Mùa gặt - Tess Gerritsen (26c)(Kinh Dị)

Thảo luận trong 'Các Thể Loại Khác (Kinh Dị, Trinh Thám..)'

  • ^^! Nếu bạn không gửi link bài viết trên Facebook được, hãy sử dụng link trong khung này để chia sẻ bài viết :
    1. vulinh

      vulinh Well-Known Member

      Bài viết:
      20,019
      Được thích:
      24,221
      11



      - Con tin - Elaine nhắc nhắc lại - Con tin.

      khóc, mắt ráo hoảnh suốt đám tang, điều này làm phiền lòng mẹ chồng , Judith, người khóc lóc thảm thiết khi cha xứ đọc kinh ở đám tang. Nỗi đau của Judith còn được biểu bằng dấu gạch chéo áo, biểu tượng của trái tim bị chia cắt bởi nỗi đau.

      Elaine gạch chéo lên áo, cũng rơi giọt nước mắt. Bây giờ ngồi trong phòng khách, đĩa bánh đùi và nhắc lại:

      - Con tin ấy ra .

      Judith :

      - Con chưa phủ gương trong nhà, con nên phủ chúng , tất cả.

      - Mẹ cứ làm những gì mẹ muốn.

      Judith rời căn phòng để tìm vải. Lát sau, tất cả khách khứa trong nhà có thể nghe thấy tiếng Judith mở và đóng cánh cửa cầu thang.

      - Đó chắc là tục lệ của người Do thái - Marilee Archer thầm khi đưa cho Abby khay bánh sandwich.

      Abby lấy miếng bánh oliu và chuyển cái khay . Nó được chuyền tay cho các vị khách. Chẳng ai muốn ăn cả, chỉ là lịch , họ uống soda, ai còn bụng dạ nào để ăn. Abby cũng chẳng muốn ăn hay chuyện. Ít nhất có hơn hai chục người trong phòng, ngồi trang trọng thành nhừng nhóm nhưng ai chuyện nhiều.

      gác, trong toilet tất nhiên là Judith. Elaine hơi bối rối chút. Thỉnh thoảng mới xuất những nụ cuời thầm. Sau phía Abby ngồi, người ta chuyện việc mùa thu năm nay tới muộn, tháng mười rồi mà lá vàng mới bắt đầu rụng. im lặng bị phá vỡ. Giờ người ta lại bắt đầu về cuộc sống, về các mảnh vườn và năm nay tháng mười có ấm ? Elaine ngồi giữa, gì nhưng ràng để tâm đến câu chuyện.

      Đĩa sandwich được vòng và giờ trở lại chỗ Abby, hết sạch.

      - Tôi lấy - với Marilee, rồi đứng dậy và vào bếp.

      Ở đây nhìn thấy bệ đầy thức ăn. Hôm nay chẳng ai đói cả. mở khay đựng thịt cá hồi xông khói, khi liếc ra cửa sổ thấy Archer, Raj Mohandas, Frank Zwick đứng bên ngoài cột cờ. Họ chuyện, rồi lắc đầu. Để chuyện đó cho đàn ông, nghĩ. Đàn ông chịu được cảnh những bà góa ủ rũ hay im lặng. Họ bỏ ra ngoài để vợ mình trong nhà. Họ còn mang chai Scout ra đó nữa. Họ ngồi dưới cái bàn che ô, vị trí dễ tập hợp mọi người. Zwick với lấy cái chai và rót vào ly của mình. Khi đặt cái chai lại, nhìn thấy Abby. gì đó với Archer, lập tức cả ba quay ra nhìn . Họ gật đầu và vẫy tay, sau đó cả ba đứng dậy, bỏ vào trong vườn.

      - Nhiều đồ ăn quá, tôi chẳng biết phải làm sao cả - Elaine . Abby nhận thấy là ta vào bếp. Elaine đứng nhìn chăm chăm vào đống đồ ăn và lắc đầu.

      - Tôi bảo họ là chỉ có khoảng bốn mươi người và họ mang cho tôi thế này đấy. Đây có phải đám cưới đâu, họ ăn nhiều ở đám cưới chứ đâu có ăn ở đám tang - Elaine nhìn xuống trong các khay, bốc miếng củ cải - Nó ngon lắm, phải ? Họ làm thế nào nhỉ? - đặt miếng củ cải xuống và đứng đó, gì, im lặng nhìn miếng củ cải hoa hồng.

      - Tôi rất tiếc, Elaine. Tôi chỉ biết vậy thôi - Abby chia sẻ.

      - Ước gì tôi có thể hiểu được. ấy bao giờ gì cả, ấy chưa bao giờ với tôi ấy… - nghẹn lời và lắc đầu. mang đĩa đồ ăn vào tủ lạnh, đặt nó vào trong, đóng cửa lại. Quay lại, với Abby - chuyện với ấy đêm đó, gì về, cái gì về…

      - Chúng tôi thảo luận về bệnh nhân. Aaron muốn đảm bảo là tôi làm đúng.

      - Đó là tất cả những gì hai người à?

      - Chỉ về bệnh nhân thôi, Aaron chẳng có vẻ gì lạ cả, chỉ là quan tâm thôi, Elaine. Tôi chưa bao giờ nghĩ ấy lại… - Abby im lặng.

      Elaine lại nhìn cái đĩa khác, hành xanh.

      - có bao giờ nghe cái gì về Aaron mà… muốn với tôi ?

      - Ý là gì?

      - Ví dụ có tin đồn gì với phụ nữ khác chẳng hạn?

      - bao giờ - Abby lắc đầu và nhắc lại, chắc chắn hơn - bao giờ.

      Elaine gật đầu nhưng có vẻ tin tưởng nhiều lắm.

      - Tôi chưa bao giờ nghĩ đó là vì người đàn bà - Elaine và cầm khay thức ăn khác mang tới tủ lạnh. Khi đóng cánh cửa, tiếp - Mẹ chồng tôi la mắng tôi, bà chắc chắn là tôi làm điều gì đó sai, rất nhiều người nghi ngờ tôi.

      - ai làm người khác tự tử cả - Abby an ủi.

      - Chẳng có cái gì dự báo trước cả, chẳng có gì, tôi… tất cả những gì mà tôi biết là ấy hài lòng với công việc của mình. ấy thường xuyên về việc rời Boston hoặc là ngừng công việc điều trị.

      - Tại sao ấy hài lòng?

      - ấy cho tôi biết tại sao. Khi ấy có phòng mạch riêng ở Natick, ấy về công việc suốt. Từ khi Bayside mời ấy về làm việc, lời mời đó quá tuyệt mà chúng tôi thể từ chối, nhưng từ sau khi tới đây, cứ như thể tôi chẳng quen biết gì ấy. ấy về nhà và ngồi như cái máy trước máy tính, ấy chơi game suốt buổi tối. Thỉnh thoảng nửa đêm tôi trở dậy và thấy tiếng bàn phím, tiếng chuột và Aaron ngồi mình chơi game.

      lắc đầu và nhìn xuống dưới sàn nhà, vẫn còn ít thức ăn chưa được ai đụng đến.

      - trong những người cuối cùng chuyện với ấy, có nhớ gì ?

      Abby nhìn qua cửa sổ, cố mường tượng lại cuộc chuyện cuối cùng với Aaron. chẳng thấy cái gì bất thường vào đêm hôm đó, tất cả như mờ , những giọng trôi dạt qua bộ óc mệt mỏi của Abby.

      Bên ngoài, ba người đàn ông từ vườn trở vào, thấy họ qua cửa bếp, Zwick cầm chai rượu bây giờ vơi quá nửa, họ bước vào căn nhà và gật đầu chào .

      - khu vườn xinh đẹp đấy, nên ra ngoài xem chút, Abby - Archer bảo.

      - Tôi rất thích, Elaine này, có lẽ nên ra ngoài và chỉ cho tôi thấy…

      Abby ngừng lại. có ai đứng bên tủ lạnh nữa, nhìn quanh bếp, nhìn thấy các đĩa thức ăn bàn và thùng carton mở, tấm kính bóng treo lơ lửng phất phơ trong trung.

      Elaine rời căn phòng.



      phụ nữ cầu nguyện bên giường của Mary Allen. ngồi đó nửa giờ qua, đầu cúi xuống, hai bàn tay chắp lại khi cầu Chúa, cầu mong Người đem nước thánh vẩy cho Mary Allen, hàn gắn ấy, làm ấy khỏe lại và làm sạch thân thể và tâm hồn của để có thể nghe những lời phán của Người.

      - Xin lỗi - Abby - Tôi xin lỗi vì làm phiền nhưng phải kiểm tra bà Allen chút.

      Người phụ nữ tiếp tục cầu nguyện, có thể ấy nghe thấy Abby gì. Abby định nhắc lại cầu người phụ nữ “Amen” và ngẩng đầu lên. ta có đôi mắt biết cười, mái tóc nâu sẫm với vài lọn màu xám. nhìn Abby với chút bực mình.

      - Tôi là DiMatteo, chăm sóc bà Allen.

      - Tôi cũng vậy - Người phụ nữ và đứng dậy, hề có ý định bắt tay Abby, đứng với bàn tay đặt ngực với cuốn kinh thánh.

      - Tôi là Brenda Hainey, cháu của Allen.

      - Tôi biết là Allen có cháu, rất vui vì đến đây.

      - Tôi mới chỉ biết dì tôi ốm hai ngày trước đây, chẳng ai thèm gọi cho tôi cả.

      Giọng điệu của ta bực tức như thể đó là lỗi của Abby vậy.

      - Chúng tôi được thông báo là bà Allen hề có họ hàng gì cả.

      - Tôi biết tại sao nhưng giờ tôi ở đây rồi - Brenda và nhìn người dì của mình.

      Trừ khi bà ấy sắp chết. Abby nghĩ và đến cạnh giường, nhàng.

      - Bà Allen?

      Mary mở mắt:

      - Tôi vẫn thức, bác sĩ, tôi chỉ chợp mắt chút thôi.

      - Hôm nay bà thấy thế nào?

      - Vẫn mệt và buồn nôn.

      - Có lẽ đó là tác dụng phụ của moocphine. Chúng tôi cho bà uống gì đó.

      Brenda xen vào:

      - Dì ấy dùng moocphine?

      - Để giảm đau.

      - Có cách nào khác ?

      Abby nhìn cháu của Allen:

      - Bà Hainey, bà có thể ra ngoài được ? Tôi cần phải kiểm tra dì của bà chút.

      - phải bà, mà là , tôi nghĩ là dì ấy muốn tôi ở đây.

      - Tôi vẫn muốn ra ngoài.

      Brenda nhìn dì của mình, mong chờ bênh vực nhưng Mary Allen vẫn nhìn thẳng lên trần nhà, im lặng.

      Brenda giữ cuốn kinh chặt hơn.

      - Cháu ở ngay bên ngoài, dì Mary.

      - Lạy Chúa - Mary khi cánh cửa đóng lại đằng sau Brenda - Đây là trừng phạt với tôi sao?

      - Bà định tới ấy à?

      Mary nhìn Abby mệt mỏi.

      - có nghĩ linh hồn tôi cần cứu rỗi ?

      - Tôi với bà rồi mà.

      Abby lấy ống nghe ra.

      - Để tôi nghe phổi bà nào.

      cách ngoan ngoãn Mary ngồi dậy và kéo áo lên. Hơi thở của Mary rất nặng nhọc, Abby có thể nghe thấy thay đổi giữa nước và khí, có thể thấy dịch tràn vào ngực nhiều hơn lần kiểm tra trước. Abby nhấn giọng:

      - Bà thấy thở thế nào?

      - Tốt.

      - Chúng tôi cần phải hút dịch sớm, hoặc đặt thêm ống vào ngực.

      - Tại sao?

      - Để giúp bà thở dễ dàng hơn, thoải mái hơn.

      - Đó là lý do duy nhất à?

      - thoải mái là lý do quan trọng.

      Mary đặt mình xuống gối.

      - Và tôi cho biết khi nào tôi cần nó.

      Khi Abby sắp ra khỏi cửa nhìn thấy Brenda đợi bên ngoài.

      - Dì ngủ, có lẽ nên quay lại lúc khác.

      - Vậy tôi có chuyện cần với bác sĩ.

      - Chuyện gì vậy?

      - Tôi chuyện với y tá, về việc dùng moocphine đó, có cần thiết ?

      - Tôi nghĩ dì là cần.

      - Nó làm dì ấy trở nên ngớ ngẩn hơn, dì ấy chỉ ngủ suốt.

      - Chúng tôi cố gắng giúp bà ấy đỡ đau càng nhiều càng tốt. Khối u lan ra khắp nơi: xương, não, đó là nỗi đau kinh khủng nhất, điều chúng tôi có thể làm duy nhất là giúp bà ấy ra dễ chịu.

      - ra nghĩa là sao?

      - Bà ấy sắp chết. Chúng tôi thể làm gì để thay đổi được.

      - dùng những từ đó: giúp dì ấy ra . Moocphine vì mục đích đó à?

      - Đó là thứ bà ấy muốn và cần lúc này.

      - Chúng ta chuyện đó rồi, bác sĩ, tôi biết là phạm luật khi dùng thuốc để hỗ trợ tự sát.

      Abby thấy mặt mình nóng bừng vì tức giận, cố gắng kiềm chế, hết sức bình tĩnh.

      - hiểu nhầm ý tôi rồi, tất cả những gì chúng tôi gắng làm là giúp dì cảm thấy dễ chịu.

      - Có rất nhiều cách khác để làm vậy.

      - Cách gì?

      - Dùng những cách cao siêu hơn.

      - Ý là cầu nguyện?

      - Tại sao lại ? Nó giúp tôi vượt qua những giai đoạn khó khăn nhất.

      - Mong cầu nguyện cho dì , rất tốt, nhưng tôi nhớ là trong kinh thánh có chỗ nào phản đối dùng moocphine.

      Khuôn mặt của Brenda đỏ lên tức giận, ta định gì đó nhưng bị ngắt quãng bởi máy nhắn tin của Abby.

      - Tôi xin lỗi.

      Abby và bước , bỏ dở câu chuyện. May , nếu phun ra câu đáng sợ nào đó, đại loại như: Nếu cầu nguyện, sao xin Chúa cứu dì ?

      Chắc chắn như vậy xúc phạm Brenda lắm, và với vụ kiện của Terrio trước mắt, Abby chẳng muốn có thêm phiền toái gì nữa. nhấc máy ở bàn y tá và ấn số.

      giọng phụ nữ cất lên:

      - Bàn thông tin đây.

      - Tôi là DiMatteo, gọi cho tôi à?

      - Vâng, bác sĩ, có ông Bernard Katzka đợi , ông ấy đề nghị gặp ở sảnh.

      - Tôi quen ai tên vậy cả, phiền hỏi ông ấy có việc gì?

      Bên kia có tiếng chuyện, rồi y tá quay lại và giọng ta nghiêm trọng:

      - Bác sĩ D. à?

      - Vâng.

      - Ông ấy là cảnh sát.

      Người đàn ông đợi Abby trông rất quen, ta tầm ngoài bốn mươi tuổi, cao trung bình, vóc dáng trung bình, khuôn mặt đẹp trai, cũng có gì đặc biệt đáng nhớ, tóc đen sẫm, bắt đầu mỏng hơn ở đỉnh đầu, thực ra ta cũng cố gắng hất ngôi lệch - cách nhiều người vẫn làm. Khi Abby đến gần ta có ấn tượng là ta cũng nhận ra . ta bắt đầu nhìn khi bước ra khỏi thang máy.

      - Bác sĩ DiMatteo phải ? Tôi là thám tử Bernard Katzka, điều tra hình .

      Cái quái gì vậy nhỉ? Đó là những từ đầu tiên bật lên trong đầu khi nhìn thấy ta. Họ bắt tay, chỉ khi đó Abby mới nhìn thẳng vào ta, nhớ là gặp ta rồi, ở đám tang của Levi. ta đứng cách xa mọi nguời, im lặng trong bộ vest sẫm màu, trong suốt đám tang ta chỉ đứng quan sát. hiểu lắm về những lễ nghi của người Do thái và chỉ tập trung vào những người cầu nguyện chứ phải ông ta. Abby nhận thấy có ai đó quan sát đám đông, họ nhìn nhau chỉ giây và ông ta nhìn chỗ khác. Lúc đó, chẳng có ấn tượng gì về người đàn ông này cả, bây giờ nhìn ta mới nhớ ra, chỉ tập trung vào đôi mắt ấy, xám và điềm tĩnh, nếu phải vì thông minh trong đôi mắt ấy, có lẽ lưu tâm tới Bernard.

      hỏi:

      - là bạn bè nhà Levi à?

      - .

      - Tôi thấy ở đám tang, hay tôi nhớ nhầm nhỉ?

      - Tôi ở đó.

      ngừng lại, chờ đợi lời giải thích nhưng ông ta chỉ :

      - Có chỗ nào ta chuyện được ?

      - Xin lỗi, hỏi về chuyện gì?

      - Về cái chết của Levi.

      nhìn về phía cửa hành lang, mặt trời chiếu sáng rực rỡ và cả ngày nay chưa ra ngoài rồi.

      - Có cái sân có tường rào ở ngoài kia. Chúng ta ra đó được chứ?

      Bên ngoài trời ấm áp, quả là buổi chiều tháng mười tuyệt vời. Khu vườn hoa cúc với những bồn đầy hoa các màu da cam, vàng. Ở giữa là đài phun nước những dòng nước róc rách nhàng. Họ ngồi xuống hàng rào gỗ, vài y tá ngồi những chỗ cạnh bồn hoa hồng, họ đứng lên về phía tòa nhà, để Abby và người đàn ông lại.

      Trong lúc họ gì, im lặng làm Abby bối rối nhưng người đàn ông có vẻ chẳng bị hề hấn gì, ta có vẻ quen với im lặng rồi.

      - Elaine Levi cho tôi tên của , ấy tôi nên chuyện với .

      - Tại sao?

      - chuyện với bác sĩ Levi vào sáng thứ bảy, phải vậy ?

      - Đúng, qua điện thoại.

      - có nhớ lúc đó là mấy giờ ?

      - Khoảng hai giờ sáng, tôi đoán vậy, tôi ở bệnh viện.

      - ta gọi à?

      - Đúng vậy, ấy gọi phòng cấp cứu và cầu chuyện với bác sĩ trục ca đó, là tôi.

      - Tại sao ta gọi?

      - Về bệnh nhân, bà ta bị sốt hậu phẫu và Aaron muốn chuyện với bác sĩ để thảo luận cách giải quyết xét nghiệm nào cần, cần chụp , có cần tôi miêu tả tất cả ?

      - Tôi cố gắng kết nối các kiện. Vậy là bác sĩ Levi gọi đến phòng cấp cứu vào lúc hai giờ và nghe điện thoại? có gọi lại cho ấy ? Sau cuộc gọi lúc hai giờ đó?

      - .

      - có thử gọi lại ?

      - Có, nhưng ông ấy ra khỏi nhà, tôi chuyện với Elaine.

      - Mấy giờ?

      - Tôi nhớ nữa, khoảng ba giờ hay ba giờ mười lăm phút gì đó, tôi để ý thời gian lắm.

      - gọi về nhà ấy lần nào sáng đó à?

      - Nhưng ấy nhấc máy. Tôi biết ấy ở đâu đó trong tòa nhà bởi vì xe của ấy dưới bãi.

      - nhìn thấy xe của ta lúc khoảng mấy giờ?

      - Tôi nhìn thấy, bạn trai của tôi - bác sĩ Hodell - ấy nhìn thấy khi ấy vào bãi xe khoảng lúc bốn giờ, xem nào, tại sao cảnh sát hình lại dính vào vụ này nhỉ?

      ta lờ câu hỏi của Abby

      - Elaine với tôi là có cuộc gọi khoảng lúc hai giờ mười lăm, chồng ấy nghe điện thoại. Vài phút sau ta mặc quần áo và ra khỏi nhà. có biết cuộc gọi đó ?

      - . Có lẽ y tá gọi ấy. Elaine có nghe thấy gì ?

      - Chồng ta nghe điện thoại trong nhà tắm. ấy nghe thấy họ gì.

      - Tôi gọi, tôi chỉ chuyện với Aaron có lần. Giờ tôi hiểu tại sao ông lại hỏi tôi mấy thứ này. Đó chắc phải là những điều ông thường làm.

      - . phải thói quen của tôi.

