1. QUY ĐỊNH BOX EBOOK SƯU TẦM

    Khi các bạn post link eBook sưu tầm nhớ chú ý nguồn edit và Link dẫn về chính chủ

    eBook phải tải File trực tiếp lên forum (có thể thêm file mediafire, dropbox ngay văn án)

    Không được kèm link có tính phí và bài viết, hay quảng cáo phản cảm, nếu có sẽ ban nick

    Cách tải ebook có quảng cáo

Mariana

Thảo luận trong 'Truyện Phương Tây'

  • ^^! Nếu bạn không gửi link bài viết trên Facebook được, hãy sử dụng link trong khung này để chia sẻ bài viết :
    1. CQH

      CQH ^^!

      Bài viết:
      192
      Được thích:
      41,961

      CHƯƠNG 11


      Sau cùng, tôi cần phải lo lắng. Những ngày còn lại của tuần trôi trong bình thường im lìm và hoàn hảo, mờ đục như nước trong mương. chán nản đeo bám tôi dai dẳng. Đó phải phản ứng có chừng mực, nhưng tôi thể ngăn được bản thân. kiên nhẫn, như toàn thể gia đình tôi chứng thực, chưa bao giờ là điểm mạnh của tôi, và giờ tôi được chuẩn bị - thậm chí còn hăm hở - để trải nghiệm thêm cảnh khác từ cuộc đời của Mariana Farr, tôi thấy bứt rứt nếu từ chối cơ hội này. Ngay cả kẻ cưỡi ngựa theo dõi cũng ruồng rẫy tôi. Nơi đó, dưới tàn cây sồi già, mỗi lần tôi đủ can đảm để nhìn, cũng trống rỗng.

      Sáng thứ Sáu, tôi trở nên sốt ruột và bứt rứt ngừng, đành lấy công việc để làm xao nhãng tâm trí. Dù sao bắt đầu công việc vào thời điểm này cũng hơi chậm so với tiến độ rồi, tôi lấy giọng cương quyết để nhắc nhở bản thân. Ngồi vào tư thế quen thuộc trước bàn vẽ, với trang bản thảo đánh dấu có nếp gấp ở vạch cùng và tờ giấy vẽ trải rộng bên dưới chiếc bút chì, ngay khi đó tôi cảm thấy tập trung và thư thái hơn nhiều.

      hơn tháng kể từ lần vẽ tranh minh họa cho cuốn sách trẻ em gần đây nhất. Tôi quá hưng phấn sau khi mua được ngôi nhà, quá bận rộn trong quá trình chuyển nhà và quá điên cuồng bởi những kiện trước đó để có thể lên khung vẽ cho các tinh và nữ hoàng của mình. Các nhân vật đợi, túm tụm vào với nhau trong suốt khoảng thời gian đó, và giờ đây đương nhiên chúng chạy từ tâm trí tôi ra đầu cây bút chì và trang giấy mới tinh, thổi sống vào câu chuyện phỏng theo cổ tích Hàn Quốc về con rồng xấu tính.

      Câu chuyện cần tất thảy bốn hình minh họa. Đến đầu giờ chiều, tôi hoàn thành các phác thảo bằng bút chì với hầu hết các chi tiết cầu kỳ là thương hiệu của tôi. Các phác thảo vẫn cần phải được tô màu nước, nhưng việc này có thể đợi đến ngày mai. Tôi ngả lưng lên phần ghế đặc biệt lót bông của bàn vẽ, đan hai tay rồi duỗi ra sau đầu để thả lỏng các múi cơ xương bả vai và thỏa mãn nhìn quanh căn phòng.

      Tôi thể chọn nơi nào thích hợp hơn để làm việc. Căn phòng này , vuông vức và có trần thấp, nhưng các bức tường được sơn màu hoàng hôn nhạt và lôi kéo thêm được ánh sáng rực rỡ từ ván sàn rộng bóng loáng. Đây là căn phòng nhắn, vui tươi và ấm cúng.

      Chỉ cần xoay ghế lại là tôi có thể có tầm nhìn bao quát ràng qua cửa sổ, nhìn bóng hàng cây in dòng sông uốn lượn chầm chậm chảy về phía tây khu đất của mình, và phía xa là những ô đất trồng trọt ngang dọc cùng đồng cỏ rì rào nét bên dưới. Phía tây nam, ngay trong giới hạn tầm nhìn, ngọn tháp có lỗ châu mai của nhà thờ đứng gác cho ngôi làng và những ống khói bằng gạch lừng lững của lâu đài Crofton uy nghi vươn lên vòm lá xanh tươi.

      Tôi nghe nhiều tin tức từ Geoffrey de Mornay và cho rằng vẫn công tác xa. Đâu đó phương bắc, Iain bảo thế. Có lẽ là Lancashire, tôi suy đoán, hoặc Northumberland. Hãng điện tử Morland đều có nhà máy ở cả hai địa điểm .

      Nhưng dù sao nữa, tôi tự nhắc bản thân, tôi nín thở đợi cuộc điện thoại từ . Sau cùng, tôi còn là nhóc hay tương tư nữa và có vô vàn những thứ khác choán hết thời gian của tôi rồi. Bên cạnh đó, tôi nghĩ, khi bước xuống cầu thang để pha tách trà, mình mới chỉ biết người đàn ông đó tuần.

      thể lý giải tại sao, khi chiếc điện thoại cuối cùng cũng reo, tôi xém chút nữa nhảy qua bàn bếp để lao đến trả lời. Hoặc vì sao giọng của tôi đột nhiên trở nên nghèn nghẹn, gợi lên những hình ảnh của Greta Garbo [1] thời kỳ hoàng kim. “A lô?”

      [1] Nữ diễn viên người Mỹ gốc Thụy Điển nổi tiếng nhất thời kỳ vàng son của Hollywood.

      “Julia?”

      “Ôi, là ”, tôi , thất vọng thấy .

      “Xin lỗi nhé.” Giọng Tom có vẻ sửng sốt. “ nên là ai thế?”

      ai cả.” Tôi lấy lại giọng bình thường.

      “Sao vậy?” tôi ngưng lại, quyết định theo đuổi vấn đề thêm nữa và thận trọng đổi sang chủ đề nào đó nghiêm túc hơn. “ vừa từ thư viện về”, thông báo, “và nghĩ em có thể hứng thú với những gì người thủ thư lục tìm cho ”.

      “Xong rồi á? ta nhanh nhẹn đấy.”

      “Cậu ta là thằng nhóc siêng năng kinh khủng. Đại khái là”, Tom tiếp tục, “ngoài đào bới danh sách dài dằng dặc những người nổi tiếng tin vào đầu thai - tất thảy từ Plato đến Voltaire - cậu ta cũng xoay xở tìm được dòng tôn giáo chính thống về vấn đề này, cả trong đức tin của các tín đồ đạo Phật và đạo Hindu. Hàng trang thông tin, đấy. Học thuyết nền tảng diễn giải linh hồn con người được gửi đến cuộc sống trái đất hết lần này đến lần khác cho đến khi học được những bài học cần thiết để thăng cấp thành thực thể vượt trội.”

      “Và những bài học đó là gì?”

      cụ thể. Có quy luật nhân quả, rằng những hành động của em trong kiếp này ảnh hưởng đến những điều xảy ra trong các kiếp sau, cho nên nếu kiếp này em thực kẻ đáng khinh em cuộc sống khốn cùng ở kiếp sau. Nhưng đương nhiên”, Tom dè dặt, theo lối suy nghĩ thận trọng thường thấy ở , “đó chỉ là góc tín ngưỡng. Có rất nhiều điều tra nghiên cứu ở đây chứng tỏ tượng đầu thai đặt nặng các khía cạnh của tôn giáo”.

      “Điều tra nghiên cứu?” Tôi lặp lại. “ đùa em đấy à?”

      , đấy.” Tôi có thể nghe thấy tiếng giấy tờ loạt soạt từ đầu kia vọng lại. “Vài người thực chết vì vấn đề này. Ví dụ, giáo sư tâm thầm học ở đại học Virgina thu thập nghìn bảy trăm trường hợp những người vẫn có ý thức về những ký ức của kiếp trước. Hầu hết là trẻ , chúng đột ngột mình là người này người kia trong kiếp trước, có thể miêu tả những ngôi nhà, bạn bè và những người chồng, người vợ trước kia của chúng. kỳ quái. Có trường hợp đáng kể hơn cả ở Ấn Độ…” ho, và giấy tờ lại sột soạt. “Nhưng lạc đề mất rồi. Phần nghiên cứu chính khác dường như có được từ những người sử dụng thuật thôi miên, nếu em tin vào các phương pháp ấy. Họ chuyển dịch hàng nghìn người theo đúng nghĩa đen về quá khứ và phát hầu hết những con người này đều chỉ là những thường dân. Ồ, có cái này thú vị chút này. Ở đây có bài báo chứng minh việc triệu hồi kiếp trước và nó rằng những người trong cuộc nghiên cứu này đều thuật lại có nghe thấy tiếng chuông vọng bên tai, kèm theo cảm giác hoa mắt chóng mặt, ngay trước khi việc xảy ra. Nghe quen chưa?”

      “Nghe có vẻ có kha khá tài liệu rồi đấy”, tôi bình luận, cố gắng lờ cơn run rẩy quét khắp da.

      “Hàng tập giấy tờ”, Tom đồng ý. “ bảo, sao đóng gói chỗ này gửi cho em để em tự đọc, thay vì huyên thuyên qua điện thoại nhỉ?”

      “Được rồi. có địa chỉ của em rồi, đúng ?”

      “Để chỗ nào rồi ấy.”

      tin tưởng trí nhớ của trai, tôi đọc lại lần nữa và lắng nghe tiếng cây bút cào mặt giấy khi ghi chép. Lúc chúng tôi lại bắt đầu cuộc chuyện, có vẻ thất vọng khi thấy tôi kể chẳng có chuyện gì xảy ra từ lúc trở về nhà.

      gì luôn?” hỏi. “ cả giấc mơ khác thường?”

      “Em còn chẳng mơ tí nào, theo những gì em nhớ.”

      “Có lẽ em cố gắng quá sức.”

      “Em chủ ý làm gì hết, Tom à.” Giọng của tôi giật cục và bực bội. “ biết em chỉ háo hức đợi nó xảy ra như thôi.”

      hiểu. Xin lỗi” Ngay cả qua đường dây điện thoại, tôi có thể cảm nhận nụ cười của . “Hài hước cái là em bắt đầu trăn trở vì nó rồi.”

      “Cái gì?”

      “Ừ vào thứ Hai, em còn buồn bực bởi những việc xảy ra, và giờ cả hai chúng ta đều buồn bực vì chúng xảy ra còn gì.”

      “Ồ, em hiểu. Nhưng cuối cùng em chẳng thấy hài hước gì cả. Đáng lo ngại hơn có, dù có miễn cưỡng muốn biết hay .”

      “Gió lặng trước cơn bão à?”

      “Giống như... em bị theo dõi đúng hơn”, tôi bảo . “Giống như ai đó đứng sau lưng em, theo dõi em. Và chờ đợi.”

      “Em nghĩ là chờ đợi cái gì?”

      Tôi lắc đầu, quan tâm thể nhìn thấy điệu bộ đó. “Em biết nữa. Em nghĩ chắc cũng tìm ra gợi ý nào hữu dụng từ mớ thông tin ở chỗ người thủ thư phải ?”

      “Ừ, thực có.” lại lật giở đám giấy tờ. “Ồ, nhưng có hai tuyên bố khác nghĩ em thấy hứng thú...”

      “Vâng?”

      “Dường như có rất nhiều bằng chứng chứng minh ở mỗi đời người đều có chừng ấy con người vây quanh chúng ta - rằng cha em ở kiếp này có thể trở thành bạn của em ở kiếp sau, vân vân. Họ đôi khi có liên quan đến nửa của em, những người em thích ngay lập tức mà thực biết lý do vì sao.”

      “Cho nên có thể từng là trai của em ở kiếp trước.”

      “Hoặc chồng của em”, Tom trêu ghẹo. “Hoặc con trai em. Có khi là cả con em cũng nên. Qua nhiều kiếp giới tính có vẻ cũng phải là thứ bất biến.”

      “Thôi được rồi.” Tôi chấp nhận thông tin. “Và điểm còn lại là?”

      “À”, Tom . “Để xem, điểm còn lại hơi bị hấp dẫn, nhưng... hầu hết những người liên quan đến trong số những cuộc nghiên cứu này đều họ thực chọn được tái sinh; rằng họ sống trong minh giới, nếu muốn, cho đến khi cơ hội thân tự nó xuất .”

      “Cho nên?”

      “Cho nên em hồn ma này, hồn ma Thiếu Phụ Xanh trong khu vườn nhà em, ba mươi năm rồi chưa có ai nhìn thấy phải ?”

      “Đấy là những gì em .”

      “Và em chưa bao giờ nghĩ”, Tom chậm rãi , “rằng ba mươi năm trước là khoảng thời gian em được sinh ra sao?”.

      Bước chân nhàng, nàng gần như... Những từ ngữ nảy lên, tự nhiên và tùy ý, trong trí óc hỗn loạn của tôi khi đứng mình trong nghĩa trang nhà thờ có tường bao quanh, nhìn chằm chằm xuống nấm mộ cỏ mọc xanh rì của Mariana Farr. Đây là bài thơ cổ, của Oscar Wilde. Tôi từng phải học thuộc nó thời học, và thậm chí giờ đây, bao nhiêu năm trời trôi qua, tôi vẫn có thể nhớ dòng chữ ám ảnh cuối cùng: Vùi lấp sinh mệnh nơi đây, Bên dưới đống chất đầy.

      Nhưng chắc chắn, tôi tự nhủ, điều đó hề đúng. Tôi nên đào xới quá khứ để ngỏ, chứ phải lấp đất để bao phủ nó lại. Nhíu mày, tôi nhét hai bàn tay sâu hơn vào túi quần jean và trừng mắt nhìn phiến đá đơn sơ nhắn. Vùi lấp sinh mệnh nơi đây...

      Cơn gió giá buốt thổi bay tóc khỏi trán lúc tôi quay người, cúi gằm đầu trầm ngâm và lê từng bước chân nặng nề về phía nhà thờ. Như lúc trước, cánh cửa bằng gỗ lớn dễ dàng mở ra trước cái chạm của tôi. Đứng giữa gian lạnh lẽo và im lìm bên trong, tôi thêm lần nữa bị kinh ngạc bởi tĩnh mịch tinh tế và hương thơm lãng mạn tự do lan tỏa của nơi này. Giống như tu viện Glastonbury Abbey đổ nát, với cỏ mọc đỉnh những bức tường cao có mái, nhà thờ bé này cho người ta ấn tượng rằng tất cả mọi người bỏ quên nó thời gian rất dài.

      ngớ ngẩn, tôi nghĩ, bởi cứ đến Chủ nhật là các hàng ghế dài đầy ắp tín đồ ở Exbury. Tuy vậy, cái ấn tượng ấy vẫn cứ rơi rớt lại trong tôi. Tôi định ngồi xuống trong những hàng ghế dài sứt sẹo bóng loáng kia lát, tận hưởng bầu khí yên bình, dễ thỏa mãn, nhưng thanh bên ngoài nhà thờ vang lên khiến tôi chú ý. Đầu tiên, nó chỉ là thanh mờ nhạt, qua những bức tường đá dày chỉ như tiếng va đập dứt, va đập của cành cây lên khung cửa sổ, nhưng lượng mỗi lúc gần và trở nên đều đặn hơn, cho đến khi tôi có thể nghe thấy ràng vó ngựa nện nền đất chắc nịch của con đường quanh co phía sau nhà thờ - con đường dẫn về tòa trang viên.

      Tò mò, tôi lại ra ngoài và vòng qua bức tường phía tây nhà thờ, bộ quãng ngắn qua thảm cỏ đến cánh cổng thấp dẫn vào con đường đến tòa trang viên. Mặc dù có thể nghe tiếng con ngựa khá ràng, nhưng nhìn thấy gì trong tầm mắt, tôi bước xuống con đường để có tầm nhìn tốt hơn.

      Cơn váng vất đột ngột tấn công tôi. Tôi hầu như chỉ kịp đưa những ngón tay lên hai thái dương đập rộn, nhắm chặt đôi mắt trước ánh sáng nổ tung chói lòa. Khi nghe thấy tiếng chửi thề hét lên sau lưng, tôi quay lại để thấy cặp móng vuốt đồ sộ cắt lẹm qua khí chỉ cách mặt tôi vài centimet. Kinh hãi, tôi giật lui, đập hông lên tảng đá. Bị mắc kẹt bởi mớ váy lùng nhùng vướng vào chân, tôi chỉ có thể đứng yên đó, nửa ngồi nửa nằm mặt đất, ngước lên nhìn trân trân người đàn ông cưỡi ngựa điêu luyện nghi ngờ vừa cứu sống mình.

      Tôi thể nhìn thấy gương mặt ta - ta đưa lưng về phía mặt trời và tôi chỉ có thể nhìn thoáng qua gương mặt nghiêng của ta khi ta trấn an con ngựa xám nhảy chồm chồm. Nhưng trong lúc thể nhìn thấy biểu cảm của ta, tôi vẫn chắc chắn ta hề mỉm cười.

      “Chết tiệt, cái kia!” ta lại chửi thề, chứng thực ngờ vực của tôi. “ biết nhìn trước ngó sau sao? thích chết đấy à?”

      Trợn tròn mắt im thin thít, tôi lắc đầu, chắc nên trả lời câu nào trong hai câu được hỏi. Đường nét cằm nghiến chặt, như thể chuẩn bị cho tôi bài thuyết giảng, nhưng ta chỉ khó khăn trút hơi điên tiết và nhìn ra chỗ khác trong chốc, cho tôi cơ hội nhìn thấy gương mặt nghiêng quyến rũ tuyệt đẹp và rắn rỏi ấy kỹ càng hơn. Khi quay lại nhìn tôi và , giọng ta trở nên nhã nhặn hơn và gần như ân cần.

      có bị thương ?”

      lần nữa, tôi lắc đầu và cảm nhận được nụ cười của ta.

      thể sao, Mariana Farr?” ta hỏi. “Tôi nghe đồn khoản ăn của các ở Luân Đôn đặc biệt giỏi cơ mà nhỉ.”

      Máu tôi đông hết lại vì lo lắng. “Tôi đến từ Luân Đôn, thưa ngài. Tôi đến từ Southampton.”

      lạ lùng”, ta khẽ . “ đầy tuần trước, tôi đứng uống bia với người đàn ông tự nhận là đánh xe đến từ Luân Đôn. ta bảo chở gì đến đây ngoài hành khách và đó có mái tóc vàng như lúa mạch chín. Sau vài ly, ta có thể huyên thuyên, nhưng cho tôi ấn tượng là kẻ dối.” Thấy tôi lặng im, ta tiếp tục , vẫn cái giọng nhàng và vô tâm ấy. “ cần thôi cái dáng vẻ sợ hãi ấy - tôi kể với ai. Tôi phải nông dân, thưa , để làm dấu thập và lẩm bẩm những lời cầu nguyện khi ai đó thầm về ‘bệnh dịch’ và cũng nhìn bị tống ra khỏi thị trấn vì mấy kẻ đần độn cho rằng mang theo mầm bệnh.”

      Tôi chống chân đứng dậy, phủi bụi đất khỏi chiếc váy với những ngón tay còn hơi run rẩy. “Ngài đẩy tôi vào thế bất lợi, thưa ngài”, tôi với ta, với hết thảy trang nghiêm có thể có, và nheo mắt nhìn ta giữa ánh nắng chói chang. “Ngài biết tên tôi.”

      “À, ừm, khoảng thời gian này chúng tôi rất hiếm có khách quý ở Exbury”, ta giải thích, “và những người thu hút được chú ý của tôi lại càng hiếm hơn”. Ánh nhìn tăm tối của ta thiêu đốt nơi tôi đứng và nét cười trong tiếng của ta thậm chí còn chứng minh ràng hơn. Có lẽ lấy làm thương hại ánh nhìn của tôi, ta thúc con ngựa vòng lại để ánh mặt trời chiếu thẳng vào lưng ta nữa và màu mè nâng chiếc mũ lên khi cúi đầu chào cách giễu cợt.

      “Richard de Mornay, hân hạnh được phục vụ tiểu thư”, ta tự giới thiệu.

      “Thưa ngài.” Tôi cúi đầu đáp lại, phần vì thể hoàn toàn bỏ quên lối cư xử phải phép của mình, phần thể chịu đựng việc nhìn vào gương mặt ta lâu hơn được nữa. Đó là khuôn mặt tuyệt đẹp, góc cạnh và đẹp trai cách ma mị, thêm bộ râu đen cắt tỉa gọn gàng và những lọn tóc đen bồng bềnh tự nhiên, phải trong số những bộ tóc giả chau chuốt tôi quá quen thuộc trong thành phố.

      Bộ trang phục của ta cũng phải loại hợp mốt ẻo lả. ta mặc chiếc áo gi lê và quần ống túm đơn giản màu đen, với chiếc áo khoác dài và bốt da tiệp màu. Chất vải ta mặc là thượng hạng, lớp thêu dày đặc, nhưng hề lòe loẹt, vì thế hết thảy đều trông rất đắt tiền. Tôi thấy bản thân thắc mắc về Richard de Mornay. ta dường như rất khác so với những người nông dân thẳng thắn và nhà buôn tôi gặp từ khi mới đến đây.

      có chắc mình bị thương ?” ta lại hỏi.

      “Tôi chắc chắn. Cảm ơn ngài.” Tôi giữ đầu thấp, chờ ta . Lúc ta vẫn đứng yên, tôi đánh liều nhìn cái và phát ta quan sát mình.

      “Vậy chúc ngày tốt lành, thưa ”, ta chậm rãi , gật đầu thêm cái nữa trước khi đặt lại mũ lên đầu và hướng con ngựa về phía ngôi làng. “Mong trong tương lai cẩn thận hơn khi con đường này.”

      Tôi lại có ấn tượng rằng ta cảnh báo tôi điều gì đó khác chứ phải việc lao ra trước mặt con ngựa thế này, nhưng trước khi tôi có toàn bộ thời gian ghi nhớ lời nhắc nhở trong tâm trí ta mất. Tôi chỉ còn lại mình đứng giữa đường như con ngốc. Nỗ lực tập hợp lại sức lực, tôi rời khỏi con đường và băng qua cánh đồng về nhà, mong ước gặp Richard de Mornay thêm lần nào nữa những con đường làng.

      Ngôi nhà của bác tôi, nhìn từ phía sau qua cánh đồng rì rào, là cảnh tượng ảm đạm và thiếu đón chào. Trong vài ngày ít ỏi tôi ở đây, tôi biết kinh sợ nơi này, giống cảnh tượng gớm ghiếc về tòa tháp Luân Đôn khiến tôi khiếp hãi thời thơ ấu. Cả hai nơi, theo từng cách riêng, đều là những nhà tù.

      Song cảm tưởng của tôi dựa căn cứ logic nào, mà cũng phải vì nỗi sợ bác trai ngày lớn trong tôi. Tôi hề bị ngược đãi, tôi được chấp nhận vô điều kiện vào các hoạt động thường nhật của gia đình và thái độ của bác Jabez với tôi lúc nào cũng nhã nhặn, dù có chút xa cách. Tuy vậy, tôi bắt đầu cảm thấy bồn chồn yên, giống đứa trẻ lang thang trong những hành lang của ngôi nhà xa lạ giữa đêm đen mịt mờ, cho rằng trước mỗi lối rẽ gặp phải con quái vật vô cùng gớm ghiếc nào đó. Quả vậy, khi nhiều ngày qua , tôi bắt đầu dần nhận thức được diện của con quái vật này; tôi hầu như có thể cảm nhận được nó, với vẻ bề ngoài thường ngày, luồn lách hệt như con rắn độc ác trong Vườn Địa Đàng. Và dù vẫn chưa đối diện được với nó, tôi cũng chắc chắn về tồn tại của nó.

      Lê từng bước chân, tôi bước vào ngôi nhà qua cửa sau và thấy Rachel trong nhà bếp, xắn tay áo để nhào bột. ấy ngước lên, mỉm cười vì lớp bột vương vãi đầy người.

      “Chuyến dạo dễ chịu chứ?” ấy hỏi tôi và tôi gật đầu, “Tôi bắt đầu lo cho chị rồi này, chị lâu quá”.

      “Tôi đến nghĩa trang nhà thờ, thăm mộ của ông ngoại tôi”, tôi giải thích, giọng lơ đãng. “Rachel à, biết gì về người đàn ông tên Richard de Mornay ?”

      ấy ngẩng phắt lên, do dự, đôi mắt lướt qua tôi, rồi đột ngột nới rộng e dè. Tôi nghe thấy bác mình vào phòng, nhưng có thể cảm nhận được ông đứng sau lưng trước khi ông cất giọng.

      “Richard de Mornay”, ông lặp lại, giọng kéo dài từng chữ khó nghe. “Làm sao chị biết ta?”

      “Chúng cháu chạm mặt nhau đường hôm nay”, tôi thành thực trả lời, “và ta chuyện với cháu”.

      ta... chuyện với chị. Thế thôi?”

      “Vâng.”

      “Và rồi chị hỏi thăm về ta.”

      thẩm vấn cào ác liệt lên những dây thần kinh của tôi, nhưng tôi dùng sức kiềm lại cơn giận và giữ giọng bình thản hết mức có thể. “Cháu hỏi thăm về ta vì hiếu kỳ”, tôi , vênh cằm lên chút. “Quần áo ta đặc biệt sang trọng và ta cũng cưỡi con ngựa đáng .” Tôi nuốt nước bọt, nhìn thẳng vào mắt bác. “Cháu hiếu kỳ thôi”, tôi nhắc lại.

      Jabez Howard giữ chặt ánh mắt tôi lúc lâu trước khi hạ mắt xuống và mỉm cười, buông tha cho tôi.

      “Richard de Mornay”, ông với chất giọng bình thường, “là lãnh chúa trẻ tuổi của lâu đài Crofton. ta là con gia đình quý tộc và được giữ chức hiệu Nam tước từ cha của ta, người qua đời năm năm trước. ta được kính trọng, nhưng”, ông lại giữ ánh mắt của tôi, “ ta phải quý ông. Có con quỷ ngụ trong người Richard de Mornay. Chị được chuyện với ta nữa”. Ông quay người và vào phòng ăn, bỏ tôi đứng cạnh lò sưởi trong cơn ớn lạnh đột nhiên xâm chiếm. Tiếng ồn ã lạ lùng xé rách gian im ắng ngột ngạt, tiếng chuông đinh tai mỗi lúc rền vang, theo sau tiếng vó ngựa phi nước đại đứt đoạn giật cục. Căn phòng rung chuyển, mờ ảo như đường chân trời vào chiều hè nóng nực, những bức tường cùng đồ nội thất tự mình co rút lại trước khi quy tụ, cách ràng và thống nhất.

      Tôi đứng trong phòng chứa đồ ăn ở ngôi nhà của chính mình, đối diện với cửa phòng bếp, lắng nghe tiếng chuông điện thoại reo ngừng trong sảnh phía trước. Tôi mặc kệ nó tiếp tục reo, đờ đẫn nhìn vào khung cửa mở, cho đến khi thanh cuối cùng câm bặt. Thực tại giọt từng chút vào dòng chảy suy nghĩ rời rạc, cứ như kéo dài đến muôn đời trước khi tôi có thể triệu hồi quyết tâm di chuyển khỏi chỗ đứng tại cạnh vách phòng chứa thức ăn để ra sảnh ngoài rộng rãi và thoáng đãng, nơi tôi đứng nhìn xuống chiếc điện thoại đen bóng như thể nó đến từ hành tinh khác.

      Khi tôi đứng đây, nhìn chằm chằm xuống chiếc điện thoại, với bàn tay ngập ngừng vươn ra, nó lại bắt đầu đổ chuông.

                  CHƯƠNG 12


      Ngày tiếp theo mặt trời ló dạng ấm áp và tuyệt đẹp, kèm theo là cái oi bức đầu tiên báo hiệu mùa hè sắp đến. Đầu chiều hôm ấy, những đám mây từng rất rệt vào ban sáng giờ thu hẹp lại thành những đám khói trắng trong mờ, hầu như thể nhìn bầu trời xanh rực rỡ, mặt trời treo cao như viên đá quý màu vàng cực đại nơi chính giữa.

      Giữa hai hàng hoa rộng chạy dọc lối trước lâu đài Crofton, những con ong chuyên tâm hút mật, mảy may quan tâm đến diện đầy tính xâm phạm và ầm ĩ của những khách du lịch chen lấn, vui vẻ tán gẫu đợi chuyến tham quan bắt đầu lúc giờ mười lăm phút.

      Bên cạnh tôi, bãi cỏ, Geoff ngừng bước và cúi xuống buộc lại dây giày, ném ánh nhìn đánh giá về phía đám đông râm ran.

      “Thứ Bảy luôn là ngày làm việc thành công nhất của chúng tôi”, . “Tốt hơn hết chúng ta nên đợi họ xuất phát khoảng mười lăm phút rồi hẵng , có vậy những người tụt lại đoàn tham quan mới nhập vào với hai chúng ta.” đứng dậy và mỉm cười. “ có muốn tản bộ quanh vườn hồng ?”

      tuần trôi qua vẫn làm giảm bớt lực sát thương của nụ cười đó. Vài đôi mắt tò mò nhìn theo khi chúng tôi băng qua bãi cỏ trước mặt, nhưng đó là tò mò vu vơ, tôi nghi ngờ bất cứ ai trong các vị khách tham quan có thể nhận ra người đàn ông trẻ tuổi đẹp trai mặc tùy tiện bộ đồ jean cùng áo Polo đỏ tươi thực tế chính là ông chủ của lâu đài Crofton.

      Nhưng họ cũng có thể tự hỏi tôi là đứa quái quỷ nào. Geoff nghe có vẻ quá trang trọng điện thoại ngày hôm qua nên tự tôi vô tình cũng cho rằng chuyến tham quan này có vẻ cầu kỳ. Tôi chọn từ tủ quần áo của mình chiếc váy có hình những cánh hoa sang trọng, chiếc áo lụa màu kem và đôi giày Ý đắt đỏ đến lố lăng với phần gót ngu ngốc cắm phập lên lớp cỏ mềm với từng bước chân. Để giữ mình khỏi bị lún xuống, tôi phải cà giật để dồn hết trọng lượng lên mũi chân. Tôi thầm cảm ơn Geoffey de Mornay, người rất hào hiệp tha thứ cho sai lầm của tôi, chậm lại cho tôi theo kịp.

      Tôi phát ra vườn hồng chiếm vị trí đáng kể bãi cỏ gần bức tường phía bắc ngăn cách nghĩa địa nhà thờ khỏi đất đai của trang viên. Vươn sừng sững bầu trời, tòa tháp vuông của nhà thờ nhìn xuống chúng tôi qua bức tường đá cao khi chúng tôi bộ dọc theo những con đường mòn tĩnh lặng. Khu vườn toát lên hơi thở của thời kỳ Phục Hưng - rất gọn gàng, rất chính xác, rất ngăn nắp; nhưng những hình thù dạng khối trong vườn cùng đường viền gọn gàng bao quanh cũng thể che dấu những dây leo quấn quýt cách thú vị bên trong.

      “Đương nhiên rồi”, Geoff thừa nhận, “mùa hè đến còn ấn tượng hơn nhiều, khi mọi thứ đều ra hoa...”.

      đáng ”, tôi cam đoan. “Tôi nghĩ từng thấy khu vườn có thiết kế phức tạp thế này trước đây.”

