyền lực. Bác sĩ DiMatteo phiêu lưu.

      nhấn ga và rẽ sang bên trái, ngay trước mặt cái xe.

      - Chúa ơi - Katzka hét lên - định giết chúng ta à?

      - Tôi cần gã đó, tôi cóc quan tâm.

      - cũng như thế này ở phòng mổ à?

      - Ồ, đúng thế đấy, tôi thực mối hiểm họa đấy, nghe họ à?

      - Hy vọng là tôi bao giờ phải vào viện.

      Trước mặt lại là điểm giao, có chỗ rẽ tới đường hầm Callahan.

      - Khỉ - Abby , rẽ phải theo, cả hai cùng rất nhanh khi rẽ vào hầm tối. Những hình Graffity trôi qua, những bức tường bê tông dội lại thanh qua vỉa hè, những người bộ tin vào mắt mình nữa.

      Giờ họ ở phía Đông của Boston, sắp đến cổng vào sân bay quốc tế Logan. Chắc chắn đó là nơi Mapes định đến, sân bay.

      ngạc nhiên khi thay vì rẽ vào đó, ta qua đường tàu, xa khỏi sân bay. ta chuẩn bị rẽ vào tuyến phố.

      Abby chậm lại, cách ta đoạn. Giờ cần phải xa ra chút, tránh bị nhận ra.

      Họ chuẩn bị đến cảng Boston. Sau những hàng rào xích sắt là hàng loạt các container còn sử dụng, chúng xếp thành hàng dài. Qua bãi đậu container là kho cảng công nghiệp, dưới ánh sáng mặt trời mờ mờ là các tàu thuyền cảng. Họ rẽ trái và lái qua cổng, vào trong bãi đỗ container.

      Abby đến gần hàng rào và đậu xe, qua dãy container thấy cái xe của Mapes đỗ lại. ta ra khỏi xe và lên cầu tàu, chỗ có cái thuyền đậu. Trông nó chỉ giống cái tàu chở hàng .

      Mapes gọi gì đó, và gã đàn ông xuất sàn tàu, Mapes leo lên các thùng và biến mất sau dãy thùng.

      - Tại sao ta đến đây nhỉ? Tại sao lại là con thuyền?

      - chắc đúng là chứ?

      - Nếu phải là Mapes làm hai việc ở Amity - ngừng lại, đột nhiên nhớ ra là Katzka dùng nốt giờ cuối cùng - Thế tìm ra cái gì ở đó?

      - Ý là trước khi phát ra ai đó ăn cắp cái xe của tôi à? Đúng như tôi nghĩ thôi, hãng cung cấp dược bận rộn. Tôi với họ là tôi cần cái giường cho vợ tôi, và họ đưa cho tôi xem vài mẫu mới nhất.

      - Có bao nhiêu người trong tòa nhà đó?

      - Tôi thấy ba người đàn ông, gã trong showroom, hai ở tầng hai nghe điện thoại và ai có vẻ vui vẻ khi làm việc ở đó cả.

      - Thế còn hai tầng cùng sao?

      - Chỉ là kho chứa đồ thôi, tôi đoán thế. Chẳng có cái gì trong tòa nhà đó đáng giá cả.

      nhìn nhanh qua hàng rào.

      - có thể nhìn qua báo cáo tài chính của họ, tìm ra năm triệu đô của Voss đâu.

      - Tôi chẳng có cơ sở nào cả.

      - Thế cần bao nhiêu bằng chứng nữa? Tôi biết gã vận chuyển, tôi biết đám người đó làm gì ở đấy.

      Lời của chẳng có trọng lượng gì hết.

      Câu trả lời của ta trung thực và lạnh lùng.

      - Tôi xin lỗi Abby, nhưng biết là gặp vấn đề về uy tín đấy.

      cảm thấy cái gì đó chạy qua người .

      - đúng, còn ai tin tôi nữa? Tôi chỉ là bác sĩ gặp vấn đề về tâm lý, phát ngôn những câu vô nghĩa.

      đáp lại lời tự thú của Abby, im lặng. hối hận về những gì mình , hối hận treo lơ lửng đầu họ.

      Họ lúc, đầu họ là tiếng phi cơ gầm rú, bóng của cánh máy bay trôi qua họ, nó leo lên những ánh sáng ban ngày cuối cùng. Khi máy bay qua rồi Katzka mới .

      - phải là tôi tin .

      nhìn ta.

      - ai tin tôi cả, tại sao phải tin tôi?

      - Bởi Levi, ta chết bình thường - nhìn vào bóng tối phía trước - Đó phải là cách người ta thường giết người. Trong căn phòng mà ai có thể tìm thấy nhiều ngày trời. Chúng ta thường thích cái gì bị phân hủy, chúng ta thường muốn người ta tìm ra xác chúng ta sớm, trước khi đám giòi bọ tấn công. Trước khi chúng ta đen sì và thối rữa, khi chúng ta vẫn còn có thể nhận ra là người. Trong khi đó ta có cả đống kế hoạch, chuyến tới biển Caribe, lễ tạ ơn với con trai. ta nhìn về tương lai trước mặt - Katzka nhìn về lối bên kia - Cuối cùng tôi cũng chuyện với vợ ta, Elaine, tôi thường phải chuyện với kẻ sống sót còn lại. Vài người khá sốc, vài người bình thường. Tôi là người góa vợ. Tôi nhớ sau khi vợ tôi mất, mỗi sáng thức dậy tôi còn cảm thấy hơi ấm của ấy chiếc giường của mình. Nhưng Elaine làm gì sau khi Levi chết? ấy gọi ngay người đến phủ tất cả đồ đạc lại, rồi nhanh chóng rời thành phố. Đó phải là hành động của người bình thường. Người ta chỉ làm vậy khi là tội phạm hoặc quá sợ hãi.

      Abby gật đầu, cũng nghĩ như thế, Elaine sợ.