      Điện thoại của Abby kêu, nhận ra số máy của văn phòng - phải chuyện khẩn cấp nhưng chán ngấy cuộc đối thoại này rồi nên đứng lên.

      - Thám tử, tôi phải vào làm việc đây, tôi có bệnh nhân cần khám, vì có thời gian trả lời quá nhiều câu hỏi như vậy.

      - Câu hỏi của tôi khá chi tiết, tôi chỉ cố tìm ra ai gọi ta vào buổi sáng thôi và nội dung là gì?

      - Tại sao?

      - Vì có nghi vấn quanh cái chết của Levi.

      - Ý là có ai đó gọi ấy, khiến ấy treo cổ?

      - Tôi chỉ muốn tìm ra ai gọi cho ta.

      - có thể kiểm tra danh sách cuộc gọi trong máy tính công ty, họ vẫn lưu chứ?

      - Cuộc gọi lúc hai giờ mười lăm phút là từ bệnh viện Bayside.

      - Vậy có thể là y tá.

      - Hay ai đó trong tòa nhà.

      - Đó là giả thuyết của ? Hay có ai đó từ Bayside gọi Aaron và bảo ấy cái gì đó xúc phạm khiến ấy tự tử.

      - Tôi nghĩ đó đơn thuần là vụ tự tử.

      sững người đứng lên nhìn ta, ta điều đó cách bình thản tới mức tự hỏi biết mình có nghe nhầm . cách chậm rãi lại ngồi xuống, ai lúc.

      y tá đẩy xe chở phụ nữ qua mảnh sân. Cả hai dừng lại bên bồn hoa, trầm trồ vẻ đẹp của nó rồi tiếp, thanh duy nhất bây giờ là tiếng vòi phun nước như những nốt nhạc.

      - Ý là có thể ấy bị giết à? - Abby nhìn vào mặt ta hỏi. ta ngồi im lặng động đậy, chẳng có biểu gì từ dáng điệu, bàn tay hay khuôn mặt.

      - Có phải Aaron tự treo cổ? - hỏi.

      - Bên pháp y cho thấy kết quả có vẻ như vậy.

      - Đó có phải là những gì mong đợi, có vẻ là vụ tự sát.

      - Rất có thể.

      - Vậy sao còn nghi ngờ?

      ta lưỡng lự, lần đầu tiên Abby nhìn thấy phân vân trong mắt ta và biết ta cân nhắc lời của mình. Kiểu người này chẳng bao giờ có động thái gì khi chưa xem xét tất cả các khía cạnh, kiểu người luôn đặt ra các kế hoạch cẩn thận.

      Rồi ta lên tiếng.

      - Hai ngày truớc khi ta chết, bác sĩ Levi mang về nhà chiếc máy tính mới.

      - sao?

      - ta dùng nó vào vài việc. Đầu tiên, ta đặt vé cho hai người đến St. Lucia ở Caribe, ở đó vào Giáng sinh. Sau đó ta gửi email cho con trai ở Dartmount thảo luận việc cả nhà làm gì vào Lễ tạ ơn. Nghĩ , bác sĩ. Hai ngày trước khi tự sát ta lập kế hoạch cho tương lai? ta có kỳ nghỉ tuyệt vời bãi biển phía trước. Nhưng vào lúc hai giờ mười lăm phút ta ra khỏi giường và lái xe đến bệnh viện, vào thang máy, leo lên tầng chót, buộc cái thắt lưng, chốt nhà vệ sinh rồi quấn nó quanh cổ và tự tử? tỉnh táo nhanh mất đến thế. Có thể chỉ cần năm thậm chí mười giây còn lại để ta đổi ý. ta có vợ, con và bãi biển Lucia chờ đợi, vậy mà ta chọn cái chết độc trong bóng tối. Hãy nghĩ thử xem - Katzka nhìn Abby.

      Abby nuốt nước bọt:

      - Tôi biết nữa.

      - Tôi biết đấy.

      nhìn vào đôi mắt nâu của người đàn ông và tự hỏi. nghĩ về cơn ác mộng gì đây? Sao có loại người lựa chọn nghề kinh hoàng này nhỉ?

      - Chúng tôi biết xe của bác sĩ Levi được tìm thấy ở chỗ quen thuộc trong bệnh viện nhưng chúng tôi chả hiểu tại sao ta mò đến đây hay tại sao ta rời khỏi nhà. Chỉ có hai cuộc gọi, là người cuối cùng chúng tôi biết chuyện với Levi, ta có gì tới việc đến viện ?

      - ấy quan tâm đến bệnh nhân, có lẽ ấy quyết định đến thăm bệnh nhân mình và tự giải quyết vấn đề.

      - Chứ để làm ư?

      - Vì tôi chỉ là bác sĩ năm thứ hai, Katzka, tôi có nhiều kinh nghiệm. Aaron là chuyên gia cao cấp.

      - Tôi biết ấy là chuyên gia tim mạch.

      - ấy cũng là cố vấn luôn, khi có vấn đề, ví dụ như sốt, y tá luôn gọi ấy. ấy có thể gọi các tư vấn khác khi ấy cần.

      - Trong cuộc chuyện có thấy ta đến viện ?

      - . Chỉ là thảo luận về kế hoạch thôi, tôi với ấy tôi định làm gì, tôi kiểm tra bệnh nhân và cầu lấy mẫu máu, chụp X-quang. ấy đồng ý.

      - Thế thôi à?

      - Còn chút nữa.

      - ta có cách làm có chút gì ổn ?

      lại nghĩ về điều đó, nhớ tới lúc im lặng của Levi điện thoại, điều gì làm Aaron như vậy điện thoại nhỉ?

      - Bác sĩ DiMatteo?

      nhìn Katzka, mặc dù nhắc tên cách lặng lẽ, cách biểu của ta khiến chợt nhớ ra.

      - nhớ ra cái gì à?

      - Tôi nhớ là ấy có vẻ vui khi tôi là bác sĩ trực.

      - Tại sao?

      - Vì liên quan tới bệnh nhân, chồng ấy và tôi, chúng tôi có mâu thuẫn, rất nghiêm trọng.

      nhìn ra chỗ khác, cảm thấy khó chịu về những lời của Victor Voss.

      - Tôi chắc chắn Aaron muốn tôi tránh xa khỏi bà Voss.

      im lặng của Katzka khiến Abby chú ý.

      - Bà Voss à?

      - Đúng. biết cái tên đó chứ?

      Katzka ngồi xuống, nhàng.

      - Tôi biết ông ta lập ra tổ chức VMI quốc tế. Vợ ông ta làm sao?

      - Cấy ghép tim. Bà ấy khá hơn rồi. Cơn sốt vài ngày chỉ cần kháng sinh là đủ.

      Katzka bắt đầu nhìn sang vòi phun nước, nơi những dòng nước chảy lấp lánh như vàng. Bỗng ta đột ngột đứng đậy.

      - Cảm ơn rất nhiều, bác sĩ DiMatteo. Tôi có thể gọi lại cho .

      định đáp: Bất cứ khi nào, nhưng ta quay lưng bỏ . Người đàn ông gây tiếng động nào, kỳ lạ.

      Điện thoại của lại rung lên, số văn phòng, tắt và khi ngẩng lên, Katzka mất hút khỏi tầm mắt của . thám tử ma quái, vẫn còn giữ mấy câu hỏi của ta, Abby quay lại hành lang và nhấc phone.

      thư ký trả lời:

      - Phòng nội trú.

      - Tôi DiMatteo đây, gọi tôi à?

      - Vâng, có hai việc. Bác sĩ có cuộc gọi từ Helen Lewis của ngân hàng nội tạng New England. ta muốn biết có câu trả lời cho câu hỏi của mình chưa, trả lời máy nên ta cúp máy.

      - Nếu ta gọi lại, làm ơn với ta tôi cả rồi. Việc tiếp là gì?

      - có thư, tôi ký nhận rồi, tôi hy vọng ổn.

      - Thư cần xác nhận à?

      - Được chuyển đến mới vài phút thôi, tôi nghĩ muốn biết.

      - Ai gửi?

      Chỉ có tiếng lật giấy, sau đó là:

      - Từ Hawkes, Craig và Sussman, văn phòng luật.

      Bụng của Abby chợt sôi dữ dội.

      - Tôi gọi lại.

      và cúp máy. Chắc là đơn kiện của Terrio đây mà, vòng xoáy kiện tụng bắt đầu rồi đây. Bàn tay ướt mồ hôi khi ấn thang máy lên tầng quản lý. Bác sĩ DiMatteo, được biết đến bởi điềm tĩnh trong công việc, giờ run rẩy sợ hãi.

      Thư ký văn phòng nội trú nghe điện thoại, ta thấy Abby và chỉ vào thùng thư.

      phong bì trong ngăn của Abby. Hawkes, Craig và Sussman được in bên góc trái . mở nó ra.

      Đầu tiên hiểu đọc cái gì, sau đó tập trung vào tên nguyên đơn, bụng bớt quặn lên. Lá thư phải về Karen Terrio mà là của bệnh nhân khác, Michael Freeman, kẻ nghiện rượu, ta chết vì mất quá nhiều máu. Abby lúc đó thực tập, nhớ đó là ca kinh hãi. Bây giờ vợ của Michael Freeman đâm đơn kiện, Abby là bị cáo, người duy nhất bị kiện.

      - Bác sĩ DiMatteo, sao chứ?

      Abby đột nhiên nhận ra mình dựa vào thùng thư và căn phòng có vẻ chấp chới. Thư ký nhíu mày.

      - Tôi… ổn, tôi ổn.

      Abby nhưng khi rời khỏi căn phòng, thực cảm thấy muốn xỉu. Lập tức thẳng vào phòng trực, khóa cửa bên trong và ngồi xuống. Sau đó mở lá thư và đọc lại lần nữa.

      Hai vụ kiện trong hai tuần ư? Vivian đúng, có lẽ phải ra tòa suốt phần đời còn lại.

      biết nên gọi cho luật sư của mình, nhưng thể giải quyết chuyện đó bây giờ được, vì thế vẫn tiếp tục ngồi giường, nhìn chằm chằm vào lá thư đùi, nghĩ về tất cả những năm tháng qua, những gì làm. nghĩ về những đêm ngủ gục đống sách vở khi mọi người đến chỗ hẹn hò hết, nghĩ đến những ngày cuối tuần làm cả hai ca trong bệnh viện, lắp các ống truyền máu để lấy tiền đóng học phí. nghĩ về khoản tiền 120.000 đô la tiền tín dụng sinh viên mà phải trả, những bữa tối với sandwich bơ lạc, những buổi hòa nhạc và xem phim chưa bao giờ thực .

      nghĩ về Pete, động cơ cho tất cả những gì làm. muốn cứu nó nhưng thể. hết nghĩ về Pete, đứa em thân của , nó chết khi mới mười tuổi.

      Victor thắng, đến lúc phải chiến đấu. Chỉ có điều chưa nghĩ ra bằng cách nào thôi. đủ khôn khéo trong những việc như thế này, lá thư như axit tay , nghĩ và nghĩ, làm sao để ông ta dừng lại, nhưng biết làm thế nào để chống lại ông ta kể cả việc ông ta xô trong phòng bệnh. vụ kiện bạo lực ư? Chưa đủ, chưa đủ để chống lại ông ta.

      Chống lại, mày phải nghĩ cách nào đó chứ.

      Điện thoại rung, là từ phòng phẫu thuật, chẳng còn tâm trí đâu mà nghe cuộc điện thoại nào nữa. nhấc máy và :

      - DiMatteo đây.

      - Bác sĩ, chúng ta có chuyện với cháu của Mary.

      - Chuyện gì?

      - Chúng tôi cố gắng tiêm liều moocphine lúc bốn giờ cho bà ấy, nhưng Brenda ngăn chúng tôi lại.

      - Tôi đến ngay.

      Abby dập máy. Khỉ Brenda, nghĩ, đút bức thư vào túi áo.

      dùng cầu thang bộ, chạy xuống hai tầng, lúc đến cửa thở dốc, phải vì mệt, mà vì bực mình. thẳng vào phòng Mary.

      - Dì ấy chịu đựng quá đủ rồi. Nhìn xem, dì ấy thậm chí thể chuyện với tôi - Brenda .

      - Có lẽ bà ấy muốn chuyện với - Abby cố ôn tồn.

      Các y tá quay sang nhìn Abby với thái độ biết ơn. Giọng quyền lực xuất .

      - Làm ơn rời khỏi phòng, Hainey.

      - Chỉ dùng moocphine là ổn - Brenda ngoan cố.

      - Tôi quyết định như vậy, bây giờ mời ra cho.

      - Dì ấy còn sống lâu nữa, dì ấy cần tất cả những gì tốt đẹp nhất.

      - Để làm gì?

      - Để đến với Chúa, nếu dì ấy chết trước khi chấp nhận Người…

      Abby đưa tay ra trước y tá.

      - Đưa tôi moocphine, tôi tiêm.

      Ngay lập tức kim tiêm được đưa cho .

      Abby bước đến chỗ Mary, khi chuẩn bị kim, thấy cái gật đầu biết ơn yếu ớt của Mary.

      - cho dì ấy liều đó và tôi gọi luật sư.

      - Làm .

      Abby và tiêm thuốc vào ven của Mary. chỉ vừa tiêm vào Brenda xông tới trước mặt và kéo ra khỏi chỗ dì . Máu phun ra sàn nhà, những giọt máu đỏ tươi.

      y tá vội lấy gạc lau máu tay Mary. Abby quay Brenda và .

      - Ra khỏi đây ngay.

      - cho tôi cơ hội lựa chọn, bác sĩ.

      - Ra ngay!

      Brenda trố mắt, ta lùi lại bước.

      - có muốn tôi gọi bảo vệ lôi ra ngoài ?

      Abby hét lên, xông đến truóc mặt Brenda, còn ta lùi lại.

      - Tôi muốn lại gần bệnh nhân của tôi, tôi muốn hành hạ bà ấy với thứ kinh thánh ngớ ngẩn của .

      - Nhưng tôi là họ hàng của dì ấy.

      - Tôi quan tâm là đứa quái nào.

      Brenda cực kỳ ngạc nhiên, tay ta vung ra, rồi gì, ta ra khỏi phòng.

      - Bác sĩ DiMatteo, tôi chuyện với được ?

      Abby quay lại và thấy y tá trưởng, Georgia Speer.

      - Như thế phù hợp, bác sĩ, chúng ta cư xử với người nhà bệnh nhân theo cách đó.

      - ta kéo kim ra khỏi tay bệnh nhân của tôi.

      - Có cách tốt hơn để giải quyết việc đó, gọi bảo vệ, gọi bất cứ trợ giúp nào, nhưng vừa rồi tuyệt đối phải là cách chúng ta làm trong bệnh viện này, hiểu ?

      Abby hít hơi sâu.

      - Tôi hiểu - thào - Tôi xin lỗi.

      Sau khi nối lại ống truyền cho Mary, Abby quay lại phòng trực và nằm xuống, nhìn chăm chăm lên trần nhà, tự hỏi: Cái quái gì xảy ra với mình thế nhỉ? chưa bao giờ mất bình tĩnh như thế, suýt nữa tấn công cả họ hàng của bệnh nhân. Mình điên rồi, nghĩ. Áp lực phá tan cuộc sống của mình, có lẽ mình hợp để làm bác sĩ.

      Điện thoại lại reo, lạy Chúa, sao họ để cho yên vậy nhỉ? Giá mà có thể sống ngày, tuần mà có điện thoại hay tin nhắn nhỉ? Là văn phòng gọi , nhấc máy.

      - Điện thoại bên ngoài gọi bác sĩ, để tôi nối máy.

      - Bác sĩ DiMatteo à?

      - Vâng.

      - Tôi là Helen Lewis từ ngân hàng nội tạng New England. để lại lời nhắn thứ bảy tuần trước về ca hiến tim. Chúng tôi cứ chờ ai đó ở Bayside gọi lại nhưng có ai cả, chúng tôi nghĩ là nên gọi lại cho .

      - Tôi xin lỗi, lẽ ra tôi phải gọi cho nhưng mọi thứ ở đây rối tung lên, có vẻ có chuyện hiểu lầm gì đó.

      - À, vậy đơn giản rồi, vì tôi tìm được thông tin mà. Nếu có câu hỏi nào, cứ…

      - Xin lỗi - Abby cắt ngang.

      - vừa cái gì nhỉ?

      - Tôi tìm thấy thông tin.

      - Tại sao?

      - Thông tin cầu có trong hệ thống của tôi.

      Khoảng mười giây trôi qua, Abby vẫn yên lặng, rồi hỏi, giọng rất .

      - chắc chứ?s

      - Tôi tìm các fíle máy tính, ngày diễn ra phẫu thuật mà với tôi, chẳng có vụ hiến tim nào cả, có ở Vermont.

    2. vulinh

      vulinh Well-Known Member

      Bài viết:
      20,019
      Được thích:
      24,221
      12



      - Đây - Colin Wettig và đặt cuốn Các chuyên gia y tế lên bàn - Timothy Nicholls ở Đại học Vermont, Thạc sĩ Tuff ở bệnh viện Massachusett. Chuyên ngành: giải phẫu, hợp tác cùng bệnh viện Memorial, Burlington, Vermont..

      Ông đặt cuốn sách lên bàn họp để mọi người cùng thấy.

      - Vậy là thực bác sĩ tên Nicholls ở Burlington. ta phải kiểu mà Archer tưởng tượng.

      - Khi tôi chuyện với ông ta hôm thứ bảy - Archer - Nicholls ông ta có ở đó lúc phẫu thuật. Ông ta là nó diễn ra ở Wilcox Memorial. may là tôi thể tìm ra ai cùng thực ca đó với ông ta. Và bây giờ tôi cũng chẳng liên lạc được với Tim nữa, các nhân viên văn phòng của ông ta là ông ta tạm vắng mặt, tôi chẳng hiểu chuyện quái gì xảy ra. Jeremiah, tôi chắc là chúng ta chẳng có quái gì để làm với vụ này nữa, bởi vì mọi chuyện bắt đầu bốc mùi hay rồi.

      Jeremiah Parr ngồi thoải mái trong cái ghế và nhìn luật sư Susan Casado. Ông ta chẳng buồn nhìn Abby, người ngồi ở tít cuối bàn, gần điều phối cấy ghép Donna Toth. Có lẽ ông ta cũng chẳng muốn nhìn . Abby, tất cả là người mang thứ rắc rối này tới mọi người, người đề nghị có cuộc họp này.

      - Vậy chính xác cái quái gì xảy ra vậy? - Parr hỏi.

      Archer :

      - Tôi nghĩ Victor Voss sắp xếp để giữ người hiến tặng nằm ngoài hệ thống, và chuyển tim đến thẳng vợ ông ta.

      - Ông ta có thể làm thế sao?

      - Có lẽ, nếu đưa đủ tiền.

      - Và chắc chắn ông ta có đủ tiền - Susan - Tôi chỉ nhìn thấy danh sách mới nhất ở Kiplinger. Danh sách mười người giàu nhất ở Mỹ, ông ta vừa lên số bốn mươi đấy.

      - Có lẽ ông nên giải thích việc hiến tặng và chuyển nội tạng như thế nào , bởi tôi chẳng hiểu quy trình này lắm.

      Archer nhìn điều phối viên:

      - Donna thường xuyên xử lý mấy vụ này, tại sao ta để ấy giải thích nhỉ?

      Donna gật đầu:

      - Hệ thống này ra rất đơn giản. Chúng ta có danh sách những bệnh nhân chờ nội tạng theo vùng và toàn quốc. Hệ thống quốc gia là Mạng liên bang về chia sẻ nội tạng, hay gọi tắt là UNOS. Danh sách theo vùng được duy trì bởi ngân hàng nội tạng New England. Cả hai hệ thống có danh sách các bệnh nhân cần nội tạng. Danh sách này phân biệt tài sản, tuổi tác hay vị trí chính trị, tất cả dựa vào tình trạng bệnh tật.

      ta mở cái cặp tài liệu và lấy ra tờ giấy, đưa nó cho Parr.

      - Danh sách mới nhất trông như thế này. Tôi nhận được bản fax từ NEOB ở Brookline. Ông thấy đấy, có tình trạng bệnh nhân, loại nội tạng cần, trung tâm phẫu thuật gần nhất, số điện thoại liên lạc.

      - Những cái khác là gì?

      - Là thông tin thêm: Chiều cao, cân nặng tối đa và tối thiểu của người hiến tặng, bệnh nhân có từng cấy ghép trước đây chưa, có gặp phản ứng kháng sinh .

