Hồi thứ 6: Mèo gào Lại Nhạn doanh với nghìn lính dõng hội hợp với nhiều cánh cướp cạn, mãi lộ mai phục trong Hoàng Thiên Đăng, bố trí thế trận thiên la địa võng chết người. Những người đó phần lớn đều xuất thân làm nghề săn nhạn và đâm cá, quen các ngón nghề mai phục, trong khu đầm lầy lại có cỏ nước, lau lách um tùm dày đặc, kín tầm mắt, che dấu sát cơ nguy hiểm ở bên trong. Cả vùng nước hoang dã, lạnh lùng, im lìm, người ngoài căn bản thể nhìn thấy điểm nào khác lạ. Tới tờ mờ sáng, khi giọt sương đầu ngọn cỏ còn chưa tan, trong vùng nước xẫm ấ, lau lách mênh mông, từng dám sương dật dờ bay, trông thấy quân Thía Bình tiến vào Hoàng Thiên Đăng, Trương Tiểu Biện vội sai Nhạn Bài Lý Tứ ở lại cắt đặt lính dõng, chuẩn bị phục kích. mang con mèo đen, rồi sai Tôn Đại Ma Tử và Nhạn Linh Nhi làm người tùy tùng cùng chống cái bè nhạn ra đến vùng nước sâu nhất là khu "Mộ Nhạn" Mộ Nhạn này vốn là núi đất ở giữa Hoàng Thiên Đăng, sau này bị nước nhấn chìm, nghe đồn, trong đàn chim di trú theo mùa giữa phương Bắc và phương Nam ấy vốn có rất nhiều con tuổi già sức yếu hoặc giữa đường bị bệnh tật qua được, chúng biết thể bay tiếp tới đích, đành đậu lại Mộ Nhạn chờ chết. Khi chúng sắp tuyệt mệnh vẫn ngẩng đầu lên nhìn trời trừng trừng, trông đồng loại dang vỗ cánh trung. Từ xưa tới nay ai vì sao những con chim di trs hoặc nhạn hoang sắp chết đều đậu lại Mộ Nhạn này. Nhưng. Nhạn dân luôn luôn sùng bái nghĩa khí, giũ phong tục xa xưa truyền lại, bao giờ sắt hại những con chim di trú đáp xuống xung quanh vùng Mộ Nhạn. Bên cạnh đó, Mộ Nhạn còn có truyền thuyết khác mà ngay cả những thợ săn già nhất trong đám nhạn dân cũng biết nguồn gốc, chỉ truyền miệng cho nhau từ đời này sang đời khác. CHuyện kể rằng, vào khoảng cuối đời Đường, trong thời kỳ Ngũ đại Thập quốc, có tướng quân bị người ra hại chết ở đó. Nhạn dân trong đàm thương tiếc trước cái chết tráng liệt dựng cái miếu tuềnh toàng ở Mộ Nhạn để chôn cất thi thể của vị Tướng quân nọ, năm nào cũng thắp hương cùng bái. Đến những tượng đất nơi miếu hoang nếu thường xuyên nhận hưng cũng còn linh thiêng, huống gì bộ hài cốt trong miếu Thổ địa là vị tướng quân phải ngậm hờn mà chết. có phải vị linh trường tồn bất diệt hay mà từ khi Mộ Nhạn có tòa "Tướng quân miếu", núi đất bắt đầu sụt lún, cuối cùng chìm xuống dưới nước, sau đó điềm trời bất thường, có vô số chuột nước bắt đầu tha rơm rác, đá gỗ đến đắp xung quanh Mộ Nhạn vòng đê kéo dài đến mấy chục dặm khiến cho các dòng nước đổ vào Hoàng Thiên Đăng được lưu thông, nuôi dưỡng đám cỏ nước mọc rậm rạp, ngay cả hạn hán cũng ảnh hưởng tới được. Chỉ có điều từ đó trở , trong vùng đầm lầy lau sậy này thường có những trận gió và sương mù xuất , khiến cho trời đất biến sắc, nước mây mờ mịt, những tượng dị thường này lúc có, lúc ,trước giờ theo quy luật nào cả. Nhạn dân thường bảo ấy là oán khí chưa tiêu tan của vị tướng quân trong Mộ Nhạn kia, chỉ cần trận gió nổi lên là báo hiệu thế gian có tai họa như binh đao, hạn hán, lũ lụt, dịch bệnh. Trước đấy, người ta rất tin vào câu chuyện này, cứ đầu năm lại mua những đứa trẻ nhà nghèo ở ngoài tỉnh, phối thành cặp đồng nam, đồng nữ, rồi cho trang điểm chỉnh tề, nèm xuống vùng đất xung quanh Mộ Nhạn, dìm chết để nuôi cá, cầu xin thần linh dưới nước bớt giận, phù hộ cho phương này được bình yên vô . tuy nhiên, việc làm đó còn chưa thấy tác dụng thực đâu, mặc cho đám ngu dân tha hồ cúng bái, chiến , thiên tai vẫn cứ thế nổ ra. Chính vì vậy, dần dần hương lửa chõ này trở nên lạnh lẽo. Cho tới cuối thời Minh, phong tục tàn nhẫn đó mới bị xáo bỏ hoàn toàn. Trương Tiểu Biện nhớ hồi ở trong Miêu Tiên từ lúc gặp Lâm Trung Lão Quỷ lần thứ hai từng đưuọc lão mách bảo rằng tướng tinh của chiếu, phát ở nghiệp vô trong thời loạn thế, chỉ cần làm theo những lời cặn dặn của lã dẫu dẹp loạn hay giết giặc, cũng ắt định là thắng. nay muốn thủ thắng ở Hoàng Thiên Đăng phải dùng con mèo đen để lôi di cốt của tướng quân trong Mộ Nhạn ra, nếu sơ suất chút nào toàn quân bị tiêu diệt ngay. Thường có câu: "Mật ngọt chết ruồi". Câu đó sai, nhưng Trương Tiểu Biện bị ma quỷ mê hoặc, cứ xem lời Lâm Trung Lão Quỷ như khuôn vàng thước ngọc, bảo sao là làm vậy, đương nhiên việc thành bại hôm nay chỉ trông chờ vào mỗi việc đó mà thôi, thế nên vội vội vàng vàng đến Mộ Nhạn, đúng là: "Lòng như tên bắn còn e chậm; chạy tựa đằng vân thấy chẳng nhanh" Nhạn Linh Nhi là người dẫn đường, từ lớn lên ở Hoàng Thiên Đăng, đối với đường thủy các nơi đều thông thuộc. chống bè nhạn mặt nước, len lỏi trong đám lau sậy rậm rạp lòa xòa, đưaTrương Tiểu Biện và Tôn Đại Ma Tử đến vùng nước rộng, chỉ thấy nước ở quãng lau lạch sâu trong đầm, phẳng lặng như gương, khói sóng man mác, hết sức thanh u. Nhạn Linh Nhi chống sào dừng bè, với Trương Tiểu Biện: "Tam ca! Nơi đây chính là Mộ Nhạn, chỗ tòa miếu tướng quân chìm dưới đáy nước thường có xoáy mạnh, hút người ta xuống, mức nước nông sâu khó mà biết được. Nhiều năm nay, ai dám thăm dò cho thực hư" Trương Tiểu Biện thạo bơi lội cho lắm, nhiều nhất cũng chỉ quều quào chân tay như chó bơi mà thôi., bây giờ ở mặt nước nên khỏi run sợ nhưng vẫn cứng: "Người làm đại câu nệ tiểu tiết, Nhạn doanh chúng ta toàn là hảo hán, khi hành động chỉ cần hợp với lương tâm trong vòng trời đất chứ cần phải đắn đo về lời xì xào cửa người ta, sao phải tin vào những chuyện quỷ thần huyễn hoặc ấy? Bọn các ngươi chỉ cần đứng xem cho Tam gia ta làm thế nào mời vị tướng quân bị vùi thây dưới đáy nước ra diện kiến là được" Tôn Đại MA Tử vốn xưa nay sợ quỷ thần nhưng hết sức kính trọng các bậc liệt thời xưa, bây giờ chuẩn bị ác chiến với lũ Việt khấu, hiểu vì sao Trương Tiểu Biện đột nhiên muốn làm chuyện kì quái như vậy. Nghe thế, gã vội khuyên ngăn: "Cha mẹ ơi, chuyện này phải chuyện đùa đâu. Xét ra vị tướng quân kia cũng alf bậc thủy thần oanh liệt, tam đệ sao lại mạo muội làm kinh động đến ông ta?" Trương Tiểu Biện : "Nếu quả thực ông ta ở dưới nước có linh thiêng đáng ra phải giúp đỡ Nhạn doạn chúng ta dẹp yên giặc". đoạn, sai Nhạn Linh Nhi chống bè tới sát chân đê. thân đề đầy những miệng hang to chừng nắm đấm, đám chuột nước đào hang dày đặc, thông với nhau. Chuột nước là loài gần giống hải ly, cũng có răng nanh sắc nhọn, có thể gặm đổ thân cây cổ thụ nghìn năm,giỏi việc đắp đập, xây đê. Nhưng, chuột nước ở Hoàng Thiên Đăng được dân gian truyền nhau gọi là Chuột cống nước hoặc là Thử Tinh, phải đồng loại với họ hàng nhà hải ly. Chúng thích những nơi lạnh lẽo, ẩm thấp, tính tình tàn nhẫn, giảo hoạt, có thể bơi dưới nước lôi cá lớn lên bờ, lại có thể cắn chết, ăn thịt những con chim nước hoặc nhạn hoang đậu lau lách, những con chuột lớn thậm chí có thể bắt giết cả mèo già. Ở trong đầm lầy, chúng lợi dụng khí tụ tập mỗi lúc đông, nhiều kể xiết, chỉ riêng có mèo khoang Linh Châu mới khắc chế được chúng. Trương Tiểu Biện chiểu theo thuật xem tướng mèo do Lâm Trung Lão Quỷ truyền thụ, đêm Nguyệt ảnh ô đồng kim tuyến miêu đảy tới gần hang chuột nước. Loài mèo hễ ngửi thấy mùi hôi tanh là lập twucs phát tá, tuy mèo khoang Linh Châu xưa nay bắt chuột nhưng trời phú là thiên ddihcj của loài chuột, con mèo khoang vừa ngửi thấy mùi tanh nồng xông lên từ hang chuột nước liền thể nhịn được, kêu "gàoo... o" lên tiếng. Có thể bạn đọc muốn hỏi, thế nào là "gàoo... o" lên? Vốn là, tiếng kêu của mèo từ xưa tới nay chia thành số mức độ. Phần những con mèo nào kêu được tiếng "gàoo... o" quý nhất, còn những con mèo lười nhác chỉ chuyên nằm gác bếp sưởi ấm tiếng kêu là "meo". Tiếng kêu uy mãnh nhất của loài mèo được gọi là"mèo gào". Con mèo đen gào lên tiếng khác thường, đúng là: "Vọng chín tầng trời, mây phải dạt; Vang vào khe suối, cá đều kinh" Trong "Miêu kinh", có câu rằng: "Con mèo trong mắt có đường kim tuyến tiếng như hùm hổ. sư tử,trông nhà nằm ngoài sảnh, dẫu ngủ chuột cũng chết". Những con Thư Tinh dưới nước rất sợ tiếng mèo gào, chỉ cần nghe hơi là chốn ráo. Nỗi sợ của chúng nhanh chóng lan ra khắp nơi, đồn mười, mười đồn trăm, cả bầy chuột nước nấp trong các hang hốc thân đê thảy như có tai họa lớn sắp ập xuống, thế là già bám trẻ, mẹ ngậm con, nhao nhao lao ra khỏi các miệng hang, chạy tràn ra bờ đê như cơn thủy triều. Cả bọn Trương Tiểu Biện ai ngwof mấy tiếng mèo kêu mà có thể gây ra cơ đến thế, chiê thấy vô số con chuột cống nước da bóng lông mượt, răng nhọn nanh sắc tranh nhau cướp đường chạy trốn, lũ lượt tựa như những luống nước đục vọt ra tứ phía, khiến người ta cảm thấy như trời sắp long, đất sắp lở, ngày tận thế tới vậy. Cả ba người đều thấy hết sức kinh dị, toàn thân nổi gai ốc. Nhạn Linh Nhi vội chống bè ra giữa vùng nước, chỉ mong chạy càng xa càng tốt. Số lượng chuột cống nhiều tới mức kinh người. Con đê "chuột" chật hẹp, vốn thể đủ chỗ cho chúng tháo chạy, có rất nhiều con chuột bị đẩy xuống nước. Loài Thử Tinh đó bẩm sinh rất giỏi bơi lăn, đám chuột bị rơi xuống nước tranh nhau bơi , lập tức khiến mặt nước vốn yên tĩnh bỗng nổi lên sùng sục như thể người ra mở nắp vung nồi nước sôi vậy. Đột nhiên mặt nước nhấp nhô, xuất xoáy nước cực lớn khiến những con chuột ở gần bị hút xuống dưới, việc càng khiến bầy chuột trỏ nên hoảng loạn. Nhạn Linh Nhi kêu lên: " xong rồi! Chắc hẳn đó là con My Độn Lăng Ngư vốn tiềm phục dưới đày nước Hoàng Thien Đăng" biết con casnayf rất lợi hại, cả bọn lại ở mặt nước, khó mà chống đỡ, liền nhanh chóng đẩy bè nhạn cập vào chỗ đất cao gần đó. Vốn đây là thân cây cổ thụ bị chặt còn trơ gốc, miễn cưỡng có thể đặt chân được. Ba người vừa đặt chân trước lên gốc cây bè lật nhào. Chỉ thấy sóng nước rẽ làm đôi, từ trong vọt ra con cá to như bầy thủy quái, thấy đầu thấy đuôi. Đầu cá còn lớn hơn cả cái cối xay cỡ đại những ba lần, mặt cá giống hệt mặt người, màu da như màu đá, cái mồm rộng đến khiếp hãi mở rộng hút nước, liên tục nuốt sống những đám Thử Tinh tập trung bên cạnh, Vạn vật thế gian tuân theo vòng luân hồi của vòm trời, có câu rằng dùng muối chế đậu hũ, vật này trừ vật khác. Đàn chuột nước tập trung trong đầm rất nhiều, tự sinh sinh ra loài cá My Động Lăng Ngư chuyên ăn thịt chuột nước. Cái gọi là "My Động" có nghĩa là hút nước. Loài cá này xù xì như tảng đá, cả năm trời cứ nằm phục dưới đáy nước động đậy nhưng lúc nào đàn chuột nước tập trung làm mặt nước động mạnh con cá này mới xuất , lôi theo bùn cát dưới đáy nước vọt lên, khiến cho mặt nước như bị lật nhào. Tôn Đại Ma tử biết loại My Động Lăng Ngư này, tưởng là thủy thần hóa thành. Gã trông đến đờ người ra, nhưng Nhạn Linh Nhi biết con Lăng Ngư hút nước, sức có thể nuốt cả trâu, ngựa. hiểu việc làm vừa rồi của Trương Tiểu Biện rốt cuộc nhằm mục đích gì, đành hỏi: "tam ca, đại quân Việt khấu sắp sửa đến nơi rồi. giờ huynh còn bắt cá là sao?" Trương Tiểu Biện vốn là kẻ du đãng. Lưu manh, tuy lâm vào cnahr nguy hiểm nhưng cũng quên chu môi thò mỏ liens thoắng : "Muội tử biết đấy thôi, trong nhà Tam ca ta còn có mẹ già tám mươi tuổi, chỉ mong bắt con My Động Lăng Ngư về để bán kiếm tiền nuôi mẹ thôi... " Nhạn Linh Nhi nghe thấy thế rất cảm động. nghĩ bụng: "Doanh quan Trương Tam ca của Nhạn doanh chúng ta chẳng những đa mưu túc trí, cử chỉ khẳng khái, nghĩa khí hơn người mà còn là người con hiếu thảo hiếm có, đến lúc chuẩn bị đánh trận mà cũng còn quên việc phụng dưỡng bà mẹ tám mươi tuổi ở quê. Tục ngữ có câu: "Vạn điều ác, tội dâm lớn nhất; Trăm việc lành, lấy hiếu làm đầu" Thời nay còn như xưa, có được người như thế mới là đáng quý" Từ đấy càng thêm kính phục Trương Tiểu Biện. Nhưng, Trương Tiểu Biện chưa kịp hết câu, con Lăng Ngu đọt nhiên quẫy đuôi, giương vây, từ trong miệng hộc ra bộ xương người. Bộ xương ấy rất to lớn, tuy da thịt toàn thân tiêu tan hết chỉ còn lại xương cốt trắng nhởn, nhưng hình dáng khôi vĩ đó vẫn còn lớn hơn Tôn Đại Ma Tử nửa cái đầu. Bên ngoài bộ xương, toàn thân nhân dưới đều mũ mão, nai nịt tề chỉnh. Mũ kim khôi là loại Nhật nguyệt phi hổi khôi, áp giáp là loại giáp liên hoàn trăm vòng sắt, bịt vai hình mặt thú, hộ tâm dắt bằng đồng, dây buộc bằng sợi gân bò, chiến bào thêu chim vũ, chẳng biết vì nguyên cớ gì mà bộ nhung giáp đó còn nguyên như mới Trương Tiểu Biện nấp ở gốc cây nhìn thấy ràng, nghĩ bụng: "Dúng là Miêu Tiên gia hiển linh, rốt cuộc cũng mời được vị" lão gia" từ dưới nước lên. Bộ xương này vùi dưới đáy nước nghìn năm, quả nhiên vì lâu lăm nên tích tụ nên khí. sau khi hình nó tác tác quái thế nào? Đúng là: "Mây xanh nào có ý gì; Chẳng qua ngọn gió đưa về mà thôi". Muốn biết bộ xương của tướng quân này làm thế nào giúp Nhạn doanh giết giặc lập công, xem hồi sau . Hồi thứ 7: Huyết chiến Lại , vùng Hoàng Thiên Đăng, đường thủy đan xen chằng chịt, lau lách trải rộng hàng vạn khoảng, đất rộng, dân thưa. Xưa nay là sào huyệt náu cảu đám hảo hán lục lâm chuyên chặn đường cướp của, mai phục giết người. biết khách qua lại bị giết oan vì vậy khí trong đầm rất nặng. Lời tác giả: Năm xưa, khi ngôi mộ tướng quân ở Mộ Nhạn bị chìm xuống đáy nước, miếu thờ đổ nát thi thể của vị tướng quân nọ bị My Động Lăng Ngư nuốt vào bụng. Nhưng đó là di cốt của bậc hùng thời xưa, người lại mặc bộ áo giáp hộ thân quý báu, có thể tránh được lửa nên tạo thành vầng khí sáng vô hình, vô chất dày đặc, bao xung quanh. Vì vậy, dẫu nằm trong bụng cá, xương thịt rữa nát hết nhung bộ xương mặc giáp trụ vẫn hề bị tiêu hóa. Con My Độn Lăng Ngư hết sức tham ăn, lúc ấy chỉ mong nuốt đầy bầy Thử Tinh dang bơi dưới nước, nhưng bộ xương nọ choáng hết chỗ trong khoang bụng nên nó khó lòng ăn cho sung sướng, đành phải hộc ra khỏi dạ dày. Chỉ thấy nước đne vọt ra cuồn cuộn trong miệng con My Động Lăng Ngư, bộ xương còn mặc nguyên khôi giáp được phun ra, trắng nhơn nhởn, ướt đầm đìa. cái đầu lâu, hai hốc mắt sâu thẳm như cái lỗ đen vô thần nhìn thẳng lên trung. Bộ xương được bộ giáp báu nâng đỡ, cứ thế dập dềnh trôi nổi mặt nước. Trong Miêu Tiên từ, Lâm Trung Lão Quỷ từng mách bảo Trương Tiểu Biện rằng: "Chỉ cần ngươi trông thấy Bạch Cốt tướng quân mặt nước Nhạn doanh nhất định đại phá đưuọc Việt khấu", các tình tiết cụ thể hơn chẳng chút nào. Trương Tiểu Biện nghĩ đến vỡ óc cũng đóan được chỗ ảo diệu bên trong. Tuy rất tin tưởng vào chuyện đó nhưng khi chuẩn bị đánh trận tới nơi lòng lại thấp thỏm yên, thầm chửi đổng rằng: "Con bà thối tha nhà nó chứ, trông cái bộ xương to trong Mộ Nhạn này