Hồi thứ 3: Vua của tháp cổ Trước hết để mở đầu cho hồi này, có câu rằng: "Hiểu rộng đời chớ ra. Chỉ cần đầu gật với người ta. Nếu như đến mức đầu gật. Yên ổn tiêu dao ắt chẳng xa" về việc người ta phải chịu vô số phiền não, đau khổ đời, thực ra đều là tự mình chuốc lấy mà thôi, thế mới gọi là: "Thị phi cũng bởi lắm lời; Ưu phiền cũng tạo cố tòi mặt ra". Vì vậy, xin được khuyên quý vị, cho dù trong lòng có biết nhiều hiểu rộng bao nhiêu cũng đừng dễ dàng trổ ngón nghề trước mặt người khác, tránh rước vào những chuyện thị phi rắc rối vô cùng vô tận. Cũng chỉ vì Trương Tiểu Biện bày kế giết chết con Thát tử khuyển ở Hoang Táng Lĩnh, khi trở về khuênh khoang, tự thổi phồng ngón nghề cao cường của mình trước mặt mọi người. Dù sao chăng nữa, còn trẻ người non dạ, huyết khí phương cường, càng biết đến quy củ chốn cửa quan, kết quả là tự đẩy mình vào nơi đầu sóng ngọn gió. Giờ đây, khi trong thành Linh Châu xuất tượng mây mù biến hóa lạ lùng, đương nhiên đám quan lại đẩy họ Trương nhà thăm dò xem rốt cuộc là vật gì tác quái. Trương Tiểu Biện và Tôn Đại Ma Tử ngơ ngơ ngác ngác bị gọi đến cửa Nam, vẫn còn chưa xảy ra chuyện cháy nhà chết người gì. Mã đại nhân gọi họ đến bên cạnh, chỉ ngay vào đám mây mù dày đặc trước mặt, kết thành hình tòa tháp cổ rồi nguyên do. Nghe , trong thành Linh CHâu mấy trăm năm trước từng có tòa bảo tháp, hùng tráng nguy nga, cao vút mây xanh, được coi là vua của cổ tháp trong thiên hạ, trong tháo lại thường có tinh nấp, thỉnh thoảng phát sinh ra những câu chuyện kì quái đến rợn người. Trong đó, li kì nhất là những chuyện về kỳ quan" tháp", đồn rằng cứ mỗi sáu mươi năm lại xuất năm lần. Cách mười hai năm xung quanh thành Linh Châu lại nổi lên đám mù trắng, mặt trời chiếu vào ra vô số hình ảnh cổ tháp. Trong mây những bóng tháp lớn giống nhau, biến hóa muôn vẻ, tòa trước vừa mới mờ dần tòa khác lại xuất iện ngay sau đó. Thời gian xuất bóng tháp lâu nhất cũng quá nửa canh giờ, thường liên tục xuất 64 tòa bảo tháp. Tương truyền rằng, đó là các tòa tháp ở khắp nơi trong vòng trăm dặm, lên để triều kiến Tháp vương theo định kì. Về sau, cổ tháp trong thành Linh Châu bị binh hỏa thiêu hủy, từ đó tượng còn tồn tại nữa, đến người dân bản địa cũng mấy ai hay về truyền thuyết cũ này, Mã đại nhân là người thông hieur địa chí của nhiều địa phương, vì vậy mới biết hồi triều trước, đúng là có những hình tượng kì dị do ánh sáng tạo ra như thế, song mặc dù có ghi chép ràng nhưng những lí luận được đề cập đến đáng tin. tượng này giống như khúc xạ gây ảo giác. Vì tòa tháp vương quá cao đỗi, lúc nào đó, ánh mặt trời phản chiếu bóng tháp cổ Linh Châu lên tầng mây, rồi tùy theo biến đổi của những đám mây quần tụ trời mà xuất vô số bóng tháp biến hóa, sản sinh ra truyền thuyết về tượng " tháp" kì lạ. Những thể giờ hề giống xưa, hai hôm trước Việt Khấu đinh cho phá nổ thành nhwung được, lại khiến nhà cửa mấy nơi trong thành liên tiếp bị rung đổ, đúng vào nơi có di tích cũ của tòa tháp vương khi xưa. Lòng đất dưới đống đổ nát bị nứt toác ra khe hở, mù trắng bốc lên nghi ngút. Đám mây mù tựa hồ như có hình có chất, lơ lửng rồi ngưng tụ, biến hóa thành hình dạng tòa tháp cao, tượng lạ mãi biến mất. Mã Thiên Tích với Trương Tiểu Biện, tòa tháp cao làm bằng mây mù này có 16 tầng, hình dạng giống tòa tháp vương bị phá hủy thời xưa như 2 giọt nước, dường như tòa tháp cổ năm xưa như hiển linh vậy. Những chuyện lạ lùng này thể lí giải được, khiến quân dân trong thành hoảng hốt. Trong khi lòng người lo sợ, lời ngoa truyền nổi lên rất nhiều, ba bè bẩy mối, bây giờ chính lúc Việt khấu bao vây tấn công thành, chỉ cần sơ suất chút cũng được, bản quan định tìm mấy hỏa hán nhanh tay tinh mắt, có đảm lược hơn người vào địa động dưới chân đám mây mù chuyến để điều tra cho ngọn nhành. Trương Tiểu Biện nhanh nhảu tinh ý, hiểu tới khi Mã đại nhân xong hiểu tình, chuyện tới nước này, nếu từu nan thoái thác phải, mình làm cũng được, đợi đến khi bị Mã đại nhân điểm mặt gọi tên, chẳng bằng Tam gia ta phen này làm hảo hán, chủ động đứng ra. Vì vậy, tiến lên phía trước nhận lênh. Lần trước, trong Miêu Tiên từ, Trương Tiểu Biện gặp lại Lâm Trung Lão QUỷ lần thứ hai, được lão dạn dò rất nhiều chuyện. Lúc ấy, Lâm Trung Lão Quỷ từng bảo Trương Tiểu Biện muốn lên cao hay bay xa nhất định phải chịu mạo hiểm, thực mấy việc lớn mà người thường thể làm cho thành Linh Châu. Cái gọi là: "Vào sinh ra từ gì khác, chỉ muốn thành danh nổi bốn phương", chỉ khi nào có tiếng tăm mới có cơ hội phong hầu, phong tướng,chứ nếu cả đời cứ lo này lo nọm, có đầu rút đuôi, lên sợ cọp, quay về sợ beo vĩnh viễn chỉ là thằng vô danh tiểu tốt mà thôi. Những việc này đều can hệ đến chuyện thành bại, hưng suy, vinh hóa hú quý đời của Trương Tiểu Biện. Chuyện thứ nhất là bắt giết con Thần Ngao trong Hoang Táng lĩnh, đến nay làm xong, cái đầu có bị quan phủ cho treo suốt ngày đêm phố để thị chúng, còn việc thứ hai chính là việc liên quan đến tòa tháp vương, cũng là chuyện người thường thể làm được, may thay Lâm trung Lão Quỷ vạch ra đại thể đường nước bước, việc còn lại còn phải dựa vào sức của , tùy cơ hành động. Trương Tiểu Biện liền bẩm báo với Mã đại nhân, đại động tuôn ra mây mù trắng này đích xác là di chỉ cũ của ngôi chùa Tháp Vương ở Linh Châu trước đây. Cổ tháp bị tàn phá nhưng nền tháp vẫn còn trong lòng đất đến giờ, có điều dưới tòa tháp phải là địa cung mà là giếng nước rất sâu, đáy giếng có cái Phong Vũ chung, là cái chuông cổ đúc bằng đồng từ đời xưa. Mỗi khi mưa gió kéo đến, Phong Vũ chung liền tự ngân lên, thường rất linh nghiệm,. Hồi trước, cái chuông được đặt trong chàu để hưởng hương khói, về sau những tăng nhân trong chùa đem giấu vật này dưới đáy tháp để tránh nạn binh đao. ngưng tị mù trắng hôm nay chính là hơi báu xông lên từ đáy giếng, quá hai ngày tự động tan biến. Mã đại nhân nghe thấy hết rất kinh ngạc, bao giờ tưởng tượng tên du đảng rỗi việc ở đầu đường xó chợ như Trương Tiểu Biện lại thông kim bác cổ đến thế. Theo sách vở chép lại, đúng là có vật là Phong Vũ chung, nhưng tòa tháp bị hủy mấy trăm năm, nào ai biết có vật gì được giấu trong đáy giếng cổ ở đáy tháp. Trương Tiểu Biện dám là Lâm Trung Lão Quỷ tiết lộ thiên cơ, chỉ là từu chăm chỉ hiếu học, từng bái rất nhiều danh sư làm thầy, được cao nhân truyền thụ. Tục ngữ có câu: "Giếng đào ba lần ngọt nước; người được ba thày tài cao", chẳng những biết được thuật xem tướng mèo mà còn học được từ vị đạo trưởng thuật tìm kho báu, thông hiểu lai lịch các loại báu vật trong thiên hạ và các ngón nghề lấy báu vật khác. Mã đại nhân nghe lời lẽ của khỏi có chỗ ngôn quá kỳ thực. bán tín bán nghi, nhưng cũng thấy phần xác đáng, chắc có thủ đoạn để đối phó, lão ngoài mặt lộ vẻ gì, chỉ hơi gật đầu khen rằng: "Trương Bài đầu đúng là kỳ nhân vậy!" đoạn hỏi: "Ngươi có dám đem mấy thủ hạ xuống đáy giếng mò cái Phong Vũ chung lên cho bản quan được mởrộng tầm mắt ?" Trương Tiểu Biện bẩm rằng: "Ân tướng có chỗ chưa biết đấy thôi, trong đáy giếng này còn có hai con cá chép bảy vàng, chuyên môn canh giữ Phong Vũ chung, cho ai lại gần. Chúng sống lâu năm, có chút đạo hạnh, lính dõng tầm thường vào chỉ uổng mạng mà thôi. Tiểu nhân tuy bất tài nhưng nguyện cùng Tôn Bài đầu mang theo mấy chục con mèo khoang Linh Châu xuống đó. Liều trận thập tử nhất sinh, nhất định tìm được cách lấy đươc Phong Vũ chung, sáng ngày mai dâng lên công đường của ân tướng" Mã đại nhân : " là can đảm! Nhưng bây giờ khác trước, là lúc dẹp giặc, trong quân được đùa, nếu các người hoàn thành việc này, từ này về sau bản quan nhất định cất nhắc, trong dụng các ngươi" đoạn, lão căn dặn hồi, phái quân trấn giữ bốn phía cho những kẻ rỗi việc lại gần, cất toán lính dõng chuyên nghe Trương Bài đầu sai khiến, sau đó sai người tuần thị bố phòng trong thành. Trương Tiểu Biện tráng trước mặt mọi ngươi, nhưng thực chất trong lòng cũng chỉ nắm được dăm ba phần mà thôi. Nghe ý tứ trong lời của Mã địa nhân khác nào bắt mình lập tờ quân lệnh trạng, làm được mọi tốt đẹp, bằng mang đầu đến mà nộp. Tình thế như tên nắp dây cung, còn đướng rút, chỉ còn cách cầu mong Miêu tiên gia hiển linh phù hộ để Trương Tam gia mã đáo thành công mà thôi. Trương Tiểu Biện tìm mua ít bánh trái, dắt vào người rồi đến thẳng Miru Tiên từ. và Tôn Đại Ma Tử vào đến trong miếu, khấu đầu mấy cái trước Miêu tiên gia, dâng hai nén nhang rồi ngồi dưới đất sửa soạn, chỉnh đốn chút. Tôn Đại Ma Tử phục Trương Tiểu Biện đơn thương độc mã lấy thủ cấp của con Thần Ngao sát đất, vừa mới rồi lại thấy nhận công việc do Mã đai nhân sai phái, biết có diệu kế gì. Trong