      - danh sách này dựa nhu cầu à?

      - Đúng vậy. Số thứ tự đại diện cho mức cần thiết.

      - Vậy bà Voss sao?

      - Vào ngày bà ta nhận được nội tạng, bà ta xếp thứ ba nhóm máu AB+.

      - Vậy chuyện gì xảy ra với hai cái tên đầu tiên?

      - Tôi kiểm tra với NEOB, cả hai cái tên đều được xếp hạng lại vài ngày sau đó. còn chờ đợi được ra khỏi danh sách.

      - Có nghĩa là họ chết rồi hả?

      Donna gật đầu.

      - Họ bao giờ được cấy ghép.

      - Ôi lạy Chúa - Parr rên rỉ - Và bà Voss lên hàng đầu, nhận được tim của ai đó.

      - Có vẻ là như vậy đấy. Chứng tôi biết mọi việc được sắp xếp thế nào.

      - Làm sao chúng ta được biết về người hiến tặng? - Susan hỏi.

      - cú điện thoại - Donna giải thích - Thường mọi chuyện vẫn như vậy. Điều phối viên bên bệnh viện có người tình nguyện cho nội tạng giải quyết, ta hoặc ta kiểm tra danh sách mới nhất của NEOB và gọi bệnh nhân thứ nhất ở trong danh sách.

      - Vậy là chúng ta được gọi bởi điều phối viên bên Wilcox à?

      - Đúng vậy, tôi chuyện qua điện thoại với ông ta, về những người hiến tặng, tôi chẳng có lý do gì để lăn tăn trường hợp này cả.

      Archer lắc dầu.

      - Tôi hiểu làm sao Voss có thể xoay sở vụ này nhỉ, mọi bước đều có vẻ hợp pháp và cơ chúng ta. Ai đó ở Wilcox chắc ăn tiền rồi, tôi cá là điều phối viên của họ. Vì vậy mà vợ của Voss được tim, và bệnh viện Bayside lãnh đủ hậu quả, chúng ta thậm chí chẳng có giấy tờ của người hiến tặng để kiểm tra lại.

      - Vẫn chưa thấy sao? - Parr sốt ruột.

      - Tôi thể tìm thấy nó - Donna cho biết - Các ghi nhận về người cho đều có trong văn phòng của tôi.

      Abby nghĩ thầm: Victor Voss, chắc là làm cho mớ giấy tờ đó biến mất luôn rồi.

      - Phần tệ nhất là thận đấy - Wettig .

      Parr nhíu mày.

      - Cái gì?

      - Vợ ông ta cần thận, hay gan - Wettig - Vậy cái gì xảy ra với chúng, chúng chẳng bao giờ được đăng ký trong hệ thống cả.

      Archer thêm vào.

      - Chắc chúng hỏng luôn rồi.

      - Đúng vậy, có thể ba, bốn người được cứu, nhung chẳng có cơ hội rồi.

      Mọi người lắc đầu, thể thất vọng chán chường.

      - Vậy chúng ta làm gì đây? - Abby lên tiếng.

      Câu hỏi của rơi vào im lặng.

      - Tôi chắc chúng ta nên làm gì - Parr và nhìn luật sư của mình - Chúng ta có thẩm quyền theo tiếp ?

      - Có thể - Susan - Tuy nhiên, có hậu quả nếu chúng ta báo cáo vụ này. Tôi có thể đề cập vài hậu quả ở đây: đầu tiên, chúng ta thể giữ chuyện này với báo chí được, vụ buôn bán nội tạng, đặc biệt liên quan tới Victor Voss, câu chuyện hay ho đấy. Thứ hai, chúng ta phá hỏng niềm tin của các bệnh nhân, như vậy chúng ta giảm lượng bệnh nhân đấy.

      Wettig thêm.

      - Có nghĩa là những kẻ giàu có ấy.

      - Những người giúp bệnh viện này sống - Parr thầm.

      - Chính xác - Susan khẳng định - Nếu họ nghe về việc chúng ta điều tra gì đó về Victor Voss, họ để chúng ta nắm đời tư của họ đâu, chúng ta mất tất cả các khoản từ cá nhân. Cuối cùng, chuyện gì xảy ra nếu đổ bể, có vẻ như chúng ta cũng nằm trong vùng nghi vấn, chúng ta mất uy tín của trung tâm cấy ghép, vì nếu mọi chuyện hóa ra là Victor Voss để người tặng khỏi danh sách, chúng ta cũng gặp rắc rối to.

      Abby nhìn Archer, người có vẻ bị lung lay. Điều đó phá hủy chương trình cấy ghép của Bayside, phá hủy cả đội.

      - Chuyện này lộ đến đâu rồi? - Parr hỏi Abby - gì với NEOB, bác sĩ DiMatteo?

      - Khi tôi chuyện với Helen Lewis, tôi biết chắc cái gì xảy ra. Tất cả chúng ta đều biết, chúng ta chỉ cố tìm xem tại sao người cho lại có trong hệ thống đăng ký mà thôi, đó là những gì chúng ta công bố. Sau cú điện đó, tôi có chuyện với Archer và Wettig về chuyện này.

      - Và Hodell nữa, chắc với Hodell.

      - Chưa, tôi chưa với Mark. ấy ở phòng mổ cả ngày hôm nay.

      Parr thở phào.

      - Thôi được rồi, vậy tất cả chỉ trong phòng này thôi, và tất cả những gì Lewis là chưa chắc chắn có xảy ra hay .

      - Đúng vậy.

      Susan Casado đồng tình với cái nhìn đầy ý của Parr.

      - Chúng ta vẫn có thể bị ảnh hưởng nghiêm trọng, tôi nghĩ chúng ta cần làm cái gì đó ngay. Bác sĩ Archer, gọi cho Ngân hàng Bộ phận cơ thể người với Lewis rằng chúng ta giải tỏa mọi hiểu lầm, hy vọng ta để mọi chuyện ở đó. Chúng ta tiếp tục xem xét, bí mật thôi. Chúng ta nên cố gắng liên lạc lại với bác sĩ Nicholls, có lẽ ta có thể xử lý mọi thứ.

      - ai biết Nicholls bao giờ mới quay lại làm việc - Archer băn khoăn.

      - Thế còn các bác sĩ khác sao? - Susan hỏi - Cái gã đến từ Texas đó.

      - Mapes à? Tôi vẫn chưa thử liên lạc với ta.

      - Ai đó làm .

      Parr xen vào.

      - Tôi đồng ý, tôi nghĩ chúng ta nên gọi cho ai đó để loan báo thêm về chuyện này.

      - Jeremiah, ý thế nào?

      - Tốt nhất chúng ta nên tránh xa nó ra, với Helen Lewis rằng đó là vụ chuyển nhượng trực tiếp, rồi để mọi thứ trôi qua.

      - cách khác - Wettig lên tiếng - Tốt nhất là mũ nỉ che tai.

      - thấy gì, biết gì hết - Parr nhìn quanh bàn, có vẻ nhận được ít đồng tình - cần phải nữa, chúng ta để lọt chuyện này ra ngoài căn phòng này.

      Abby thể giữ im lặng.

      - Vấn đề là, mọi chuyện dừng lại. Cho dù chúng ta có phớt lờ hay vẫn còn đó.

      - Bayside chẳng có lỗi gì cả - Parr - Chúng ta nên chịu trách nhiệm, và chúng ta ràng nên khơi nó ra.

      - Thế còn những trách nhiệm sắc tộc? Chuyện này có thể xảy ra đấy.

      - Tôi thực nghĩ bà Voss sớm cần quả tim khác, đó là tai nạn hi hữu, bác sĩ DiMatteo. người chồng tuyệt vọng cố gắng cứu vợ mình, vậy đó, chúng ta cần vành đai an toàn để chuyện này xảy ra nữa - Parr nhìn Archer - Chúng ta có làm được ?

      Archer gật đầu.

      - Chúng ta buộc phải làm thế.

      - Chuyện gì xảy ra với Victor Voss? - Abby hỏi và im lặng sau đó giúp hiểu câu trả lời. Chẳng có chuyện quái gì với ông ta cả, ông ta có thể đánh bại cả hệ thống và mua trái tim, mua bác sĩ phẫu thuật, mua cả bệnh viện. Và ông ta có thể mua cả đống luật sư để giúp ông ta vô tội.

      :

      - Ông ta cố gắng hủy hoại tôi, tôi nghĩ mọi thứ xong xuôi khi vợ ông ta được ghép tim, nhưng , ông ta vứt đồ vào xe của tôi, ông ta khởi kiện tôi, tôi chắc chắn chuyện đó. khó để tôi lờ , coi như thấy, nghe khi ông ta cứ tiếp tục như vậy.

      - có chứng minh được rằng ông Voss làm những việc đó ? - Susan hỏi.

      - Còn ai ngoài ông ta nữa?

      - Bác sĩ DiMatteo - Parr - Các tin đồn ở bệnh viện này thế là đủ rồi. Chúng tôi cần mọi người cùng hợp tác, cùng làm việc với nhau, cả nữa, đây có phải bệnh viện của ? - Điều gì xảy ra nếu mọi thứ bung bét? Chuyện gì xảy ra nếu chúng ta ở trang nhất của Globe? Bayside bị buộc tội bao che, và những thứ đó đập vào mặt chúng ta đấy. Vậy tại sao ta để mọi thứ chỉ trong căn phòng này nhỉ?

      - Tôi thể bỏ qua được - Abby hơi hất đầu lên - Có lẽ thế.

      Parr và Susan nhìn nhau.

      Susan .

      - Chúng ta phải mạo hiểm.



      Abby cởi bỏ đồ phẫu thuật, để chúng vào thùng giặt và kéo cửa lại. gần nửa đêm. Bệnh nhân ở trong phòng hồi sức. Những xét nghiệm hậu phẫu được các thực tập sinh ghi lại, và phòng cấp cứu chẳng còn gì làm nữa, tất cả đều yên ắng.

      chắc có ngủ được nữa, có quá nhiều thứ xảy ra chiều nay.

      Mình chỉ có cơ hội để bật lại, mà mình thể. Giá mà mình phải là thành viên của đội, giá mà phải vì lợi ích của Bayside.

      Và cả lợi ích của chính nữa, việc vẫn tiếp tục là thành viên của đội là dấu hiệu tốt, có nghĩa là vẫn có cơ hội ở đây, hoàn thành chương trình. Đối phó với ác quỷ chỉ có cách, là giữ mồm giữ miệng, và tiếp tục giấc mơ, nếu Victor Voss để làm vậy.

      Nếu lương tâm để yên.

      cứ đắn đo suốt buổi tối, chỉ cần gọi cho Helen Lewis, cú điện thoại thôi, và Victor Voss bị phơi bày bản chất. Bây giờ, đến phòng trực nhưng vẫn chưa biết nên làm gì, mở khóa cửa và bước vào trong.

      thấy có cái gì đó, trước khi bật đèn, mùi hương hoa hồng và hoa lyly. bật đèn và nhìn thấy lọ hoa bàn.

      tấm khăn giường làm giật mình.

      - Mark?

      bật dậy tức khắc. Đầu tiên nhận ra mình ở đâu, rồi nhìn thấy và mỉm cười.

      - Chúc mừng sinh nhật em!

      - Chúa ơi! Em quên mất.

      - .

      đến bên giường và ngồi xuống bên cạnh . ngủ quên luôn trong phòng với đồ phẫu thuật, khi cúi xuống hôn vẫn ngửi thấy mùi Betadine.

      - Eo ơi, cần phải tắm rửa .

      - cần nụ hôn nữa.

      cười.

      - ở đây bao lâu rồi?

      - Mấy giờ rồi?

      - Nửa đêm.

      - Chắc khoảng hai tiếng.

      - ở đây từ mười giờ?

      - định thế này đâu, đoán chỉ vừa ngủ thôi.

      Mark lui vào trong lấy chỗ cho trong chiếc giường chật hẹp. cởi giày và nằm xuống bên cạnh . Ngay lập tức dễ chịu bởi ấm áp của cơ thể người đàn ông. nghĩ tới việc với về cuộc họp lúc chiều, về vụ kiện thứ hai nhưng chẳng muốn tới chúng, tất cả những gì muốn là được ôm vào lòng.

      - xin lỗi, quên mua bánh rồi.

      - Em thể tin được là lại quên cả sinh nhật của chính mình, có lẽ em muốn quên nó , hai tám chiếc lá vàng rơi rồi.

      cười và vòng tay ôm .

      - quý già cả đáng .

      - Em cảm thấy mình già , đặc biệt là vào hôm nay.

      - Ừ, cũng cảm thấy mình là cổ lỗ - hôn rất lên tai - Còn còn trẻ nữa, nghĩ đến lúc.

      - Lúc gì?

      - Để làm việc nên làm cả tháng nay rồi.

      - Gì thế?

      kéo đối diện và ôm lấy mặt .

      - Muốn cưới em.

      nhìn , lên lời nhưng tràn đầy hạnh phúc, biết câu trả lời lên trong mắt . Đột ngột, cảm thấy hạnh phúc ngập tràn khi hiểu từng ngóc ngách. Bàn tay sưởi ấm má . Khuôn mặt , mệt mỏi và còn trẻ nữa nhưng thân thiết với hơn bao giờ hết.

      - biết, nhiều đêm trước đây là điều mà muốn. Khi em ở nhà, và ở nhà mình, ăn bữa tối lấy ra từ hộp carton. lên giường ngủ và nhìn thấy những đồ dùng của em. Lược của em, hộp nữ trang, áo lót em bỏ - cười nhàng, và cũng vậy - Lúc đó biết, bao giờ muốn sống ở chỗ nào đó mà có đồ của em. nghĩ có thể sống mà thiếu em.

      - Ôi, Mark.

      - Điều kinh khủng nhất là em ít khi ở nhà, và khi em ở nhà lại ở nhà, chúng ta như những làn sóng, chỉ gặp nhau trong hội trường, hay nắm tay nhau trong thang máy nếu may mắn. Điều làm bận tâm, là khi về nhà, nhìn thấy đồ đạc của em, và biết, em vẫn ở đó, thế là đủ.

      Qua làn nước mắt, thấy mỉm cười, và thấy tim đập rộn ràng trong hạnh phúc.

      - Vậy nghĩ sao, thưa bác sĩ D.? - thầm - Chúng ta có thể nhét đám cưới vào trong thời gian biểu căng thẳng của chúng ta ?

      trả lời, nửa khóc nửa cười.

      - Vâng, vâng, vâng.

      ngồi dậy, ngồi nhỏm lên, vòng tay ôm lấy cổ , môi tìm môi . Cả hai vừa cười, vừa hôn nhau. Chiếc giường quá , họ thể ngủ cùng nhau ở đó.

      Nhưng để nhau, nó hoàn toàn vừa vặn.



      Bà từng là phụ nữ xinh đẹp, đôi khi Mary Allen nhìn vào ngón tay mình và thấy những dấu vết nhăn nhúm của tuổi già, bà tự hỏi: đây là bàn tay ai vậy nhỉ?

      Của người lạ, chắc chắn rồi, người già, phải tay của mình, phải của Mary Hatches xinh đẹp. Đột ngột chớp sáng lóe lên và bà nhìn quanh căn phòng nhận ra mình lại nằm mơ. phải giấc mơ đến trong giấc ngủ trọn vẹn, mà là cái gì đó qua đầu bà và đọng lại ở đó. Đó là moocphine. Bà cảm thấy biết ơn nó, nó đem mọi nỗi đau và để những hình ảnh ở lại, hình ảnh về cuộc sống qua. Bà nghe về cuộc sống như vòng quay, và nó quay lại điểm xuất phát. Nhưng cuộc sổng của bà giống quy luật ảo, nó giống như bánh xe lỗ chỗ, chỗ hỏng, chỗ lành, chẳng có cái gì thực và thẳng cả.

      Nhưng nó có rất nhiều, rất nhiều màu sắc.

      Bà mở mắt và cánh cổng đó mở ra, cửa biển, mùi hương hồng biển, ngọt và hồng, những hạt cát ấm áp dưới chân, những đợt sóng lăn tăn trong vịnh, bàn tay xoa kem đắt tiền lên lưng bà.

      Bàn tay của Geoffrey.

      Cánh cổng mở ra rộng hơn, và bước vào, những ký ức được nối lại, phải bãi biển đó, nhưng như lần đầu tiên nhìn thấy, trong bộ đồng phục, mái tóc sẫm màu, khuôn mặt nửa cười. Đó là lần đầu tiên họ nhìn thấy nhau, đường phố Boston. mang giỏ hoa cải, trông giống hệt nội trợ về nhà chuẩn bị cơm cho chồng. Váy của có màu nâu, đó là thời chiến tranh và cái đó là thứ có sẵn trong các cửa hàng. vẫn chưa chải tóc, gió làm nó rối tung lên. nghĩ trông khá bê tha, nhưng có người đàn ông trẻ, mỉm cười nhìn theo khi bước qua chỗ ta phố.

      Ngày tiếp theo, tạ lại ở đó, và họ lại thấy nhau, nhưng lần này phải hai người xa lạ mà còn nhiều hơn thế.

      Geoffrey, lại mất mát nữa, phải là hình ảnh vỡ và mờ cho đến khi mất hẳn, như chồng , nhưng là hình ảnh về người bị cắt quá nhanh khỏi cuốn băng, gây ra khoảng trống quá lớn.

      Bà nghe thấy tiếng cửa mở, chứ phải trong mơ, nghe tiếng bước chân, cách nhàng họ đến bên giường bà.

      Vẫn còn trong cảm giác của moocphine, bà hơi mở mắt, cuối cùng bà thấy căn phòng tối om ngoại trừ ánh đèn chiếu bên cạnh. Bà cố gắng tập trung vào ánh đèn đó. Nó nhảy múa như đốm lửa, sau đó dừng lại ngay cạnh giường bà. Bà tập trung nhìn kỹ hơn và thấy ai đó đứng bên giường bà, cái gì đó giống như chất lỏng, mà hơi lượn sóng. Bà tự hỏi cái gì thế nhỉ, giấc mơ nữa sao? Cái gì đó bình thường, bà nghe tiếng giầy kêu và cảm thấy có bàn tay nắm tay bà, lạnh, và có vẻ như cao su.

      Bà thở trong sợ hãi, đây phải là giấc mơ, đây là , đấy, bàn tay kia kéo bà đâu đó.

      Trong vô vọng bà cố gắng vùng vẫy, thoát ra khỏi bàn tay đó.

      giọng nhàng.

      - Ổn thôi mà Mary, đến giờ ngủ rồi.

      Mary vẫn nằm yên.

      - Ai đấy?

      - Tôi trông nom bà tối nay.

      - đến giờ dùng thuốc rồi sao?

      - Đúng vậy.

      Mary thấy ánh đèn chuyển động cánh tay bà, mạch máu, ống dẫn. Bà nhìn thấy bàn tay đeo găng rút kim tiêm ra. Cái mũ được bỏ ra và cái gì đó loáng lên - cái kìm.

      Bà cảm thấy bình thường, găng tay à? Sao phải đeo găng tay nhỉ.

      - Tôi cần y tá của tôi, làm ơn gọi y tá của tôi.

      - cần đâu.

      Giọng vang lên và mũi kim đâm vào mạch máu của bà, Mary cảm thấy cái gì đó ấm ấm chảy vào mạch và chạy lên cánh tay. Bà nhận thấy xilanh rất đầy, cần lâu như vậy để tiêm thuốc giảm đau cho bà. đúng, bà nghĩ khi xilanh hết thuốc, cái gì đó ổn.

      - Tôi cần y tá của tôi. Y tá, làm ơn - Bà cố gắng nhấc đầu dậy và hét lên yếu ớt.

      bàn tay đeo găng bịt miệng bà lại và đặt đầu bà lại gối mạnh tới mức Mary thấy mình sắp gẫy cổ. Bà cố gắng đẩy cái tay ra nhưng thể, nó bịt chặt quá, làm bà kêu được. Bà vùng vẫy và ống truyền IV rơi ra, truyền nước muối nữa, nhưng bàn tay vẫn rời ra. Giờ hơi ấm đó lan khắp cơ thể Mary, từ tay tới ngực và đến não. Bà cố gắng cử động chân tay nhưng thấy mình thể.

      Bà nằm yên, chẳng quan tâm nữa.

      Bàn tay bỏ ra.

      chạy, bà thấy mình lại là , tóc dài rủ xuống vai, cát ấm áp dưới chân và khí tràn ngập mùi biển.