      “Phải, chúng tôi khoảng thời gian khủng khiếp chỉ để khôi phục nó cho đến khi Iain hình dung thiết kế của nơi này mô phỏng trần nhà trong phòng ăn.” Geoff mỉm cười. “Người ta bảo rằng có mê cung nằm quanh mạn phía tây của ngôi nhà, nơi được làm theo thiết kế này - những hàng rào thủy tùng đồ sộ, khá ấn tượng - nhưng trong số các người chủ từ thời Victoria chặt bỏ tất cả. Để xây đài phun nước xấu xí lên khu đất ấy. Theo phong cách Ý. Tượng bạt ngàn.”

      bất hạnh.” Tôi vẫn còn giữ niềm thích vô hạn từ thời thơ bé với các mê cung. Tôi vẫn còn nhớ mình lạc trong mê cung ở cung điện Hampton vào trong những kỳ nghỉ đáng nhớ của gia đình. Cha tôi để chúng tôi chạy vòng quanh các đường tròn mỗi lúc phức tạp cho đến khi Tommy cảm thấy đói và muốn bỏ lỡ bữa tối của ấy, nên chịu trách nhiệm dẫn chúng tôi trở lại lối vào cách chính xác...

      “Chuyện gì mà vui thế?” Geoff tò mò, nên tôi chia sẻ kỷ niệm ấy với .

      cũng cười duyên dáng - giọng nam trầm vang vang - và tôi thích cái cách đuôi mắt nhăn lại khi cười.

      chỉ có trai thôi à?” hỏi.

      Tôi gật đầu. “Nhà chỉ có hai em tôi. Thẳng thắn mà , tôi nghĩ cha mẹ tôi có thể chống đỡ nếu có thêm đứa trẻ nào nữa. Chăm hai em tôi đủ vất vả lắm rồi.”

      ư?” thích thú nhìn xuống. “ trông giống đứa trẻ khó chăm.”

      “Đừng tin vào vẻ bề ngoài”, tôi cam đoan. “Nếu ở trong văn phòng hiệu trưởng, tôi cũng bị khâu trong phòng cấp cứu bệnh viện. Thấy ?”

      Tôi ngẩng cằm lên và cho nhìn vết sẹo của mình. “Cái này là từ lần ngã khỏi mái nhà khi đóng vai Mary Poppins [1] . Và cái này”, tôi kéo tay áo để lộ cánh tay trái, “là do ngã vào hàng rào kẽm gai lúc chơi bóng. Vết thương của trai tôi thậm chí còn tệ hơn nhiều”.

      [1] bảo mẫu kỳ diệu và nhiều phép màu trong loạt truyện viết cho trẻ em của nhà văn người Úc gốc Pamela Lyndon Travers (09/08/1899 - 23/04/1996).

      “Và giờ họa sĩ được nhiều người kính trọng”, Geoff nhận xét, “còn trai mục sư”.

      “Phải.” Tôi cười nhăn nhở. “Tôi nghĩ cha mẹ mình vẫn còn sốc lắm.”

      “Mọi chuyện vẫn ổn với gia đình chứ? Iain được gọi đến Hampshire vì tình huống khẩn cấp nào đó.”

      “Cuối cùng lại chẳng có gì xảy ra”, tôi nhanh - có hơi quá nhanh chút. buồn cười khi những lời dối nho lại khiến con người ta cảm giác tội lỗi tồi tệ như thế này. “Mọi người đều ổn, cảm ơn .”

      “Thế tốt.”

      Chúng tôi thêm vài bước nữa trong im lặng rồi tôi húng hắng ho và thử hướng chuyện mới. “Chuyến du hành lên phía bắc của có thú vị ?” Tôi hỏi.

      nhìn xuống chân và mỉm cười. “Tôi chắc ‘thú vị’ có phải cụm từ thích hợp với nó ”, , “tôi phải dàn xếp tranh chấp lao động trong nhà máy ở Manchester, nên phải bỏ ra vài ngày khóa mình trong phòng họp cũ kỹ với những con người điên tiết và uống đến cả lít cà phê. Nhưng cuối cùng cũng ổn thỏa”.

      mới quay lại hôm qua à?”

      gật đầu. “Chiều hôm qua. Thực tôi sượt qua .”

      Tôi ngạc nhiên ngẩng đầu. “Gì cơ?”

      “Hôm qua đến đây ư? à? Bản thân tôi tự mãn lắm nếu đến.” mỉm cười, đôi mắt ấm áp. “ bộ trở về nhà, băng qua cánh đồng, khi tôi lái xe vượt lên. Tôi gọi , nhưng hẳn ở quá xa nên thể nghe thấy tiếng tôi. Nên tôi gọi điện, thay vào đó.”

      “Hôm qua tôi đến nhà thờ”, tôi giải thích, cố gắng để nhìn thấy những lời khiến tôi run rẩy như thế nào. Tôi thừa biết đó là do “những hồi tưởng” của tôi - nếu dùng từ mỹ miều hơn - chiếm đóng gian và thời gian thực; lúc đó, khi là Mariana Farr, lúc băng qua căn phòng hay lúc mở cửa sổ, tôi cũng lặp lại hành động tương tự trong thực tại. Nhưng tôi chưa bao giờ hoàn toàn hấp thu những ngụ ý từ tượng này.

      Liệu người ta nghĩ gì, tôi thắc mắc, nếu ngày nào đó tôi qua họ đường Thượng, với đôi mắt ngây dại và đờ đẫn nhìn chằm chằm phía trước? Nếu như tôi băng qua đường mà nhìn xe cộ, hoặc đâm thẳng vào hàng rào chưa hề xây dựng vào năm 1665? Khả năng khiến bản thân gây tai họa hoặc xấu hổ là vô cùng lớn. Giá như tôi có thể tìm ra cách nào đó để kiểm soát cả quá trình; giá như tôi có thể chọn thời gian và địa điểm...

      “Giờ an toàn rồi đấy.”

      Ngước lên nhìn Geoff, tôi giật nảy, nhưng nhìn lối trống trải phía trước lâu đài Crofton. “Đoàn khách giờ hẳn ghé qua sảnh của người làm, ngay phía trước chúng ta. sẵng sàng để quay lại chưa?”

      Tôi gật đầu, lưu tâm đến đôi giày cao gót phiền phức của mình và lúng túng theo chân khi đưa cả hai lần ngược trở lại qua bãi cỏ rộng.

      “Tôi nên bắt đầu chuyến tham quan này cách tử tế”, Geoff , “bằng việc thuật lại rằng giờ tiến gần đến mặt phía đông của lâu đài Crofton, được xây dựng vào năm 1598 bởi William de Mornay cha”. khoát rộng cánh tay ý chỉ cả tòa nhà lừng lững có đầu hồi dốc với nhiều hàng cửa sổ lắp chấn song đập vào mắt, lớp thạch cao cũ kỹ của bức tường xám và bàng bạc bởi địa y cùng hàng thế kỷ phơi trần trước khí hậu nước .

      “Mạn tôi ở cũ kỹ hơn nhiều”, Geoff giãi bày, “và cũng mang nhiều tính lịch sử hơn, nhưng được ấn tượng như nơi này. Đương nhiên đây là quang cảnh được in tất cả những tấm bưu thiếp của chúng tôi”.

      Có vài tấm bưu thiếp nằm rải rác chiếc bàn cạnh cửa, cám dỗ những du khách phải chờ đợi, cùng với chồng những cuốn chỉ dẫn lưu niệm được trông coi bởi có gương mặt tươi tắn và mái tóc màu ngũ cốc cùng nụ cười vô cùng chân .

      “Công việc thế nào rồi?” Geoff hỏi.

      “Nhóm cuối có mười bảy người.” tự hào cười rạng rỡ. “Đến giờ chúng ta có hơn năm mươi khách đến tham quan ngày hôm nay. Cathy thậm chí còn chưa có thời gian để nghỉ ngơi, nhưng chị ấy bảo để em dẫn đoàn khách tiếp theo.”

      “Tốt. Cathy là hướng dẫn viên chính của chúng tôi”, giải thích cho tôi hiểu. “Sally đến vào các ngày nghỉ để giúp tay khi lượng khách gia tăng. Sally, đây là Julia Beckett.”

      “Là cái chị vừa mới chuyển vào Đàn Cừu Xám sao ạ? Là chị họa sĩ ấy ạ?” Đôi mắt tròn xoe kính nể, tôi là kẻ dối trá nếu bảo rằng cái tôi của mình phồng to chút trước phản ứng ấy. “Đây là vinh hạnh rất lớn với em, thưa chị”, Sally vừa vừa bắt tay tôi với nhiệt tình của tuổi trẻ.

      đưa chị Beckett tham quan vòng lâu đài”, Geoff tiếp tục, “nên để mắt cho bọn nhé? Bọn cách đủ xa để tránh chen ngang vào đoàn khách kế tiếp của em, nhưng cũng cố đừng có bao vây bọn đấy nhé, nếu em phiền”.

      “Vâng, thưa de Mornay.”

      bé rất ngoan”, Geoff bảo khi chúng tôi băng qua cổng vòm to bằng đá và bước vào cánh cửa trước để mở. “Mẹ bé là dược sĩ vùng này, người đàn bà rất ghê gớm.” nhe răng cười. “Bà ta cứ quả quyết rằng tôi cưới trong số các con của bà ấy, nên tôi nghĩ ít ra mình có thể thuê trong số họ.”

      cao thượng.”

      “Ừm, tất cả chỉ là phần của ‘ông chủ tòa lâu đài’ thôi. Tôi còn trẻ, giàu có và độc thân. Điều đó biến tôi thành mục tiêu ở nơi thế này.”

      Tôi liếc nhìn , hàng lông mày nhướn cao. khiêm tốn hoặc là kẻ ngốc nghếch đến khó tin. đơn thuần chỉ trẻ trung và giàu có - thẳng ra quá hoàn mỹ, thế lại là triệu phú nữa. Chẳng trách các bà mẹ ở Exbury lại bày mưu tính kế hộ các con của mình.

      Chúng tôi xuất nơi lối vào căn phòng, ngay tức khắc khiến tôi chết lặng.

      Các bức tường phủ rèm nhung đắt tiền được vén lên giao với trần nhà đắp thạch cao công phu, ít nhất phải cao hơn sáu mét bên sàn gỗ sồi bóng loáng phủ những tấm thảm Ba Tư vô giá. Đây là căn phòng được thiết kế ấn tượng và nó đạt được mục tiêu gây ấn tượng tương đối dễ dàng; nhưng thứ siết lấy tôi chính là chiếc lò sưởi.

      Tôi chưa bao giờ trông thấy chiếc lò sưởi thế này trước đây, kể cả phim ảnh. Nó đủ to để hai người đàn ông có thể đứng bên trong với hai cánh tay giang rộng và đầy phong cách với mặt đá trắng tráng lệ. Dày đặc các hình thù chạm khắc lạ kỳ quấn lấy nhau mỗi bên và dọc theo mặt lò nặng nề, phía bên mặt lò sưởi, càng khiến nó thêm hoàn thiện, là tấm gia huy được khắc và sơn màu tuyệt đẹp.

      “Đại sảnh”, Geoff sau lưng tôi. “Rất được, phải ? Tôi khẳng định những tấm rèm nhung cắt may tường có xuất xứ từ Genoa [2] . Có nhân viên đến đây bảo quản và vá nó giúp chúng tôi - đúng là kỳ diệu khi toàn bộ cái này rụng lả tả qua hàng thế kỷ.”

      [2] thành phố cảng ở tây bắc nước Ý.

      Tôi vô tình nâng bàn tay lên, rồi lại thả nó xuống. Tôi biết tốt hơn là nên chạm vào nó. trong những hàng xóm của tôi ở Luân Đôn làm hướng dẫn viên ở Bảo tàng thường xuyên than khóc về những hư hại thể cứu vãn do những bàn tay ngu dốt và ánh đèn máy ảnh. Siết chặt tay sau lưng, tôi thán phục nhìn quanh và im lặng thưởng thức.

      “Lò sưởi đương nhiên là vật độc nhất vô nhị”, Geoff tiếp tục thích thú. “Đá trắng được vận chuyển đến từ vùng Compton, chỉ cách đây vài dặm, và việc điêu khắc được thực bởi thợ nề trong vùng.”

      “Đó là gia huy của dòng họ nhà phía , phải ?” Tôi hỏi.

      “Phải. Đại khái thuộc về gia đình tôi. Gia huy được phong cho William de Mornay con, vào thế kỷ XVII. Là người nối dõi trực hệ, tôi có quyền sử dụng chúng nếu muốn như gắn nó lên văn phòng phẩm của tôi chẳng hạn. Nhưng lúc nào nó cũng có chút trưởng giả với tôi. Bên cạnh đó, cần phải nghĩ đến vấn đề sai khác nữa.” Khi thấy ánh mắt ngây ra của tôi, giải thích: “Arthur de Mornay - tổ tiên của tôi, vì được thừa kế nên được cho là cháu trai của William, nhưng vì có các ghi chép chính xác nên chúng tôi tài nào biết được cha của Arthur là con thứ nhất, thứ hai hay thậm chí thứ ba hoặc thứ tư. Tất cả bọn họ đều phải dùng các ký hiệu khác nhau gia huy của gia đình - hoa hồng, thánh giá, trăng lưỡi liềm, đại loại thế - phụ thuộc vào thứ bậc trong gia đình của họ. Người ta gọi đấy là dấu hiệu của các chi và các thứ. Chỉ có người đứng đầu gia đình mới được quyền sử dụng toàn bộ gia huy”.

      “Tôi biết điều đó”, tôi thú nhận, tiến lại gần để quan sát kỹ hơn. “Tôi hơi mù mờ về ý nghĩa của các biểu tượng gia huy. giáo ở trường dạy vẽ của tôi từng làm việc cho Viện lưu trữ Gia huy, nên tôi có học được chút về thiết kế và thuật ngữ...”

      “Vậy để xem biết gì nào”, Geoff , bước lại gần sau lưng tôi. “ thử cho tôi về chiếc khiên ?” Đó là thách thức trực diện, tôi chưa bao giờ có khả năng kháng cự thách thức trực diện. Tôi siết hai tay lại chặt hơn và trầm ngâm nhìn phần điêu khắc sơn màu. Tôi biết chiếc khiên chỉ là phần của gia huy, hai thứ này hề tương đồng về ngữ nghĩa.

      “Hừm”, tôi bắt đầu, “nó có đường cắt ở giữa, còn được gọi là phân chia gì đó đúng ?”.

      “Phân ngang.” gật đầu.

      “Và màu ở nửa bên dưới là vàng, nhưng tôi nhận ra màu bên .”

      “Huyết dụ”, Geoff gợi ý. “Đỏ máu, phổ biến lắm.”

      “Biểu tượng của phần dưới là hoa hồng đỏ, gai và hạt giống”, tôi bảo, ngước lên nhìn bông hồng đỏ tươi với những chiếc gai màu xanh và hạt giống màu vàng ở chính giữa, sáng bừng lên nền vàng bao quanh. “Thế nào?”

      “Tuyệt vời”, thừa nhận. “Thế còn nửa ?”

      Tôi nhíu mày, nghiên cứu hai con diều hâu vàng lấp lánh mang mũ trùm màu nền đỏ sẫm, mũ trùm của chúng có màu sáng bạc, đôi cánh cùng những chiếc móng vuốt dang rộng. “ vừa là huyết dụ đúng ? Hai con chim diều hâu huyết dụ, hay thứ muốn nhấn mạnh ở đây là... mũ trùm màu bạc?”

      Tôi mấy chắc chắn về điều này, nhưng nụ cười tán thành của cho tôi tin tưởng.

      “Tôi bị ấn tượng đấy”, khẽ . “Biểu tượng hoa hồng thể lòng nước và trung thành với hoàng gia, những con diều hâu tượng trưng cho đức tin và ngoan cố mù quáng của chúng tôi. Mũ trùm và móng vuốt. Cố thêm chút nữa ”, thuyết phục. “Chiếc mũ giáp đỉnh chiếc khiên cho biết điều gì?”

      Cái đó tôi biết.

      “Người chủ của phù hiệu này là hiệp sĩ hoặc Nam tước”, tôi khẳng định.

      “Làm sao biết điều đó?”

      “Bởi chiếc mũ hướng ra trước và chiếc mạng che được kéo lên, mà có chấn song nào bên .”

      “Và chiếc mũ giáp làm bằng thép”, thêm vào, “chứ phải vàng hay bạc. Xong. Còn phần chóp?”.

      “Ý là phần chiếc mũ giáp phải ? Đầu con diều hâu nằm vòng hoa.”

      Con diều hâu cũng chụp mũ giáp và trông rất dữ tợn.

      “Giờ ”, Geoff khoanh tay trước ngực, “ cho tôi biết khung cuộn bao quanh chiếc khiên gọi là gì và tôi hứa rạp mình kinh ngạc”.

      “Xin lỗi nhé.” Tôi ngoác miệng cười. “Tôi nhớ nó gọi là gì, nhưng tôi biết nó biểu trưng cho chiếc áo choàng tay các kỵ sĩ thường mặt để chắn bộ giáp của họ trước ánh nắng mặt trời.”

      “Nó gọi là diềm”, bảo tôi với nụ cười chiến thắng. “Ít nhất cũng có điều tôi biết biết. Tôi sợ mình hơi mù mờ về ý nghĩa của các biểu tượng gia huy”, nhại giọng tôi, nụ cười rộng. “ định đổi hướng sang nghề hướng dẫn viên đấy à?”

      Tôi đỏ mặt chút và lắc đầu. “. Tôi chỉ giỏi ghi nhớ những điều vụn vặt thôi. Những gì tôi thấy, những gì tôi đọc, tôi đều nhớ.”

      “Tôi định làm xấu hổ.” nhăn mày. “Tôi chỉ đùa thôi mà. nên ngượng ngùng vì thông minh của mình như vậy.”

      “Tôi có, đấy, tôi...”

      “Tôi thích những phụ nữ thông minh”, vừa vừa thân thiện nháy mắt với tôi. “Thông minh là quyến rũ lắm đấy nhé.”

      Má tôi đỏ hơn và tôi đành tập trung lên tấm gia huy đầu. “Khẩu hiệu kia nghĩa là gì?” Tôi hỏi.

      cũng hơi mù mờ về tiếng Latin nhỉ?” di chuyển lại gần hơn cho đến khi tôi có cảm giác hơi ấm của lan qua làn vải áo mỏng của mình. Giọng trầm, rung rung êm ái bên tai tôi.

      “Everti nan polest.” nghiêm trang đọc to dòng chữ cách chậm rãi và thành kính. “Nó có nghĩa là thể phá hủy.”

      Cụm từ lơ lửng trong khí giữa chúng tôi vài giây trước khi những thanh rì rầm thích thú tiến lại gần đánh bật chúng tôi khỏi thưởng ngoạn. Chúng tôi nấn ná quá lâu trong đại sảnh và chuyến tham quan của đoàn khách tiếp theo chuẩn bị bắt đầu.

      “Chết tiệt”, Geoff khẽ chửi thề, nhìn quanh để tìm đường trốn thoát. “Lại đây”, và tóm lấy tay tôi để lôi tôi qua khung cửa bên trái chiếc lò sưởi vào hành lang hẹp phía bên kia cánh cửa.

    2. CQH

      CQH ^^!

      Bài viết:
      192
      Được thích:
      41,961

      CHƯƠNG 13


      “Và đây là hành lang phía tây”, Geoff khi đóng cánh cửa lại sau lưng, dựa lưng vào nó và cười nhăn nhở như sói. “Tôi thể đợi được chỉ cho xem.”

      “Dễ thương đấy”, tôi vừa vừa cười. “Có phải tất cả các lần dạo chơi của đều thế này ?”

      “Thường là vậy”, thừa nhận. “Tôi thích đám đông. nên cảm thấy may mắn vì vài năm trước lúc tôi đưa Vivien xem số phòng còn lại, chúng tôi phải trốn trong tủ búp phê hai mươi phút liền.”

      Vivien may mắn, tôi suýt thốt lên câu đó nhưng ngăn bản thân kịp thời. Thay vào đó, tôi lấy giọng hài hước hỏi , “Chẳng phải vẫn có cái tên chuyên chỉ chuyện đó sao? Bệnh lý sợ đám đông?”.

      gật đầu. “Sống khép kín.” ra hiệu về phía cánh cửa đối diện. “Sảnh dành cho người làm ngay bên kia, nhưng đấy là chỗ dừng chân tiếp theo của đoàn khách, tôi nghĩ chúng ta nên bỏ qua mà thẳng đến khu bếp, nếu phiền.”

      Tôi theo xuôi theo hành lang dài có sàn lát đá thoai thoải. “ có thấy phiền ”, tôi hỏi, “khi tất cả những người đó lang thang quanh nhà ?”.

      “Thực ra cũng phiền.” nhún vai, giọng nhã nhặn. “Như , tôi giữ phần tốt nhất của ngôi nhà cho bản thân và khu vực đó mới là nhà tôi - với những căn phòng gắn liền với tuổi thơ của tôi. Toàn bộ chỗ này chỉ... hơi cần thiết, tôi nghĩ thế. Quá rộng cho gia đình sống ở đây, chứ đừng chỉ cho người. Phần lớn nhiều căn phòng chắc chắn chẳng bao giờ nhìn thấy ánh sáng mặt trời nếu có khách du lịch tham quan. Hơn nữa, tất cả có hơi nhiều quá, có nghĩ thế ? Ý tôi là, nếu giữa đêm tôi mà đói, có thể tưởng tượng nổi tôi nấu qua loa được món gì đó trong cái nơi này ?”

      dừng chân và ra dấu về nhà bếp trang hoàng cân xứng, tất cả đều bằng gạch và đồ đỏ bóng loáng, với cái bếp lò khổng lồ. Cái bếp lò có niên đại cả thế kỷ nằm trong góc trông như có thể nướng hai mươi con gà tây mà vẫn còn thừa gian.

      “Tôi hiểu ý ”, tôi , nhướn cả đôi lông mày.

      Chúng tôi thảnh thơi qua khu bếp, phòng ủ bia, phòng làm bơ, phòng trữ bia, phòng để thức ăn và cuối cùng là buồng để bát đĩa, xây quanh cái giếng đào trong nhà khác lạ. Qua cánh cửa nặng trịch, buồng rửa bát thông ra khoảng sân hình vuông nhìn lên bầu trời và ba mặt được bao quanh bởi chính các bức tường của ngôi nhà. Mặt thứ tư được ngăn lại bởi bức tường đá cao phủ kín những dây thường xuân và cắm những chấn song nhọn đầu bằng sắt bên .

      Khá giống khu vườn bí mật giữa nhà, tôi nghĩ. Ngoại trừ nơi đây thực vật mọc tràn lan. Ở vài chỗ, người ta chẳng thấy mặt đất đâu cả, những bụi cỏ lẫn hoa dại chằng chịt nuốt chửng lối lát đá rẽ xiên góc qua cái sân . Tôi ngạc nhiên khi Iain làm gì với nơi này và điều ấy ra.

      “Ý là biến nó thành kiểu khu vườn bí mật sao? Phải, tôi cũng có lần từng gợi ý cho cậu ấy, nhưng cậu ấy thiết tha ý tưởng ấy lắm. Cậu ấy thích sân trong”, Geoff . “Bảo nó cứ như nấm mồ.”

      Quả là thế. khí bên trong những bức tường tĩnh mịch và sức sống, im lặng ở đây như có thể chạm tay vào được. Dù mặt trời rực rỡ chiếu sáng xuống chúng tôi, bên dưới chân tôi, thảm cỏ như thở dài vì buồn thương và bị bỏ mặc.

      “Nhưng nếu những khu vườn là nơi hướng đến, ngắm chúng thôi nào”, Geoff đề nghị. dẫn tôi trở lại con đường đến phần chính của ngôi nhà, lần nữa kéo tôi qua hành lang phía tây. Đối diện mạn nhà bếp là những nhịp cầu thang ngắn dẫn vào nhà kính, căn phòng tuyệt vời theo đúng phong cách thời Victoria, lấp đầy với kính và ánh sáng cùng vật dụng đan từ liễu gai được sơn màu, hương huệ tây lan tỏa khắp nơi.

      Lần thứ hai, thanh của những bước chân tiến lại gần khiến chúng tôi nháo nhào trốn. Geoff xua tôi chạy qua hành lang khác lên chiếc cầu thang tối đen, thấm đẫm mùi lạnh lẽo và ẩm ướt phả ra từ đá. được nửa đường kéo tôi lại, chỉ vào điểm gần chân chúng tôi.

      “Thấy ? Phần đá khắc bên dưới lớp ván ốp ấy? Nó là từ thế kỷ XVII. Có niên đại vào thời của tu viện Benedict. Ngoài vài hồn ma cùng số mái vòm Gothic tường phía tây, đấy là tất cả những gì các tu sĩ để lại cho chúng tôi.”

      Tôi cúi thấp người xuống để nhìn hơn, vạch những ngón tay theo phần khắc đá. “Họ có để lại cho nhiều hồn ma ?”

      “Ồ, hay hai gì đó thôi. Tôi nghĩ họ là những hồn ma đáng kính duy nhất ở đây. Đám hồn ma ở lâu đài Crofton mất trật tự lắm.”

      “Vậy là tin chúng có tồn tại.”

      “Tôi thừa nhận khả năng ấy”, gọn. “Sau cùng, khi có cả tá người hoặc nhiều hơn, họ quen biết lẫn nhau cũng thân thuộc với ngôi nhà, tự nhận nhìn thấy cùng thứ, phải thừa nhận có gì đó ở đây. Tất cả bọn họ thể đều điên được.”

      “Và có hồn ma nào tầng ?” Tôi hỏi, liếc nhìn lên tầng với vẻ tò mò hiển nhiên.

      Geoff bật cười. “Mười ba”, báo cho tôi biết. “Đấy là tầng của các phòng ngủ, thấy đấy, các hồn ma có vẻ thích các phòng ngủ. Ma nhà tôi cũng thế. Có hồn ma đặc biệt - thực cũng hẳn là ma, giống cảm xúc hơn - khiến rất nhiều người… nhưng tôi để tự mình khám phá.”

      “Ồ, cảm ơn nhiều lắm”, tôi lạnh nhạt . “Đó phải hồn ma hay dùng rìu giết người đấy chứ?”

      , phải thế đâu.” mỉm cười lắc đầu. “Hơi khó để giải thích, nhất là khi tôi chưa từng cảm nhận được nó. Đây rồi.” dừng lại ở bậc cùng để đẩy cánh cửa làm từ gỗ sồi. “Tôi sau .”

      Những phòng ngủ gác rất đáng , được trang bị đồ đạc lộng lẫy và kỹ lưỡng đến từng chi tiết. Khăn trải giường và những tấm màn thêu nặng nề biến chiếc giường bốn cọc đồ sộ trông càng bề thế và sang trọng, giống như bên trong những mô hình nhà vậy, trần nhà cao hơn bốn mét rưỡi càng khiến tôi trở nên bé và tầm thường.

      Tôi đặc biệt thích phòng ngủ khổng lồ của vua Charles, theo ghi chép là nơi vị vua bạc mệnh nghỉ lại vài đêm trong lúc tập hợp đội kỵ binh của mình chống lại Cromwell. Căn phòng ngủ nằm ngay bên đại sảnh cũng mang kích cỡ đồ sộ như vậy, với những đường trang trí uốn lượn tuyệt đẹp mang lại cho căn phòng vẻ trang nhã gần như vô giá.

      “Và đây là phòng Kỵ sĩ”, Geoff tiếp tục, dẫn tôi qua khung cửa cuối cùng. “Trước đây nó được gọi là phòng ngủ đỏ thẫm, nhưng cái tên Kỵ sĩ nghe lãng mạn hơn nhiều nếu in trong cuốn sách hướng dẫn du lịch và có lẽ cũng phù hợp với phòng vua Charles bên cạnh.”

      Tôi thấy cái tên nguyên bản nghe hợp lý hơn, khi để ánh mắt lướt khắp những bức tường phủ vải đỏ bạc màu và sắc đỏ đậm của những tấm trướng chiếc gường thời James I. Rồi tôi cảm thấy lạnh.

      Geoff tiếp tục bài tường thuật của mình, nhưng tôi còn lắng nghe nữa. Loại sức mạnh nào đó, cường thế và sao cắt nghĩa, kéo tôi về phía chiếc cửa sổ duy nhất của căn phòng, ô cửa có khung và những chấn song lớn nhìn khắp bãi cỏ rộng phía trước và bức tường bao quanh nghĩa trang nhà thờ.

      ngừng , quan sát tôi, rồi tôi nghĩ mình nghe được câu thốt lên, “Vậy là cũng cảm nhận được nó”, hay tương tự thế, cơ thể đột nhiên bị những cơn thủy triều cảm xúc mạnh mẽ nhấn chìm khiến tôi còn sức lực kiềm chế. Đầu tiên là khát khao, sâu sắc và thê lương xé toạc tâm hồn tôi, rồi là loại khẩn cầu điên rồ, tràng kinh cầu nguyện đến tuyệt vọng lặp lặp lại trong tâm trí như lên cơn sốt của tôi, cuối cùng là nỗi đau khổ đâm sâu như con dao vặn xoắn. Tôi sụm người xuống gờ cửa sổ, những giọt nước mắt đột ngột tuôn trào.

      ổn chứ?” Geoff dùng đôi bàn tay ấm áp, mạnh mẽ siết lấy vai tôi, giọng lo lắng.

      Tôi chớp mắt, thu lại những giọt nước mắt và cho thấy nụ cười cam đoan chỉ hơi run run chút. “Tôi ổn”, tôi . “Vậy ra đấy là hồn ma?”

      “Phải. Coi này, tôi thực xin lỗi.” nghiêm túc nhìn xuống. “Tôi nên cho vài cảnh báo - với chuyện gì sắp xảy đến - thay vì tỏ ra giấu giếm như thế.”

      “Có hại gì đâu.” Tôi bước khỏi cửa sổ, lơ đãng vuốt lại những nếp gấp váy. “Như , nó chỉ là cảm xúc... hơn.”

      “Loại cảm xúc đau buồn khôn tả, phải ?”

      “Phải.” Tôi nén lại cơn rùng mình trước ký ức ấy. “ có biết nguyên nhân ?”

      Geoff lắc mái đầu đen, nhíu mày. “. Tôi nghĩ đó là nỗi đau khổ của người phụ nữ. Dường như chỉ có phụ nữ mới có thể cảm nhận được nó, luôn luôn tại cùng điểm - ngay trước khung cửa sổ. Nhưng tôi chưa bao giờ có thể nắm được nguyên nhân. Lịch sử gia đình ghi lại điều gì về nó. Chúng tôi biết có ai qua đời trong căn phòng này, hay họ tự ném mình qua cửa sổ, hay những điều tương tự.”

      “Tôi nghĩ nó thực liên quan đến căn phòng”, tôi chậm rãi . cho tôi ánh nhìn kỳ quặc, tôi hơi đỏ mặt, ngượng ngùng hạ thấp đầu. “Xin lỗi”, tôi , “đấy chỉ là cảm tưởng của tôi thôi. Với tôi có vẻ ấy - nếu như hồn ma là phụ nữ - nhìn thấy điều gì đó qua khung cửa sổ này. Điều gì đó ngoài kia...”. Tôi hất đầu về phía bãi cỏ xanh mướt đà vươn tới bức tường cao của nghĩa địa với hàng cây cao. Tất cả đều ban sơ, tĩnh mịch và vô hại - ngay cả những chiếc bóng nằm lặng lẽ và im lìm bãi cỏ. “ ấy nhìn thấy điều gì đó khủng khiếp. Điều gì đó làm tan vỡ trái tim ấy. Và nó để lại dấu ấn, ngay trong căn phòng này.”

      “Tôi nghĩ, đó cũng có thể là khả năng.” Geoff vẫn nhìn tôi với con mắt lạ lùng, trộn lẫn giữa cả quan tâm và thận trọng. “Thế này , có lẽ chúng ta nên kết thúc chuyến tham quan vào ngày khác.”

      “Trời ạ, cần đâu. Tôi khỏe mà”, tôi quả quyết thêm lần nữa, ngước lên mỉm cười với . Lần này là nụ cười rất chân . ngớ ngẩn nếu để tình cờ làm tăm tối cả ngày hôm nay của tôi. “Tiếp theo chương trình là đâu đây?”