      - Vậy cho tôi về Kunstler và Hennessy . Đột nhiên tôi muốn nhìn vào các vụ đơn lẻ nữa, tôi muốn xem xét cả seri, và vụ của Levi càng lúc càng giống vụ tự sát rồi.

      cái máy bay khác cất cánh, tiếng động cơ gầm rú làm cuộc chuyện của họ bị ngắt quãng. Nó bay và quét bầu trời những tia sáng. Sau khi máy bay biến mất sau những đám mây, Abby vẫn còn nghe thấy tiếng động cơ gầm rú.

      - Bác sĩ Levi tự treo cổ - Katzka .

      Abby nhíu mày nhìn ta.

      - Tôi cứ tưởng là pháp y giám định rồi chứ?

      - Chúng tôi tìm thấy chất độc, chỉ vừa tuần trước thôi chúng tôi mới có kết quả từ phòng xét nghiệm.

      - Có cái gì đó bất thường à?

      - Là tế bào cơ của ta, họ tìm thấy succinylcholine.

      nhìn , succinylcholine? Hàng ngày người ta vẫn dùng nó để giãn cơ, làm thuận lợi cho quá trình mổ. Trong phòng mổ đó là loại thuốc hữu hiệu mà. Bên ngoài phòng mổ có thể dùng để giết người ư? Điều này kinh khủng, người ta vẫn tỉnh táo và biết chuyện gì xảy ra nhưng thể thở được và nhúc nhích được, như kiểu chết chìm dưới biển.

      nuốt nước bọt, miệng khô khốc.

      - phải tự sát?

      - .

      hít hơi sâu và chậm rãi thở ra, lúc thể được gì. Thậm chí dám tưởng tượng cái chết của Aaron như thế nào nữa, nhìn ra ngoài hàng rào. Sương đêm bao phủ khắp cảng và Mapes đâu mất. Cảng tối đen trong sương đêm.

      - Tôi muốn biết thuyền đó có cái gì. Tôi muốn biết tại sao ta lại ra đó - tiến đến cửa.

      Katzka ngăn lại.

      - Chưa phải lúc đâu.

      - Khi nào?

      - Hãy đến chỗ tòa nhà và chúng ta đợi ở đó - nhìn lên bầu trời, rồi nhìn màn sương mù dày đặc mặt nước - Trời nhanh tối thôi.

    5. vulinh

      vulinh Well-Known Member

      Bài viết:
      20,019
      Được thích:
      24,221
      21



      - Bao lâu rồi?

      - giờ - Katzka .

      Abby ôm lấy mình và hơi run, trời đêm trở lạnh và bên trong chiếc xe, hơi thở của họ làm thành màn sương mờ.

      - hay nhỉ? Gần tiếng, mà tôi thấy như cả đêm rồi.

      - Chỉ là tương lai thôi, tôi dành nhiều thời gian cho chuyện theo dõi rồi, khi mới vào nghề.

      - Khi còn trẻ à? - chẳng thể tưởng tượng ra cảnh ta hồi trẻ như thế nào với khuôn mặt búng ra sữa - Sao lại làm cảnh sát?

      nhún vai, vẫn nhìn ra cửa.

      - Vì nó hợp với tôi.

      - Điều đó giải thích tất cả sao?

      - Thế sao lại muốn làm bác sĩ?

      lau lớp sương kính và nhìn ra ngoài.

      - Tôi biết trả lời thế nào cho phải cả.

      - Khó vậy sao?

      - Phức tạp đấy.

      - Đúng là đơn giản, giống như lòng tốt của con người vậy.

      Đến lượt nhún vai.

      - Lòng nhân từ chẳng mấy khi thấy vắng mặt của tôi. Tôi muốn làm việc gì đó tốt, tốt cho xã hội này. Và tôi nghĩ nghề bác sĩ giúp cho những người bệnh có cơ hội sống sót.

      - học tám năm, sau đó lại tiếp tục được đào tạo thêm năm năm nữa, có vẻ như lý do hoàn hảo đấy.

      Cửa xe lại mờ do sương đêm. lấy tay lau và cảm thấy cảm giác ấm áp đến kỳ lạ.

      - Tôi đoán là tôi phải đưa ra lý do chính đáng mới tin. Đúng vậy, tôi chọn nghề bác sĩ đơn thuần chỉ là như vậy. Thực ra, đó là vì em trai tôi.

      Tới đây Abby xúc động dừng lại lúc. Sau đó, tiếp:

      - Khi nó mười tuổi, nó phải nhập viện, tôi dành nhiều thời gian quan sát bác sĩ của em mình, và xem họ làm việc thế nào.

      Katzka đợi tiếp tục nhưng gì, đành lên tiếng.

      - Em trai còn nữa à?

      lắc đầu buồn bã:

      - Nó mất lâu rồi - nhìn xuống, những giọt nước đọng tay . Ấm như nước mắt vậy. nghĩ. Và trong lúc thấy rơi nước mắt thực . cảm thấy hài lòng vì Katzka vẫn im lặng, muốn trả lời thêm câu hỏi nào nữa, nó khiến nhớ về những phòng bệnh và hình ảnh của Pete, nằm giường, máu xuống đôi giày tennis mới. Đôi giầy mới làm sao, quá cho cậu bé mười tuổi. Và sau đó là những ngày tháng thấy nó nằm đó, mất dần sinh khí. Đêm nó chết, Abby bế nó ra khỏi giường và bế nó trong tay, nó hơn, mong manh như đứa trẻ chưa chào đời.

      kể cho Katzka nghe chuyện này, nhưng cảm giác cứ như biết hết. Giao tiếp bằng cảm thông. phải là khả năng thiên bẩm mà hy vọng có. Nhưng rồi có quá nhiều thứ về Katzka khiến ngạc nhiên.

      nhìn vào màn đêm và :

      - Tôi nghĩ đủ tối rồi đấy.

      Và họ bước ra khỏi chiếc xe, bộ qua chiếc cổng mở.