      Cánh cửa lại mở rộng trước mắt bà.



      Điện thoại reo làm Abby tỉnh giấc khỏi chỗ ngủ yên ấm. thấy vòng tay quanh người mình. Mặc kệ cái giường bé họ vẫn ngủ cùng nhau. cách nhàng, gỡ tay Mark ra và nhấc điện thoại.

      - DiMatteo nghe đây.

      - Bác sĩ, tôi là Charlotte ở phòng số bốn. Bà Allen vừa tắt thở, các thực tập sinh bận, bác sĩ có thể qua đây kiểm tra ?

      - Được, tôi qua ngay.

      cúp máy và nằm lại xuống giường chút, cho phép mình xa xỉ chút. Bà Allen chết. Chuyện này diễn ra sớm hơn dự định. Cuối cùng mọi thứ cũng chấm dứt, cảm thấy mình hơi tội lỗi, nhưng trải qua những điều này rồi. Vào ba giờ sáng, cái chết của bệnh nhân chỉ là lý do mất ngủ thôi.

      Abby ngồi dậy bên giường và giầy vào, Mark vẫn ngủ, hơi bị ảnh hưởng chút bởi tiếng điện thoại thôi. cúi xuống hôn . “Em đồng ý”, thầm vào tai và rời khỏi phòng.

      Charlotte gặp ở phòng y tá số bốn, họ cùng đến phòng của Mary, ở cuối dãy.

      - Chúng tôi thấy bà ấy ngừng thở lúc khoảng bốn giờ, tôi kiểm tra lúc nửa đêm và bà ấy ngủ, có lẽ nó xảy ra lúc nào đó sau đấy. Ít nhất bà ấy cũng ra yên bình thanh thản.

      - gọi cho gia đình bệnh nhân chưa?

      - Tôi gọi cho cháu bà ấy, người có tên trong danh sách, tôi với ta là cần tới đâu, nhưng ta khăng khăng tới, ta đường tới đây rồi. Chúng tôi dọn dẹp mọi thứ.

      - Dọn dẹp?

      - Vì Mary rút ống truyền ra, muối và máu đầy sàn nhà.

      Charlotte mở cửa ra và cả hai cùng bước vào.

      Duới ánh sáng của ngọn đèn tường, Mary Allen nằm như ngủ, hai tay đặt xuôi, tấm ga đắp ngang ngực. Nhưng bà ngủ, ràng như vậy, hai mi mắt vẫn mở. tấm vải được vắt qua cằm. Họ hàng cầu nguyện muốn nhìn thấy người họ thương há miệng.

      Nhiệm vụ của Abby chẳng tốn nhiều thời gian, đặt ngón tay lên động mạch chủ, có nhịp đập. lấy ống nghe ra nghe ngực bệnh nhân, có dấu hiệu gì cả, có nhịp tim. bật đèn soi mắt bệnh nhân, đồng tử ở giữa và động đậy. Việc chứng tử là đủ thủ tục. Các y tá nhận thấy rồi. Vai trò của Abby chỉ là xác nhận lại những tìm hiểu của họ và ghi vào bệnh án. Đó là trong những trách nhiệm mà họ giải thích với ở trường y. Những thực tập sinh mới vào, được đề nghị chứng tử cho bệnh nhân chết, họ chẳng biết làm gì. vài người có những bài ngớ ngẩn, hay đọc kinh, thêm vào danh sách những câu chuyện của các y tá về các bác sĩ ngớ ngẩn.

      cái chết ở bệnh viện phải là dịp để đọc diễn văn, mà là cho chữ ký và giấy tờ. Abby cầm bệnh án của Allen lên và hoàn thành công việc của mình. viết.

      có dấu hiệu hô hấp, có mạch đập. Thính chẩn cho thấy có nhịp tim, đồng tử co và cử động. Bệnh nhân được chẩn đoán chết lúc 03 giờ 5 phút.

      gập cuốn bệnh án lại và chuẩn bị ra.

      Brenda Hainey đứng ở lối vào.

      - Tôi xin lỗi Hainey, dì qua đời trong lúc ngủ.

      - Khi nào vậy?

      - Khoảng nửa đêm. Tôi chắc là bà cảm thấy dễ chịu.

      - Vậy có ai ở cùng dì tôi lúc đó ?

      - Có các y tá của ca trực.

      - Nhưng có ai trong phòng này đúng ?

      Abby ngập ngừng, thừa nhận vẫn luôn là cách tốt nhất.

      - , có ai cả. Tôi chắc chắn điều này xảy ra khi dì ngủ, đó là cách yên bình.

      bước ra xa khỏi giường.

      - có thể ở bên dì lúc nếu muốn, tôi cầu các y tá dành cho khoảng riêng.

      Abby định qua Brenda tiến ra cửa.

      - Tại sao ai làm gì để cứu dì ấy?

      Abby quay lại nhìn ta.

      - làm được gì cả.

      - có thể sốc tim mà, phải ? Làm .

      - thể được.

      - làm chưa?

      - Chưa.

      - Tại sao ? Bởi vì dì ấy quá già à?

      - Tuổi tác quan trọng, bà ấy mắc ung thư giai đoạn cuối.

      - Dì ấy mới nhập viện đuợc hai tuần, đó là những gì dì với tôi.

      - Bà ấy rất yếu.

      - Tôi nghĩ các người làm dì ấy yếu thêm.

      Giờ bụng của Abby bắt đầu cồn lên, thấy mệt mỏi và muốn quay lại giường ngủ mà người phụ nữ này để yên. muốn phát điên nhưng phải giữ bình tĩnh.

      - Chúng tôi thể làm được gì.

      - Tại sao sốc tim cho dì ấy?

      - Bà ấy ngừng thở, nên chúng tôi thể sốc tim được. Và chúng tôi dùng máy hô hấp cho bà ấy được, đó là cầu của dì , chúng tôi rất tôn trọng. Bởi thế cũng tôn trọng chứ, Hainey.

      bỏ trước khi Brenda có thể mở miệng gì đó, trước khi bật ra câu có thể khiến hối hận.

      thấy Mark vẫn ngủ trong phòng trực, bò lên giường và nằm quay lưng vào ngực , kéo tay qua người . cố gắng lại vùi mình vào an toàn ấy, cảm giác ấm áp suy tư, nhưng vẫn cứ thấy hình ảnh Mary Allen, với tấm vải vắt qua cằm, mắt mở qua lớp kính. cơ thể ở giai đoạn đầu phân hủy. nhận ra rằng chẳng biết gì về cuộc sống của Allen và những người bà thương.

      Abby là bác sĩ của bà, và tất cả những gì biết về bà là bà chết giường ngủ.

      , hẳn. Lúc nào đó trước khi chết, Mary kéo ống truyền ra, y tá thấy máu và nước muối sàn nhà. Mary bị đánh thức, bối rối? Điều gì làm bà ấy kéo ống truyền ra khỏi ven?

      Còn nhiều chi tiết về Mary mà Abby biết.

      Mark thở và nằm sát vào hơn. nắm tay và đặt nó vào ngực mình. Em đồng ý, mỉm cười mặc dù cảm thấy hơi buồn. Đó là bắt đầu cho cuộc sống mới, của và Mark. Mary Allen ra và họ chuẩn bị bắt đầu. Cái chết của bệnh nhân già là điều buồn nhưng ở đây, ở bệnh viện này, cuộc sống mới bắt đầu.

      Và nó bắt đầu ở đâu?



      mười giờ, khi taxi đón Brenda Hainey rời nhà ở Chelsea. vẫn chưa ăn sáng, chẳng ngủ được từ sau cuộc gọi từ bệnh viện, cảm thấy mệt cũng thấy đói, có chăng chỉ là thanh thản.

      cầu nguyện bên giường của dì mình đến tận năm giờ. Khi các y tá đến đưa xác vào nhà xác lập tức rời bệnh viện, định về thẳng nhà nhưng trong khi taxi, thấy hình như còn điều gì chưa làm xong. Cần phải làm cái gì đó cho tâm hồn của dì, lúc này có lẽ cuộc hành trình xa. Có thể nó vẫn chưa được dời mà vẫn còn mắc kẹt ở đâu đó, giống như thang máy giữa các tầng nhà. Dù nó lên hay xuống, Brenda vẫn cảm thấy chắc chắn và có cái gì đó làm băn khoăn.

      Dì Mary chẳng có cuộc sống dễ dàng, dì ấy tham gia cầu nguyện, cũng xin Chúa thứ tội, thèm để ý đến cuốn kinh thánh mà Brenda để bên giường. Dì ấy quá kỳ lạ, Brenda nghĩ vậy. Người ta thể kỳ lạ như vậy.

      Brenda từng chứng kiến trước đó, những người bạn của mình và họ hàng của họ rửa sạch tâm hồn trước khi ra . là người duy nhất dám làm thiên sứ cho tâm hồn của họ, là người duy nhất quan tâm tới việc cái thang máy tới đâu. chỉ quan tâm tới những điều tốt lành, dành thời gian quan tâm tới gia đình nào khó khăn, đau ốm, ở bên họ tới tận cùng. Đó là tiếng gọi từ tâm hồn . chấp nhận tiếng gọi ấy. Giờ bằng lòng làm những gì Chúa sai bảo, như người hầu cận trung thành.

      Trong trường hợp của dì Mary, thất bại. Cái chết đến quá sớm, trước khi dì chấp nhận Chúa. Đó là lý do tại sao khi taxi đưa về đến Bayside lúc năm giờ sáng, cảm thấy mình thất bại. Dì ra , tâm hồn dì chưa được siêu thoát. , Brenda vẫn chưa yên lòng. Giá mà dì ấy có thể sống thêm, chỉ ngày cũng đủ rồi.

      Chiếc xe ngang qua nhà thờ và đó là nhà thờ Episscopal, phải là chỗ Brenda hay lui tới nhưng nhà thờ này cũng tạm được.

      - Dừng lại - với người lái taxi - Tôi muốn dừng lại ở đây.

      Lúc đó là khoảng sáu giờ rồi, Brenda thấy mình ngồi trong cái ghế trước tượng thánh Andrew. ngồi đó, gần hai tiếng rưỡi và đầu hơi cúi xuống, miệng thầm cầu nguyện cho dì Mary, cho linh hồn người phụ nữ ấy, được tha thứ. Linh hồn dì, giờ còn bị giữ ở đâu nữa, bị kẹt giữa các tầng nhà, xuống, mà là lên. Khi Brenda ngẩng đầu lên, tám giờ rưỡi. Nhà thờ vẫn vắng tanh, có ai. Ánh sáng buổi sớm chiếu qua cánh cửa kính tạo nên các màu sáng xanh và vàng. Khi nhìn lên bệ thờ, thấy đầu của Chúa được trang trí ở đó. Có thể là cái gì đó phản chiếu từ cửa sổ, nhưng cũng có thể là dấu hiệu. dấu hiệu cho thấy những lời nguyện cầu của được trả lời.

      Dì Mary được cứu rỗi.

      Brenda đứng dậy khỏi hàng rào và cảm thấy ánh nắng chói đầu, hơi rát nhưng vui vẻ dễ chịu. tâm hồn nữa đến với ánh sáng và tất cả là nhờ vào nỗ lực của . may là Người nghe thấy.

      rời cảm giác được thánh Andrew nâng đỡ khi có tiếng bước chân. Bên ngoài, thấy chiếc taxi đợi. Có lẽ dấu hiệu nữa.

      về nhà trong tâm trạng bình thản.

      Khi bước những bước đầu tiên lên trước cửa nhà, nghĩ tới bữa sáng im lặng và giấc ngủ dài, thoải mái. Ngay cả con chiên của Chúa cũng cần nghỉ ngơi mà. mở khóa.

      bức thư nền nhà, được nhét vào buổi sáng qua khe cửa. Các hóa đơn và thư từ nhà thờ và các lời kêu gọi quyên góp, có quá nhiều người cần giúp đỡ thế giới này, Brenda tập hợp các bức thư và để chúng vào chồng khi bước vào bếp. Ở cuối chồng thư, thấy phong bì đề tên mình, có gì đó ngoài cái tên của . có địa chỉ hồi .

      mở lá thư và mở tờ giấy gập đôi trong đó. dòng chữ đánh máy.

      chết cách tự nhiên.

      Và ký tên.

      người bạn.

      Chồng thư rơi khỏi tay Brenda, tung tóe sàn nhà, ngồi phịch ghế. đói, cũng chẳng cảm thấy gì.

      nghe thấy tiếng cào bên ngoài cửa sổ, nhìn lên và thấy bên cạnh cành cây, đôi mắt vàng nhìn mình.

      Lại dấu hiệu nữa.

    3. vulinh

      vulinh Well-Known Member

      Bài viết:
      20,019
      Được thích:
      24,221
      13



      Frank Zwick nhìn bệnh nhân nằm bàn.

      - Tôi thể tin được.

      Abby vừa lau tay, vừa bước vào phòng mổ để tìm Zwick và hai y tá.

      - Tôi chưa bao giờ nghĩ trường hợp này có thể như vậy, dù cả triệu năm nữa - y tá , đưa cho Abby cái khăn - Vậy là bệnh độc thân có thể chữa được, ta đề nghị khi nào, bác sĩ D.?

      Abby đeo găng tay vào.

      - Hai ngày trước đây.

      - giữ bí mật suốt hai ngày?

      Abby cười.

      - Tôi muốn chắc chắn là ấy đổi ý - Và ấy đổi ý, nếu có cũng là để chúng tôi hiểu nhau hơn thôi. Mỉm cười, đến bàn mổ. Bệnh nhân được gây mê nằm đó với lồng ngực được mở ra, làn da vàng nâu vì tác dụng của Betadine. Đây là ca đơn giản, chỉ là sỏi ở phổi. Tay di chuyển như thói quen dễ dàng của người làm việc này nhiều lần. bỏ tấm vải ra.

      - Vậy khi nào mới là ngày trọng đại đây? - Zwick sốt ruột hỏi.

      - Chúng tôi vẫn thảo luận.

      Thực tế, và Mark làm gì đâu ngoài về nó. Đám cưới thế nào? Mời ai, trong nhà hay ngoài trời? Chỉ có điều chắc chắn là tuần trăng mật là ở bãi biển. Bất cứ đâu, chỉ cần cây và cát.

      có thể thấy mình cười thầm khi nghĩ đến cát ấm, làn nước xanh và Mark.

      - Tôi cá là Mark nghĩ đến thuyền - Zwick lãng mạn - Chắc chắn đó là nơi ta muốn tổ chức đám cưới.

      - .

      - Ồ, nghe có vẻ chắc chắn nhỉ.

      xong việc phủ bệnh nhân và nhìn lên khi Mark đẩy cửa bước vào. đeo khẩu trang và găng tay rồi chiếm lấy vị trí bên kia bàn.

      Họ nhìn nhau, và rồi lấy dao mổ lên. Điện thoại văn phòng reo.

      - Bác sĩ DiMatteo có đó ?

      - Có đấy - Y tá trả lời.

      - làm ơn với ấy bỏ dao xuống và ra ngoài được ?

      - Nhưng họ vừa mới bắt đầu, có thể đợi chút ?

      lát im lặng, sau đó là:

      - Ông Parr muốn ấy ra khỏi phòng mổ.

      - với ông ấy chúng tôi mổ - Mark bảo.

      - Ông ấy biết, và ông ấy muốn ra khỏi phòng ngay bây giờ.

      Mark nhìn Abby.

      - Ra , gọi thực tập.

      Abby lui khỏi bàn và rất lo lắng cởi bỏ đồ. Cái gì đó hay rồi, Parr rút khỏi ca phẫu thuật trừ khi có chuyện gì đó cực kỳ nghiêm trọng.

      Tim đập liên hồi khi bước qua cửa phòng mổ, đến cửa trước.

      Jeremiah Parr đứng ở đó, bên cạnh ông ta là hai bảo vệ và y tá trưởng. ai cười.

      - Bác sĩ DiMatteo - Parr - với chúng tôi được ?

      Abby nhìn bảo vệ, họ đến đứng bên cạnh . Y tá trưởng cũng cùng .

      - Chuyện gì vậy? - Abby hỏi - Chúng ta đâu?

      - Đến tủ của .

      - Tôi hiểu.

      - Chỉ là kiểm tra định kỳ thôi.

      Chẳng có kiểm tra định kỳ nào hết. Bị dẫn bởi hai bảo vệ, Abby có cách nào khác đành theo họ lên dãy tủ của nữ. Y tá trưởng trước, dọn đường. Sau đó mọi người vào.

      - Tủ của số 72?

      - Đúng

      - mở nó được ?

      Abby đến và mở khóa, xoay vòng khóa rồi quay lại hỏi Parr.

      - Tôi muốn biết tất cả việc này là thế nào?

      - Chỉ là kiểm tra thông thường thôi.

      - Tôi nghĩ chẳng khác gì mấy vụ điều tra ở trường cấp ba. Các ông tìm gì nhỉ?

      - Chỉ cần mở khóa.

      Abby nhìn hai bảo vệ, rồi nhìn y tá trưởng, họ nhìn đầy cảnh giác, nghĩ.

      Lần này khó thắng rồi, tốt nhất là hợp tác.

      tiến đến, mở khóa và nó bung ra.

      Parr tiến đến gần hơn, các bảo vệ cũng vậy, họ đứng ngay sau ông ta khi cửa mở.

      Trong tủ là quần áo đường, ống nghe, ví, cái túi toilet để trực đêm, áo khoác ngoài trắng dài, họ muốn hợp tác, đây. mở khóa cái túi hoa và giữ nó mở trước mặt mọi người để họ xem.

      ít đồ phụ nữ, băng vệ sinh và Midol. mở khóa túi và mở cái ví cũng chẳng có gì. Ví , sổ ghi chép, chìa khóa xe, nhiều băng vệ sinh. Phụ nữ và những thứ đặc biệt. Hai người bảo vệ có vẻ thoải mái.

      Abby bắt đầu thích thú ngắm họ.

      đặt cái ví vào lại trong tủ và lấy cái áo dài ra. Khi làm vậy, thấy có cái gì đó khang khác. Nó nặng hơn. thò tay vào trong túi và thấy cái gì đó, ướt trơn - ống thủy tinh. lấy ra và nhìn vào nhãn của nó.

      Moocphine sulfat, cái lọ rỗng .

      - Bác sĩ DiMatteo, đưa tôi cái đó.

      nhìn ông ta và lắc đầu.

      - Tôi chẳng hiểu tại sao.

      - Đưa tôi.

      Quá bất ngờ để nghĩ ra lựa chọn khác, đưa nó cho Parr.

      - Tôi hiểu sao nó lại ở đó - - Tôi chưa từng thấy nó.

      Parr đưa cái lọ cho y tá trưởng. Sau đó quay sang bảo vệ.

      - Làm ơn đưa bác sĩ DiMatteo lên phòng tôi.



      - Điều này vớ vẩn - Mark phản ứng.

      - Ai đó dàn dựng và tất cả chúng ta đều biết thế - Parr khẳng định.

      - Chỉ là cách làm nhục mới của ông ta, hết kiện tụng, rồi đến vứt nội tạng vào xe của ấy, giờ lại là thứ này.

      - Chuyện này khác mà bác sĩ Hodell. bệnh nhân chết - Parr nhìn Abby và - Bác sĩ Abby, sao cho chúng tôi biết và mọi chuyện dễ dàng hơn.

      Ông ta muốn thừa nhận, và thế là xóa sạch mọi tội lỗi. Abby nhìn quanh bàn, nhìn Parr, Susan Casado và y tá trưởng, người duy nhất dám nhìn thẳng là Mark. sợ phải nhìn , sợ thấy nghi ngờ trong mắt .

      :

      - Tôi rồi, tôi chẳng biết gì cả, tôi biết tại sao moocphine đó lại ở trong tủ của tôi. Tôi cũng biết tại sao Mary Allen chết.

      - chứng tử mà, hai ngày trước.

      - Các y tá thấy bà ấy, bà ấy chết trước đó.

      - Đó là đêm trực à?

      - Đúng.

      - ở bệnh viện suốt đêm?

      - Đúng. Đó là công việc trực mà.

      - Vậy ở đó vào đêm Mary Allen chết vì sốc thuốc và hôm nay chúng tôi tìm thấy cái này trong tủ của .

      Ông ta đặt lọ thuốc lên bàn và ở chỗ tất cả mọi nguời đều nhìn thấy.