      “Thư viện”, thả lỏng đáp. “Với , nó có nhàm chán quá ?”

      hề. Tôi rất thích các thư viện. Dẫu vậy, tôi chắc chắn muốn đánh cắp vài cuốn sách của , nên cứ cảnh báo trước với thế. có ấn bản đầu tiên các cuốn tiểu thuyết của Dickens [1] đấy chứ?”

      [1] Charles Dickens (1812 - 1870): nhà văn nổi tiếng người , các cuốn sách tiêu biểu của ông gồm có David Copperfield, Oliver Twist...

      có Dickens đâu, có.” nhe răng cười.

      “Ôi, lạy Chúa.” Tôi đảo tròn mắt lên trời. “Tôi biết mà. Nó trong những bộ sưu tập tuyệt vời bao gồm những tác phẩm văn học quý hiếm, các công đoạn thủ công tương xứng với bìa bằng da, phải sao?”

      “Cũng gần như thế”, , mỉm cười trước tiếng rên của tôi, “nhưng nếu khiến cảm thấy đỡ hơn, tất cả những cuốn hiếm và có giá trị đều được chuyển sang địa phận của tôi rồi. thể hoàn toàn tin tưởng các vị khách nếu họ nhìn thấy chúng, phải ?”.

      “Đấy là điều duy nhất tôi ghen tị với người giàu”, tôi khi theo xuống cầu thang đượm mùi ẩm thấp để trở lại tầng trệt.

      “Là gì?”

      “Năng lực mua những cuốn sách mà phần lớn chúng tôi bao giờ hy vọng có thể sở hữu.”

      Geoff thông cảm. “Hừm, nếu muốn mượn quyển nào cứ bảo với tôi.”

      Tôi thở dài. “ giống nhau.”

      Chúng tôi dừng chân trong hành lang tiền sảnh rộng rãi, với đại sảnh phía sau và nỗi sợ hãi tệ nhất của tôi được chứng thực khi Geoff mở tung cánh cửa để lộ những giá sách bằng gỗ gụ từ sàn-lên-đến-trần chứa đầy những cuốn sách đủ kích cỡ, hình dạng và niên đại. Các giá sách bao kín bốn bức tường trong căn phòng vuông vức, chỉ gián đoạn tại ba chỗ bởi những khung cửa sổ lồng kính màu cao và hẹp bên cùng những chiếc ghế đệm bên dưới, tùy ý tô điểm với những chiếc đệm căng phồng - loại chỗ ngồi bên cửa sổ mà tất cả những người sách đều ước mơ, mường tượng, khao khát...

      Tôi bước vào căn phòng, kinh ngạc hít vào mùi hương đậm đà từ những bìa sách bằng da được lau dầu cùng giấy cổ và đồ gỗ đánh bóng loáng.

      “Đẹp quá”, tôi .

      “Phải”, Geoff đồng ý. “ phải cảm ơn cha tôi vì điều này. Ông sách - dành phần lớn cuộc đời để thu thập và phục chế lại chúng. Thư viện nguyên bản của ngôi nhà là căn phòng tù túng ở tít hành lang phía nam, gần nhà bếp cũ. Quá với cha tôi. biết , ông xây nên chỗ này nhờ đập những bức tường. Người chủ cũ dùng nó như phòng giải trí - chơi bi a, đại loại thế - và trước đó tôi nghĩ nơi đây từng là nhà kho. Cha tôi nghĩ nó hoàn hảo cho thư viện.”

      “Ông ấy đúng. Mà ông ấy tìm thấy những giá sách này ở đâu vậy?”

      “Từ điền trang ở Tây Sussex. Nơi đó dần xuống cấp và các chủ thầu đồng ý bán giá sách cho cha tôi đổi lấy cái giá phải chăng.”

      “Đáng đến từng xu”, tôi tán thành hành động của cha . “Chúng đẹp quá. Tất cả những gì còn thiếu là cây thang trượt [2] .”

      [2] Loại thang đặc biệt dùng trong thư viện.

      “A ha.” Geoff mỉm cười. “ chưa quan sát đủ gần rồi.” chỉ vào góc đằng xa. “Cha tôi là người làm việc gì luôn chu đáo đến chi tiết cuối cùng.”

      Quả , ở đó có cái thang, chạm đến giá cùng và đầu được gắn những bánh xe tròn để có thể trượt theo thanh đồng bóng loáng. Thực nó hệt như trong bộ phim, định reo lên vui vẻ vật khác trong góc thu hút chú ý của tôi, rồi tôi đông cứng, cổ họng nuốt xuống dữ dội.

      “Richard”, tôi thều thào, giọng của tôi líu nhíu và nhạt nhòa lạ thường.

      “Gì cơ?” Geoff tiến lên trước, vào luồng mắt tôi, nhưng tôi tiếp tục nhìn trừng trừng qua vai vào tấm chân dung khổng lồ tối thẫm treo bức tường đối diện. Bức chân dung của người đàn ông cao lớn với đôi mắt từng trải và nụ cười ngạo mạn, người đàn ông tóc đen mặc bộ đồ đen với chiếc áo choàng tay vắt lên bên vai trong khi tay kia siết lên chuôi kiếm sáng loáng...

      Tôi liếm môi và lần nữa cố gắng, định hình những từ ngữ cẩn thận hơn. “Bức tranh đó...”, tôi bắt đầu, ra hiệu về phía ấy.

      quay lại nhìn. “Ồ, cái đó à. Chúng tôi đặt tên cho ông ấy là ‘Tay chơi’. Có sẵn trong nhà đấy. Rất có thể đây là Arthur de Mornay, hoặc thậm chí là cha ông ấy. Điểm tương đồng khá rệt, phải vậy ?”

      Tôi cần phải thắc mắc điểm tương đồng nhắc đến là gì. Rất có thể đây chính là bức chân dung của treo ở đây. Tôi hết nhìn bức chân dung lại quay sang nhìn Geoff, đôi mắt mở to.

      “Nó là tranh Lely vẽ”, tiếp tục như tất cả là phần lịch trình trong chuyến tham quan. “Ông ta có phong cách khá đặc biệt.”

      tiếng gõ khẽ khàng và xin thứ lỗi vì cắt ngang khung cửa sau lưng phá vỡ thoáng trầm ngâm, khiến cả hai chúng tôi quay ngoắt lại như cặp học sinh phạm lỗi. người phụ nữ lớn tuổi dong dỏng cao đứng ngay khung cửa để ngỏ. Cái tạp dề gọn gàng buộc chặt quanh chiếc váy kín đáo màu xanh thẫm của bà và mái tóc trắng mềm mại được chải theo kiểu cổ điển mang đến bức tranh điềm tĩnh và hiệu suất làm việc đâu ra đấy, còn gương mặt bà, với đôi mắt xanh dương ánh lên nụ cười lẫn nét mặt hiền hòa, dường như quen thuộc lạ lùng với tôi.

      Nhưng bà hề nhìn tôi - bà nhìn Geoff.

      “Cậu có điện thoại”, giọng của bà du dương êm ái. “Tôi định làm phiền cậu, nhưng đó là ông MrCandless từ nhà máy ở Manchester, ông ấy nghe có vẻ khá cấp bách.”

      “Được rồi,” Geoff nhăn nhó. “Để tôi nghe. Cảm ơn bà, Freda. Ồ”, , như mới chợt nhớ ra, “hai người gặp nhau chưa? Đây là Julia Beckett, còn đây là Alfreda Hutherson, quản gia của tôi”.

      Chúng tôi mỉm cười và bắt tay nhau, rồi tôi chợt nhớ ra.

      “Chúng tôi gặp nhau rồi”, tôi . “Bác vòng qua nhà để chào cháu.”

      “Đúng vậy”, người phụ nữ lớn tuổi đáp. “Mọi thứ sắp xếp ổn thỏa rồi chứ?”

      “Vâng, cảm ơn bác.”

      Geoff chạm lên vai tôi, rồi lướt qua tôi và Freda. “Tôi phải nghe cuộc điện thoại đó phải ? tốn đến phút đâu.”

      Bà Hutherson tránh sang bên để nhường đường, rồi lại tiến lên phía trước, hơi nghiêng đầu như lần đầu tiên bà nhìn tôi, rồi nhìn vào bức tranh tối màu nằm trong góc.

      bức tranh đẹp, phải sao?” Bà nhận xét và tôi gật đầu.

      “Rất đẹp.”

      người đàn ông rất đẹp trai.”

      “Vâng.”

      đáng tiếc khi ai biết đó là ai”, bà . “ người đàn ông đẹp trai và bảnh bao. Ai đó hẳn từng lần ta.”

      Bà lại nhìn tôi và mỉm cười.

      “Thứ lỗi cho tôi nhé, tôi vẫn còn những khung cửa sổ tầng chưa lau. Tôi hy vọng tận hưởng phần còn lại của chuyến tham quan.”

      Tôi phải hắng giọng trước khi trả lời. “Cảm ơn bác.”

      Bà nhã nhặn gật đầu và rời , những bước chân ràng và có cả nhịp điệu sàn gỗ cứng bóng loáng của hành lang dài. Lạ lùng ở chỗ cả tôi lẫn Geoff đều nghe thấy bà tiến lại gần, tôi thầm nghĩ. mình trong căn phòng im lặng đáng , tôi ngước mắt thêm lần nữa về phía bức tranh.

      Richard de Mornay mỉm cười nhìn xuống tôi.

      Tôi chắc chắn đó là Richard de Mornay - tôi chắc chắn về điều đó. lẫn đâu vẻ kiêu hãnh lẫn nét đẹp trai đầy ngạo mạn, cũng như chút hoài nghi trong ánh mắt đen dưới chiếc mũ sùm sụp của ta. Ai đó hẳn từng ta, bà Hutherson thế, và lần nữa, giọng khẽ khàng, am hiểu trong tôi lên tiếng trả lời.

      Phải, nó , với nỗi đau đớn ràng... Tôi từng .

      Nhưng điều đó tôi cũng biết rồi. Dường như biết từ lâu. Và tôi có cảm giác lạ lùng - trái ngược với bất cứ lý lẽ thực tế nào - rằng Alfreda Hutherson cũng biết điều đó.

                  CHƯƠNG 14


      Quán Sư Tử Đỏ là nơi bận rộn nhất tôi từng thấy, vài chiếc bàn đầy ắp khách quen vào chiều thứ Bảy, phải mất lúc lâu trước khi Vivien có thể quay trở lại quầy bar để phục vụ chúng tôi. Ngay cả Ned cũng phải ra tay hành động, ta thong thả về phía chúng tôi ít nhất hai lần để mang những đĩa sandwich và khoai tây chiên từ nhà bếp phía sau.

      “Được rồi.” Vivien quăng người lên chỗ ngồi sau quầy, mái tóc vàng xõa tung quanh gương mặt ửng hồng. “Để em trình bày lại nhé.” nhìn về phía Geoff. “Hôm nay đưa Julia tham quan lâu đài.”

      Geoff gật đầu.

      “Và để trả công cho đặc ân to lớn này” Vivien tiếp tục, “Julia đồng ý để mời ấy uống ly”.

      “Chính xác.”

      “Thỏa thuận này nghe có vẻ công bằng mấy, bạn”, ấy với tôi. “Tôi có thể lấy gì cho nào?”

      “Làm ơn cho tôi ly Gin Tonic.” Tôi mỉm cười đáp lại.

      Cách hai chiếc ghế, bên cạnh Geoff, Iain Sumner nhoài người về phía trước với cái nhíu mày chê trách.

      vừa gọi đó là loại đồ uống gì vậy?” ta hỏi tôi, bàn tay ta nắm vại bia đen ướp lạnh.

      “Cứ lờ ấy ”, Vivien mách. “ ấy khó ở.”

      Iain nhướng bên lông mày. “ hề nhé.”

      thấy ý tôi là gì rồi đấy.” Vivien nháy mắt, trượt ly rượu qua quầy về phía tôi.

      Geoff quay sang nhìn bạn.

      “Hôm nay cậu có vẻ hơi tiêu cực đấy, Iain. Mọi chuyện vẫn ổn chứ?”

      “Mọi việc đều ổn chết được”, Iain vặn vẹo, “và tâm trạng của tôi cũng tuyệt chết được đây này, cảm ơn”. ta rút điếu từ gói thuốc trước mặt và châm lửa, chiếc hàm góc cạnh bạnh ra đầy thách thức.

      Geoff và Vivien trao nhau những ánh nhìn ý. Vivien hướng chú ý trở về phía tôi, chống hai khuỷu lên quầy và chúi về trước để chuyển phần nào sức nặng khỏi đôi chân mệt mỏi của mình.

      “Vậy”, ấy rạng rỡ , “ thấy chuyến tham quan thế nào?”.

      “Đáng lắm”, tôi . “Ai đó hoàn thành cách tuyệt vời công việc phục chế các căn phòng cũ - giống như là được đối diện với quá khứ vậy.”

      “Khá đúng theo nghĩa đen”, Geoff xen vào. “Julia cuộc chạm trán với hồn ma của chúng tôi trong căn phòng Kỵ sĩ.”

      Ánh mắt Vivien ánh lên thích thú. “ vậy sao? Cảm giác của thế nào?”

      “Choáng váng”, tôi đáp khi nghĩ lại, “đau đớn và... loại khẩn nài gì đó, nếu nó có ý nghĩa gì đó”.

      “Chính xác là thế.” Vivien gật đầu. “Nó thực là cái gì đó, phải ? Cũng khá sởn tóc gáy, nhưng tất thảy đều thú vị.”

      Iain lại nhoài người về trước, găm vào tôi ánh mắt tò mò. “Vậy là tin vào tồn tại của chúng. Ý tôi là những hồn ma ấy.”

      “Vâng”, tôi kiên quyết, nâng cằm cao hơn chút. “Tôi nghĩ dứt khoát có những điều thế giới này chúng ta thể giải thích bằng khoa học - dù sao nữa vẫn chưa thể giải thích - nhưng có nghĩa khiến chúng bớt xác thực hơn. Hamlet rồi đấy thôi.”

      “Còn nhiều thứ thiên đường và hạ giới nữa, Horatio ạ?” ta trích dẫn. “Phải rồi. Hamlet lúc nào cũng hơi khác người mà.”

      “Cậu nghĩ những điều như thế tồn tại sao?” Geoff hỏi.

      “Thôi xin.” Đôi mắt xám của Iain ánh lên nét cười cợt chế giễu. “Sau cùng, tôi là người Scotland. Cậu thể bộ cả nửa dặm ở Scotland mà giẫm lên vạt áo choàng của hay hai hồn ma được. Nhưng tôi vẫn chưa gặp hồn ma nào ở lâu đài.”

      cần chuyện với dì Freda”, Vivien khuyên ta. “Dì lúc nào cũng nhìn thấy chúng. Dì thậm chí còn bảo thấy người phụ nữ trong căn phòng Kỵ sĩ rồi kìa.”

      “Dì Freda nhà em lúc nào cũng thấy rất nhiều thứ”, Iain đáp, rít hơi thuốc lá. “Nếu là năm trăm năm trước họ lập dàn hỏa thiêu bà ấy.”

      Vivien nhoài người qua quầy bar và vui vẻ đập lên tay áo ta. “ thế là kinh khủng lắm đấy”, trách mắng. “ nên giữ mồm giữ miệng , em mách dì!”

      cần đâu.” Iain nhún vai. “Bà ấy thừa biết điều nghĩ. Bên cạnh đó, chưa bao giờ bảo có gì sai khi trở thành phù thủy...”

      Geoff bật cười. “Bà ấy khá đặc biệt”, đồng ý. “Em phải thừa nhận, Viv à, người có năng lực bắt phải ngăn nắp chắc chắn là có loại sức mạnh siêu nhiên nào đó rồi...”

      “Ôi, cứ tiếp tục !” Vivien xua cả hai bọn họ với cái phẩy tay. Quay sang phía tôi, ấy hỏi, “ gặp dì Freda chưa?”.

      Tôi hoàn toàn mờ mịt, cho đến khi Geoff nhảy vào trả lời hộ. “Rồi, thực tế là ấy gặp dì ấy hôm nay. Freda là quản gia nhà tôi”, giải thích.

      “Ồ.” Tôi nghĩ ra sau thoáng. “Ý là bà Hutherson phải ? Phải, tôi gặp bác ấy rồi. Phải là hai lần. Khoảng hai tuần trước, bác ấy đến thăm nhà tôi cùng mọi người trong làng. Mang cho tôi ít bánh nướng dòn nữa. Bác ấy có vẻ rất tốt bụng.”

      “Đấy, hai người thấy chưa?” Vivien thách thức những người đàn ông. “Julia nghĩ dì ấy tốt kia kìa.”

      “Đương nhiên là bà ấy tốt rồi”, Iain bắn trả.

      phù thủy tốt bụng”, Geoff thừa nhận, mấy thành công lắm trong việc cố tỏ ra nghiêm túc.

      Tôi lờ cả hai bọn họ . “Vậy là bác ấy nhìn thấy hồn ma trong căn phòng tầng phải ?”

      “Ừ”, Vivien . “Vài năm trước, vào lần đầu tiên dì đến làm việc ở tòa trang viên. Dường như đó là người phụ nữ trẻ, giống như tất cả mọi người đều nghĩ. người phụ nữ trẻ rất xinh đẹp, dì Freda vậy, với mái tóc dài màu vàng.”

      ấy mặc váy màu xanh đấy chứ?” Tôi cố gắng biến câu hỏi như lời đùa.

      , tôi nghĩ thế. Tôi khá chắc dì chiếc váy ấy mặc màu đen. Nhưng rồi dì vẫn bảo phần lớn các hồn ma trông đều xám nhợt và ràng.”

      Geoff mỉm cười nhìn xuống tôi. “ nghĩ Thiếu Phụ Xanh nhà náu mình trong phòng ngủ nhà tôi đấy à?” hỏi.

      chỗ trốn quá buồn chán”, Vivien trêu.

      Ngay cả Iain cũng phải mỉm cười trước câu đó, tâm trạng của ta dần cải thiện. ta châm điếu thuốc thứ hai và dựa lưng ghế ngồi.

      đến Thiếu Phụ Xanh”, ta với tôi, “tôi rất vui được mang diện mạo khu vườn cũ trở lại cho , nếu muốn”

      “Ôi, , cảm ơn .” Tôi giơ bàn tay khẩn cầu lên. “Tôi thể giữ khu vườn sống sót được. Chỉ nhìn thôi là tôi giết hết đám cây rồi.”

      “Julia nghĩ cậu nên làm gì đó với khoảng sân bên trong lâu đài”, Geoff . “ ấy khá ngạc nhiên khi thấy cậu chẳng trồng gì ở đó cả.”

      “Hả, ý cậu là cái hầm mộ đó á?” Iain nheo mắt trầm ngâm. “Bây giờ tôi còn phải vòng qua nó đây này”, ta . “Cậu có bao giờ biết đâu.”

      “Khi nào có thời gian cho nó nhớ cho em biết nhé?” Vivien nhìn ta bao dung. “Với em, có vẻ có đủ công việc cần giải quyết rồi.”

      “Làm vườn phải công việc”, Iain sửa lại. “Nó là giải trí. Và em lúc nào cũng bảo nên dành nhiều thời gian cho nó.”

      “Và ít thời gian hơn cho những cái này.” hất đầu về phía điếu thuốc của ta. “Mà có bao giờ chịu nghe em đâu.”

      Geoff xông đến cứu nguy cho bạn bằng cách thay đổi chủ đề. “Tôi nghe tuần sau có bất động sản lớn rao bán gần Calne. Là nơi ở của ngài Ashburn, tôi tin là thế. Có ai muốn chuyến xuống dưới đó ?”

      “Họ có bán đấu giá cuốn sách nào ?” Tôi hỏi.

      “Có lẽ chỉ vài trăm cuốn thôi.”

      Tôi mỉm cười. “Vậy có thể tính tôi vào trong danh sách.”

      “Tuyệt. Còn Vivien?”

      “Em thích lắm”, Vivien , “nhưng họ bán đấu giá vào thứ Bảy và em hứa cho Ned nghỉ hôm đó để xem con trai ấy chơi bóng bầu dục rồi”.

      Tôi chắc còn điều gì có thể khiến mình ngạc nhiên hơn - khám phá chàng Ned kết hôn, hay biết con trai ấy có nhiều năng lượng để chơi thể thao đến thế.

      “Tệ quá.” Geoff nhìn Iain. “Cậu sao?”

      thể”, đó là lời đáp của chàng Scotland. “Những người xén lông đến vào thứ Bảy.”

      “Những người xén lông?” Tôi hỏi.

      “Ừ. Cho đàn cừu. Họ phải khắp các trang trại trong hạt, nên lịch trình của họ kín lắm.”

      “Hóa ra tự xén lông cừu à?”

      “Lạy Chúa, .” ta mỉm cười. “Tôi biết xén - tôi mà mó tay đàn cừu trông khủng khiếp lắm. Những người đến xén lông đến từ phía bắc. Các chàng trai trẻ. Chuyên nghiệp. Trong buổi chiều là họ xong việc.”

      “Nên hôm thứ Bảy cậu cũng vắng mặt”, Geoff kết luận. Tôi giật nảy mình vì trông có vẻ phiền muộn vì tin tức ấy. “Hừm”, , “ đáng tiếc. Tôi nghĩ, vậy chỉ còn mình Julia với tôi rồi”.

      “Phải.” Iain cho tôi ánh nhìn như của người trai lo cho em . “ nên coi chừng cậu ta, Julia”, ta bảo tôi. “Cậu ta có thể trông vô hại, nhưng tin được vẻ ngoài đâu.”

      Geoff nhe răng cười, “Thế là vu khống đấy nhé. Cậu lúc nào chẳng biết tôi luôn cư xử như quý ông hoàn hảo.”

      “Thôi được rồi, ngài Galahad [1] ”, Iain lạnh nhạt . “Cậu nghĩ mình có thể bớt chút thời gian để giúp tôi sửa hàng rào cuối mạn phía tây của vườn cây ăn quả, như cậu hứa ?”

      [1] trong các kỵ sĩ bàn tròn của vua Arthur, cũng là người tìm ra Chén Thánh.

      “Khỉ , tôi quên tiệt mất đấy. Tôi nghĩ là mình hứa rồi mà, phải vậy ?”

      “Ừ. Và đàn cừu sổng ra hết và chạy được nửa đường đến Beckhampton nếu đến chập tối tôi sửa xong.” ta hất đầu về phía vại bia của Geoff, cố gắng mỉm cười trước vẻ mặt tiu nghỉu của bạn. “Uống hết ”, ta nghiêm nghị khuyên.

      Geoff uống nốt vại bia và đứng dậy, vươn thẳng thân hình khoảng mét tám của mình. “Các quý ”, cách phô trương, “tôi phải bỏ lại các quý rồi”. Quay sang tôi, thêm vào, “Cảm ơn vì bầu bạn với tôi hôm nay”.

      “Cảm ơn vì chuyến tham quan.” Tôi mỉm cười. “Tôi thích lắm.”

      có gì.” ấm áp trong ánh nhìn của dường như có thể chạm tay vào được. “Lúc nào đó, trong tuần này tôi gọi điện cho và chúng ta sắp xếp cho chuyến thứ Bảy tới, được chứ?”

      “Được.”

      “Ừm”, Vivien , thở hơi thư thái khi người đàn ông rời . “Ít nhất ấy cũng cười lúc . Ý tôi là Iain ấy. Thành ”, bảo tôi, “ ấy và tâm trạng của ấy. ấy ngồi chiếc ghế đó đến nửa buổi chiều, cứ uống bia, hút thuốc và trông rầu rĩ hơn cả quỷ. Tôi hy vọng Geoff đến để giải thoát ấy khỏi tình trạng đó”.

      “Họ là bạn tốt của nhau, phải ?” Tôi lơ đãng hỏi và suy nghĩ, lạ lùng, phải về Geoff và Iain, mà về người đàn ông tóc đen cưỡi con ngựa xám, dõi theo người đàn ông khác sải bước qua cánh đồng với những bước chân dễ dàng, vác vai chiếc rương nặng như thể món đồ chơi trẻ con.

      Đó là Evan Gilroy, tôi nghe giọng ràng của Rachel vọng bên tai. ấy sống ở trang viên...

      “Họ là bạn thân”, Vivien trả lời, giọng dứt khoát. “ thể nào cũng nghĩ họ biết nhau cả đời, nếu nghe họ chuyện.”

      Tôi nhíu mày chút, dùng ngón tay vẽ lên hình thù từ hơi lạnh thoát ra hai bên cạnh ly của mình. “Dì Freda nhà ”, tôi , chọn từ ngữ cách cẩn thận. “Tại sao Geoff và Iain lại gọi bà ấy... ý tôi là, tại sao cả hai đều nghĩ bà ấy là...”

      phù thủy.” Vivien kết thúc hộ tôi, miệng nhoẻn cười. “Tôi biết. Sau cùng cũng có thể lắm chứ. Bà luôn sở hữu những vật dụng của bà đồng. Luôn biết khi nào tôi rơi khỏi cây, hoặc khi nào tôi làm điều gì được phép. hiểu sao bà dường như luôn biết mọi thứ. Bên cạnh đó ”, lại dựa lên quầy bar, nghiêng mái đầu sang bên, “bà chỉ là phụ nữ đặc biệt. Phàm tục, nếu hiểu ý tôi là gì. Bà có thể chữa lành vết thương cho các con thú, huýt sáo với những con chim và...”. lần nữa nụ cười lại lên, “trong vườn của bà, bà trồng được những củ khoai tây to hơn bất cứ ai khác ở làng. Đấy là tất cả những gì tôi biết, tất cả những phép màu. có muốn nữa ?”.

      Tôi ngây ra nhìn chiếc ly và lắc đầu.

      “Thôi, cảm ơn. Tôi có khi nên về nhà. Tôi còn phải hoàn thành vài bản vẽ phác thảo. Chủ biên của tôi ngất xỉu mất nếu trong tuần này tôi gửi cho ấy chút gì để chứng minh mình vẫn làm việc chăm chỉ. Cuộc sống ở vùng quê”, tôi thừa nhận khi vươn hai vai, “ rút tất cả năng lượng của tôi”.

      “Như tôi bảo đấy.” gật đầu. “Chẳng có căng thẳng nào ở đây để lo lắng cả. giống Luân Đôn. Chẳng có chuyện gì xảy ra ở nơi như Exbury.”

      Chính xác tôi thế, vài phút trước tôi nhủ thầm như vậy, khi nặng nhọc leo lên con đường trở về nhà, qua những hàng rào dày đặc và cánh đồng mang mùi ngai ngái của đất. , tôi nghĩ, khi tự mỉm cười, tôi chẳng bao giờ có chuyện gì xảy ra ở đây...

      con cừu, có lẽ là thành viên lêu lổng từ bầy của Iain, chạy lon ton đường và bận rộn ngấu nghiến bụi hoa non mềm. Nó ngẩng đầu khi tôi lại gần và nhìn tôi chằm chằm với đôi mắt điềm tĩnh, quan tâm. Nó là minh chứng hoàn hảo cho bức tranh của Vivien về cuộc sống ở miền quê chăn nuôi gia súc - phờ phạc, đơn giản và buồn chán chết người.

      “Mày đừng có lừa tao đấy nhé”, tôi với nó.

      Có quá nhiều chuyện xảy đến với tôi trong tháng vừa qua đến mức nếu con vật có đứng thẳng dậy và chuyện, tôi nghi ngờ mình có khi còn chẳng buồn chớp mắt nữa. Nhưng điều đó xảy ra. Nó chỉ đứng đó và tiếp tục nhai nhóp nhép, rồi ngây ra nhìn tôi với cặp mắt khinh khỉnh thường có ở những con cừu, như thể tôi là đứa gàn dở.

      Trời mưa cả ngày hôm sau - cơn mưa dai dẳng, phiền muộn và chút mệt mỏi trút xuống khung cửa sổ trong xưởng vẽ bé của tôi. Ít nhất tôi cũng thấy may mắn, khi có gì làm mình xao nhãng khỏi công việc - ngọn gió dịu dàng nặng trĩu hương thơm của hoa mùa xuân vẫy gọi, có tiếng chim hót líu lo rủ rê tôi ra khỏi cửa. Chỉ có cơn mưa, bầu trời xám đen và cơn gió xấu xa lắc những ô cửa sổ cùng những hàng cây run lên bần bật.

      Đến giờ ăn tối, tôi hoàn thành việc tô màu các bản phác thảo cho câu chuyện cổ tích Hàn Quốc, những trang giấy dày khoe sắc sặc sỡ như chiếc kính vạn hoa. Tôi dùng bàn tay co cứng và đau nhức rửa các cây cọ, cất gọn màu vẽ và xuống tầng dưới, vào nhà bếp lấy thịt nguội và pho mát để ăn tối. Cầm theo tách trà vào thư viện, tôi chọn cuốn sách từ vụ giết người bí thích và yên vị ngồi vào chiếc ghế bành bọc da để có tối thư thái đọc sách. Tôi thiếp trước khi chàng thám tử phát ra xác chết.

      Tôi thức dậy trước bình minh, với cái cổ cứng đơ và cảm giác buốt lạnh gần như đau đớn thường đến trước khi mặt trời mọc. Bầu trời vẫn còn tối đen và khung cửa quay về hướng đông phản chiếu hình ảnh của chính tôi ngó trân trân vào bản thân, dáng hình kỳ quái trong ánh sáng phát ra từ ngọn đèn đọc sách nho bên cạnh chiếc ghế. Tách trà rỗng đặt chiếc bàn bên cạnh. Nâng nó lên, tôi đứng dậy, cất những bước chân ngắn và rời rạc vào bếp, khao khát hơi ấm dỗ dành từ chiếc ấm đun nước và tách trà mới.

      Trong khi tôi ngồi ở đây, lắng nghe im lìm của ngôi nhà với hai bàn tay lạnh lẽo bao quanh chiếc tách nghi ngút khói, ý tưởng lần đầu tiên nảy đến với tôi. Kể từ thứ Bảy, tôi luôn lo lắng khi nhận ra mình thể kiểm soát điều gì sắp xảy đến với bản thân - rằng tôi có thể, cách ngắn gọn, quay ngược thời gian vào bất cứ thời điểm hay địa điểm nào, lang thang quanh làng trước toàn thể tầm mắt của tất cả mọi người nhưng hề chú ý đến họ. Vấn đề ở chỗ, dường như “những hồi tưởng” đến cách ngẫu nhiên, lời cảnh báo, cho bản thân tôi cơ hội dự liệu trước trải nghiệm ấy.

      Nhưng nếu tôi có thể tự mình dự liệu sao? Nếu như tôi có thể tự tạo ra các hồi tưởng, khi nào tôi muốn, và kìm nén chúng khi nào tôi muốn sao? Nếu tôi thực đối phó được với những ký ức - với các cảnh tượng từ chính trí óc của mình - tôi rất có thể tìm ra cách “nhớ lại” theo ý muốn.

      Ít nhất cũng rất đáng để thử, tôi tự nhủ. Giờ là thời điểm hoàn hảo cho thử nghiệm như thế. Tôi an toàn trong chính ngôi nhà của mình, được ủng hộ bởi can đảm giả dối vì chưa hoàn toàn tỉnh táo. Trong trường hợp có lang thang ra khỏi nhà, ít nhất tôi cũng ăn mặc đầy đủ với chiếc quần jean màu xanh bạc màu và chiếc áo phông nhàu nhĩ tôi thường mặc để vẽ tranh. Tôi rất chỉnh tề. Bên cạnh đó, phải vài giờ nữa mới có ai đó trong làng tỉnh giấc.

      Thuyết phục bản thân tin vào tính thực tế của kế hoạch vừa lập ra, tôi dành vài phút tiếp theo để lục lọi tủ búp phê bừa bộn để tìm cây nến. Tôi đọc ở đâu đó rằng nến là yếu tố cần thiết để tự thôi miên. Cuối cùng, cũng tìm thấy mẩu nến vùi trong khay đựng dao kéo, tôi cắm nó lên chiếc đĩa nông. Ngồi vào chỗ ở chiếc bàn được lau dọn, tôi đặt cây nến trước mặt và nín thở châm nó lên.