lòng gã cứ thấy lạ lùng nhưng dám đường đột ra, đến lúc đó mới hỏi cách hành thé nao. Có lời rằng: "Việc của quan, tham làm nhọc thân", hạn trong ngày đêm lấy được Phong Vũ chung liệu có quá gấp háp ? Đangra nên từ từ thương nghị kế sách hoặc xin thời hạn thong thả tốt hơn. Trương Tểu Biện tuy trong lòng chưa có cách gì nhưng ngoài mặt vẫn loam bộ thản nhiên như chưa có chuyện gì xảy ra, cũng chửng với Tôn Đại Ma tử mà chỉ ba hoa rằng" Nghĩ lại hồi trước, khi ở trong làng Kim Quan, đám ngu dân trong làng đâu cso xem ta ra gì? Chẳng qua hồi đó vì chúng ta còn nghèo khổ, bất đắc chí, âu cũng là việc thường của những hiền sĩ. Huynh đệ chúng ta mười năm mài kiếm, lưỡi gươm bén chưa từng thử lần nào, nay thời vận đến, hé mở tương lai được tài làm khanh tướng, Trừ việc xoay chuyển trời đất ra, còn có việc làm mà thể làm nổi? tề gia, trị quốc, bình thiên ha, tất cả nhwungx việc đó khỏi phải bàn" Trương tiểu Biện liến thoắng hồi, rồi bỏa là cần phải nghỉ ngơi dưỡng sức. Đoạn ngả đầu đánh giấc cho tới khi chập tối, lấy lại đầy đủ tinh thần cà sức lực, ăn chút lương khô lót dạ rồi nhổm dậy, mặc ý phục dạ hành Hắc Thiền của Miêu tiên gia vào người, đeo cái mặt nạ mèo lên đầu. bảo Tôn Đại Ma Tử cũng mau chóng thu dọn đồ nghề, mang theo các vật cần thiết như: dây thừng, gậy gộc, đèn đuốc... Khi ấy trời tối đen như mực, bầy mèo hoang trong Miêu Tiền từ tụ tập càng lúc càng đông, con Nguyệt ảnh ô đồng kim tuyến miêu àm Trương Đại Ma Tử thường mang theo cũng lẫn lộn trong đám đó. Mèo khoang Linh Châu coi con Kim Ngọc Nô là thủ lĩnh, trừ những con mòe nhà tản mác các phố cá ngõ ra, còn lại hầu như đều tập trung hết ở đây. Chỉ thấy bầy mèo có con béo, con gầy, con cao, con thấp, dữ có, lành có, đẹp có, xấu có, con tham lam, con lười nhác, mèo đực, mèo cái, lớn bé đầy đủ, kiểu nào cũng có, nhất thời quan sát hết. Trương Tiểu Biện thuộc lòng "Miêu phổ", thoạt nhìn biết bầy mèo hoang trong miếu phần lớn là loại mèo danh tiếng sản sinh ở Linh Châu, toàn là những con Trường Diện La Hán, Thiên Văn Tiền, Quả Kiều Kim, Bạc Nhĩ Tướng Quân, Tuyệt Kê Chủng, Viên Vĩ Hổ, Tảo Thượng Lãn, Thụy Thần Lô, Dạ Minh Đăng, Mao Chiên Tử... Tuy mỗi loại đều có hình dáng và tập tính riêng nhưng đều thuộc vào hàng mèo khoang cực quí. Trương Tiểu Biện vái bầy mèo cái rồi : "Tiểu nhân là Trương Tam, xưa nay rất sung bái Miêu tiên gia, hoom nay xin làm phiền các vị mèo ông mèo bà hãy bày trận mèo để giúp sức phen. tình rất quan trọng, rất mong các vị tri viện, giúp đỡ" đoạn, mọc trng bọc ra viên Hồ ky, xòe tay, giơ ra trước mặt con Kim Ngọc Nô cho nó nhìn. Ngọc Hồ ly thuộc dương, mắt mèo thuộc , đúng theo cái lý dương hút nhau. Bầy mèo khó tránh được tò mò trước vật này, liền nhao nhao bao vây xung quanh nhìn chằm chặp. Trương Tiểu Biện thấy cơ hội đến, liền đưa mắt nháy Tôn Đại Ma Tử, trong tay cầm chắc viên ngọc nhảy qua vòng vây, rảo bước chạy về phía cổng thành. Bầy mèo hoang ngẩn ra cái nhưng cũng đều muốn xem xem viên ngọc rốt cuộc là vật gì, liền chạy theo đuôi con Kim Ngọc Nô cầm đầu. Cả đoàn rồng rắn lên mây dài cả con phố. Dưới ánh trăng trong lạnh lẽo, hàng trăm con mèo hoang cứ thế chầm chậm, chạy về phía giếng cổ của chùa Tháp Vương. đúng là: "Mới vào trong núi bắt thần khuyển; Lại xuống giếng sâu đánh chép vàng"Muốn biết thể thế nào, xem hồi sau phân giải. Hồi thứ 4: Phong Vũ Chung "Trải bao thỏ lặn ác tà, khi xưa bể biếc nay là ruộng dâu." Phàm là kẻ có bản lĩnh việc thăng tiến ngoài ba con đường. là học được tài văn võ, bán thân cho đế vương, ra sức vì triều đình, mưu đồ phen vinh thân phì gia, quan cao lộc hậu; hai là dựa vào nghề nghiệp của bản thân để nuôi sống gia đình, tuy rằng vất vả cực nhọc nhưng có thể sống yên ổn cả đời; ba là vào nơi rừng xanh núi đỏ, chỉ có thể làm những hành vi vô pháp vô thiên, lớn lấy vàng, bé cướp bạc, lương cùng đói, có thịt cùng ăn, thế gọi là "chia vai tụ nghĩa". Nhưng hiểu sao, nhiều người có tài nghệ cao cường, cả đời cố gắng phấn đấu mà rốt lại áo chẳng đủ che thân, cơm đủ ấm bụng, phải sa vào cái cảnh bằng được đám ngu dốt, bất tài? Tất cả cũng vì con người ta có cơ duyên, vận mệnh rất khác nhau mà thôi. Cái gọi là "tài cao phận mỏng, tài hèn số hên" tức là việc giàu sang hay nghèo hèn của mỗi con người, xưa này chỉ bàn đến số mệnh chứ bàn đến tài năng. Dẫu cho có tài cao chí cả đến thế nào chăng nữa, nếu số mệnh của cần đến nó rốt cuộc tài nghệ đó cũng có đất thi triển. Trương Tiểu Biện học thuật "Xem mèo" của Lâm Trung Lão Quỷ, vốn cho rằng chẳng qua chỉ là những tạp kỹ linh tinh như giả tiếng gà, ăn trộm chó mà thôi. Bọn mèo nhà, mèo hoang trong thành Linh Châu, con nào con nấy phàm ăn, lười nhác, biết xây nhà lại biết nấu cơm, lúc Tam gia ta chịu đói rét có thể hy vọng chúng giúp đỡ được trò trống gì? Nào ngờ đâu khi thời vận đến, cái "vô" cũng có thể biến ra cái "hữu", tự nhiên gặp được cơ duyên trời cho, rốt cuộc cũng phải dựa vào tương trợ của bầy mèo hoang Linh Châu để làm nên nhiều đại kinh thiên động địa. Đúng thực là: "Bảo mèo có đạo? Đạo mèo thực có dòng. Có nhiều điều kỳ lạ. Xưa nay khó hình dung." Lại đêm ấy, trăng sáng vằng vặc trời, chiếu lung linh vạn dặm, dưới màu bàng bạc, Trương Tiểu Biện và Tôn Đại Ma Tử dẫn đàn mèo hoang, băng ngõ vượt phố đến thẳng di chỉ của chùa Tháp Vương. Lúc ấy, trong thành sớm ban lệnh giới nghiêm, nhà nào nhà nấy đống chặt cửa ngõ, đường phố lạnh bóng người, chỉ thi thoảng mới có mấy tốp lính dõng Linh Châu cắp đao thương tuần phòng, giới bị. Trong đống đổ nát của nhà dân, mặt đất nứt ra khe sâu, bên trong hơi mù dày đặc, từ ngoài nhìn vào thể biết nông sâu ra sao, bốn phía có toán lính dõng canh chừng, tất cả đều cầm đèn lồng, giơ đuốc sáng. Trương Tiểu Biện lấy của họ hai ngọn đèn lồng rồi cùng với Tôn Đại Ma Tử, mỗi người cầm ngọn trong tay, dẫn đàn mèo hoang chui thẳng vào đám khói mây mù mịt. Chỗ này mấy trăm năm trước từng là nền móng phía dưới của tòa tháp cao, lòng đất vẫn còn thấy được nhiều gạch đá, đất nện, nơi sâu nhất có miệng giếng sâu. Do nền tháp bị toác ra nên cần phải ròng dây mới xuống được dưới giếng, hai người mò mẫm trong đống gạch ngói đổ nát để xuống phía dưới, thấy khí lạnh lẽo ẩm ướt càng lúc càng dày, tường giếng chỗ nào cũng nghi ngút hơi nước. Giếng cổ trong chùa Tháp Vương miệng bé nhưng lòng rộng, đáy giếng là cái động đá thiên nhiên, đối diện với lòng giếng là đầm nước sâu khôn lường. Nguyên là các khe vực trong thiên hạ được chia thành "ba mươi sáu mạch, bảy mươi hai mắt", đều về các đầm, giếng, khe, suối cực sâu cực thâm u. Giếng cổ này chính là trong số đó, phía Tây giáp với hồ Động Đình tám trăm dặm, phía Đông liền với biển lớn mênh mông. Từ hồi xưa, chừng vào đời Đường, trong phạm vi mấy trăm dặm của thành Linh Châu thường có tai họa xuất , phải là hạn khô đồng ruộng, cũng là lũ lụt tràn ngập, mười năm đến chin năm có thiên tai khiến cho thóc lúa đắt đỏ, người dân hết đường sống. Triều đình cho rằng, chắc chắn trong giếng cổ nghìn năm của thành Linh Châu có con rồng già tác tác quái, vì vậy mới mời vị cao tăng tới trấn yểm, đồng thời hạ chỉ xâu ngôi chùa lên . Vì vậy, người ta mới xây tòa tháp cao, sơn son thếp vàng lên miệng giếng, lại cho hương khói thờ cái "Phong Vũ chung" để cầu cho mưa thuận gió hòa. Cái chuông này có thể biết trước gió mưa, mù tạnh, là báu vật trấn chùa trong chùa Tháp Vương. Tương truyền, khi Đại Vũ trị thủy, được nhiều quỷ thần trợ giúp. Có lần khơi thông đường sông trong núi sâu, gặp phải trận mây mù kín trời, giữa ban ngày mà xòe bàn tay thấy ngón, bỗng may thay, có con lợn rừng to mồm ngậm viên mình châu chạy lại dẫn đường, đồng thời, miệng ngừng hút mây mù nghi ngút xung quanh, Vũ vương nhờ thế mới dẫn đầu mọi người khơi thông được dòng nước trong mây mù. Kỳ thực ra, viên mình châu đó chính là viên Huỳnh Quang Khoáng Thạch hiếm có, có thể nuốt được mây mưa. Phong Vũ chung có khảm vật này vào, nên vào ngày thường phía chùa Tháp Vương vẫn xuất các cảnh tượng mây núi kỳ lạ. Có câu rằng: "Cảnh đẹp khó được lâu; Lưu ly dễ vỡ, mây mầu chóng tan." Về sau này, mỗi lần thay đổi triều đại, đao binh dấy lên khắp nơi, thành Linh Châu cũng tránh được tàn phá của ngọn lửa chiến tranh. Các cao tăng trong chùa Tháp Vương sợ Phong Vũ chung bị hủy trong loạn lạc mới ngầm giấu trong giếng cổ dưới chân Tháp Vương, lại sợ có kẻ tới trộm bảo vật liền xích cái chuông đồng đó vào hai con "Đà ngư". Đà ngư phải là động vật ở Trung Thổ mà vốn là loài lưỡng thê lạ do vị tăng nhân người Ấn Độ mang từ nước Bà La Cam Tư đến. Loài này tuổi thọ còn hơn cả rùa, chúng có hình dáng