      - hợp chất điều khiển, thực tế là việc sở hữu nó đủ nghiêm trọng rồi.

      Abby nhìn Parr.

      - Ông vừa Mary Allen chết vì sốc thuốc à? Làm sao ông biết?

      - Mức thuốc vượt tiêu chuẩn, cao ngất.

      - Bà ấy được điều trị giảm đau, đủ để thoải máỉ.

      - Tôi có báo cáo ở đây, nó được đưa đến hồi sáng: 4/10 mili lit, 2/10 quả là quá nhiều.

      - Để tôi xem nào - Mark .

      - Dĩ nhiên.

      Mark lướt qua.

      - Tại sao lại cầu mức cao như thế này? Bà ấy ung thư giai đoạn cuối mà.

      - biết tất cả rồi đấy.

      - Tôi muốn biết thêm.

      Parr nhìn Susan.

      - Có lý do để nghĩ đây phải cái chết tự nhiên.

      - Lý do nào?

      - Đó phải là mấu chốt của vụ việc…

      - Lý do nào?

      Susan hít hơi thở sâu.

      - trong những họ hàng của Allen nhận được dấu hiệu ám chỉ cái chết đó bình thường. Chúng tôi báo cho bác sĩ Wettig và ông ấy cầu khám nghiệm tử thi.

      Mark đưa lại cho Abby cái băng trượt. nhìn nó và phát ra dòng chữ: cầu của dược sĩ. Thực ra đó là ý kiến của giám đốc, ông cầu liều vào lúc mười giờ sáng hôm qua, tám giờ sau khi Mary chết.

      - Tôi liên quan gì hết - Tôi hiểu tại sao Mary lại bị tiêm như vậy và có thể là lỗi của phòng thí nghiệm, lỗi của y tá.

      - Tôi có thể bảo vệ nhân viên của mình. Chúng tôi theo sát các kiểm định về quản lý narcotics, mọi người đều biết vậy, có lỗi của y tá - Y tá trưởng .

      - Vậy, chắc chắn là bệnh nhân bị sốc thuốc quá liều? - Mark .

      Im lặng lát. Rồi Parr nhíu mày.

      - Phải.

      - ngớ ngẩn! Tôi ở với Abby suốt cả đêm, trong phòng trực.

      - Cả đêm?

      - Đúng, hôm đó là sinh nhật ấy - Mark hắng giọng, chúng tôi tổ chức kỷ niệm.

      - Hai người ở cùng nhau suốt đêm à? - Parr hỏi.

      Mark ngừng lại, chắc. Abby biết, vì ngủ mà, thậm chí còn chẳng biết khi tới khám nghiệm Mary lúc ba giờ. định dối cho nhưng ổn, bởi vì biết Abby làm gì trong khi Parr biết, từ các y tá, từ những ghi chú mà viết.

      Abby :

      - Mark ở phòng trực với tôi nhưng ấy ngủ suốt.

      nhìn : Ta phải thực thôi, đó là điều duy nhất cứu được em.

      - Còn sao, bác sĩ DiMatteo? có ở đó ?

      - Tôi được gọi vài lần, nhưng ông biết mà, đúng ?

      Parr gật đầu.

      - Ông nghĩ ông biết mọi thứ, vậy - Mark to tiếng - Tại sao ấy làm vậy? Tại sao lại phải giết bệnh nhân của mình.

      - Có thể ấy thông cảm với bệnh nhân - Susan chậm rãi.

      Abby hét lên:

      - Cái gì?

      - Chúng tôi chuyện với các y tá, lần bác sĩ DiMatteo thế này “nếu moocphine làm mọi thứ dễ dàng hơn, đó là điều chúng ta nên làm cho bà ấy. Ngay cả khi việc đó đến sớm hơn” - Susan nhìn Abby - vậy, phải ?

      - Chẳng liên quan gì cả, tôi về việc giảm đau và giữ cho bệnh nhân được thoải mái.

      - Và vậy?

      - Đúng, có thể, tôi nhớ.

      - Vậy còn chuyện xảy ra với cháu của Mary, Brenda Hainey sao? Có y tá nhìn thấy - ta gật đầu về phía y tá trưởng. Và ta lại nhìn xuống đống giấy tờ - Có vụ cãi vã và Brenda Hainey cảm thấy có vẻ dì mình dùng quá liều moocphine. Và bác sĩ DiMatteo đồng ý.

      Đó là việc DiMatteo thể chối cãi. cãi nhau với Brenda, hơi mất bình tĩnh. Giờ điều này làm hại đây. cảm thấy thể thở được, thể dịch chuyển được.

      Có tiếng gõ cửa và bác sĩ Wettig bước vào, cẩn thận đóng cánh cửa phía sau lưng. Ông ta lúc mà đứng ở cuối bàn nhìn Abby. chờ đợi làn sóng mới.

      - ấy vừa biết gì cả - Parr lên tiếng.

      - Tôi ngạc nhiên, thực biết gì đúng bác sĩ DiMatteo?

      Abby bắt gặp ánh mắt của giám đốc và thấy chưa bao giờ thoải mái khi nhìn vào đôi mắt xanh phẳng lặng đó. Quá nhiều quyền lực bao trùm tương lai của . Nhưng giờ đây nhìn thẳng vào ông ta, kiên định để cho ông ta thấy hề giấu giếm gì cả.

      - Tôi giết bệnh nhân của mình. Tôi xin thề.

      - Tôi cũng nghĩ vậy - Wettig và lôi từ trong túi áo ra cái khóa. Ông ta đặt nó lên bàn.

      - Cái gì thế?

      - Đó là cái ổ khóa tủ của bác sĩ DiMatteo. Tôi phải thành thợ bất đắc đĩ. Tôi gọi thợ sửa khóa đến và ta cái loại khóa này chỉ cần mẩu bánh cũng mở được. Tất nhiên là có mã đằng sau nhưng chẳng để làm gì cả.

      Parr nhìn cái khóa và nhún vai.

      - Điều này có chứng minh gì đâu? Chúng ta vẫn có bệnh nhân chết và cái đó… - Ông ta và chỉ vào lọ moocphine bàn.

      - Chuyện quái gì xảy ra vậy, các người thấy à? bức thư nặc danh, lọ moocphine rỗng trong tủ của ấy. Ai đó kiếm chuyện hại ấy - Mark tức giận.

      - Để làm gì? - Susan lên tiếng.

      - Để hạ uy tín của ấy, để ấy bị sa thải - Mark chém tay vào khí.

      Parr nhíu mày.

      - định là ai đó giết bệnh nhân chỉ để hủy hoại tương lai của bác sĩ DiMatteo?

      Mark định trả lời nhưng dường như nghĩ xa hơn. Đó là giả thuyết sát thực và mọi người đều hiểu.

      - phải thấy rằng, Hodell, rằng điều đó là tưởng - Susan .

      - viển vông lắm đâu nếu so với những gì xảy với tôi - Abby lên tiếng - Xem những gì Victor Voss làm , khó hiểu. Ông ta lăng mạ tôi ở phòng bệnh, đặt tim lợn vào xe của tôi, chỉ có những kẻ bênh hoạn mới nghĩ ra những trò đó. Và rồi hai vụ kiện tụng, tất cả mới chỉ là bắt đầu thôi.

      Im lặng. Susan nhìn Parr hỏi:

      - ấy biết chưa nhỉ?

      - Chắc là chưa rồi.

      - Biết cái gì? - Abby nhăn trán.

      - Chúng tôi nhận điện thoại từ Hawkes, Craig và Sussman sau bữa trưa - Susan - Các vụ kiện chống lại vừa được rút đơn. Cả hai luôn.

      Abby dựa vào ghế.

      - Tôi hiểu, tại sao ông ta làm vậy? Ông ta muốn gì? Nếu Victor Voss cố ý muốn chơi có vẻ như ông ta dừng lại rồi đấy, chẳng có gì dính dáng với ông ta nữa.

      - Vậy chúng ta giải thích điều này thế nào đây?

      - Hãy nhìn vào bằng chứng - Susan nhắc.

      - Đó phải là bằng chứng, có liên hệ giữa lọ thuốc này và bệnh nhân chết.

      - Tuy nhiên tôi nghĩ chúng ta vẫn có thể đến kết luận.

      Im lặng đáng sợ, có ai nhìn Abby, kể cả Mark.

      Cuối cùng Wettig .

      - Parr, định làm gì đây? Gọi cảnh sát hay tung hô đống lộn xộn này cho báo chí biết?

      Parr ngập ngừng.

      - Có lẽ như thế hơi thiếu chín chắn.

      - Hoặc là tiếp tục buộc tội, hoặc rút bỏ nó. Bất cứ lựa chọn nào cũng là công bằng với bác sĩ DiMatteo.

      - Ôi Chúa ơi, giám đốc, bỏ bọn cảnh sát qua bên - Mark can.

      - Nếu gọi đây là vụ giết người phải gọi cảnh sát, kêu vài phóng viên tới luôn thể chứ, kêu đội FR làm việc - Wettig , giọng có vẻ bực - Họ có thể sử dụng nghề của mình, để mọi thứ mở toang ra, như thế có thể là cách tốt nhất đấy - Ông nhìn thẳng vào Parr - Nếu định coi đây là vụ ám sát.

      Đó là lời đe dọa. Parr đành rút lui. Ông ta hắng giọng và với Susan.

      - Chúng ta vẫn chưa chắc mà.

      Wettig :

      - nên gọi nó là vụ giết người, chắc chắn đấy, trước khi gọi cảnh sát.

      Susan lên tiếng:

      - Ông nên xem xét việc này kỹ. Chúng ta cần hỏi vài y tá ở hành lang, tìm xem liệu có gì chúng ta bỏ qua hay .

      - Làm thế - Wettig .

      Im lặng, ai nhìn Abby cả, lu mờ khỏi tầm mắt mọi người, như người phụ nữ tàng hình ai muốn thừa nhận.

      Tất cả dường như chăm chú lắng nghe khi Abby nhận ra giọng của mình nữa, như của người lạ, lạnh lùng và chắc chắn.

      - Tôi phải quay lại với các bệnh nhân của mình.

      Wettig gật đầu.

      - .

      - Đợi - Parr chưa chịu - chưa thể quay lại với họ được.

      - Ông chứng minh được điều gì cả - Abby và đứng dậy - Giám đốc đúng, cho dù ông có tiếp tục hay rút bỏ lời buộc tội của mình.

      - Chúng ta vẫn có thứ thể tranh cãi được - Susan - Sở hữu chất gây nghiện là hợp pháp, chúng tôi biết làm sao có moocphine nhưng bác sĩ, thực tế là có nó trong tủ của mình là phạm luật rồi, đủ nghiêm trọng rồi. Việc đáng tin là rất khó, chúng tôi chẳng có lựa chọn nào cả. Nếu chuyện gì đó hay xảy ra với trong các bệnh nhân của và người ta phát ra việc mua bán thuốc gây nghiện là chết dở - ta quay sang Wettig - Cả chương trình của ông cũng vậy, giám đốc.

      Cảnh cáo của Susan đem lại hiệu quả như mong đợi, Wettig, cũng như những bác sĩ khác, ghét luật sư và những vụ kiện tụng, lần này, ông tranh cãi nữa.

      - Điều đó nghĩa là sao? - Abby hỏi - Tôi bị sa thải à?

      Parr đứng dậy, biểu thể cuộc họp kết thúc, đến lúc ra quyết định. Ông ta kết thúc.

      - Bác sĩ DiMatteo, cho đến khi nào có kết quả cụ thể hơn tạm đình chỉ công tác, phải đến văn phòng nữa, nên đến gần bệnh nhân, hiểu chứ?

      Abby hiểu, cách trọn vẹn.

    4. vulinh

      vulinh Well-Known Member

      Bài viết:
      20,019
      Được thích:
      24,221
      14



      Yakov còn mơ về mẹ cậu nhiều năm, hiếm khi nghĩ về bà ấy nên cậu nghĩ mình quên mất. Nhưng khi lênh đênh biển mười ba ngày, cậu thức dậy với ký ức mồn về bà, gần như cậu ngửi thấy mùi của bà, hình ảnh cuối cùng cậu nhớ về bà là nụ cười. lọn tóc vàng xòa xuống má. Đôi mắt xanh như nhìn xuyên thấu cậu, như thể cậu có thực, cậu trong suốt. Khuôn mặt của bà quen thuộc với cậu tới nỗi cậu biết chắc đấy là mẹ mình. Nhiều năm qua cậu cố gắng để nhớ xem bà ra sao, nhưng khuôn mặt bà chưa bao giờ đến gần với cậu. Yakov chẳng có ảnh, cũng có di vật gì. Nhưng đôi khi trong nhiều năm qua, cậu mang ký ức về khuôn mặt của mẹ trong sâu thẳm bóng tối tâm hồn cậu. Đêm qua, mọi thứ trở lại.

      Cậu nhớ về mẹ mình, bà rất đẹp.



      Chiều hôm đó, biển phẳng lặng như gương và bầu trời có màu xám như nước biển, đứng boong tàu nhìn ra xa, Yakov thể đâu là biển đâu là trời. Chúng chỉ phân biệt bởi đường mờ mờ. Cậu nghe thấy mọi người là thời tiết xấu lắm, ngày mai mọi người thể mang xuống nhiều súp và bánh mì hơn. Cho dù hôm nay trời yên bể lặng nhưng khí nặng nề mùi kim loại và có vẻ sắp mưa. Yakov cuối cùng cũng có thể dụ Aleksei ra ngoài.

      Chỗ đầu tiên Yakov đưa nó ra quả là địa ngục. Phòng máy.

      Chúng mò mẫm trong bóng tối lúc cho đến khi Aleksei kêu ca rằng mùi dầu làm nó phát ốm. Aleksei có bụng như cậu bé, vì thế Yakov phải mang nó lên cầu chỗ mà thuyền trưởng bận giờ chuyện với chúng, hoa tiêu cũng vậy. Yakov thậm chí còn chẳng thể có vị trí khách đến chơi danh dự như mọi lần.

      Tiếp đó, chúng đến nhà bếp nhưng đầu bếp điên tiết và cho chúng thậm chí mẩu bánh mì, ta phải phục vụ cả đám hành khách, những người họ chưa bao giờ thấy. Họ là đôi lắm chuyện. ta luôn phàn nàn, cầu lắm thứ. ta đặt cộp cái cốc và chai rượu vào khay cho người phục vụ, ta nhấn nút và gửi nó lên , chỗ có khoang riêng. Sau đó ta quay lại lò chỗ cái chảo sôi và nồi được đun, ta mở cái ra, lấy bơ và hành, đảo đều chúng lên bằng cái thìa gỗ.

      - Hành phải đun lâu, để chúng nhừ ra như sữa ấy - ta - Cần phải có kiên nhẫn mới nấu kỹ được nhưng chằng ai chịu kiên nhẫn thời nay cả. Mọi người muốn mọi thứ phải được làm ngay, vứt vào lò vi sóng và ăn như ăn da ấy thôi - ta đậy nắp nồi, rồi quay sang chảo rán. Bên trong rán sáu con chim , con nào to hơn nắm tay - Chúng như đến từ thiên đàng ấy.

      - Đây là những con gà nhất mình từng thấy - Aleksei thào.

      Đầu bếp phá lên cười.

      - Chim cút đấy, đồ ngố.

      - Sao chúng ta chưa bao giờ ăn nhỉ?

      - Bởi vì cậu đâu có ở trong cabin của khách - Người đầu bếp lật con chim, đổ vào đĩa và rắc hạt lên đó. Rồi ta quay lại, mặt đỏ bừng, ướt đẫm mồ hôi - Họ thể than phiền về thứ này - ta , rồi đưa nó cho người phục vụ.

      - Cháu đói quá - Yakov kêu.

      - Cháu lúc nào chả thể, cắt miếng bánh mì , bánh hơi ỉu rồi nhưng nướng lại được đấy.

      Hai thằng bé lục tung các ngăn kéo để tìm con dao cắt bánh mì, đầu bếp đúng, bánh mì khô quá. Đè cái bánh xuống với tay trái, Yakov cắt hai miếng và đem chúng tới lò bánh mì.

      - Xem chúng mày làm gì với sàn nhà của tao kìa? Làm vụn bánh mì lung tung khắp cả. Nhặt hết lên .

      - Mày nhặt - Yakov bảo Aleksei.

      - Mày làm rơi chứ có phải tao đâu.

      - Nhưng tao nướng bánh.

      - Nhưng tao làm rơi.

      - Đứa nào đó nhặt lên - người đầu bếp cáu.

      Aleksei lập tức quỳ xuống và nhặt các mẩu vụn lên.

      Yakov đặt mẩu bánh đầu tiên vào lò. Bỗng cái gì đổ từ lò nướng rơi xuống sàn nhà.

      - Chuột - Aleksei hét toáng lên, con chuột xám.

      Quả bóng xám xoay vòng vòng quanh chân Aleksei lúc này nhảy loạn cào cào, bị Yakov đuổi theo nó liền bị người đầu bếp chụp cái nắp nồi để chuẩn bị đập nó. Con chuột chạy nửa chừng tới chỗ Aleksei rồi đột ngột đổi hướng, nó nhảy bước và biến mất dưới tủ đồ.

      Cái gì đó cháy ở chỗ bếp nướng, lập tức người đầu bếp chạy lại để dập lửa, ta vội vàng đổ chỗ hành trong nồi ra.

      - con chuột trong bếp và mọi thứ thế này đây, hỏng hết cả rồi. Tao phải làm lại, con chuột khốn .

      - Nó ở trong lò nướng bánh - Yakov và đột nhiên muốn xỉu, nó nghĩ về con chuột cào, bò trong đó.

      - Có thể nó còn ị đầy ra đó nữa đấy. Con chuột chết dẫm - người đầu bếp cằn nhằn.

      Yakov thận trọng ngó quanh lò nướng, có chuột nữa nhưng đầy những thứ màu xám kỳ bí.

      Nó kéo cái lò ra phía chậu rửa, định dốc ngược xuống.

      Người đầu bếp hét lên:

      - Này nhóc điên à, mày làm gì thế?

      - Cháu chỉ định rửa cái bếp này.

      - Trong chậu có nước đấy, xem , mọi thứ vẫn trong đó, nếu mày cho nước vào mày chết đó, ai dạy mày vậy hả?

      - Chú Misha chưa bao giờ có lò nướng cả.

      - chỉ là lò nướng đâu, nếu bất cứ cái gì có dây cắm, bất cứ cái gì dùng điện cho nước vào là hỏng hết. Mày ngốc - ta phẩy tay - , cả hai đứa, quậy quá cơ.

      - Nhưng cháu đói lắm.

      - Đợi đến bữa ăn như mọi người .

      ta cho lát bơ vào trong nồi súp và nhìn Yakov.

      - .

      Cả hai cậu bé mặt ỉu xìu bước ra.

      Chúng chơi boong lúc cho đến khi cảm thấy lạnh, chúng tìm đến cái thuyền mà Yakov biết làm phiền ai và ai làm phiền chúng. Đó là chỗ bí mật của Yakov, nó định chỉ cho Aleksei thấy nhưng chỉ khi Aleksei khóc lóc như trẻ con. Nó tìm ra chỗ này vào ngày thứ ba nó ở đây, khi nó mở cánh cửa đóng kín ở trong phòng máy. Nó mở cửa đó ra và thấy có đường dẫn tới cầu thang.

      Miền đất kỳ diệu.

      Có ba mức lên, cái cầu thang lên, dẫn tới mức thứ hai là lối bằng thép, sau đó, nếu nhảy lên cánh cửa màu xanh dẫn tới lối luôn bị khóa. Yakov cố mở được.

      Chúng trèo lên đỉnh và ở đó có sàn nhà và Aleksei sợ chết khiếp nếu Yakov nhảy ầm ầm.

      - Dừng lại - Aleksei hét lên - Mày làm nó chuyển động kìa.

      - Đó là dịch chuyển của miền đất hứa, mày thích à?

      - Tao muốn .

      - Mày chẳng bao giờ muốn làm gì cả.

      Yakov lẽ ra tiếp tục nhảy lên và xuống, lắc lư, nhưng Aleksei sợ chết khiếp. Nó bám chặt vào thành, và giữ chặt con Shu-Shu.

      - Tao muốn xuống.

      Aleksei nhăn nhó.

      - Thôi được rồi.