      Ngọn lửa sáng lung linh, đong đưa và nhảy múa giữa luồng khí vờn quanh căn phòng yên lặng. Cả thế giới của tôi dường như co lại chỉ còn điểm sáng và đốm lửa bé, bập bùng, mê hoặc đó sáng lung linh trong bóng tối gần kề. Tôi giữ đôi mắt mình cố định vào nó, nhìn chằm chằm và tập trung, trong khi trí óc tiếp tục lặp lặp lại ý nghĩ: Tôi muốn nhớ lại. Tôi muốn nhớ lại. Hết lần này tới lần khác, như phần trong vở thanh xướng kịch Messiah của Handel [2] , quyết tâm nhàm chán sao lay chuyển. Tôi muốn nhớ lại. Tôi muốn quay trở lại...

      [2] George Frederick Handel: là nhà soạn nhạc người nổi tiếng vì những vở thanh xướng kịch - thể loại nhạc cổ điển có quy mô lớn viết cho dàn giao hưởng, ca sĩ solo và dàn hợp xướng.

      khí lao vun vút qua tai tôi như ca hát và đốm lửa ngọn nến vươn cao nhọn hoắt hưởng ứng.

      “Chị vẫn chưa hoàn thành bản phác thảo của mình à?” Rachel ngạc nhiên hỏi. “Phiên chợ bắt đầu rồi đấy, nhanh là chúng ta để lỡ những món hời mất thôi.”

      Tôi uống cạn tách của mình với vẻ có lỗi, suýt nữa bị sặc vì thứ rượu mạnh. “Tôi xin lỗi, tôi suy nghĩ.”

      “Chị nghĩ nhiều quá rồi. Trong ngôi nhà này, việc ấy chỉ càng dẫn chị vào rắc rối thôi”, ấy , mỉm cười với tôi từ khung cửa trong khi chỉnh lại chiếc áo choàng nặng nề và kéo mũ trùm đầu che mái tóc sáng màu của mình. “Ít ra mưa cũng tạnh rồi, trời sáng dần lên. Hôm nay hẳn ngày đẹp trời.”

      Tôi thả chiếc mũ trùm đầu xuống. Tôi thích cảm giác cơn gió mơn man tóc mình, nhất là những ngọn gió trong lành thổi đến sau cơn mưa muộn mùa xuân. Chiếc áo choàng màu xanh thẫm của tôi bị rách, được sửa kịp thời, nhưng chiếc váy bên dưới vẫn còn mới. Tôi mong đợi buổi sáng tránh xa khỏi ngôi nhà và tầm ảnh hưởng của bác mình. Mở chốt cửa bếp giống như mở khóa xà lim, nụ cười rộng mở khi tôi theo Rachel băng qua vườn sau để tiến về phía con đường dẫn chúng tôi rời xa khỏi căn nhà, rời xa khỏi ngôi làng, về phía phiên chợ đầy ắp người, tiếng cười và sống.

    3. CQH

      CQH ^^!

      Bài viết:
      192
      Được thích:
      41,961

      CHƯƠNG 15


      Khu chợ của vùng Wexley Basset nằm cách Exbury bốn dặm về phía đông, đường Marlborough. Chúng tôi phải những khách bộ hành duy nhất con đường - ba lần chúng tôi bị những chiếc xe bò chở người và hàng hóa đến chợ vượt qua. xa thêm chút, chúng tôi lại tự mình vượt qua cậu bé dắt con bò màu nâu hiền lành cùng con bê con mắt ươn ướt. Cám dỗ muốn được trò chuyện với những người ở đây lớn dần sau những tuần đơn của tôi, nhưng tôi noi theo gương của Rachel và về mé của con đường, đôi mắt e dè cúi xuống.

      Đấy là phần khó khăn nhất, chờ đợi cho những người lạ vượt lên, hoặc rớt lại phía sau, để lần nữa có thể ngẩng đầu và tận hưởng quang cảnh quanh mình. Tự do như thứ rượu mới cất nồng nàn và những bông hoa dại được mưa gột rửa mang hương thơm tươi mát thổi thứ mùi của thất vọng khỏi mũi tôi và trong giây lát, khiến tôi quên tình cảnh bấp bênh vô vọng của mình.

      Con đường thẳng như đường bay của mũi tên, thẳng như con đường La Mã, với những vết lún sâu trơn trượt sau trận mưa hôm qua. Phía bên tay phải là những cánh đồng lúa mì mới trồng và những bãi rào lốm đốm hình dáng của những con cừu; bên tay trái đường là dải đất xanh mướt mát của Wexley Hạ và khu vực săn bắn cuồn cuộn phía xa. Vào thời ông ngoại tôi, Rachel kể, vua Charles I thân chinh đến đây săn bắn, thúc ngựa chạy nước kiệu sau những con diều hâu với cận thần và nửa dân làng hỗn loạn theo sau. Nó làm nên bức tranh lãng mạn và đầy màu sắc. Vì quá bận rộn để dựng lại cảnh tượng ấy trong tâm trí đến mức Rachel phải hai lần tôi mới để ý.

      “Giờ còn xa nữa đâu”, ấy . “Chị có thể nhìn thấy nó khi chúng ta lên đến đỉnh ngọn đồi này.” Và rồi mặt trời khuất bóng sau những đám mây khi chúng tôi trèo lên ngọn đồi, tôi có cái nhìn thoáng qua đầu tiên về vùng Wexley Basset.

      Những khu chợ trong ký ức của tôi là chợ trong thành phố lớn, những khu chợ ở Luân Đôn, nhồi nhét những con đường hẹp hay quảng trường rải sỏi, với những người bán hàng rong khản giọng rao hàng và vây xung quanh tôi là những đoàn người chen lấn thương tiếc, nhìn đâu cũng thấy người. Quả là thay đổi thú vị khi nhìn thấy những tấm bạt sọc sáng bay phần phật quanh cây thánh giá dãi dầu mưa nắng, ánh nắng chan hòa chiếu xuống cả khu chợ. Chắc chắn ở đây cũng có những đám đông, nhưng họ là những người nông dân thân thiện, giọng ràng và chân chất, với những gương mặt thà bị gió và thời tiết hun cho đỏ bừng.

      “Chị nghĩ gì thế?” Rachel hỏi.

      Chỉ có thể mắt mở to, miệng há hốc như đứa trẻ bị mê hoặc, tôi làm bật ra tiếng cười đáng du dương rồi ấy chộp lấy bàn tay tôi len vào đám đông dày đặc. Cả hai cũng bị xô đẩy, nhưng tôi nhận ra mình hề cảm thấy phiền. Tôi nghe thấy mình bật cười khi những mảnh áp lực cuối cùng trôi xa khỏi người, điều đó khiến tôi sửng sốt. Ngọn gió thổi mái tóc bay bay và ánh mặt trời sưởi ấm gương mặt, đột nhiên tôi có cảm giác mình sống, sức sống tràn trề.

      “Tuyệt quá!” Tôi hét to với Rachel, nhưng giọng tôi bị cả biển thanh nuốt trọn, nên ấy nghe thấy. ấy dẫn tôi xa hơn chút, rồi quay lại, gương mặt đỏ ửng vì kích động.

      “Lại đây, chị phải xem những người diễn kịch này”, ấy .

      đám người túm tụm đứng ở góc chợ và ấy kéo tôi về phía họ. Khi tới nơi, Rachel mỉm cười ngọt ngào với trong số những người đàn ông cao lớn. ta tránh sang bên để chúng tôi đứng trước mặt ta, nơi cả hai có thể dễ dàng theo dõi diễn biến phía trước. Có tám diễn viên, mặc những bộ quần áo đồng bóng và kỳ quặc bảy sắc cầu vồng. trong số họ, cậu nhóc khoảng mười bốn tuổi, dùng chất giọng cao vút và trong trẻo của mình cất lời giới thiệu.

      “Tôi hy vọng họ có mặt ở đây”, Rachel vui vẻ thầm. “Họ thường đến vào ngày họp chợ, để mua vui cho mọi người.”

      Lời mở màn kết thúc, im lặng bao trùm những người theo dõi. Đó là vở kịch ngắn, chỉ dài khoảng vài phút, nhưng diễn xuất tuyệt vời.

      người đàn ông mặc bộ đồ đen tuyền tiến lên phía trước tấm rèn, với chiếc mũ Thanh giáo [1] đầu và từ “Nghị sĩ” sơn lên tấm biểu ngữ vắt qua ngực. ta tràng dài về hình ảnh thối nát của nước , với những cụm từ đảo ngược cùng ngữ nghĩa méo mó hài hước chỉ đơn thuần là giễu cợt chính bản thân mình – trong vai Oliver Cromwell, và khiến các khán giả cười rộ lên vì ngốc nghếch của ta. Lần lượt, Oliver Cromwell cùng người lính về phe nghị viện và kẻ thuyết giáo dâm đãng, cả ba đồng thanh than vãn và đưa ra những kế hoạch tàn ác nham hiểm khiến đám đông hò reo phản đối và huýt sáo.

      [1] giáo phái xuất thế kỷ XVI và XVII: giáo phái này chủ trương tổ chức các buổi lễ nhà thờ đơn giản hơn, họ tin rằng tự chủ và làm việc chăm chỉ mới quan trọng, còn khoái lạc là sai trái và cần thiết.

      thiên thần vô hình tiến vào, buồn bã lắng nghe rồi băng qua chỗ “Nghị sĩ” và chạm vào ta. Ngay sau đó, bộ quần áo Thanh giáo màu đen bị quăng khỏi người, để lộ ra Nghị sĩ hoàn toàn mới, mặc đồ trắng lấp lánh ánh vàng. diễn viên đại diện cho dân chúng, mặc quần áo đỏ và vung lưỡi gươm của lửa, gia nhập với Nghị sĩ mới và thần thánh, cả hai thách thức rồi đánh bại những kẻ mang mưu ma quỷ. Tiếng hoan hô dậy lên từ đám đông tập hợp xung quanh khi bản sao tương đối giống nhà vua Charles tốt bụng xuất để đòi lại ngai vàng và tiếng ầm ĩ cũng phải sánh vang với ngày diễn ra lễ lên ngôi.

      Có rất nhiều tiếng “Hoan hô!”, người ta thi nhau ném tiền lên sân khấu khi các diễn viên hoàn thành màn trình diễn.

      vở kịch hay”, tôi với Rachel khi chúng tôi quay .

      “Phải”, ấy đồng ý, “nhưng bác của chị nghĩ vậy đâu”.

      “Sao ?”

      ấy nhìn tôi và dường như cân nhắc điều gì đó, rồi đột ngột đổi chủ đề.

      “Nhìn kìa”, thay vào đó, ấy , “ở kia có hàng bán cam. Hay chúng ta mua quả nhé? Tôi vẫn còn tiền này”.

      Tôi cũng có tiền – vài xu dành dụm được cất giấu an toàn trong lớp vải lót váy, nhưng tôi để Rachel mua quả cam, sau đó chúng tôi cẩn thận chia đôi, nếm thịt quả ngọt ngào mọng nước và mùi hương ngoại lai từ lớp vỏ [2] . Mùi hương vẫn vương lại những ngón tay dù cả hai ăn xong từ lâu.

      [2] Cam có nguồn gốc ở Đông Nam Á, đến cuối thế ky XV và đầu thế kỷ XVI, người Italia và Bồ Đào Nha mới bắt đầu đưa cây cam vào khu vực Địa Trung Hải để trồng.

      “Giờ”, Rachel , khi nhớ lại lời dặn dò, “tôi mua con ngỗng và miếng thịt bò cho Caroline. Hàng thịt ở ngay đằng kia, bên kia đường”.

      Tôi giật lùi, ngập ngừng. “Nếu phiền”, tôi bảo, “tôi muốn loanh quanh chút”.

      là tôi sợ cái mùi hôi ở những quầy bán thịt và tôi chưa bao giờ chịu đựng được cảnh tượng những con vật bị giết mổ. Rachel dường như thấy miễn cưỡng bởi từ chối của tôi.

      “Thế nào cũng được”, ấy khẽ nhún vai đề nghị. “Tôi tìm chị khi mua xong.”

      Tôi có chút cảm giác cắn rứt vì tội lỗi. “ có cần tôi giúp ? Như xách thịt ấy?”

      cần đâu. Đừng tự gây phiền hà cho bản thân như thế”, ấy bật cười. “Tôi vẫn thường chợ mình mà. Chị cứ và nhớ chơi vui nhé. Chị có thể xách bớt đồ giúp tôi đường về nhà.”

      mấy khó khăn để khiến bản thân vui vẻ, khi tôi được vây quanh bởi vô vàn đồ vật lạ kỳ, màu mè và tuyệt diệu: thuốc tăng cường sức khỏe, những thước lụa Pháp và ruy băng Bỉ nhập khẩu, táo và chanh chất cao những chiếc xe bò đỗ đường rải sỏi, cá khô, những chiếc kèn bằng thiếc, thùng gỗ và nữ trang tinh xảo. Như bị mê hoặc, tôi sà hết từ quầy này sang quầy khác, ngừng lại nơi rìa đám đông để nghe tiếng rao quảng cáo của người bán hàng hoặc nhìn người khác dùng chất lỏng gột sạch những vệt dầu mỡ khỏi mảnh vải trắng như phù phép.

      Tại trong những quầy hàng đó, chiếc vòng xinh đẹp níu giữ ánh mắt tôi. Tôi ngừng lại để ngắm nó. Nó là chiếc vòng xinh xắn được mạ vàng óng ánh, dọc theo chiếc vòng là bầy chim thiên đường có đôi mắt khảm thủy tinh xanh sáng lấp lánh như những viên đá quý lộng lẫy. Tôi nấn ná trước nó đầy khao khát, dùng những ngón tay vạch theo những hình thù tinh xảo kia. Những đồng tiền của tôi có vẻ rất sốt ruột trong nơi náu, và người bán hàng, như cảm nhận được thích của tôi, thận trọng đẩy nó lại gần hơn.

      “Hàng thực chất lượng đấy, thưa ”, ông ta , quên kèm theo nụ cười lấy lòng. “Giống như thứ các tiểu thư cao quý thường đeo khi vào cung vua. Chỉ mười siling thôi.”

      Những mười siling! Tôi miễn cưỡng rụt tay lại. Chỉ có sáu xu [3] trong túi, tôi bao giờ có thể hy vọng trả giá để ông ta hạ thấp xuống mức đó được. Dẫu vậy, nỗi thất vọng mới đó chỉ kéo dài trong chốc lát, bởi khi quay khỏi quầy trang sức, ánh mắt tôi rơi đúng vào chiếc xe bò của người bán sách náu trong góc tối ở ven khu chợ, và trái tim tôi hân hoan rộn lên. Mới tuyệt vời làm sao, tôi nghĩ, nếu lại được cầm cuốn sách trong tay, để cảm nhận những trang giấy giòn và nhẵn cùng mùi cay nồng của giấy và lớp da phết dầu.

      [3] 1 siling = 12 xu.

      Ngôi nhà ở Luân Đôn của tôi đầy những sách. Chúng được ních đầy trong tủ búp phê và mỗi ngăn đều trĩu xuống vì quá nặng, nhưng trong nhà bác tôi chỉ có cuốn Kinh Thánh của vua James trang nghiêm và nặng nề.

      Vì quá hạnh phúc khi thấy nhiều sách như vậy nên tôi hầu như chú ý đến người bán sách, người đàn ông gầy gò kiệm lời chỉ dựa vào xe sách, ông ta châm chiếc tẩu thuốc và bao dung nhìn tôi mải mê ngắm bộ sưu tập của mình trong im lặng. Có đến vài cuốn tôi muốn mua, nhưng cuối cùng tôi chọn Những bức tranh thiên nhiên sống động thổi hồn từ cây bút của Margaret Cavendish, Nữ công tước Newcastle lừng danh. Đó phải cuốn sách mới - thực được xuất bản khoảng mười năm, được viết trong suốt chuyến lưu vong của bà khỏi nước Cộng hòa - nhưng cha tôi đọc nó và hoàn toàn tán đồng với những gì viết trong cuốn sách. Tuyệt hơn hết là nó chỉ có giá bốn xu.

      lựa chọn thông minh”, người bán hàng khen ngợi với nụ cười, “với điều kiện đừng để tất cả những tưởng tượng lãng mạn của bà ta chi phối đầu óc mình. Quý bà đó rất lạ thường, xứng đáng được người ta ngưỡng mộ, nhưng tôi nghĩ bà ta là người nên noi gương”.

      Tôi mỉm cười đáp lại. “Tôi luôn ghi nhớ lời khuyên của ông, thưa ông”, tôi hứa, khá chắc chắn rằng mình bao giờ bị cám dỗ để ganh đua với những bộ váy và phong cách sống hoang phí của Nữ công tước Newcastle.

      Tôi đưa những đồng xu cho ông ta, nhưng ông ta khẽ lắc đầu, rồi đẩy đĩa đựng chất lỏng về phía tôi. Mùi giấm hăng hắc cuộn lên xộc thẳng vào mũi tôi.

      “Cẩn thận trước nạn dịch đáng nguyền rủa”, ông ta giải thích. “ có thể đến từ Luân Đôn, bé, nhưng chẳng ai biết được những đồng xu của đến từ đâu cả.”

      Tôi ném bốn xu vào đĩa giấm bằng những ngón tay run rẩy, chắc chắn ông ta có thể đọc được vẻ tội lỗi trong đôi mắt cụp xuống của tôi. Siết chặt món đồ vừa mua, tôi vội vã quay bước chậm lại cho đến khi lạc vào đám đông rộn rã vô danh nào đó.

      thể định hướng được đường , tôi thấy mình loanh quanh thành những vòng tròn vô định, thể tìm thấy Rachel hay dãy bán thịt. Sau khi làm vòng quanh khu chợ tưởng như dài vô tận, tôi ngừng lại trong chiếc lán để nghỉ chút và phát mình đối mặt với con ngựa xám khổng lồ trông quen thuộc đến lạ kỳ.

      Con thú được buộc vào chiếc đai sắt bức tường, đứng cực kỳ điềm tĩnh, chỉ nhìn chằm chằm xuống tôi với đôi mắt to dịu dàng hơi để lộ chút tò mò.

      “Ôi”, tôi khẽ kêu.

      Tôi luôn thích các chú ngựa. Khi còn , tôi bộc lộ là bé gan dạ, bao giờ sợ các con vật. Sở thích đó ngày càng trở nên đáng lo ngại khi tôi luôn chạy ra đường để cưng nựng những chú ngựa đánh xe cũng như ngựa dùng để cưỡi la liệt các con phố của Luân Đôn. hề thấy sợ hãi, tôi bước lại gần hơn đến chỗ con ngựa cao ngất và vươn bàn tay ra dò hỏi.

      “Ôi”, tôi lại thốt lên, “cậu bé xinh đẹp. Ổn rồi mà, tao làm mày đau đâu”.

      Hai lỗ mũi rộng của nó loe ra, ngửi ngửi mùi của tôi.

      “Đây rồi, bé ”, tôi tiếp tục với cái giọng ngu ngốc người ta vẫn dùng để dỗ những đứa bé và động vật, “Đừng sợ. Tao chỉ muốn chạm vào mày thôi mà. Đây này”

      Tôi khum tay mũi chú ngựa, vuốt . Sau lát, tôi cảm nhận được thả lỏng của nó, nó ấn gương mặt vào bàn tay vuốt ve của tôi. Tôi hân hoan bật cười và cúi mình để hôn lên chiếc mũi lùng sục của con ngựa, lướt bàn tay dọc theo chiếc cổ cong cong xinh đẹp của nó.

      Giọng người đàn ông, vang lên ngay sau lưng, đột ngột chen ngang khiến tôi giật bắn người.

      liều mạng đấy, tiểu thư”, giọng lạnh nhạt vang lên. “Nó là con quỷ xấu tính và phản ứng của nó thường gian dối lắm.”

      vớ vẩn”, tôi . “Nó là con vật đáng .” Tôi quay đầu lại để nhìn thẳng vào mắt Richard de Mornay.

      Thực ra tôi phải ngước lên khá cao mới tới. Lúc đứng, ta dường như hơn khi ngồi lưng ngựa là mấy, đỉnh đầu của tôi dường như chỉ đến vai ta.

      ta nhấc chiếc mũ khỏi đầu với cử chỉ tao nhã và cúi mình thấp trước mặt tôi, đôi mắt ánh lên nét cười.

      “Chúng ta lại chạm mặt rồi.”

      “Chào ngài”, tôi vừa chào vừa gật đầu đáp lại.

      ta có mái tóc tuyệt đẹp, tôi vẩn vơ nghĩ. Khi ta đứng và gạt mái tóc ra sau, dưới ánh mặt trời, nó sáng lấp loáng như bộ lông mượt mà của loài hải cẩu, và tôi lấy làm tiếc nuối khi lần nữa chiếc mũ rộng vành che lấp nó. Nhìn gần thế này, ta trông trẻ hơn rất nhiều so với những gì tôi nghĩ kể từ lần đầu chạm mặt. Chắc chắn ta thể nhiều hơn tôi mười lăm tuổi, nên thể quá ba mươi lăm.

      “Chúc mừng chiến thắng được lòng tin của Navarre”, ta , hất đầu về phía con ngựa.

      “Navarre? Đấy là tên nó sao?” Tôi vỗ về chiếc hàm đầy cơ bắp của con vật. “Cái tên dễ thương.”

      Richard de Mornay nhún vai và băng qua chỗ tôi để nhét gói hàng vào trong hai chiếc túi da ngoắc vào yên ngựa.

      “Tôi có khiếu đặt tên. Tôi gọi nó là Navarre vì đó là nơi tôi mua nó. bị lạc Rachel rồi à, hay đơn giản phát mệt vì phiên chợ rồi?”

      Tôi thận trọng chớp mắt. “Làm sao ngài biết tôi với Rachel?”

      “Trước đó tôi có thấy hai người. khó mà để mắt tới hai người đẹp tóc vàng ở nơi thế này.” Rồi ta làm việc lạ lùng, đó là vươn tay chạm vào cánh tay tôi, ngay phía cổ tay. Những ngón tay ấm áp chạm vào lớp vải trơn ở tay áo tôi.

      nên mua chiếc vòng tay, biết đấy”, ta điềm tĩnh bảo tôi. “Những viên đá rất tiệp màu với mắt .”

      Lòng kiêu hãnh ngăn tôi thốt lên rằng món đồ nữ trang đó quá đắt. Tôi lui lại bước , bàn tay ta thõng xuống, vẻ mặt hờ hững.

      “Thay vào đó, tôi mua cái này.” Tôi giơ cuốn sách lên cho ta xem.

      ra có thể đọc.”

      “Cha tôi là người sao chép tài liệu. Ông coi nạn mù chữ là tội lỗi thể dung thứ.”

      may mắn. Tôi thể hình dung tìm thấy nhiều thứ để đọc trong nhà của bác .”

      muốn nhưng tôi đành mỉm cười. “Cực ít.”

      “Vậy phải đến lâu đài thăm tôi thôi. Tôi có thư viện khá lớn. luôn được hoan nghênh mượn bất cứ cuốn sách nào muốn.” Đôi mắt ta thoáng lướt qua tôi và quét về phía khu chợ đằng sau. “Rachel kia kìa.”

      Tôi quay lại nhìn, đôi mắt mở to chút khi phát Rachel cùng người đàn ông. người đàn ông cao lớn, với đôi vai rộng và bàn tay to khỏe khoắn cùng gương mặt mạnh mẽ vô cùng hấp dẫn. Tôi lại nhìn thấy đôi bờ vai đó và đột nhiên nhớ ra trước kia từng nhìn thấy ta ở đâu.

      “Đó có phải là Evan Gilroy ?” Tôi hỏi.

      “Phải.” Richard de Mornay nhìn tôi lạ lùng. “Tôi nhận ra hai người gặp nhau rồi đấy.”

      phải. Tôi nhìn thấy khi ta mang chiếc rương của tôi từ trong làng đến. Rachel với tôi tên của ta. ta là bạn .”

      hẳn là câu hỏi, nhưng dù sao ta vẫn trả lời.

      “Phải, chúng tôi là bạn. Rachel nhà được chăm sóc tử tế.”

      Vẫn chưa chắc đâu, tôi gượng nghĩ và dõi theo khi Evan Gilroy chuyển vài gói hàng cho Rachel cùng lúc cúi người chuyện với . Dù ta có điều đó cũng mang sắc hồng ửng lên đôi má nhợt nhạt của trẻ. Khi ta quay người thẳng đến chỗ chúng tôi, ấy nhìn theo với đôi mắt buồn che giấu nỗi khao khát bên trong. ấy hề nhìn thấy tôi đứng trong góc tối cạnh con ngựa xám cao lớn, và tôi vô thức thở hơi nhõm.

      “Evan”, Richard de Mornay gọi, “đây là Farr, mới chuyển đến Đàn Cừu Xám”.

      Evan Gilroy nhấc chiếc mũ lên khi đến đứng cạnh chúng tôi. đánh giá thẳng thắn và sắc sảo từ đôi mắt xám của ta hề khó chịu, tôi thoải mái mỉm cười đáp lại.

      “Tôi tin ngài giúp đỡ tôi, thưa ngài”, tôi bảo với ta, “nên tôi nợ ngài tiếng cảm ơn”.

      “Ý là việc chuyển chiếc rương hộ phải ? Cam đoan với , to tát gì đâu. Richard mới là người nên cảm ơn, bởi chính cậu ta cầu tôi…”

      “Chúng ta phải rồi” Richard de Mornay cắt ngang, đầu tiên ném ánh nhìn tăm tối về phía Evan Gilroy, sau đó là nụ cười chân . “Cậu nên tìm ngựa của mình , bạn.”

      “Nó ở con hẻm bên cạnh”, người đàn ông to lớn , gật đầu chào tôi thêm lần nữa trước khi bước . “Hân hạnh của tôi, thưa .”

      Richard de Mornay nhảy lên yên ngựa và siết dây cương, khiến đôi bốt sáng bóng ngoắc vào bàn đạp chỉ cách mặt tôi vài centimet.

      nhớ”, ta , “đến thăm thư viện của tôi đấy nhé”.

      Tôi nghển cổ lên nhìn ta. “Tôi xin lỗi”, tôi , “nhưng tôi thể”.

      “Tôi có thể hỏi lý do ?”

      “Bác tôi”, tôi thẳng, “ cấm tôi chuyện với ngài”.

      ta nhìn chằm chằm xuống tôi lúc lâu, đôi mắt nheo lại nghiền ngẫm.

      lạ lùng”, ta chậm rãi . “Tôi nghĩ người nhát gan.”

      Trước khi tôi có cơ hội trả lời, ta giật dây cương và thúc ngựa mất, lần thứ hai bỏ lại tôi bối rối trố mắt nhìn theo như kẻ ngốc.

      “Mariana!” Rachel gọi từ con đường và tôi chầm chậm bước về phía ấy.

      “Tôi cứ nghĩ chị bị lạc”, ấy vừa vừa đưa cho tôi gói thịt bò và đổi chỗ các gói đồ tay cho dễ cầm. “Chị có tìm được thứ mình cần ?”

      “Tôi mua quyển sách.” Tôi cho ấy xem.

      Rachel nhướn mày.

      “Chị phải giấu cho Jabez nhìn thấy”, thẳng thắn khuyên. “Bác chị có mấy thiện chí với những người phụ nữ thích đọc sách đâu.”

      Tôi bắt đầu nghĩ, dù sở thích có là gì chăng nữa cũng tạo nên thiện chí với bác tôi, nhưng tôi chỉ đơn thuần cắn môi và ôm cuốn sách chặt hơn. Chúng tôi bắt đầu hành trình bộ dài bốn dặm về nhà trong im lặng, cả hai đều bận rộn với những ý nghĩ của riêng mình. Mỗi bước tôi , tảng thịt bò dường như càng trở nên nặng nề và khó cầm hơn. Khi mới được nửa dặm, tôi suýt chút nữa đánh rơi hết thảy xuống đất.

      “Tiếc rằng chàng Evan Gilroy đủ hào hiệp để mang cái mớ khốn khổ này về nhà hộ chúng ta”, tôi rầu rĩ bảo với Rachel, khi vật lộn để giữ chặt đống đồ của mình.

      Rachel quay phắt đầu lại, đôi mắt mở to đầy báo động. “Chị nhìn thấy chúng tôi?”

      Tôi gật đầu, bối rối trước xấu hổ của ấy. “ ta khá điển trai, Rachel à.”

      ấy cúi đầu tránh ánh mắt tôi.

      “Tôi đính hôn rồi”, bằng giọng đều đều, “với Elis Webb, quan khâm sai của Exbury”.

      Tôi nhìn thấy vị quan khâm sai đó, người đàn ông nghiêm nghị, cứng nhắc với chiếc miệng khắc khổ, khó tính và vẻ mặt luôn tăm tối tương xứng với bộ quần áo ảm đạm của ông ta.

      “Ôi, Rachel.” Tôi thể kiềm chế cảm giác khổ sở của bản thân.

      ấy cam chịu tiếp. “Ông ta là bạn của bác chị và là người đàn ông tử tế. Chúng tôi kết hôn vào cuối hè.”

      Tôi im lặng, và sau lát, ấy ngước mắt lên nhìn tôi thêm lần nữa, vẻ mặt gần như van nài.

      “Nên chị thấy đấy”, ấy bảo tôi, “ hay lắm nếu tôi bị người ta bắt gặp chuyện với Evan Gilroy. Đương nhiên tôi bao giờ lại hành động như thế”.

      Tôi siết bàn tay và cam đoan. “Tôi nhìn thấy gì hết”, tôi .

      Gương mặt căng cứng của Rachel giãn ra thành nụ cười. Khi nhìn ấy, tôi thấy vẻ lấp lánh quay trở lại trong đôi mắt màu hoa lưu ly của ấy.

      “Tôi cũng làm thế nữa”, đó là lời đáp kín đáo của Rachel.

      Chúng tôi gì thêm cho tới khi đến Exbury và ngôi nhà màu xám lẻ loi. Lúc chúng tôi vào nhà, bác Caroline cho bé John ăn cạnh lò sưởi trong bếp. Bác trông ủ rũ và mệt mỏi đến khó tin, đôi mắt đỏ ngầu.

      “Jabez đến Salisbury thời gian”, bác đều giọng thông báo cho chúng tôi. “Ông ấy có vài công chuyện ở đó.”

      Đây phải là tin tức khó chịu. Caroline tuy nhợt nhạt và yếu ớt, nhưng tính khí của bác ấy khá dễ chịu và tôi thể ngừng nghĩ rằng, chỉ cần thêm chút thời gian, chúng tôi có thể trở nên thân thuộc. Bác cũng già hơn tôi là mấy, dù trông nhiều tuổi hơn nhiều, mái tóc có những dải trắng xóa vì cuộc sống cơ cực.

      Tôi mỉm cười, nhưng bác đáp lại.

      người đàn ông vừa đến đây”, bác ấy với tôi, hề có chút hứng thú trong giọng . “ người hầu đến từ tòa trang viên. ta mang đến gói đồ cho chị. Bảo rằng chị đánh rơi nó trong khu chợ. Nó kia kìa, ngay bàn ấy.” Bác chỉ, cẩn thận quấy rầy đến đứa bé bú sữa.

      Tôi nhìn theo. Đó là gói đồ và mỏng, buộc bằng sợi màu nền giấy gói sáng. Thành thực mà , tôi bị diện của món đồ làm cho kinh ngạc, nhưng tôi muốn để Rachel hay chị của ấy nhìn thấy phản ứng của mình.

      “Tuyệt quá”, tôi vui vẻ reo to. “Cháu cứ tưởng đánh mất nó. Cảm ơn bác, Caroline.”