tuy hồi còn sống chắc oai phong lắm nhưng bây giờ chẳng qua chỉ là đống xương vô tri vô giác mà thôi, làm sao chỉ nhờ vào nó mà thắng trận được? Thằng cha Lâm Trung Lão Quỷ biết uống nhầm thuốc gì nữa? Nhỡ lão ta nhất thời hồ đồ tính nhầm, bày kế cho ta, chẳng hóa ra liên lụy đến cái mạng Trương Tam gia này phải chịu chết ở đây hay sao?" lúc nghĩ ngợi lung tung, bỗng trận gió thấu xương thẩu đối. trận gió này phải tầm thường. là: cuốn dậy đất bằng nơi Địa ngục, thổi tung bụi núi Phong Đô, trong phút chốc, đất trời biến sắc, mây mù đều tan. Trương Tiểu Biện toàn thân rét run lên, nhìn vào mặt nước thấy cả con My Động Lăng Ngư lẫn bộ xương trắng của vị tướng quân đều chìm xuống đấy nước, chỉ còn lại đàn chuột cống nhào nhào cướp đường bộ chạy dưới chân đê. Nhạn Linh Nhi thấy mây mù tan hết, dám chậm trễ, vội vã lật lại cái bè vừa bị úp mặt nước, kéo Trương Tiểu Biện và Tôn Đại Ma Tử lẩn vào trong đám lau sậy để hội hợp với cánh lính dõng Nhạn doanh mai phục gần đó. Trương Tiểu Biện rạp bè, trong lòng chợt thấy hồ nghi thôi, hiểu bộ xướng của vị tướng quân vùi thân dưới đáy nước có tác dụng gì. đâu có biết rằng, bộ giáp báu mặc bộ xương vốn là cổ vật từng trải qua nhiều chinh chiến, sát khí tích tụ đó rất nặng, thêm vào đó, nghìn năm nay phơi ra trước ánh sáng mặt trời, lần này xuất khiến trong khoảng khắc, gió nổi dậy, thổi cho hàng vận bông lau lay động, lại khiến cho đám mây mù mỏng manh che phủ Hoàng Thiên Đăng bị cuốn sạch , làm tiêu tan hết sát khí. Bộ bảo giáp sau đó tàn thành từng mảnh vụn rồi cùng bộ xương chìm xuống đáy nước Mộ Nhạn. Trận gió đến quá nhanh nhưng đó là then chốt thành bại của việc quân, ảnh hưởng vô cùng lớn lao. Thơ cổ có lời rằng: "Gió đông chẳng mến Chu Lang; Thi dài Đồng Tước giam hai Kiều" Đó là thời Tam Quốc giai đoạn Hậu Hán, trước khi nổ ra trận Xích Bích, nếu có tượng cá trạch đào hang báo hiệu có gió đông những khổ nhục kế, liên hoàn kế, phân gián kế dẫu tinh vi đến mấy cũng vứt . Nhược bằng Vũ hầu Gia Cát Lượng mượn được gió Đong làm gì có trận hỏa thiêu liên hoàn của quân Tào? CHính vì vậy, có bài tán, tán tụng riêng về cái hay của gió trời rằng:" Bay. Bay, bay; Gió Nam Bắc Đông Tây; Bóng hình đâu chẳng thấy; Cuốn sạch bụi trần ai; Giúp trời vén hết mây; Bắt hoa dương, thổi liễu gầy; Lòng sông đưa đẩy thuyền này lênh đênh; Đỡ mây trắng, rời núi xanh; vờn lá cây cành phen. Xuyên song cửa, lọt qua rèm; Rung rinh bóng lửa, ánh đèn lúc khuya. Bộ giáp báu dưới đáy Mộ Nhạn lmaf dậy lên trận gió có liên quan gì đến việc Nhạn doanh mai phục trong Hoàng Thiên Đăng? Số là, Việt khấu khởi binh đánh thành Linh CHâu, dụng quân lâu ngày mà chẳng nên công cán gì, lại thêm bốn phía nước lụt dâng cao, lương thảo cnaj kiệt khiến lòng quân hoảng loạn, đành phải nhân lúc mưa ngừng để vội vã rút lui. Nhưng đường cái quan phần lớn bị lũ lụt làm sạt lở, nhiều nơi hoàn toàn cso đường để , chổ duy nhất đủ để cho đâị quân vyowtj qua là Hoàng Thiên Đăng. Đại đội người ngựa quân Thái Bình cuốn cờ im tiếng, rút lui trong đêm, vòng vèo quanh co theo đường núi, lục tục đến bờ đầm đội ngũ được chỉnh tề, người nào nguwofi nấy lê bước uể oải. trời tảng sáng, trong đầm chỉ thấy toàn là mây mù mỏng che phủ, im lặng đến lạ lùng. Thủ lĩnh quân Thái Bình là người từng trải sa trường, hiểu binh cơ, lại cực kỳ đa nghi, nhìn động tĩnh mà đoán được tình hình. tuy biết xung quanh Linh Châu có đội quan binh nào lớn nhưng khi tới đây, thấy đám mây mù trong Hoàng Thiên Đăng có náu sát cơ, liệu chừng nơi đây rất nguy hiểm, nhất thời dám khinh suất vào, định phái thám tử dò la tìm đường khác. Ngay lúc ấy, bỗng thấy trong đầm xuất rất nhiều chuột chạy vọt qua bên cạnh, trốn vào vùng đất hoang, đồng thời , giữa khoảng trời đất lại xuất gió mạnh cuốn tới, quét sạch mây mù, viên thủ lĩnh quân Thái Bình thấy thế liền lập tức trấn tĩnh trở lại. hiểu , loài chuột nước vốn sợ người, thấy người ắt chui vào hang, chúng chạy lung tung khắp nơi thế này, nhất định trong Hoàng Thiên Đăng có phục binh, chắc chỉ là trái gió trở trời nên mới như thế mà thôi. Hơn nữa, bụi bặm, mây mù hơi tan, sợ chậm trễ bị lạc đường, thầm tính toán rằng, nếu bên trong có vài tên thảo khấu, cướp cạn nấp cũng chẳng dám xông vào đại đội người ngựa của ta, trừ phi chúng chán sống. Thêm vào đó, vất vả hành quân trọn đêm, sĩ tốt đều mệt mỏi, vì vậy, quân Thái Bình trở nên sơ suất, chẳng thèm phái thám tử trước dò đường, từng đợt cứ thế chen nhau tiến lên, men theo các bờ đê chuột để vào vùng lau lách rậm rạp. Đoàn quân dày đặc, nối đuôi nhau như con rắn dài, thấy đầu thấy đuôi, xuyên qua Hoàng Thiên Đăng, chầm chậm xuôi về phía Nam. Trung quân trảy vào vùng giữa đầm, hớt hải vỗng nghe thấy tiếng còi nhạn thê lương vút lên lanh lảnh như xé toạc cả gian mờ mịt. tiếng còi chưa dứt, thấy có vô số bè nhạn xuất hiên ở trong đám lau sậy ở bốn phương tám hướng. Các bè nhạn phía có đặt thổ pháo, lại có nhiều lính dõng giơ súng nhất tề bắ thẳng vào đám quân Thái Bình vốn chút phòng bị thân đê. Trong phút chốc,tiếng pháo, tiếng súng nổ vang trời nhức óc. Trong đầm, khói súng mù mịt, máu thịt tung tóe. Tướng sĩ quân Thía Bình kịp đề phòng, đến nằm mơ cũng tưởng tượng nổi trong đầm lại có quân Thanh, vả lại trông tình hình phải là cánh quân . Các bè nhạn thoắt thoắt trong đám lau sậy um tùm, có bao nhiêu quan quân nữa. Hơn nữa, khí quân Thái Bình trảy qua lại bày thành trận trường xà hình chữ nhất, khi đột ngột bị đánh vào khúc giữa người ngựa ở đầu đuổi kịp tiếp ứng lẫn nhau, thêm vào đó, trong lúc lòng quân yên lại đột ngột bị tấn công bờ đê chuột chật hẹp, binh lính chen chúc, người chạm người dẫm đạp lên nhau, ngựa đụng ngựa thảy nằm đầy đất. Cả đại đội người ngựa hỗn loạn, súng giương lên mà bắn được phát nào. Trong khi đó, nhạn doanh chuẩn bị mai phục từ lâu, đúng là bên ở ngoài sáng, bên trong bóng tối, cứ loạt súng nổ lên là quân Thái Bình đổ rạp mảng người, số lính bị giết quá nhiều, các thi thể rơi xuống nước nhuốm đỏ cả mặt hồ. Cánh quân Thái Bình vây công thành Linh Châu, phần lớn là tù binh và dân chạy loạn, mười phần có đến bảy phần là quân ô hipwj, vừa bị tấn công là lập tức hoảng loạn tan vỡ. Quân lính biết đầm lầy nông sâu thế nào, hàng vạn người cứ nhè vào chỗ vũng nước có quan quân bắn giết mà lao tới, cũng có ít người đua nhau nhảy xuống nước chạy trốn, tướng lĩnh cầm đầu hô hoán cũng ngăn cấm được, đành phải rút dao chém ngã mấy tên lính bỏ trốn. Thế nhưng, quân thua như núi lở, hò hết thế nào cũng cản nổi. Nhạn doanh chuẩn bị rất nhiều tầm vông vừa dài vừa nhọn, khiến đối phương muốn cận chiến cũng được, bầy giờ, từng đàn, từng đàn tầm võng đâm ra khiến quân Thái Bình thể chống đỡ. Trông thấy thế trận cảu việt khấu đại loạn, lính dõng liền đuổi theo truy sát, thi nhau đâm nhầu khắp nơi, quân Thái Bình rơi xuống nước đầu bị đâm chết, số còn lại chết đuối trong đầm nước biết bao nhiêu mà kể, tử thi trôi nổi khắp nơi. Chỉ duy nhất có cánh trung quân ở gần vùng Mộ Nhạn vốn là quân tinh nhuệ từ các doanh cũ ở Việt Tây là chưa tan vỡ. Các tướng lĩnh quân Thái Bình hiểu rằng nếu thể mở đường máu phá vây ra khỏi đầm toàn quân bị tiêu diệt, vì vậy mặc cho binh sĩ tử thương nghiêm trọng, các tướng vẫn chỉ huy những quân sĩ còn sống sót chất thi thể đồng bọn bị thương vong thành đống để ngăn làn đạn oanh kích liên tục, đồng thời đem súng ống, tên nỏ bắn trả, liều chết chống giữ lui. Lính dõng, nhạn dân và dám mãi lộ mai phục xung quanh đánh đuổi toàn quân Việt khấu tan tác xong mới phát ra, cả vùng Hoàng Thiên Đăng, chỉ còn dải Mộ Nhạn còn ác chiến kịch liệt, liền huýt còi nhạn liên tục, tụ tập người ngựa từ bốn phương tám hướng đồng loạt đánh tới. Nhạn doanh tuy kiêu dũng thiện chiến nhưng gặp phải đội quân tinh nhuệ của Việt khấu cũng khó lòng chiếm được thế thắng. Bấy giờ, quân đổi quân, tướng chạm tướng, mở ra trường huyết chiến sống còn. Chỉ thấy đao thương vung lên, kiếm kích ngang dọc, hễ đao, xả vai đứt lưng, trúng thương, đầu vỡ thân rời, đón phải kiếm, yết hầu đoạn khí, xuyên vào kích, bụng rách máu rơi. Chém giết đến nỗi thây chất như nuism màu chảy thành sông, đúng là: "Gặp đối thủ khó phân cao thấp; Chạm kẻ tài khó định được thua" Lúc ở thành Linh Châu, Trương Tiểu Biện nhiều lần thấy cảnh chém giết chiến trường nhưng chưa từng thấy trận nào thảm khốc như trận này. Trông thấy huynh đệ Nhạn doanh tử thương vô số, cũng khỏi nghiến răng mắm lợi, mắt vằn đỏ tia máu. Chính lúc hai bên chưa phân định thắng thua, mọi người thấy xa xa trong trận của Việt khấu có người cao lớn, râu tóc dài thượt, tuổi chừng dưới bốn mươi, cưỡi con ngựa cao, mặc hoàng bào gấm thêu, dắt bảo kiếm và súng tây, ung dung chỉ huy sĩ tốt, vây xung quanh là mấy chục quân sĩ giơ thuẫn bài hộ vệ xung quanh, xem phục sức và khí phách của đều rất phi phàm, liệu chừng là ngụy vương đầu sỏ của quân giặc. Nhạn Linh Nhi đánh Việt khấu lâu, biết lối phục sức của ngụy vương, liền trỏ tay : "Tên giặc đó nhất định là Chiếm Thiên hầu cầm quân của Việt khấu". đoạn, giương loan cung đầu nhạn, lắp tên đuôi nhạn, rồi cung giương như trăng ngày rằm, tên bay như ánh sao băng, miệng hô: "Trúng này!" mũi tên bay vụt ra, xuyên qua đúng khe thuẫn bài, bắn Chiếm Thiên hầu ngã ngay xuống đất. thấy chủ tướng trận vong, thế quân của Thái Bình lập tức đại loạn, binh lính còn lòng ham đánh nữa. Nhạn Bái Lý Tứ thấy thủ lĩnh Việt khấu ngã ngựa, biết thời cơ đến liền rúc còi nhạn u u. Lính dõng Nhạn doanh nghe thấy hồi lệnh đều rút phắt Nhạn linh đao cầm tay, ồ ạt xông lên, đẩy đổ đám thi thể chất như núi, xả thân thâm nhập vào quân địch, vung đao chém giết. Thanh Nhạn linh đao có thân dài, cán ngắn, sống dày, lưỡi mỏng, rất thích hợp trong lúc xông trận chém giết, phát huy được sở trường đặc biệt khi cận chiến. Chỉ thấy trường đao vung lên đến đâu đầu người lăn lông lốc, màu từ cổ họng phun vọt lên, thể chống đỡ được. Tôn Đại MA Tử mưu đồ sát khí, đứng trong đám người liếc thấy Chiếm Thiên hầu trúng tên, bị thương lồm cồm mặt đất định đứng dậy. Gã vội vã vung đao tiến lên, đánh tan quân Thái Bình hộ vệ, toan đao cắt đầu Chiếm Thiên hầu. Nào ngờ, Chiếm Thiên hầu thường dẫn theo tên thị đồng có dung mạo tuyệt đẹp. Trong đám hỗn loạn, ngã ra đất giả vờ chết, nhân lúc Tôn Đại Ma Tử phòng bị, vọt lên đâm kiếm. Tôn Đại Ma Tử tuy giỏi võ nghệ nhưng có nhiều kinh nghiệm trong chiến trận, lần này vì thamc ông, chỉ mong giết được Chiếm Thiên hầu mà đề phòng gì cả, đột nhiên thấy sau lưng lạnh buốt, mũi kiếm đâm xuyên qua ngực, lập tức máu vọt ra như suối, bị tên thị đồng giết chết. thương thay, "Chum vó phải vỡ nơi thành giếng; Làm tướng vong thân trước trận tiền" Nhạn Bài Lý Tứ đúng lúc đó ở bên cạnh, tuy trông thấy ràng, nhưng ở trong đám loạn quân, thể cứu kịp. gã và Tôn Đại Ma Tử mới kết nghĩa em, tình như thủ túc, thấy thế nổi giận, trước mắt như phủ vầng mây đên, hét to tiếng, vung tay lao tới. Nhạn Linh đao chém nhát, tên thị đồng của Chiếm Thiên hầu gục xuống. Gã đá văng cái thây ra rồi tiếp tục xả đao vào Chiếm Thiên hầu. Nào ngờ, Chiếm Thiên hầu cảu quân Thái Bình tuy bị thương nhưng vẫn hung hăng hơn người, chẳng khác nào con thú bị dồn vào đường cùng. Lúc ngã xuống đống xác người, trong tay vẫn nắm chặt khẩu súng nhưng chưa vội bắn. bấy giờ, thấy có người lao đến, liền nổ súng, trúng ngay đầu của Nhạn Bài Lý Tứ, lập tức máu tươi vọt ra, thân người ngã xuống, đúng thực là: "Cửa phủ thêm hồn oan uổng; Chốn Dương gian vắng thiếu niên". Muốn biết chuyện thế nào, xem hồi sau . Hồi thứ 8: Thưởng lệnh Lại về trận ác chiến giữa Nhạn doanh và quân Thái Bình trong Hoàng Thiên Đăng, chém giết tới mức "Đầu lăn lông lốc như dưa rụng; Thây chất tầng tầng tựa núi cao". Trong đám hỗn loạn, Nhạn Bài Lý Tứ đinh xông thẳng tới lấy đầu Chiếm Thiên hầu, chẳng ngờ bị trúng viên đạn, may mà gã nhanh nhẹn hơn người, tránh qua cực nhanh, nhưng cự ly quá gần nên cũng bị viên đạn chì bắn trúng con mắt, lệch chút nữa chỉ e bắn suốt óc rồi. Nhạn Bài Lý Tứ hết sức dũng mãnh, để ý đến bên mắt bầy nhầy máu thịt, chồm dậy như phát cuồng, cả người lẫn đao chồm xuống, tay chộp cứng mớ tóc rối bời của Chiếm Thiên hầu, giật từ dưới đất lên, kẹp vào bụng, nắm cứng cần cổ, bắt sống giữa trận tiền. Quân Thái Bình thấy đại thế mất, lập tức tan vỡ tứ tung, quẳng mũ bỏ giáp, tranh nhau chạy trốn, những tên chạy kịp vứt vũ khí đầu hàng. Lính dõng Nhạn doanh chém giết hăng máu thiết đến việc bắt tù binh, cứ thế vung đao đuổi giết, thấy kẻ sống là chém, thấy còn chạy trốn là giết. Trận ác chiến kéo dàì tới gần tối mới kết dừng, mặt nước trong đầm đều nhuộm đỏ máu tươi. Nhạn doanh sai người về gấp Linh Châu báo tiệp, còn đại đội người ngựa đều ở lại để chạy chữa người bị thương, chôn cất người chết. từ xưa tới nay, chuyện binh đao hung hiểm, thường có câu rằng: "Giết địch nghìn, mình cũng tổn thất tám trăm", tuy trận phá tan đạo quân lớn của Việt khấu, bắt sống thủ lĩnh Chiếm Thiên hầu nhưng khi điểm lại số quân lính dõng, thợ săn nhạn và cánh mãi lộ cũng tử thương hơn hai nghìn người. Nhạn Bài Lý Tứ hỏng mắt, mặt đầm đìa máu tươi, may mà viên đạn xuyên vào não. Viên lang trung trong quân đội vội chạy đến phải dùng thủy ngân làm tiêu tan viên đạn chì khảm trong hốc mắt mới giữ được tính mạng của gã. Trương Tiểu Biện đứng bên canh, trông thấy Nhạn Bài Lý Tứ bị thương bặng và thi thể sõng soài của Tôn Đại Ma tử, muốn khóc rống lên nhưng thể nào rơi được nước mắt, trái lại trong lòng ớn lạnh, hối hận khôn nguôi: "Nếu sớm biết trường vinh hoa phú quý mà Lâm Trung Lão Quỷ mách bảo được đáp bằng tính mạng của an hem thủ túc Tam gia ta thà rằng cần đến nó cho xong. Tôn Đại Ma Tử và ta kết nghĩa sống chết, hồi trước hai người cùng chạy nạn khỏi làng Kim Quan, trước nay luôn đỡ đần bên nhau, gắn bó keo sơn, sau này, cả bọn kết bái thành huynh đệ sống chết có nhau, chỉ mong có ngày được cùng hưởng vinh hoa phú quý, thế mà ngờ đâu tới hôm nay dương cách biệt rồi. Trước nay, Trương Tiểu Biện thấy chuyện chết chóc ít lần nhưng đều liên can gì tới mình, nhìn nhiều tronmg lòng cảm thấy cũng bình thường, nhưng tới giờ phút này, mất huynh đệ thủ túc mới hiểu thế nào là nỗi đau khổ của cảnh sinh li tử biệt. Sau trận đánh, kẻ hảo hán đường đường nọ còn nữa rồi, reong lòng Trương Tiểu Biện làm sao vui cho được? định từ bỏ chức