      Chúng xuống cầu thang, ở bậc cuối cùng chúng chơi lúc ở bậc thềm rồi Aleksei tìm thấy vài sợi dây thừng cũ, nó liền buộc quanh cột gần nhất. Nó dùng sợi dây để đu qua đu lại, nhưng chỉ được chân nhấc khỏi đất thôi, thú vị lắm.

      Sau đó Yakov chỉ cho Aleksei thấy cái thùng gỗ , cái nó thấy dưới gầm cầu thang. Chúng bò thử vào trong và trong bóng tối chúng có thể nghe tiếng động cơ gầm rú. Biển dường như cách xa khỏi nơi này, tuyệt vời khi ở chỗ bí thế này con tàu.

      - Đây là chỗ bí mật của tao, đừng với ai về chuyện này nhá, thề .

      - Tại sao? Chỗ này kinh tởm, lạnh và ẩm ướt. Và tao cá là ở đây có chuột đấy, có khi tao với mày nằm lên cứt chuột đấy.

      - hề có cứt chuột ở đây.

      - Sao mà mày biết được chứ? Mày đâu có nhìn thấy gì.

      - Nếu mày thích mày có thể ra . .

      Yakov đá cho thằng kia cái qua thùng gỗ. Aleksei ngu ngốc, lẽ ra mình nên đưa nó vào chỗ này, người ta thể chờ đợi con chó nhồi bông hứng thú tham gia cuộc thám hiểm được.

      - , chơi với mày chán lắm.

      - Tao biết đường quay lại.

      - Tao chỉ cho mày.

      - Mày phải đưa tao về nếu tao cho tất cả mọi người về chỗ bí mật của mày. chỗ kinh tởm, đầy cứt chuột.

      Aleksei bò ra khỏi cái thùng và dứ dứ ngón tay vào mặt Yakov.

      - Đưa tao quay về hoặc là…

      - Im .

      Yakov và túm cổ áo Aleksei, đẩy nó lùi lại. Cả hai đứa xuống.

      - Mày quá lắm.

      Aleksei .

      - Nghe , nghe !

      - Cái gì?

      nơi nào đó phía , có tiếng cửa mở ra và đóng lại. Lối bí mật có người vào và có tiếng bước chân ầm ầm bên .

      Yakov bò ra và chặn cái thùng ở lối phía . Ai đó gõ cửa căn phòng cửa xanh, lát sau cửa mở và nó nhìn thấy mái tóc vàng của người phụ nữ, biến mất bên trong. Cánh cửa đóng lại sau ta.

      Yakov lùi lại.

      - Chỉ là Nadiya thôi.

      - ấy vẫn ở bên ngoài à?

      - , ấy vào bên trong phòng.

      - Có chuyện gì thế nhỉ?

      - Tao biết.

      - Tao tưởng mày là nhà khám phá vĩ đại mà.

      - Mày là thằng khốn - Yakov lại đá Aleksei nhưng chẳng làm được gì - Nó luôn đóng, có người ở trong đó đấy.

      - Làm sao mày biết?

      - Vì Nadiya gõ cửa và họ để ấy vào.

      Aleksei tiếp tục chui vào sâu hơn trong thùng gỗ, thay đổi ý định về việc khám phá. Nó thào.

      - là khó hiểu.

      Yakov nghĩ về cái khay với rượu và hai cái ly, bánh hành quệt bơ, sáu con chim rán , bụng nó sôi lên.

      - Nghe này, bụng tao réo ầm ầm ấy - Nó sờ vào bụng và bất cứ ai cũng ngạc nhiên vì thanh từ bụng của nó.

      Aleksei chỉ .

      - kinh tởm.

      - Cái gì mày cũng bảo kinh tởm. Mày làm sao vậy?

      - Tao thích những thứ kinh tởm như thế.

      - Mày từng thích chúng đấy.

      - Vậy tao còn thích nữa.

      - Chỉ là bởi vì Nadiya, chị ta khiến mày trở nên mềm yếu và ngớ ngẩn vậy à, mày rất thích chị ta.

      - có.

      - Có.

      - Tao .

      Aleksei ném đống linh tinh và nó bay đầy mặt Yakov. Đột ngột cả hai cùng chạy tới nấp sau lưng cái thùng. Và cả hai cùng bị lắc, rung và đập vào bên của thùng, sau đó là tiếng đập, có bàn chân đá vào thùng gỗ. có đủ khoảng rộng để di chuyển nên cả hai thể làm đau nhau. Sau đó Aleksei làm rơi con Shu-Shu ở đâu đó và bắt đầu mò mẫm trong bóng tối, Aleksei phải tìm kiếm con chó. Yakov mệt mỏi và cả hai cùng dừng lại.

      Sau hồi nghỉ lấy sức, Aleksei tìm được con Shu-Shu, Yakov cố gắng kiềm chế tiếng sôi ùng ục phát ra từ bụng mình, nó cảm thấy là mệt. Chúng nằm bất động vì nhàm chán, với những tiếng gầm gừ của động cơ và lắc lư của con tàu.

      Aleksei :

      - Tao thích ta.

      - Tao chẳng quan tâm.

      - Nhưng những đứa khác thích ta, mày thấy cách chúng nó với ta à? - Aleksei ngừng lát rồi thêm - Tao chỉ thích mùi của ta, phụ nữ có mùi khác nhỉ, họ có mùi mềm mại.

      - Mềm mại phải là mùi.

      - Có mà, nếu mày ngửi mày biết đấy, nếu mày chạm vào ta, ta mềm ơi là mềm. Mày chỉ cần biết vậy thôi.

      Aleksei vuốt con Shu-Shu, Yakov có thể nghe thấy bàn tay nó lùa qua lớp lông.

      - Mẹ tao cũng có mùi như vậy đấy.

      Yakov nhớ những giấc mơ của nó, người phụ nữ, nụ cười, mái tóc vàng xõa xuống má. Đúng, Aleksei đúng, trong giấc mơ của mình Yakov thấy mẹ nó có vẻ như vậy.

      - Nghe có vẻ ngớ ngẩn nhỉ, nhưng tao nhớ điều đó, tao vẫn nhớ mẹ tao.

      Yakov nằm dài ra, bàn chân nó chạm vào đáy thùng, mình lớn chưa nhỉ? Nó nghĩ, ước gì mình có thể đủ lớn để qua bức tường đó.

      - Mày nghĩ về mẹ mày à?

      - - Yakov .

      - Mày nhớ mẹ mày chút nào mà.

      - Tao nhớ bà rất đẹp. Bà có đôi mắt xanh.

      - Làm sao mày biết? Chú Misha mày còn bé tẹo mà.

      - Lúc ấy tao bốn tuổi, phải bé nữa.

      - Tao sáu tuổi khi mẹ tao bỏ tao và tao hầu như chả nhớ gì cả.

      - Tao mà, mẹ tao mắt xanh.

      - Mẹ mày mắt xanh à? Gì nữa?

      Tiếng cửa đập mạnh khiến cả hai cùng im lặng, Yakov trườn và nhìn, lại là Nadiya. ta vừa bước ra khỏi cái cửa màu xanh và hành lang. Rồi ta biến mất sau cột buồm.

      - Tao thích chị ta - Yakov .

      - Tao thích, vì ta giống mẹ tao.

      - Chị ta bao giờ thích trẻ con.

      - ta với chú Misha là hy sinh cho chúng ta mà.

      - Mày tin à?

      - Tại sao ta lại vậy nếu phải vậy?

      Yakov cố tìm câu trả lời nhưng nó chẳng tìm ra câu trả lời nào cả. Ngay cả khi có Aleksei cũng chẳng thay đổi suy nghĩ. Aleksei ngốc, mọi người cũng vậy. Nadiya biến tất cả thành bọn ngốc, mười thằng nhóc và tất cả đều ta. Chúng giành nhau để ngồi cạnh ta ở bàn ăn, chúng nhìn ngắm ta, học hỏi ta như thể những chú chó con. Ban đêm, chúng thào về ta thế này ta thế kia, ta thích món ăn gì, ta ăn gì vào bữa trưa, họ xem xét mọi thứ từ việc ta bao nhiêu tuổi đến ta mặc gì bên trong áo sơ mi. Chúng đoán xem có phải Gregor là bạn trai ta hay ? Và có phải là ta thầm hay . Chúng dùng mọi hiểu biểt về phụ nữ, những đứa lớn hơn giải thích về công dụng của bao cao su và cách dùng chúng như thế nào, tất cả chỉ tăng thêm thích thú của chúng với Nadiya mà thôi.

      Yakov cũng tò mò, nhưng ham hố đến thế, nó sợ ta.

      Tất cả là vì những xét nghiệm máu.

      Vào ngày thứ tư biển, khi tất cả đám trẻ còn rên rỉ Gregor và Nadiya mang tới khay kim và ống. Chỉ là xét nghiệm thôi, lọ máu xem các cháu có khỏe . có ai nhận nuôi các cháu nếu họ dám chắc các cháu có khỏe . Cặp đôi tới từng đứa . Nadiya trông có vẻ mệt mỏi, Gregor là người lấy máu. Họ hỏi tên từng đứa và viết con số lên chỗ dán nhựa. Sau đó Gregor buộc dải cao su lớn quanh tay của bọn nhóc và đập đập vài lần cho mạch thông. Vài đứa khóc thét còn Nadiya phải giữ tay chúng và an ủi chúng khi Gregor lấy máu ra.

      Yakov là đứa duy nhất khóc, ta thể giữ nó đứng yên được. Nó muốn mũi kim đó đâm vào da và nó đá cho Gregor cái. Đó là khi bản chất của Nadiya bộc lộ, ta kéo Yakov đến bên giường, cột tay nó lại khi Gregor lấy máu, ta nhìn nó im lặng, cũng ngọt ngào như khi mũi kim chọc vào da và máu chảy lên ống. Mọi người trong phòng nghe thấy tiếng của Nadiya, thào, chắc chắn. Nhưng Yakov đột ngột nhìn vào ánh mắt nhợt nhạt của ta, thấy cái gì đó có vẻ như khác biệt.

      Cuối cùng Yakov cũng thoát nạn, nó được kiểm tra xong nhưng Aleksei vẫn giữ miếng vải của mình: Số 307 - khỏe mạnh.

      - Mày có nghĩ là ấy có con ?

      Yakov nhún vai.

      - Tao hy vọng là - Nó và nhìn ra phía cầu thang trống trơn, căn phòng đó lại đóng cửa.

      Nó bò ra khỏi chỗ trú :

      - Tao đói rồi.



      Như đầu bếp đoán, buổi chiều u ám ngột ngạt nhanh chóng kéo theo cơn biển động. phải là bão to nhưng cũng đủ lớn khiến tất cả hành khách, người lớn và trẻ đều vào trong cabin. Aleksei quá thích điều này, tất cả những điều tuyệt diệu nhất thế giới cũng thể kéo nó ra khỏi chăn được. Bên ngoài trời ẩm ướt và lạnh lẽo, sàn tàu trơn, và nó chẳng thích mò mẫm trong bóng tối, những góc tối ẩm thấp chỉ thích hợp với Yakov thôi, còn nó thích nằm giường. Nó thích cái chăn mềm mãi mãi.

      Suốt cả buổi sáng, Yakov cố gắng kéo Aleksei ra khỏi cái giường êm ái, năn nỉ nó cùng đến miền đất bí mật nhưng cuối cùng Yakov đành bỏ cuộc và mình. Nó quay lại hai lần xem liệu Aleksei có đổi ý nhưng nó ngủ cả buổi chiều, qua cả bữa tối và ngủ thẳng cẳng đến tận sáng hôm sau.



      Ban đêm, Yakov tỉnh dậy và cảm thấy ngay có cái gì đó lạ lùng khác thường. Đầu tiên nó biết là cái gì, có thể là cơn bão chăng? Nó có thể cảm thấy con tàu lắc lư. Sau đó nó nhận ra là tiếng động cơ thay đổi, tiếng gầm gừ dứt chuyển thành những thanh dễ chịu hơn. Nó bò ra khỏi mền và đến chỗ Aleksei.

      - Dậy - nó thào.

      - chỗ khác .

      - Nghe này, tàu dừng rồi.

      - Tao chẳng cần biết.

      - Mày phải dậy xem chứ. với tao mau lên.

      - Để yên cho tao ngủ.

      - Mày cứ ngủ cả ngày lẫn đêm, mày muốn nhìn thấy đất liền à? Chúng ta sắp tới đất liền rồi. Tại sao con tàu cập bến mà lại dừng giữa biển nhỉ? - Yakov đến gần chỗ Aleksei hơn - Có lẽ chúng ta có thể thấy ánh sáng, nước Mỹ, mày bỏ lỡ đấy nếu mày nghe tao.

      Aleksei thở dài, trở dậy, Mặc dù nó muốn.

      Yakov kéo cái túi ra.

      - Tao lấy khoai tây ở chỗ bàn ăn đấy. Tao cho mày nếu mày chịu với tao.

      Aleksei ăn gì lâu nên nó thấy khoai tây quả là món ăn tuyệt vời.

      - Được rồi, được rồi - Aleksei ngồi đậy và bắt đầu giầy vào - Khoai tây đâu?

      - Chúng ta .

      - Mày là đồ khốn, Yakov.

      Chúng rón rén qua những đứa trẻ khác ngủ và leo lên boong tàu.

      Bên ngoài, gió thổi . Chúng nhìn qua con tàu, tìm kiếm thành phố nhưng chỉ có ánh sao bầu trời tối đen và đường chân trời lờ mờ xa xa.

      - Tao nhìn thấy gì cả. Đưa khoai tây đây.

      Yakov đưa ra kho báu của mình và Aleksei vồ lấy nó, ngấu nghiến. Yakov quay lại và nhìn lên, nó có thể thấy màn hình rađa và người đàn ông đó, người hoa tiêu. ta nhìn cái quái gì thế nhỉ?

      Aleksei ăn hết khoai tây, giờ mới đứng dậy .

      - Tao ngủ đây.

      - Chúng ta có thể kiếm thêm đồ ăn mà.

      - Tao muốn thấy chuột đâu - Aleksei bắt đầu - Tao lạnh nữa.

      - Tao chẳng thấy lạnh.

      - Vậy mày cứ ở đây .

      Chúng tới cầu thang rồi chợt nghe có tiếng động mạnh. Đột ngột, cả sàn tàu sáng choang ánh đèn, cả hai đứa đứng sững, sợ hãi.

      Yakov nắm tay Aleksei và kéo nó chui xuống gầm cầu thang. Chúng nghe thấy có tiếng động và hai người đàn ông vào vùng sáng. Cả hai đều mặc đồ trắng toát. Họ cùng cúi đầu và đem theo cái gì đó, cái gì đó bằng kim loại được đặt sang bên. Có ánh đèn nữa, lần này xanh.

      - Máy móc chết tiệt - người đàn ông - Họ chẳng bao giờ chịu sửa cả.

      Cả hai đứng dậy và nhìn lên trời. Phía trước chúng là sấm chớp.

      Yakov cũng nhìn lên, trong khi sấm chớp đến gần hơn, lâu sau đó là tiếng gầm vang lên, cả hai đều bước ra từ vùng sáng, thanh dường như ngay đầu họ và ánh sáng chói lòa như giông bão.

      Aleksei áp tay vào tai và lùi sâu hơn vào trong bóng tối. Yakov , nó nhìn theo chiếc trực thăng chiếu ánh sáng xuống sàn.

      trong số hai gã đàn ông xuất , chạy rất nhanh tới mở cửa trực thăng, Yakov thấy gì bên trong cả, cái cầu thang che hết. Nó lùi lại để nhìn và bắt gặp ánh mắt của phi công và hành khách.

      - Này, nhóc - Ai đó quát nó.

      Yakov nhìn lên và thấy hoa tiêu nhìn xuống.

      - Chúng mày làm gì ở đó thế? Lên đây nhanh lên, ăn đòn bây giờ, nhanh lên.

      Người đàn ông kia cũng thấy thằng bé và lại phía chúng, trông ông ta thoải mái lắm.

      Yakov chui ra khỏi chỗ nấp, Aleksei lo lắng.

      - Chúng mày biết đủ để biến khỏi đây khi trực thăng cất cánh rồi đấy - Hoa tiêu quát, ta đập cho Aleksei cái và kéo chúng vào trong, chỉ vào hai cái ghế - Ngồi xuống, cả hai đứa.

      - Bọn cháu chỉ xem thôi - Yakov .

      - Lẽ ra hai đứa mày phải ở giường rồi chứ.

      - Cháu giường, nhưng nó bắt cháu - Aleksei mách.

      - Mày có biết là cánh quạt máy bay có thể phang đứt đầu mày ? - Hoa tiêu làm động tác cắt qua cổ Aleksei - Như thế này này, và đầu mày bay ra khỏi cổ đó, máu chảy lênh láng, hay đúng ? Tưởng tao đùa à? Tin tao , tao chẳng bao giờ xuống đó khi trực thăng đến cả. Phải tránh xa ra nhưng nếu mày muốn bay đầu cứ thử .

      Aleksei thào.

      - Cháu chỉ muốn ngủ.

      Tiếng gầm gừ của trực thăng khiến cả ba quay lại, họ vừa thấy nó biến vào bầu trời, cánh quạt vẫn quay qua bóng hai người đứng bong tàu, sau đó bị nuốt chửng bởi bóng tối, chỉ còn tiếng động xa xa vang lại.

      - Nó đâu thế? - Yakov hỏi.

      - Mày nghĩ họ cho tao biết à? Họ chỉ gọi tao khi nó đến rồi lấy đồ và tao tiếp tục làm việc. Thế thôi.

      Bóng tối bao trùm.

      Yakov đẩy cửa sổ, cái trực thăng biến mất, mọi thứ quanh họ chỉ là bóng tối.

      Aleksei vẫn khóc.

      - Nín - Hoa tiêu và vỗ vào vai thằng bé - thằng con trai tuổi mày, mà lại xử như con ấy à?

      - Nhưng mà máy bay tới đây làm gì? - Yakov hỏi.

      - Tao rồi, lấy đồ.

      - Lấy cái gì?

      - Tao hỏi, chỉ làm việc họ cầu thôi.

      - Ai cầu cơ?

      - Những hành khách ấy - ta đẩy Yakov ra xa khỏi cửa sổ và đẩy nó tới gần cửa ra vào - Về ngủ , mày thấy tao bận à?

      Yakov theo Aleksei đến cửa và rồi nó nhìn vào màn hình rađa, nhiều lần nó nhìn thấy màn hình đó, bị lôi cuốn bởi những vệt xanh 360 độ. Giờ nó đứng đó, lại nhìn cái màn hình ấy.

      - Có phải có con tàu khác chú? - Yakov hỏi - đó, rađa đó.

      Nó chỉ vào màn hình nơi đột ngột có chấm xuất và trở nên trắng hơn khi thanh bar quét qua.

      - Có thể là cái gì khác nữa chứ? .

      Cả hai ra ngoài và nhìn xuống phía dưới. Yakov nhìn lên cái màu sắc mờ mờ của cửa sổ, bóng của hoa tiêu chăm chú nhìn.

      Và nó .

      - Giờ tao biết cái trực thăng đâu rồi.



      Pyotr và Valentin ăn sáng, khi cái tin về điểm đến của chúng đêm qua lan rộng tới cabin của Yakov. Nó ngồi xuống bàn ăn sáng hôm đó và thấy hàng các cậu bé trước mặt mình, nó biết lý do của im lặng đó. Chúng hiểu tạo sao Pyotr và Valentin là những người đầu tiên rời tàu, người đầu tiên được chọn. Chúng biết cả hai từ đầu mà. Pyotr là kẻ bị ở lại hoặc là dành cho những gia đình thích trẻ ngớ ngẩn. Valentin thông minh, đẹp trai nhưng có những bí mật khủng khiếp. Khi đèn đóm tắt hết, nó cứ cọ quậy trong chăn mà thèm mặc đồ lót, sau đó nó thầm: “Thấy , thấy của tao to ?” Và nó lại cầm tay những đứa khác và bắt sờ cái của nó.

      Nhưng giờ Valentin rồi, cả Pyotr nữa, đến với những cha mẹ mới của chúng. Nadiya vậy.

      Những kẻ ngồi đây là những người bị bỏ lại.

      Vào buổi chiều, Yakov và Aleksei leo lên boong và nằm dài ra chỗ mà trực thăng đậu hôm trước, chúng ngắm bầu trời xanh biếc. gợn mây, có trực thăng, sàn tàu ấm áp giống như hai chú mèo con, chúng bắt đầu cảm thấy lười biếng.