giống như con cá chép vảy vàng, lưng có mai cứng như giáp, ở dưới nước mạnh mẽ vô cùng. Nếu có kẻ nào tơ tưởng đến việc lấy trộm Phong Vũ chung là bị bọn Đà ngư giết chết ăn thịt dưới nước, hai là làm chúng sợ, kéo cái chuông đồng lặn sâu xuống đáy nước mấy chục năm đến cả trăm năm cũng xuất nữa. Trương Tiểu Biện và Tôn Đại Ma Tử mò đến cạnh đầm nước, giơ đèn lồng rọi ra bốn phía, chỉ thấy làn nước phẳng lặng như gương cũng rộng lắm nhưng lớn hơn miệng giếng thường rất nhiều, ước khoảng bằng bốn cái bàn Bát tiên ghép lại. mặt nước có từng đợt mù trắng nghi ngút bốc lên, càng lên cao càng tỏa rộng, xung quanh đầm nước và đáy giếng lại có chút khói mù nào. vách giếng và trong động có vô số pho tượng Phật bằng đá, to khác nhau, pháp tướng thiên biến vạn hóa, tư thế rất trang nghiêm. Đàn mèo do con Kim Ngọc Nô dẫn đầu cũng nối gót nhau kéo đến. Cả ngày, chúng đều lang thang khắp thành Linh Châu, từ hang cùng ngõ hẻm đến phủ to nhà lớn, "giữa cột đồi mồi, lầu uyên ương, bên trong gác son, đằng sau rèm lụa, trong thành, ngoài thành",chẳng chỗ nào mà chúng quen thuộc, nhưng xưa nay chưa bao giờ từng xuống đến giếng cổ này cả. Thấy cảnh đá nước lạ lẫm trong hang động dưới đáy giếng, chúng đều rất tò mo, tụ tập lại chỗ giương to hai mắt, nhìn ngó bốn phía. Trương Tiểu Biện chỉ vào chỗ có mù trắng bốc lên rồi với Tôn Đại Ma Tử: "Chỗ nước đó chính là nơi giấu Phong Vũ chung, nếu có cách lấy được vật này lo gì chẳng đổi được chức quan cao lộc hậu, có Hoa linh cài mũ... " Tôn Đại Ma Tử kinh ngạc, : "Ta hỏi này Trương Tam, chuyện bí mật thế này đệ nghe được từ đâu mà lại nắm tường tận như thế? Hơn nữa, Phong Vũ chung là bảo vật tối quan trọng của Linh Châu, xưa nay nắm giữ việc điều hòa mưa gió trong vòng trăm dặm, chúng ta sao dám mạo muội làm kinh động đến nó? Chẳng lẽ ngươi lại gặp phải lão quỷ trong mộ Kim quan rồi ư? Chớ quên rằng chúng ta bị rước họa vào thân ở Hòe viên lần trước,cứ thế mà suy, chớ tin vào lời ngôn của lão ta. Đối với chúng ta, lão vị tất có bụng tử tế gì." Trương Tiểu Biện thuận miệng lấp liếm: "Mộ Kim quan là ngôi mộ hoang, lấy đâu ra lão quỷ nào? Tam gia ta được truyền dạy thuật xem mèo và tìm của, chẳng qua cao nhân lộ tướng, mà lộ tướng chẳng phải cao nhân đấy thôi. Chính vì vậy, từ xưa đến nay chưa bao giờ thi triển ngón nghề trong làng Kim quan. Tới giờ, Phong Vũ chung dưới đáy giếng ngưng tụ mây mù, hiển ra hình dạng tòa tháp, khiến cho lòng quân dân toàn thành yên, huynh đệ chúng ta sao có thể khoanh tay đứng nhìn được?" Lại tiếp rằng, cái Phong Vũ chung chôn giấu trong giếng cổ chẳng qua chỉ là cổ vật có khả năng kết tụ mây mù, sao có thể quản được việc điều hòa mưa gió? Linh Châu của chúng ra từ xưa mèo nhiều cúng bái cũng nhiều, những thứ như: chùa Tháp Vương, Kim Quan thôn, Long vương miếu, Miêu Tiên từ... nhiều đếm xuể, người dân cúng hết thần tiên, phật thánh của chín mươi chín tầng trời, nhưng hễ năm nào gặp phải thiên tai hạn hán vẫn hoàn hạn hán,lụt lội vẫn hoàn lụt lội, Phong Vũ chung nào phát huy được tác dụng gì? Nếu phải năm đó, Miêu Tiên Đàm đạo nhân diệt trừ được con "hỏa trùng" thành Linh Châu sao có được cảnh phồn hoa như ngày hôm nay? Chính vì vậy mà mới , mọi vật trong gầm trời này xưa nay đều là "bởi đâu đất hiểm cốt mình đức cao" mà thôi, nếu người đời chẳng làm những việc có đức dẫu cho có bảo vật cũng linh nghiệm. Tôn Đại Ma Tử là người thẳng đuột ruột ngựa, nghe xong ngẩn ra mãi mới : "Việc này", rồi lại nghĩ ngợi lát, rốt cuộc cũng lờ mờ hiểu ra liền gật đầu : "Ờ... quả là có lý, mỗ chỉ là thất phu lỗ mãng, chịu đất, chịu trời, nhưng về mặt ngoan, cơ trí còn kém Tam đệ bậc. Theo Tam đệ, chuyện này nên xử lý thế nào?" Trương Tiểu Biện : "Đầm nước dưới đáy giếng sâu tới mức thông ra đến biển, bên trong lại có cá già thành tinh, nếu cứ mạo hiểm xông xuống, chỉ e bị con thủy quái lôi đến tận Long cung bắt làm con rể Long vương mà thôi. Nghe đồn, Long nữ phải là nương hoa nhường nguyệt thẹn gì đâu, mà nào nấy xấu như ma lem. Nếu đúng là như thế Tam gia ta chẳng thèm. May mà chúng ta dụ con Kim Ngọc Nô đến dưới giếng cổ chùa Tháp Vương này, huynh đệ chúng ta chỉ cần nấp bên đợi, làm kế ngao cò tranh đấu, ngư ông đắc lợi là được. Hãy xem đàn mèo hoang giở trò gì." Tôn Đại Ma Tử hiểu nổi, mấy con mèo hoang làm được trò trống gì. Gã bán tín bán nghi, đành phải nhẫn nhịn cùng Trương Tiểu Biện trèo vào trong cái bệ Phật vách giếng, giơ hai ngọn đèn lồng soi sáng vùng đầm nước lạnh lẽo yên ắng, đúng là: "Rãi xong lớp thính thơm phưng phức, chờ đợi con mồi đến đớp câu." Lại về mèo hoang Linh Châu thích nhất là cá tanh, từ xưa có thói quen đứng cạnh mép nước để xem cá. Hơn nữa, mấy năm gần đây, vùng này thiên tai dịch họa liên miên, chẳng mấy người đến Miêu Tiên từ để cúng dường cá tươi, đến cá ươn tôm vụn bọn mèo cũng còn khó thấy. Lúc ấy, thấy dưới đáy giếng có cá bơi, bọn chúng đều muốn mon men đến sát lại để nhìn cho bõ thèm. Nào ngờ, khi bọn mèo hoang vừa đến sát mép đầm bọt nước đột nhiên tung lên, từ bên trong lao vọt ra cái đầu cá to. Hình dạng con cá rất kỳ lạ, vẩy bạc sáng lòa, con mắt như cái bát lớn khiến lũ mèo hoang cả kinh thất sắc, vội vã tản ra tứ phía nấp. Trong đó, có con "Táo Thượng Lãn" là đần độn nhất, tuy may bị kéo xuống nước nhưng vì nấp chậm nửa bước, nên bị con quái ngư hất cái bắn tung ra ngoài, rơi xuống đống tượng Phật. Con mèo lười bị gãy chân, kêu gào thảm thiết. Con Đà ngư ngày thường ăn cá, ếch, rùa, rắn trong đầm, rất giỏi lôi chó hoang, mèo hoang xuống nước ăn thịt, lúc ấy tấn công trúng, cũng là việc nằm ngoài định liệu, nó liền xuống đáy nước nằm phục, động đậy. Bầy mèo hoang Linh Châu nếm mùi lợi hại, dám mon men đến gần mép nước nữa, chỉ có con Kim Ngọc Nô toàn thân vằn vện dẫn mèo hoang lớn đến xem xét tình hình của cái chân gãy của con Táo Thượng Lãn kia, tỏ vẻ thương xót. Bọn mèo thấy đồng bọn bị thương đều tức giận, chịu bỏ qua chuyện này. Bầy mèo hoang gừ gào to tựa như bàn luận hồi, con mèo Táo Thượng Lãn liền lê cái chân khoèo, cà nhắc từng bước về phía vách giếng rồi dán chặt người vào đó, cũng biết nó dùng cách nào, chỉ thấy nó dựa vào đá nhảy nhảy mấy cái, tuy đau tới mức kêu ngao ngao ầm lên nhưng rốt cuộc cũng nối được chỗ xương gãy. Đám mèo hoang còn lại thấy xương chân của con Táo Thượng Lãn còn đáng ngại, liền chia nhau chạy ra ngoài giếng, trong chớp mắt bỏ sạch . Trương Tiểu Biện cũng bọn chúng rốt cuộc định làm gì, đành phải cùng Tôn Đại Ma Tử chờ trong lòng giếng mất hơn canh giờ. nghĩ bụng bọn mèo hoang chắc trở lại, bỗng thấy đàn mèo mang về con mèo già to béo dị thường. Con mèo già đó béo kinh khủng, e nặng đến mấy chục cân, khắp mình lông lá bờm xờm, che kín cả tai, mũi và hai mắt, lại bẩn thỉu lem luốc, hễ đụng cái là chấy rận rơi lộp bộp, điệu bộ cũng hết sức chậm chạp. Trương Tiểu Biện và Tôn Đại Ma Tử ngầm ngạc nhiên, chẳng hiểu bầy mèo hoang mời đâu ra vị "quan gia" này, tuy nhiên, Trương Tiểu Biện có thuật xem tướng mèo, hiểu rằng, chớ tưởng lầm nó chỉ là con mèo già bẩn thỉu bờm xờm. Râu và lông của nó đều dài, lông có hai màu vằn trắng, râu chia thành hai màu vàng đen, đầu tròn, vuốt ngắn, thân hình béo mập như cái hồ lô, xuống nước chìm. Đó chính là loại mèo cổ từ thời Tùy, Đường, người đời gọi là " Độ thủy hồ lô miêu", là loại mèo tầm thường, có xuất xứ kỳ lạ vô đối, nếu mà ra đúng là: "Tự cổ chí kim chưa chắc có; Tạo trời mở đất mà thôi." Muốn biết thể ra sao, hạ hồi phân giải.