doanh quan của Nhạn doanh, tính các cao chạy xa bay là thượng sách, nhưng nghĩ ở góc độ khác, lúc này thiên hạ đại loạn, đời làm gì còn nơi trú ngụ bình an? Tới giờ còn đường nào quay lại nữa, nếu trước đây cắm đầu cám cổ theo đường này, Tôn Đại Ma Tử sao phải chết oan uổng? Trong đầu nghĩ ngợi miên man, lúc lâu cũng định đoạt được chủ ý nào. Nhạn Linh NHi đắp xong vết thương cho huynh trưởng rồi cả hai cùng khuyên giải Trương Tiểu Biện, đánh trận sao tránh khỏi chết người, hơn nữa chúng ta làm lễ dâng tù báo công nữa mà đem tên đầu sỏ của giặc ra, mổ bụng moi tim để tế vong hồn các em chết trận. Trương Tiểu Biện trong lòng bấn loạn, gật đầu : "Mọi việc xin Tứ ca cứ làm chủ cho" Lúc ấy trời sụp tối hẳn, trong Hoàng Thiên Đăng lạnh lẽo, thê lương bao phủ bầu mây đen thảm đạm, lính dõng của Nhạn doanh thu niệm, chôn cát các tử thi đâu đấy thiết lập cái bài vị và bàn thờ sơ sài trước phần mộ. Nhạn Bài Lý Tứ sai thủ hạ trói giật cánh khuỷu của Chiếm Thiên hầu giải ra trước linh vị. Chiếm Thiên hầu nọ bị trúng mũi tên vào cai còn chưa được nhổ ra. Từ miệng vết thương, máu tươi thành từng giọt, quỳ sụp xuống trước mặt Nhạn Bài Lý Tứ, va vi rằng: "Xin tráng sĩ tha mạng cho tôi... " Nhạn Bái Lý Tứ rút phắt cương đao ra tay, lạnh lão chỉ vào từng hàng linh vị mà rằng: "Tha cho tính mạng của nhà ngươi khó, choir cần các em nằm đây gật đầu đồng ý tat ha". đoạn, vung tay chém xuống, làn gió mát thổi qua, cái đầu của Chiếm Thiên hầu lăn xuống, máu tươi từ cổ họng phun lên trời. Nhạn Bài Lý Tứ lại sai hai tên đao phủ đứng chờ lệnh ở bên cạnh, tiến lên moi tim của ra, đặt trước bàn thờ tế lễ. Những người chết trận cảu Nhạn doanh phần lớn là con em của cánh nhạn dân trong Hoàng Thiên Đăng. KHi bàn thờ vừa lập tiếng khóc than nổi lên ầm ĩ, nào là vợ khóc chồng, nào là mẹ khóc con, cũng có nhiều người khóc thương cho em thủ túc tử nạn. Theo lệ của cánh lục lâm, viên tiêu quan vừa tung tiền giấy, vàng mã, vừa tụng bài " Thưởng lệnh". Bài lệnh rằng: "Non xa nước xa xa; Hai bầu trời dắp tòa cầu ngang. Bày ràng cơm phần cúng tế; Thắp hương lên thêm lễ tiền vàng. Gọi hòn hào kiệt hãy khoan; đường về tới suối vàng dừng chân. Nghe lời ngâm Thưởng lát, Ngày trước từng đối awmtj kết giao; Ân tình nhật nguyệt khác nào; sâu tựa bể lại cao tột cùng. Đồng lòng làm quân ứng mộ. Liễu sa trường amsu đỏ chiến bào. Nay em, về đâu; dương cách trở khi nào thấy đây. Tiền giấy này tuy rằng chẳng mấy; Mông linh hồn nhận lấy làm vui. Cầu cho hồn sớm lên trời; Phù hộ may mắn cho người còn đây. Ở kiếp này thôi đành chia cắt; Nguyện kiếp sau gặp mặt em" Lời chú lệnh niệm xong, mội người cùng rúc còi nhạn mộ tràng dài rồi đốt vàng mã trước linh vị. Đêm ấy, Nhạn doanh ở lại trong đầm, tới tờ mờ sáng nhận được quân lệnh trở về Linh Châu. Những lộ săn nhạn và các lộ cướp cạn tới trợ chiến đều cướp đoạt được các chiến lợi phẩm từ xác chết, có người lấy được tiền bạc từ biệt trở về con đường làm ăn cũ, nhưng cũng có ít tên thảo khấ, mãi lộ có dã tâm, quản sinh tửu để kiếm của cải trong thời loạn gia nhập đoàn lính dõng của Nhạn doanh. Cứ như thế, khi Nhạn doanh rời khỏi thành chưa đầy nghìn người, sau trận chiến ở Hoàng Thiên Đăng lại tổn thất rất nhiều em, nhưng khi thu quân trở về lại tăng quân số lên hơn gấp hai lần. CHính vì vậy, ở giữa đường, Nhạn doanh lại tổ chức chỉnh đốn, cầu những người mới kết nạp phải thắp hương ăn thề. Đó là tục lệ rất phổ biến trong các cánh dân quân. Chỉ khi nào kết thành huynh đệ mọi người mới đem tính mệnh giao phó cho nhau. Muốn như thế phải lập bàn thờ, bày Khai sơn lệnh ra. Lần lượt, doanh quan Trương Tiểu Biện và Nhạn Bài Lý Tứ đứng đầu, phía dưới là các viên tiêu quan và lính dõng, thứ tự xếp hàng, đọc lời lệnh như sau: "Hảo hán núi Đông đến núi Tây. Đều vì của cải mới về đây. Bươm bướm tham hoa nên mất mạng, Tiếc tiền lão Triệu chết sai. Huynh đệ có duyên đến núi, Dẫu cho ở dưới hay đài. Trước đặt ba mươi sáu ghế lớn, Sau là ghế bạc bảy mươi hai. Rồng hổ chỗ nào ra chỗ ấy, Lính trơn đứng xếp hàng dài" Cánh cướp cạn, mãi lộ trong thiên hạ, tuy phân bố khắp nơi nhưng từ thời quân lục lâm Xích Mỹ đời Hán tạp phản đến nay kết thành bè đảng, liên lạc, hỗ trợ lẫn nhau giữa các địa phương. Trải qua các triều đại, cánh đạo tặc đều có đầu lĩnh được gọi là :Tổng biều bà tử" chiếm cứ vùng hồ Động Đình tám trăm dặm. hồ Động Đình có muôn ngọn búi bao quanh, liền với ba sông, là nơi có hình thế hiểm yếu trong thiên hạ, xưa này vẫn là sào huyệt của đạo tặc. Đám thợ săn nhạn mãi lọ trong Hoàng Thiên Đăng cũng chỉ là phái tỏng đó mà thôi. Cũng bởi những kẻ mới gia nhập Nhạn doanh phần lớn là người ngoài nên Nhạn Bái Lý Tứ phải đích thân đọc bài vè chất vấn những tân binh rằng: Sơn môn giờ ngọ mở rồi, Huynh đệ đâu đấy nghe lời truyền đây, Chín đường sống chết bày, Đâu nào những kẻ núi này dám lên? Người tài hèn chớ nên bén mảng, Kẻ mạnh tâm đừng lảng vảng vào. Nhân thân mờ ám mau; Tính toán chưa chín thôi nào bề nhanh, Mạo xưng danh cũng chuồn luoonc ho lẹ; Kẻo tra ra là mất đâu. Những phường abcj nghãi lau nhua; Hôm nay la flcus lạc sâu hang hùm. Kẻ trùm sỏ mà vi phạm lệnh; Cũng cầm bằng tính mệnh vứt . em cấp dưới nghe, Ba đao khoét mắt chẳng nề hà đâu" Mọi người nghe quy củ, liền tự động khai báo thân phận lai lịch, đồng thời cũng làm bài vè để đáp lại, ví dụ như: Nghe lời huynh trưởng bảo ban; Chúng tôi chỉnh đốn y quan vào hầu. Hôm nay may gặp được nhau, Đúng alf duyên tự thuở nào đến nay. Chúng tôi đây có tài cso dũng, Ai nấy danh cũng nổi như cồn. Xin tỏ chút đoái thương; Nếu có sơ suất trăm đường xá cho. Tôi đến từ kia kia đó nọ; Thôn làng nào là chỗ gia cư. Vào hồi năm, tháng, ngày giờ; Mẹ tôi trở dạ sinh cho làm người. Từng wor núi này trại ấ, Hôm nay xin bái nhập Nhạn doanh. Lệnh ban ắt phải thi hành; Ăn thề uống amus lòng thành dâng lên. kính nguyện dâng thủ cấp; Dưới chẳng nhường cứ mặc moi tim. Nếu nhường dưới kính ; Tôi xin nộp mạng để đền nợ thân. Doanh quan còn phải hỏi:"Có gì làm bằng chứng?" Kẻ được hỏi dáp: "Bẻ hương làm bằng" Người đó bẻ đôi cây hương trong tay, biểu thị ý là nếu cò gì gian dối giống như cây hương này, bị chém chết dưới lưỡi đao. Nhạn Bài Lý Tứ giữ lại những người có thể theo, còn những kẻ thân phận ràng đều trả về, đó kiểm điểm lại lính dõng trong doanh được hai nghìn hai trăm người, khiến cho thực lực của Nhạn doanh tăng hơn gấp bội. Gã rất mừng, chỉ riêng Trương Tiểu Biện hết sức lo âu. Thấy binh mà càng tăng nhiều báo hiệu các trận đánh càng lúc càng ác liệt và người chết chắc chắn càng nhiều hơn. Cứ như trận vừa rồi mà xét còn phải hi sinh tính mạng biết bao nhiêu huynh đệ tay chân nữa. Con đường mà Trương Tam gia này , biết đến bao giờ mới kết thúc đây? Liệu chừng, cứ suy nghĩ mãi cũng chẳng giải quyết được gì, đành chỉ biết vâng theo mệnh lệnh trời xui khiến, đoạn liền cho chỉnh đốn đội ngũ về thành nghe lệnh. Chuyện Nhạn doanh đại phá Việt khấu tại Hoàng Thiên Đăng quả nhiên làm chấn động thiên hạ, đến Hoàng thượng ở trong kinh thành cũng nhận được báo tiệp. Long nhan vui mừng, bảo rằng cơ hội trung hưng của triều ta sáng sủa, lập tức chính tay ban cho ngự bút bốn chữ" Trung dũng Nhạn doanh", đồng thời sai bộ Binh phá lệ phong Trương Tiểu Biện Trương Tiểu Biện làm chức tham tướng, hàm võ quan chánh tam phẩm, nhận bổng lộc của triều đình. Kỳ thực ra đó cũng chỉ là chức quan hư hàm, hữu danh vô thực, rốt cuộc vẫn chỉ là doanh quan. Ngoài ra triều đình cũng phong thưởng gấp đôi tiền lương cho lính dõng Nhạn doanh cả cũ lẫn mới. Đề đốc Đồ Hải vốn định mượn dao của quân Thái Bình để xóa sổ Nhạn doanh, nhưng ai ngờ nổi lại có kết cục như vậy, thành ra nối giáo cho giặc. Lão càng cảm thấy tài nghệ cao cường của Trương Tiểu Biện và Nhạn Bài Lý Tứ, lại thêm bè đảng trong thành của họ quá nhiều trở thành mối uy hiếp, chỉ e về sau phát sinh ra đại loạn. Song, tạm thời lão nuốt giận nín nhịn, vả lại việc điều động Nhạn doanh phục kích Việt khấu lần này lại đúng là chủ ý của lão nên đường nhiên lão cũng lập tức tấu báo công lao với triều đình để nhận thưởng. Những chuyện đó bàn tiếp nữa. Chỉ về thời gian thấm thoát qua mau, đông qua hạ tới, chẳng mấy chốc mùa thu, mùa đông qua , đến cuối xuân đầu hè, Trương Tiểu Biện được Tuần phủ đại nhân tin tưởng, làm doanh quan của Nhạn doanh, tuy hiểu phép hành quân, bày trận, chém giết, nhưng thủ hạ của có bọn Nhạn Bái Lý Tứ đều là những tướng tài kiêu dũng thiện chiến, hơn nữa, họ đều nghe theo mệnh lệnh của . Dưới thống lĩnh đó, Nhạn doanh liên tiếp giao chiến với Việt khấu. công thành bạt trịa khắp nơi, thu phục được mấy chỗ trọng trấn xung quanh thành Linh Châu. hôm nọ, Nhạn doanh được trở về thành dưỡng sức quân, Trương Tiểu Biện nhân lúc nhàn rỗi, mình đến Miêu Tiên từ. Lũ mèo hoang gặp lại người quen, liền nhao vào trong đền quấn quít lấy . Trương Tiểu Biện cho mèo hoang ăn vài thứ thức ăn rồi vắt chân chữ ngũ, dựa ngả ngốn lên bệ thờ. Hơn nửa năm nay, phải trải qua vô số chuyện chém giết, trong lúc này chợt dấy lên niềm cảm khái, hồi trước đến nằm mơ cũng mơ đến cảnh vinh hoa, phú quý, nhưng dưới gầm trời khắp nơi đều nổi lên đao binh, chẳng biết Trương Tam gia này ngày nào tháng nào mới được ăn bữa yên ổn đây? Nếu sớm biết làm người khổ cực như vậy hồi đầu thai khẩn cầu Luân hồi Diêm vương cho Tam gia ta làm con mèo hoang Linh CHâu có khi còn được sung sướng rong chơi, chứ cứ vào sinh ra tử thế nào biết bao giờ mới ngừng được. Chính đương lúc phiền não, bỗng nghe có tiếng lạnh lẽo như củi khô vang lên: "Hay đây! Cố nhân lâu nay vẫn khỏe chứ?" Trương Tiểu Biện giật mình, vội vã bật dậy khỏi bệ thờ, đưa mắt nhìn thấy trong Miêu Tiên từu xuất thêm người nữa. Người này mình mặc áo bào màu tro lam lũ, tựa như xác chết mặc đồ thời cổ vừa sống dậy từ trong mộ, mặt bịt kín, chỉ lộ ra đôi mắt vô hồn, sức sống. Kẻ đó phải ai khác, chính là Lâm Trung Lão Quỷ hay mách bảo họa phúc, lành dữ cho Trương Tiểu Biện. Nửa nam nay, Trương Tiểu Biện thấy người này, chẳng ngờ hôm nay lão lại tự tìm đến. có mấy điều quan trọng muốn hỏi, liền vội vã chào to. Nào ngờ chưa kịp năng gì nhiều, Lâm Trung Lão Quỷ đột nhiên cất tiếng: "Truong Tam gia, đại họa của nhà người sắp đến rồi, đến tính mạng cũng thể giữ được, thế mà nhà ngươi vẫn còn thời gian để đùa giỡ nữa ư?" đúng là: "Ở nhà chơi suốt cả ngày; Biêt đâu họa lớn đổ ngay lên đầu" Quyển thứ năm của Tặc Miêu hết, muốn biết về sau thế nào, xem quyển “Tiệt tự” cuối cùng
Quyển thứ sáu Tiệt Tự Hồi thứ 1: Trường diện la hán đời, ngươi ta thường bảo nhau câu: "Quá tam ba bận". Lần thứ ba, trong Miêu Tiên tử, Trương Tiểu Biện gặp lại Lâm Trung Lão Quỷ, cảnh ngộ lần này khác hẳn hai lần trước. Lão Quỷ nọ thẳng rằng: "Trương Tam gia sắp gặp phải họa sát thân, lúc ấy tính mệnh khó mà giữ được." Hơn năm nay, Trương Tiểu Biện theo quân chinh chiến, cùng Nhạn doanh tiễu trừ Tháp giáo, đánh với quân Thái Bình nên kiến thức rộng rãi, gặp biến hoảng hốt, run rẩy như trước nữa. Nhưng để có được ngày hôm nay, toàn dựa vào lời mách bảo của Lâm Trung Lão Quỷ. Tự nhiên cũng biết người này thấu hiểu lẽ quỷ thần, thôi, chứ hễ là đúng, hôm nay, thấy lão như thế, nào dám tin. Trương Tiểu Biện thầm tính toán trong đầu: "Hồi trước, lão già nhà ngươi chẳng phải chính mồm hứa hẹn, nếu Trương Tam gia ta gặp phải chuyện khó khăn gì người ắt đến giúp đỡ, nay sao lại nuốt lời?" vội vã với Lâm Trung Lão Quỷ rằng: "Hồi trước tiểu tử nghèo khổ, đường sinh nhai khó khăn, may được lão tiên sinh chê, năm lần bảy lượt chỉ điểm bến mè, nếu thành mồi cho chó hoang, đến xương cốt cũng chẳng còn rồi. Chỉ mong lão gia thương thương cho chót, đưa Phật đưa đến Tây phương, lần nữa mách bảo cho tiểu tử này con đường sống. Đại ân đại đức này xin nguyện ghi nhớ cả đời." Lâm Trung Lão Quỷ tựa như xác chết, im lặng lúc lâu rồi mới chầm chặm mở miệng : "Lão phu từ trước, xem ra khí sắc của Trương Tam gia rất tốt, chủ về việc đại phú đại quý, nên mới có ý ngầm giúp đỡ nhà ngươi. Nhưng cũng cần phải biết, trời có đức hiếu sinh. Nhạn doanh của nhà ngươi giết người quá nhiều, bị sao dữ chiếu vào, vì vậy số phận định phen kiếp nạn, nhưng chỉ cần tránh được tai kiếp này con đường tiến thân của nhà ngươi còn trở ngại gì nữa, công danh lợi lộc cần cầu mà tự đến, quét đất cũng ra vàng. Tuy nhiên, kiếp nạn trời đất giăng sẵn này đến thần tiên cũng cứu được, chỉ e khó tránh, cho dù có đến nghìn mạng nhà ngươi cũng phải chết." Trương Tiểu Biện cả kinh thất sắc, ú ớ quỳ xuống, nước mắt lưng tròng, khẩn cầu Lâm Trung Lão Quỷ thần thông cứu mạng. Trương Tam gia mười mấy năm nay nghèo khổ khốn khó, ngày dài như năm, phải trải qua bao nhiêu nước lửa, khó khăn lắm mới được vẻ vang mặt mày chút, nhưng vẫn còn chưa được hưởng thụ yên ổn, nay nếu ông trời cướp tính mạng là: "Sớm biết vinh hoa định sẵn; Cần gì lúc trước uổng tâm cơ." Lâm Trung Lão Quỷ : "Tạm thời người chớ kinh hãi, lão phu hồi trước hứa chu toàn cho nhà ngươi đời vinh hoa phú quý. Nay nhà ngươi gặp phải đại họa sắp giáng xuống, đương nhiên lão phu thể khoanh tay đứng nhìn được. Cổ nhân , vật biến hóa lần, người biến hóa nghìn lần, nếu có biến trừ phi là người chết. Chỉ cần Trương Tam gia nhà người làm theo lời của lão phu dẫu cho trời tru hay đất diệt đều có thể yên ổn như thường, đảm bảo sơ sẩy chút gì." Lâm Trung Lão Quỷ xong liền chọn trong đám mèo hoang đông đảo ra con mèo khoang to, đồng thời, lấy từ trong bọc ra ống tre sơn đen bịt kín, giao lại cho Trương Tiểu Biện rồi hỏi: "Ngươi có biết con mèo này ?" Trương Tiểu Biện cũng Lâm Trung Lão Quỷ có dụng ý gì, nhưng vẫn nhìn vào con mèo khoang to nọ. Chỉ thấy, toàn thân nó vằn vện như gấm thêu, đầu óc đờ đẫn, trông rất ngu si, hơn nữa, long dài, vuốt ngắn, mặt mèo rất lạ; trán có nếp nhăn như chữ "phong". Trương Tiểu Biện học qua Miêu phổ, Miêu kinh trong "Vân vật thông tải", làm sao biết, liền đáp rằng: "Theo thuật xem tướng mèo, đây là con Trường diện La Hán, hình như là con mèo câm xưa nay biết mở mồm kêu." Lâm Trung Lão Quỷ gật đầu bảo: "Con mèo này quả đúng là Trường diện La Hán, sinh ra có tính Phật, tai của Kim Đồng, eo của Ngọc nữ, có lưng của người tiên, tuy thuần phác như khúc gỗ nhưng phải là con mèo câm biết kêu. Chỉ do bọn dân đen biết gì, cho rằng loại mèo này hay hại chủ, là sao dữ giáng họa, hung thần gieo ác, tới