      Họ dừng lại ở chỗ đậu thuyền, nghe tiếng nước vỗ vào bờ, tiếng kim loại và cáp, tiếng máy bay lên xuống. Abby nhìn lên trời và thấy ánh đèn máy bay chiếu rọi khiến có cảm giác mất phương hướng về gian và thời gian. định chạm vào Katzka để lần dấu vết. Tại sao mình lại dừng ở đây, với người đàn ông này? - tự hỏi - Chuỗi kiện kỳ lạ nào khiến mình đến giây phút này của cuộc đời?

      Katzka chạm vào tay , cảm giác ấm và vững chắc.

      - Tôi vòng xem con thuyền thế nào.

      bước chỉ còn cách nó vài bước chân khi đột ngột dừng và quay đầu nhìn lại.

      đôi đèn vừa mới lướt qua cái cổng, cái xe giờ lại phía họ, qua bãi container, chiếc xe tải.

      Abby có thời gian để tìm chỗ nấp, ánh sáng của chiếc xe chiếu vào , dồn vào chân tường.

      Ánh sáng chiếc xe quá mạnh, khiến Abby thấy gì cả nhưng nghe thấy tiếng cửa mở và đóng lại, có tiếng bước chân và có người đàn ông xuất , Abby thể trốn được nữa.

      Katzka ở ngay bên cạnh , thấy bước tới mà lại đột ngột thấy ở đó, đứng chắn giữa và chiếc xe.

      - Được rồi, lùi lại . Chúng ta chắc nó ở đây - người .

      Hai người đàn ông khựng lại chút, rồi tiếp tục tiến tới phía trước.

      - Để chúng tôi - Katzka .

      Abby nhìn người đàn ông qua lưng của Katzka. thấy chuyện gì xảy ra tiếp theo nhưng chợt thấy gập người xuống và có tiếng súng nổ, tiếng bê tông hình như nổ phía sau .

      và Katzka chạy lại nấp sau cái thùng, ta dúi đầu xuống đất khi có thêm tiếng súng nổ.

      Katzka bắn trả, ba phát đạn.

      Rồi có tiếng bước chân nhiều hơn, có tiếng chuyện.

      Rồi tiếng của xe tải khởi động động cơ, tiếng bánh xe nghiến xuống đường.

      Abby ngẩng đầu lên để nhìn, thấy cái xe tải lao về phía họ, húc vào cái thùng giống như tòa nhà.

      Katzka vẫn bình tĩnh và tiếp tục bắn. Bốn phát vào trung.

      Cái xe húc điên cuồng vào trụ cảng, phải rồi trái rồi trở nên lộn xộn kiểm soát được nữa.

      Katzka bắn hai viên cuối cùng cách tuyệt vọng.

      Cái xe vẫn tiến tới.

      Abby thấy ánh đèn, và thấy mình bị hất văng khỏi chỗ trú , ném vào khí đen đặc.

      Nước lạnh làm tỉnh, ngoi lên mặt nước và nghe tiếng đàn ông hò hét bên . bị chìm xuống, rồi lại ngoi lên, ho sặc sụa. thấy nước ở cuối cảng có màu xanh hơn so với bình thường. Cái xe tải, giờ chìm trong nước, khi nó chìm xuống, ánh sáng xanh chuyển thành đen.

      Katzka, ấy đâu rồi?

      nhìn quanh, vùng vẫy. Mặt nước có sóng động, đập vào mặt nhưng vẫn cố gắng nhìn.

      nghe tiếng bộp cái đầu chấp chới cách vài mét. Katzka cũng nhìn theo hướng của và thấy vùng vẫy. Sau đó nhìn lên, nghe nhiều tiếng hơn - Từ con thuyền? Có hai người đàn ông, có thể ba. Tiếng bước chân họ dội lên cột trụ, họ la hét nhưng tiếng la hét khó hiểu quá.

      phải tiếng - nhận ra nhưng biết họ bằng tiếng gì.

      đầu, ánh sáng lại xuất và cắm sâu xuống làn nước.

      Katzka lặn xuống, Abby cũng vậy. cố gắng hết sức để nhịn thở càng lâu càng tốt. Thỉnh thoảng lại ngoi lên hít khí rồi lại lặn xuống. Lần thứ năm như vậy, ở trong bóng tối.

      Giờ có thêm hai bóng đèn.

      nghe thấy tiếng nước khua ở đâu đó xung quanh mình, rồi hơi thở, và nhận ra Katzka vừa ngoi lên thở gần đó.

      cau có:

      - Tôi mất súng rồi.

      - Chuyện quái gì xảy ra thế?

      - Tiếp tục bơi , đến cái cột kế tiếp đằng kia.

      Bóng đêm đột ngột bị đánh thức bởi ánh sáng từ con tàu nào đó vừa bật đèn, soi sáng từng ngóc ngách của cột cảng. Có gã đàn ông ở ván cầu, đứng ở mép nước với đèn soi tay. Ngay phía trước họ là gã thứ ba, tay lăm lăm súng.

      - thôi - Katzka .

      Abby lặn xuống, khua nước qua bóng tối dày đặc. giỏi bơi chút nào, nước sâu làm thấy sợ hãi nhưng giờ bơi qua làn nước sâu như có đáy. cố ngoi lên thở nhưng dường như đủ khí, cho dù có cố thế nào.

      - Abby, tiếp tục - Katzka giục - Chỉ cần đến cái cột kế tiếp thôi.

      Abby nhìn về phía tàu chở hàng, thấy ánh đèn vẫn khua khua mặt nước.

      lại tiếp tục lặn xuống.

      Khi và Katzka leo được lên bờ Abby hầu như thể lê chân nổi. mặt đất đầy dầu mỡ. Ngồi xổm trong bóng tối, chống tay vào gối và nôn xuống biển.

      Katzka nắm tay , cố gắng giúp trấn tĩnh lại. run rẩy dữ dội vì tưởng mình chết rồi.

      Cuối cùng cũng nôn hết được nước ra khỏi bụng. yếu ớt ngẩng đầu lên nhìn Katzka. hú vía, suýt tí nữa là còn nhìn thấy ánh mặt trời ngày mai rồi.

      - Tốt hơn rồi chứ? - Katzka hỏi.

      - Tôi lạnh cóng cả người.

      - Tìm chỗ nào ấm áp thôi. Nếu chết vì ngạt nước cũng chết vì rét mất.

      nhìn về phía cột cảng để tìm kiếm.

      - Tôi nghĩ chúng ta có thể đến chỗ mấy cái cột. thôi.

      Họ bò qua những tảng đá, trượt và trượt nền đá. Katzka leo lên được trước, rồi ta kéo lên.

      Ánh đèn quét qua, rồi dừng lại ở chỗ họ.

      viên đạn đập vào khối bê tông ngay bên cạnh Abby.

      - Chạy thôi! - Katzka hét lên.

      Họ cùng chạy. Ánh đèn đuổi theo họ, cột bê tông tạo thành hình zigzac trong bóng tối. Họ bỏ qua cái cột cảng và chạy tới bãi đỗ container. Những viên đạn vẫn đuổi theo họ. Họ chạy vào nấp sau dãy container gần nhất và nghe tiếng đạn đập vào kim loại. Rồi tiếng súng ngừng.

      Abby chậm lại để thở, thấy kiệt sức vì chạy, vẫn còn mệt vì bơi quá sức. Giờ run rẩy khi chân muốn khuỵu xuống.

      Có tiếng gần họ, họ hình như đến từ hai hướng.

      Katzka nắm tay và kéo sâu hơn vào dãy container.

      Họ chạy đến cuối hàng, rẽ trái và tiếp tục chạy. Sau đó, cả hai chững lại. Từ xa phía cuối dãy, ánh đèn lóe lên.

      Họ ở trước mặt chúng ta!

      lùi lại, và tìm hướng mới. thấy có khe hở giữa hai container, khe hở đủ để chui vào.

      Ánh đèn chiếu tới gần hơn.

      Nắm tay Katzka, kéo theo mình. sâu hơn vào trong những lớp mạng nhện đến khi va vào thành của container. có lối nào nữa, họ bị bẫy ở đây, trong khoảng chật chội hơn cả chiếc quan tài.

      Tiếng bước chân đến gần hơn.

      Katzka đưa tay nắm lấy , nhưng thể làm bớt run hơn. Tim bắt đầu đập loạn nhịp và tiếng bước chân đến gần hơn.

      nghe thấy tiếng chuyện, người đàn ông chuyện với ai đó, sau đó người đàn ông thứ hai trả lời bằng loại ngôn ngữ thể nhận ra nổi nữa. tự hỏi hay là máu che mất tai của rồi nên nhận ra, hiểu?

      Ánh đèn nhảy qua khe hở, hai gã đàn ông đến gần hơn và tiếp tục với giọng ngờ vực. Họ chỉ có thể lia đèn qua khe hở. Ai đó dùng chân đá xuống mặt đất và đá sỏi che lấp khe hở đó.

      Rồi tiếng bước chân xa dần.

      Abby dám cử động. dám chắc mình có di chuyển được nữa. Chân như bị ghim chặt. Vài chục năm nữa, người ta tìm thấy mình ở đây, xương mình đông cứng trong kinh hãi. Abby nghĩ.

      Katzka cử động trước, định thò đầu ra để nhìn nghe tiếng tạch . ánh sáng lóe lên rồi tắt phụt. Ai đó vừa đốt diêm. Katzka đứng chết lặng. Mùi khói thuốc lá phảng phất trong khí.

      Đâu đó có tiếng gọi.

      Người hút thuốc trả lời tiếng gọi đó và xa dần.

      Họ vẫn đứng im lặng, nắm tay nhau và ai dám hé răng lời nào. Hai lần họ nghe tiếng người giám sát qua nhưng cả hai lần, những người đàn ông vẫn qua họ.

      Có tiếng ồn ào, như tiếng sấm rền qua bầu trời.

      Sau đó, rất lâu họ nghe thấy gì nữa.



      Nhiều giờ sau đó, họ mới ra khỏi chỗ nấp. Họ theo dãy container và dừng lại để xem xét. Đêm trôi qua yên lặng.

      Màn sương đêm bỏ tự lúc nào, đầu, ánh sao bắt đầu mờ nhạt dần bởi ánh sáng thành phố.

      Cầu cảng vẫn tối, họ thấy người đàn ông nào, ánh đèn nào, có cả khe hở nào. Chỉ có mái của cột bê tông và ánh trăng mặt nước.

      Cái tàu dời .




      22



      Báo hiệu màn hình điện tâm đồ trở nên điên cuồng khi nhịp tim của người giường bệnh yếu .

      - Ông Voss!

      y tá nắm lấy tay ông ta, cố gắng kéo ra xa khỏi giường của Nina.

      - Bác sĩ cần làm việc. Mong ông ra ngoài lát.

      - Tôi rời ấy. Tôi phải ở bên cạnh ấy - Victor Voss bướng bỉnh đáp lại.

      - Ông Voss, họ thể làm việc được nếu ông cứ ở đây. Các bác sĩ cần khám cho bà nhà mới hi vọng có thể cứu được bà ấy.

      Victor gạt tay y tá ra, mạnh đến nỗi ấy liêu xiêu. Ông ta tiếp tục đứng ở cuối giường vợ, nắm chặt tay vợ.

      - Lùi ra, mọi người lùi ra xa! - giọng ra lệnh vang lên.

      - Ông Voss! Chúng tôi cần gây xung điện cho tim của vợ ông bây giờ, ông phải tránh ra xa ngay.

      Bác sĩ Archer, ông đến và giọng của ông lập tức có tác dụng.

      Victor rời chỗ và lùi lại.

      Việc gây xung điện được thực . Dòng xung chạy qua người Nina khiến bà run lên. Bà quá , quá yếu đuối để bị gây xung như vậy. Victor Voss chạy tới như thể muốn giật dụng cụ gây xung tay bác sĩ nhưng sau đó ông ta vội vàng dừng lại.

      màn hình, nhịp tim ổn định hơn, tiếng bíp trở nên đều đặn hơn. Ông ta nghe thấy tiếng ai đó thở phào và cảm thấy hơi thở của mình nhàng hơn.