      Bác tôi nhìn gói đồ với chút tò mò lóe lên trong mắt, liếc sang quyển sách trong bàn tay kia của tôi rồi nhướn bên mày nhạt màu, nhưng bình luận gì cả. Điều đó khiến tôi nhõm, Rachel cũng vậy. Chẳng mất chốc, ngồi mình trong căn phòng gác, tôi đặt gói đồ lên giường và cẩn thận bóc nó ra, máu chảy rần rật vì hồi hộp. Tôi có thể cảm nhận được hình dạng cứng cáp của món đồ bên trong qua lớp giấy trước khi bóc được nửa.

      Dẫu vậy, được chuẩn bị trước cho chiếc vòng tay xinh đẹp hiển trước mắt, với đàn chim thiên đường mắt xanh trang trí xung quanh, tôi làm rớt nó xuống lớp chăn thô ráp và sơ sài.

                  CHƯƠNG 16


      “Julia.”

      Cả người tôi chấn động, hay ít nhất cũng là cảm giác của tôi về bản thân. Cũng có thể là do căn phòng. Chắc chắn những bức tường còn vững chãi nữa; chúng tỏa sáng lung linh và nhảy múa như thể ánh sáng huyền ảo chuyển động, phản chiếu qua cả nghìn lăng kính xoay.

      “Julia.” Giọng lại vang lên, tôi chậm chạp quay đầu lại, với nỗ lực tập trung cao độ, hướng về phía phát ra giọng .

      Đầu tiên, tôi thể nhìn thấy thứ gì ngoài khung cửa phòng mở toang, hình thù màu xám quái dị chặn ngang tầm nhìn ra ngoài hành lang. Hình thù màu xám quái dị mỗi lúc phình to và trôi bồng bềnh, như những đám mây, về phía tôi, gọi tôi bằng giọng đàn ông ràng mỗi lúc sắc bén hơn.

      “Julia.”

      Ý nghĩ đầu tiên của tôi là, đó phải tên mình, rồi tôi nghĩ, nhưng mình biết giọng ấy, rồi lại nghĩ, Ôi, đó là Tommy, càng thêm chắc chắn, đúng là trai đứng trước mặt tôi, khoác lên vẻ mặt cha tôi mỗi lần thấy trong hai em bị ốm. Đó là vẻ mặt khổ sở và lo lắng xen lẫn bất lực thảm thương, lời đáp của tôi hoàn toàn vô thức. “Em ổn mà, Tom. đấy.” Rồi tiếp, khi thực tại tác động đến mình mạnh mẽ hơn, “ làm cái trời ơi đất hỡi gì ở đây thế này?”.

      lờ câu hỏi của tôi , tiếp tục nhìn tôi chằm chằm với đôi mắt lúc này dường như trở nên hứng khởi tột độ hơn là lo lắng. “Em ở đây”, tuyên bố với giọng căng thẳng, “phải ? Em ở nơi khác. Là ai đó khác”.

      Tôi vẫn quỳ sàn, buộc bản thân chuyển sang tư thế đứng dậy, cảm giác các khớp xương kêu răng rắc phản đối. cách im lặng, tôi gật đầu.

      Tâm trí tôi chắc chắn còn nghi ngờ gì về chuyện vừa xảy ra. Mái tóc ướt đẫm, khi tôi gạt khỏi gương mặt và bùn bám đầy đôi giày lẫn sàn nhà bằng gỗ, lấm lem nơi tôi bước qua trong xưởng vẽ. Bàn tay cứng ngắc và đỏ bừng vì lạnh, tôi ngơ ngẩn nhìn chằm chằm xuống chúng, như thể ngạc nhiên khi phát ra chúng thuộc về cơ thể mình.

      “Lạy Chúa”, Tom thở hắt ra, đôi mắt vẫn ghim chặt vào tôi.

      Đây là lần đầu tiên tôi nghe thấy thốt ra cụm từ đó kể từ khi tốt nghiệp trường Oxford. nghiêng đầu và nheo mắt lại. “Em có tí rượu brandy nào trong nhà thế?”

      “Hả?” Bối rối, tôi liếc xuống chiếc đồng hồ đeo tay. “ Tom, giờ mới mười rưỡi. nghĩ vẫn còn hơi sớm sao? Nhất là với người mặc quần áo tu hành như .”

      Nụ cười nhăn nhở của thiếu tôn kính. “ đảm bảo Chúa tha lỗi nếu uống cả thùng brandy trong những dịp đặc biệt. Nhưng rượu phải dành cho . Em mới cần brandy đấy, cưng ạ. Chết tiệt, trông em kinh khủng quá.”

      “Mục sư được chết tiệt”, tôi vụng về nhắc nhở.

      may vì giám mục ở đây để nghe thấy”, Tom vặn lại, dùng tay đẩy tôi qua căn phòng để ra ngoài hành lang, hướng tôi về phía cầu thang.

      “Em có chút brandy nào trong nhà hết”, tôi cự nự, nhưng sau đó thỏa hiệp, “nhưng em nghĩ vẫn còn ít Grand Marnier [1] trong tủ lò sưởi”.

      [1] loại rượu cognac nổi tiếng.

      “Tuyệt”, Tom . “Được đấy.”

      Tôi phải nỗ lực rất nhiều mới được xuống cầu thang, đôi chân cứng đờ kỳ quặc gây nhiều trở ngại, cho đến khi tôi nhận ra rằng, khi là Mariana Farr, tôi phải bộ tám dặm sáng nay.

      Tom thô lỗ ấn tôi ngồi xuống bàn ăn trong bếp, xác định vị trí của chai Grand Marnier và hào phóng rót lượng lớn vào chiếc ly cho tôi. Dưới ánh mắt nghiêm khắc và ép buộc của , tôi đành phải uống. Rượu nóng chảy khắp người tôi, mang màu đỏ sậm lên làn da và xua đuổi tình trạng tê cứng khỏi những đầu ngón tay. Tôi lại uống thêm hớp, gạt mái tóc nhớp nháp khỏi đôi mắt và ngước lên nhìn Tom.

      vẫn chưa mình làm gì ở đây”, tôi nhắc nhở.

      “Thăm em chứ gì nữa”, đó là câu trả lời đơn giản. “ có việc gấp phải làm hôm nay nên nhường quyền phụ trách lại cho cha phó và lái xe đến đây. muốn xem em thế nào - để đảm bảo mọi thứ vẫn ổn. Và muốn đưa cho em cái này”, thêm vào, nhìn xuống chồng giấy tờ dày cộm đặt chiếc bàn chắn giữa chúng tôi. Tiêu đề của đám tài liệu cùng cho thấy ràng đây là những thông tin mà người bạn làm thủ thư của Tom đào xới được. Giờ Tom nhìn nó như thể nó mất phần nào tầm quan trọng, như thể từ những gì vừa được chứng kiến, đám tài liệu này trở nên dư thừa.

      “Dù sao nữa”, tiếp tục, “khi đến, phát cửa hậu mở tênh hênh và ngôi nhà vắng vẻ. gọi to nhưng ai trả lời nên lên tầng kiểm tra phòng ngủ của em và thấy giường của em được thu dọn, nghĩa là có thể em dậy sớm và tự mình thu dọn”, đôi mắt thẳng thắn của báo cho tôi biết rằng thấy ý nghĩ ấy vô lý đến cỡ nào, “hoặc em hề ngủ ở đấy. Nghĩ vậy, bắt đầu thấy lo lắng, vừa xuống tầng dưới để quyết định nên làm gì tiếp theo em lao ào ào qua cửa hậu, mắt trợn trừng như con cừu và quần áo nước tong tong lên khắp sàn”.

      “Em có ?”

      .” lắc đầu. “Em chỉ đứng cạnh cửa lúc, rồi thẳng qua và leo lên tầng đến phòng vẽ của em. nghĩ mình có thể đợi em tự thoát ra cách tự nhiên, nhưng e mình quá hoảng sợ. có làm gián đoạn chuyện gì quan trọng ?”

      Tôi nghĩ đến chiếc vòng đáng , gần như lại cảm giác được nó tuột khỏi bàn tay mình và nghe thấy được giọng của Richard de Mornay vang lên, “ nên mua chiếc vòng tay ấy”, trong khi ta nắm cổ tay tôi ở khu chợ. Cổ tay của Mariana. Tôi áp bàn tay lên trán và nhắm mắt lại.

      ”, tôi , “ có gì quan trọng cả”. Nhưng tôi có thể nghe thấy tiếc nuối trong chính giọng của mình và tự hỏi biết Tommy có nghe thấy .

      may vì em ăn mặc như vậy khi chuyện đó xảy ra”, bình luận lúc nhìn chiếc áo, quần jean ẩm ướt và nhăn nhúm của tôi. “Nếu em mà mặc váy ngủ và dép lê lang thang ngoài đường chuyện còn kinh dị hơn nhiều.”

      Tôi mỉm cười. “Em chắc chắn mình ăn mặc tử tế rồi chứ. Nếu , em cho phép mình chạm vào tay nắm cửa, thế thôi.”

      dám chắc mình có thể hiểu kịp.”

      “Em lên kế hoạch rồi, Tommy”, tôi , thể ngăn chút tự hào thoát ra từ giọng . “ thấy đấy, nó gần như kiểu thử nghiệm. Em muốn biết có thể tự mình quay về quá khứ, với thời gian và địa điểm theo lựa chọn của e hay .”

      “Và?”

      “Và ràng rất hiệu quả, dù diễn ra chính xác theo cách em mong muốn. Em nghĩ đến chuyện ngăn quá khứ quay lại trong căn nhà này.”

      Tom liếc qua vai về phía cánh cửa bếp khép hờ, mặc làn hơi ẩm tươi mới của buổi sáng muộn thứ Năm tràn vào.

      “Và Mariana mở cửa”, đoán. “ hiểu rồi. Chắc chắn thể cùng loại khóa sử dụng vào thế kỷ XVII được.”

      Tôi tò mò nhìn chiếc then cài nặng nề. “, nhưng nó ở cùng chỗ và thiết kế cũng tương tự nhau. Hãy nhìn mà xem, chỉ phải kéo nó lên và cánh cửa bật mở.”

      hiểu rồi.” nhăn mày. “Đó là cái khóa cổ. có mấy tính bảo vệ. Cái em cần là cái khóa chết. Thực tế, chúng ta cần mua luôn đôi vào chiều nay và tự lắp chúng cho em.”

      giống hệt người chuyển đồ giúp em ấy”, tôi bảo , mũi nhăn lại. “Ông ta cũng bảo em cần phải thay những chiếc khóa mới.”

      “Người đàn ông khôn ngoan.”

      đừng lo lắng quá, Tom à. Quanh đây chẳng ai khóa cửa nhà cả, nơi này rất an toàn. Bên cạnh đấy, nếu em lại quay trở về quá khứ và cố mở cửa khi nó bị khóa sao? Em có thể khiến bản thân bị thương.”

      chẳng thấy làm sao cả. Lúc ấy cảnh hồi tưởng bị ngăn lại, nghĩ vậy đấy. Mariana, trong quá khứ mở cửa và đến đâu đó, nhưng em bị mắc lại phía sau.” lại nhìn bộ dạng ướt nhẹp thảm thương của tôi, rồi thắc mắc. “Dù sao sáng nay ấy mang em đâu vậy?”

      Tôi uống nốt chỗ rượu và dằn chiếc ly thủy tinh xuống bàn. “ theo em”, tôi vừa vừa đứng dậy. “Em chỉ cho thấy.”

      “Giờ là gì nữa nào?” Tom ném ánh mắt hoảng hốt qua cửa sổ bếp. “Trong thời tiết này á?”

      Trời lại mưa rả rích, tôi có thể nghe thấy tiếng nước chảy ồng ộc qua ống thoát nước từ máng hứng mưa đầu, tạo thành vũng nước lầy lội ngay bên ngoài cửa hậu.

      “Em nghĩ có lẽ chúng ta nên dùng ô tô”, tôi giải thích, với nhẫn nại cường điệu. “Em vừa có buổi dạo trong mưa sáng nay.” Tôi chìa vạt áo sơ mi đẫm nước như bằng chứng.

      Tom mỉm cười. “Phải rồi. xin lỗi, nghĩ ra. Nhưng trước hết em thay quần áo chứ?”

      “Em thấy như thế tốt hơn.” Tôi nhìn xuống bản thân. “Chờ em nhé, đến phút đâu.”

      Song thực tế, tôi mất đầy năm phút để đổi chiếc quần jean khô ráo và chiếc áo chui màu đỏ tươi, choàng lên mình chiếc áo mũ mưa, rồi vào chuồng ngựa kiêm nhà để xe với trai.

      “Chúng ta hướng nào đây?” Tom hỏi và chui vào chiếc xe để cài số lùi.

      “Rẽ trái ở cuối lối vào nhà, rồi chọn nhánh đường bên phải khi chúng ta băng qua sông.”

      Tom im lặng tuân theo chỉ dẫn của tôi, vọt chiếc xe Ford thể thao qua chiếc cầu và rẽ khỏi trục đường chính để men theo tuyến đường hẹp và ít người qua lại.

      “Đường Marlborough cũ”, đọc biển chỉ dẫn. “Đây là đường em ?”

      Tôi gật đầu. “Em nghĩ thế.”

      Trong vài phút tiếp theo, tôi có thể chắc chắn, khi những hàng cây thưa dần và vạt rừng rì rào xanh mướt của khu săn bắn Wexley trôi dần sang bên trái. Con đường rải đá được cơn mưa gột rửa - nếu có bộ theo lối này, tôi cũng để lại dấu vết nào cả - nhưng phong cảnh đồng quê rực rỡ vẫn nung thành dấu vết sâu sắc trong ký ức của tôi.

      Trong giờ hay có thể kể từ lần cuối tôi nhìn thấy, nó đổi khác rất nhiều. Những ngôi nhà đại mọc san sát con đường và cánh đồng, nơi đàn cừu từng chạy loanh quanh. Những chỗ trống trước đây giờ được lấp đầy cây, thay vào mảng rừng cũ là mảnh đất bằng. Tuy vậy, con đường vẫn thân quen như những con phố từ thời thơ ấu của tôi vậy. Khi lái xe lên ngọn đồi và bắt đầu xuôi xuống khu Wexley, tôi thể thôi ngăn lại chút run rẩy vì cái cảm giác thân quen ấy.

      Đây là thị trấn đơn sơ. Vây quanh khu chợ hình vuông chỉ là cụm hàng quán có tường bằng khung gỗ được sửa chữa lại mặt ngoài, ganh đua với các tòa nhà đại thực dụng xấu xí và các ngôi nhà xây từ gạch đỏ từ thời Victoria. Giống như nhiều thị trấn ở khác, nó là tổ hợp kỳ dị của nhiều kiểu kiến trúc và thị hiếu khác nhau, dần dần hòa nhập với truyền thống, và cuối cùng, thành quả là sắp xếp tương đối thoải mái.

      Khu chợ từ thời Trung Cổ phía trước, theo như tôi nhớ, nằm ở trung tâm của quảng trường, biến mất. Có lẽ nó là nạn nhân của vụ hỏa hoạn, của phát triển hoặc đơn giản bị lụi tàn và chia cắt bởi thời gian. Đứng ở vị trí của nó giờ đây là bức tượng người đàn ông nghiêm nghị mặc quần áo thời Nhiếp chính, nghi ngờ là trong số các cha cố điềm đạm của thị trấn này từ thế kỷ trước.

      Tommy đỗ xe vào bóng râm của bức tượng và quay sang nhìn tôi.

      “Cuộc bộ được đấy”, bình luận. “Gần bốn dặm. Chắc hẳn em phải mất gần giờ cho mỗi lượt .”

      “Em cũng nghĩ thế. Đương nhiên đoạn đường có vẻ cũng xa lắm, vì em có người cùng.”

      “Kiểu cùng thế nào đấy?”

      “Rachel.”

      “Ai?”

      “Rachel”, tôi lặp lại, trước khi kịp nhận ra, dù tất cả những người sống ở kiếp trước có thân thuộc thế nào với tôi chăng nữa, họ chẳng có ý nghĩa gì với Tom cả. Họ là những người lạ từ vùng đất xa lạ, kèm với thực thể hay mang bất cứ ý nghĩa nào.

      Thế nên tôi tiếp tục kể với trai những gì tôi biết về Đàn Cừu Xám - nó từng thuộc về ông ngoại của Mariana, sau đó được người con trai cả thừa kế, Jabez Howard cứng rắn và tẻ ngắt. Tôi kể với về bác Caroline có đôi mắt trống rỗng, và Rachel, người sống cùng chị rể từ khi hai người kết hôn. Tôi cũng kể lướt về những người cư ngụ trong tòa trang viên, nhưng lúc đó Tom mấy lưu tâm. thích thú với hành trình đến khu chợ vào sáng nay của tôi hơn.

      “Vậy là em cùng Rachel đến quảng trường này”, , “và... sau đó sao? Em làm gì?”.

      “Bọn em đứng ở kia”, tôi phẩy tay về phía quầy báo ở tít bên của bức tượng, “xem vở kịch, rồi cả hai tách ra và em lòng vòng quanh đây, nếu hiểu ý em là gì. Ngừng lại để xem vài quầy hàng, nhưng hầu hết em chỉ loanh quanh. Cuối cùng em đứng ở cái ngõ kia, giữa quán trà và ngân hàng”.

      Gần như còn là con ngõ nữa, tôi tự sửa lại. Nó được mở rộng thành làn đường đủ cho xe ô tô vào, dù vẫn nằm phần đường hẹp và lớp sỏi trước đây bị chôn vùi dưới mặt đường màu đen trơn nhẵn.

      Tom nhìn theo.

      “Em làm gì ở đó?”

      “Em vỗ về con ngựa.”

      “Và rồi em rời ?”

      “Vâng. Rachel đến tìm em và bọn em trở về nhà, theo đúng con đường đến.”

      hiểu rồi.”

      Tôi nhìn ngờ vực. “ cho rằng em say rượu đấy chứ?”

      đâu! chưa bao giờ bảo...”

      “Ôi, bỏ .”, tôi bảo , giơ bàn tay mệt mỏi lên bóp đầu. “Em xin lỗi. phải tại đâu, Tom. Chỉ là... Em biết nữa, mọi thứ dường như đến chết tiệt khi nó thực xảy ra, rồi lúc kết thúc, em cảm thấy ... mất phương hướng. Như thể tất cả đều xảy ra trong mơ, em biết rằng...”

      Giọng tôi trở nên cực kỳ khổ sở, Tom cho tôi cái trừng mắt cứng rắn của bậc làm trước khi đẩy cánh cửa bên ghế lái bật mở.

      “Hừm”, tươi tỉnh , “có cách để kiểm chứng xem em có ở đây sáng nay đấy”.

      “Bằng cách nào?”

      Nụ cười kẻ cả của vụt lên. “Cưng à, em loanh quanh khắp khu này trong cơn mưa như trút. Chắc chắn phải có ai đó chú ý đến em rồi.”

      “Nhưng các cửa hàng vẫn chưa mở cửa.”

      cược ít nhất trong số chúng mở cửa rồi”, là câu trả lời quả quyết của trai tôi. Tôi nhìn băng qua quảng trường rồi biến mất vào trong cửa hàng sách báo. Khi xuất mười phút sau đó, cầm theo hai chiếc cốc giấy và trông tự mãn cách khủng khiếp.

      “Cà phê chứ?” vừa mời vừa đưa cho tôi cốc khi chui vào ghế lái và kéo chiếc cửa đóng lại sau lưng. Trời vẫn mưa lất phất, kéo theo cả ẩm ướt theo vào với , những giọt nước lóng lánh đọng mái tóc đen cùng chiếc áo khoác màu xanh thẫm.

      “Em thể uống thứ này được”, tôi phàn nàn, khi nhìn xuống chiếc cốc trong tay. “Nó phải cà phê thực thụ đâu Tom.”

      “Tùy em.” hớp ngụm lớn từ cốc của mình trước khi tiếp. “Tình cờ em có mặt ở đây sáng nay. Người phụ nữ trong cửa hàng nhìn thấy em. Ít nhất chị ta trông thấy nhắn mặc bộ đồ đen với mái tóc quăn ngắn, đứng trong quảng trường vào khoảng bảy giờ ba mươi phút. Đầu tiên chị ta cứ nghĩ em nhìn qua cửa sổ quán nhà chị ta, nhưng khi chị ta ra để chuyện với em, em lại mất. Chị ta nhìn thấy em vài lần, bộ quanh quảng trường. Cho rằng em đợi ai đó đến đón mình.”

      làm thế nào mà khiến chị ta kể hết những chuyện này cho vậy?” Tôi nhã nhặn hỏi. “Em có cần phải biết ?”

      có gì.” Tom nhún vai. “ bảo mình là bác sĩ ở bệnh viện tâm thần, bọn bị lạc mất bệnh nhân. Chị ta ràng rất lấy làm thông cảm.”

      “Tom!” Tôi choáng váng. “ đùa chắc! thừa biết đây là cộng đồng - rồi tin tức này lan ra mất thôi. Sau này sao em dám bước chân ra khỏi nhà nữa!”

      “Vẫn quá đơn giản mà, em .” cười ra vẻ khoan dung. “Ý là để giải thoát cho em. Em có thể bình tĩnh được rồi đấy, chỉ bảo chị ta là có hẹn với em ở đây sớm hơn, nhưng vì xe của gặp trục trặc nên đến muộn. hỏi chị ta có nhìn thấy em , chị ta bảo có, rồi giả vờ hối lỗi vô hạn và mua cà phê thôi. Chị ta chắc chắn nghĩ em chờ mệt quá nên quyết định về và giờ tìm cách để cố gắng xoa dịu em. Được chưa?”

      “Rồi.”

      “Tốt. Thế cúi đầu em xuống thấp chút khi chúng ta lái xe qua đó nhé? muốn người phụ nữ kia nghĩ vừa là tay sát vừa là tên đàn ông vô tâm bỏ mặc bạn của mình trong mưa đâu.”

      Tôi ngoan ngoãn cúi thấp đầu, chúng tôi lái xe vòng qua tượng đài của khu chợ, hướng trở lại đường Marlborough Cũ để quay lại Exbury.

      “Thế”, tôi , giờ ngồi thẳng dậy khi đến được khu vực an toàn, “ muốn làm gì trong phần còn lại chuyến thăm viếng nào? Tất cả câu chuyện cường điệu này hẳn buồn chán kinh khủng với ”.

      “Ngược lại là khác, chưa bao giờ kích động thế này suốt bao năm trời.” Tom cười nhăn nhở. “Nhưng phải thừa nhận các kế hoạch của mình cho ngày hôm nay trần tục hơn nhiều. cứ tưởng chúng ta dùng bữa trưa ở quán rượu của...”

      “Gì cơ, quán Sư Tử Đỏ á?”

      gật đầu. “ nghĩ đây là lúc mình nên gặp gỡ những người bạn mới của em. Nếu có gì khác đó là vì lòng hiếu kỳ. Sau khi lắp mấy ổ khóa mới lên cửa nhà em, nghĩ mình có thể đưa em đến Swindon trong phần còn lại của ngày hôm nay. Chúng ta ngó nghiêng các cửa hàng, nếu em muốn, dùng bữa tối thịnh soạn ở đâu đó, thậm chí có thể xem phim sau đó nữa. Có nhớ vụ xem phim ?”

      “Em .”

      cũng vậy”, thở dài. “Thế em thấy thế nào?”

      “Nghe có vẻ tuyệt lắm”, tôi thừa nhận.

      “Tốt. Vậy chúng ta cứ tiến hành thôi.”

      Mất khoảng thời gian chúng tôi cứ lái xe trong im lặng, rồi Tom đột ngột nhíu mày và nhìn tôi.

      “Julia, ghĩ thế này.”

      “Vâng?”

      “Những chuyện từ kiếp trước ấy. nghĩ em nên tốn thời gian để cố gắng khiến mọi chuyện xảy ra nữa.”

      Tôi tròn mắt nhìn . “Nhưng tuần trước ...”

      biết. Nhưng đấy là trước khi tận mắt... chứng kiến. Chứng kiến tình trạng của em khi việc đó diễn ra. Giờ nhìn thấy, nên đổi ý. Cứ dành ra phút ngẫm mà xem”, khẩn cầu tôi. “Em có thể bị xe đâm đường, hay gì đó. Và có khi chính quá khứ cũng đầy nguy hiểm. Làm sao em biết cái Mariana đó treo cổ tự vẫn, trầm mình xuống sông, hoặc nhảy khỏi vách đá?”

      “Quanh Exbury có vách đá nào đâu.”

      “Em biết ý là gì. Chúng ta đơn giản vẫn chưa đủ hiểu biết về các tượng siêu nhiên, nghĩ an toàn nếu để em cố gắng thực thử nghiệm đó, thế thôi. Đôi khi chỉ riêng việc chúng tự động phát sinh thôi cũng đủ tệ lắm rồi.”

      Tôi quay đầu ra ngoài cửa sổ nhìn phong cảnh trôi qua vùn vụt trước mắt, trả lời , Tom tiếp tục với giọng thận trọng. “Julia à? muốn em hứa thử làm bất cứ chuyện gì như thế này nữa cho đến khi chúng ta có thêm manh mối về chuyện diễn ra. Em hứa với chứ?”

      Bên kia những khu đồi sũng nước mưa của khu săn bắn Wexley, bầy chim đập cánh bay lên như đám mây ồn ào chuyển động, lượn vòng thành đội hình chặt khít những cánh đồng lấm chấm xanh mướt mềm mại. Tôi quay khỏi cửa sổ và mỉm cười ngọt ngào với trai.

      “Đương nhiên rồi, Tom”, tôi . “Em hứa.”

    4. CQH

      CQH ^^!

      Bài viết:
      192
      Được thích:
      41,961

      CHƯƠNG 17


      “Tôi nghĩ trai còn hơn cả tuyệt vời”, Vivien bình luận. “ giống mục sư thực thụ tí nào.”

      Giờ là chín rưỡi sáng thứ Bảy hôm sau và tôi nhân lúc ánh nắng rực rỡ cùng nhiệt độ dịu để cố gắng, bằng phương pháp nghiệp dư của bản thân, nhổ cỏ khu vườn có chuồng bồ câu sau nhà, trong khi Vivien ngồi vắt vẻo bức tường đá chực đổ, uống trà từ trong những chiếc tách rạn của tôi và chuyện với tôi khi tôi làm việc.

      “Ừ.” Tôi đứng thẳng dậy, ném nắm thứ gì đó tôi hy vọng là cỏ sang bên. “Tôi e rằng nhà thờ cũng có khuynh hướng đồng ý với . có chỗ nào giống mục sư thực thụ cả, dù người trong giáo khu của ấy nghĩ rằng ấy là cả thế giới. Và khi nào muốn, ấy có thể trở nên rất nghiêm nghị. có nghĩ đây là cây hoa ?”

      Tôi nghiêng đầu sang bên, hồ nghi nhìn loại thực vật nhắn, thanh tú với những chiếc lá như dương xỉ.

      tôi cũng chịu”, Vivien . “Tôi hết thuốc chữa với các khu vườn rồi. Coi này, có chắc muốn làm thế? Iain lột da nếu nhỡ tay nhổ trong số mớ cây whatchma-whoosit Nam Mỹ quý báu của ấy đấy.”

      Tôi tha cho cái cây đáng ngờ kia và nhổ cái đám trông như lùm cỏ thay vào đó, vênh cằm lên góc mà trai tôi ngay lập tức nhận ra là thách thức.

      “Tôi sợ Iain Sumner. Hơn nữa, ta có lẽ thể làm tất cả mọi việc. ta giúp khôi phục khu vườn ở trang viên, đồng thời còn phải chăm sóc khu vườn và đàn cừu của ta cùng lúc.”

      ấy còn có vườn cây ăn quả nữa.”

      bảo rồi mà.” Tôi lôi thêm cụm nữa để nhấn mạnh ý kiến của bản thân. “Tôi vừa giữ cho ta khỏi bị suy nhược tinh thần còn gì.”

      Vivien nhăn nhó. “Hừm, đừng bảo tôi cảnh báo đấy nhé. bao giờ chịu đựng được trong những tràng mắng mỏ của ấy đâu.”

      “Chúng thể tệ hơn những tràng mắng mỏ của trai tôi được.”

      “Gì cơ, chính người đàn ông đáng ngọt ngào ngồi ở quầy bar trong quán của tôi và kể những câu chuyện hài cả buổi chiều đấy á? Đừng có bảo tôi là ấy nóng tính đấy nhé?”

      “Khè ra lửa với lưu huỳnh luôn”, tôi xác nhận. “Trong tầm vóc của Kinh Thánh.”

      “Hừm.” Vivien mỉm cười, lúc lắc đôi chân. “Ít nhất khi Iain bắt đầu quát tháo, trọng của ấy cũng nặng hơn, nên thường hiểu từ của ấy… , đừng nhổ cái đó”, ấy đột ngột ngăn tôi lại. “Cái cây đó tôi nhớ. Nó là loại cúc hay gì đó.”

      Tôi ngoan ngoãn rụt tay và ngồi lên hai gót, nghiên cứu công sức bằng tay của mình với thỏa mãn. Khu vườn trông gọn gàng hơn, tôi tự nhủ, và hạnh phúc hơn, được giải thoát khỏi đám thực vật xanh tua tủa ghê rợn nuốt chửng những cụm hoa mao lương, mẫu đơn, diên vĩ đỏ tía trổ bông tuyệt đẹp.

      “Khu vườn thực đẹp quá”, tôi to và Vivien gật đầu.

      “Nằm đám phân chim bồ câu tích trữ được vài thế kỷ”, ấy phân tích. “Hẳn có vô số đạm trong đất.”

      “Tôi nghĩ thế.” Tôi đứng dậy, gom đống cỏ thành chồng để vứt . “Khi nào nó được sử dụng làm chuồng nuôi bồ câu nữa?”

      “Tôi biết. Tôi phải hỏi dì Freda. Chắc chắn vào khoảng thời gian nào đó ở thế kỷ trước. còn nhiều người ăn thịt chim bồ câu nữa, phải ?”

      “Tôi . Tôi nghĩ những hốc này là nơi những chú chim làm tổ.”

      Vivien cúi người để nhìn, luồn bàn tay vào trong những hốc hẹp giữa các tảng đá. “Phải. khó mà nhìn thấy chúng thêm nữa, các tảng đá bị mài mòn rất nhiều. thấy đấy, mấy cái hốc càng mở rộng về phía sau, và những con chim có thể…” Lời của ấy đột ngột đứt quãng, vẻ mặt thay đổi. “Tôi chưa bao giờ!”

      “Sao thế?”

      “Có gì đó trong đây.” ấy chau mày. “Tôi e mình thể với tới nó từ vị trí này. có muốn thử ? Tôi dám chắc nó là thứ gì đó làm từ kim loại, ngay đằng sau hốc náu của lũ chim.”

      ấy rút tay ra và tôi bước lên trước, trượt những ngón tay qua lớp đá bạc màu ẩm ướt. Lối vào chật hẹp của cái hốc đột ngột ngoặt sang phải và mở rộng thành gian như chiếc hang, có lẽ nó được thiết kế để những con chim bồ câu có nơi náu mình tách biệt lý tưởng.

      Những ngón tay của tôi lướt qua bùn đất lợn cợn và búi cảm giác như cụm địa y, trước khi chạm vào mảnh kim loại. Đôi bàn tay của tôi khá , nhưng tiện thay những ngón tay lại dài, cọ cổ tay lên những bức tường mỗi lúc thắt lại của lối vào, tôi chỉ nắm được vật đó giữa những đầu ngón tay rướn lên của mình.

      Tôi rút tay ra và nhìn chằm chằm xuống món đồ bé trong lòng bàn tay với vẻ tò mò tột độ.

      chiếc chìa khóa”, Vivien thốt ra, cần thiết. “Nơi cất giữ quái đấy.”

      Tôi nghe thấy tiếng o o hơi vọng vào tai, thoáng cảm giác được cơn hoa mắt nhức nhối, và cương quyết nhắm mắt, siết chặt hàm răng đầy quả quyết. phải bây giờ, tôi cứng rắn tự với bản thân. thể xảy ra ngay bây giờ.