đâu là tai ương xuất , kỳ thực ra, nó có thể báo trước điềm dữ, hễ mở miệng là chủ về việc bất thường, vì vậy bao giờ tùy tiện mở mồm. Từ hôm nay trở , lúc nào ngươi cũng phải mang nó theo người như hình với bóng, nửa bước cũng được rời, hễ nghe thấy con Trường diện La Hán mở mồm tức là báo hiệu số kiếp của nguời đến, lúc đó, ngươi phải lập tức mở ống tre này ra. Trong ống tre có phép thuật vãn hồi số trời, nhất thiết phải làm theo chỉ dẫn trong đó, được chậm trễ chút nào, nếu Trương Tam gia ngươi ắt phải chết sai." Lâm Trung Lão Quỷ lại bảo Trương Tiểu Biện rằng "Nhật nguyệt có lúc đầy, vơi; tinh tú có lúc lu mờ, con người ta sao chẳng có khí hung, khi suy? Lão phu tuy hiểu lý lẽ đó, thấy được điềm dữ trước mắt nhưng cơ trời vi diệu, ý trời khó lường, thể cho kiếp nạn của nhà ngươi rốt cuộc khi nào mới tới và tới bằng cách nào. Chính vì vậy, mới lưu lại kế sách cứu vãn trong ống tre. Tất cả những gì lão phu có thể giúp ngươi chỉ có thế mà thôi, còn việc có giữ được tính mạng hay còn phải trông chờ vào vận mệnh của Trương Tam gia nhà ngươi nữa. Duyên phận giữa hai ta đến đây hết, chúng ta vĩnh biệt từ hôm nay, bao giờ gặp lại nữa. Cái gọi là gặp gỡ quá muộn, chia tay quá sớm là thế. Tam gia ngươi khá giữ lấy thân" đoạn, lão phơi phới ra , trong chớp mắt khuất khỏi ngõ Miêu Nhi rồi biết đâu nữa. Trương Tiểu Biện nghe sót lời, chuyện này thực khiến người ta phải rùng mình kinh hãi, tự biết kiếp nạn lần này vô cùng ghê gớm, chỉ e tránh nổi. lo lắng yên, lúc lâu sau mới sực tỉnh lại, cúi đầu nhìn con Trường diện La Hán nằm phục trước mặt, trong tay vẫn còn nắm chặt ống tre niêm phong kín, bên ngoài đen kịt, lắc bên trong có tiếng như tiếng đồng, tựa hồ đựng mấy thứ gì bằng kim loại. Đến lúc ấy, mới biết những chuyện vừa rồi là chứ phải mộng Nam Kha. vội vã vái theo phương hướng Lâm Trung Lão Quỷ vừa bỏ , trong lòng trống rỗng như thể mất mát gì đó. Trương Tiểu Biện nhớ lại những chuyện hiểm nguy, ly kỳ từng trải qua: gặp tiên trong mộ Kim quan, đào cương thi ở Ứng Trúng sơn, đổi mèo trong hiệu thuốc Tùng Hạc đường, đào của trong Hòe viên, gặp hòa thượng Chuột trong thành Đũa, giết con thái tử khuyển ở Hoang Táng lĩnh, mò Phong Vũ chung bằng đồng dưới đấy giếng cổ, bắt Bạch Tháp chân nhân trong phủ Đề đốc, đại phá Việt khấu ở Hoàng Thiên Đàng, tính ra tất cả chuyên nào là có can hệ với Lâm Trung Lão Quỷ. Tục ngữ có câu rằng: "Cười người đau khổ bao nhiêu kẻ; Chia đau buồn được mấy ai." Những kẻ lạnh lùng trước tai họa của người khác, thế gian này muốn bao nhiêu cũng có nhưng hễ có gì khó khăn, muốn tìm người giúp đỡ trong thời khắc quan trọng, tìm đâu ra được người. Số Trương Tam gia gặp được Lâm Trung Lão Quỷ tương trợ, là phúc phận lắm rồi, có câu là: "Thần long, thấy đầu thấy đuôi", hành tung của những bậc kỳ nhân dị sĩ cũng giống như thế. Trương Tiểu Biện nghĩ ngợi lung tung hồi, cẩn thận nhẩm lại mấy lượt những lời cuối cùng của Lâm Trung Lão Quỷ, tuy nắm được chỗ yếu lỉnh bên trong nhưng cũng biết rằng, là phúc phải họa, là họa trốn được. mặc lòng gác qua bên, lúc lắc cái ống tre, ôm con mèo La Hán rồi về thẳng trong doanh. Suốt mấy ngày sau đó, Trương Tiểu Biện chỉ quanh quẩn trong doanh, canh con mèo Trường diện La Hán. người mèo, hết sáng đến tối, nửa bước rời. biết rốt cuộc tai họa đến từ đâu, cả ngày đề phòng, cảnh giác, chỉ sợ con mèo này đột nhiên mở miệng khiến trở tay kịp. Mặc dù vậy, con mèo vẫn như ngày thường, trước sau chẳng thấy có biểu nào quái dị. đêm nọ, Trương Tiểu Biện ngồi dựa cái kỷ trong doanh, con mèo Trường diện La Hán nằm phục cái ản ở trước mặt, lim dim ngủ, đột nhiên có hịch truyền tới gấp rút như nước sôi lửa bỏng. ra quan quân và Việt khẩu kịch chiến ở Lôi Châu, phái người điều động quân Linh Châu tới cứu viện, tiếp được lệnh canh phải đánh trống tụ quân, canh hai phải điểm tướng xuất thành, nửa khắc cũng được chậm trễ. Quân lệnh như sơn, Trương Tiểu Biện đương nhiên dám chống, hơn nữa cũng thầm tính rằng, cứ khổ sở chờ đợi kiếp nạn ập đến nóng ruột vô cùng, nếu số phận Tam gia đúng là có hạn lớn tránh được lần chứ thể tránh mãi được, nấp được sấm sét chứ sao nấp được Thiên lôi, có điều, người sống, cây dời chết, chẳng bằng theo quân mà , tùy cơ ứng biến. lập tức cùng bọn Nhạn Bài Lý Tứ tụ tập lính dõng toàn doanh, thu thập đồ đạc, nai nịt gọn gang, bày thứ tự đâu đấy rồi xuất quân, canh hai rời khỏi thành Linh Châu, men theo đường cái quan về phía Tây. Lính dõng Nhạn doanh vừa đủ hai nghìn người, có nòng cốt là thợ săn nhạn, ngoài ra cũng có rất nhiều kẻ lục lâm, mãi lộ gia nhập. Nếu luận về việc xung trận chém giết Nhạn doanh đứng đầu trong các doanh ở Linh Châu, nhưng càng lập nhiều công lao đáng ra càng đưỡc phong thưởng đều bị lão Đồ Hải, tên tham quan khi quân phạm thượng, ngồi mát ăn bát vàng chiếm hết. đúng là ngao cò tranh đấu, rốt cuộc chỉ có ngư ông đắc lợi. Bọn Trương Tiểu Biện và Nhạn Bài Lý Tứ thấy chiến phải tham dự càng lúc càng lớn, hiểu rằng các huynh đệ đều phải vào sinh ra tử trước trận tiền, nhưng đến khi luận công phong thưởng chẳng có gì, trong lòng đều có ý phẩn nộ khôn nguôi. Thậm chí, cả bọn từng tính tiếp tục lên núi hành nghề lạc thảo, song trong thời buổi điêu linh này, đến cánh mãi lộ giết người cướp của cũng chẳng còn chỗ nào để mà lấy của nhà giàu chia cho người nghèo nữa, đám sơn tặc nhiều ngày làm ăn được gì, rốt cuộc cũng có người phải chết đói, chẳng ứng mộ làm lính ăn lương chẳng còn đường sinh nhai nào nữa. Lúc ấy, Nhạn doanh vừa mới được về thành dưỡng sức lại phải phụng mệnh đến thẳng Lôi Châu chi viện, người vào căn nhà thấp sao tránh khỏi cúi đầu? Quân lệnh đến như nước sôi lửa bỏng, cả doanh đành vội vội vàng vàng ngay, chẳng cần biết là canh bốn hay canh năm, tới khi trời sáng hẳn, Nhạn doanh đến vùng núi chắn trước mặt, nhìn kỹ đó là dãy núi nhấp nhô kéo dài, quả là: Tôi xin nộp mạng để đền nợ thân. Núi non nghìn trượng chọc lưng trời; Ngọn thác buông rèm trăm thước rơi. Vách dựng lô nhô trưng lắm vẻ; Đá bày lổn nhổn lối thưa người ; Bóng râm rậm rạp hùm beo nấp; Khe vực cheo leo mặt rụng rời; Đầy đất cỏ hoang, hoa dại nở; Chắn đường gai góc, bụi mây vùi. Nhạn Bài Lý Tứ cưỡi lưng ngựa, khum tay che, ngước mắt nhìn lúc lâu rồi giơ roi chỉ vào định núi phía trước mặt, với Trương Tiểu Biện rằng: "Xem thế núi này quả nhiên là hùng vĩ, biết chúng ta đến đâu rồi?" Trương Tiểu Biện trong lòng rối bời, đột nhiên bị người khác hỏi, sực tỉnh, vội ngẩng lên nhìn, phát ra nơi đây cách mộ Kim quan xa lắm. biết vùng núi non này liền đáp: "Nơi đây gọi là Thanh Loa lĩnh, hiểm trở khác thường, chỉ cần qua vùng núi này là ra khỏi địa phận Linh Châu. Muốn Lôi Châu, chỉ còn cách men theo đường núi mà qua, bằng huynh đệ chúng ta phải vòng, tốn thêm ngày đường nữa." Nhạn Bài Lý Tứ : "Các em trọn đêm, tội gì phải vòng vèo. Nếu như thế, chúng ta xuyên qua là được." Đoạn, gã dẫn cả đội quân tiến vào trong núi. Các dãy núi trong Thanh Loa lĩnh quanh co, khuất khúc, ở giữa ôm lấy vùng thung lũng, từ xưa có thị trấn ở đấy, gọi là "Thanh Loa trấn". Binh lính Nhạn doanh theo đường đèo, vượt qua đỉnh núi, nhìn xa xa thấy sâu trong hõm núi là cả vùng tùng bách xanh rì, cổ thụ uốn lượn, trong tán cây che phủ có thấp thoáng màu gạch xanh, ngói biếc, nhà cửa san sát, đúng là dáng dấp của thị trấn cổ. Nhạn doanh vốn định tránh Thanh Loa trấn để trực tiếp băng qua Thanh Loa lĩnh, nhưng thời tiết trong núi biến đổi nhanh như gương mặt con trẻ, bảo biến là biến ngay. Chỉ thấy gió mát nổi lên, trong chớp mắt mây đen kéo đến, đất trời mù mụt, trong tầng mây, sấm sét ngoằn ngoèo báo hiệu cơn mưa to sắp ập xuống. Nhạn Linh Nhi với Trương Tiểu Biện rằng: "Nghe tiếng sấm động có vẻ dữ dội, xem ra trận mưa sắp tới , đường núi gặp cơn mưa rất trơn, khó , chỉ e xảy ra chuyện ngoài ý muốn. Toàn doanh chúng ta trọn đêm, đều thấm mệt cả rồi, chi bằng cứ vào Thanh Loa trấn nghỉ ngơi chút , đợi cơn mưa ngừng hành quân tiếp cũng muộn." Trương Tiểu Biện cũng có ý đó. trước nay quen thói du đãng, lười nhác, thấy quân tình tuy khẩn cấp nhưng bản tâm vẫn chỉ muốn quay về bẩm báo rằng: " đường gặp mưa lớn khó tiến quân" là được, nay nhân lời của Nhạn Linh Nhi, : "Lời muội tử rất đúng, là trang nữ nhân mưu trí hơn cả nam giới." Đoạn, bảo tả hữu rằng: "Các em bây giờ hãy theo Tam gia ta vào trong trấn nghỉ chân ." xong, bảo các viên tiêu quan, chỉ huy Nhạn doanh chuyển hướng hành quân đến thẳng Thanh Loa trấn trong núi. Chẳng ngờ chuyến này lại là: "Lợn dê đến nhà đồ tể; Từng bước gieo thân tới miệng hùm." Rốt cuộc trong Thanh Loa trấn giấu nguy hiểm cổ quái thế nào, xem hồi sau .
Hồi thứ 2: Xem tướng trâu bò Lại , mưa gió trong núi chuẩn bị ập xuống, Trương Tiểu Biện lệnh cho hơn hai nghìn lính dõng Nhạn doanh vào Thanh Loa trấn tránh mưa. Nhưng Nhạn Bài Lý Tứ là người thường săn bắt, len lỏi đường rừng núi lên hết sức mẫn cảm, cảnh giác, gã đứng cao nhìn xuống thị trấn cổ nọ, thấy yên ắng khác thường, chẳng có bóng dáng người nào. Cứ cho rằng, cư dân ở đây vì thiên tai địch họa mà chạy trốn hết nhưng thị trấn cổ này vừa tối đen, vùa lạnh lẽo, khí nặng nề, xem ra là chỗ chẳng lành. Nhạn Bài Lý Tứ động lòng, bảo với Trương Tiểu Biện : "Thanh Loa trấn này núi non bao bọc bốn phía, địa hình rất hiểm yếu, nếu toàn doanh chúng ta đều vào đó nghỉ ngơi, trễ nải phòng bị, nhỡ xung quanh đây có Việt khấu xuất , nhân mưa gió đánh úp, lấp thế từ cao đánh xuống Nhạn doanh tránh khỏi tổn thất lớn, Chi bằng để lại đại đội người lưu lại đỉnh núi, chỉ đưa toán lính dõng vào trong trấn thăm dò tình hình. Chia quân dưới như thế là hình thành nên thế ỷ dốc, hỗ trợ lẫn nhau" Trương Tiểu Biện muốn đội mưa gió ngủ lại trong trướng cùng đạị quân đỉnh núi, liền phải quân dò đường, đồng thời đưa em Nhạn Bài Lý Tứ và toán lính dõng đến thẳng Thanh Loa trấn, càng đến gần càng thấy trong thị trấn quả nhiên có bóng người, trời mây đen kéo đen kịt, bốn phía càng thêm u ám. Ngoài tiếng sấm động ầm ù ra, cả thị trấn lớn như vậy hề co tiếng gà kêu chó sủa. Hồi ấy, thiên hạ đại loạn, quan lại vương pháp chỉ là hữu danh vô thực, dẫ là đạo tặc tạo phản hay là quan binh, lính dõng của triều đình cũng chẳng khác bọn thổ phỉ, trong doanh trại ăn thịt uống rượu, ra ngoài đường làm những chuyện cướp của, giết người, phóng hỏa, đốt nhà. Đó là những chuyện thường như cơm bữa, nên địa phương nào cũng thế, người dân hễ nghe phong thanh là bỏ chạy, mười nhà đến chín nhà bỏ hoang. Chính vì vậy, bọn Nhạn Linh Nhi tuy thấy trong trấn yên ắng, nơi đâu cũng nặng nề tử khí nhưng cũng thấy làm lạ lắm. Họ biết rằng, giả sử có người già, phụ nữ, trẻ con chạy kịp, nếu thấy quân Thanh cũng sớm đóng chặt cửa nẻo, nấp từ lâu. Vì vậy, bọn họ sai bọn lính dõng thân tùy ai nấy cầm dao, giơ thương, phòng hộ cẩn mật, chặt chẽ ở hai bên doanh quan. Trương Tiểu Biện theo quân, vốn thèm để ý đến động tĩnh trong Thanh Loa trấn, chỉ mải nhìn chằm chằm con mèo Trường Diện LA Hán. chỉ mong rằng hễ nó chưa mở miệng dẫu cho trời sập Trương Tam gia cũng chẳng hề hấn gì, nhưng hễ con mèo mở miệng kiêu, báo hiệu điềm dữ tính mạng của Tam gia sắp nguy tới nơi, có trốn thoát được nữa Trương Tiểu Biện ngoài khoác nhung trang khôi giáp, bên trong mặc bộ giáp Hắc Thiền có thể tránh được nước lửa, ngầm giắt thêm đao nhọn và súng ống. Tuy bên ngoài trông thư thái nhưng bên trong rất nóng ruột, tránh khỏi lộ ra sắc mặt thoắt vui sướng thoắt lo âu. Nhạn Bài Lý tứ ở cạnh thấy thế liền cất tiếng hỏi: "Huynh đệ Nhạn Doanh chúng ta phần lớn đều xuất thân từ đạo tặc, mãi lộ, lúc nào cũng bị quan phủ nghi ngờ, đề phòng, hơn nữa đám Việt khấu cũng hận chúng ta đến xương tủy. Có điều, Tam ca chớ lo ngại, chỉ cần còn hơi thở dẫu bọn chúng có giở trò trong tối hay ngoài sáng em bảo vệ tam ca đến cùng. Trương Tiểu Biện biết Nhạn Bài Lý Tứ có nghĩa khí hơn người, nhưng chuyện của Lâm Trung Lão Quỷ quái lạ, chẳng có cách nào cho ràng chân tướng, đành đánh lảng sang rằng, phải do an nguy của bản thân mà bước đến Thanh Loa trấn, chợt nhớ chuyện cũ hồi trước, tuy xảy ra cách đây mấy năm, nhưng khi nghĩ lại vẫn phải nghiến răng căm hận. Nhạn Bái Lý Tứ và Nhạn Linh Nhi nghe thấy thế càng ngạc nhiên, là chuyện cũ thế nào? Kỳ thực, câu chuyện dó phải do Trương Tiểu Biện bịa đặt ra. Vốn vùng Linh Châu có nơi phồn hoa nghìn năm, cá rồng vùng vẫy, từ xưa tới nay có tên là " Thất tuyệt". Cái tuyệt nổi tiếng đầu tiên, đó là tượng bóng tháp trong mây. Ngôi Tháp Vương hồi trước cao chọc mây trời, mỗi khi mây mù tụ lại những ngọn núi xa xa ngoài thành ánh sáng mặt trời khúc xạ làm xuất hình ảnh kì lạ của các bóng tháp tới triều kiến, nên dân gian còn gọi là "thành Tháp", nổi tiếng ngang với "Thành phố Biển" Đăng Châu. Có điều, sau khi Tháp Vương bị lửa chiến tranh phá hủy tượng lạ của thành phố Tháp còn thấy nữa. Cái "tuyệt" thứ hai là tòa Miêu tiên từ trong thành. Trong phạm vi cả nước dưới, đại giang nam bắc, Quan Nội hay Quan Ngoại, tuy đất rộng vật nhiều nhưng chẳng nơi đâu có phong tục kỳ lạ thờ cúng mèo làm tiên. Điều này chỉ duy nhất Linh Châu mới có, vì vậy được coi là trong những cái "tuyệt" Trong Thất tuyệt của thành Linh Châu có cái chỉ vào danh lam cổ tích, có cái chỉ vào phong tục, cái nào giống cái nào, cái "tuyệt" cuối cùng chỉ vào món bánh nướng Thanh Loa. Thanh Loa trấn nằm ở bên rìa địa phận Linh Châu, có thịt bò Ngũ hương hảo hạng và váng sữa bò để nướng bánh. Kẹp bánh nướ với thịt bò để ăn rất ngon, dư vị còn mãi. Chính vì vậy, trong thị trấn có rất nhiều cửa hàng bánh nướng, nhà nào cũng có ngón nghề riêng và bí quyết gia truyền độc đáo. Hai năm trước, Trương Tiểu Biện còn chưa mở mày mở mặt, từng đến Thanh Loa trấn trộm gà bắt chó, thèm thuồng quá định lấy trộm mấy cái bánh nướng trong cửa hàng của người ta ăn, kết quả là bị họ chộp được bím tóc, bắt sống cùng tang chứng, vật chứng ngay tại chỗ. bị trận đòn no mà chưa được ném miếng bánh nào, tới giờ nghĩ lại, vẫn căm tức trong lòng. Nhưng thể như thế với Nhạn Bài Lý Tứ và Nhạn Linh Nhi được. Tam gia làm sao để mất mặt được, chỉ rằng, hồi trước phải khi hùng mạt lộ, nghèo khổ khó, đường gặp được hàng bánh nướng, xem tay nghề của ông chủ đúng là được truyền dậy đàng hoàng, vì vậy mới xin cái bánh nướng về để nuôi mẹ già tám mươi tuổi trong nhà. Nào ngờ đâu, tên chủ tiệm bánh nướng