      - 60 systolic… lên 65…

      - Nhịp được kiểm soát rồi.

      - Lên 75…

      - Được rồi, bỏ dây ra.

      - Bà ấy cử động tay…

      Victor đẩy y tá qua bên đến bên Nina. ai có ý định ngăn ông ta lại. Ông ta nắm tay vợ và đưa lên môi hôn. Ông cảm thấy làn da của bà, vị mặn của nước mắt.

      - Hãy ở lại bên , làm ơn, đừng .

      - Ông Voss?

      Giọng dường như đến với ông ta từ nơi xa lắm, quay lại, ông thấy gương mặt Archer.

      - Chúng ta ra ngoài được chứ?

      Victor lắc đầu.

      - Giờ bà ấy ổn rồi. Mấy người ở đây chăm lo bà ấy, chúng ta chỉ ra ngoài lát thôi, tôi cần chuyện với ông, ngay bây giờ.

      Cuối cùng Victor cũng gật đầu, cách nhàng ông ta đặt tay Nina xuống bàn và theo Archer ra ngoài.

      Họ đứng im lặng bên góc, ánh đèn dường như mờ , họ đứng bất động và quay lưng lại màn hình xanh.

      - Việc cấy ghép bị hoãn lại rồi, có chuyện với vụ lấy nội tạng.

      - Ông sao?

      - thể thực tối nay được, chúng ta làm vào ngày mai.

      Victor nhìn vào chỗ vợ mình, qua cửa sổ rèm, ông ta nhìn thấy đầu vợ ông cử động, ấy thức dậy và cần ông ở bên cạnh.

      Ông ta .

      - được để sai sót gì với đêm mai.

      - có sai sót gì.

      - Ông cũng vậy với tôi sau ca ghép lần trước.

      - Việc đào thải tế bào là chuyện chúng ta ngăn cản được, dù ta có cố thế nào.

      - Vậy làm sao tôi biết chuyện này lặp lại?

      - Tôi thể hứa chắc được, ông Voss, nhưng ở thời điểm này chúng ta có lựa chọn.

      - Chắc chắn thực vào ngày mai chứ?

      Archer gật đầu.

      - Chúng tôi đảm bảo chắc chắn. Ông cứ yên tâm .

      Nina vẫn chưa thực tỉnh hẳn khi Victor quay lại bên giường bệnh, rất nhiều lần trước đó, Victor nhìn bà khi bà ngủ. Nhiều năm qua, ông ta thấy thay đổi gương mặt bà, những nếp nhăn ở miệng, những vết nhô ra của xương, vài sợi tóc trắng. Mỗi thay đổi của bà ông ta đều nhận thấy và nó nhắc ông ta nhớ đến chặng đường họ cùng nhau.

      Nhưng tất cả những điều đó là những gì ông ta .

      Nhiều giờ sau khi bà tỉnh lại, đầu tiên ông ta nhận ra bà thức dậy. Ông ta ngồi giường của bà, vai chùng xuống vì mỏi, giật mình ông ta ngẩng đầu lên và nhìn bà.

      Bà Nina nhìn ông ta, bà mở tay im lặng chờ ông ta chạm vào. Ông ta vỗ lấy và hôn.

      - Mọi thứ - bà thào - Rồi ổn thôi.

      Ông ta mỉm cười.

      - Tất nhiên rồi, em .

      - Em rất may mắn, Victor, rất may mắn.

      - Cả hai chúng ta đều rất may mắn khi có nhau.

      - Nhưng bây giờ phải học cách để em ra .

      Nụ cười biến mất, ông ta lắc đầu.

      - đâu. Đừng thế. Em thể rời xa được.

      - còn nhiều điều phía trước.

      - Về chúng ta à? - ông ta nắm lấy tay bà bằng cả hai tay mình như người đàn ông cố gắng giữ nước khi nó sắp chảy xuống khỏi tay - và em, Nina, chúng ta giống mọi người, chúng ta luôn điều đó với nhau, em nhớ à? Chúng ta khác, chúng ta đặc biệt và có gì có thể xảy đến với chúng ta được.

      - Có đấy Victor - bà thều thào - Có điều xảy ra với em.

      - Và lo chuyện đó.

      gì, chỉ lắc đầu buồn bã.

      Có vẻ như đó là điều cuối cùng Victor thấy khi Nina nhắm mắt lại, ông ta vẫn giữ tay bà trong bàn tay của mình, rồi ông ta thấy tay bà nắm lấy tay ông ta chặt hơn.



      gần nửa đêm khi Lundquist đưa Abby kiệt sức về nhà. thấy xe của Mark đậu ở lối và khi bước chân vào trong nhà, cũng thấy trống trải như thế, hề có bước chân ghé qua. Có lẽ ấy lại có ca cấp cứu ở bệnh viện, thầm nghĩ vậy. Chẳng có gì lạ khi ấy ra khỏi nhà vào nửa đêm và đến Bayside để xử lý ca bị bắn hay gì đó. cố tưởng tượng ra hình ảnh của nhiều lần trước đây khi ở trong phòng mổ: khuôn mặt dưới mặt nạ xanh, cái nhìn thẳng xuống nhưng thể tưởng tượng ra. Như thể tất cả những ký ức đó bị xóa.

      đến máy trả lời tự động, hy vọng để lại tin nhắn. thấy hai cuộc gọi từ Vivian, và số chị ấy để ngoài vùng phủ sóng. Chị ấy vẫn ở Burlington và giờ quá muộn, nên gọi lại, gọi lại vào sáng mai.

      lên nhà, cởi bộ đồ ướt và ném vào máy giặt, rồi vào nhà tắm. Thế nhưng, thấy chỗ treo quần áo vẫn khô nguyên, Mark tắm, có về nhà ?

      Khi dòng nước nóng tràn xuống vai, đứng nhắm mắt nghĩ ngợi. Xem mình phải gì với Mark. Đó là lý do tại sao trở về nhà tối nay, để đối diện với cầu câu trả lời.