      Mặt đất rung chuyển rồi lại đứng vững, khi mở mắt, tôi phát Vivien cúi người điềm tĩnh nhìn thứ mới khai phá được của chúng tôi. Tôi vẫn lâng lâng ấy hỏi, bằng giọng rất thoải mái:

      “Là Geoff đến phải ?”

      Tôi ngước lên và quay về phía sau nhà, thấy dáng hình thẫm tối quen thuộc băng qua bãi cỏ đến chỗ chúng tôi. Làm sao ấy lại có khả năng biết được ta lại gần, trong khi bùn đất làm giảm tiếng bước chân và chúng tôi vẫn quay lưng về phía ta, tôi sao biết được. Vivien Wells cũng rất thính tai, tôi tư lự, hoặc dì Freda của ấy phải phù thủy duy nhất trong gia đình.

      “Phải”, tôi đơn giản , “đúng rồi”.

      mặc chiếc áo len màu đen cùng quần jean tối màu, mái tóc được cắt tỉa gọn gàng hơn cái lần mới đây tôi trông thấy. đều chân bước đến bên bức tường đổ nát và chống khuỷu tay lên nó, rồi nheo mắt trước ánh mặt trời.

      “Buổi sáng tốt lành”, lên tiếng. “Và …” Mặt Geoff đột ngột chảy xệ khi nhận thức được bộ quần áo xù xì lem luốc cùng chồng cỏ dưới chân tôi. “ phải khuấy tung khu vườn của Iain đấy chứ?”

      Tôi cảm thấy tội lỗi cách vô lý. “Tôi chỉ nhổ ít cỏ thôi.”

      “Em cảnh báo ấy rồi”, Vivien tự biện hộ, “nhưng ấy nghe”.

      “Hừm”, Geoff trao cho tôi ánh nhìn thoáng thương hại, “làm cũng làm rồi. Dù thế nào nữa bọn tôi cũng đảm bảo lễ tang tươm tất”.

      Tôi mở miệng định đáp lại bắt gặp mảnh kim loại ố bẩn trong tay tôi.

      “Thứ gì thế này?” nhướn bên lông mày.

      “Chìa khóa.”

      “Bọn em tìm thấy nó trong ổ chim trong hốc tường, đây này”, Vivien bổ sung, khi tôi thất bại trong việc đưa thêm bất cứ thông tin nào cụ thể hơn. “Rất đáng chú ý phải ?”

      giơ bàn tay ra. “Tôi nhìn nó được chứ?”

      Nó thậm chí trông còn hơn trong bàn tay . nhíu mày, lật lật lại vài lần và dùng móng tay cạo lên lớp kim loại. “Tôi nghĩ nó làm bằng đồng. Có thể là chiếc chìa khóa cửa, dù có vẻ đủ lớn. thú vị.” nghiên cứu thêm lát, rồi đưa trả lại cho tôi. “Tôi nghĩ đàn bồ câu thu thập những chiếc chìa khóa.”

      “Rất có thể ai đó nhét nó vào đây”, Vivien gợi ý.

      “Nhưng sao họ lại phiền hà thế?” Geoff hỏi.

      Tôi cất chiếc chìa khóa vào túi và nhún vai. “Tôi đoán chúng ta chẳng bao giờ biết được đâu.”

      Cả ba chúng tôi lặng người trong khoảng phút, cân nhắc các khả năng, rồi Vivien quay đầu lại và mỉm cười rạng rỡ.

      “Vậy là hai người chuẩn bị đến tòa dinh thự rao bán gần Calne phải ?”

      “Phải.” Tôi gật đầu rồi quay sang Geoff. “Tôi muộn đấy chứ?”

      lắc đầu. “Tôi nghĩ do tôi đến sớm đấy.”

      “Dù sao tôi cũng cần thay đồ”, tôi bảo , khi nhìn xuống bộ quần áo làm vườn của mình. “ phiền nếu đợi thêm vài phút chứ?”

      Vivien vẫy tay tạm biệt tôi. “ cứ thong thả ”, ấy . “Tôi tiếp đón ấy hộ . Tôi phải mở quán Sư Tử Đỏ trong nửa giờ nữa.”

      “Cảm ơn.”

      Tôi lao người qua sân vào nhà, chỉ dừng lại ngay sau cửa hậu để đá bay đôi giày tả tơi, trái tim đập cuồng loạn. Tôi càng bị kích thích hơn nữa bởi mình có thể ghìm “trải nghiệm” kia xảy ra nhờ nỗ lực từ chính khả năng kiềm chế của bản thân, hơn việc phát ra chiếc chìa khóa bí .

      Chiếc chìa khóa nắm giữ mối liên hệ nào đó với Mariana Farr, tôi còn nghi ngờ gì về điều đó, nhưng tôi biết mình phải đợi cho đến khi mối liên hệ đó dần lộ ra. Trong khi chờ đợi, tôi có thể ăn mừng trước thông tin mình chỉ có năng lực tái tạo các hồi tưởng, mà còn ngăn chặn được chúng. Ít nhất thời tôi cũng kiểm soát được và đó là cảm giác đầy phấn khởi.

      ít phấn khởi hơn chút nào, tôi nghĩ, so với hứa hẹn được dành cả phần còn lại của ngày hôm nay bên cạnh người đàn ông trẻ trung đẹp trai và tắm mình trong ánh nắng của chiều mùa xuân lộng lẫy ở nước . Ở tầng, tôi cẩn thận đặt chiếc chìa khóa lên bàn trang điểm và mỉm cười với chiếc gương.

      Chẳng mấy chốc, sau khi tắm và thay sang loại quần áo phù hợp với những món đồ trong tủ áo thường ngày của Geoff, tôi phát bản thân đứng trước bãi cỏ cắt tỉa gọn gàng của lâu đài lớn từ thời Victoria tọa lạc phía bắc ở Calne, bận rộn giữa guồng quay vui vẻ và ồn ã của phiên bán đấu giá bất động sản của vùng quê cách rất chân thực.

      Những chiếc tủ búp phê, rương đựng quần áo đồ sộ, tủ chén đĩa thanh nhã được xếp thành hàng bên cạnh lối trải sỏi, giống như những người lính đợi lễ duyệt binh vậy. Vô số các món đồ hơn nằm rải mấy cái bàn kê niễng cùng rương phủ mền, chúng còn tràn ra khỏi những chiếc hộp nhét dưới bàn vì thiếu gian. Tôi theo chân Geoff qua khu trưng bày hút hồn tột độ, ngừng lại để nghiên cứu chiếc đồng hồ mặt lò sưởi ở chỗ này, hộp nhạc chỗ kia, hay vuốt ve đồ nội thất làm từ gỗ sơn tiêu đặc biệt lôi cuốn.

      Cha tôi thích những phiên bán đấu giá thế này vô cùng. Ngay từ khi tôi còn rất , ông thường dẫn tôi theo, dạy tôi làm thế nào để phát nét đặc biệt của chiếc ghế cũ và làm thế nào để nhận ra người môi giới giấu giữa những người buôn bán đông đúc ở vùng quê. Có lần, tôi nhớ lại, tôi muốn bức tranh chó săn vô cùng. Nó có gì đặc biệt, chỉ được tô lớp xenluloit khắp bề mặt thạch cao, món đồ rẻ tiền từ thời Victoria - nhưng tôi muốn nó. Ấy vậy mà cũng cách đây bảy năm rồi.

      Ngày đó, tôi cứ đứng canh giữ báu vật của mình cho đến khi người bán đấu giá vòng về phía nó, cũng là lúc tất cả mọi người trong đám đông có thể nhìn thấy tôi công khai chủ quyền của mình. Giá khởi điểm - năm mươi xu - là của tôi. Tôi quá hăm hở và quyết tâm đến mức khi người bán đấu giá hỏi ai muốn trả ông ta bảy mươi lăm xu, bàn tay tôi lại vọt lên trung lần nữa, chuyện đó biến tôi thành người đầu tiên trong hạt tự phá mức giá mình vừa đặt ra ở phiên đấu giá. Nếu là người ít cẩn trọng hơn, người bán đấu giá ràng có thể nâng giá lên hai bảng, đúng số tiền tôi mang trong túi, nhưng thay vào đó ông ta chỉ bật cười và trao cho tôi món đồ sặc sỡ đó với cái giá khởi điểm là năm mươi xu.

      Sau đó, ông ta cúi xuống và cảnh báo tôi bao giờ được để ai biết mình khát khao sở hữu thứ gì đó đến mức nào. “Giờ cháu vẫn còn trẻ, bé ạ”, ông ta , “và nhiều khả năng có ai trả giá cao hơn cháu. Nhưng khi cháu lớn lên, món đồ trở nên tương đối đắt đỏ đấy”.

      Tôi quên chuyện gì xảy đến với chú chó săn bằng thạch cao đó từ lâu, nhưng chưa bao giờ quên lời khuyên của người bán đấu giá. Giờ tôi nhớ ra nó khi qua thùng đựng sách. Thứ trông có vẻ như ấn bản đầu tiên cuốn Người Hobbit [1] của J.R.R. Tolkien thoáng lướt qua mắt tôi giữa mớ những cuốn tiểu thuyết trinh thám bìa cứng rẻ tiền. cách ngẫu nhiên - ồ, ngẫu nhiên - để lộ biến đổi nét mặt mình, tôi lật tờ bìa vài cuốn sách trong cái thùng đó, giở vu vơ qua những trang giấy ố vàng.

      [1] Cuốn tiểu thuyết Chúa tể của những chiếc nhẫn là phần tiếp nối của cuốn tiểu thuyết này.

      vừa bảo tất cả chỗ này đều chỉ thuộc về người đàn ông phải ?” Tôi hỏi Geoff, vật lộn để có tông giọng bình thường.

      “Phải. Ngài Ashburn. Tôi tin rằng ông ấy mới qua đời tháng trước. Dù sao ông ấy cũng khoảng chín mươi mấy rồi. Tôi nhìn thấy ông ấy rất nhiều năm rồi, nhưng ông ấy thường chơi golf với cha tôi khi tôi còn .”

      Tôi mở trang cuốn sách của Tolkien để kiểm tra ngày tháng, rồi quay lại mặt sau tờ bìa để đọc trang bìa giả, kích động của tôi tăng vọt khi phát từ viết sai chính tả được sửa lại bằng tay, thêm chi tiết chứng minh cuốn sách là ấn bản đầu tiên. Gấp cuốn sách lại, tôi nhìn Geoff và mỉm cười.

      “Thị hiếu của ngài Ashburn chắc chắn theo chủ nghĩa chiết trung [2] ”, tôi bình luận.

      [2] Chủ nghĩa pha trộn, phối hợp nhiều chi tiết, trường phái, phong cách khác nhau.

      gật đầu. “Và cả tấn tiền. Quả thực ông ấy mang hơi hướng của người theo phái chiết trung, gần như là lập dị. Thậm chí bao giờ sống trong tòa nhà chính. Ông ấy sống tại ngôi nhà tranh ở ngay kia.” chỉ về phía mái nhà giữa hàng cây cối ở đằng sau khu đất. “Biến ngôi nhà thành kiểu bảo tàng, cho mình ông ấy sử dụng.”

      “Tôi đoán chúng ta nên cảm ơn ông ấy vì điều đó”, tôi , để mặc đôi mắt lang thang khắp bãi cỏ huyên náo và đám đông người mua cũng như săn lùng đồ cổ. “ có thấy hứng thú với thứ gì ?”

      vài, những quả địa cầu kia, là ví dụ.” hất đầu về phía cặp địa cầu bày trong thư viện, tượng trưng cho đất và trời, cách chúng tôi vài mét bên phía trái. “Niên đại của chúng là 1828, ở trong tình trạng tương đối tốt. Giá đỡ bằng gỗ hồng mộc, tôi nghĩ vậy, càng nâng cao giá trị của chúng hơn. Tôi luôn tìm kiếm thứ gì đó để bổ sung nét đặc sắc cho ngôi nhà.”

      Tôi mỉm cười trước ý nghĩ ai đó lại cho lâu đài Crofton là “ngôi nhà” đơn thuần, dù nó lớn hơn tòa nhà tầng ba phòng ngủ, khi người bán đấu giá ngập ngừng hắng giọng vào micro và đề nghị đám đông trật tự. Geoff khá tự nhiên choàng tay quanh vai tôi và dẫn tôi đến rìa đám người đứng túm năm tụm ba. Cúi đầu xuống, vào tai tôi.

      trả giá cho món đó chứ?”

      “Trả giá cho món gì?”

      “Cuốn của Tolkien”, mỉm cười . Tôi có thể cảm nhận được nụ cười đó tóc mình và cố tỏ ra điềm nhiên để lờ xúc động của mình . “Nó là ấn bản đầu tiên phải ?”

      “Phải.” Mặc kệ ý chí của bản thân, tôi mỉm cười đáp lại. “Và đúng, tôi định trả giá cho món đó.”

      Tình cờ, khi thùng sách cuối cùng cũng mang lên, tôi trả quá cao. Tôi liếc nhìn về phía người đàn ông có mức giá cao hơn, tôi hạ tay xuống và từ chối theo đến cùng.

      Geoff huých vào vai tôi. “Sao trả tiếp?”.

      “Bởi người đàn ông đó là người môi giới”, tôi . “Ông ta biết giá trị của các cuốn sách và tôi thể trả cao hơn được.”

      Geoff nhìn theo ánh mắt tôi đến chỗ người đàn ông chưa chắc lù đù như vẻ bề ngoài giữa đám đông, đôi bàn tay ông ta đút trong túi, chiếc tẩu làm từ rễ thạch nam dùng thường xuyên được ngậm chặt giữa hàm răng, trông khác gì người nông dân.

      chắc chứ?”

      “Tôi chắc chắn.”

      suy nghĩ lúc. “ có muốn tôi mua nó cho ?”

      .” Câu trả lời thoát ra hơi quá vội vàng chút, nhưng tôi muốn Geoffrey de Mornay nghĩ toàn bộ hứng thú của tôi đều đặt ở tiền của . “”, tôi lặp lại, uyển chuyển hơn, “cảm ơn nhiều lắm, nhưng nó quan trọng với tôi thế đâu”.

      Tôi cắn môi và làm khán giả khi màn đấu giá leo thang lên đến con số hàng trăm, cho đến khi chắc chắn người môi giới kia thắng, rồi theo dõi với vẻ thích thú thời điểm biểu cảm bảnh chọe bị lột khỏi mặt ông ta bởi người tham dự vào phút cuối, khi người đó phỗng tay hộp sách với cái giá năm trăm bảng chưa từng được vang lên. Những tiếng rì rầm kích động rộ lên khắp đám đông lúc người đàn ông có bộ râu màu xám tiến lên trước đón món đồ mới mua được. Người môi giới, khao khát nhưng nhiều đến thế, sững sờ, khoanh hai tay và giận dữ thổi ống tẩu phì phì, tuôn ra tràng liên tiếp những cuộn khói xanh nhạt phụt lên bầu khí tươi mát, trong lành.

      Về phần mình, tôi tự an ủi bản thân bằng việc trả giá cho món đồ tiếp theo, chiếc bàn gấp đơn giản bằng gỗ sồi, dường như tôi mua đắt hơn giá trị thực của nó. Tôi hân hoan ôm chặt nó vào người, trong khi người bán đấu giá tiếp tục.

      “Đây rồi”, ông ta tuyên bố đầy lôi cuốn, “ cặp địa cầu thư viện của Cary, từ năm 1828, làm từ gỗ hồng mộc và gỗ sồi sơn màu với phần bao quanh toàn bộ bằng gỗ hoàng dương. Ai trả cho tôi năm nghìn bảng cho mức khởi điểm?”.

      Những người môi giới thi nhau đặt giá, và bên cạnh tôi, Geoff gật đầu với người bán đấu giá, ràng khá thân thuộc với ông ta. Khi mức giá dừng lại ở hai mươi mốt nghìn bảng, toàn bộ đám đông - bao gồm cả tôi - dường như đều thở hắt ra, ít mái đầu quay ra nhìn chằm chằm người đàn ông trẻ khiêm tốn và đẹp trai đưa ra mức giá cuối cùng.

      Geoff rút quyển séc để tiến hành trả tiền, tôi đứng đó nhăn mày lúc, nhìn và nghĩ về hố sâu địa vị xã hội chia cách chúng tôi. là lãnh chúa của trang viên, vì Chúa, tôi tự nhắc bản thân. Và dù cụm từ đó nghe có vẻ như ở thời trung cổ, nhưng chẳng có tí tính chất trung cổ nào trước tài khoản ngân hàng của biến các khoản thu thập của tôi chỉ như chút tiền lẻ nhét trong túi. Tôi hẳn mất trí rồi.

      Nhưng khi Geoff quay lại, mới nhìn vào gương mặt đó thôi mà cái cảm giác e ngại về việc bản thân thuộc tầng lớp trung lưu bị tôi quên bay biến. Vào giờ phút này, Geoffey de Mornay chẳng có điểm nào giống vị lãnh chúa của vùng đất nữa cả. Tôi nghĩ trông hệt như cậu bé - hạnh phúc, vô tư lự và hài lòng tột độ với bản thân mình.

      “Có gì xảy ra trong lúc tôi ?” hỏi.

      nhiều lắm. vài quý bà ngất xỉu khi họ nhìn thấy viết tấm séc đó, ngoài ra khá buồn tẻ.”

      bật cười, hơi ngửa đầu và nhìn tôi trìu mến. từng bảo tôi rằng cần xin ai thứ lỗi vì thông minh của bản thân và giờ cũng cần xin tôi thứ lỗi vì giàu có của mình. Tôi thích vì điều đó. Thay vào đấy, lại vòng tay ôm lấy vai tôi và hướng chú ý của tôi về chiếc tủ búp phê gần đó. “Tự bản thân cái tủ có gì”, , “nhưng tôi cược cặp bình pha lê đặt trong đó ít nhất cũng ra với sáu nghìn bảng”.

      Tôi ngó theo. “Chấp nhận”, tôi đồng ý đánh cược. “Tôi đặt năm mươi xu.”

      Chúng tôi lưu lại thêm khoảng giờ - đủ lâu cho tôi mất năm mươi xu và chi thêm hai mươi lăm bảng nữa cho bức tranh hoàn toàn cần thiết với hành lang nhà mình - rồi, cách miễn cưỡng, chúng tôi xuống cuối lối lái xe, nơi hơi ngổn ngang bởi những món hàng cồng kềnh.

      Người đàn ông râu xám cắp cái hộp dựa vào nắp xe của Geoff, hút điếu thuốc và lơ đãng nhìn trở lại phiên bán đấu giá tiếp diễn với vẻ mặt điềm tĩnh. Ông ta trở người khi chúng tôi lại gần.

      “Xin lỗi”, ông ta tạ lỗi với Geoff. “Tôi đợi con trai đến đón. thể tưởng tượng có thể tha chỗ này”, ông ta ra hiệu về phía thùng sách, “ xa hơn được nữa”.

      “Tôi trách ông”, Geoff vừa cố gắng vật lộn cho những quả địa cầu thư viện đáng ao ước của mình vào cốp sao cho nguyên vẹn vừa .

      Tôi mỉm cười với người đàn ông lớn tuổi. “Cái giá ông phải trả ở đó tương đối lớn.”

      “Tôi biết.” Ông ta tường tận gật đầu. “Cha tôi sáng tác hầu hết những cuốn tiểu thuyết trinh thám đó. thể định giá, phải ?”

      Geoff ngừng cất đồ và bắn cho tôi cái liếc đầy hàm ý, nhưng tôi bắt đầu.

      “Ôi, nhìn này!” Tôi cúi xuống và rút quyển sách của Tolkien khỏi những cuốn sách nằm sõng soài, giả vờ ngạc nhiên. “Quyển Người Hobbit này! Nhìn xem, , đây chẳng phải là cuốn sách thích của Jimmy bé bỏng nhà mình sao?”

      Geoff chỉ cười nhăn nhở với tôi, từ chối diễn trò và tôi hướng gương mặt tràn trề hy vọng, dò hỏi sang người đàn ông lớn tuổi hiền lành, hy vọng ít nhất tôi vẫn còn giữ lại chút khẩn khoản ngây ngô mình có khi còn là đứa trẻ bảy tuổi.

      “Tôi cho rằng”, tôi , ngập ngừng đôi chút, “tôi cho rằng ông…”.

      có thể lấy nó”, ông ta hào phóng . “Tôi muốn mua đống tiểu thuyết trinh thám thôi. cứ lấy cuốn sách đó , cho con trai .”

      Đạt được mục đích nhưng tôi vẫn cảm giác cơn nhức nhối tội lỗi chích vào người.

      “Hãy để tôi trả tiền”, tôi đề nghị và đưa cho ông tờ mười bảng, điều đó làm giảm đáng kể cảm giác tội lỗi của tôi, và ông ta chấp nhận. “Sau cùng”, tôi mỉm cười rộng, “nó chắc chắn phải là thứ gì đó rất đáng giá”.

      Geoff đóng sập cốp với tiếng ho kỳ quặc và mở cánh cửa xe cho tôi. “Đến đây nào, em ”, . “Chúng ta phải rồi.”

      Trong xe, trao cho tôi cái nhìn dài khác trước khi cả hai phá lên cười trước vận may của tôi.

      đáng xấu hổ”, buộc tội. “Giỏi kinh hoàng, nhưng đáng xấu hổ.”

      “Tôi giáo viên tuyệt vời”, tôi giải thích, trong vài dặm tiếp theo, tôi kể cho về những kỳ công trong các phiên đấu giá của cha tôi cũng như tài diễn trò quỷ quyệt chảy mạnh mẽ trong dòng máu gia đình tôi.

      “Từ những gì vừa nghe , tôi rất thích thú nếu được gặp cha ”, Geoff .

      Câu trả lời của tôi chỉ hơn lời lẩm bẩm vô thưởng vô phạt chút. Cũng may cho Geoff, tôi nghĩ, rằng cha tôi vẫn ở nước ngoài. Các bạn trai cũ của tôi chạy trối chết và tìm chỗ núp ngay khi nhìn thấy ông, chuyện đó thành thông lệ rồi. Những lần đó, cha tôi còn hơn cả khó tính, ông vẫn chưa tìm thấy chàng trai trẻ nào đạt được đến những tiêu chuẩn khắt khe của mình. Điều tốt nhất, tôi phát ra là đơn giản giới thiệu họ với ông. Như vậy tránh được rất nhiều lo lắng, cách toàn diện.

      Chuyến lái xe trở về Exbury xa xôi lại trở nên quá ngắn, chẳng mấy chốc chúng tôi lái xe lên hông nhà tôi. Geoff vươn tay ra sau và đưa cho tôi chiếc bàn gấp và bức tranh lồng khung nho mà tôi ngớ ngẩn mua về. Lần đầu tiên trong ngày hôm ấy, cách ăn của chúng tôi trở nên câu nệ.

      “Vui đấy”, tôi . “Tôi thực rất lấy làm thích thú.”

      “Tôi cũng vậy.” nhìn lên đôi bàn tay đặt vô lăng. “Nghe này”, , “tôi lại phải lên phía bắc vài ngày, thậm chí có thể đến tuần, nhưng khi quay lại, tôi muốn gặp lại em”. quay sang nhìn tôi. “Tôi muốn mời em ăn tối.”

      “Tôi thích lắm”, tôi mỉm cười, toàn bộ quyến rũ của ngay lập tức khiến tôi choáng váng.

      Nụ hôn này tuyệt hơn nụ hôn đầu tiên. Thứ nhất, tôi lý luận, chúng tôi biết về người kia trong gần hai tuần dài và chúng tôi vừa mới chia sẻ ngày tuyệt đối hoàn hảo bên nhau. Khi nụ hôn kết thúc, tôi gửi đến nụ cười hạnh phúc và vươn tay tìm tay nắm cửa xe.

      “Tạm biệt.”

      nhoài người qua ghế, giúp tôi mở cửa.

      “Em có chắc mình ổn với thứ đó ?”

      “Vâng, cảm ơn .” Tôi gật đầu, ôm các món đồ của mình vào người chặt hơn.

      “Vậy được rồi.” lại cười. “Tôi gọi điện cho em khi quay lại.”

      Tôi nhìn lái xe , cảm giác hạnh phúc đến buồn cười, tôi gần như nhảy múa quanh nhà đến cửa sau. Tương phản với tâm trạng của tôi, chiếc chìa khóa từ chối xoay mình trong ổ khóa mới. Trong quá trình vật lộn với nó, chiếc bàn gỗ gấp bằng gỗ sồi trượt khỏi tay tôi và rơi lạch cạch xuống đất, chỉ sượt qua những bậc thềm bằng đá vài centimet.

      “Chết tiệt!” Tôi nguyền rủa trai cùng cái khóa và quỳ xuống mặt cỏ để nhặt chiếc bàn. Nó bung hết ra khi rơi xuống, bề mặt bọc nhung dùng để viết vốn lỏng lẻo xệch hẳn góc khỏi những khớp nối. Tôi đóng chiếc hộp và dùng ngón tay lau vết bẩn khỏi chữ H bay bướm bảng tên bằng đồng.

      Khi tôi nhặt cái bàn lên, thứ gì đó bên trong kêu lạch cạch, và tôi thầm rên rỉ, đập mạnh vào cửa sau với sức lực vừa mới phục hồi. Lần này, ổ khóa hợp tác, cách cứng nhắc. Tôi dùng vai đẩy cửa mở, thêm lần nữa đá nó đóng lại sau lưng.

      Đặt những món đồ mới mua lên bàn bếp, tôi lại mở chiếc bàn gấp và kiểm tra khoang rỗng bên dưới mặt bàn. Trông có thứ gì bị vỡ, nhưng ngăn kéo bí mật bị bung lỏng vì cú rơi. Bằng những ngón tay tò mò, tôi dùng lực kéo nó mở ra hoàn toàn.

      Bên trong ngăn kéo là chiếc vòng thủ công xinh xắn từ những lá vàng dát mỏng ố màu, dải những chú chim thiên đường với đôi mắt bằng thủy tinh xanh lấp lánh như những viên đá quý lộng lẫy.

                  CHƯƠNG 18


      Với những ngón tay hơi run rẩy, tôi nhấc chiếc vòng khỏi ngăn kéo nông, nơi nó nằm mình trong... bao lâu? Hàng thế kỷ chăng? Nó đúng là chiếc vòng tay ấy, tôi biết điều đó với chắc chắn vượt qua logic thông thường. Nhìn thấy nó, cảm nhận nó, sức nặng lòng bàn tay quá đỗi thân quen, cần thắc mắc cũng biết chiếc vòng này từng thuộc về tôi.

      Nhưng làm thế nào nó lại ở trong chiếc bàn gấp này - nếu nhãn hiệu của người sáng chế đáng tin - chiếc bàn này thậm chí được tạo ra cho đến giữa thế kỷ XVIII, khoảng hơn bảy mươi năm sau khi Mariana Farr đến Exbury? Vẫn siết chặt chiếc vòng tay, tôi đậy nắp chiếc bàn gấp lại và nhíu mày nhìn chữ H biển tên. Liệu có khả năng nào chữ H này là viết tắt của “Howard” ? Liệu có khi nào chiếc hộp đơn giản này từng thuộc về thành viên của gia đình Howard ở Đàn Cừu Xám?

      Tôi lắc đầu, hoang mang. Tất cả dường như đều quái dị cách khó tin, nằm ngoài phạm vi của những điều hợp lý. Quá nhiều trùng hợp ngẫu nhiên để có thể trở thành thực, tôi ngẫm nghĩ. Hay... đúng thế? Tôi lăn chiếc vòng qua những ngón tay như gẩy chuỗi tràng hạt, và những chú chim thiên đường dường như nháy mắt với tôi khi đôi mắt thủy tinh của chúng hứng lấy tia nắng. Có lẽ, tôi suy đoán, chỉ có lẽ thôi, nếu quả tất cả mọi chuyện diễn ra đều có nguyên do và nếu thực sức mạnh siêu nhiên kéo chúng tôi đến với định mệnh hay số phận này, vậy phát ra chiếc vòng tay này, sau cùng cũng hẳn là ngẫu nhiên. Có lẽ, thực tế, đây là cần thiết...

      Tiếng gõ cửa khẩn trương, ràng vang lên cửa sau khiến tôi giật nảy khỏi những trầm tư. Tôi nhét vội chiếc vòng tay trở vào bàn gấp trước khi đáp lời. Tâm trí tôi vẫn chưa hoàn toàn rời bỏ mạch suy nghĩ và khó chịu vì bị quấy rầy hẳn hiển khuôn mặt lúc tôi mở cửa để đối diện với người đàn ông đứng bậc thềm bên ngoài.

      Iain Sumner đứng lấp đầy khung cửa, chặn lại phần lớn ánh nắng, biểu cảm của ta đầy vẻ buộc tội.

      làm cỏ”, ta thẳng thừng , “đúng ?”.

      ta ràng chuẩn bị cho trong những bài diễn thuyết đầy năng lượng mà Vivien cảnh báo tôi, nhưng tôi được cứu vào giây cuối cùng nhờ kiện khá lạ thường, lần thứ hai trong những tuần qua, tôi bật khóc.

      Lần này tôi thừa nhận, được ngoạn mục như cái lần bột phát trước trong ngôi nhà của Tom ở Hampshire, tuy vậy đôi mắt tôi cũng trở nên mơ hồ và miệng khẽ run rẩy. Iain đột ngột ngừng nhíu mày để nhìn tôi chằm chằm với vẻ hối lỗi đầy lo lắng. Cũng gần đến mức tức cười khi chứng kiến người đàn ông Scotland điềm tĩnh hoàn toàn đứng hình và tôi thể ngăn đôi môi khỏi cong lên thành nụ cười.

      “Tôi xin lỗi”, tôi vừa vừa lau nước mắt, “ phải tại . Chỉ là...”. Tôi ngập ngừng, tìm cách giải thích, trước khi quyết định đơn giản là chẳng có cách nào dễ dàng để thanh minh cho tình trạng xúc động quá mức của bản thân. “Dù sao nữa”, tôi hít vào, “phải, tôi nhổ cỏ trong vườn nhà . Có phải tôi bày bừa thành đống rồi ?”.

      Iain lẳng lặng nhìn xuống nhánh cây héo rũ ta cầm trong tay, cân nhắc rồi dường như bỏ ý định ban đầu . Chuyển bàn tay ra sau lưng, ta để nhánh cây rơi xuống chân và nhìn thẳng vào mắt tôi.

      , quá tệ đâu, đấy”, ta .

      ta là kẻ dối duyên dáng và tôi bảo ta thế. Bật cười, ta nghiêng đầu sang bên, thỏa mãn khi tôi lấy lại được vẻ điềm tĩnh, ta lên tiếng, “Để tôi bảo thế này. Nếu cứ nhất quyết muốn giúp đỡ tôi, sao ra ngoài lúc để tôi chỉ cho biết tất cả mọi thứ ra sao?”.

      “Tôi tưởng thích mọi người lung tung trong vườn của mình.”

      “Đó là lời đồn đáng sợ.” ta mỉm cười. “Lại đây, tốn nhiều thời gian đâu.”

      Khi băng qua lối , theo sau ta, tôi cúi xuống nhặt cái cây xơ xác ta lịch thiệp vứt . “Đây phải thứ gì đó từ Nam Mỹ đấy chứ?” Tôi thận trọng hỏi.

      ta nhìn tôi với đôi mắt thoáng hấp háy.

      phải”, ta khẳng định dứt khoát. “Nếu nhổ trong số đám cây đó, dù có khóc hay cũng phải nghe thuyết giảng rồi.”