keo kiệt bủn xỉn, cặp mắt chó coi khinh người nghèo khổ, nhất quyết chịu bố thí, ngược lại còn giơ nắm đấm lên đánh. Mấy cái gân của tam gia ta bị làm đứt, tới giờ mỗi khi trời mù sắp mưa đầu xương khớp vẫm còn thấy đau đớn, khó chịu. Nhạn Bài Lý Tứ nghe thấy thế phẫn nộ: "Thằng cha đó khinh người quá lắm, phải biết rằng quân tử báo thù mười năm chưa muộn, tam ca còn nhơ tiệm bánh nướng đó ? Để huynh đệ tìm đến đó giết sạch nhà rồi cho nắm lửa, nước sạch , gạch vỡ ngói vụn cũng chừa mới hả được cơn giận này" Trương Tiểu Biện tỏ ra độ lượng : "Thời gian trôi , cảnh vật thay đổi, còn tính toán gì những chuyện cũ đó nữa? chẳng qua ta tức cảnh sinh tình, nhớ lại khi lưu lạc khắp nơ, ăn đói mặc rét, nhưng lúc nào cũng cho rằng có ngày mở mày mở mặt, có lúc được ăn no mặc ấm, suốt ngày rong chơi sung sướng. Tới ngày nay, tuy thân này được vào chốn công môn, làm đến chức chánh tam phẩm, có hao linh cài mũ, phải lo lắng đến miếng cơm manh áo nữa nhưng có ai biết rằng trước kia ra từng phải trải qua rất nhiều khổ cực tưởng tượng được. Xem ra con người ta sống đời giống như hoa dại chẳng trồng đâu cũng có, ưu phiền cấy biết bao người" Mọi người vừa nghe chuyện vừa . vào đến con phố giữa Thanh Loa trấn. Trong trấn này có mọt ngôi chùa cổ nghìn năm tuổi. Lúc nơi đây còn thịnh vượng, chùa này cũng là nơi thờ cúng có tiếng, tên gọi là "Ngõa Quán tự", bên trong thờ Thành Hoàng lão gia. Tới nay, chùa bị bỏ hoang nhiều năm, chỉ thấy cửa chùa xiêu vẹo, tượng đất của lũ Tiểu quỷ, Phán quan, Ngưu đầu, Mã điện đổ lăn lóc, cái mất đầu mất cổ, cài thiếu thân thiếu tay. Chính vào lúc ấy, giữa lưng chừng trời, mọt tiếng sấm sét nổ vang khiến mái ngói của ngôi chàu cổ ung lên bần bật, mây đen kịt trời, sét đán thêm sấm nổ, gió giật nổi ồ ồ, mưa ta sắp ập xuống đến nơi. Lúc đầu, mưa giăng mắc, kế đến ào ạt xối xả như dốc sông đổ bể, trung đầy mây mưa mờ mịt. Chái nhà như thác đổ, đất bằng hóa lòng sông, ohas xa dâng sóng vỗ, phòng ốc cuốn theo dòng. Dòng nước chảy ngoằn ngoèo, khe cống đầy ngập ngụa, chốc lát mưa to như trút, khoảnh khắc nước tuôn lênh láng. Nhạn Bái Lý Tứ vội vã dẫn mọi người vào trú trong Ngõa Quán tự. Cả đấm đều là lính hành quân đánh trận nên chẳng úy kị gì, vào đến bên trong sảnh ngồi bêt cả xuống đất, xem ra cơn mưa trong giờ nửa khắc cũng khó ngừng được, liền lệnh cho toán lính thổi lửa nấu cơm. Trương Tiểu Biện trong lòng có chuyện lo lắng, đứng ngồi yên. Đồng thời, thấy đằng sau còn có tòa hậu điện, tính tìm nơi yên tĩnh liền rảo bước ra. Huynh đệ Nhạn Bài Lý Tứ sợ gặp thích khách liền vội vàng bám sát hai bên như hình với bóng, Ba người dẫn vài tên thân tùy, xuống hành lang, vòng vào trước cửa hậu điện, chợt nghe bên trong vọng ra tiếng bò rống: "bò... ò... o... ". Cả bọn khỏi kinh ngạc, chẳng ngờ người dân trong thị trận chạy trốn từ sớm mà vẫn còn con bò? Huống chi, con bò đó lại ở bên trong ngôi chùa cổ hoang phế này? Trương Tiểu Biện : "Con bò này quá nửa là do thằng sư hổ mang nào đó nuôi dưỡng. Việc sát sinh, đánh chén thịt thà trong chùa nát, đúng là việc làm của bọn hòa thượng ngang. bị Tam gia ta bắt gặp đúng vừa khéo cho huynh đệ trong doanh được bữa thịt bò hầm, khỏi phải nuốt đống lương khô cứng ngắc", đoạn giơ chân đạp toang cửa điện, vào trong xem xét. Chỉ thấy trong điện thắp đĩa đèn dầu lờ mờ, bụi phủ đầy mặt đất, mạng nhện chăng khắp nơi, tượng đát Ngũ đạo thần quân bệ thờ bị sứt mặt mũi từ lâu, con bò mộng bị xỏ mũi, buộc vào chân cột gần cửa, góc nhà có cái nồi đun, bên trong toàn là thịt bò, sọt tre đặt bên cạnh chất đầy bánh nướng, xem cách bày biện tựa như nhà người dân giết bò để mở tiệm bánh nướng vậy. Cửa tiệm như thế này trước kia hết sức phổ biến trong Thanh Loa trấn, nhưng tại sao lại ở trong chùa, kỳ quái hơn nữa, trong sảnh còn có cỗ quan tài sơn then bóng loáng. Bọn Trương Tiểu Biện đều kinh hãi, chẳng nhẽ cương thi trong quan tài thành tinh, đâng định mở của hàng giết bò, nấu thịt nướng bánh hay sao? Nhạn Bài Lý tứ xuất thân từ đám lục lâm, đảm lược trí tuệ đều vào hạng siêu quần, trong khi đánh trận giết người như ngóe, vào sinh ra tử vẫn coi như chuyện bình thường, chẳng coi mấy việc quái lạ này vào đâu. Gã hừ lạnh tiếng, goi tả hữu tiến lên dắt con bò mộng ra ngoài định giết lấy thịt ăn, Trương Tiểu Biện học qua thuật "Văn vật thông tải" do lâm Trung Lão Quỷ truyền thụ, chỉ xem được mèo, biện được chó mà còn biết được các laoij trâu bò, ngựa nghẽo.Nếu luận về những loài ngựa hay, giá trị ức vạn ngoài những loài như Ô Nha mã, Yên Chi mã, Ngải Diệp Thanh, Can Thảo Hoàng, Hỏa Diệm câu, Thanh Tông Thú, Bạch Long câu, Ngọc Đỉnh ký... Chúng có thể vào ban ngày nghìn dặm, ban đêm tám trăm đặm, thời cổ có BÁ Nhạc giỏi xem tướng ngựa, những việc đó chúng ta bàn tiếp nữa. Nhưng về thuật xme tướng trâu bò, thiết tường cũng chẳng qua phân biệt thành bò mộng, bò vàng, trâu nước mà thôi. Tuy chúng có hình thể lớn nhưng cũng chỉ dùng vào việc kéo bừa,cày ruộng. Chẳng nhẽ thuật xem tướng trâu bò là hữu danh vô thực ư? Kỳ thực ra, trong các loài trâu, bò có chia thành các loài lành dữ, hung ác, Trương Tiểu Biện thấy con bò mộng bị xỏ mũi trong sảnh hết sức kì quái. Nếu là những con bò hiền lành, khỏe manh có lông dài vai rộng, đồng thời cũng cần trán lớn, sừng dài, nhưng con bò mộng vô chủ này lông ít, xương nhiều, lưỡi lạnh, chân cao, chân thấp có khoáy lông, sừng vặn veo, xem ra đúng à loài "quỷ tướng". Con bò mộng thấy có người bước vào liền ngẩng đầu, mắt lộ tia hung ác, mũi thở ra tiếng phì phò. Nhạn Bài Lý trâu bò nhiều rồi, nhưng xưa nay chưa từng thấy con nghiệt xúc nào to gan như thế này, đáng giết tha" Trương Tiểu Biện cũng ngạc nhiên : "Nghe , bò già thường rống, chắc hẳn trong bụng có báu vật" đoạn, liền tiến lên, giơ tay sờ thử vào lưng bò xem thử nó già yếu hay còn khỏe mạnh. Phàm là bò mộng, ba tuổi có hai răng, bốn tuổi có bốn răng, năm tuổi có 6 răng, sau đó mỗi năm nối liền đốt xương sống. nò ngờ, vừa thò tay đặt lên lưng sờ thấy từng mảng từng mảng vảy thịt. Trương Tiểu Biện giật thót mình, biết rằng con bò mộng trước mặt vốn phải là bò. vỗi vã cúi đầu nhìn con mèo Trường Diện La Hán ngồi đất, thấy nó mở miệng định kêu, là:"Trăm nghìn sợ hãi tìm run rẩy; Hồn phách rụng rời mặt cũng tan". Muốn biết chuyện sau ra sao, xem hồi sau . Hồi thứ 3: Qủa Phụ Nướng Bánh Trong truyền thuyết dân gian thời xưa, trâu bò là loài vật thông linh với trời đất. Dưới ty có hung thần đầu trâu chuyên ăn ma quỷ có tên là "Phương lương", dương gian cũng có loại quái ngưu mọc vảy thịt chuyên ăn thịt người. Loài bò này có thể đuổi quỷ, dựng xác chết dậy,, sai khiến xác chết tự cởi quần áo, sau khi cái thây trần truồng ra con bò đó mới ăn thịt. Chuyện đuổi quỷ dựng thây tuy chưa chắc có nhưng con bò quỷ tướng " Phương Lương Ngưu" này có tính tình bất tắc, hết sức hung ác, ăn cỏ mà ăn thịt thối, từ thời Hán sớm tuyệt tung tuyệt tích. Trương Tiểu Biện nhận ra con bò này, nghĩ đây là vật của dư nghiệt Tháp giáo cũng chừng, trong lòng chợt dâng lên cảm giác ghét cay ghét đắng, đúng lúc đấy, đột nhiên con mèo Trường Diện La Hán mở to mồm khiến ba hồn lên mây, bảy vía độn thổ, hoảng hốt tới tức trong đầu chỉ có suy nghĩ là vội vã mở ống tre ra, chiếu theo chước vãn hồi thiên cơ ở trong đó để cứu lấy cái mạng của mình. Nhưng, mới vừa bóp vỡ lớp xi niêm phong ống tre thấy con mèo La Hán nọ hóa ra vừa mới ngáp chứ chưa cất tiếng. Trương Tiểu Biện bị phen sợ hút chết, thấy hai chân đều mềm nhũn ra . gắn lại ống tre, đưa tay cốc đầu con mèo cái, sau đó mới sai tả hữu đêm con bò mộng ở hậu điện chùa Ngõa Quán ra bên ngoài giết chết nhưng được ăn thịt mà phải rút gân lột da, rồi xẻ thịt nó ra làm tám mảnh, đem gói trong bộ da rồi chôn xuống đất. Mấy tên thân tùy dạ ran rồi xúm lại, ra tay trói nghiến con bò. Bỗng nhiên, cái nắp quan tài trong sảnh vang lên tiếng ken két, bên ngoài trời vẫn mưa như trút, sấm nổ ì ùng, mọi người thất kinh, những tưởng cái thây tác quái, liền nhao nhao rút phắt đao hộ vệ phía trước Trương Tiểu Biện. Nhạn Bài Lý Tức chửi tiếng, giơ chân đạp tung nắp quan tài, vung đao định chém. Nào ngờ, bên trong quan tài có ả mặc đồ tang nấp, kêu lên: " Quân gia xin nương tay, tiện thiếp là người sống." Vừa , ả vừa lồm cồm bò từ trong quan tài ra ngoài, vái chào kiểu Vạn Phước trước đám quân quan Nhạn doanh, tự xưng là dân nữ ở vùng này, xuất thân từ nhà gia giáo nền nếp, ngặt nỗi số phận đen đủi. SAu khi được gả làm vợ của chủ tiệm bánh nướng Triệu Lục trong Thanh Loa trấn, hai vợ chống thức khuya dậy sớm, vất vả làm nghề bán bánh nướng nhưng cũng chỉ đủ sống lay lắt qua ngày, tạm cho là yên ổn. Nào ngờ,Trời kia mưa gió bất thường, làm người họa phúc biết đường nào lo, Triệu Lục bị giặc cướp giết chết, hàng bánh cũng bị phá, vì vậy, ả ta còn chỗ nào trú thân, đành phải chuyển vào ở tạm trong hậu điện của chùa Ngõa Quán đổ nát làm bánh váng sữa nhờ người ta mang vào trong thị trấn bán hộ, kiếm chút tiền bạc, lương thực sống qua ngày. Cho tới nay, ả vẫn chỉ ở mình với cỗ quan tài khâm liệm, tượng trưng vài đồ vật của người chồng mất. Ẳ ta lại : " Phần lớn mọi người trong Thanh Loa trấn chạy trốn hết rồi, thị trấn chỉ còn lại ít nhi, quả phụ và người già bệnh tật. Trong thời buổi chiến loạn này, ai nấy đều như chịm sợ cành cong, hễ nhác thấy bóng người ngựa đỉnh núi là vội vã gói ghém đồ đạc trốn . Tiện thiếp thân chịu tang, hoảng sợ biết trốn đâu, đảnh phải nấp trong quan tài. Tới nay, cả nhà cả cửa chỉ còn lại mỗi con bò mộng đó thôi, thấy quân gia định đem nó giết nên mới sợ hãi bật ra tiếng kêu như thế." Nhạn Bài Lý Tứ thấy ả cũng khá kiều nhưng thần thái rất khác lại, liền cật vấn rằng: "Nhạn doanh chúng ta đều là quan quân, phải là sơn tặc, thảo khấu, mũ giáp, cờ hiệu đề rất ràng, bọn tiện dân các ngươi có mắt phỏng? Thấy quan quân sao lại bỏ trốn, chẳng lẽ chúng bay ngấm ngầm câu kết với giặc hay sao?" Ẳ ta cúi đầu thẽ thọt van vỉ lí nhí: "Xin quân gia đừng trách, chúng tôi đều là người dân lương thiện, an phận thủ thường, gặp phải thời buổi loạn lạc, cho dù cướp núi hay cướp song chúng tôi cũng chẳng biết làm thế nào chống đỡ. Hôm nay đột nhiện thấy có bao nhiêu lính dõng cầm đao cắp thương từ núi xuống, ai mà chẳng sợ hãi? " Nhạn Bài Lý Tứ thấy ả đối đáp trôi chảy kín đáo, có sơ hở gì, sao vặn hỏi được, nhưng cái kiểu ráo hoảnh như ấy chẳng hề giống ả góa phụ chịu tang chút nào, những lời ma mị của ả chỉ che được mắt người ngoài chứ làm sao giấu nổi Tứ gia của Nhạn doanh này. Gã nghĩ bụng: "Nếu ta đao chém chết nhà ngươi chẳng hóa làm ô danh của Nhạn doanh hay sao. Tứ gia ta còn muốn xem xem ngươi định giở trò quái quỷ gì." Chính vì vậy. gã giả vờ để ý, cắm ngọn Thu thủy Nhạn linh đao trở vào bao, lạnh lùng nhìn soi mói nhất cử nhất động của ả nọ. Nhạn Linh Nhi và những người tùy tùng khác đều là những người khôn ngoan tinh mắt, biết rằng ả góa phụ này có điều lắt léo, ai nấy đều ngầm đề phòng. Lúc ấy, bỗng thấy ả góa phụ nhà họ Triệu hai tay bưng bát bánh nướng, chầm chậm dâng lên chư vị quân gia của Nhạn doanh dùng tạm Toán người Nhạn doanh căng thẳng như cung giương kiếm tuốt. chỉ cần ả góa phụ nào dám mạo muội vọng động là lập tức loạn đao băm nát ngay tại chỗ, nhưng Trương Tiểu Biện thấy con mèo La Hán chưa mở miệng, biết rằng hạn lớn chưa đến, tạm thời chưa có nguy hiểm gì, lòng can đảm cũng theo đó mà tăng lên, liền hỏi: "Bánh nướng của tiểu nương tử có phải dùng thịt bò Thanh Loa ?" Ẳ góa phụ nọ đáp: "Đây là ngón nghề do người chồng quá cố của tiện thiếp truyền dạy, nhân bánh đều dùng thịt bò rút xương hảo hạng để làm cả." đoạn, ả dâng bánh nướng Thanh Loa đến trước mặt mọi người. Trương Tiểu Biện thấy thịt làm nhân bánh có màu tím đen, từ da đến xương đều được băm vụn, hoàn toàn giống màu thịt bò, tuy mùi nước sốt rất đậm nhưng giấu được mùi xác thối luẩn quẩn bên trong. nhìn trộm con mèo La Hán dưới chân, chỉ thấy con mèo khoang to, lông lốm đốm như tranh, cuộn tròn mặt đất, giương mày trợn mắt, tỏ ra rất kinh tởm. Phàm là những con mèo có linh tính, rất ghét ăn phải thịt thối, Trương Tiểu Biện thấy thần thái của con mèo La Hán như vậy, biết ngay nhân bánh nướng làm bằng thịt người. Trương Tiểu Biện đoán định ả nọ chắc chắn là dư nghiệt Tháp giáo lọt lưới, định lệnh cho thủ hạ ra tay. Nào ngờ, ả góa phụ từ đầu đến giờ luôn cúi đầu, bỗng đột nhiên ngẩng lên, để lộ ra bộ mặt trắng bệch trát đầy phấn, cặp mắt oán hận đỏ lên như ứa máu, mở miệng thè ra cái lưỡi dài, đầu lưỡi chẻ hai, phát ra tiếng xè xè như con rắn độc phóng lưỡi, bắn thẳng vào Trương Tiểu Biện. May mà mọi người ở Nhạn doanh sớm đề phòng, Nhạn Bài Lý Tức là người cực kì nhanh tay nhanh mắt, đời nào để ả ám sát doanh quan. Gã quát lên tiếng: "Con phụ", rồi vung đao chém tới. ra chậm chứ diễn biến cực nhanh, Nhạn linh đao xả xuống vai của ả, chém ngã lăn ra đất. Gã nhấc chân đạp cứng ả góa phụ, đám lính dõng còn lại nhao tới trói nghiến ả ngay tại chỗ. Tháp giáo chẳng qua chỉ là đám nghiệt biết chút tà thuật Tạo Súc, chuyên ăn trộm thi hài người chết, bắt cóc đồng nam, đồng nữ, làm những việc đen tối, chứ gặp phải Nhạn doanh chúng căn bản chịu nổi đòn, Ẳ góa phụ nọ tuy thủ đoạn có quái dị nhưng trời xui đất khiến thế nào mà lại chạm phải Nhạn Bài Lý Tứ chứ chẳng phải ai khác, gã này đâu phải hạng tay mơ? Ẳ thất thủ bị bắt, đầu vai lại bị xả vào tận xương, đau đớn chịu nổi, tự biết mình bị hành hạ như đám đồng đảng trước kia nên ngớt van xin tha mạng. Trương Tiểu Biện sai người trị thương, chỉ sai quân đem dao cắt phăng cái nang độc lưỡi của ả, sau đó tra hỏi ngay tại chỗ: "Nay ngươi lọt vào tay của Nhạn doanh rồi, chẳng còn đường nào sống sót đâu, đáng ra phải đem dao ra lóc từng miếng thịt của nhà ngươi mới phải, nhưng, tiểu nương tử xinh xắn trẻ trung thế này, Tam gia ta sao nỡ gia hại, chỉ cần ngươi cũng khai thực ta suy nghĩ lại." Ẳ nọ thấy chuyện hỏng, đành phải cung khai hết. Vốn ả là " Xà mẫu" trong Tháp giáo, từ khi giáo chủ Bạch Tháp chân nhân bị quan phủ hành quyết, toàn bộ giáo đồ đều bị tiễu rừ sạch, Xà mẫu trốn trong chùa Ngõa Quán của Thanh Loa trấn, lóc thịt tử thi làm nhân bánh để đem bán, lại đặt cỗ quan tài làm linh vị cho giáo chủ, ngầm thề nguyền báo thù rửa hận. Nhưng, sau nhiều lần trà trộn vào Linh Châu để hành thích, ả đều thành công vì trong