      Sau khi tắm xong, ngồi xuống giường và bấm số gọi Mark. Khi vừa chuẩn bị gọi điện thoại reo.

      - Abby? - Đó là Katzka, phải Mark - Tôi chỉ muốn biết có ổn thôi, tôi vừa gọi mà thấy ai nghe máy.

      - Tôi tắm, tôi ổn mà. Tôi đợi Mark về.

      Đột nhiên người ở bên đầu dây im lặng.

      - ở nhà mình à?

      quan tâm của khiến khỏi mỉm cười. Nếu biết chút, bạn nhận ra đó là người đàn ông thực .

      - Tôi khóa tất cả cửa và cửa sổ - - Như bảo tôi.

      Qua điện thoại, có thể nghe tiếng radio ở chỗ Katzka, và tưởng tượng, đứng trước xe cảnh sát, đèn xanh chiếu vào mặt.

      - Có chuyện gì vậy? - hỏi.

      - Chúng tôi chờ thợ lặn, mọi thứ sẵn sàng rồi.

      - thực nghĩ là người lái bị nhốt trong xe à?

      - Tôi sợ là như vậy.

      thở dài, và đó là thanh của lo lắng. thấy nên quan tâm đến ấy chút.

      - nên về nhà, cần tắm nước nóng và súp gà. Đó là đơn thuốc của tôi.

      cười. Đó là thanh lạ lùng, chưa bao giờ thấy cười.

      - Giờ tôi tìm hiệu thuốc được chứ?

      Ai đó với ấy. Có vẻ như có cảnh sát khác, đợi Katzka. quay ra trả lời người đàn ông sau đó lại tiếp:

      - Tôi phải đây, vẫn ổn chứ hả? Sao dọn đến khách sạn?

      - Tôi ổn mà.

      - Thôi được - lần nữa lại thấy thở dài - Nhưng tôi muốn gọi ngay thợ khóa đến vào sáng mai. Bảo ta thay cái nắm đấm cửa nhà . Đặc biệt nếu định tiếp tục ở nhà vào ban đêm.

      - Tôi làm vậy.

      Trong thoáng, im lặng bao trùm lên câu chuyện của hai người. ấy hình như vẫn còn chuyện để nên lưỡng lự cúp máy. Cuối cùng ấy .

      - Tôi gọi lại cho vào sáng mai.

      - Cảm ơn , Katzka.

      rồi cúp máy.

      Sau đó gọi cho Mark và nằm chờ gọi lại. Nhưng gọi lại.

      Nhiều giờ trôi qua, cố gắng khóc với những lý do có thể khiến ấy về nhà. ấy có thể ngủ quên ở phòng trực, hay là máy của ấy hỏng, có thể ấy trong phòng mổ và nghe được.

      Hoặc ấy có thể chết rồi. Như Aaron Levi. Như Kunstler và Hennessy.

      lại gọi.

      Ba giờ sáng, điện thoại reo. lập tức vồ lấy máy.

      - Abby, đây - giọng Mark nghe lắm đường truyền như thể gọi từ nơi rất xa.

      - Em cố gọi cho nhiều lần rồi, ở đâu?

      - trong xe, đến bệnh viện - ngừng lại - Abby, chúng ta cần chuyện. Mọi chuyện thay đổi.

      , rất khẽ.

      - Giữa chúng ta à?

      - , , chẳng liên quan gì tới em cả. Với . Chỉ là em có dính líu vào thôi. cố gắng đẩy lùi nó, nhưng giờ mọi chuyện quá xa.

      - Ai?

      - Cả đội.

      - sao cơ? - sợ phải hỏi câu tiếp theo, nhưng có lựa chọn - Tất cả các dính vào ư?

      - Hết rồi.

      Đường dây bỗng dưng ngắt quãng và thấy tiếng như tiếng đèn giao thông. Rồi giọng của to trở lại.

      - Mohandas và quyết định rồi, ở nhà ta. Bọn chuyện, so sánh các vấn đề và bọn đứng ở nóc tòa nhà rồi. Nhưng đến lúc phải làm thế. thể chịu đựng nổi nữa, phải tung hê mọi thứ ra, Mohandas và , mẹ kiếp những kẻ còn lại, mẹ kiếp Bayside - ngừng lại, giọng đột ngột vỡ òa - kẻ hèn nhát, xin lỗi.

      nhắm mắt lại.

      - biết, giờ biết mọi chuyện.

      - chỉ biết vài thứ thôi, biết Archer xa thế nào, cũng muốn biết. Và khi em bắt đầu đặt câu hỏi, và thể giấu giếm thêm nữa - thở hơi dài và thào - Chuyện này phá hủy , Abby.

      vẫn nhắm mắt. có thể thấy trong bóng tối của chiếc xe, tay bánh lái, tay giữ điện thoại. Có thể tưởng tượng ra khuôn mặt , và cả dũng cảm của .

      - em - thầm.

      - Về nhà Mark. hãy về với em .

      - Chưa đâu. gặp Mohandas ở bệnh viện, bọn cần phải lấy các bệnh án của người cho.

      - biết chúng ở đâu chứ?

      - ý kiến, chỉ hai bọn thôi, tìm những hồ sơ đó. Nếu em có thể giúp, chỉ đến sáng thôi.

      ngồi dậy.

      - Đêm nay em ngủ được. định gặp Mohandas ở đâu?

      - Phòng thông tin y tế, ta có chìa khóa rồi - Mark ngập ngừng - Em chắc là mình muốn tham gia vào vụ này chứ, Abby?

      - Em muốn ở bất cứ nơi đâu có . Chúng ta làm cùng nhau được chứ?

      - Được - Mark nhàng - Hẹn gặp lại em.

      Năm phút sau, Abby ra khỏi nhà và vào xe của mình.

      Con phố Tây Cambridge vắng ngắt, rẽ vào đường Memorial, chuẩn bị tới gần sông Charles hướng tới cầu qua sông. ba giờ mười lăm phút và thể nhớ tại sao vẫn còn tỉnh táo như vậy, vẫn còn sống.