Hồi thứ 5: Độ thủy hồ lô miêu Thường có câu rất hay rằng: "Năm ngón tay bàn tay cso ngón ngắn ngón dài" Câu đó để hình dung về con người trong khắp thiên hạ, tuy đều có đầu đặt hai vai nhưng nếu đem so sánh với nhau xấu đẹp, thiện ác, cao thấy, gầy béo, văn tài võ nghệ, khác nhau nhiều lắm, thể đánh đồng tất cả được. Người thế nào mèo thế ấy, giả dụ như con mèo giỏi bắt chuột cũng giống như người biết ha miệng ăn cơm, đều là những tập tính bẩm sinh, có gì lạ lắm. Mèo nhà, mèo hoang trong thiên hạ, ngoài việc biết bắt chuojt trèo cây ra tùy vào phẩm cấp, chủng loại khác nhau có các năng lực muôn màu muôn vẻ, làm sao có thể nhất nhất đánh đồng được? Chính vì vậy có loại mèo giỏi bắt chuột giữ nhà, có loại mèo chuyên môn ăn vụng bắt sẻ, ngoài ra chúng còn có rất nhiều năng lực kì lạ, ít nghe thấy khác, thể kể hết trong sách được. Trong hồi này riêng về những năm giữa đời Tùy và đời Đường. Đường Vương là Lý Thế Dân dẫ quân đánh đông dẹp bắc, hôm mình ngựa do thám trại giặc, kết quả là lộ hành tung bị đại đội quân giặc truy sát, bỏ chạy đến bờ Hoàng Hà. Chạy vào đường cùng, sắp sửa bị bắt sống, nhưng ông ta là Chân long Thiên tử, có được thần linh phù trợ, trong lúc nguy cấp ngàn cân treo sợi tóc ấy, nống thấy sông Hoàng Hà có con mèo khoang giống như cái hồ lô, dập dềnh sông, theo dòng nước từ thượng nguồn trôi xuống. Lý Thế Dân vội vã nhảy xuống nước, hai tay nắm chặt vào đuôi con mèo, quẫy đạp để sang bờ bên kia, thoát khỏi truy kích cảu quân địch. Chuyện này về sau, ngay cả ông ta cũng cảm thấy kì quái, đời sao lại có con mèo biết bơi, liền đem ra hỏi đám bộ hạ. Có người tên là Từ Mậu Công, là kỳ nhân hiểu rộng biết nhiều, trước tiên chúa công: "là người có hồng phúc, tự nhiên trời phù hộ", sau đó mới về loài: "Độ thủy hồ lô miêu" Loại Hồ lô miêu này tuy bảo là mèo nhưng kỳ thực phải mèo. Vóc dáng của chúng to lớn hơn mèo thường nhiều, đáng ra nên xếp riêng ra 1 loại " Ly miêu" ở trong núi sâu. Người chúng có dáng tròn, lông dài, đuôi dài, tính khí khác thường, có thể bơi lặn qua sông lớn, bắt cá tôm dưới nước để ăn, có thể bảy ngày bảy đêm ngoi lên bờ. Bọn mèo hoang trong thành Linh Châu gặp phải vận đèn trong miếu cổ của chùa Tháp Vương, nếu ngày thường chúng cũng gập đắng nuốt cay cho qua vì biết bơi, bắt cá. Tuy nhiên, con Kim lân Đà ngư trong đầm sâu lại là mọt loài trăn quý của nước Bà La Cam Tư, nếu có thể ăn thịt nó có thể kéo dài tuổi thọ. Bầy mèo hoang ngửi thấy mùi tanh đời nào chịu thôi, liền quyết định phải ăn bằng được hai con Đà ngư dưới đáy giếng này. Bầy mèo hoang thấy con Đà ngư dưới nước rất lợi hại, chắc hẳn khó lòng đối phó. Con Kim Ngọc Nô đầu đàn hết sức khôn ngoan lắm mẹo, cũng chúng bàn bạc tính toán thế nào, rốt cuộc tìm con Độ thủy lô miêu về giúp đỡ. Chỉ thấy con Hồ lô miêu nọ lê tấm thân lờ đờ chậm chạp, lắc la lắc lư đến bên bờ đầm nước. Nó trực tiếp bơi xuống mà tìm chỗ hết sức tối và ẩm, dùng móng vuốt bới gạch đá mặt đất . Dưới đáy giếng ẩm thấp lâu năm có rất nhiều loại côn trùng độc như nhện, rết,... béo múp, đèn đỏ lốm đốm, độc đại vô cùng, thấy bị mất nơi nấp, chúng liền nhao nhao chạy ra, tranh nhau cắn chích con Độ thủy hồ lô miêu to mập. Con Hồ lô miêu thịt thô da dày, chịu được chất kịch độc. Bị bọn rết và bọ cạp cắn chúng, toàn thân nó từ đầu đến đuôi đều sưng phồng lên, nhưng những con trùng kia phun hết nọc độc cũng lăn đùng ra, giãy giụa rồi chết ở xung quanh. Trương Tiểu Biện và Tôn ĐẠi Ma Tử ở bên cạnh xem mà cả người nổi da gà, Con hồ lô miêu bẩn thỉu thu hết nọc độc, thấy cũng đủ rồi liền phì phò bò đến bờ đầm, nhúng cái đuôi mèo dài thượt xuống nước. Toàn bộ uy lực của loài mèo nằm ở đuôi, vượt tường trèo cây đều do cái đuôi quạt gió giữ thăng bằng. Có nhiều nàh giàu chỉ nuôi mèo làm cảnh, chẳng cần chúng bắt chuột, để đề phòng chúng chạy chơi khắp nơi, liền cố ý cắt phứt cái đuôi mèo , con mèo lập tức biến thành con vật ngoan ngoãn dễ bảo, chẳng làm nên trò trống gì được nữa. Đuôi của con Độ thủy hồ lô miêu chia làm chín đốt. Xét theo miêu phổ lông đuôi mèo quý ở chỗ dài, đốt đuôi quý ở chỗ ngắn, lại thêm, cái đuôi mèo càng dài và tấn suất vẫy đuôi càng cao con mèo đó càng nhanh nhẹn, có thể bắt chuột biết mệt mỏi. Nhưng cái đuôi của con Hồ lô miêu này vừa thô vừa tròn, là đuôi của con mèo vừa lười nhác vừa ham ngủ, lúc xuống dưới nước nổi phập phềnh như cái thuyền. Hai con Kim Lân Đà ngư canh giữ Phong Vũ chung đều có chút đạo hạn, những lưới cá, câu thính thông thường đều qua được mắt chúng. Bỗng trông thấy cái đuôi mèo mặt nước, chúng ruốt cuộc là vật gì, dường như hơi giống với rắn nước nhưng lại chậm chạp hơn chút, nếu bảo là cỏ nước sao lại có mùi tanh kì lạ như thế? Cặp Đà ngư tuy rất nghi ngờ những kìm được thèm thuồng liền rẽ nước bới đến gần, há miệng đớp đuôi con Độ thủy hồ lô miêu. Con Hò lô miêu vừa bị trùng chích đốt tơi bời nên da thịt toàn thân đều có chất độc. mình Đà ngư cũng có bảy túi độc, khi trúng độc theo phản ứng tự nhiên cũng dồn nọc độc ra để chứ ngự trở lại. Hai con Đà ngư đớp chặt cái đuôi mèo chịu buông, chẳng bao lâu sau nhả hết chất độc trong người. Đà ngư ăn tươi nuốt sống nhện nước, rắn nước kịch độc, tính khí toàn thân đều nằm cả ở đó, bây giờ nhả hết nọc độc ra, lập tức mình mẩy mềm nhũn, thoát lực, quẫy độc nổi nữa. Con Hồ lô miêu nhân cơ hội, vẫn sức kéo đuôi, lôi hai con đà ngư lên bờ. Những con mèo hoang khác, mắt vằn đỏ, gào lên rồi lại nhao lại bao quanh bốn phía. Hai con Đà ngư biết mình rơi vào vòng nguy hiểm, vội dùng hết sức lực cuối cùng, quẫy đầu vẫy đuôi định trốn xuống nước, nhưng sợi xích chúng bị thân hình con Hồ lô miêu to béo đè chặt xuống, đúng là" lợn béo vào nhà đồ tể; chui nhầm tử lộ trốn sao ", đành mặc cho đám mèo hoang lóc sạch từng mảnh vây cá, để lộ ra mỡ thịt khắp mình dầm dề máu đỏ. Bọn mèo hoang Linh Châu như gió cuốn mây tan, ăn thịt hai con Kim Lân Đà ngư trận sung sướng, quả nhiên mùi thịt tươi rất ngon. Bầy mèo hoang con nào con nấy rất thỏa mãn, hài lòng, sớm quên phắt viên ngọc kỳ quái. Đoạn chúng kêu meo meo mấy tiếng, lặc lè tiền hô hậu ủng, đưa con Kim Ngọc Nô và con Đọ thủy hồ lô miêu ra ngoài. Trương Tiểu Biện và Tôn Đại Ma tử vọt ra khỏi chỗ nấp sau tượng Phật đá, tìm dây xích từ trong đám xương vụn của hai con cá chết, cùng hợp sức kéo chầm chậm đưa Phong Vũ chung lên bờ. Cái chuông đồng dài xấp xỉ thước, toàn thân màu xanh lục, chỗ gỉ loang lổ màu đỏ của chu sa, thủy ngân, thân chuông đúc nhiều hoa văn hình dị thú, cá rồng, song nước, từ bên trong nhà ra từng đường khói mù mong mỏng giống như mây lành bao bọc. Trương Tiểu Biện dùng đốt ngón tay gõ thử, thấy tiếng vang trong trẻo, hơi lạnh, biết đúng là bảo vật, trong lòng rất mừng rỡ, cười ha hả, với Tôn Đại Ma Tử: "Quả nhiên là trọng bảo của Linh Châu khiến người ta phải lóa mắt. Lần này đều do Miêu tiên gia phù hộ cho ta mới gặp được cơ duyên này, hay là gói ghém Phong Vũ chung rồi rời khỏi thành bỏ chạy, nửa quãng đời còn lại khỏi pải lo cơm ăn áo mặc?" Tôn Đại Ma tử bội vã khuyên rằng: "Tam đệ chớ nảy sinh tà niệm, vật báu này đâu phải là vật để người tầm thường cất giữ? Chi bằng mau dâng nộp quan phủ cũng alf công lao của huynh đệ ngươi rồi" Phàm là việc xử thế của con người đều được có tư tâm, nếu tư tâm nổi lên làm những việc bất chấp hậu quả về sau, may àm lúc thiên hạ hỗn loạn, thuế má nặng nề, chẳng ai cịu bỏ tiền ra mua cái chuông cổ đó, chính vì vậy, Trương Tiểu Biện mới bỏ qua cái ý định đen tối này. lại nghĩ, cần học hỏi cho thuần thục việc xem tướng mèo việc thu thập báu vật lạ trong thiên hạ dễ như lấy đồ vật trong túi. Trương thiếu gia có khí độ của tể tướng, tầm nhìn hà tất chịu bó ngọn trong cái pHong Vũ chung này. Lúc chiếc chuông đồng rời khỏi mặt nước đám mù trắng phun ra từ miệng giếng dần dần tan biến rồi tích tụ toàn bộ trung, biến thành đám mây đén. Toàn thành lập tức mù mịt, sấm nổ ầm ầm dứt nhưng có hạt mưa nào, chỉ che khuất trăng sao àm thôi. Trương Tiểu Biện và Tôn Đại Ma tử cho gọi toán lính dõng Linh Châu ở phía xuống nghe lệnh, sai chúng gói Phong vũ chung lại, rồi trực tiếp mang về giao cho Tuần phủ Mã đại nhân xử trí. Đám lính dõng đều là người quê Linh Châu mấy ngày nay chính mắt thấy Trương Tiểu Biện liên tiếp lập chiến công. Trương Tiểu Biện lại chuyên nghề khoe khoang, tráng giang đại hải hồi, chuyện bé bằng hạt vừng qua lời cũng trở thành chuyện kinh thiên đồng địa, nghiêng sông dốc biển, thêm vào đó là miệng lưới trơn tuột, lời tuôn như suối, những việc vụn vặt tên bỗng trở nên hoành tráng, mồm . tất cả đám lính dõng và công sai đều phục sát đất, cũng khen ngợi Trương Bài đầu quả là có tài nghệ cao cường, kỳ tài đại lược đó ắt được trọng dụng, sau này nhất định được triều đình đề bạt, khen thưởng, đến lúc ấy xin chớ quên chiếu cố đến tụi huynh đệ này. Vừa vừa đến trước cổng của phủ Mã đại nhân. Tuy đương lúc nửa đêm, nhưng Việt khấu vây thành rất gấp, toàn thành phòng bị nghiêm ngặt, mã đại nân trong lòng cũng rất lo âu, nửa đêm thể ngủ yên, vừa được tin báo lập tức dặn đưa Trương Tiểu Biện và Tôn Đại Ma Tử đến hậu đường gặp mặt. ả tiểu Phượng làm Mã phủ rốt cuộc cũng có được mấy ngày yên ổn, thấy Trương Tiểu Biện và tôn Đại Ma Tử đều được làm chức bà đầu Bổ khoái trong nhâ môn Linh Châu, liền mừng thay cho ca rhai. Nhưng ả thấy Mã đại nhân vội vã hỏi han nên thể tới trò chuyện được, đành phải khép nép đứng hầu bên. Mã Thiên tích xem qua cái Phong Vũ chung, rồi liếc mắt nhìn Trương Tiểu Biện, chẳng ngờ người này lại có thể làm việc đắc lực đến thế, chuyện khó tày trời mà xem như , vì vậy, lão cũng giấu giếm nữa, đèm tình kể cho Trương Tiểu Biện avf Tôn Đại Ma Tử rằng: "Đối với bản quan Phong Vũ chung này vô dụng, nhưng quan Đề đốc trấn thủ Linh Châu Phú Sát Đồ Hải rất mong có được nó. Người này xuất thân từ Thượng Tam Kì, phe cánh gia tộc giải rác khắp triều đình, đáng gọi là người có nền tảng có thế lực. Ông ta nhậm chức ở đây, mang theo toàn bộ gia quyến vào ở trong thành. Lão Đồ hải có co con , cưng triều như ngọc quý tay, vì vậy mới co tên là Phú Sát Minh CHâu, nay tuổi mới mười sáu, xinh như hoa như ngọc, đẹp nổi tiếng vùng. Đáng tiếc là từ khi tới Linh Châu, nó sinh ra chứng bệnh lạ, thầy thuốc khắp nơi chữa được. Nghe có danh y kê bí phương, cần có được Phong Vũ chung hứng nước mưa, sau đó đun sôi rồi mang ra tắm mới có thể thuyên giảm. Đương vất vả tìm khắp nơi, may mà hôm nay các ngươi mò được vật này dưới đáy giếng cổ chùa Tháp Vương lên, lão Đồ hải biết được chắc chắn trọng thưởng hậu tạ, đến lúc đó bản quan nhân cơ hội đề cử các ngươi" Trương Tiểu Biện và Tôn Đại Ma Tử vội vã bái tạ, chỉ có điều Trương Tiểu Biện trong đầu lại có toan tính khác. Trong Miêu Tiên từ, Lâm trung Lão Quỷ mách cho mấy việc lớn, nếu đều thực thành công tự nhiên được thăng quan tiến chức. Mây việc đó, là đến Hoang táng Lĩnh giết con Thần Ngao, hai là dẫn bầy mèo vào giếng cổ chùa Tháp Vương mò Phong Vũ chung lên. Những việc đó, cứ liên tiếp diễn ra, chúng đều có mối liên hệ với nhau. Con việc thứ ba chính là phải bắt được giáo chủ Bạch Tháp chân nhân của tà giáo Tạo Súc. Vì vậy, Trương Tiểu Biện bẩm báo Mã đại nhân, căn bệnh lạ của Phú Sát Minh Châu tiểu thư phải dùng thuốc mà chữa được, nó có căn nguyên từ nghiệt nấp trong Đề đốc phủ, nếu sớm diệt trừ tận gốc, chỉ e gây hậu họa khôn cùng. Đúng là: "Hai tay xé toạc lưới kim tuyến; lôi hẳn ra ngoài chuyện thị phi" muốn thể thế nào, hãy xem hồi sau . Hồi thứ 6: Độ thủy hồ lô miêu Thường có câu rất hay rằng: "Năm ngón tay bàn tay cso ngón ngắn ngón dài" Câu đó để hình dung về con người trong khắp thiên hạ, tuy đều có đầu đặt hai vai nhưng nếu đem so sánh với nhau xấu đẹp, thiện ác, cao thấy, gầy béo, văn tài võ nghệ, khác nhau nhiều lắm, thể đánh đồng tất cả được. Người thế nào mèo thế ấy, giả dụ như con mèo giỏi bắt chuột cũng giống như người biết ha miệng ăn cơm, đều là những tập tính bẩm sinh, có gì lạ lắm. Mèo nhà, mèo hoang trong thiên hạ, ngoài việc biết bắt chuojt trèo cây ra tùy vào phẩm cấp, chủng loại khác nhau có các năng lực muôn màu muôn vẻ, làm sao có thể nhất nhất đánh đồng được? Chính vì vậy có loại mèo giỏi bắt chuột giữ nhà, có loại mèo chuyên môn ăn vụng bắt sẻ, ngoài ra chúng còn có rất nhiều năng lực kì lạ, ít nghe thấy khác, thể kể hết trong sách được. Trong hồi này riêng về những năm giữa đời Tùy và đời Đường. Đường Vương là Lý Thế Dân dẫ quân đánh đông dẹp bắc, hôm mình ngựa do thám trại giặc, kết quả là lộ hành tung bị đại đội quân giặc truy sát, bỏ chạy đến bờ Hoàng Hà. Chạy vào đường cùng, sắp sửa bị bắt sống, nhưng ông ta là Chân long Thiên tử, có được thần linh phù trợ, trong lúc nguy cấp ngàn cân treo sợi tóc ấy, nống thấy sông Hoàng Hà có con mèo khoang giống như cái hồ lô, dập dềnh sông, theo dòng nước từ thượng nguồn trôi xuống. Lý Thế Dân vội vã nhảy xuống nước, hai tay nắm chặt vào đuôi con mèo, quẫy đạp để sang bờ bên kia, thoát khỏi truy kích cảu quân địch. Chuyện này về sau, ngay cả ông ta cũng cảm thấy kì quái, đời sao lại có con mèo biết bơi, liền đem ra hỏi đám bộ hạ. Có người tên là Từ Mậu Công, là kỳ nhân hiểu rộng biết nhiều, trước tiên chúa công: "là người có hồng phúc, tự nhiên trời phù hộ", sau đó mới về loài: "Độ thủy hồ lô miêu" Loại Hồ lô miêu này tuy bảo là mèo nhưng kỳ thực phải mèo. Vóc dáng của chúng to lớn hơn mèo thường nhiều, đáng ra nên xếp riêng ra 1 loại " Ly miêu" ở trong núi sâu. Người chúng có dáng tròn, lông dài, đuôi dài, tính khí khác thường, có thể bơi lặn qua sông lớn, bắt cá tôm dưới nước để ăn, có thể bảy ngày bảy đêm ngoi lên bờ. Bọn mèo hoang trong thành Linh Châu gặp phải vận đèn trong miếu cổ của chùa Tháp Vương, nếu ngày thường chúng cũng gập đắng nuốt cay cho qua vì biết bơi, bắt cá. Tuy nhiên, con Kim lân Đà ngư trong đầm sâu lại là mọt loài trăn quý của nước Bà La Cam Tư, nếu có thể ăn thịt nó có thể kéo dài tuổi thọ. Bầy mèo hoang ngửi thấy mùi tanh đời nào chịu thôi, liền quyết định phải ăn bằng được hai con Đà ngư dưới đáy giếng này. Bầy mèo hoang thấy con Đà ngư dưới nước rất lợi hại, chắc hẳn khó lòng đối phó. Con Kim Ngọc Nô đầu đàn hết sức khôn ngoan lắm mẹo, cũng chúng bàn bạc tính toán thế nào, rốt cuộc tìm con Độ thủy lô miêu về giúp đỡ. Chỉ thấy con Hồ lô miêu nọ lê tấm thân lờ đờ chậm chạp, lắc la lắc lư đến bên bờ đầm nước. Nó trực tiếp bơi xuống mà tìm chỗ hết sức tối và ẩm, dùng móng vuốt bới gạch đá mặt đất . Dưới đáy giếng ẩm thấp lâu năm có rất nhiều loại côn trùng độc như nhện, rết,... béo múp, đèn đỏ lốm đốm, độc đại vô cùng, thấy bị mất nơi nấp, chúng liền nhao nhao chạy ra, tranh nhau cắn chích con Độ thủy hồ lô miêu to mập. Con Hồ lô miêu thịt thô da dày, chịu được chất kịch độc. Bị bọn rết và bọ cạp cắn chúng, toàn thân nó từ đầu đến đuôi đều sưng phồng lên, nhưng những con trùng kia phun hết nọc độc cũng lăn đùng ra, giãy giụa rồi chết ở xung quanh. Trương Tiểu Biện và Tôn ĐẠi Ma Tử ở bên cạnh xem mà cả người nổi da gà, Con hồ lô miêu bẩn thỉu thu hết nọc độc, thấy cũng đủ rồi liền phì phò bò đến bờ đầm, nhúng cái đuôi mèo dài thượt xuống nước. Toàn bộ uy lực của loài mèo nằm ở đuôi, vượt tường trèo cây đều do cái đuôi quạt gió giữ thăng bằng. Có nhiều nàh giàu chỉ nuôi mèo làm cảnh, chẳng cần chúng bắt chuột, để đề phòng chúng chạy chơi khắp nơi, liền cố ý cắt phứt cái đuôi mèo , con mèo lập tức biến thành con vật ngoan ngoãn dễ bảo, chẳng làm nên trò trống gì được nữa. Đuôi của con Độ thủy hồ lô miêu chia làm chín đốt. Xét theo miêu phổ lông đuôi mèo quý ở chỗ dài, đốt đuôi quý ở chỗ ngắn, lại thêm, cái đuôi mèo càng dài và tấn suất vẫy đuôi càng cao con mèo đó càng nhanh nhẹn, có thể bắt chuột biết mệt mỏi. Nhưng cái đuôi của con Hồ lô miêu này vừa thô vừa tròn, là đuôi của con mèo vừa lười nhác vừa ham ngủ, lúc xuống dưới nước nổi phập phềnh như cái thuyền. Hai con Kim Lân Đà ngư canh giữ Phong Vũ chung đều có chút đạo hạn, những lưới cá, câu thính thông thường đều qua được mắt chúng. Bỗng trông thấy cái đuôi mèo mặt nước, chúng ruốt cuộc là vật gì, dường như hơi giống với rắn nước nhưng lại chậm chạp hơn chút, nếu bảo là cỏ nước sao lại có mùi tanh kì lạ như thế? Cặp Đà ngư tuy rất nghi ngờ những kìm được thèm thuồng liền rẽ nước bới đến gần, há miệng đớp đuôi con Độ thủy hồ lô miêu. Con Hò lô miêu vừa bị trùng chích đốt tơi bời nên da thịt toàn thân đều có chất độc. mình Đà ngư cũng có bảy túi độc, khi trúng độc theo phản ứng tự nhiên cũng dồn nọc độc ra để chứ ngự trở lại. Hai con Đà ngư đớp chặt cái đuôi mèo chịu buông, chẳng bao lâu sau nhả hết chất độc trong người. Đà ngư ăn tươi nuốt sống nhện nước, rắn nước kịch độc, tính khí toàn thân đều nằm cả ở đó, bây giờ nhả hết nọc độc ra, lập tức mình mẩy mềm nhũn, thoát lực, quẫy độc nổi nữa. Con Hồ lô miêu nhân cơ hội, vẫn sức kéo đuôi, lôi hai con đà ngư lên bờ. Những con mèo hoang khác, mắt vằn đỏ, gào lên rồi lại nhao lại bao quanh bốn phía. Hai con Đà ngư biết mình rơi vào vòng nguy hiểm, vội dùng hết sức lực cuối cùng, quẫy đầu vẫy đuôi định trốn xuống nước, nhưng sợi xích chúng bị thân hình con Hồ lô miêu to béo đè chặt xuống, đúng là" lợn béo vào nhà đồ tể; chui nhầm tử lộ trốn sao ", đành mặc cho đám mèo hoang lóc sạch từng mảnh vây cá, để lộ ra mỡ thịt khắp mình dầm dề máu đỏ. Bọn mèo hoang Linh Châu như gió cuốn mây tan, ăn thịt hai con Kim Lân Đà ngư trận sung sướng, quả nhiên mùi thịt tươi rất ngon. Bầy mèo hoang con nào con nấy rất thỏa mãn, hài lòng, sớm quên phắt viên ngọc kỳ quái. Đoạn chúng kêu meo meo mấy tiếng, lặc lè tiền hô hậu ủng, đưa con Kim Ngọc Nô và con Đọ thủy hồ lô miêu ra ngoài. Trương Tiểu Biện và Tôn Đại Ma tử vọt ra khỏi chỗ nấp sau tượng Phật đá, tìm dây xích từ trong đám xương vụn của hai con cá chết, cùng hợp sức kéo chầm chậm đưa Phong Vũ chung lên bờ. Cái chuông đồng dài xấp xỉ thước, toàn thân màu xanh lục, chỗ gỉ loang lổ màu đỏ của chu sa, thủy ngân, thân chuông đúc nhiều hoa văn hình dị thú, cá rồng, song nước, từ bên trong nhà ra từng đường khói mù mong mỏng giống như mây lành bao bọc. Trương Tiểu Biện dùng đốt ngón tay gõ thử, thấy tiếng vang trong trẻo, hơi lạnh, biết đúng là bảo vật, trong lòng rất mừng rỡ, cười ha hả, với Tôn Đại Ma Tử: "Quả nhiên là trọng bảo của Linh Châu khiến người ta phải lóa mắt. Lần này đều do Miêu tiên gia phù hộ cho ta mới gặp được cơ duyên