thành phòng bị rất nghiêm ngặt. Sáng sớm nay, ả thấy quan quân tiến vào trong trấn, định cao chạy xa bay nhưng xưa nay phàm là kẻ thù đụng mặt, tai mắt đều vô cùng bén nhạy, nên từ xa ả nom thấy cờ hiệu của Nhạn doanh, bèn tự nhủ đúng là oan gia ngõ hẹp, xem ra phải oan gia thể chạm trán được, nghĩ đoạn liền quyết ý nấp vào quan tài chờ cơ hội... Nhưng, do việc chuẩn bị được chu đáo, làm mất tiên cơ, đành phải mạo hiểm động thủ, định liều mạng cùng chết với đối phương, rốt cuộc vẫn thành. Ẳ biết mình tránh khỏi cái chết, chỉ cầu xin được chết cho toàn thây. Nhạn Bài Lý Tứ và Nhạn Linh Nhi đều bảo, nếu cho tướng sĩ áp giải Xà mẫu về nộp cho quan phủ, chỉ e nó giở tà thuật giữa đường ổn. nhân Tháp giáo làm nhiều việc ác, trừ được đứa nào hay đứa ấy, thế mới gọi là: "diệt cỏ diệt tận gốc, mầm cỏ mới mọc, diệt cỏ diệt tận gốc, xuân đến lên xanh mấy chốc." Tới nay, nó rơi vào tay chúng ta còn giữ lại làm gì? Giết ngay tại chỗ là hơn. Trương Tiểu Biện nghĩ bụng: "Xem ra, đám dư nghiệt Tháp giáo coi Tam gia ta như cái đinh trong mắt, tiêu diệt tận gốc bọn chúng sau này ta khó mà ngủ yên được. Con quả phụ bán bánh nướng này trông mị như thế chắc chắn từng dan díu với Bạch Tháp chân nhân nên mới để bụng báo thù rửa hận cho chồng. Nay bắt sống được ả phải sớm giết , tránh đêm dài lắm mộng, lưu lại hậu hoạn sau này." Vì vậy, sai lính dõng mang đến miếng vải, bịt mặt Xà mẫu lại, dùng dây gai treo cổ ả dưới hành lang, sau đó nổi lửa hỏa thiêu thi thể. Nhạn doanh từng phụng mệnh giết sạch giáo đồ của Tháp giáo tại thành Linh Châu, phàm là bắt được kẻ tình nghi cần hỏi han lằng nhằng, cứ nhất loạt hành quyếtgiết chết biết bao nhiêu, hôm nay chỉ phải giết ả góa phụ chẳng khác nào giết chết con sâu, cái kiến. Trương Tiểu Biện liền dẫn người tra xét hậu điện của chùa Ngõa Quán, chỉ thấy dưới đáy quan tài đầy những tay chân thối rữa của người chết, còn ở trong nồi nấu có cả gan người, đầu người. Đám người Nhạn doanh bịt mũi, đem xương thịt người chết ra nhà dưới thiêu hủy, lại sai mấy tên quân khỏe mạnh, lực lưỡng, cầm dao tai trâu, trói gô con bò mộng xỏ mũi trong nội điện, mang ra ngoài trời mưa giết chết. Con Phương Lương ngưu thường được cho ăn thịt xác chết, tính tình hung tợn, nhưng mũi bị xỏ vòng, nên thể trốn thoát được, bị đám lính dõng Nhạn doanh đạp ngã ra, dùng dao tai trâu cắt đứt cổ họng, máu tươi ồng ộc chảy ra như nước vỡ đê. Trước khi chết, con bò giãy giụa muốn đứng dậy, trợn tròn hai mắt, nhìn trời rống lên. Tiếng rống cuối cùng uất nghẹn kịch liệt, xuyên thấu qua màn mưa dày đặc, hòa cùng với tiếng sấm động ì ùng thành tiếng rền, vang dậy khắp rừng núi Thanh Loa. Lúc ấy, cũng biết do tiếng sấm dậy đất hay tiếng bò rống động trời mà nền đất của ngồi chùa cổ đột nhiên cũng rung chuyển ầm ầm như hưởng ứng theo. Gạch ngói mái điện rung lên bần bật, tường đá, cột gỗ lắc lư răng rắc thôi, cảnh tượng khác thường. Cả đám Trương Tiểu Biện đều kinh hãi, dường như phía dưới của ngôi chùa Ngõa Quán đè lên con vật to lớn nào đó, bị tiếng bò rống làm kinh động, muốn đội đất chui lên. Trương Tiểu Biện dự cảm thấy chuyện chẳng lành, tuy chưa thấy con mèo La Hán mở miệng nhưng cũng cuống cả chân tay. đưa mắt nhìn con Phương Lương Ngưu nằm trong vũng máu, chợt thót tim nghĩ ra việc rất nguy hiểm, kêu lên tiếng : " xong rồi", lần này chỉ sợ trúng phải quỷ kế của Tháp giáo rồi. Xem ra năm nay đen đủi, số xui đều tìm đến Tam gia, con người gặp vận hạn đúng là đến uống ngụm nước mát cũng bị cứng hàm, đến ngày gặp phải cùng quẫn có khác nào: " Mưa vùi hoa rụng tháng Ba; Dương liễu tháng chín sương sa gẫy cành." Rốt cuộc trong chùa Ngõa Quán phát sinh ra quái kinh thiên động địa nào xem hôi sau .
Hồi thứ 4: Ngõa Quán tự Trương Tiểu Biện đột nhiên nhớ ra chuyện, vào cái đêm tra khảo Bạch Tháp chân nhân trong mật thất phủ Đề đốc lúc trước, khi dùng cực hình tra tấn tàn khốc để bức cung, tra ra rất nhiều chỗ nấp của ngiệt Tháp giáo. Các hình vi tà ma của Tạo Súc, phóng độc sớm xuất từ thời Đường, sau khi cấu kết thành môn phái, lưu truyền từ đời Nam Tống cho tới ngày nay, bọn chúng trước sau đều tôn cổ tháp ở Linh CHâu làm Thông thiên Thần minh, nguồn gốc ra sao tới nay thể khảo cứu được nữa. Về sau, nhan môn quan phủ căn cứ vào đầu mối trong lời khai của Bạch Tháp trân nhân, , điều động lượng lớn công sai, truy bắt tà Tạo Súc khắp nơi, thu được mấy bức tranh mà đám giáo đồ vẫn thắp hương cúng tế. Trong những bức tranh đó đều vẽ tòa tháp màu đen, bóng tháp lờ mờ, xiêu vẹo trông được nét lắm. Dưới tòa tháp đen quái dị con có con bò mộng ăn thịt người, lưng bò có con rắn Ngũ hoa. Nội dung bức tranh hết sức cổ quái, ai được ý tứ giấu bên trong, chỉ biết rằng, tín đồ Tháp giáo coi đó là chân thân của Giáo tổ, vẽ thành hình tượng để đời đời thắp hương thờ phụng. Trương Tiểu Biện từng trông thấy bức tranh này, nhưng cũng lâu lắm rồi nên dần quên bẵng , thêm vào đó, giờ Trương Tam gia nhà run sợ như tượng đất qua sông, biết làm thế nào để trốn tránh tai họa, giờ đâu mà suy nghĩ đến mấy cái việc chẳng liên can đó. Tới khi giết chết con bò mộng và Xà mẫu trong ngôi chùa cổ Ngõa Quán, phát thấy tượng dị thường dưới tòa Đại Hùng bảo điện, mới nhớ ra chuyện trước nghĩ bụng: "Chẳng nhẽ bức tranh vẽ Giáo tổ của Tháp giáo chính là vẽ Thanh Loa trấn? Hôm nay, núi nghiêng, đất lở, chẳng lẽ tháp đen thân hay sao?" Bầy ngựa buộc trước điện dều kinh hãi, chực giật đứt dây cương để bỏ trốn, Đám người Nhạn doanh tự cảm thấy có điều khác lạ, ai nấy rút đao, nắm thương chạy ra khỏi gian điện. Lúc ấy, mưa to vẫn như trút, trong khuôn viên ngôi chùa cổ, nước tích tụ thành vũng xâm xáp bàn chan. Giữa tiền điện và hậu điện và khu đình viện có đường thần đạo lát gạch xanh, chỉ thấy ở chỗ đọng nước sâu nhất đường thần đạo có bào khe nứt rộng, tựa như hồi trước bị toác ra do hạn hán. Khe nứt mặt đất sâu thấy đáy, dẫu cho có bao nhiêu nước mưa tuôn xuống cũng thể làm cho nó đầy lên được. Chỉ thấy từ trong dòng nước của khe nứt bỗng chui ra con cóc lớn như cái bánh xe to, toàn thân xanh biếc, lưng có đường bằn bện màu đen viền vàng chạy suốt đến đỉnh đầu, trong giống như bóng tháp đen kịt, đôi mắt giận giữ nhìn trừng trừng, phùng hai má kêu ồm ộp như tiếng trống. từ trong cái miệng rộng, cái lưỡi dài phóng thẳng vào trong bụng của con bò chết, sục sạo lúc moi ra cục Ngưu hoàng to khoảng bằng nắm tay, liền thu lưỡi, nuốt luôn vào bụng. Linh Châu từ thời xưa có nhiều cóc, nháu, đặc biệt là vùng xung quanh Ứng Trủng sơn có rất nhiều ếch. Những con ếch đó được gọi là "ếch Kỳ Lân", là món sơn hào hải vị các bàn tiệc. Hồi trước, lúc đào cương thi trong núi, Trương Tiểu Biện từng gặp con ếch đại tướng trong hang núi, trông cũng giống như con ếch to lớn dữ tợn trong chùa Ngõa Quán này. Những tiêu quan, lính dõng còn lại của Nhạn doanh chưa từng nhìn thấy con vật nào như thế này nên hết sức kinh ngạc, nhất thời chỉ biết trợn mắt, há mồm nhìn, quên cả sử dụng súng ống, cung nỏ trong tay. Lúc ấy, trong lòng đất vọt lên hàng nghìn con cóc, nhái, đủ các chủng loại khác nhau, to hỗn độn, thể phân biệt nổi. Nhìn qua trong đó có loài cóc đất, nhái bén, cóc vàng, ếch,... , to như cái bát lớn hoặc như cái đấu đong gạo, quá ngón tay cái. Bầy cóc nhái đpội trời mưa, từ trong hang dưới mặt đất trèo lên mặt đường thần đâọ, tụ tập lại dày đặc như bức tường, đỡ con cóc lớn đầu đàn lên vị trí cao nhất, sau đó, cả bọn phùng mang trợn mắt cùng kêu. Tiếng có nhái thê lương vang dậy khắp bốn phía. Lời tác giả: Chuyện này đúng là bị Trương Tiểu Biện đoán ra. Bách tính Linh Châu phần lớn sùng bái Miêu Tiên, nhưng giáo đồ phát Tạo Súc lại coi Tháp cổ là chí tôn. Có điều, cái tháp đó phải là cái tháp xây bằng vôi sữa, gạch ngói mà là loài cóc có hình dáng quái dị sống ở Thanh Loa trấn. Đây là mọt loại cóc đất chuyên đào hang, khoét mả ăn xác chết, lưng nó có những đường vằn vện giống hệt hình dáng cái tháp. thực tế, chúng là loại cóc núi, khi cả bầy quầy tụ lại giống tòa tháp đne di động, chính vì vậy, trong Thủy lục dạo tràng mà dân gian mở ra để siêu độ cho vong hồn người chết, chúng còn được gọi là "Minh tháp" Loài cóc núi ngày thường xuất ở nơi có ánh sáng, nhưng hễ vọt ra từ lòng đất lên chắc chắn kết tụ thành đám chồng chất lên nhau tựa như muốn cõng nhau lên trời vậy. tượng này cũng giống như việc bầy sói tru dưới ánh trăng, đều là tập tính tự nhiên. Nhưng, nghe đồn, nếu trong thiên hạ sắp xảy ra cuộc biến động lớn như thay đổi triều đại, hoặc tai họa trời long đất lở nào đó mới xuất tượng dị thường này, Hồi Nam Tống sắp diệt vong, trong thành Lâm An cũng xuất quái " cóc nhái bầy thành trận, khắp thành", hơn nữa, cửa nhà nào cũng có, nam ngày chúng vẫn tản . Quả nhiên, mấy năm sau, thiết kỵ của quân Mông Cổ đánh xuống phía Nam, tiêu diệt hoàn toàn triều đình Nam Tống rú rú ở dải đất. Chính vì vậy mới tượng này là điềm báo rất dữ. Tháp giáo ngoài mặt thờ cúng tòa tháp làm thần tiên nhưng thực tế là thờ cóc tiên. Phong tục coi cóc là Thanh thần này bắt nguồn từ đám hậu duệ của người Miêu. Cóc là chúa ăn xác thối, nên đám tạo Súc đều tin loại cóc nàu là thần tiên. Xà mẫu của Tháp giáo nuôi dưỡng con bò mộng Phương Lương, đợi khi trong bụng bò kết thành Ngưu hoàng giết bò, ném xuống hang trong lòng đất tế Thanh thần, để cóc núi khỏi đội đất nhảy lên, gây tai họa cho thế gian. Đây là phong tục kì lạ, dòng giống người Miêu từu xưa có, nhưng truyền đến hai đời Minh, Thanh ý nghĩa tốt đẹp khi xưa còn. Tháp giáp cho tới nay vẫn giữ việc nuôi bò lấy Ngưu hoàng nhưng là có ý gây họa, làm loạn. Chi tiết chuyện này thế nào Trương Tiểu Biện hiểu nhưng thấy bầy cóc xếp thành hình tháp trong chùa Ngõa Quán, cũng biết đó là điềm trời sắp giáng họa lớn, khó lòng dẹp được, đời thái bình thịnh trị mà trong mơ cũng mơ thấy e rằng còn hi vọng gì nữa. sôi máu, hét lớn tiếng: "Giết! Lính dõng Nhạn doanh bốn phía giương cung lắp tên, sẵn sàng đợi lệnh doanh quan, bây giờ lập tức bắn tên ra như mưa, nhắm thẳng vòa con cóc núi chồm hỗm ở chỗ cao nhất. Linh Châu từ xưa có thói quen ăn cóc, nhái, người dân bản xứ thường bảo nhau rằng: "Cóc lớn có sữa lưng". Sữa ở đây là chỉ tuyến độc lưng của những con cóc lớn, cóc già, mà người thể ăn được. Con cóc núi to như cái bánh xe, có vằn vện lưng như tranh vẽ, khi bị trúng tên dịch độc bắn phọt ra, vài tên lính dõng tránh kịp, bị dính chút ít lên mu bàn tay và mặt, lập tức chất kịch độc thấm sâu vào xương tủy và não bộ, kêu gào thảm thiết, ngã vào vũng nước mưa, lăn lộn vài cái rồi nằm thẳng cẳng. Lính dõng Nhạn doanh từng là quân tinh nhuệ từng trải sa trường, thấy gian trong hậu điện chật hẹp, liền kêu gọi, hô hoán nhau tản ra. Con cóc núi trúng mấy mũi tên mà vẫn trơ trơ như , trèo từ đống cốc, nhái xuống dưới, phá tung vách điện, chui vào Đại Hùng bảo điện. Trương Tiểu Biện mới vừa đem quân bao vây bốn mặt chính điện con cóc núi lại phá tường, đội mưa gió, liều mạng xông thẳng ra ngoài đường. Hơi thở tỏng miệng nó có thể làm người ra mê mân, lính dõng chạm phải đều bị mùi ám khí tanh hôi kia làm cho ngã lăn ra đát bất tỉnh. Nhạn doanh tuy người đông thế mạnh, nhưng cũng ngăn được nó. Nhạn Bài Lý Tú trầm tĩnh quan sát, biết rằng con cóc núi tuy hung ác tàn nhẫn nhưng cũng chỉ là loài vật ngu ngốc. nếu nó nhảy ra đường nhà cửa, phòng ốc nhấp nhô làm giảm thanh thế của nó, có thể dùng sức để trị được. vậy là, gã để Nhạn Linh Nhi dẫn mấy tên thân tùy hộ vệ doanh quân còn mình tung người nhảy lên ngựa, chỉ huy lính dõng thủ hạ chia đường, trèo lên mái nhà, cây cối,chiếm cứ các điểm cao để bắn tên xuống, kế đó ra roi phi ngựa nhanh như gió, nhảy qua bức tường đổ nát của ngôi chùa đuổi gắt sau lưng con cóc núi. Con cóc nhảy vào lòng đường, mới chuyển qua góc phố người bị tên cắm như lông nhím. Nó cũng hoảng hốt, chạy nhảy lung tung, nhưng làn mưa tên bắn ra từ bốn phương tám hướng càng lúc càng dày đặc, cuối cùng, đành lùi vào nhà dân. Nhưng cái nhà đó cũ nát xiêu vẹo, đứng vững nữa, con cóc núi vừa xô cái sập mất nửa mảng tường. Mảng tường đổ đè chặt con cóc xuống, chỉ để lộ ra nửa cái đầu. Nó chống chân trước, định nhảy vọt lên khỏi đống đổ nát. Ngay lúc đó, Nhạn Bài Lý Tứ dẫn mười mấy tên lính dõng đuổi kịp, vung đa chém nhầu, chặt lìa nửa cái đầu cóc, máu tươi đổ lênh láng dưới mưa, chảy đầy mặt đất. Có người dùng chân đá thử cái đầu cóc chết nhắm mắt đó, chỉ thấy nặng như cối đá, có lẽ dưới mấy chục cân. Nhạn Bài Lý Tứ kéo cái đầu cóc đầm đìa máu phía sau đuôi ngựa, quay về phục mệnh với Trương Tiểu Biện, rồi : "Con cóc này hôi tanh như xác thối, phải vật tầm thường. chẳng ngờ tòa Thanh Loa trấn này lại là sào huyệt của Tháp giáo. May mà em Nhạn doanh thân thủ hơn người, lại đề phòng từ trước, nếu chỉ e khó lòng đối phó với chúng." Trương Tiểu Biện vội chắp tay khen phải: "Tứ ca thực là Triệu Long tái sinh, vào chỗ quân trăm vạn như vào chỗ người, nay xử lý đám tà Tháp giáo còn gì phải bàn nữa. Đến nay, Tháp giáo dưới bị quan phủ đuổi tận giết tuyệt rồi, còn là mối họa nữa, chỉ có điều việc cóc núi xếp thành tháp chẳng phải điềm hay ho gì, thế đạo loạn lạc này biết đến bao giờ mới dứt được, xem ra về sau chiến càng lúc càng lớn, Nhạn doanh chúng ra chắc phải tham gia đánh trận rồi." Nhạn Bài Lý Tứ nghe thấy thế cũng khỏi lộ thần sắc ảm đạm, định sai lính dõng trong doanh lùng sục khắp nơi trong Thanh Loa trấn bỗng nghe thấy tù và u u từ xa vọng đến, dãy núi ngoài thị trấn vang lên tiếng hô hoán vang trời dậy đất. Ngay lúc ấy, có tên lính dõng cuống cuồng chạy tối bẩm báo, toán quân đỉnh núi gặp phải đại quân Việt khẩu, súng ống dưới mưa thể bắn được, Nhạn doanh đành phải dựa vào địa thế, dùng cung cứng nỏ mạnh ngự địch, nhưng Việt khẩu kéo đến rất đông, lại nhân lúc mưa gió tập kích, chiếm được thiên thời, cứ theo tình hình giờ mà khó phân được thắng thua. Nhạn Bài Lý Tứ và Trương Tiểu Biện nghe quân tình có biến, vội vã dẫn người về hậu điện. Lý Tứ tụ tập mấy viên tiêu quan lại, dùng than vẽ sơ qua địa hình của Thanh Loa trấn, lại bày mấy hòn sỏi, mẫu gỗ mặt đất để biểu thị binh lực và sắp xếp quân của hai bên, rồi trỏ vào đó bảo với các tiêu quan: đỉnh núi lúc mưa to gió lớn, nếu lúc này liều chết phá vây đến giữa đường, Nhạn doanh chúng ta bị Việt khẩu đánh cho tan nát. Nay chúng ta còn đường nào khác, đành cố thủ chờ viện