      Cuối cùng chúng ta cũng đánh bại họ, chúng ta làm cùng nhau, như cái cách mà chúng ta vẫn làm cùng nhau từ đầu.

      băng qua cầu và chuẩn bị đến chỗ lên. Chỉ có vài chiếc xe lại vào giờ đó và cảm thấy dễ dàng qua tiếp.

      Hơn ba dặm tiếp sau đó, hết đường hầm và chuyển đường, chuẩn bị vào khu phía tây nam. Khi rẽ vào đó, chợt nhận thấy có ánh đèn theo sau .

      tăng tốc, cố vượt nhanh.

      Đèn của chiếc xe phía sau cũng nhanh hơn, gần hơn, chiếu thẳng vào gương chiếu hậu của . Họ theo mình bao lâu rồi? cũng biết nữa, nhưng giờ hai chiếc xe, của và chiếc kia như cặp dơi sinh đôi ra khỏi hang.

      tăng tốc.

      Chiếc xe kia cũng vậy. Đột ngột, nó tiến đến bên trái đường. Nó đột ngột đến bên cạnh .

      nhìn qua bên kia đường, và nhìn thấy cửa xe bọn họ được hạ xuống.

      run rẩy tăng ga xe.

      Quá muộn rồi, cái xe kia vượt . nhấn phanh và chiếc xe lao vào hàng rào bê tông. Đột nhiên cả thế giới nghiêng ngả, mọi thứ đảo lộn. nhìn bóng tối và ánh đèn, bóng tối, đèn. Bóng tối.



      - Nhắc lại, đây là đội lưu động 41 - Ba phút, nghe ?

      - Nghe , 41 - Vitals thế nào?

      - Systolic ở mức 95 nhịp 10. Chúng tôi cần cho thêm saline vào ống. Đợi , xem nào, có vẻ như ấy cử động.

      - Giữ ấy nằm yên .

      - Chúng tôi cần có cáng và cái gì đó khác nữa.

      - Được rồi, chúng tôi đợi đấy.

      - Gặp lại sau nhé…



      … Ánh sáng.

      Và cơn đau. cơn đau đầu tràn qua.

      cố gắng la hét, nhưng hình như thành tiếng. cố gắng tránh xa khỏi ánh sáng đó nhưng cổ cử động được. nghĩ giá mà có thể thoát ra khỏi ánh sáng đó và quay lại với bóng tối. Cơn đau hề dứt. Với tất cả sức lực của mình cố gắng cử động, cố gắng thoát ra khỏi tê liệt nhưng có hy vọng.

      - Abby, Abby - giọng ai đó thầm - Nằm yên nào. Tôi phải nhìn vào mắt .

      lại vặn người sang hướng khác, cảm thấy đau ở thắt lưng và đầu gối. Rồi nhận ra mình bị tê liệt mà vì bị buộc chặt lại.

      - Abby, Wettig đây. Nhìn tôi này, nhìn vào ánh đèn, nào, mở mắt ra, mở ra.

      mở mắt ra, cố gắng giữ chúng mở dù ánh đèn như lưỡi dao cắt vào sọ não của .

      - Nhìn theo ánh đèn nào, nào, tốt lắm Abby. Được rồi, cả hai đồng tử đều rất tốt, EOMs bình thường - ánh đèn tắt - Tôi vẫn muốn chụp CT.

      Abby cảm thấy dễ chịu rồi, có thể thấy bóng cái đầu của Wettig ngược lại với ánh sáng của đèn đầu. Có nhiều cái đầu khác di chuyển quanh và có tấm rèm trắng cứ như đám mây ngăn cách. Có cảm giác đau tràn qua tay trái, và muốn cử động.

      - Yên nào Abby - đó là giọng của phụ nữ, nhàng và mềm mại - Tôi phải lấy ít máu, giữ chặt nào.

      giọng thứ ba.

      - Bác sĩ Wettig, chụp X-quang sẵn sàng.

      - lát nữa - giọng của Wettig - Tôi muốn có ống IV nữa, găng tay cỡ 16. Nào mọi người.

      Abby cảm thấy có cái gì vừa tiêm vào tay của . Cảm giác hỗn loạn tràn qua trí óc, rồi cảm thấy hoàn toàn tập trung. biết mình ở đâu nhưng thể biết tới đây như thế nào, vẫn biết đây là phòng cấp cứu của Bayside và có chuyện gì đó kinh khủng vừa xảy ra.

      - Mark.

      gọi và cố gắng ngồi dậy.

      - Mark ở đâu?

      - Đừng cử động, rơi ống truyền ra bây giờ - bàn tay kéo lấy và đặt tay xuống. Quá chặt, thể làm gì, họ làm đau , tất cả bọn họ với mớ kim tiêm thuốc men này dìm như con vật.

      - Mark! - gào lên.

      - Abby, nghe này - lại là bác sĩ Wettig, giọng ông ta nghe và rất bình tĩnh.

      - Chúng tôi cố liên lạc với Mark. Tôi chắc chắn là ấy đến sớm thôi, ngay bây giờ phải hợp tác hoặc là chúng tôi thể giúp gì cho đâu. có hiểu ?

      nhìn vào mặt ông ta, và trở nên cứng người lại. Rất nhiều lần trước đây, nhìn vào khuôn mặt đó và cảm thấy sợ hãi với ánh mắt xanh lạnh lùng, giờ bị cầm tù ở đây, thể làm gì dưới ánh mắt ấy, cảm thấy còn sợ hãi hơn. cảm thấy thực sợ hãi và nhìn quanh căn phòng, tìm kiếm gương mặt thân thiện nhưng ai cũng quá bận rộn.

      nghe thấy tiếng rèm động và có cái gì đó chuyển động. Giờ trần nhà sáng lên với ánh đèn và biết họ đưa vào bên trong bệnh viện. Vào trong tim của kẻ thù. thể cố gắng vật lộn được nữa, thể chiến đấu được. Nghĩ , mình phải nghĩ.