      Tôi nhận ra sau đó, đây chính xác là điều tôi cần - nửa giờ vật lộn trong đám bùn đất, cảm giác đất khô cứng, đầy bụi những đầu ngón tay và ngửi mùi hương hăng hăng ngọt ngào của hoa lá được mặt trời sưởi ấm. Tôi được an ủi, được cam đoan, và thêm lần nữa được sống trong thực tại. Iain thực chứng minh mình là thầy giáo rất giỏi. Với cẩn thận và kỹ lưỡng, ta nhận dạng từng bông hoa và cây trồng trong vườn, chỉ ra những nụ hoa vô hình nhìn thấy cho đến cuối hè. ta bảo tôi những việc cần hoàn thành và hướng dẫn tôi làm những việc đó ra sao, cho nên khi ta kết thúc, tôi cảm giác khá tự tin vào khả năng của bản thân, ít nhất giờ có thể làm cỏ cho khu vườn mà sợ gây thêm thiệt hại.

      dần dần hiểu thôi”, ta hứa hẹn. “Chỉ cần luyện tập.”

      có chắc ngại ?” Tôi nhăn trán hoài nghi, ta hướng gương mặt điềm tĩnh về phía tôi.

      tin tôi sao?”

      “Ừm, Vivien và Geoff hình như đều nghĩ tôi vướng vào loại mạo hiểm chết người...”

      ta cười nhăn nhở và vươn tay để ngắt bông hoa héo khỏi nhánh diên vĩ gần đó. “Tôi ngại”, ta . “Bên cạnh đó, thi thoảng ra ngoài này cũng có lợi với . Làm vườn giúp có thêm sức khỏe.” ta kiểm tra đồng hồ đeo tay và đứng dậy, vươn vai. “Vậy tôi giao nó cho . Đến lúc tôi về nhà rồi.”

      Bản thân tôi nhận biết được thời gian, nhưng mặt trời nằm rất thấp bầu trời và hẳn cũng gần bảy giờ tối. Tôi đứng dậy cùng ta.

      “Cảm ơn ”, tôi . Thực tôi cảm ơn ta vì vô số điều. Vì cáu giận với tôi, vì thông cảm cho tâm trạng của tôi, vì tốt bụng đến chết tiệt như thế...

      ta chỉ nhún vai và mỉm cười.

      thành vấn đề.”

      ta quay lưng bước và sải chân qua cánh đồng, trong khi tôi hướng mặt về phía mặt trời dần tàn, dựa lưng vào bức tường đá trơn nhẵn, đổ nát sau lưng, mơ màng khép hờ đôi mắt. Đây là chiều hoàng hôn hoàn hảo, như trong cổ tích, ánh vàng đỏ với những đám mây bông xốp viền vàng tạo nên vẻ đẹp gần như ảo ảnh, như thể chúng thuộc về trong những bức tranh minh họa của tôi vậy. Để hoàn thiện bức tranh, tất cả những gì thiếu là người đàn ông cưỡi ngựa dưới tán sồi, kỵ sĩ lãng mạn lưng con ngựa chiến cao quý của ta, theo dõi lũ rồng từ những ngọn đồi phía xa. Tôi quay đầu lại để nhìn về phía cây sồi với đôi mắt gần như trông mong, nhưng có gì ở đó.

      Phía cây sồi, con diều hâu bay là là thành vòng tròn vô định, tiếng kêu của nó vang lên đầy đơn não nề.

      Nhiều ngày trôi qua, nhanh chóng và lặng lẽ, tôi chuyên tâm vào những bức tranh minh họa với cần mẫn hoàn toàn xa lạ với tính cách của chính mình. Tôi biết mình trì hoãn. Lạ lùng là phát ra mình có năng lực tự dịch chuyển bản thân về thế kỷ XVII theo ý thích càng khiến tôi chần chừ thực việc đó. Suốt tuần ấy, trong khi vẽ phác thảo, tô màu và tiếp tục những công việc thường nhật, từ trong thâm tâm, tôi thầm hy vọng điều gì đó chỉ xảy ra theo cách tự phát và dễ chịu, để tôi khỏi phải bận tâm với những điều diễn ra tiếp sau.

      Nhưng đương nhiên, chẳng có chuyện gì xảy ra, dù đến cuối tuần tôi hoàn toàn bị bao vây bởi màu nước trong nhiều giai đoạn làm khô khác nhau, điều khiến tôi có cảm giác - nếu còn gì khác - là thành tựu kinh khủng. Thứ Sáu, Geoff gọi điện báo tin tuần công tác phía bắc của ta bị kéo dài thành hai tuần và hỏi liệu tôi có phiền nếu phải chờ bữa tối kia thêm chút hay ? Tôi đáp là ngại.

      Thẳng thắn mà , bữa ăn tối đó là điều xa vời nhất trong tâm tưởng tôi ngay lúc này. Mối bận tâm với công việc, như mọi khi, khiến các thói quen của tôi mang hơi hướng tự kỷ. Trong vài ngày qua, tôi cứ ngủ, làm việc và gặp ai, dùng đồ ăn đóng hộp trừ bữa và bò lên giường vào , hai giờ sáng. Khi Vivien gọi nhanh cho tôi cú điện thoại trước bữa trưa ngày thứ Ba tuần tiếp theo, ấy nhịn nổi mà bình luận về cái giọng khản đặc của tôi. Lời giải thích tôi đưa ra - rằng tôi mở miệng chuyện trong ba ngày nay - chỉ khiến ấy càng thêm lo lắng.

      thậm chí tự mình lẩm bẩm sao?” ấy muốn biết.

      .” Tôi mỉm cười trước ống nghe. “Tôi có người chị họ có thói quen như vậy, tôi thích bị gộp chung với chị ấy, dù sao cũng cảm ơn .”

      “Tôi hiểu. Vậy có muốn ra ngoài chút vào chiều nay ? Hay giờ các phát kiến dạt dào mất rồi?”

      “Ôi, đương nhiên tôi có thể bị thuyết phục để dứt bản thân ra ngoài vài giờ rồi”, tôi . “ có ý tưởng gì rồi nào?”

      “Dùng trà ở lâu đài Crofton.”

      Tôi nhăn mày. “Chắc chắn Geoff vẫn chưa trở về, phải ?”

      “Ừ ấy vẫn còn ở mạn bắc. Thực lời mời đến từ dì Freda nhà tôi. Dì ấy tìm tôi suốt mấy ngày nay để đưa đến đấy chuyện, nhưng tận hôm nay tôi mới có thời gian. Ned bị cúm nên nghỉ ốm.”

      Vậy là Phù Thủy Trắng của Exbury mời tôi đến uống trà. Viễn cảnh ấy nghe thú vị ra trò.

      “Tôi đến”, tôi .

      “Tuyệt vời. Ba giờ, được ? có thể luôn từ bây giờ nếu muốn, tiện thể cho tôi nhờ luôn nhé.”

      “Được. Tôi có nên mang theo thứ gì ?”

      “Mang người là được rồi. Và cảm giác thèm ăn”, ấy khuyên. “Những bữa tiệc trà của dì Freda có thể phục vụ cho gia đình bốn thành viên chuyên làm việc nặng và chúng ta được kỳ vọng ăn hết những thứ được bưng ra.”

      Ba giờ chiều hôm đó, tôi rất vui vì nghe theo lời khuyên của Vivien và bỏ bữa trưa, khi rền rĩ dưới sức nặng của những chồng đĩa bánh ngọt, sandwich, nước sốt chua và bánh thịt hun khói nguội.

      “Cháu cần phải ăn tất cả thế đâu, bé”, bà Hutherson quả quyết với tôi. Bà châm thêm nước sôi vào ấm trà và ngồi xuống đối diện với tôi. “ cần quan tâm đến những gì Vivien với cháu, ta khó tính đến vậy đâu.”

      Chúng tôi ngồi trong bếp của lâu đài Crofton. Đây phải căn bếp đồ sộ và vang vọng tôi thấy trong chuyến tham quan tòa nhà chính, mà là căn phòng hơn, tiện dụng hơn trong mạn nhà riêng phía bắc, với sàn nhà bằng gỗ thông sạch , rèm đăng ten và thực vật mọc tràn khỏi mọi bệ cửa sổ. Alfreda Hutherson ràng dành phần lớn thời gian trong căn bếp này và căn phòng cũng hấp thu rất nhiều sinh lực của bà, tản ra hơi ấm, thân thiện và thoải mái.

      Tôi thấy bà rất quyến rũ - người phụ nữ dong dỏng cao trong chiếc váy màu đen giản dị, với đôi mắt cười xanh biếc quá giống Vivien đến mức tôi tự hỏi làm sao mình có thể bỏ qua nét tương đồng này trước đây. Bà di chuyển với nét quý phái, hoàn toàn là từ duyên dáng bẩm sinh, dẫu mái tóc bà gần như trắng xóa, tôi vẫn thấy khó mà đoán ra tuổi của bà. Giống như người cháu, bà có tài bắt chuyện tuyệt vời, thông minh và đầy học thức, với hóm hỉnh đơn giản mà kín đáo biểu lộ hết lần nay sang lần khác.

      “Ta phải ”, giờ bà lên tiếng, đẩy đĩa sandwich vòng quanh lần thứ ba, “ tốt khi có thêm người trong căn nhà này. Ta lúc nào cũng có cảm giác ăn ngồi rồi mỗi khi Geoffey vắng”.

      “Thay vào đó, tuần này dì nhồi nhét cho Ian - ấy bảo cháu thế”, Vivien tố cáo. “ ấy tăng cân mất thôi.”

      “Thằng bé làm việc vất vả mà”, dì giải thích. “Rồi nó lại giảm cân thôi. Với lại, nhìn ai đó biết thưởng thức đồ ăn ngon cũng tuyệt lắm.”

      “Vậy là bác vẫn sống ở đây ạ?” Tôi lấy miếng sandwich. “Trong tòa trang viên?”

      Bà mỉm cười. “Ồ, đâu. Ta có ngôi nhà trong làng. Ta chỉ làm công việc hàng ngày ở đây, lau chùi, trông nom các trẻ, trước khi về ta để bữa tối của Geoffey trong lò và cậu ta tự rửa bát. sắp xếp rất tự nhiên.”

      “Nhà của dì Freda ngay phía bên kia tòa cha sở [1] cũ”, Vivien chen vào. “Đó cũng là nhà của bà ngoại tôi, khi bà còn sống. Ngôi nhà đá với những khung cửa chớp màu xanh lá. Có phải điện thoại reo ?” ấy đột ngột nghếch đầu lắng nghe. “Đúng rồi. , dì cứ ở yên đấy , để cháu nghe cho”, ấy bảo, đẩy chiếc ghế ra sau và mất hút vào hành lang dài mờ tối. lát sau, ấy quay lại và lắc đầu.

      [1] Cha sở là chức vụ trong giáo xứ, do đức giám mục địa phương hay đấng bản quyền sở tại sai phái.

      “Có chuyện rồi”, ấy tuyên bố. “Đấy là Ned. Các ống dẫn bia có vẻ chịu hoạt động, sắp hết đồ uống phục vụ cho mọi người ở đấy rồi. Tốt hơn hết cháu nên chạy ra đó và xem có thể làm được gì . Cháu quay lại ngay khi xong việc.”

      cần vội đâu, cháu ”, Alfreda Hutherson vừa nháy mắt vừa bảo. “Vẫn còn rất nhiều đồ ăn. Chúng ta để phần vài cái bánh quy cho cháu.”

      Vivien bật cười. “Cháu cược dì làm thế mà.”

      Cánh cửa đóng lại sau lưng và người phụ nữ ngồi chéo với tôi nâng tách trà của mình lên, đôi mắt bà đột nhiên trở nên tư lự khi nhìn tôi qua vành tách.

      “Cháu trông mệt mỏi quá”, bất ngờ bà lên tiếng. “Hết thảy trở nên quá sức với cháu rồi phải ?”

      Tôi ngập ngừng phút trước khi trả lời, chắc nên diễn giải câu hỏi ra sao và vật lộn với chính câu hỏi của bản thân. Tôi do dự đón ánh mắt của bà và bà mỉm cười, đặt tách trà xuống đĩa.

      “Cháu muốn hỏi ta có biết, biết những gì và làm sao ta biết, phải ?” Bà điềm tĩnh , “Nhưng cháu sợ ta nghĩ cháu bị điên nếu cháu điều đó ra trước. Nên hãy để ta giúp cháu. Phải, ta có biết. Ta biết rất những gì xảy đến với cháu từ khi cháu chuyển đến đây. Thực tế, ta khá lo lắng cho cháu”. Bà thẳng thắn . “Đó là lý do tại sao ta nhờ Vivien đưa cháu đến đây gặp ta. Ta muốn tự mình nhìn xem cháu thế nào.”

      Sau bài diễn văn phi thường đó, bà lại nâng tách trà lên lần nữa và chờ đợi phản ứng của tôi. Bà phải đợi lâu. Trước đó, tôi giật bắn mình ngồi thẳng dậy ghế, nhìn chằm chằm, nhưng giờ tôi chớp mắt với bà và mỉm cười, nhướn hai mày lên.

      “Họ bảo bác là phù thủy.”

      Bà bật cười, nhưng phủ nhận. Bà rót cho tôi tách trà mới và ngả lưng ra sau, khoanh tay chờ đợi. “Cháu có thắc mắc.”

      “Rất nhiều thắc mắc”, tôi thừa nhận. “Nhưng cháu hoàn toàn chắc mình có muốn biết những câu trả lời .”

      Bà chỉ gật đầu cái, nhưng rất quan trọng. “Mà cháu cũng nên làm thế. Đây là hành trình do cháu khởi đầu, Julia ạ, ai có thể chỉ dẫn cho cháu. Cháu phải tự tìm hướng cho mình.”

      “Nhưng chắc chắn bác có thể...”

      “Phải, ta có thể tiết lộ với cháu vài điều. Nhưng can thiệp của ta có thể trở thành lực cản thay vì giúp đỡ cho cháu.”

      “Ồ.” Tôi thất vọng, bà cười-khi-thấy-biểu-cảm-của-tôi.

      “Đừng tiu nghỉu quá thế, bé”, bà . “Cháu có thể tiến xa đến chừng này mà cần đến ta và cháu làm rất tốt. Cháu biết điều gì đó về Mariana và cháu chấp nhận cái thực tế mà rất nhiều người có khả năng hoặc nguyện ý chấp nhận. Quan trọng hơn hết, ta nghĩ cháu dần bắt đầu hiểu được mình nắm quyền kiểm soát trong tình huống này nhiều hơn cháu tưởng, phải sao?”

      Tôi gật đầu.

      “Vậy tốt.” Bà xòe hai bàn tay bày tỏ thái độ. “Có lẽ tự cháu thực rất tốt. Cháu phải kiên nhẫn, Julia ạ, và tin tưởng vào quá trình này. Bao giờ đến lúc, cháu tự khắc có được những câu trả lời của mình, mà cần đến giúp đỡ từ ta đâu.”

      “Cuối tuần trước cháu mua được thứ”, tôi , vạch ngón tay dọc theo vành chiếc tách. “ loại hộp.”

      chiếc bàn gấp. Phải.”

      Tôi ngẩng đầu lên. “Nó được khắc chữ H.”

      Bà nghiêng đầu, giống như chú chim và nhìn tôi chăm chú. “Chữ H, đương nhiên là viết tắt của họ Howard. Cháu cũng biết điều đó, phải ?”

      “Dạ phải. Nhưng...”

      “Là người nào? Hừm, ta nghĩ gây hại bao nhiêu nếu với cháu điều đó.” Đôi mắt bà lướt khỏi tôi. “Chiếc bàn thuộc về John Howard.”

      “John sao?” Tôi lật cái tên trong đầu. “John ư? Là con trai của bác Caroline, tên là John?” Tôi nghĩ đến đứa bé xíu có gương mặt đỏ bừng, rồi đến chiếc vòng tay bạc màu được cất ngay ngắn trong ngăn kéo bí mật của chiếc bàn. “Nhưng làm sao cậu ta...?”

      Bà ngăn tôi lại với cái lắc đầu. “Bí đó dành cho cháu khám phá”, bà bảo tôi. “Và cháu tìm ra. Cháu có muốn dùng thêm chiếc bánh nữa ?”

      Bà đẩy chiếc đĩa về phía tôi và tôi nhặt chiếc bánh quế sô la, cảm giác hơi bị mê hoặc chút. lạ, tôi nghĩ thầm, khi ngồi ở đây, trong nhà bếp ấm cúng và hoàn toàn bình thường, để thảo luận chủ đề đầu thai với phù thủy. Trong khí thường nhật, giản dị và thông thường thế này, cuộc chuyện của chúng tôi dường như kỳ quái đến lạ lùng, giống như người ta bàn về thời trang giữa đám tang vậy. Tuy vậy, tôi ở đây, lẳng lặng nhấm nháp chiếc bánh và ngồi cách quá mét với người phụ nữ có thể đọc ý nghĩ của mình cách dễ dàng như đọc tờ giấy in vậy. Giờ bà cũng đọc ý nghĩ của tôi và tôi có thể được điều ấy thông qua cái cách đôi mắt bà nhìn tôi...

      “Thứ lỗi cho ta nếu làm cháu cảm thấy âu lo”, bà khẽ . “Ta biết những điều mà cháu biết. Nhưng ta phải bà già thông thái. Ta từng chứng kiến thời điểm thuận lợi rồi nhìn nó trôi qua, nếu có điều gì khác ta học được, ta hiểu rằng định mệnh tự lên sẵn lịch trình từ chính hình thành của nó rồi.” Bà ngồi dựa lưng vào ghế và bình thản đối mặt với tôi. “Đúng hơn hết thảy giống như vòng tròn”, bà tiếp tục, “ sống là vậy. Cháu khởi đầu ở nơi, chọn con đường của cháu, và khi kết thúc cháu mới phát mình quay lại đúng điểm ban đầu. Đó cũng chính là những gì cháu làm bây giờ, với cuộc đời của Mariana. Khi hết con đường, khi khép lại vòng tuần hoàn, đấy cũng là lúc mục đích cuộc hành trình trở nên ràng với cháu”.

      “Và bác có hoàn toàn chắc chắn”, tôi hỏi bà, “rằng cháu là ấy... ý của cháu là, ấy... cái người tên Mariana Farr ấy và cháu là cùng người ?”.

      “Ồ, có chứ.” Đôi mắt bà dịu dàng. “Ta nhận ra cháu ngay lập tức.”

      “Nhận ra cháu sao?”

      “Trước đây ta từng gặp cháu”, bà giải thích. “Đương nhiên phải là cháu của bây giờ, nhưng dù vậy vẫn đúng là cháu.”

      “Đương nhiên rồi”, tôi khi chợt nhớ ra. “Thiếu Phụ Xanh.”

      “Và người phụ nữ trong phòng ngủ Kỵ sĩ tầng”, bà thêm vào. “Mariana thường lui tới cả hai nơi đó, trong khoảng thời gian dài.”

      Tôi nhíu mày. “Nhưng cháu tưởng bóng ma tầng vẫn còn ngụ lại ở đó. Chẳng phải để linh hồn xuất ở hai nơi cùng lúc là thể hay sao?”

      Alfreda Hutherson kiên nhẫn lắc đầu. “ có bóng ma nào tầng”, bà với tôi. “ có thêm nữa. Những gì cháu cảm nhận ở đó đơn thuần chỉ là phần tản ra từ cái từng tồn tại. Cháu thấy đấy, thứ ấy để lại trong căn phòng cũng chỉ như chiếc bóng người ta hắt lên tường mà thôi.”

      Tôi lặng người trầm ngâm.

      “Thi thoảng cháu nhìn thấy người đàn ông”, tôi chậm rãi . “ người đàn ông cưỡi con ngựa xám.”

      “Richard.” Bà gật đầu. “Cậu ta cũng là dạng hình bóng, khi cháu nhìn thấy cậu ta như vậy. Dưới cây sồi già, phải nào? Đúng rồi, đấy là nơi cậu ta lưu lại khá lâu. Cũng là tự nhiên thôi khi phần nào đó ở cậu ta chần chừ . Cháu phải hiểu rằng phần trong ấy được phản chiếu từ chính tâm trí của cháu. Như khi cháu nhìn chằm chằm vào mặt trời quá lâu, cháu thấy nó ở khắp mọi nơi.”

      Vậy hóa ra bản năng của tôi đều chính xác, tôi nghĩ thầm. Nếu Richard de Mornay phải hồn ma, vậy ấy, cũng giống Mariana, rất có thể sống mạnh khỏe ở Exbury. Thậm chí ấy có thể, tôi mặc định, sống trong lâu đài Crofton. Trước đây Tom từng với tôi thế nào? Những người chọn được sinh ra tại kiếp sống mới có khuynh hướng đặt mình giữa những người quen từ kiếp trước của họ. Bằng cách nào đó, tất cả chúng tôi đều được liên kết với nhau.Vivien, Iain, Geoff và tôi... thậm chí ngay cả...

      “Bác và cháu từng gặp nhau bao giờ chưa?” Tôi hỏi bà Hutherson, đột nhiên lấy làm tò mò. “Ý cháu là trước kia ấy. Bác có phải là ai cháu từng quen biết ?”

      Bà mỉm cười nhưng với tôi, nụ cười đó có vẻ nhuốm chút buồn bã, đôi mắt bà tuy chạm vào mắt tôi nhưng lại như vượt qua cả chúng. “À”, bà , đưa ánh mắt hướng về phía cửa sổ, “tất cả chúng ta đều từng là ai đó”. Bà nghiêng đầu sang bên lắng nghe. “Đó là Vivien”, bà , với giọng dứt khoát. “Ta nghĩ tốt hơn hết nên đun thêm ấm nước để pha bình trà mới thôi.”

      Bản thân tôi chẳng nghe được gì ngoài cơn gió và loáng thoáng tiếng chim hót líu lo, tôi hề ngạc nhiên khi nhìn thấy Vivien qua khung cửa bếp lát sau đó đúng lúc ấm đun reo vang báo hiệu nước sôi bếp lò.


    5. CQH

      CQH ^^!

      Bài viết:
      192
      Được thích:
      41,961

      CHƯƠNG 19


      Đêm đó tôi mơ về mẹ. Tôi mơ mình trở về thời thơ ấu, với hai đầu gối sây sát và tóc tết đuôi sam, chơi đùa trong sân nhà chúng tôi ở Oxford, trong khi mẹ tôi ngồi đọc sách ở bãi cỏ bên cạnh. Trong giấc mơ ấy, đôi mắt mẹ có màu xanh dương. Mắt bà màu tối, giống tôi, tôi cũng nhớ mình cảm thấy kỳ quái đến mức nào khi đôi mắt bà đột nhiên trở thành màu xanh trong khi đáng nhẽ phải là nâu như lúc thường, nhưng khi tôi thắc mắc, bà chỉ mỉm cười và hôn tôi, rồi bảo tôi chơi.

      Sân sau nhà chúng tôi thực rất , nhưng khi tôi về phía hàng rào, lằn ranh dường như lùi ra xa phía trước tôi, cho đến khi tôi phát mình bước trong cánh đồng hoa dập dờn theo gió, ánh mặt trời ấm áp chiếu vai và bầu khí đầy sức sống với tiếng côn trùng râm ran. Nếu vươn tay và lướt đỉnh những bông hoa, tôi có thể ngửi mùi hương ngọt ngào đột nhiên lan tỏa của chúng.

      Giờ tôi cách nhà tương đối xa. Khi tôi quay lưng lại nhìn, ngôi nhà hơn gì chấm ở quãng xa. Tuy cánh đồng hoa rất đáng gọi mời, nhưng tôi biết mẹ lo lắng nếu tôi quá xa. cách miễn cưỡng, tôi bắt đầu quay lại. Dường như lần bộ trở về này còn dài hơn nữa, tôi phải trèo qua hàng rào để vào sân. Lúc tôi về đến nơi ánh nắng phai màu, bầu khí trở nên mát lạnh và ẩm ướt. Mẹ tôi còn ngồi bãi cỏ nữa.

      Tôi vào nhà, nhưng cũng có ai trong đó. Ngôi nhà trống và hoang vắng, bản thân tĩnh lặng còn mang nhiều âu lo hơn bất cứ thanh kỳ quái nào tôi có thể tưởng tượng ra. Bối rối và sợ hãi, tôi chạy, vấp ngã, con đường đến nhà bạn tôi và gõ dồn lên cánh cửa. Bạn tôi lên tiếng đáp lại, nhưng ấy còn là đứa trẻ giống tôi - ấy là phụ nữ trưởng thành, đứng đó khung cửa, hướng đôi mắt thương xót nhìn xuống tôi.

      “Tớ rất tiếc”, ấy . “Chưa ai với cậu sao? Mẹ cậu mất cách đây nhiều năm rồi...”

      Những giọt nước mắt vẫn còn đầm đìa gương mặt tôi lúc giấc mơ chấm dứt. Tôi có thể nếm chúng khi nằm đây trong bóng tối, lắng nghe tiếng tí tách từ đám ống nước trong nhà tắm và theo dõi bóng cây sồi đong đưa những tấm chăn trong lúc cố gắng trấn tĩnh trái tim đập như điên trong lồng ngực. Ngay khi có thể hít thở bình thường, tôi vươn tay bật chiếc đèn đọc sách bàn cạnh giường và ngồi dậy, xộc cả hai bàn tay qua mái tóc ướt đẫm rối bù và gạt chúng xuống che phủ đôi mắt.

      Nó chỉ là giấc mơ, tôi tự nhủ. Mày còn là đứa trẻ nữa, mày sắp ba mươi tuổi rồi, và mẹ mày chết. Tôi nhặt chiếc áo ngủ bỏ lại sàn trước lúc lên giường và luồn tay vào tay áo, vừa thắt đai lưng vừa lê chân ra ngoài hành lang. Từ kinh nghiệm, tôi biết mình ngủ tiếp cho đến khi thoát khỏi ký ức dai dẳng từ giấc mơ kia. Vào những lần như thế này, tôi thường ước mình có chiếc tivi, giống như những người bình thường khác, nhưng tôi mang cho chiếc tivi của mình từ nhiều năm trước rồi. Nó là món đồ cám dỗ luôn khiến tôi xao nhãng khỏi công việc.

      Thay vào đó, giờ tôi ngồi lặng yên chỗ, nghe chương trình trò chuyện đêm khuya cái đài xách tay cùng tách ca cao dễ chịu. Khi cách đó ăn thua, tôi cố đọc sách. giờ sau, vẫn thể rũ bỏ tình trạng bứt rứt mơ hồ cùng nỗi sợ hãi tên lạnh lẽo ỉ như bóp nghẹt trái tim, tôi đầu hàng và nhấc điện thoại, run run bấm nút đến số điện thoại ở New Zealand.

      Mẹ tôi trả lời sau tám hồi chuông, giọng bà bối rối nhưng vẫn ràng. Chẳng mấy chốc bà hoàn toàn tỉnh táo.

      “Julia à? Mọi chuyện vẫn ổn chứ con?”

      Tôi phải thừa nhận, cách khá bẽn lẽn rằng mọi việc vẫn ổn và giải thích rằng tôi chỉ gọi để chào và xem bố mẹ tôi thế nào mà thôi.

      “Vào bốn giờ sáng thế này á?” Mẹ tôi nghe có vẻ hoài nghi sau khi tính thời gian.

      Tôi thở dài. “Thực ra con gặp ác mộng. Con mơ mẹ mất.”

      “Ôi, con ...” Giọng mẹ tôi như cái ôm qua đường điện thoại. “ kinh khủng. Hừm, dù sao mẹ có chết đâu nào, trong tương lai gần mẹ cũng có dự định chết, nên con có thể ngừng lo lắng được rồi.” Tôi nghe thấy thanh sột soạt và biết bà vừa ngồi lên ghế, nhét những chiếc gối để dựa lưng. “Cuộc sống ở ngôi làng của con thế nào rồi?” Bà hỏi tôi. “Tom kể với bố mẹ là ngôi nhà của con hết sức đáng , dù thằng bé hơi nghi ngờ đám ống nước...”

      đợi hồi đáp, mẹ tôi dễ dàng sa đà vào cuộc tự thoại phần lớn liên quan đến tình hình của những người bà con khác nhau của chúng tôi ở Auckland, thi thoảng bị đứt quãng bởi những thanh rời rạc thoát ra từ bố tôi, người chắc chắn cố đọc sách hoặc chợp mắt bên cạnh bà.

      “Cái gì cơ Edward, ?” Bà khẽ hỏi. “Ôi, phải rồi, em quên biến mất đấy. Sau đó, Julia à, ta xuất với chiếc mũ đáng kinh ngạc bậc nhất đội đầu...” Và khi xong, bà lại tiếp tục kể câu chuyện nghe ngóng từ những chuyện ngồi lê đôi mách khác, được sắp xếp cách tài tình để giúp tôi quên nỗi khiếp đảm mà cơn ác mộng đem lại.

      Cha mẹ tôi thực rất tuyệt vời, tôi nghĩ thầm, khi tôi đặt điện thoại lại giá đỡ gần giờ sau đó. Vươn thẳng tay, tôi quan sát sảnh trước với niềm thích thú vu vơ. Mẹo của mẹ tôi ràng rất hiệu quả. Tôi còn hoảng sợ hay e ngại nữa. Nhưng may, tôi cũng thể ngủ thêm.

      Ừm, tôi kiên cường tự an ủi, nếu dậy luôn và tỉnh táo, tôi ràng cũng có thể thay quần áo. Tôi bước thất thểu lên cầu thang và đổi sang chiếc quần jean cùng chiếc áo phông rộng, đôi mắt rớt xuống chiếc chìa khóa lem nhem nho vẫn nằm bàn trang điểm trước mặt. cách chậm rãi, trán nhăn lại suy tư, tôi đặt lược xuống và nhặt chiếc chìa khóa lên, tư lự ước lượng nó trong lòng bàn tay.

      Phải chăng các bí mật giấu chờ để được tôi hóa giải? Tôi nhớ đến gương mặt dịu dàng, hiểu biết mỉm cười của bác Hutherson nhìn tôi ngày hôm qua lúc ngồi bên bàn bếp trong lâu đài Crofton. Đây là cuộc hành trình do cháu khởi đầu, bà vậy với tôi. Nắm lấy chiếc chìa khóa chốc lát, tôi ngước nhìn gương mặt quyết tâm trong tấm gương. Tôi nghĩ chẳng có lý nào để trì hoãn việc chắc chắn xảy ra. Đây là thời điểm để bước tiếp chuyến hành trình của tôi. Là lúc để quay trở lại.

      Dưới tầng, tôi châm cây nến từng dùng suốt lần đương đầu mang tính trải nghiệm vừa rồi và đặt nó ngay ngắn giữa bàn. Nó bắt đầu tỏa ánh sáng nhàn nhạt ra xung quanh, đốm lửa của cây nến được mê hoặc như mong đợi, nhưng tôi khép hờ mắt, nỗ lực tập trung vào nó. Thời gian ngừng lại, và dao động. Tiếng thở của tôi trở nên ồn ào trong căn phòng tĩnh lặng.

      “Mariana!” Giọng Caroline sắc nhọn và tôi ngẩng phắt đầu lên, ngay lập tức tỉnh táo. Bác mỉm cười chút trước phản ứng của tôi, giọng dịu dàng. “Cháu cắt vào tay mất”, bác cảnh báo tôi, “nếu cứ nghĩ miên man như thế. Chúng ta có đánh thức cháu quá sớm ?”.

      “Cháu bị khó ngủ”, tôi bào chữa bằng lời dối nho , muốn thú nhận vô ý của mình là do mải nghĩ đến người hàng xóm tóc đen nào đó. Tôi siết chặt con dao thêm chút và tiếp tục thái rau cho món xúp mà Rachel ninh lò.

      “Trời nóng khác thường”, Rachel biện hộ giúp tôi. “Thời tiết này khiến ai cũng thấy uể oải.” ấy đứng lên, quay khỏi bếp lò, gương mặt đỏ ửng lấm tấm mồ hôi và ranh mãnh đưa mắt liếc về phía Caroline. “Em thậm chí còn thấy chị gà gật lúc đọc lời cầu nguyện sáng nay đó, chị à.”

      “Chị ngủ gật lúc cầu nguyện”, Caroline nghiêm túc , nhưng đôi mắt ánh lên vui vẻ, bác thậm chí trông như trẻ lại khi đáp trả câu trêu chọc của Rachel. “Chị chỉ tỏ ra thành kính thôi.”