binh. Các đội cần phải chiếm những cứ điểm nào, công thủ tiến thoái thế nào, tiếp ứng chi viện thế nào. Mọi người nghe trưởng quan bố trí, đoạn cùng Nhạn Bài Lý Tứ vội vã ngay, chia đường dẫn quan nghênh chiến dưới mưa. Trong gian hậu điện của ngôi chùa cổ chỉ còn lại Trương Tiểu Biện, Nhạn Linh Nhi và mấy tên hộ vệ, Trương Tiểu Biện ngồi bệt lên mặt quan tài, chửi thầm rằng: " biết hôm nay là ngày gì mà đầu tiên mưa to như trút ngăn đường cản lối, vào đến cái chùa rách nát trong thị trấn hoang vu này gặp phải thích khách hành hung, thấy điềm dữ cóc núi xếp tháp, bây giờ lại chạm trán với đại quân Việt khẩu. Sao những chuyện chết người đó đều xảy ra trong ngày hôm nay nhỉ?" lại xoay chuyển ý nghĩ rằng: "Trương Tam gia đúng là người phúc lớn mạng lớn, bên cạnh lại có em cùng nhau sống chết, bọn Việt khẩu, Tháp giáo dẫu cho hung hăng đến mấy cũng làm gì được ta? Chỉ cần con mèo Trường diện La Hán này mở mồm Tam gia ta gặp dữ hóa lành, gặp họa hóa phúc." Trương Tiểu Biện lại nhớ đến những lời của Lâm Trung Lão Quỷ, chỉ cần mình thoát khỏi hạn lớn trong đời này đừng đến chức quan tam, tứ phẩm có Hoa linh cài mũ mà tương lai ngay cả chức quan nhất phẩm cũng có, vinh hoa phú quý dễ như trở bàn tay. Song, có câu rằng: "Hạn đến khó thoát", kiếp nạn tày trời này rốt cuộc từ đâu đến? Lúc đó, mình có trốn thoát được ? Nhạn Linh Nhi đứng cạnh Trương Tiểu Biện, tay cầm loan cung đầu nhạn, lắp sẵn ba mũi tên khoái tiễn, chỉ đợi khi có Việt khẩu đánh tới chùa Ngõa Quán là bắn tên liên châu giết chết. Thấy thần sắc Trương Tiểu Biện chợt vui mừng, chợt hoảng hốt, từ xưa đến nay trải bao chiến trận, liền khuyên, Tam ca chớ suy nghĩ nhiều, Nhạn doanh là đội quân từng trải trăm trận, trước mắt tuy bị rơi vào vòng vây trùng trùng nhưng cũng có thể chống giữ được năm, ba hôm. Hơn nữa, nơi đây cách thành Linh Châu xa lắm, mưa ngừng viện binh ắt đến, lúc đó, trong ứng ngoài hợp, chẳng phải giết Việt khẩu còn manh giáp hay sao. Trương Tiểu Biện muốn mất uy thế trước mặt Nhạn Linh Nhi, liền cố xốc tinh thần, miễn cưỡng cười khan, tỏ vẻ bình tĩnh như , rằng: "Hồng hộc lông bay chẳng nổi; Hổ nanh vuốt khó ra oai. Trương Tam gia ta thống lĩnh Nhạn doanh chinh chiến nam bắc, may mà có Tứ ca và Lục muội bên cạnh, chẳng khác nào hồng hộc có thêm cánh, hổ them nanh vuốt. Nhạn doanh chúng ta là đội quân hùng mạnh bách chiến bách thắng, nào coi đám Việt khẩu, Niệm phỉ ô hợp ra gì. Có điều trong lòng ta thường ngày... thường ngày vẫn ưu tư, cảm khái về thời loạn, lại thêm thương nhớ mẹ già tám mươi tuổi ở nhà." Trương Tiểu Biện liến thoắng hồi, lúc định tiếp tục ba hoa với Nhạn Linh Nhi bỗng thấy con mèo La Hán nằm mặt đất nhảy lên nắp quan tài đánh "soạt" cái, cặp mắt nhấp nhoáng, mặt đối mặt với Trương Tiểu Biện, nhìn chằm chặp vào kêu "meo... o... o" tiếng. Chỉ là tiếng mèo kêu nhưng Trương Tiểu Biện sợ đến nỗi hồn bay phách lạc, miệng kêu lớn "trời ơi", người ngã lộn khỏi quan tài, nằm sõng soài nền đất. cũng chẳng dám bò dậy, mà vội lập cập móc cái ống tre trong bọc ra, định xem xem rốt cuộc kế sách vãn hồi của Lâm Trung Lão Quỷ trong đó là thế nào. Nào ngờ, vừa thò tay vào bên trong sờ soạng chẳng thấy gì cả, vật bên trong ấy cánh mà bay. Có câu rằng: "Số phận do trời định sẵn; Nay người muốn trốn, trốn sao ." Rốt cuộc chuyện sau thế nào, xem hạ hồi phân giải. Hồi thứ 5: Vãn Hồi Cơ Trời Tương truyền, "mèo có tiếng mèo, chó có lời chó". Phàm là loài vật có linh tính đều có tâm niệm cảm ứng. Nghe , khi rắn nuốt ếch con ếch dám động đậy, chỉ im lặng chờ chết; mèo dữ bắt chuột con chuột cũng dám trốn tránh. Trong quan niệm thời xưa, người ta cho rằng đó là do chúng ta dùng tâm niệm để chấn nhiếp tinh thấn của đối phương. Mà mèo hoang là loài đứng đầu trong các động vật có linh tính ấy, trong đám mèo hoang, Trường diện La Hán là con mèo bề ngoài lười nhác uể oải nhưng lại có thể biết trước được việc sinh tử, lành dữ của chủ nhân. Ngày thường, nó giống như con mèo câm, chẳng kêu, chẳng gào tiếng nào, nhưng mở miệng còn được, chứ hễ mở miệng là "hại chủ". Trương Tiểu Biện lăn lộn trong thành Linh Châu lâu, bọn mèo hoang trong thành đều coi là chủ nhân. Hôm nay, trong hậu điện của ngôi chùa cổ Ngõa Quán tự nghìn năm, con mèo Trường diện La Hán đột nhiên nhìn thẳng vào Trương Tiểu Biện mà kêu lên tiếng, khiến ngã lộn xuống đất, phải vội vã thò tay vào bọc lấy ống tre có kế sách cứu mạng của Lâm Trung Lão Quỷ ra. Nào ngờ sờ soạng mãi chẳng thấy gì, đầu Trương Tiểu Biện như vỡ tung lên, nghĩ thầm: "Thôi chết, Trương Tam gia lần này chắc phải mất mạng rồi. Dọc đường bôn ba, gập ghềnh, biết cái ống tre rơi đâu nữa? Đúng là nghìn vạn lần nên rời thành Linh Châu. Nếu sớm biết rơi vào tình cảnh như ngày hôm nay, chẳng bằng cứ trốn trong Miêu Tiên từ, giữ khư khư cái ống tre. Nhưng Tam gia ta nào có tài tiên tri, ngờ đâu con mèo già này sớm kêu, muộn kêu, lại nhè đúng lúc này mới nhằm vào Tam gia ta khạc lên tiếng." Nhạn Linh Nhi vừa mới rồi thấy Trương Tiểu Biện còn cười như mà bây giờ bỗng đột nhiên ngã lăn ra đất, thần sắc mặt biến đổi. vội vã đỡ dậy, gặng hỏi nguyên do. Trương Tiểu Biện đờ đẫn : "Con mèo già này biết được chuyện sống chết của chủ nhân, hễ nó mở miệng là cái chết của Tam gia ta đến, chỉ e qua nổi hôm nay." càng cảm thấy cuộc đời mình là bất hạnh, mấy phen vào sinh ra tử, khó khăn lắm mới leo được lên chức Tham tướng chánh tam phẩm, nhưng ngồi ghế quan còn chưa ấm chỗ phải mất mạng, càng nghĩ càng cam tâm, bất giác rơi lệ. Nhạn Linh Nhi liền khuyên giải: "Tam ca, có hơn hai nghìn huynh đệ Nhạn doanh chúng ta ở đây, ai chán sống mà dám động đến sợi long của huynh? Hơn nữa, con mèo già làm sao mà biết được chuyện sống chết, xưa nay đều nghe giàu nghèo dễ đoán, trộm cướp dễ đoán, duy chỉ có số thọ là khó đoán. Đến tiên sinh họ Trần chuyên bói chuyện cát hung trong thành Linh Châu cũng thể đoán được số hưởng dương của người ta, còn con mèo khoang già này chẳng phải là Diêm vương hay Phán quan gì, làm sao có thể mở miệng là định việc sống chết của con người được, việc này có chứng cứ gì đâu?" Trương Tiểu Biện quệt nước mắt, nước mũi rỏ mặt rồi : "Muội tử biết đấy thôi, thường có câu rằng, "chưa nổi gió tây ve biết, Vô Thường ngầm đến chết hay". Con mèo Trường diện La Hán là vật thông linh, theo "Miêu phổ" đời xưa truyền lại, chỉ cần nó mở miệng lên tiếng chủ nhân khó lòng sống sót, còn chỗ nào trốn tránh nữa. Chỉ đáng tiếc, chúng ta đời này có duyên kết nghĩa huynh muội, chưa được ở với nhau bao lâu phải sinh ly tử biệt rồi... " nghẹn ngào lấp lửng, tự biết kiếp nạn hôm nay thể trốn tránh được, nhớ ra mấy việc quan trọng cần phải dặn dò, liền nén lòng, : "Con bà thằng cha thối tha nhà nó, Tam gia chết chết, chết là xong, có gì mà ghê gớm cơ chứ, mẹ kiếp, nhưng trước khi ra còn việc này phải dặn. Về sau vào dịp Thanh minh, Đông chí, muội chớ quên đốt hương hóa vàng nhiều chút cho Tam ca này và Tôn Đại Ma Tử. Huynh đệ chúng ta sống nửa đời người làm kẻ khố rách áo ôm, đến chết cũng muốn làm ma đói dưới thành Uổng Tử đâu. Còn nữa, trong phủ của Mã đại nhân có ả tên là Tiểu Phượng, cũng được coi là có chút tình nghĩa đồng hương với ta, muội nhớ đón ả ra, đừng để ả tiếp tục làm nô tỳ cho người ta sai bảo nữa." Trương Tiểu Biện đến đây, tự dưng phục mình ghê gớm, trong long càng thấy bừng bừng phẫn nộ, nghị bụng: "Tới lúc sắp chết mà ta còn quên những giao tình trong hoạn nạn khi xưa. Có thể thấy Trương Tam gia là người có lòng lành hết sức. Người tốt mà bảo phải chết là phải chết, chẳng hóa ra ông trời có mắt ư?" Nhạn Linh Nhi thấy Trương Tiểu Biện rất thực lòng, nên bất giác cũng tin vài phần, nhưng vẫn an ủi rằng: "Tam ca, huynh chớ những lời xui xẻo đó nữa. yên lành làm sao mà chết là chết được, cứ cho là Việt khẩu đánh vào Thanh Loa trấn , bọn muội cũng xả thân bảo vệ huynh mở đường máu, phá vây ra ngoài." Trương Tiểu Biện hiểu quân Nhạn doanh tinh nhuệ vô cùng, các tướng như Nhạn Bài Lý Tứ rất giỏi chỉ huy đánh trận. Việt khẩu kéo đến đỉnh Thanh Loa lĩnh tuy đông đảo nhưng chưa chắc được đánh vào trấn, riêng việc này yên tâm. Hơn nữa, vận đủ nhung trang khôi giáp, nai nịt đâu đấy, bên trong là giáp Hắc Thiền có thể tránh được nước lửa, còn giắt them súng ngắn trong bọc, đeo trường đao ở hông, trang bị từ đầu đến chân, có chỗ sơ hở nào, dẫu là súng Tây, pháo Tây bắn vào trước mặt cũng thể lập tức chết ngay được. Nhạn Linh Nhi bên cạnh cũng là xạ thủ có tài bách bộ xuyên dương, chỉ cần có cây loan cung đầu nhạn và bảy mươi hai mũi tên lông đuôi nhạn trong tay chẳng ai dám lại gần Tam gia trong trăm bước. Bố trí như vậy, kể cũng "ổn thỏa", vậy còn phải lo lắng gì nữa? Nào biết rằng ý trời khó lường, những thứ mệnh số sinh tử ấy người thường tuyệt thể dự liệu trước được. Nếu đúng là số chết đến dẫu cho có bản lĩnh lên trời xuống đất, cũng trốn đâu cho thoát, chừng, ngay cả khi ăn cơm cũng có thể nghẹn mà chết, uống nước cũng có thể sặc mà chết. Ông Gia Cát Lượng tài to thế, đáng gọi là đèn chiếu cổ kim, mưu sơ hở, biết trước được số mệnh hết mới bày ra bảy ngọn đèn Thất tinh để mượn tuổi thọ, rốt cuộc cũng bị Ngụy Diên xông vào trướng đá đổ đĩa đèn, khiến cho Gia Cát Vũ hầu cũng phải "sao rơi gò Ngũ Trượng". Thế mới biết, thời vận có thể đổi thay, duy chỉ số phận là khó biến cải, khó như là lên trời vậy. Đúng là: "Diêm vương phán canh ba; Ai cho được la cà đến mai." Lại , con người ta đời, dẫu là giàu nghèo, hay sướng khổ, bất kể là thánh hiền, hay ngu muội, có sinh ắt có tử, khi đại hạn đến, tên tuổi sổ Sinh Tử bị đánh khuyên vào, cũng khó thể tránh khỏi chuyện "nhắm mắt xuôi tay". Dù là đấng thiên tử đương triều, ở muôn vạn người, có núi vàng, núi bạc, giàu có tày trời cũng mua nổi ngày sống thêm, vì vậy lo lắng cũng có ích gì đâu? Có điều, chuyện tàn khốc nhất thiên hạ, chẳng gì hơn việc biết trước ngày chết của mình. Trương Tiểu Biện còn trẻ lắm, trước mắt còn cả thế giới tươi sang, tiền đồ phía sau còn rực rỡ, làm sao cam tâm chết, tự nhiên là ngẩn ngơ như kẻ mất hồn, kinh hoàng, bối rối, khó mà ung dung dứt bỏ cuộc sống cho được. Nhạn Linh Nhi cũng nóng ruột thay cho , chẳng lẽ con mèo La Hán này linh ứng đến thế hay sao? Hễ nó mở mồm kêu là chủ nhân nhất định phải chết hay sao? Chẳng lẽ còn chỗ nào để mà tránh họa hay sao? Trương Tiểu Biện thê thảm : "Tam ca ta vốn chưa đến nỗi phải chết, trước đây từng gặp dị nhân trong Miêu Tiên từ, được ông ta cho kế sách lạ có thể vãn hồi cơ trời, giữ được tính mạng. Khi nào con mèo già hướng về Tam gia mà mở miệng ta phải làm đúng theo chỉ dẫn ấy mới có thể vượt qua được tai họa này. Nào ngờ, lúc nào cũng giữ chặt bên mình mà đến giờ phút cần kíp nó biến đâu mất tăm, đó chẳng phải ý trời muốn giết ta hay sao? Xem ra, ông trời muốn lấy tính mạng này của ta rồi." Nhạn Linh Nhi tâm tư tỉ mỉ, nhắc nhở Trương Tiểu Biện: "Tam ca, nếu là vật quan trọng cất giấu trong người, làm sao Tam ca dễ dàng đánh rơi được? Mới vừa rồi, khi chúng ta vào trong hậu điện, muội còn thấy ống tre trong tay huynh mà, có phải là cái đó ?" Có câu rằng: "Trong cuộc tối, ngoài cuộc sang", Trương Tiểu Biện được người khác thức tỉnh bỗng ngộ ra, giơ tay vỗ vào đầu : "Đúng rồi, lúc gặp phải con Phương Lương ngưu, thấy con mèo ngẩng lên trời ngáp cái, Tam gia ta sợ nó mở miệng kêu nên thò tay rút ống tre từ trong bọc ra, sau đó... " nhớ lại lượt các việc trong đầu, liệu chừng đúng lúc bị Xà mẫu hành thích, trong khi tay chân hoảng hốt đút ống tre trở lại vào bọc, may mà chưa rớt đường , chỉ cần cái ống tre ấy chưa ra khỏi hậu điện Ngõa Quán tự, chẳng lo tìm ra. Trương Tiểu Biện thấy lóe lên hy vọng sống, đợi hết câu, vội vã cùng Nhạn Linh Nhi giơ đèn đuốc, tìm khắp nơi hành lang và cửa điện. Quả nhiên, thấy cái ống tre rơi chỏng chơ góc, xi vẫn gắn chắc miệng, chưa tổn hại gì, chắc hẳn trong lúc đám lính dõng Nhạn doanh hỗn loạn truy sát đàn cóc nhái đá văng nó lăn vào đây. Trương Tiểu Biện như người chết đuối vớ được cọc, buông được tảng đá đè nặng trong long xuống liền vui sướng như điên. vừa khen ngợi Nhạn Linh Nhi rối rít, vừa quýnh quánh chân tay mở cái ống tre ra. Chỉ thấy bên trong ống là chín con mèo nhắn bằng đồng, màu sắc cũ mèm, biết là cổ vật từ triều đại nào nữa, ngoài ra còn có bức tranh, đó ghi vài dòng chữ, soi dưới ngọn đèn đọc mấy lượt, hai người đều kinh hãi, há hốc mồm ngậm lại được. Nếu chiếu theo bức tranh này mà làm có đúng là tránh được trường đại kiếp sinh tử hay chăng? ra, cảnh tượng vẽ trong tranh là chín con mèo khoang vây lấy người. Trương Tiểu Biện thuộc lòng "Miêu kinh", nhận ra bức tranh này, đây là truyền thuyết lưu truyền trong thành Linh Châu từ thời cổ, tương truyền mèo có chín mạng, ngoài tính mạng của chính bản thân ra, còn có tám mạng "Linh Thành, Mộc Quan, Thiên Ngọc, Địa Áo, Thố Sư, Phát Vi, Kiến Kim, Định Hỏa" nữa. Những mạng đó đều có thể ngăn được hạn, chống được họa, nhưng mạng chỉ có thể ngăn được nạn, hơn nữa trong số đó duy chỉ có mạng Thủy, vì vậy người ta bảo rằng, mèo rất sợ nước. Năm xưa, khi Miêu Tiên từ còn khói hương nghi ngút, nếu có người nào mắc phải bệnh nặng khó chữa người ta chuẩn bị lễ vật rất hậu, giết lợn, bò, dê, gà, vịt, ngỗng, tổng cộng ba loài gia súc, ba loài gia cầm, mang đến đền để cầu Miêu Tiên gia ban thêm tính mạng. Thời ấy, thiện nam tín nữ rất tin vào điều này, mỗi khi gặp phải kiếp nạn thủy hỏa đạo tặc nhà nhà đều treo bức "Cửu miêu đồ", để cầu Miêu Tiên gia phù hộ cả nhà được bình an, phải chịu cảnh chết chóc. Tới cuối đời Minh, phong tục thờ cúng Miêu Tiên dần dần bị quên lãng, đến nay tuy người dân vẫn có tục thờ cúng Miêu Tiên nhưng ai tin chuyện "xin mèo ban tuổi" nữa. Lời chú thích bên cạnh bức tranh đại thể là: Doanh quan Trương Tiểu Biện của Nhạn doanh gặp phải hạn lớn, nếu tránh được trời vén mây mù, vinh hoa phú quý đến trong nay mai; nếu tránh được mất mạng, vinh hoa phú quý tan thành mây khói. Có câu rằng: "Mạng người đời, trời định sẵn". Nếu số phải chết vì nước chết vì lửa, thế nhưng rốt cuộc phải chết vì nước hay vì lửa chỉ có trời biết, đất biết, người lại biết. Con mèo Trường diện La Hán bẩm sinh có tính lành của nhà Phật, lại có mắt tuệ, có thể thấy được nhân quả lành dữ, có thể quan sát sắc mặt của người đời để dự cảm việc sống chết, họa phúc của chủ nhân. Nó chỉ cần trông ấn đường của chủ nhân có lằn tử khí lập tức mở miệng kêu lên, tỏ lòng thương tâm. Vì vậy, ai nghe thấy tiếng con mèo này kêu kẻ đó sắp phải chết, nhất định thể trông thấy mặt trời mọc sáng hôm sau. Chuyện này trăm lần linh nghiệm cả trăm, sai mảy may. Thuở trước, các cao tăng còn thường nuôi giống La Hán Sư tử miêu trong chùa để biết được ngày mình viên tịch. Thế nhưng, Lâm Trung Lão Quỷ thấy Trương Tiểu Biện khác hẳn người thường, trời sinh ra có mệnh của chúa mèo, biến số trong vận mệnh kỳ tuyệt vô song, hoặc cực giàu có, hoặc cực nghèo khổ, bao giờ cũng tránh kiếp tránh nạn được, phúc của bản thân cũng rất lớn. nay, tuy đến nơi sơn cùng thủy tận, tai họa vô biên sắp ập xuống nhưng chỉ cần vận mệnh nảy sinh biến số, họa may có cơ hội vượt qua kiếp nạn, xoay chuyển càn khôn. đúng là: "Lối chừng tắc, thêm đường mới; Nước đến tận cùng hóa vực sâu." Rốt cuộc, biết Trương Tam gia có thể cứu vãn được tính mạng hay , hạ hồi phân giải.