này, hay là gói ghém Phong Vũ chung rồi rời khỏi thành bỏ chạy, nửa quãng đời còn lại khỏi pải lo cơm ăn áo mặc?" Tôn Đại Ma tử bội vã khuyên rằng: "Tam đệ chớ nảy sinh tà niệm, vật báu này đâu phải là vật để người tầm thường cất giữ? Chi bằng mau dâng nộp quan phủ cũng alf công lao của huynh đệ ngươi rồi" Phàm là việc xử thế của con người đều được có tư tâm, nếu tư tâm nổi lên làm những việc bất chấp hậu quả về sau, may àm lúc thiên hạ hỗn loạn, thuế má nặng nề, chẳng ai cịu bỏ tiền ra mua cái chuông cổ đó, chính vì vậy, Trương Tiểu Biện mới bỏ qua cái ý định đen tối này. lại nghĩ, cần học hỏi cho thuần thục việc xem tướng mèo việc thu thập báu vật lạ trong thiên hạ dễ như lấy đồ vật trong túi. Trương thiếu gia có khí độ của tể tướng, tầm nhìn hà tất chịu bó ngọn trong cái pHong Vũ chung này. Lúc chiếc chuông đồng rời khỏi mặt nước đám mù trắng phun ra từ miệng giếng dần dần tan biến rồi tích tụ toàn bộ trung, biến thành đám mây đén. Toàn thành lập tức mù mịt, sấm nổ ầm ầm dứt nhưng có hạt mưa nào, chỉ che khuất trăng sao àm thôi. Trương Tiểu Biện và Tôn Đại Ma tử cho gọi toán lính dõng Linh Châu ở phía xuống nghe lệnh, sai chúng gói Phong vũ chung lại, rồi trực tiếp mang về giao cho Tuần phủ Mã đại nhân xử trí. Đám lính dõng đều là người quê Linh Châu mấy ngày nay chính mắt thấy Trương Tiểu Biện liên tiếp lập chiến công. Trương Tiểu Biện lại chuyên nghề khoe khoang, tráng giang đại hải hồi, chuyện bé bằng hạt vừng qua lời cũng trở thành chuyện kinh thiên đồng địa, nghiêng sông dốc biển, thêm vào đó là miệng lưới trơn tuột, lời tuôn như suối, những việc vụn vặt tên bỗng trở nên hoành tráng, mồm . tất cả đám lính dõng và công sai đều phục sát đất, cũng khen ngợi Trương Bài đầu quả là có tài nghệ cao cường, kỳ tài đại lược đó ắt được trọng dụng, sau này nhất định được triều đình đề bạt, khen thưởng, đến lúc ấy xin chớ quên chiếu cố đến tụi huynh đệ này. Vừa vừa đến trước cổng của phủ Mã đại nhân. Tuy đương lúc nửa đêm, nhưng Việt khấu vây thành rất gấp, toàn thành phòng bị nghiêm ngặt, mã đại nân trong lòng cũng rất lo âu, nửa đêm thể ngủ yên, vừa được tin báo lập tức dặn đưa Trương Tiểu Biện và Tôn Đại Ma Tử đến hậu đường gặp mặt. ả tiểu Phượng làm Mã phủ rốt cuộc cũng có được mấy ngày yên ổn, thấy Trương Tiểu Biện và tôn Đại Ma Tử đều được làm chức bà đầu Bổ khoái trong nhâ môn Linh Châu, liền mừng thay cho ca rhai. Nhưng ả thấy Mã đại nhân vội vã hỏi han nên thể tới trò chuyện được, đành phải khép nép đứng hầu bên. Mã Thiên tích xem qua cái Phong Vũ chung, rồi liếc mắt nhìn Trương Tiểu Biện, chẳng ngờ người này lại có thể làm việc đắc lực đến thế, chuyện khó tày trời mà xem như , vì vậy, lão cũng giấu giếm nữa, đèm tình kể cho Trương Tiểu Biện avf Tôn Đại Ma Tử rằng: "Đối với bản quan Phong Vũ chung này vô dụng, nhưng quan Đề đốc trấn thủ Linh Châu Phú Sát Đồ Hải rất mong có được nó. Người này xuất thân từ Thượng Tam Kì, phe cánh gia tộc giải rác khắp triều đình, đáng gọi là người có nền tảng có thế lực. Ông ta nhậm chức ở đây, mang theo toàn bộ gia quyến vào ở trong thành. Lão Đồ hải có co con , cưng triều như ngọc quý tay, vì vậy mới co tên là Phú Sát Minh CHâu, nay tuổi mới mười sáu, xinh như hoa như ngọc, đẹp nổi tiếng vùng. Đáng tiếc là từ khi tới Linh Châu, nó sinh ra chứng bệnh lạ, thầy thuốc khắp nơi chữa được. Nghe có danh y kê bí phương, cần có được Phong Vũ chung hứng nước mưa, sau đó đun sôi rồi mang ra tắm mới có thể thuyên giảm. Đương vất vả tìm khắp nơi, may mà hôm nay các ngươi mò được vật này dưới đáy giếng cổ chùa Tháp Vương lên, lão Đồ hải biết được chắc chắn trọng thưởng hậu tạ, đến lúc đó bản quan nhân cơ hội đề cử các ngươi" Trương Tiểu Biện và Tôn Đại Ma Tử vội vã bái tạ, chỉ có điều Trương Tiểu Biện trong đầu lại có toan tính khác. Trong Miêu Tiên từ, Lâm trung Lão Quỷ mách cho mấy việc lớn, nếu đều thực thành công tự nhiên được thăng quan tiến chức. Mây việc đó, là đến Hoang táng Lĩnh giết con Thần Ngao, hai là dẫn bầy mèo vào giếng cổ chùa Tháp Vương mò Phong Vũ chung lên. Những việc đó, cứ liên tiếp diễn ra, chúng đều có mối liên hệ với nhau. Con việc thứ ba chính là phải bắt được giáo chủ Bạch Tháp chân nhân của tà giáo Tạo Súc. Vì vậy, Trương Tiểu Biện bẩm báo Mã đại nhân, căn bệnh lạ của Phú Sát Minh Châu tiểu thư phải dùng thuốc mà chữa được, nó có căn nguyên từ nghiệt nấp trong Đề đốc phủ, nếu sớm diệt trừ tận gốc, chỉ e gây hậu họa khôn cùng. Đúng là: "Hai tay xé toạc lưới kim tuyến; lôi hẳn ra ngoài chuyện thị phi" muốn thể thế nào, hãy xem hồi sau . Hồi thứ 7: Bạch Tháp Chân Nhân đến đoạn trong phủ Đề Đốc Đồ Hải, ngoài chính thất nhị phòng, ba thê bốn thiếp của lão ra, còn có rất nhiều nô bộc, tạp dịch, dưới hơn 100 người ai được ngoại lệ, phàm là có mũi, có tay chân và biết thở đều phải tập trung trong sân của hậu đường. bến trái già, lão dai dùng gốc cây quế làm củi, ninh nhừ thịt con ngao và nhân sâm, già trẻ lón bé đều phải lần lượt qua để uống canh. Mẫ Thiên Tích dẫn bọn Trương Tiểu Biện nấp trong phòng, ghé mắt nhìn trộm ra ngoài, mỗi người qua, Đề đốc Đồ Hải đúng cạnh khẽ với Mã đại nhân, đây là ai, là thân quyến cũng thế, là nô bộc trong nhà cũng thế, thân phận, lai lịch đều ràng, nhưng trong nháy máy kiểm tra hết lượt, nhưng từ đấu chí cuối vẫn chưa phát ra người nào khả nghi trong đó. Trương Tiểu Biện thấy con mèo đen chẳng nhúc nhích tí nào, trong lòng có chút bối rối. Thấy thần sắc mặt Mã đại nhân và Đề đốc Đồ Hải đanh lại, hơi chột dạ, nhưng Lâm Trung Lão Quỷ bạch Tháp chân nhân nấp trong nàh Đề đốc Đồ hải, làm sao sai lệch được? Xem ra, chưa hẳn ta trà trộn vào đám thân quyến, nô bộc, có khả năng như Phan hòa thượng, đào cái hang ngầm trong vườn để nấp hay. Trương Tiểu Biện định tìm cái cớ để lấp liếm, bỗng nghe Mã đại nhân hỏi Đề đốc Đồ hải: "Người trong quý phủ đẫ ra hết rồi chăng? Sao thấy tiểu thư Minh Châu?" Đề đốc Đồ hải đáp: "Con ta là người hiểu thi thư lễ nhạc, đung mạo đoan chính. Sao có thể là bạch Tháp chân nhân cảu tà giáo? Nó chí có hai con a hoàn hầu hạ ở nhà sau, bây giở đướng lúc loạn nê xưa nay chưa từng ra khỏi nhà, cũng chưa bao giờ cho gặp người ngoài" Mã Thiên Tích alf tổ sư trong nghề phá án, thẩm hình, xưa nay có biệt hiệu là "Mã vương gia", nghe đồn trong lcus thẩm vẫn lão tinh tường như có ba con mắt, suy nghĩ kín đạo lạ thường, chưa từng bỏ qua chi tiết nhặt nào. Lão biết hôm nay nếu bắt được Bạch Tháp chân nhân, là đánh rắn động cỏ, từ nay về sau càng khó tiễu trừ, hai là đích thân đem người đến phủ Đề đốc tra xét lượt mà tìm ra bằng cứ xác thực nào khó ăn . Chính vì vậy, lão mới khuyên Đề đốc Đồ hải mời tiểu thư Minh Châu và hai a hoàn ra, chúng ta sợ giết nhầm, chỉ e bỏ sót, đến loài thỏ còn cần đào ba hang, vả lại chuyện này có quan hệ đến an nguy của cả nhà Đồ đốc, nên sơ suất chút nào. Đề đốc Đồ hải còn cách nào, nghĩ thầm"tạm thời cứ để "Mã vương gia" người đắc ý , sau này chúng ta tính toán cũng muộn". Lão liền sai người đưa tiểu thư vào vườn uống canh an thầ. Mọi người đợi lúc mới thấy tiểu thư Minh Châu được a hòa dìu bên cạnh, chầm chậm ra, cúi chào thỉnh an rồi mới lại uống canh sâm. Thịt con ngao rất già, điều chế với củ nhân sâm nghìn năm nên vị canh hết sức nóng và đắng, khó uống gấp nhiều lần các thang thuống khác. Tiểu thư Minh Châu bịt mũi uống nửa bát, còn lại hơn nửa bát đưa cho a hoàn uống. Trương Tiểu Biện lần đầu tiên gặp mặt tiểu thư Minh Châu, thấy làn thu thủy, nét xuân sơn, thực là chim sa cá lặn, nếu chảng phải là bà chúa tuyết Cổ Xạ giáng trần cũng là Quảng hàn tiên tử cung trăng đầu thai, chảng ngờ lão Đề đốc Đồ Hải lại có đứa con gá xinh đẹp đoan chính như thế, nếu Trương tam gia cưới được về làm vợ cũng uổng đời người. Trong lòng động tà niệm, ngẩn người ra nhìn ngắm tiểu thư Minh Châu. Nào ngờ đâu, ngay lúc ấy, con mèo đne trong lòng đột nhiên co rút người lại, sợ đến nỗi toàn thân run lên bần bật, chí có đôi mắt mèo là nhấp nháy sáng. Trương Tiểu Biện cả sợ: "Chẳng nhẽ co tiểu thư này chính là Bạch Tháp chân nhân tinh thông tà thuật taqoj Súc hay sao?" Trương tiểu Biện vốn biết đặc trưng diện mạo của Bạch Tháp chân nhân, càng nó là nam hay nữ, nhưng nghe đồn vào những năm Gia Tinh đời Minh, các tỉnh có trát truy nã tên đầu đảng giặc cướp này nhưng ốt cuộc bắt được và cũng có ai chính mắt trông thấy chân thân của . Tiểu thư Minh Châu chỉ là giai nhân tuổi vừa đôi tám, làm sao có thể là Bạch Tháp chân nhân nối tiếng lâu năm như vậy được? CHẳng lẽ đạo đó tu luyện đến mức có thể thay hồn nhập xác hay sao? Nhưng người của đám nghiệt Tạo Súc ngưng tụ rất nhiều tà khí, đằng