      Họ rẽ vào góc và vào phòng chụp X-quang. khuôn mặt nữa, người đàn ông nhìn . Là chuyên viên kỹ thuật CT. Bạn hay thù?

      biết nữa, họ đưa vào cái bàn và đặt cái gì đó lên ngực và hông .

      - Giữ chặt vào nhé - nhân viên kỹ thuật ra lệnh - chúng ta phải làm lại đấy.

      - Được.

      Abby nhớ đến những bệnh nhân khác, miêu tả việc quét CT như đầu của bạn bị nhét vào cái gọt bút chì.

      Abby nhắm mắt lại và thấy tiếng máy móc quanh đầu mình. cố gắng nghĩ và nhớ về tai nạn.

      nhớ mình vào trong xe rồi, lái xe đến chỗ thu lệ phí và bỗng nhiên trí nhớ bị gián đoạn. Đây là kết quả của quá trình gây mê ngược. Sau vụ tai nạn, chẳng còn nhớ gì về những chuyện xảy ra trong lúc đó, nhưng những kiện lại dần quay trở về.

      Khi việc quét não hoàn thành, cố gắng ghép các mảnh vụn trí nhớ để hiểu chuyện gì xảy ra và nên làm gì tiếp theo. Nếu muốn tiếp tục sống, phải cố gắng hơn nữa.

      tỏ ra khá hợp tác khi nhân viên kỹ thuật chuyển trở lại - hợp tác và dễ bảo tới mức ta bỏ khóa tay ra. Khi ta đưa trở lại phòng.

      - Phòng cấp cứu đến đón . Nếu cần tôi, cứ gọi tôi là được. Tôi ở phòng bên cạnh.

      Qua cánh cửa mở, có thể nghe thấy tiếng ta chuyện qua điện thoại.

      - Vâng, đây là phòng CT, chúng tôi xong rồi. Bác sĩ Blaise ở đây. có muốn qua xem ấy thế nào ?

      Abby từ từ nhàng gỡ cái còng ra, khi ngồi dậy, cảm thấy như căn phòng chuyển động. nhấn mạnh tay vào thái dương để lấy lại cân bằng và mọi thứ có vẻ ổn định trở lại.

      tháo cái băng ra khỏi tay và vứt nó ra, muối chảy ra khỏi ống và tràn ra nền nhà. mặc kệ và tập trung vào việc cầm máu chảy ra từ ven. Dù băng khá chặt, nó vẫn tiếp tục chảy ra. lo lắng về chuyện đó lắm. Họ đến để bắt .

      trèo ra khỏi giường. Bàn chân trần chạm vào bể đựng nước muối, ở phòng bên cạnh, có lẽ nhân viên kỹ thuật dọn dẹp bàn. có thể nghe thấy tiếng giấy lau bàn.

      lấy cái áo khoác phòng thí nghiệm ra khỏi móc quần áo ở cửa, và đeo đôi găng tay phẫu thuật vào. Chỉ những nỗ lực đó thôi cũng làm kiệt sức. cố gắng nghĩ, cố gắng đến cửa. Chân cảm thấy muốn lún xuống như cát. cố đến hành lang.

      Hành lang trống rỗng.

      Chỉ cần qua giai đoạn này thôi, cố đến hành lang và vịn vào tường để . rẽ vào góc và thấy ở cuối hành lang là lối thoát hiểm khẩn cấp. cố gắng hướng đến nó và nghĩ: nếu mình đến được cửa đó thôi, mình an toàn.

      Đâu đó đằng sau lưng , có tiếng , có tiếng bước chân vội vã.

      dựa vào cánh cửa thoát hiểm và cố đẩy nó ra, vào trong bóng tối. Chuông báo động rung ầm ĩ, ngay lập tức bắt đầu chạy và chạy vào bóng tối. có kế hoạch bỏ trốn, biết đâu, chỉ biết mình phải ra khỏi Bayside.

      Có những tiếng chuyện sau lưng , có tiếng la hét.

      Khi nhìn lại, thấy ba nhân viên bảo vệ chạy ra khỏi phòng cấp cứu.

      lê bước tới chiếc xe… quá muộn rồi. Họ bắt kịp , cố đứng dậy và định chạy nhưng chân lê bước nổi nữa. ngã giữa hai hàng xe.

      Tiếng bước chân của người giám sát đến gần hơn và đến từ hai hướng.

      quay trái, rẽ vào giữa hai hàng xe đậu.

      Họ bao vây bảo vệ nắm được tay , người khác nắm bên phải. đá, đấm họ và cố gắng cắn họ.

      Nhưng giờ ba người bọn họ đưa được vào phòng cấp cứu, trở lại với bác sĩ Wettig.

      - Họ giết tôi, để tôi , họ giết tôi.

      - ai định hại đâu, quý .

      - Ông hiểu đâu, ông hiểu đâu.

      Cửa phòng cấp cứu mở, khi bước vào bên trong, trong ánh sáng, gương mặt của bác sĩ Wettig xuất trở lại, trắng bệch.

      - Năm miligram Haldon IM.

      - ! ! Tôi muốn!

      - Thôi nào, tôi muốn ấy bình tĩnh trở lại.

      y tá tiến đến, kim tiêm lăm le trong tay. ta gỡ bỏ bọc kim ra chuẩn bị tiêm cho Abby mũi an thần.

      Abby cố gắng thoát ra.

      - Giữ ta lại! Chúa ơi, thể làm ta yên được à?

      Những bàn tay nắm lấy Abby, bị giữ từ cả hai phía.

      - Làm ơn - Abby van xin, nhìn các y tá - Đừng để ông ta làm tôi đau, đừng!

      cảm thấy có hơi lạnh của rượu rồi mũi tiêm ngập vào da .

      - Làm ơn - van vỉ, thầm nhưng biết là quá muộn.

      - ổn cả thôi - y tá và mỉm cười với Abby - Mọi thứ ổn thôi.

    6. ^^! Nếu bạn không gửi link bài viết trên Facebook được, hãy sử dụng link trong khung này để chia sẻ bài viết :