Hồi thứ 6: Biến Cố Kinh Người Lại , Lâm Trung Lão Quỷ để lại cho Trương Tiểu Biện kế sách vãn hồi cơ trời, xoay chuyển càn khôn. Cách này rất tà mị, chỉ chờ khi con mèo La Hán mở miệng kêu với chủ nhân, báo hiệu kiếp nạn sắp đến, lúc ấy nhất định phải tránh mưa, tránh gió. Tránh thế nào? Có nhà vào nhà, có nhà vào động, dẫu là đình chùa, miếu mạo hay là quán trọ, nhà dân phải lập tức vào, đóng chặt cửa lại, đợi đến khi trời hửng sáng mới coi như tránh được đại nạn chết người này. Ví thử ở chỗ đồng mông quạnh, chẳng có phòng ốc, nhà cửa nào phải tìm cách chạy vào hang núi hoặc nấp dưới hốc cây cổ thụ, tóm lại là phải vào nơi "ngẩng lên thấy trời". Sau khi nấp vào đó, dẫu bên ngoài có núi lở, đất nứt hay là phòng nghiêng nhà đổ, trời đất có xảy ra chuyện gì chăng nữa cũng phải coi như nghe, thấy, chỉ cần ngồi im động đậy, chưa đến giờ tuyệt đối được ra ngoài, nếu tai họa lập tức ập đến, chết ngay tại chỗ. Đến lúc ấy Đại La thần tiên cũng cứu nổi cái mạng nhép. Chín con mèo con đúc bằng đồng là cổ vật để báo hiệu thời gian trong hoàng cung đại nội đời Đường. "Cửu miêu hoán mệnh đồ" đều dựa hình dáng của mèo đồng mà vẽ ra, hết sức linh nghiệm. Mắt mèo được khảm đá Huỳnh thạch, lấp lánh như sao, tùy theo luân chuyển của mặt trăng, mặt trời, trong bóng đêm chúng phát sinh ra năng lực hoán đổi số mệnh; đến khi trời sáng chín cặp mắt mèo biến thành màu ảm đạm, còn ánh sáng, biểu thị vận hạn qua, vinh hoa phú quý từ nay về sau cần cầu mà tự đến, quan cao lộc hậu tùy ý được. Trương Tiểu Biện xem xem lại mấy món đồ trong ống tre. tìm được sống trong chỗ chết, giống như là: "Vén được mây mù trăng ló rạng; Hoa vùi tuyết gặp xuân về." nghĩ bụng, từ sau khi rời thành Linh Châu, sấp sấp ngửa ngửa đường, trời xui đất khiến thế nào lại vào trong ngôi chùa cổ Quán Ngõa tự này. Xem ra số phận của Trương Tam gia chưa dứt hẳn, chỉ cần nấp trong gian nhà này, đợi đến khi trời sang có gì mà khó? Bây giờ, dẫu thằng ranh Hoàng đế có hạ chỉ Tam gia cũng mặc kệ, chẳng rời khỏi đây nửa bước. Trương Tiểu Biện xuất thân từ đám du đãng ở đầu đường xó chợ, ngoài tính mạng của mình ra chẳng them để tâm đến thứ gì khác. Tính tình ngoan cố, bướng bỉnh của khi bột phát ra chuyện kháng chỉ chống lệnh cũng dám làm lắm. Trong long quyết như thế, liền bày biện cái quan tài rỗng trong gian hậu điện chút, biến nó thành cái bàn, đó đặt chiếc đèn, rồi căn cứ vào hình dạng to của chín con mèo bằng đồng, sắp xếp theo thứ tự ở dưới chân đèn. Đoạn, Trương Tiểu Biện ngồi bệt mặt đất, toàn thân nai nịt chỉnh tề, súng Tây và đoản đao cầm tay, canh giữ chín con mèo bằng đồng khảm Huỳnh thạch. Cứ vất vả chờ đợi hết giờ này qua giờ khác mà trời vẫn chưa tối, Thanh Loa lĩnh đổ mưa to bão lớn, ban ngày mà chẳng khác gì đêm đen. Tiếng mưa rơi, gió rít tuy rất dự dội, nhưng cũng vẫn khỏa lấp nổi tiếng xung trận, giết chóc vọng đến bên ngoài thị trấn cổ. Có nhiều lính dõng truyền tin chiến , phóng ngựa như bay về phi báo. ra, Thanh Loa trấn bốn phía đều là núi, chỉ có hai con đường thông được ra bên ngoài, Nhạn doanh chiếm trước chỗ hiểm yếu để cố thủ. Quân Thái Bình định nhân lúc mưa gió để đánh úp, kết quả là bị đẩy ngược trở về, song phương đều có tử thương. Những lúc chiến kịch liệt nhất, hai bên vung đao thương đánh giáp lá cà dưới mưa, chém giết đến mức phân biệt nổi địch, ta. Trương Tiểu Biện thừa cơ tỏ vẻ hùng, sai tất cả thủ hạ đều ra trợ chiến, đồng thời báo cho toàn doanh biết rằng, xưa nay có câu: "Thà làm ngọc vỡ chứ làm ngói lành", Trương Tam gia quyết ở lại trong Thanh Loa trấn, nửa bước lùi, cùng an hem toàn doanh đồng sinh cộng tử, nếu đánh lui Việt khẩu mọi người cùng trở về dâng công khen thưởng, mỹ nữ và vàng bạc muốn bao nhiêu có bấy nhiêu, nhược bằng bị thua Việt khẩu chúng ta tận trung báo quốc, bất khuất hi sinh. Hồi trước các an hem Nhạn doanh cùng ăn thề kết nghĩa, thề cùng sống chết, cùng phú quý, hôm nay chính là ứng vào lời thề lúc trước, chết cũng phải chết cùng chỗ, chôn cùng nơi. Trương Tiểu Biện xong, liền sai Nhạn Linh Nhi giở rượu thịt mang theo ra, làm ra vẻ "dẫu cho núi Thái Sơn có đổ ngay trước mặt cũng chớp mắt". Thần thái của tự nhiên như , ngồi trước cỗ quan tài, dựa lưng vào pho tượng đất trong điện, vừa xé thịt vừa uống rượu, dường như để ý đến tiếng gào thét chém giết như tiếng sấm chọc vào tai. Đám lính dõng đứng cạnh thấy thế, ai khâm phục, than rằng, doanh quan nghĩa khí hơn người, đời nay ít thấy, làm gì có ai hiểu được trong gan ruột còn bụng dạ khác, chỉ mực tưởng Trương đại nhân khí độ và đảm lược hơn người, coi quân giặc như , là đáng mấy phần bản sắc lục lâm: "Dạ hung trăng lu gió lớn; Chí trượng phu phóng hỏa giết người", chúng tôi giao chiến trước trận, sao dám dốc hết sức giết giặc chứ. Kỳ thực ra, tim Trương Tiểu Biện đập thùm thụp. định mượn rượu để xốc chút tinh thần lên, đồng thời, mong rằng uống nhiều ngủ quên cho hết đêm, đợi khi tỉnh dậy mây đen đầy trời tan hết. Có câu rằng: "Xuân, hạ, thu, đông đều uống rượu; Nam, bắc, đông, tây chếnh choáng say." Nhưng trong lòng u uất dẫu có uống bao nhiêu, rượu cũng trôi tuột bấy nhiêu, càng uống sắc mặt càng trắng bệch ra, mồ hôi, mồ kê ướt đẫm, chẳng thấy say được chút nào. Trước nay người ta thường bảo, thời gian vùn vụt thoắt về già, nào ai biết được thời gian giờ lại trôi rề rà chậm chạp đến thế. Trương Tiểu Biện cứ thế uống rượu quan tài, rồi ném mấy miếng thịt khô xuống đất cho con mèo Trường diện La Hán ăn. Nhưng, con mèo La Hán lại tỏ vẻ bồn chồn yên, chịu ăn uống, chẳng thèm để mắt đến miếng thịt khô mặt đất, đuôi mèo cứ phất qua phất lại thôi, thỉnh thoảng lại kêu lên mấy tiếng. Nhạn Linh Nhi lấy làm lạ hỏi: "Thiên hạ này sao lại có mèo chê mỡ. Con mèo La Hán này kỳ quái, dường như nó lo lắng điều gì? Liệu có phải trong chùa Ngõa Quán trấn Thanh Loa này sắp phát sinh đại gì ?" Trương Tiểu Biện cũng có cùng suy nghĩ ấy: "Cơn mưa hôm nay rất lạ lùng, cứ như nghiêng sông dốc bể ngừng. Lúc trước, đàn cóc nhái đội đất nhao nhao chui lên cũng là triệu chứng cực kỳ bất thường rồi. Có điều, dải Thanh Loa lĩnh có hình thể rất đặc biệt, trong chu vi ba chục dặm có bất cứ sông ngòi nào, vì vậy xưa nay bị lũ quét xâm hại, nghĩ chắc cũng đến nỗi toàn trấn bị ngập nước đâu." Chính lúc thế, bỗng tia chớp lóe lên làm gian điện sáng bừng, sau đó tiếng sấm nổ ầm ầm khiến cột trụ, mái ngói rung lên bần bật, trong khoảnh khắc, chớp giật sấm vang trời mà cứ ngỡ như ngay ở đỉnh đầu vậy. Trương Tiểu Biện và Nhạn Linh Nhi cùng ngẩng đầu lên quan sát, thấy mái điện có kết cấu theo kiểu xà ngang xuyên tâm, ngôi chùa cổ lâu tu bổ, trong cơn mưa gió bão bùng, chừng như lúc nào cũng có thể đột ngột sập xuống. Nhạn Linh Nhi thấy tiếng sấm có vẻ chẳng lành, chỉ lo mái điện bị sét đánh trúng liền khuyên Trương Tiểu Biện nấp sang chỗ khác nhưng Trương Tiểu Biện cứ theo lời của Lâm Trung Lão Quỷ, thà chết chịu chuyển chỗ. Thấy trời vào đêm, bây giờ mà ra ngoài hóa ra công cốc, thiên tượng tuy bất thường nhưng chỉ cần rời khỏi hậu điện Ngõa Quán tự nửa bước dẫu cho cái xà ngang kia có đổ xuống cũng chẳng đổ vào đầu Tam gia này được. Hơn nữa, người có mặc quan phục, há sợ gì sấm vang sét nổ. Lòng Tam gia ta như sắt đá, tối nay lòng đem tính mạng ra, coi như lông hồng, đợi được đến khi chín cặp mắt mèo đồng tắt ngúm quyết ra khỏi tòa hậu điện, dẫu sống chết cũng mặc lòng. Thế mới gọi là: " đời biến hóa bất thường; hùng biết co biết duỗi." Bắp tay tuy to, nhưng sao to được bằng đùi, người phàm đừng nên tranh với ông trời, rốt cuộc là sống hay là chết, chỉ đành nghe theo sắp đặt của đấng cao xanh mà thôi. Trương Tiểu Biện tuy mồm cứng, nhưng khỏi phấp phỏm yên, tự nhẩm lại những việc làm trước đây, thấy phảm phải những tội đáng trời đánh. Từ khi được Tuần phủ đại nhân đề bạt, rồi từ quan chuyển sang quân suốt ngày màn trời chiếu đất, thức khuya dậy sớm, chưa có nửa ngày nhàn nhã nào dẫn chúng huynh đệ Nhạn doanh vào sinh ra tử, lập nên biết bao công lao hãn mã. Tự vấn lương tâm, tuy chưa từng làm những việc thiện như "bố thí cơm chay, xây chùa dựng tháp, sửa cầu đắp đường, nuôi kẻ quả, kính già thương nghèo", nhưng Trương Tam gia cũng chưa bao giờ làm những việc thất đức khiến người ta phải nghiến răng, nhíu mày căm hận cả, những kẻ chết dưới tay toàn là phường đại gian đại ác. Nếu đến những tội ác khiến trời đất, quỷ thần phẫn nộ như: "bất kính với trời đất, bất hiếu với cha mẹ, mắng sư nhạo Phật, hãm hại con nhà lành" càng liên quan. Trương Tam gia trong bụng toàn là điều nhân nghĩa, giữa đường thấy chuyện bất bình chẳng tha, chịu nổi cảnh người khác phải thấy hoạn nạn, hễ gặp tất ra tay cứu giúp. Ví thử hôm nay thể qua nổi kiếp nạn này, phải bỏ xác lại đây thực là oan uổng quá. Trương Tiểu Biện chỉ sợ mình: "Oan ức đời này do trước định; Số trời khó thoát họa vào thân." Những chuyện trong cõi u minh, ai mà liệu được? Tiếng sấm nổ liên tiếp khiến phát run lên, nhưng tự nhủ rằng, Trương Tam gia hồi trước long đong lận đận, áo đủ che thân, cơm đủ ấm bụng, chỉ có mỗi ngôi miếu nát lạnh lẽo để dung thân, nếu gặp được Lâm Trung Lão Quỷ nào có được ngày hôm nay? Trước mắt chỉ cần giữ được cái mạng này coi như được rồi. Nghĩ tới đó, Trương Tiểu Biện dằn lòng xuống, nâng cái bát to lên uống hai ngụm lớn, rượu mạnh như thiêu đốt ruột gan, hai tai nóng bừng, can đảm hẳn lên, chẳng thèm để ý đến tiếng sấm sét tầng nữa. Trận sấm sét vừa mới nổ dứt đầu từ phía sau bệ thờ ở trong điện có tiếng sột soạt, dường như trong bóng tối có vật gì đó lao xao chuyển động. Nhạn Linh Nhu thấy việc quái dị, ngoái đầu bắn ra mũi tên, sau đó giơ đèn lên xem. ra bức tượng Phán quan cầm sổ Sinh Tử sứt đầu có con chuột già to chẳng kém mèo bao nhiêu bị mũi tên đuôi lông nhạn xuyên qua, đóng cứng, chết tươi trang sổ bằng đất, máu tươi giọt mặt đất, thấm đỏ mảng lớn. Trương Tiểu Biện thấy đó chỉ là con chuột già liền yên tâm, khen ngợi rằng: "Lục muội hổ là đệ nhất cung thủ của Nhạn doanh chúng ta, xem ra con chuột này... " Lời còn chưa dứt, bỗng thấy từ bệ thờ, cột điện, khe tường, xà nóc nhô ra vô số chuột bọ, rắn rết, trong đó, đến những con rết đầu đen và rết hai đầu cũng có, hiểu lúc bình thường bọn chúng nấp ở đâu và cũng biết trong khoảnh khắc, vì lý do gì mà chúng chen lấn, hò nhau chạy cả ra ngoài điện để chạy trốn như thế, tựa như dự cảm thấy có tai họa to lớn nào đó sắp giáng xuống vậy. Con mèo Trường diện La Hán cũng sợ chết khiếp, chỉ e chạy kịp liền lập tức đứng bật dậy, nhảy phắt lên nóc quan tài nằm im thin thít. Trương Tiểu Biện và Nhạn Linh Nhi cũng phát hoảng, cuống quýt tay hất, chân gạt, rốt cuộc cũng đuổi hết đám chuột bọ trong điện ra ngoài. Lúc ấy cũng quá nửa đêm, sấm sét trời cũng dần dứt, mưa lớn trong núi cũng ngừng hẳn, do chiến ác liệt nên toán lính dõng canh giữ chùa Ngõa Quán được phái trợ chiến. Trong gian sảnh điện lớn chỉ còn hai người và mèo, bên ngoài thỉnh thoảng ộp oạp vài tiếng ếch kêu, xung quang lại trở về trạng thái yên ắng có chút tiếng động, yên ắng đến mức sợi tóc rơi xuống đất tưởng chừng cũng có thể nghe thấy ràng. Hai người nghe thấy tiếng giao chiến đỉnh núi, hiểu rằng chắc là Nhạn doanh đánh lui được Việt khẩu. Trận này biết lại mất bao nhiêu huynh đệ, Nhạn Linh Nhi im lặng năng gì, Trương Tiểu Biện thấy ngoài song cửa trời lờ mờ sang, bên tai văng vẳng tiếng gà gáy tinh mơ, bất giác tới lúc bình minh. vội vã nhìn vào chín pho tượng mèo con bằng đồng, thấy những viên Huỳnh thạch trong mắt chúng biến thành màu xám như tro, ảm đạm phát sáng nữa. Trương Tiểu Biện thầm nhủ, vậy là nhặt được cái mạng này về rồi, tuy vừa bị trận sợ hãi nhưng rốt cuộc cũng tìm được đường sống trong chỗ chết. Đầu óc căng như dây đàn bỗng chùng hẳn xuống, lúc đó mới có thể thở phào nhõm, lẩm bẩm mình rằng: "Ai nấy đều bảo làm người chẳng khác con sâu, cái kiến, xem ra sai chút nào. Sống làm người chỉ sợ hưởng được phúc, chứ có khó khăn nào mà vượt qua được. Cả đêm vất vả, rốt cuộc Tam gia cũng vượt qua được rồi." nhớ đến em trong Nhạn doanh, trong lòng cuồn cuộn muôn niềm cảm khái, chẳng biết là vui hay buồn nữa. vươn tấm thân lười nhác, giắt lại khẩu súng Tây và ngọn đoản đao Thốn Thanh, phùng mồm trợn mắt thổi tắt ngọn nến nắp quan tài, sau đó ôm con mèo Trường diện La Hán, gọi Nhạn Linh Nhi, đá tung cửa phòng, chạy ra ngoài. Nhưng, Trương Tiểu Biện mới vừa bước ra đến sân, đột nhiên phát ra tình có điều kỳ quặc. Ánh sang nhấp nhoáng vừa rồi biến mất, xung quanh lại yên ắng như , trời nào sáng đâu? Bầu gian vẫn mù mịt mây đen khác nào muội than đáy nồi, thò bàn tay nhìn thấy ngón. Toàn thân Trương Tiểu Biện như bị dội gáo nước lạnh, run lên cầm cập, trong chớp mắt, ba hồn bảy vía bat đâu mất, miệng kêu lên: "Gặp phải ma rồi!" biết kiếp nạn vẫn còn chưa tới, vội vã nắm chặt tay Nhạn Linh Nhi, quay người chạy về. Chẳng ngờ, vừa mới quay đầu phát ra trong bóng đêm phía sau lù lù lên bóng người đứng im lặng, khoảng cách gần đến nỗi suýt nữa chạm mặt. Bóng hình đó như quỷ như ma, hề giống người sống chút nào, dường như hồn đeo bám chặt sau lưng vậy, hề có chút sinh khí. Nếu Trương Tiểu Biện quay người lại đột ngột thể tận mắt nhìn thấy được. Tới nước này kế sách vãn hồi cơ trời của giữa đường đứt gánh, đúng là: "Nhà dột vừa khi mưa rả rich; Thuyền đơn gặp phải gió ầm ào." Rốt cuộc trong chùa Ngõa Quán phát sinh ra biến cố gì, xem hồi sau .