sao thường có vô số oan hồn bám riết, chính vì thế con Nguyệt ảnh ô đồng kim tuyến miêu mới ohats sinh cảm ứng, sợ đến nỗi lông lá toàn thân dựng đứng lên, chỉ giận thể nhanh chóng cao chạy xa bay, hoặc tìm khe nứt nào đó để nấp. tình hình này thực giống hệt lúc gặp phải Phan hòa thượng ăn thịt trẻ con trong thành Đũa. Bên cạnh tiểu thư Minh Châu là a hoàn tùy thân chuyên hầu hạ nàng, tuổi cũng mới chừng 15, 16, dáng vẻ ngoan ngoãn dễ thương, được đưa vào phủ làm nô tỳ từ thuở , cũng phải là laoij lai lịch bất minh. Bọn Trương Tiểu Biện toàn là người trần mắt thịt, chủ trì đại cuộc là Mã thiên tích tuy độc địa, lão luyện những cũng có mắt lửa người vàng, rốt cuộc cũng nhận ra hai trong người đó là Bạch Tháp chân nhân. Quan phủ trải qua nhiều năm tiêu trừ nhưng chưa bao giờ quét sạch triệt để đám dư đảng của tà Tạo Súc, Bạch Tháp chân nhân lại là nhân vật có tên tuổi lẫy lừng hơn hẳn phường trộm cướp tầm thường, vì vậy, ai nấy đều căng thẳng như cung lên dây, ngấm ngầm chuẩn bị sắn sàng, chỉ đợi Mã đại nhân ném chén làm hiệu. Mã đại nhân khỏi do dự trong lòng, tay cầm chén trà mà trừ khừ quyết, ra hiệu cho Trương Tiểu Biện mau nghĩ biện pháp tìm đúng chân thân của Bạch Tháp chân nhân. Trương Tiểu Biện hồn vía lên mây, chỉ còn cách ngầm bóp chặt tai con mèo đen để nó đừng náo loạn, hai đại nương xinh đẹp như hoa như ngọc này làm sao có thể là đám tà được?lỡ ra nhận nhầm khó àm thoát được. Con mèo đne tuy bị đua tai nhưng vì quá sợ hãi , đến kêu cũng dám kêu tiếng nào. Trương Tiểu Biện. Trương Tiểu Biện cảm thấy kì lạ, ngẩng đầu nhìn ngó lần nữa ở bên ngoài hành lang, chỉ thấy tiểu thư Minh Châu và con a hoàn của ta rời gót quay về, nhưng con Nguyệt ảnh ô đồng kim tuyến miêu lại đột ngột run như cầy sấy, sợ co ro cúm rúm mãi thôi, ràng có vật gì đó từ đằng sau tiến lại gần khiến nó sợ muốn chết. Tương Tiểu Biện vội vã khoát tay ra hiệu mọi người hớ hành động tùy tiện hành động vì bây giờ mục tiêu mới bắt đầu tới. Chính lcus ấy, con hoàn khác, to béo ngờ ngờ nghệch ló ra. Trong lòng ả ôm con chó xù lông trắng, thẳng đến hành lang để uống canh. Bên cạnh tiểu thư Minh Châu vốn có hai con a hoàn, đây là chuyên làm việc vặt, và ôm chó hộ tiểu thư. Trương Tiểu Biện thấy cặp mắt vàng của con mèo vần lên tia máu, hiểu rằng nó sợ hãi đến mức tột độ nên mới sinh ra như thế. đột ngột nhớ lại lúc trong lò đúc ở Hoang Táng lính, gặp phải lão Thiết Trung hấp hối, nghe lão kể lại rằng, chưởng quầy Thiết Công Kể của Tùng Hạc đường, bí mật đem cương thi vào núi hoang để bãn cho con chó xù lông trắng, rồi bị giết chết. Chẳng nhẽ con chó xù được Thiết Công kê gọi là Bạch gia đó, chính là Bạch Tháp chân nhân? Trương Tiểu Biện phản ứng rất nhanh, con chó xù lông trắng đó cho dù phải là BẠch Tháp chân nhân hẳn cũng có mối qaun hệ mật thiết với đạo. đúng là số kiếp nó đa đến hồi mạt vận, nếu con a hoàn ngốc nghếch đó ôm con chó đến uống nước canh thiếu chút nữa bị nó qua mặt rồi. Mã đại nhân thấy Trương Tiểu Biện gật đầu làm hiệu liền đạp vỡ chén trà trong tay. Con chó xù lông trắng đảo lộn cặp mắt gian giảo, lcus qua hành lang tựa hồ như cảm thấy có nguy cơ tiềm phục, đương khi hết sức nghi ngờ trong dạ, bỗng nghe trong phòng có tiếng vỡ loảng xoảng, tình hình có vẻ nguy, tựa như chim sợ cành cong, nó vội giãy khỏi lòng con a hoàn nọ, chạy xuống đất đào thoát. Công sai mai phục bốn mặt như hùm như hổ, cùng lcus ùa ra, nhưng đều cho rằng cần phải bắt con a hoàn ngốc nghếch, chẳng ai thèm để ý đến con chó xù lông trắng, liền mặc kệ cho nó chạy vọt qua. May thay, Tôn Đại Ma tử nghe thấy tiếng Trương Tiểu Biện tri hô, nhanh tay nhanh mắt quát lên: "Cho mày chết này!" gậy quét ra khiến con chó bị hất tung lên , hộc máu mồm, lăn xuống đất. Trương Tiểu Biện vội vã rút ngay sợi lòi tói, chói nghiến con chó thành đống. Con a hoàn bế con có cũng bị toán bổ khoái đè chặt xuống đất, sợ hãi đến m,ức vãi đái ra quần, ú ớ thành lời. Đề đốc Đồ hải đầu đuôi, cũng nhìn thấy Bạch Tháp chân nhân ở đâu cả, sao alij hồ đồ trói con a hoàn sai vặt và con chó xù lông trắng trong nhà. Mã đại nhân hạ lệnh cho thủ hạ được lỗ mãng để tránh làm cho kẻ vô tội phải sợ hãi, rồi lão mượn gina mật thất trong phủ Đề đốc, cho đốt đèn để thấm án trong đêm. Nào ai ngờ nổi tra án thôi, chứ hỏi ra làm được kỳ án kinh thiên động địa. ra, ả a hoàn bế chó hoàn toàn can hệ gì, thứ mà con mèo đen Linh Châu sợ hãi chính là con chó xù lông trắng đó. Mặc dù vậy, từ xưa tới nay, việc thẩm án chỉ là tra hỏi người để lấy khẩu cung chứ sao có thể cật vẫn ra hành tung của Bạch Tháp chân nhân từ mồm con chó. Cho dù Mã Thiên Tích là người giỏi việc xét đoán các đại án quan trọng, nhưng trước tình hình đó cũng đành bó tay, đành phải cho thắp đèn trong gian mật thất, đòi số người có liên quan đến để hỏi, chủ yếu là tra xét lai lịch của con chó xù lông trắng trong phủ Đề đôc. Lúc ấy, lão mới biết con chó được mua ở thành Bắc Kinh, xưa nay vẫn ngoan ngoãn dễ bảo, giỏi đoán ý chủ nhân, chưa từng thấy có cử chỉ dị thường nào. Lúc ấy, trong mật thất chỏ còn Đề đốc Đồ Hải, Mã Tuần phuvà Trương Tiểu Biện, Tôn Đại Ma Tử. Con chó trắng bị Tôn Đại Ma Tử đánh trúng gậy hộc máu, bị xích lại ở góc mật thất, nằm phục xuống ngoan ngoãn, gục đầu ngừng liếm lapx vết thương trong ánh mắt đầy vẻ sợ hãi. Trong lòng Đồ Hỉa đầy bất mãn, nghĩ thầm: "tên họ Mã hiểu hồ đồ thế nào àm lại nghe lời khoác lác của trương Tiểu Biện, nửa đêm nửa hôm đem cả nhà ta ra hành hạ khổ sở, rốt cuộc lại bắt con chó liên quan gì. Con chó này làm sao là Bạch Tháp chân nhân cho được? Định đùa cợt như vậy, chẳng nhẽ sợ vuốt râu hùm của bản Đồ đốc ta sao?" Lão bất giác định bụng nổi giân đùng đùng ngay lúc ấy. Đề đốc Đồ Hải còn chưa kịp , bỗng nghe Mã đại nhân vỗ án rất mạnh, mắng thằng tặc tử còn dám man trá, gọi tả hữu mau chuẩn bị đại hình, dùng cây châm thép chấm với phân nóng đâm vào bụng con chó. Đề đốc Đồ Hải những tưởng Mã đại nhân tìm cớ để rút lui nên mới dùng địa hình để tra khảo con chó trắng. Lão càng thấy bất mãn, huống hồ đánh chó cũng phải ngó mặt chủ chứ! Nghĩ đoạn, lão liền giơ tay ngăn lại, : "Con chó này lúc bình thường rất dễ bảo, chưa từng sủa đổng cắn càn, vì vậy người trong nhà rất quý nó, sao các ngươi lại cứ cố đánh đập nó thế?" Mã đại nhân : "Đề đốc có chỗ còn chưa biết đấy thôi! Như bản quan thấy, con chó này đúng là hết sức bất bình thường, chắc chắn nó vốn phải là con chó". đoạn, lão lại sai tả hữu lập tức tra tấn. Trương Tiểu Biện và Tôn Đại Ma Tử dạ ran lĩnh mệnh, vén tay, xắn áo hùng hổ định xông lên động thủ, bỗng nhiên, con chó lông trắng bị xích ở góc tường đứng thẳng dậy như người rồi phục xuống đất, khấu đầu lạy như tế sao, hơn nữa, miệng còn phát ra tiếng người: "Thuowbngj quan minh giám, nay tôi bị khám phá ra hành tung, biết thể nấp được nữa, dám man trá điều gì, chỉ xin được miễn phải chịu tra tấn" thanh phát ra sắc nhọn như chọc vào màng nhĩ, nghe ý tứ trong lời hẳn là nó sợ bị tra khảo nên xin tha mạng công đường. Đề đốc Đồ Hải sợ đến mức trợn tròn mắt, há mồm, sao trong phủ lại nuôi con quái như thế này? Mã đại nhân nhăn mặt lạnh như tiền, sai Bài đàu tả hữu cắt đứt mấy sợi gân lớn của con chó trắng, giải đến trước mặt để thẩm vấn lấy khấu cung. Con chó trắng biết mình rơi vào tay quan phủ chẳng có gì tốt đẹpm chịu đau đớn khi bị cắt đứt gân, hai amwts ánh lên những tia oán độc, nhưng lại sợ bị tra tấn, đành phải cung khai thực, tự nhận mình chính là "Bạch Tháp chân nhân" Từ những năm cuối đời Bắc Tống ở thành Linh Châu có những hành động của đám Tạo Súc, lúc ấy là bắt cóc người bằng đủ các thủ đoạn, người thường khó có thể tưởng tượng được ra nổi. Có loại lưu lạc giang hồ biểu diễn kiếm tiền, chuyên diễn các tạp kĩ để mưu sinh, trong đó, có những kẻ chuyên thuần dưỡng chó để diễn xiếc. Kẻ luyện chó để diễn đều là những lão già lớn tuổi, nhưng những con chó ấy đều phải là chó mà là những đứa trẻ bị bắt cóc. Người đời biết tường tận, đều cho rằng bọn người đó có thuật, hóa phép người thành súc vật, có thể biến đàn bà, trẻ con thành súc vật để bán lấy tiền, câu chuyện đồn đại được truyền ra thêm thắt yếu tố thần kì khiến người nghe phải biến sắc, nhưng kì thực phải là như vậy. Bọn bất lương dùng thuốc mê bắt cóc những đứa trẻ tầm bốn, năm tuổi ở các thôn làng rồi đem về nhà, giết con chó có vóc dáng xấp xỉ đứa trẻ nọ, lột bỏ da, rồi nhân lúc còn ấm nóng phủ lên người đứa trẻ. Bộ da chó vừa vặn đẫm máu me còn tươi nguyên thịt chặt vào đứa bé, thể lột da được nữa. Bọn nghiệt đồ Tạo Súc còn dùng các thủ đoạn để hành hạ, bắt đứa trẻ trong bộ da chó phải bắt chước giống hệt các động tác của loài chó, nếu nghe lời bị dánh chết, vứt xác ra ngoài đồng hoang. Đến khi đứa trẻ thuần phục, chúng mới đem ra ngoài phố làm chó diễn xiếc kiếm tiền. Con người khôn ngoan hơn chó dẫu là trò lật bảng đọc chữ hay nhảy vòng, vái lạy, lặn lộn đều phải bảo ba nhiều, vì vậy thường hấp dẫ người xem và kiếm được nhiều tiền thưởng. Mặc dù vậy những đứa trẻ khoác bộ da chó đó bị bọc chặt tới mức nóng bức khó chịu, hơn nữa cơ thể thể lớn và phát dục được, ngay cả ngày đông lạnh giá hay tháng hè oi bức cũng chỉ có bộ da chó người, toàn thân chúng bị cảm nóng cmar lạnh, quá sáu tháng, năm bị chết ngộp trong bộ da chó, tình trạng thảm thương kể xiết. Nhưng tà thuật tạo Súc chỉ hưng vượng đến khi người Kim xâm chiếm phương Nam, bắt hai vua Huy tông, Khâm tông. Thiên hạ đại loạn, nước mất nhà tan, quan lại hình ngục chỉ có làm vi, quan lại coi mạng người như cỏ rác, tính mạng người dân có giá trị gì, muốn bắt là bắt, muốn giết là giết, chẳng khác nào giết con rận, con rệp, tuyệt nhiên chúng bao giờ để tâm. Đúng là: "Thà làm chó thời bình; Chớ nhằm lúc loạn mà sinh làm người". Muốn biết thể thế nào xem hồi sau .