      - Tao nghĩ… - Yakov và nhắm mắt lại - Tao còn sống, tao muốn làm con nuôi.

      - có đâu.

      - Có thể vậy mà.

      - Tại sao mẹ mày về?

      - Có thể bà tìm tao đấy, và giờ tao ở đây, giữa biển, chỗ chẳng ai tìm thấy tao ngoại trừ rađa. Tao định với Nadiya mang tao quay lại. Tao muốn có mẹ khác.

      - Tao muốn - Aleksei và im lặng. Nó im lặng lát sau rồi mới - Mày có nghĩ tao bị làm sao ?

      Yakov cười.

      - Ý mày là trông mày có ngu á?

      Aleksei trả lời. Yakov tiến lại gần bạn mình hơn và thực bối rối khi thấy nó che mặt, hai vai run lên.

      - Này, mày khóc đấy à?

      - .

      - Mày khóc mà.

      - .

      - Mày đúng là trẻ con, tao có ý như vậy, mày ngu ngốc.

      Aleksei cuộn tròn người lại, nó vẫn khóc cho dù thành tiếng. Yakov có thể thấy ngực nó phập phồng, Yakov biết làm sao và sao. bực bội trong đầu nó. Đồ con chỉ biết khóc lóc. Nhưng rồi nó nghĩ lại, nó chưa bao giờ thấy Aleksei như thế này và cảm thấy hơi hối lỗi, nó hơi sợ chút. Chỉ là đùa tí thôi mà, tại sao Aleksei cho đây là đùa nhỉ?

      - Này, xuống và chơi đu đây - Yakov rồi khoác tay Aleksei kéo đến chỗ có dây đu .

      - Chuyện gì xảy ra với mày vậy? - Yakov hỏi.

      - Tại sao họ lại chọn tên ngốc Pyotr đó thay vì chọn tao?

      - Nhưng họ cũng chọn tao mà.

      - Tao chẳng có vấn đề gì cả - Aleksei và nhảy xuống.

      Yakov vẫn ngồi yên, nó nhìn xuống tay trái của mình rồi .

      - Tao cũng chẳng có vấn đề gì cả.

      - Hiệp sĩ đến gặp giáo hoàng đây - Koubichev .

      - Chú lúc nào cũng vậy, sao chú thử cái gì khác .

      - Ta chỉ tin vào những gì cố gắng và thôi. Điều này lúc nào cũng xảy ra nhưng lâu đâu.

      Yakov vân vê bàn cờ, định từ quân cuối cùng nhưng lại thay đổi, nó quỳ xuống và quân tốt. Tưởng tượng trong đầu những người lính trong trang phục đen đứng trong hàng ngũ, chờ đợi hiệu lệnh xuất phát.

      - Cháu làm quái gì thế?

      - Chú có bao giờ đề ý rằng con hậu có ria chưa?

      - Cái gì?

      - Nó có ria mép. Xem này.

      Koubichev gật gù.

      - Đó chỉ là rèm cổ thôi mà, giờ cháu .

      Yakov lùi quân hậu lại và con tượng, đặt nó vào vị trí khác và rồi lại nhặt nó lên.

      Koubichev còn nhìn nữa, ta bắt đầu mở tạp chí ra và lật lật vài trang, ánh mắt biểu lộ và nắm chắc chiến thắng trong tay. ta gật gù và :

      - Cháu cho nó là đẹp lắm, sao cháu để con chó của chú làm việc ?

      Yakov lại lại quân hậu và đặt nó ở ô thứ tư.

      - Đây.

      Koubichev thưởng cho nước của Yakov bằng cái vỗ đùi.

      - Cháu cứ luôn mắc lại lỗi thế. con hậu sớm vậy sao?

      ta vứt cuốn tạp chí xuống.

      Khi đó Yakov nhìn thấy hình người phụ nữ tạp chí. Đó là người phụ nữ, với mái tóc vàng, bên tóc cắt ngắn trùm vào má, nụ cười ngọt lịm. Đôi mắt phải nhìn vào bạn, mà là nhìn vào tầm hồn bạn.

      - Đó là mẹ cháu - Yakov .

      - Cái gì?

      - Người đó là mẹ cháu.

      ta ném tờ tạp chí vào thùng gỗ, đập mạnh xuống các quân cờ bay tứ tung khắp nơi. Koubichev vứt tờ báo ra xa.

      - Chuyện gì xảy ra với mày vậy?

      - Đưa nó cho cháu - Yakov hét lên và với lấy tay người đàn ông, cố gắng lấy tờ tạp chí - Đưa nó cho cháu .

      - Mày điên rồi, đó phải mẹ mày đâu.

      - Là mẹ cháu, cháu nhớ mà, bà trông hệt như vậy, y như thế.

      - Đừng có cào tao như thế, ra, nghe à?

      - Đưa cho cháu .

      - Đưọc rồi, được rồi, nào nhìn . Tao cho mày thấy đây, phải mẹ mày đâu - Koubichev đập tờ báo xuống thùng gỗ.

      Yakov nhìn chằm chằm vào người phụ nữ trong bức ảnh từng chi tiết , giống hệt những gì nó vẫn mơ về bà, cả cách cái đầu nghiêng nghiêng, da hơi chùng ở khóe miệng và cách ánh sáng phản chiếu tóc. Tất cả đều như thế.

      - Đó là mẹ, cháu thấy mặt mẹ.

      - Ai chả thấy mặt ta - Koubichev chỉ vào tấm ảnh - Đó là Michelle Pfeiffer, diễn viên người Mỹ, cái tên còn là Nga nữa rồi.

      - Nhưng cháu biết mà, cháu biết, cháu mơ thấy.

      Koubichev cười.

      - Mày và mọi thằng nhóc khác - Rồi ta nhìn đám quân cờ vương vãi - Xem mày làm ra cái đống gì kìa, còn lâu mới nhặt lại được hết, nào.

      Yakov nhúc nhích, nó đứng nhìn trân trân vào tấm ảnh người phụ nữ, nhớ cách mà ta cười với nó.

      Koubichev quỳ sàn nhà, bắt đầu bò khắp nơi để thu các quân cờ.

      - Có thể cháu thấy gương mặt này ở đâu đó. ti vi hay báo chí gì đấy, và cháu quên mất, sau đó cháu mơ về hình ảnh đó - ta đặt hai quân cờ lên và con hậu vào chỗ, rồi quay lại ghế của mình. Mặt ta bóng bong - Não của chúng ta rất kỳ lạ. Nó ghi nhận những hình ảnh của cuộc sống thực và đem vào những giấc mơ mà ta chẳng biết là thực hay nữa. Thỉnh thoảng chú cũng mơ khi chú ngồi vào bàn với tất cả những thức ăn ngon lành và mọi thứ chú muốn làm là ăn thôi. Sau đó chú tỉnh dậy và thấy mình ở con tàu quái quỉ này - ta vớ lấy tờ báo và xé tờ có bức ảnh ra - Của cháu đấy.

      Yakov cầm lấy tờ tạp chí và gì, cậu giữ chặt.

      - Nếu cháu muốn giả vờ đấy là mẹ mình cứ tiếp tục . Bọn nhóc còn tệ hơn thế, giờ nhặt mấy thứ lên . Này này, cháu đâu thế?

      Yakov vẫn giữ nguyên tờ tạp chí trong lòng, bỏ chạy.

      Nó chạy vào góc, gập đôi tờ giấy và chỉ thế cũng chưa đủ, chưa đủ. Nó thở dốc, gần khóc nhưng sao thể bật ra thành tiếng. Nó lại lấy răng cắn xé tờ giấy, như con thú xé xác con mồi, các mẩu giấy bay vụn trong gió.

      Khi nó xé hết tờ giấy, nó vẫn còn giữ mẩu của trang tạp chí. Đó là con mắt, nó nắm chặt trong những ngón tay của mình, giữ chặt, giống như giữ ánh sáng từ những ngôi sao.

      Rồi nó vứt miếng giấy và miếng giấy bay xuống biển.

    5. vulinh

      vulinh Well-Known Member

      Bài viết:
      20,019
      Được thích:
      24,221
      15



      ta khoảng bốn mươi tuổi, người gầy với gương mặt khô của người phụ nữ từ lâu còn sức sống. Trong suy nghĩ của Bernard việc ở mình khiến người phụ nữ trở nên kém cuốn hút hơn. Vẻ đẹp của người phụ nữ phải ở mịn màng của làn da và mái tóc mà ở những gì toát lên từ đôi mắt. Và như vậy, thấy những điều tuyệt vời ở những phụ nữ bảy mươi tuổi, giống như Margaret của , người gần gũi hơn nhiều sau cái chết của Annie. Katzka thường mong được uống cà phê và chát chít với Margaret và điều này làm cho đồng nghiệp của , Lundquist hài lòng. Lundquist thuộc trường phái tin rằng người phụ nữ mãn kinh chẳng còn đáng cái nhìn. Cũng phải thôi, vì điều này là do quá trình sinh lý tự nhiên của con người. Những người đàn ông chẳng nên lãng phí tinh trùng và sức lực cho những phụ nữ còn khả năng sinh nở nữa. Vì vậy mà Lundquist chẳng thiết tha gì khi Katzka đồng ý phỏng vấn Hainey. Lundquist coi những phụ nữ như vậy chẳng ra sao và chỉ có Katzka mới đủ kiên nhẫn nghe họ trình bày.

      Đó là điều mà Katzka làm suốt mười lăm năm qua, lắng nghe Brenda Hainey cách kiên nhẫn và chăm chú, chẳng dễ dàng gì khi nghe phụ nữ suốt ngày lải nhải về niềm tin, về những ám hiệu của thiên đường với những liều moocphine. có thể ngạc nhiên nếu có của mối liên kết nào đó nhưng Hainey chẳng có. ấm áp nào trong ánh mắt của ta, chỉ có giận dữ, mà những người giận đâu có đẹp.

      - Tôi chuyện với bệnh viện về chuyện này - Brenda - Tôi gặp thẳng chủ tịch, ông Parr nhưng ông ta hứa điều tra, có điều năm ngày qua rồi mà tôi chẳng thấy gì cả. Tôi gọi điện cho ông ta hàng ngày nhưng nhân viên của ông ta là họ vẫn điều tra. Tôi nghĩ quá đủ rồi và tôi phải gặp cơ quan chức trách. Vậy nên tôi gọi cho các , và họ cố gắng làm tôi thấy điên tiết, tôi gặp mấy tay cảnh sát vớ vẩn. Tôi làm điều này hàng ngày, khi tôi cầu nguyện, tôi nghĩ mình đến gặp cảnh sát cấp cao. Đó là .

      Katzka suýt phì cười.

      - Tôi thấy tên báo, có liên hệ với gã bác sĩ chết.

      - định tới ông Levi?

      - Phải, tôi nghĩ là vì tôi biết tất cả những gì xảy ra trong bệnh viện đó, tôi nghĩ tôi nên với ông.

      Katzka định thở dài nhưng kiềm lại, biết ta , chỉ là lo lắng thôi.

      - Tôi xem qua mẩu giấy được chứ?

      ta lôi ra tập giấy từ túi xách và đưa nó cho thám tử, có dòng chữ viết: Dì chết theo cách tự nhiên. người bạn.

      - Có phong bì ?

      - Đây - ta đưa ra, chỉ có dòng chữ đánh máy Brenda Hainey. Chỗ mép được tháo ra.

      - có biết ai gửi ?

      - Tôi biết, có thể là y tá, ai đó biết chuyện này.

      - là dì bị ung thư giai đoạn cuối, có thể chết vì nguyên nhân tự nhiên.

      - Vậy sao họ lại gửi nó cho tôi? Ai đó biết điều gì khác biệt và muốn được xem xét, tôi muốn xem xét.

      - Thế xác dì giờ ở đâu?

      - Ở Garden of Peace Mortuary - bệnh viện tàu, nó được đưa rất nhanh chóng.

      - Quyết định từ đâu vậy? Lẽ ra phải chậm hơn chứ.

      - Dì tôi để lại chỉ dẫn trước khi chết, đó là những gì bệnh viện với tôi.

      - chuyện với những bác sĩ của dì chưa? Có thể họ giúp được đấy.

      - Tôi thích chuyện với họ.

      - Tại sao?

      - Tôi thể tin được họ.

      - Tôi biết.

      Giờ Katzka thở dài. cầm cây viết lên và viết gì đó vào sổ của mình.

      - Sao cho tôi tên của các bác sĩ dì nhỉ?

      - Người chịu trách nhiệm về mặt y học là bác sĩ Colin Wettig nhưng người thực ra quyết định là cấp dưới của ta - bác sĩ DiMatteo.

      - sao?

      Katzka nhìn ta ngạc nhiên.

      - Có phải Abigail DiMatteo?

      lúc im lặng và Katzka có thể thấy ngạc nhiên nghi ngờ mặt Brenda.

      ta , thận trọng.

      - biết ta?

      - Tôi chuyện với ta, về vấn đề khác.

      - Nó ảnh hưởng gì tới suy nghĩ của trong chuyện này chứ?

      - .

      - chắc chứ?

      Brenda thử lòng trung thực của với cái nhìn khiến bối rối. Nhưng dễ bị nao núng thế đâu, và phải hỏi tại sao người phụ nữ này làm phiền đến thế.

      Lundquist chọn lúc đó để tiếp tục, và thể thông cảm. Có thể điều này tốt cho đây, bài học về việc kiểm soát lịch mà Lundquist luôn cần.

      Katzka :

      - Tôi luôn cố gắng khách quan, Hainey.

      - Vậy điều tra kỹ ta chứ?

      - Tại sao lại là ta?

      - Vì ta gây ra cái chết của dì tôi.



      Lời kết tội của Brenda làm Katzka sốc. Nhưng vẫn còn đó tờ giấy mà ai đó gửi.

      Có thể là Brenda tự gửi cho ta, điều lạ lùng vẫn thường xảy ra với những người thèm được quan tâm. dễ dàng hơn cho để tin những điều ta , rằng Mary bị đầu độc bởi bác sĩ của mình. Katzka nhiều tuần trong bệnh viện, nhìn thấy vợ mình chết từ từ, và quen với căn phòng bệnh ung thư. nhìn thấy vất vả của các bác sĩ và y tá. Họ biết khi nào phải chiến đấu chống lại cái chết, khi nào cuộc chiến kết thúc và họ thua cuộc. Họ cũng biết giá trị của ngày, tuần, tháng. Có nhiều lần khi Katzka muốn Annie chấm dứt những khổ sở của ấy, có bác sĩ gợi ý, và đồng ý. Nhưng họ bao giờ làm vậy. Bệnh ung thư đủ nhanh rồi, tại sao bác sĩ lại dại dột đầu độc bệnh nhân của mình khi biết ta chắc chắn chết? Ngay cả khi bác sĩ của Mary Allen làm vậy, ai có thể thực tin rằng đó là vụ hình ?

      Với chút dao động trong lòng, chiều hôm đó đến Bayside ngay sau khi Brenda đến. cần lấy mấy câu trả lời, và để chắc chắn là Mary chết vào ngày hôm đó. Các lễ tân hay y tá chẳng mang lại cho thông tin gì mới. Bác sĩ Wettig mổ và rảnh buổi chiều nên Katzka gọi điện hỏi Abby DiMatteo.

      Lát sau ta gọi lại.

      - Tôi là Katzka, chúng ta chuyện với nhau tuần trước.

      - Tôi nhớ rồi.

      - Tôi có vài câu hỏi với vấn đề quan trọng lắm, tôi gặp khi nào tiện nhỉ?

      - Tôi ở thư viện, có mất nhiều thời gian ?

      - nhiều lắm.

      nghe tiếng thở dài, sau đó là lưỡng lự.

      - Thôi được, thư viện tầng hai.

      Theo kinh nghiệm của Katzka, những người bình thường phải nghi phạm, thường thích chuyện với cảnh sát. Họ tò mò về vụ giết người, về công việc của cảnh sát. rất ngạc nhiên vì những gì họ hỏi ta, ngay cả những khuôn mặt già cả dễ thương ai cũng muốn nghe, càng đẫm máu càng tốt. Bác sĩ DiMatteo ngược lại, có vẻ thích chuyện với , tự hỏi vì sao.

      thấy thư viện có cả đống thứ linh tinh. Bên trong là những kệ sách, nửa tá tường, bác sĩ DiMatteo đứng bên cạnh máy photo, cùng đống bệnh án. ấy lấy đống giấy photo và đặt chúng sang bên cạnh. ngạc nhiên khi thấy làm những công việc đó, cũng ngạc nhiên thấy mặc chiếc áo sơ mi thay vì quần áo đồng phục của viện. Từ lần đầu tiên gặp Abby, nghĩ phụ nữ hấp dẫn. Giờ thấy trong chiếc áo sơ mi hợp thời trang, với những lọn tóc đen xõa xuống vai thực làm thấy choáng váng.

      ngước lên và gật đầu, đó là khi nhận ra có gì khác biệt ở ngày hôm nay. có vẻ hồi hộp, thậm chí là lo lắng.

      - Tôi sắp xong rồi, chỉ còn bản nữa thôi.

      - làm việc ở bệnh viện hôm nay à?

      - Sao cơ?

      - Tôi cứ tưởng các bác sĩ phải mặc áo đồng phục.

      đặt thêm trang nữa và nhấn nút copy.

      - Tôi có lịch trong đội mổ ngày hôm nay, nên tôi làm nghiên cứu cho bác sĩ Wettig.

      nhìn xuống bản copy như thể ánh đèn xanh của cái máy làm chú ý. Khi những trang cuối cùng chui ra, lấy nó và đặt lên bàn, nơi có các tập giấy khác, rồi ngồi xuống. kéo ghế ngồi đối diện. lấy cái dập ghim và dập đống giấy tờ lại.

      Vẫn nhìn , hỏi.

      - Có tiến triển gì mới ?

      - Về Levi ý à? .

      - Tôi ước gì có thể nghĩ ra cái gì mới để , nhưng mà tôi thể.

      - Tôi định đến đây để về Levi mà về vấn đề khác, bệnh nhân của .

      - Vậy sao? - lấy tập giấy khác lên và đặt vào giữa kẹp ghim - Ai thế?

      - Mary Allen.

      Bàn tay dừng lại giây rồi lại tiếp tục công việc.

      - có nhớ bà ta ?

      - Có.

      - Tôi biết bà ấy chết tuần trước ở đây.

      - Đúng.

      - có chắc chắn những dự đoán của mình về bà ấy ?

      - Có.

      - Là ung thư giai đoạn cuối à?

      - Đúng.

      - Vậy là cái chết có thể báo trước?

      Ngừng lát, khoảng ngừng đủ để thấy cảnh giác. Rồi ấy , hơn.

      - Tôi có thể là có thể báo trước.

      chăm chú nhìn gần hơn và biết điều đó. gì, im lặng, kinh nghiệm của được nôn nóng.

      hỏi.

      - Bà ta chết bình thường đúng ?

      Cuối cùng cũng ngẩng lên, nhận thấy ngồi yên gần như bất động.

      - bình thường theo cách nào?

      - Mọi cách, cái cách mà bà ta chết.

      - Tôi có thể biết tại sao theo vụ này ?

      - họ hàng của bà Allen đến gặp tôi và bày tỏ quan tâm.

      - Chúng ta về Brenda hả?

      - Phải. ấy nghĩ dì của mình chết vì nguyên nhân chẳng liên quan gì tới bệnh tật.

      - Và định cho đây là vụ hình ?

      - Tôi trù định xem có đáng xếp vào dạng đó .

      ấy gì.

      - Brenda Hainey nhận được thư nặc danh rằng Mary Allen chết tự nhiên, có bất cứ lý do nào biện hộ ?

      có thể dự đoán vài cách phản ứng, có thể cười phá lên và chuyện này ngớ ngẩn, hoặc có thể Brenda điên rồi, cũng có thể nổi giận khi câu hỏi đó ám chỉ là thủ phạm. Bất cứ phản ứng nào cũng có thể là thích hợp nhưng lại nhận được phản ứng khác.

      nhìn chằm chằm, mặt trắng bệch. Rồi rất nhàng.

      - Tôi từ chối trả lời thêm bất cứ câu hỏi nào, thanh tra Katzka.



      Sau khi viên thám tử khỏi, Abby lấy cái điện thoại gần nhất và gọi cho Mark. Như thường lệ, trả lời lại ngay.

      - Tên thám tử đó vừa ở đây, Mark. Họ biết về Mary Allen, Brenda chuyện này với họ và gã cớm đó hỏi em vì sao bà ta chết.