      Rachel định bình luận cánh cửa nhà bếp bật mở và bác trai tôi bước vào trong. Ngay lập tức sống biến mất khỏi đôi mắt Caroline, như thể có bàn tay vô hình nào đó vừa lướt qua gương mặt bác. Jabez chú ý đến biến đổi đó. Mặt ông đỏ rực và bức bối trước cái nóng và mang biểu cảm rất cáu kỉnh.

      “Đây là ngày nóng nhất ta từng biết”, ông phàn nàn, gạt những giọt mồ hôi khỏi cằm. “Cái nóng chết tiệt. Mariana, mang cho ta ly nước , và mau chân lên.”

      Tôi làm theo mà lời, đưa chiếc ly cho ông và quay trở lại với công việc làm dở. Ông uống ừng ực khác gì con thú và dằn chiếc ly lên bàn với thỏa mãn. Đôi mắt rắn đanh của ông quay sang tôi.

      “Chị trông mệt mỏi vậy, Mariana.”

      Caroline cựa quậy trong góc cạnh bếp lò. “Con bé ngủ ngon, Jabez ạ. có vấn đề gì đâu.”

      Đôi mắt ông nheo lại. “Nó thiếu vận động. dạo ngoài trời chữa bệnh cho nó.” Ông gọi tôi bằng giọng gần như quan tâm. “Khi công việc của chị ở đây kết thúc”, ông , “chị có thể ra ngoài nốt sáng nay. xuống bờ sông ấy, ở đó trời mát hơn”.

      Tôi cố giấu vẻ ngạc nhiên trước lời ông . Dường như đó là chuyển biến quái lạ và bất thường ở người đàn ông hiếm khi cho phép tôi ra khỏi tầm mắt, thành ra việc ông khuyên tôi nên dành thời gian ra ngoài làm tôi khó lòng tin nổi. Ngay cả Caroline cũng nhướn cả hai mày lên, dẫu vậy bác cũng khôn ngoan khi lên tiếng.

      Jabez quay sang Rachel. “Bữa trưa hôm nay có khách”, ông thông báo. “Ngoài ta còn bốn người nữa. Ta muốn chiếc bánh nướng nhân thịt chim cu vào bữa ăn, ít hơn hai con cho mỗi người, và bình rượu táo ngon từ hầm chứa rượu. Mariana có thể mang lũ chim về cho chị, trước khi nó ra ngoài.”

      Tôi khẽ kêu tiếng phản đối, đôi mắt trợn trừng. Rachel ngước lên từ nồi xúp. “Để em bắt lũ chim”, bảo ông. “Mariana quá đa cảm. ấy thích vặn cổ lũ chim đâu.”

      Bác tôi nhún vai. “Ta quan tâm ai giết cái đám khốn khổ ấy, miễn là chúng nằm bàn của ta vào bữa ăn.” Ông quét ánh mắt về phía vợ. “Ta tin trông nom đứa trẻ”, ông , “và giữ nó im lặng. Ta muốn tiếng la hét của thằng nhóc phá hủy cảm giác ngon miệng của các vị khách”.

      Caroline lẩm bẩm điều gì đó đáp lại, mái đầu thấp xuống phục tùng. Tôi biết lời bình phẩm ác ý của Jabez làm tổn thương bác sâu sắc. Rachel kể với tôi rằng Caroline khao khát hoài thai đứa trẻ, trong những năm bất hạnh cằn cỗi của bác, cũng như niềm hạnh phúc của bác khi cuối cùng cũng sinh ra John. Còn việc Jabez có chung niềm tự hào với đứa trẻ dường như trở thành nỗi đau khôn nguôi với bác.

      “Johnnie là đứa bé ngoan”, tôi lên tiếng. “Cháu nghĩ em ấy quấy rối ai.”

      Bác trai đặt đôi mắt xanh lạnh lẽo lên gương mặt tôi lần nữa. “Chị có thể bất cứ khi nào chị sẵn sàng”, ông , giọng dửng dưng. “Và tự lo cho cuộc dạo chơi của chị . Ta muốn thấy chị ở đây trước giữa chiều.”

      Ông đột ngột quay và rời khỏi phòng, Caroline bước theo như cái bóng nhợt nhạt. Rachel nhìn tôi với đôi mắt ngạc nhiên và khẽ trách. “Chị nên với bác mình như thế. Đỡ lời cho chị tôi ăn thua đâu, Mariana. Chị ấy vẫn vui vẻ như con cừu đến chỗ tên đồ tể thôi.”

      “Tôi biết”, tôi đáp. “Nhưng tôi thể ngăn những lời đó khỏi thoát ra.”

      “Hừm”, Rachel băng qua căn phòng để đứng cạnh bàn, “cũng hại gì. Chị có cả sáng để làm dịu cơn nóng giận của mình. Hẳn mang đến nhiều hứa hẹn thú vị cho chị”.

      Mới nghĩ đến chuyện có vài giờ ra ngoài, tôi thấy toại nguyện lắm rồi, nhưng toại nguyện của tôi vơi phần nào bởi tức giận. Bác tôi muốn tôi ở trong nhà khi các vị khách của ông đến, điều đó quá ràng, và tôi quá bận rộn để dằn lại nỗi hiếu kỳ.

      “Rachel à”, tôi bâng quơ hỏi, “những vị khách bác tôi nhắc đến là ai thế? có biết họ ?”.

      Tôi khám phá được rằng Rachel thể dối dễ dàng. Mỗi khi thể đưa ra câu trả lời trung thực, ấy tìm cách lãng tránh câu hỏi. Giờ ấy cũng cố gắng lảng tránh, bằng việc cúi thấp đầu để phần tóc vàng rơi xuống che gương mặt. ấy chậm rãi lựa chọn từ ngữ, cách cẩn trọng.

      “Đôi khi tốt hơn”, ấy khuyên tôi, “nếu chị che mắt và bịt tai, thay vì cứ đưa ra thắc mắc như vậy”.

      Tôi biết ấy thêm, nên tôi bỏ qua chủ đề này, cầm chiếc bát đầy rau mang đến gần lò và đổ nó vào chiếc nồi sôi sùng sục.

      “Giờ tôi nhé?” Tôi vừa hỏi vừa lau bàn tay ẩm ướt vào vạt váy.

      “Trừ khi chị muốn bắt đám chim bồ câu”, Rachel , rồi bật cười trước vẻ mặt của tôi. “ ”, ấy ra lệnh cho tôi, bắt chước giọng bác tôi, “và tự lo cho cuộc dạo chơi của chị ”.

      Tôi quá hạnh phúc ấy chứ. Bầu trời rộng rãi và mời gọi còn bãi cỏ mát lạnh, tươi non dịu dàng dưới bàn chân trần khi tôi băng qua cánh đồng gợn sóng về phía bờ sông. bộ bao xa, chỉ khoảng dặm gì đó, nhưng cũng vội, cứ để linh hồn tắm trong cảm giác tự do và thảnh thơi tuyệt vời.

      Dù cho nhiệt độ thể giảm bớt. Cái nóng hừng hực của mặt trời đốt trụi những phần ốm yếu và bệnh tật trong thể chất của tôi, khiến những phần khỏe mạnh có thể phát triển trở lại, tràn trề và sinh động hơn trước. Càng đến gần con sông lối càng râm mát, bóng râm dày đặc nhờ những tán lá sum suê từ các lùm cây mọc ven dòng nước lững lờ trôi.

      Ở đây chỉ có những thanh đó từ thiên nhiên - bầy chim líu lo những cành cây cao chót vót, tiếng sột soạt khẽ khàng của sinh vật vô hình trong rừng, cá đột ngột quẫy nước khuấy động bề mặt con sông cạn. Tôi lơ đãng nghĩ, mình giống như lạc vào khu vườn địa đàng sau chuyến dừng chân ở địa ngục vậy. Nạn dịch cùng Luân Đôn dường như ở rất xa, những hành lang tăm tối ở Đàn Cừu Xám thậm chí còn xa hơn nữa.

      Tôi nắm những nếp váy trong tay và lội xuống sông, nâng vạt váy khỏi mặt nước. Làn nước lăn tăn mát lạnh vỗ lên làn da hai mắt cá chân, và dâng cao hơn, thay vào đó thúc giục tôi lội ngược lên thượng nguồn, để tận hưởng cảm giác những viên đá cuội nhẵn thín bên dưới đôi chân mệt mỏi.

      Tôi lội quãng xa, làm nước bắn tung tóe theo mỗi bước chân và vui vẻ ngâm nga, bài hát ngắn lung tung tự tôi sáng tác. Đến khúc quanh của dòng sông, cây cối trở nên rậm rạp hơn, tôi ngừng lại và đánh bạo tiến sâu và nâng vạt váy cao lên.

      Những chú chim làm tôi giật mình, khi lao vút khỏi đám cây mà buồn báo động nỗi hoảng sợ của chúng, cả đàn đập cánh bay liệng thành khối hoàn hảo bầu trời như đổ lửa, rồi biến mất. m thanh như khẩu thần công khai hỏa trong nơi tĩnh mịch, trong kích động tôi hụt chân, ngã tõm người xuống nước kèm theo tiếng chửi thề bất nhã. Gạt mái tóc ướt nhẹp khỏi mắt, tôi ngước lên để nhìn xem thứ gì khiến bầy chim hoảng loạn như thế, trái tim tôi như dội theo cuộc trốn chạy của chúng.

      Đầu tiên, tôi chỉ thấy các bóng râm. Cho đến khi trong các bóng râm đó chuyển động và tán lá xanh rẽ lối cho người đàn ông tóc đen cao ráo cưỡi con ngựa xám, chuyển động với vẻ duyên dáng nhẩn nha dọc theo bờ sông về phía tôi.

                  CHƯƠNG 20


      Richard de Mornay ghìm Navarre lại cách dòng nước lững lờ trôi đến mét và chống khuỷu tay lên yên ngựa, nhìn tôi với vẻ thích thú qua chiếc cổ lực lưỡng của con ngựa.

      “Buổi sáng tốt lành, Farr.” ta nhấc chiếc mũ rộng vành khỏi mái tóc đen và trưng ra cho tôi thấy hành động mô phỏng tương đối giống cái cúi mình. “Tôi biết liệt cả khoản bơi lội vào giữa rất nhiều tài năng của mình đấy.”

      Giờ mà đáp lại bằng cái nhún gối phải phép từ vị trí của tôi có vẻ rất lố bịch. Bên cạnh đó, cái điệu cười thẳng vào mặt tôi của ta khiến tôi vô cùng oán giận. Tôi ngay lập tức đứng dậy và hất đầu kiêu hãnh. “Tôi có vô số tài năng, thưa ngài”, tôi cộc lốc đáp lại ta, rồi xòe chiếc váy ra để kiểm tra mức độ thiệt hại.

      “Tôi cũng nghi ngờ điều đó đâu.” Vẻ suy tư được thay thế bằng nét cười trong đôi mắt ta, và ta nhảy xuống khỏi yên ngựa, nắm dây cương trong bàn tay to khỏe. “ bị ướt hết váy rồi”, ta , như thể đây là bí mật được khám phá bằng. “ cần lại dưới ánh mặt trời để hong khô nó.”

      Tôi bướng bỉnh đứng nguyên chỗ cũ. “Tôi muốn lại dưới ánh mặt trời, thưa ngài. Tôi thấy cánh rừng mát mẻ khoan khoái hơn nhiều.”

      “Vậy cần lại trong rừng. Lại đây, để tôi giúp .”

      ta vươn bàn tay rảnh rang về phía tôi, đôi mắt ánh lên vẻ thách thức. Sau thoáng cân nhắc, tôi đặt tay mình vào ta và để ta đỡ tôi bước lên khỏi mặt nước đến chỗ bờ sông. Đó là trợ giúp đáng hoan nghênh, tôi nhất định phải thừa nhận, bởi lớp vải ướt đẫm váy khiến đôi chân tôi trĩu nặng và đe dọa lôi tuột tôi trở lại con sông. Khi cuối cùng đứng vững, tôi buông phắt tay ta ra như thể đó là con rắn, phá vỡ mối kết nối ấm áp.

      “Cảm ơn ngài”, tôi ngọt ngào với ta. “Ngài là tốt bụng.” Tránh khỏi ta, lần nữa tôi bộ lên thượng nguồn, lần này ở mặt đất, cảm giác mấy thướt tha trong chiếc váy ướt sũng nhưng tôi vẫn giữ tư thế ngẩng cao đầu.

      có gì.” Richard de Mornay dễ dàng bước từng bước bên cạnh tôi, dẫn theo con ngựa đằng sau. “Chắc chắn phiền nếu tôi cùng chứ? Tôi mà để tiểu thư bộ mình trong khu rừng có người hộ tống đâu còn là chiến binh đích thực nữa?”

      Tôi thử xử thông thường. “Tôi biết ngài là chiến binh.”

      “Tôi đến từ gia đình toàn các chiến binh.” ta mỉm cười, nhưng nụ cười hề hài hước. “Các hiệp sĩ quả cảm và các kỵ sĩ hào hoa, tôi là kẻ duy nhất còn lưu lại để bảo vệ thanh danh của gia đình.”

      “Vậy tôi cần sợ hãi đánh mất trinh tiết của bản thân nếu cùng ngài.” Tôi thừa biết đấy là lời phát biểu táo bạo. ta hướng đôi mắt sửng sốt nhìn thẳng vào tôi và ngay lập tức phá lên cười, thanh vui vẻ cứ thế vang vọng trong cánh rừng hẻo lánh.

      dạn dĩ.” ta nhe răng ra cười. “Phải, cần lo đâu. Tôi đòi hỏi đặc ân của lãnh chúa trong vùng đất của mình. Tôi chưa bao giờ có động cơ để ép buộc người đàn bà theo ý muốn của mình.”

      Tôi ngước lên nhìn khuôn mặt đẹp trai cười của ta và tin rằng những điều ta . Có lẽ chính tình ý nơi tôi mới khiến tôi phải lo âu, chứ phải của ta...

      tôi nghe xem”, ta tiếp tục, bằng cách thay đổi chủ đề, “tình hình ông bác của thế nào rồi? Ông ta hẳn đau yếu nghiêm trọng lắm mới để mạo hiểm ra ngoài thế này. Thực ra, đây là lần thứ hai tôi thấy dạo mình. Nào, tôi nghe xem, vì sao sáng nay ông ta lại cho lang thang thế?”.

      Tôi mỉm cười trước cách diễn đạt đó. “Cho phép tôi ra khỏi nhà là cầu của chính ông ấy”, tôi giải thích. “Ông ấy bảo rằng lo lắng cho sức khỏe của tôi.”

      “À”, ta khô khốc , “ông ta quả là người rộng lượng bậc nhất. Hèn gì ông ta đối xử nhã nhặn với người nhà đến vậy”.

      Tôi liếc nhìn ta. “Tôi thấy ngài có vẻ ưa bác tôi.”

      “Tôi cho rằng ông ta là kẻ độc ác và nhẫn tâm”, ta , nhún bờ vai rộng, “và có chút hiềm khích giữa hai chúng tôi”.

      Tôi gật đầu thông cảm. “Ông từng bảo quỷ dữ ngụ trong người ngài.”

      nghi ngờ việc ông ta tin vào điều đó. sao, Mariana Farr?”

      ta trông hơi xảo quyệt, người đàn ông mặc bộ quần áo đen có mái tóc đen cùng đôi mắt lấp lánh sắc màu của cánh rừng xung quanh, ngăn cách chúng tôi khỏi thế giới bao la ngoài kia, mỉm cười nhìn xuống tôi. Tôi nghiên cứu ta cẩn thận và nhún vai đáp lại.

      “Tôi phải mấy nàng yểu điệu, thưa ngài. Tự tôi có mắt để đánh giá và tôi nhìn thấy chiếc sừng quỷ nào cả.”

      ta điềm tĩnh nhìn tôi khi cả hai cùng sánh bước. “Hẳn rất khó khăn cho ”, ta khẽ , “để sống trong ngôi nhà đó”.

      Tôi cứng nhắc vươn người lên, chào đón thương hại của ta. “Tôi chỉ là kẻ mồ côi, thưa ngài, sống phụ thuộc vào lòng cưu mang của họ hàng. Tôi thắc mắc đến vị thế của mình.”

      Đôi mắt ta ngờ vực vẻ ngay thẳng của tôi, nhưng ta để mặc lời bình luận trôi và chúng tôi cứ thế bước trong im lặng. Khi đến khúc quanh của dòng sông, con ngựa xám đằng sau hất đầu ra sau và giật mạnh dây cương, khiến bạn đồng hành của tôi khựng lại.

      “Tôi tin Navarre khát rồi”, ta giải thích hành động của nó với tôi. “Lại đây ngồi với tôi lát trong khi chờ nó uống nước. Đây là chỗ rất thoải mái để giết thời gian.”

      Tôi để bản thân bị dẫn đến bãi cỏ sạch cách vài mét so với mép nước và ngồi lên thân cây đổ, gạt bỏ chút tội lỗi châm vào lương tâm của chính mình. Bác tôi bao giờ phát được chuyện này, tôi tự nhủ, và thậm chí ông có biết, cũng đâu có gì đáng phải hổ thẹn? Sau cùng, tôi mời mọc Richard de Mornay cùng mình, và đơn thuần người ta cũng thể xua đuổi lãnh chúa của vùng ra chỗ khác như thể ta là gã trai làng bình thường được. Và là tôi cũng đặc biệt muốn xua đuổi ta, đối với tôi điều đó bất thường.

      ta ngồi ngay chỗ tôi để chân, lưng dựa vào lớp vỏ thô nhám của thân cây đổ, chân bốt co lên đỡ cho cánh tay vươn ra trước. Qua đôi mắt lười biếng, ta nhìn con ngựa xám uống nước.

      “Ngài vừa bảo ngài là người cuối cùng trong gia đình”, tôi nhắc ta, cố gắng bắt chuyện. “Ngài em trai nào sao?”

      “Tôi có năm em trai”, ta , “nhưng họ đều yên nghỉ cả rồi. Họ đều mất trong khi phụng cho vua Charles I”.

      Tôi nghiêm nghị nhìn xuống. “Vậy là gia đình ngài đứng về phía nhà vua, chống lại Nghị viện.”

      “Phải.” Từ đó nghe chua chát. “Và đổi lại cho những cố gắng, họ mất mạng, đất đai cùng tất cả những gì họ sở hữu và trân quý.”

      “Ngài đâu có chết”, tôi chỉ ra.

      “Phải, tôi đâu có chết.” ta dịch vai thân cây đổ và cười nửa miệng với tôi. “Đứa em trẻ nhất trong số chúng tôi mới được mười tám tuổi và vừa kết hôn khi nó ngã xuống, rồi chính nhà vua cũng mất. Lúc đó tôi hai mươi tuổi. Sau cuộc hành trình, tôi bỏ chạy sang Pháp và nhập vào gia đình của mẹ tôi trong triều đình của vua Pháp. Tôi còn bụng dạ nào để chiến đấu, trong khi cha tôi bị giam trong tháp Luân Đôn, tôi có thể chẳng mấy giúp ích cho ông nếu tiếp tục ở lại .”

      Tôi nhìn ta chằm chằm. “Cha ngài bị giam trong tháp sao?”

      “Ông bị bắt trong khi bảo vệ Exeter, lúc đó ông mới bốn mươi sáu tuổi. Họ giam giữ ông mười bốn năm trong những bức tường của tòa tháp, mà cuộc xét xử đúng luật. Ông trở nên già nua trong cái nơi tăm tối đó. Ông chỉ sống đến khi nhìn thấy tự do, và đất đai của ông được trả lại, nhưng kịp đợi tôi trở về từ Pháp.” ta nhổ lá cỏ và vò nó giữa những ngón tay, bóng tối của nỗi đau xa xưa giăng nét mặt khắc kỷ.

      “Tôi rất tiếc.” Với nỗi cảm thông, tôi khẽ nhào người lên trước. “Tôi biết cảm giác mất cha là như thế nào. Ngài còn ai bên cạnh ư?”

      “Cũng đến nỗi còn ai. Tôi có đứa cháu, Arthur, con trai đứa em út của tôi. Nó sống ở Hà Lan với mẹ. Nó vừa bước sang tuổi mười lăm và là kẻ bảnh chọe ẩm ương, nhưng dù sao nó cũng là cháu tôi. Và tôi có Evan. Như vậy cũng đủ cấu thành gia đình rồi.”

      Evan Gilroy, ta kể với tôi, là bạn của ta từ rất lâu rồi, trước khi hỏa lực của chiến tranh quét ngang vùng quê và bỏ nó lại cho thần chết tối cao. Khi Richard de Mornay theo Charles Stuart trở về quê nhà ở năm năm trước, Evan Gilroy đề nghị được phục vụ người chủ mới của lâu đài Crofton, chịu trách nhiệm quản lý chuồng ngựa cùng những hộ nông dân trong vùng.

      Người đàn ông ngồi cạnh chân tôi mỉm cười trước ký ức ấy. “Viễn cảnh ngôi nhà trống cùng vùng đất khô cằn ko mấy chào đón đối với người đàn ông”, ta . “Nếu vì Evan, tôi nghĩ mình ở lại.”

      Tôi lẳng lặng thừa nhận mình nợ Evan Gilroy. Tôi cảm thấy rất dễ chịu, mặc cho đám quần áo ướt người, khi ngồi ở đây dưới ánh nắng lấp loáng xuyên qua kẽ lá và chuyện với người đàn ông ở địa vị xã hội cao hơn tôi vài bậc. Cha tôi thích người đàn ông này, tôi nghĩ, mặc dù bác Jabez hề tán thành.

      Tôi ngả người và lồng bàn tay vòng ôm đầu gối. “Vậy ngài gặp đức vua bao giờ chưa?”

      “Chính thức hả? Chỉ lần thôi.” ta liếc tôi qua vai. “Dù tôi nhìn thấy ngài thường xuyên, thậm chí còn đánh bài với ngài hoặc hai lần. Rất dễ dàng để nhìn thấy ngài ở cung điện Pháp, trong suốt chuyến lưu đày của ngài.”

      “Chính tôi cũng từng thấy ngài ấy lần. Ở lễ đăng ngôi.” Lần đó ngài để lại ấn tượng sâu đậm trong tôi, tôi hồi tưởng, dáng hình uy nghi và cường tráng với những lọn tóc quăn dài, khuôn miệng gợi cảm và đôi mắt đen biếng nhác đầy thu hút. “Ngài ấy có vẻ là người tốt”, tôi bình luận.

      “Ngài ấy khá tốt bụng”, Richard de Mornay đồng ý, “và chính trực hơn hết thảy. Ngài có trái tim hào phóng, nhưng phải vị vua vĩ đại. Thời của các vị vua vĩ đại qua rồi”.

      Tôi nhăn trán suy ngẫm. “Họ bảo, thực tế ngài ấy là người theo đạo Thiên Chúa.”

      Người đàn ông bên cạnh tôi nhún đôi vai mạnh mẽ. “Mẹ tôi cũng theo đạo Thiên Chúa”, ta . “Tôi nghĩ cũng phải tội lỗi gì to tát.”

      Tôi giả vờ lãnh đạm. Tôi chưa bao giờ gặp người theo đạo Thiên Chúa trước đây. “Còn ngài?” Tôi hỏi ta. “Đức tin của ngài là gì thế?”

      Richard de Mornay hơi cúi đầu, vẻ mặt của ta tối . “Tôi có rất ít niềm tin với Chúa”, ta thẳng với tôi. “Ngài ấy cũng có rất ít niềm tin vào tôi.”

      ta ném nhánh cỏ xơ xác sang bên và lơ đễnh với tay bắt giữ cả hai bàn tay tôi trong tay của ta, kéo chúng về phía trước để ta có thể nhìn thấy hai cổ tay tôi. “Em đeo chiếc vòng”, ta nhận xét.

      Mặt tôi đỏ lựng, cố kéo tay mình ra cách vô vọng. “Tôi thể đeo nó”, tôi phản kháng. “Công bằng mà , tôi thể nhận nó, như thế là thỏa đáng. Tôi định trả lại cho ngài.”

      “Tôi nhận lại.” ta trông có vẻ bực mình. “Tôi mua nó tặng em như món quà và em nên đeo nó.”

      “Bác tôi chắc chắn vừa lòng, thưa ngài”, tôi nhàng nhắc ta. Buông tay tôi ra, ta đứng dậy để dắt con ngựa ăn cỏ, thu những chiếc dây cương trong nắm tay.

      “Tôi quan tâm”, ta . “Bác em liên can gì đến việc của tôi?”

      “Đúng là , thưa ngài”, tôi phải thừa nhận, “nhưng ông ấy rất quan tâm đến những chuyện có dính líu tới tôi, và tôi muốn kích động cơn giận dữ của ông ấy”.

      ta liền quay lại, dáng hình cao lớn con ngựa màu xám, vẻ mặt nghiêm trọng. “Nếu Jabez Howard dám bày tỏ thái độ với em dưới bất kỳ hình thức nào, tôi cũng cho phép điều đó xảy ra.”

      Tôi cũng đứng bật dậy và nhìn thẳng vào ta. “Tôi rất lấy làm hãnh diện, nhưng đây phải việc của ngài. Tôi phải là trách nhiệm của ngài.”

      “Em sai rồi, tiểu thư ạ”, ta bằng cái giọng ngọt lịm như mật ong. “Em là trách nhiệm của tôi nhiều lắm đấy. Tôi biến nó thành thực.” ta tiến về phía tôi, tay chỉnh lại chiếc yên ngựa. “Đến đây, tôi đưa em về.”

      Tôi căng thẳng ngước nhìn ta. “Tôi cưỡi ngựa cùng với đàn ông, thưa ngài.”

      “Vậy cưỡi mình vậy”, ta đề nghị, mỉm cười trước bồn chồn của tôi.

      Tôi ngước lên trời tìm cớ thoái thác và thoáng nhõm khi thấy mặt trời vẫn chưa xuống thấp phần phía đông. “Vẫn còn quá sớm để tôi quay về”, tôi xin lỗi. “Bác tôi chỉ thị tôi đừng về cho đến giữa chiều.”

      Richard de Mornay híp mắt tin. “Cái gia đình cưu mang em thú vị đấy. thành vấn đề.” ta gạt phăng phản đối của tôi. “Em có thể cưỡi ngựa với tôi đến lâu đài Crofton và lưu lại làm khách của tôi cả chiều.”

      Bị lời đề nghị ấy cám dỗ vô cùng, nhưng phút chót tôi lại lắc đầu, hơi lui ra sau và sém chút nữa vấp phải thân cây đổ vì hành động đó.

      “Tôi rất cảm kích lòng tốt của ngài, thưa ngài”, tôi khẽ với ta, “nhưng tôi nghĩ tốt hơn hết mình nên làm thế”.

      “Đấy là quyết định của em”, ta quả quyết với tôi, rồi nhã nhặn nhảy lên yên ngựa. ta thúc ngựa lại gần hơn, dây cương gò mạnh đến mức phần đùi đầy cơ bắp của con ngựa chỉ cách mặt tôi vài gang tay đáng sợ, khi biết rằng khúc gỗ nặng nơi gót chân chặn đường tháo lui của mình. “Tôi từng bảo ép buộc em làm theo ý tôi”, ta nhắc tôi nhớ, vạch ngón tay dọc theo phần quai hàm hướng lên của tôi. “Khi chúng ta trở thành tình nhân, đó là do em khao khát điều đó cũng nhiều như tôi vậy.” Ngón tay ta lướt qua làn môi tôi, đem theo huyễn hoặc chớp mắt về nụ hôn, trước khi ta đưa bàn tay lên mũ và lịch chúc tôi ngày tốt lành.

      Mặc cho toàn bộ kích cỡ của bản thân, con ngựa xám di chuyển với tốc độ và lanh lẹ tuyệt vời. Tôi nhìn những hàng cây dần nuốt lấy họ và rồi trong vài phút cứ đứng đó lắng nghe tiếng vó ngựa mờ dần. Tôi cho rằng mình có thể cử động, nếu cũng là tôi muốn thế, nhưng thực tôi muốn làm như vậy. Tôi cứ đứng đó dưới tán cây rọi nắng, cố gắng lưu giữ khoảnh khắc này lâu, khi cùng lúc cảm nhận nó tuột dần ra xa như những hạt cát lọt khỏi kẽ tay tôi... tuột dần... tuột dần...

      Cảnh vật trước mắt nhòe và khoảnh khắc ấy biến mất.

      Tôi đứng mình bên bờ sông lững lờ trôi, nơi chỉ có những bụi cây cao đến đầu gối rải rác khắp nơi cùng những nhánh liễu còn sót lại gợi nhớ về hùng vĩ của khu rừng từng chạy dọc hai bên bờ sông. Con sông giờ bị nắn lại nhờ bờ kè cao chót vót cả hai bên, tôi gần như nhìn thấy gì ngoài nước, cỏ và bầu trời xanh đầu. Tôi biết mình đứng ở đâu.

      Trèo lên bờ kè dốc, tôi ngước ra xa cánh đồng và cố gắng lấy lại phương hướng. Tít tắp phía bên tay trái, tôi có thể nhìn thấy những bãi cỏ được rào lại cùng những mái nhà uốn cong của ngôi làng rất có thể là Exbury. Cũng rất khó từ cái góc nhìn lạ lẫm này. Trước mặt tôi cũng có hàng rào bằng đá, cách đầy mét và xa hơn về bên là ngôi nhà đặc trưng của đồng quê được quét vôi trắng, ngăn nắp, với những chậu hoa nở tươi tốt mỗi khung cửa sổ. khu rừng thu từ những cây táo xương xương, oằn mình vươn rộng theo tạo hình gọn ghẽ nằm cách xa bên sườn của ngôi nhà và vài con cừu mới xén lông tĩnh lặng nhìn tôi từ chỗ của chúng bên kia hàng rào bằng đá.

      Tôi biết mảnh đất này thuộc về ai thậm chí còn trước khi Iain Sumner vừa huýt sáo vừa vòng quanh ngôi nhà và dừng lại bên ngoài chiếc kho siêu vẹo phía sau, mó máy với món đồ cơ khí nào đó tôi thể nhận dạng từ phía xa. Lưng ta quay về phía tôi, những cơ bắp kéo căng dưới mặt vải từ chiếc áo sơ mi bằng cotton, mái tóc đỏ của ta như gột ánh vàng nhờ những tia nắng hừng hực chiếu xuống từ mặt trời buổi sáng.

      Tôi phải thừa nhận, khi nhảy qua hàng rào và bắt đầu bước qua đám cừu thờ ơ đó, mục đích duy nhất của tôi là tiến về phía Iain và hỏi xin tách cà phê, nhưng khi tôi càng lại gần ngôi nhà, ta vẫn tiếp tục nhận ra được xuất hiên của tôi, chút quỷ quyệt bắt đầu khuấy động trong tôi.

      Cơ hội đây rồi, tôi nghĩ, cơ hội bắt ta trả giá cho tất cả những lần ta làm tôi giật nảy đến đờ cả người vì cứ lén lút đến sau lưng tôi. Tôi chẳng bao giờ có cơ hội tốt hơn thế này. Tôi bước chậm để hạ thấp thanh hết mức có thể.

      Khi chỉ còn cách vài mét, tôi nhìn thấy nguyên do giải thích cho hành động của ta. ta bận rộn dùng dụng cụ xử lý khối gỗ nặng, loại công cụ tôi vẫn thường nhìn thấy được treo trong các kho thóc. Làn khói xanh phả ra từ điếu thuốc bốc lên đầu khi ta nhoài người lên trước, dùng cả hai tay để điều chỉnh chiếc máy khó cầm.

      Giờ tôi chỉ còn cách đầy mét hai. Thêm bước nữa thôi và tôi có thể vươn tay chạm vào vai ta. Bàn tay tôi thực tế giơ lên lưng chừng Iain ngẩng phắt đầu lên và nghiêng sang bên, dùng những ngón tay nhem nhuốc, thành thạo rút điếu thuốc khỏi môi.

      “Buổi sáng tốt lành, Julia”, ta .

    6. ^^! Nếu bạn không gửi link bài viết trên Facebook được, hãy sử dụng link trong khung này để chia sẻ bài viết :