      - Em gì chứ?

      - , em… - thở hơi, tiếng thở gần như hà hơi - Em biết phải gì, Mark, em nghĩ em bỏ cuộc mất, em sợ và em biết ta biết điều đó.

      - Abby, nghe này. Em biết điều này rất quan trọng ? Em với ta về lọ thuốc trong tủ đấy chứ?

      - Em muốn , lạy Chúa. Em sẵn sàng ra tất cả, có lẽ em nên làm thế, nếu như em có thể chạy ra và với ta tất cả.

      - Đừng.

      - tốt hơn à? ta tìm ra tất cả và tung nó lên, em chắc chắn đấy - lại thở hắt ra và cảm thấy nước mắt trào ra. nấc nghẹn vài phút - Em chẳng thấy có cách nào cả, em phải đến gặp cảnh sát.

      - Chuyện gì xảy ra nếu họ tin em? Họ xem các bằng chứng, và lọ moocphine trong tủ của em, và họ nhanh chóng đến kết luận vớ vẩn.

      - Vậy em phải làm gì đây? Đợi họ đến bắt em à? Em thể chịu đựng được nữa - Giọng thảng thốt và thầm - Em thể.

      - Giờ cánh sát vẫn chưa biết gì hết. gì, cả Parr và Wettig nữa. dám chắc thế, họ muốn rắc rối thêm nữa. Cố lên, Abby. Wettig cố làm mọi thứ vì em.

      Cần lúc để trấn tĩnh lại và cuối cùng, , giọng yếu ớt nhưng chắc chắn.

      - Mark, điều gì xảy ra nếu đúng là Mary Allen bị giết, có thể lắm, và cần phải điều tra. Chúng ta phải nhờ cảnh sát.

      - Em thực muốn thế à?

      - Em biết. Em nghĩ về việc ta nên làm, hợp tình hợp lý.

      - Là do em thôi, nhưng muốn nhắc em cần phải nghĩ kỹ , về hậu quả ấy.

      nghĩ và nghĩ cả về dư luận nữa. Khả năng bị bắt là có thể. nghĩ nghĩ lại, về việc nên làm gì, nhưng sợ phải hành động. Mình là kẻ hèn nhát, bệnh nhân chết, có thể do bị giết. Thế mà tất cả những gì mình có thể làm là cố cứu làn da của mình.

      Thủ thư vào phòng, cùng với xe đầy sách. ta ngồi xuống bàn và bắt đầu xem sách. Tút tút…

      - Abby? - Mark - Trước khi em làm gì đó hãy nghĩ kỹ.

      - Em chuyện với sau. Em phải đây.

      cúp máy và trở lại bàn. ngồi xuống và nhìn đống sách photo. dành cả buổi sáng để copy lại đống tài liệu này. bác sĩ và có thể được tiếp tục phẫu thuật nữa, bác sĩ rắc rối của đội phẫu thuật. Các y tá và nhân viên toà nhà biết phải xử ra sao. biết chắc là những tin đồn trở nên nghiêm trọng hơn. Sáng nay khi qua những căn phòng để tìm bác sĩ Wettig, tất cả các y tá đều quay lại nhìn . Họ gì sau lưng mình? tự hỏi.

      sợ phải biết điều đó.

      Tiếng tút tút ngắt. nhận thấy thủ thư dừng việc đếm đầu sách và giờ nhìn Abby.

      Như bất kỳ ai trong bệnh viện này, ấy cũng tự hỏi về mình.

      Abby thu gọn lại giấy tờ và mang chúng ra bàn thủ thư.

      - Có bao nhiêu bản photo?

      - Tất cả là cho bác sĩ Wettig, có thể tính tiền cho phòng phẫu thuật.

      - Tôi muốn biết chính xác có bao nhiêu trang? Đó là quy định.

      Abby đặt tập giấy xuống và bắt đầu đếm, lẽ ra phải hiểu điều này chứ nhỉ? Người phụ nữ này ở bệnh viện này cả đời, mãi mãi, và trong căn phòng này, mọi thứ làm theo cách của ta. Abby thấy giận dữ thực với người thủ thư này, trong bệnh viện, tất cả những thứ rác rưởi mà gặp phải. đếm đến tờ giấy cuối cùng.

      - Hai trăm mười bốn trang tất cả - đặt tập sách xuống và nhìn thấy từ Aaron Levi, M.D dường như nhảy ra khỏi trang sách đầu tiên, đập vào mắt . Tựa đề cuốn sách là So sánh tỷ lệ thành công phẫu thuật tim giữa những bệnh nhân nghiêm trọng và những người cho tim. Tác giả là Aaron Levi, Rajiv Mohandas và Lawrence Kunstler. bắt đầu nhìn chăm chú vào tên Aaron Levi, thấy run sợ vì cái chết của ông.

      - Tôi hiểu ý - Abby .

      - Và cả những cái tên này - Người phụ nữ lắc đầu.

      - Ai cơ?

      - Bác sĩ Kunstler và bác sĩ Levi.

      - Tôi biết Kunstler.

      - À, ta ở đây trước - Thủ thư gập đống sách lại và đặt trong giá - Ít nhất chuyện này cũng xảy ra sáu năm rồi.

      - Chuyện gì vậy?

      - Giống như vụ của Charles Stuart, ta nhảy từ cầu Tobin xuống. Đó là bác sĩ Kunstler.

      Abby lại nhìn vào bài báo, hai cái tên ở đầu trang.

      - ta tự sát à?

      Thủ thư gật đầu.

      - Giống bác sĩ Levi vậy.



      Tiếng lách cách của thìa đũa bàn ăn khiến cho tiếng chuyện bị nhòa . Vivian đóng cửa bếp lại và quay ra với chậu rửa có chảo giá đỗ. tiếp tục nhặt những cái rễ của giá đỗ cho vào trong cái đĩa. Abby biết có ai đủ kiên nhẫn để nhặt hết rễ giá đỗ như thế, chắc chỉ có những người Trung Quốc thôi. Vivian với như vậy và chỉ có người Trung Quốc mới ngồi cả tiếng đồng hồ để làm công việc đó. Ai thèm quan tâm nhỉ? Bà của Vivian, và cả bạn của bà nữa. Đặt đĩa giá đỗ y nguyên như vậy đến trước mặt các quý bà đó, họ chỉ nhếch mũi thôi. Và đây là đứa cháu biết nghe lời, bác sĩ sắp mở phòng mạch riêng, tập trung vào những công việc nặng nhọc như nhặt giá đỗ. làm việc đó cách thành thạo, trơn tru, hiệu quả. vẫn lắng nghe chăm chú toàn bộ câu chuyện của Abby trong khi bàn tay ngừng hoạt động.

      - Chị nghĩ chúng ta nên làm gì? - Abby hỏi?

      - Này Abby, họ tóm được rồi đấy.

      - Đó là lý do tại sao tôi tìm chị, chị dính vụ với Victor Voss rồi mà, chị biết khả năng của ông ta hả?

      - Phải - Vivian thở dài - Tôi biết rất .

      - Chị có nghĩ tôi nên gặp cảnh sát ? Hay là tôi lờ và hy vọng họ bới thêm ra?

      - Mark nghĩ sao?

      - ấy bảo tôi hãy im lặng.

      - Tôi đồng ý. Đó là vì tôi cũng tin lắm vào chính quyền. Lẽ ra phải có may mắn với cảnh sát hơn tôi nếu định tung hê mọi thứ - Vivian với lấy cái khăn lau bát rồi lau tay. ta nhìn Abby - có nghĩ bệnh nhân của bị giết ?

      - Vậy tôi biết giải thích thế nào về lượng moocphine được dùng đây?

      - Bà ta được tiêm moocphine và có thể lượng đó đủ để duy trì cảm giác thoải mái. Trừ khi bà ta bị tiêm quá liều. cách vô tình hay cố ý. Chỉ là để hại ?

      - có ai từng kiểm tra lượng moocphine sử dụng cho những bệnh nhân ung thư giai đoạn cuối! ai thậm chí muốn biết chắc bà ta bị giết hay , và có lá thư được gửi tới cho Brenda Hainey.

      - Làm sao chúng ta biết liệu đó có phải là do Victor Voss làm ?

      - Ông ta là người duy nhất muốn tôi rời khỏi Bayside.

      - Ông ta là người duy nhất à?

      Abby nhìn Vivian và tự hỏi. Còn ai muốn mình rời khỏi đó nữa nhỉ?

      Trong phòng ăn, tiếng động chuyển sang giai đoạn khác. Tiếng động làm Abby thấy khó chịu.

      - điên rồ, tôi thể tin được là còn ai đó khác muốn làm điều đó, chỉ để sa thải tôi.

      - Jeremiah Parr còn phải giữ cái đầu cổ và Voss sao lại lùi bước vào phút này chứ? Nghĩ xem? Cà hội đồng của bệnh viện đó là bạn bè giàu có của Victor. Họ hoàn toàn có thể sa thải Parr - Trừ khi ta sa thải trước. đâu phải là người bị hoang tưởng. Mọi người thực chỉ tìm cách để sa thải đấy.

      Abby ngồi sâu hơn vào cái ghế và thanh từ trò chơi điện tử ở phòng bên cạnh khiến đau đầu, cả tiếng chuyện của mấy bà già nữa. Ngôi nhà ầm ầm, bạn của bà Vivian tiếng Trung gần như gào lên, những cuộc chuyện thân tình chuyển thành cãi vã. Sao Vivian có thể sống trong ngôi nhà như thế này nhỉ, chỉ việc ăn tối mình cũng khiến Abby phát điên rồi.

      - Tất cả đều dẫn tới đầu mối duy nhất: Victor Voss - Abby khẳng định.

      - Vậy tại sao ông ta lại rút các đơn kiện? Điều này chẳng thể nào tin được. Họ gửi đống đơn kiện tới rồi sau đó lại đồng loạt rút.

      - Thay cho việc bị tất cả mọi người kiện. Tôi bị cáo buộc giết người. thay thế hay ho.

      - Nhưng thấy chuyện này vớ vẩn à? Voss có thể tiếp tục với mấy lá đơn kiện đó, ông ta cần rút đơn. Trừ khi ông ta quan tâm tới hậu quả, vụ kháng án. Có thể nhỉ?

      - Tôi thảo luận với luật sư của tôi rồi nhưng ta khuyên tôi nên kháng án.

      - Vậy tại sao Voss lại rút đơn?

      nghĩ tới câu hỏi này suốt dọc đường từ nhà của Vivian ở Melrose về nhà. chiều muộn và đường vẫn đông như thường lệ. Dù bên ngoài rất ngột ngạt nhưng vẫn mở cửa xe, mùi tim lợn vẫn còn trong xe , nghĩ là cái mùi kinh khủng đó biến mất, nó vẫn đâu đó quanh đây, làm nghĩ tới Victor Voss.

      Cầu Tobin ở trước mặt - nơi mà Lawrence Kunstler tự sát, chậm lại. Dưới bầu trời xám, dòng sông như đen , gió thổi lồng lộng.

      Chết chìm phải là cách mà thích, chết sặc trong nước, cổ họng đông cứng bởi dòng nước lạnh, tự hỏi biết Kunstler có còn tỉnh táo khi ta rơi xuống nước.

      lại nghĩ về Aaron, hai bác sĩ, hai vụ tự sát. quên mất hỏi Vivian về Kunstler, nếu ta chết sáu năm trước, Vivian chắc hẳn phải biết chứ nhỉ.

      Abby nhìn xuống nước, nhận thấy cái xe phía trước chậm lại, cả hàng xe cũng chậm lại, khi nhìn lên hình như chiếc xe đằng trước dừng hẳn. chậm lại nhưng hình như chiếc xe sau phải phanh gấp. Abby nhấn phanh dừng xe lại, và lát sau ở trong hàng xe dài bất tận. nhìn vào gương xe và thấy người phụ nữ phía sau lắc đầu lát, cả dòng xe cầu dịch chuyển. Abby ra khỏi xe và xem hư hại ra sao.

      người phụ nữ khác cũng ra khỏi xe, có vẻ hơi lo lắng khi Abby xem xét.

      - vấn đề gì, vẫn ổn - Abby .

      - Tôi xin lỗi, tôi chú ý.

      Abby nhìn xe của người phụ nữ và thấy phía trước xe ta sao cả.

      - ngại quá tôi cứ nhìn về phía sau, xin lỗi chị - ta chỉ về chiếc xe tải phía sau mình - Nên tôi đâm vào xe .

      tiếng còi ré lên, giao thông lại tiếp tục, Abby quay lại xe mình và tiếp tục. Khi qua, thể ngoái lại nhìn cái cầu nơi Kunstler chết. Họ biết nhau, Aaron và Kunstler, họ làm việc với nhau. Họ viết bài báo đó cùng nhau cơ mà. Suy nghĩ đó theo đến khi tới con đường dẫn tới Cambrigde.

      Hai bác sĩ trong cùng đội và cả hai đều tự sát.

      tự hỏi liệu Kunstler có để lại bà vợ góa , biết bà Kunstler có hành động như Elaine Levi .

      đậu xe trước Harvard Common, khi rẽ vào phố Brattle, nhìn vào gương chiếu hậu.

      chiếc xe tải đằng sau , nó cũng vào Brattle.

      thêm dãy nhà khác, qua Willard và lại nhìn vào gương xe, cái xe vẫn theo sau. Nó bám theo mình nãy giờ từ cầu sao? để ý điều đó và chỉ nhớ tới màu của nó thôi. biết tại sao nhìn cái xe đó lại thấy cảm giác khó chịu như vậy. Có lẽ là lúc vượt qua cái cầu, màu được dễ chịu lắm, nó làm nhớ tới cái chết của Kunstler và Aaron.

      rẽ trái, vào Mercer.

      Cái xe kia cũng vậy.

      lại rẽ trái vào Camden và rồi rẽ phải vào Auburn. vẫn tiếp tục nhìn qua gương, chờ đợi, mong đợi cái xe xuất nhưng khi quay lại tới Brattle cái xe vẫn xuất , cho phép bản thân thở phào cái. Mình là vớ vẩn.

      lái xe thẳng về nhà. Mark vẫn chưa về, điều này chẳng có gì lạ lùng cả. Ngoại trừ những hôm trời quá u ám, nếu mang cái thuyền của mình ra đua với Archer. Mark thời tiết xấu cũng chẳng phải lý do để đua, còn nếu chỉ hơi giông bão tẹo vẫn đua như thường.

      vào trong nhà. Bên trong rất tối, ánh sáng mờ nhạt cuối cùng của buổi chiều phản chiếu qua cửa sổ, qua đèn bàn làm việc và định bật nó lên nghe thấy tiếng xe bên ngoài. nhìn ra ngoài cửa sổ.

      Cái xe tải màu tối ban nãy qua ngôi nhà, nó đến lối vào nhà chậm lại, như thể người lái xe nhìn rất kỹ ngôi nhà của .

      Khóa cửa lại, phải khóa cửa lại.

      chạy tới cửa trước, ấn chốt cửa và móc xích vào.

      Cửa sau, khóa chưa?

      chạy xuống bậc thang và qua bếp. nắm đấm cửa, chỉ là nút khóa. kéo cái ghế lại và chèn cửa.

      chạy lại phòng ngủ và đứng sau tấm rèm, nhìn ra ngoài.

      Cái xe biến mất.

      tìm kiếm cả hai hướng, nhòm mọi ngóc ngách nhưng chỉ thấy con phố vắng tanh.

      để rèm cửa mở và bật đèn. Ngồi trong phòng ngủ, nhìn ra ngoài và chờ cái xe xuất . Băn khoăn biết có nên gọi cảnh sát hay , nhưng gọi vì lý do gì? ai đe dọa cả, ngồi đó gần giờ đồng hồ, nhìn xuống phố và hy vọng Mark sớm về nhà.

      Cái xe xuất , cả Mark cũng thế.

      Về nhà , vứt cái thuyền vớ vẩn của ở lại và về nhà .

      nghĩ ở ngoài vịnh, hò hét với gió và sóng. Và nước, đen ngòm như bầu trời. Giống như nước ở dòng sông mà Kunstler tự sát.

      bấm số nhà Vivian và tiếng ồn ào ở nhà ấy đến tai qua điện thoại. Có tiếng cười bằng tiếng Trung Quốc rồi Vivian :

      - Tôi khó nghe tiếng quá, lại .

      - Có bác sĩ khác ở đội cấy ghép chết sáu năm trước, biết ?

      Vivian trả lời như hét.

      - Có, nhưng tôi nghĩ lâu trước đây đâu, khoảng bốn năm thôi.

      - có biết tại sao ta tự sát ?

      - phải tự sát.

      - Cái gì?

      - giữ máy nhé, tôi phải đổi máy.

      Abby nghe tiếng bên kia ấn gì đó và việc chờ đợi dường như dài vô tận.

      - Được rồi, bà à, bà có thể cúp máy - Tiếng chuyện im bặt.

      - gì, phải tự sát à?

      - Là vụ tai nạn, ngộ độc khí CO2. Vợ con ta cũng chết luôn.

      - Cái gì? Đợi , tôi về người tên Lawrence Kunstler.

      - Tôi biết ai như vậy cả. Chắc là chuyện này xảy ra ngay trước khi tôi tới Bayside.

      - Vậy về ai?

      - chuyên gia gây mê, trước Zwick. Tôi nhớ tên nữa… hình như Hennessy phải.

      - ta cũng trong đội cấy ghép à?

      - Vâng. người khá trẻ. ta ở đây lâu. Tôi nhớ là ta tính chuyển về West khi chuyện đó xảy ra.

      - Sao?

      Abby nhìn ra ngoài cửa sổ và gì.

      - Abby, sao thế?

      - Ai đó theo tôi hôm nay đấy, cái xe tải.

      - Thôi nào.

      - Mark vẫn chưa về, tối rồi, lẽ ra ấy phải về chứ. Tôi vẫn nghĩ về Aaron và Kunstler. ta nhảy từ cầu Tobin. Và bây giờ với tôi về Hennessy. Ba người rồi, Vivian.

      - Hai vụ tự sát và vụ tai nạn.

      - Nhiều hơn những gì tưởng tượng được trong bệnh viện đấy.

      - Hai vụ tự sát và vụ tai nạn. Vô tình à? Hay là làm việc cho Bayside quá mệt mỏi? - Vivian cảm thấy cái gì đó và biết đó là cái gì - có nghĩ ai đó thực theo dõi ?

      - muốn gì? muốn là có người thực muốn gạt tôi ra đấy chứ?

      - Tôi tới Victor Voss hoặc Parr. Họ có lý do để hại , nhưng theo sau trong xe tải ư, và phải làm gì với Aaron và hai người còn lại?

      - Tôi biết - Abby co chân lên ghế và ôm lấy chúng cho ấm. Để tự bảo vệ bản thân mình - Nhưng tôi sợ, tôi vẫn nghĩ về Aaron và tôi với những gì gã thám tử đó với tôi. Cái chết của Aaron có thể phải là tự sát.

      - Có bằng chứng gì ?

      - Nếu ta có, chắc chắn ta với tôi đâu.

      - Có thể ta với Elaine.

      - À, tất nhiên rồi, bà góa, những người bạn muốn biết và cần phải biết.

      Sau khi cúp máy, Abby tìm số điện thoại của Elaine. Bên ngoài trời tối và có vẻ như sắp mưa. Mark vẫn chưa về nhà. Abby kéo rèm cửa lại và bật đèn lên. Giờ cần ánh sáng và an toàn.

      nhấc điện thoại và gọi cho Elaine. Bốn hồi chuông kêu lên, Abby hắng giọng chuẩn bị để lại tin nhắn qua máy trả lời tự động. Bất chợt có tiếng máy trả lời tự động: “Số máy quý khách vừa gọi tồn tại, vui lòng kiểm tra lại”. Abby bấm lại số nhưng chẳng có gì khác biệt.

      cúp máy và nhìn chằm chằm vào điện thoại như thể nó vừa phản bội . Tại sao Elaine lại đổi số điện thoại nhỉ? ta lẩn tránh ai? Bên ngoài có tiếng xe đậu trước cửa. Abby chạy đến cửa sổ và nhìn qua khe rèm. chiếc BMW chuẩn bị dừng lại và Abby thở phào. Mark về nhà.

    6. ^^! Nếu bạn không gửi link bài viết trên Facebook được, hãy sử dụng link trong khung này để chia sẻ bài viết :