Hồi thứ 8: Quấn gai tra, lột da hỏi Lại , quan phủ giở thủ đoạn sấm sét, bắt sống Bạch Tháp chân nhân náu trong phủ Đề Đốc, giải đến mật thất, định dùng nghiêm hình tra hỏi, nào dám cung khai? Bạch Tháp chân nhân tự biết khí số mình hết, lại sợ bị quan phủ tra khảo tàn khốc, đành thổ lộ hết , ra nguồn gốc của phái Tạo Súc. Theo lời truyền tụng của dân gian, cái gọi là tà thuật Tạo Súc phần nhiều chỉ vào đám nhân biết thuật lạ, mê hoặc đàn bà, con trẻ, bắt họ phải uống nước bùa chú, biến người sống thành các loại súc sinh như : lợn, lừa, bò, dê... rồi mang ra bán ở chợ để kiếm tiền, nhưng thực chất đố chỉ là những lời đồn đại ngoa truyền, có thực. Thực ra, bắt đầu từ khi nhà Tống dời xuống phía Nam, thiên hạ đại loạn, tai họa liên miên, dân đói đầy đường, các lớn cắm rơm lên đầu làm hiệu để bán thân còn đáng giá nửa con lừa. Vào lúc ấy, có bọn bất lương chuyên lại giang hồ biểu diễn kiếm tiền, chúng sử dụng trăm phương ngàn kế để thu lợi, bắt cóc trẻ con nam nữ, lột da chó bọc lên mình đưá trẻ, sau đó dùng thêm nhiều thủ đoạn để đày đọa huấn luyện, bắt chúng phải biểu diễn các trò xiếc. Những người bị hại chết trong tay bọn chúng nhiều đếm xuể. Người dân hiểu nội tình, thấy bọn chó biểu diễn phố, con nào con nấy lanh lợi, ngoan ngoãn, đều cho rằng nghệ nhân biểu diễn xiếc có ngón nghề cao cường chứ nào biết đâu, những hành động ám muội mà bọn chúng làm toàn là những việc còn lẽ trời. Mãi tới sau này, khi thế dần dần ổn định, quan phủ mới bắt đầu truy nã đám Tạo Súc, hễ bắt được đều dùng cực hình xử trí. Dưới trấn áp bằng hình phạt tàn khốc, bọn chúng dần dần biến mất. Mặc dù vậy, mỗi lần có chiến tranh hay thiên tai, lòng người yên ổn, phong tục được như xưa, tà giáo Tạo Súc lại được khôi phục, dần dần tạo được thanh thế, bái tháp cổ làm Tổ sư, tự xưng là " Tháp giáo". Chúng chuyên cắt nam dương, nữ của người chết phối làm thuốc, hễ luyện thành thuốc mê có thể sai khiến được các loại động vật, lớn to như trâu, voi, ngựa, cá kình, bé như côn trùng, kiến, chuột. Đám tà Tháp giáo phần lớn đêu bí mật lẩn trốn, mai danh tích, sai khiến các loại súc sinh để làm những việc gian tà phạm pháp, quan phủ cấm đoán nhiều lần mà dứt được. Bạch Tháp chân nhân còn vang danh trước khi Bạch Liên giáo nổi dậy, các châu, phủ huyện ở khắp nơi đều có cáo thị truy nã tên giặc này. Tuy thế, sinh ra có dị tướng, bẩm sinh còi cọc, cao đầy ba tấc, mặt mũi hết sức khó coi, từ bị người nhà xem như quái vật, vứt bỏ ở vùng núi hoang mạc mặc cho tự sinh tự diệt. May mà mệnh lớn chết, cứ lăn lóc ăn trái cây, uống nước suối để sống, sinh hoạt cách biệt với trần thế mấy năm. Sau này gặp được môt dị nhân Tháp giáo trong núi sâu, được truyền thụ sách lạ, học được tà thuật, từ đó mới xuất sơn làm những chuyện gian tà, đồng thời, thu nạp rất nhiều môn đồ, đệ tử, trở thành giáo chủ của Tháp giáo, tự đặt hiệu là " Bạch tháp chân nhân". Nhưng, vì Bạch Tháp chân nhân có hình thù tướng mạo hết sức đặc biệt, lúc ngày thường ra khỏi cửa thôi, chứ hễ ra ngoài đường ắt bị đám Bổ khoái tinh mắt nhận ra hành tung bắt lấy để hỏi tội, làm sao có thể sống ung dung ngoài vòng pháp luật cho đến tận ngày nay? May mà bẩm sinh giỏi sủa tiếng chó, thường gỉa làm chó trèo tường băng vách, nhanh nhẹn như gió, chính vì vậy, vạch mưu, làm theo cổ pháp từ thời Tống, lột da con chó Bắc Kinh lông trắng, rồi cứ để máu me đầm đìa như thế mà khoác vào người. Từ đó về sau, coi như lắc mình biến thành con chó trắng ngoan ngoãn, từ tướng mạo đến cử chỉ đều hề sai lệch, hoàn toàn giống như . Bạch Tháp chân nhân tuy thanh thế rất lớn, là đầu sỏ của gian đảng nhưng lúc ấy triều đình mải trấn áp Bạch Liên giáo, có thời gian để mắt đến chúng. Từ sau khi Bạch Liên giáo bị tiêu diệt, các địa phương truy nã bọn cầm đầu phản tặc rất gắt, Tháp giáo cũng dần dần bị tan rã, đám tàn dư im hơi lặng tiếng, trà trộn trong dân gian. Có câu rằng: "Cao tay trong triều, bình bình chỗ nhiều thị phi", Bạch Tháp chân nhân giả làm con chó, trốn vào nhà giàu có, đám Bổ khoái vốn biết chân tướng của , muốn truy nã chẳng khác nào mò kim đáy biển, tìm đâu cho ra? Tới khi loạn Việt khấu lan tới Giang Nam, Bạch Tháp chân nhân liền nhân cơ hội, trà trộn vào phủ tướng quân của Đồ Hải, theo cả nhà già trẻ, lớn bé của Đồ Hải về thành Linh Châu. Ở đây, câu kết với đám dư đảng cũ, định nhân cơ hội loạn lạc lấy tiền bạc trong công khố. Trong đám môn đồ của Bạch Tháp chân nhân, chỉ có lối hành xử của hòa thượng Chuột là kỳ bí nhất. Phan hòa thượng đem bầy chuột nấp vào Hòe viên rồi đào đường địa đạo, lén ăn cắp bạc trong công khố mang về. Mắt thấy đại công sắp cáo thành, nào ngờ vì sao hành tung của lão bị bại lộ, khiến Phan hòa thượng rơi vào tay quan phủ, bị giải ra giữa chợ lăng trì tùng xẻo. Việc này khiến Bạch Tháp chân nhân tức đến nỗi muốn đập đầu vào tường, thống hận đám công sai chó diều của quan phủ sao kể xiết. Song, cũng tại sao Phan hòa thương bị sa cơ nên dám mạo muội lộ diện, đành ngấm ngầm sai con Thát tử khuyển ở Hoang Táng lĩnh vào pháp trường Linh Châu náo loạn phen, coi như thay đồ đệ rửa hận. Nào ngờ, chuyện vẫn còn chưa kết thúc ở đó, đầu chó của con Thát Tử khuyển cũng bị quan phủ treo trong thành để thị chúng. Bạch Tháp chân nhân liên tiếp bị cắt các cánh tay đắc lực, trong long khỏi kinh hãi. biết nhất định có cao nhân muốn đối phó với , nếu , chỉ với đám quan binh Linh Châu thể giết được con Thần Ngao hung tàn như thế, may mà vẫn còn nấp kín đáo trong phủ Đề Đốc, bằng , lúc ấy ắt hẳn bị quan phủ bắt sống xử trị rồi. Bạch Tháp chân nhân nham hiểm, giảo hoạt, cực kỳ đa nghi, càng nghĩ càng thấy phủ Đề Đốc chưa chắc là nơi an toàn. định bụng trốn ra khỏi thành để náu, nhưng thành Linh Châu bị Việt khấu tầng tầng lớp lớp bao vây, cửa thành đều đóng chặt, đến nỗi con chim cũng bay lọt, vì vây, định trốn vào căn nhà hoang trong hang cùng ngõ hẻm nào đó. Lúc bấy giờ khi binh mã hỗn loạn, chỗ nào cũng có rất nhiều phòng trống có thể nấp được, chẳng ai thèm để ý đến con chó hoang trong căn nhà trống, cũ nát, thế mới là cách trốn tránh ổn thỏa nhất. Đương lúc định tính toán như vậy, lại nghe có người mang Phong Vũ chung đến phủ Đề đốc. Trong núi sâu, những thử đoạn Bạch Tháp chân nhân tu luyện được đều là loại "Tặc công phu", nghĩa là sao? Đương nhiên là những thủ đoạn luyện thành lúc canh năm về sáng, có câu " Gà chờ sáng, chó canh đêm", tai nghe tiếng, mũi ngửi mùi đều hết sức thính nhạy, cho dù chút gió lay cây động hơi bất thường cũng qua được cảm ứng của , chính vì vậy, vừa đánh hơi được mùi của đồ vật bằng đồng, biết chắc người ta mang bảo vật đến phủ Đề đốc. bất giác động lòng tham, liền chui từ ổ chó ra ngoài, quấn quít bắt con nha hoàn bế cho phải ôm lên, tựa hồ như chó hiểu tính người, cũng muốn uống canh vậy. Con a hoàn chẳng đặng chẳng đừng phải ôm nó xuống hành lang. Vốn đám Tháp giáo Tạo Súc đều thờ tòa tháp cổ làm tổ sư, rất tin tưởng rằng thế gian tồn tại hiển linh của tháp. Hồi xưa ở thành Linh Châu, có tòa cổ tháp cao chọc trời, được gọi là "Vạn tháp chi vương". Tòa bảo tháp bát giác này tuy bị phá hủy từ lâu nhưng trong giếng cổ dưới chân tháp vẫn còn giấu cái chuông đồng có thể quần tụ mưa gió. Cổ vật linh thiên hội tụ long khí của tháp báu nghìn năm, vì vậy đám tà đó đều coi thành Linh Châu là thánh địa, lấy đó làm sào huyệt của Tháp giáo. Mấy năm trở lại đây, Bạch Tháp chân nhân vất vả tìm kiếm Phong Vũ chung nhưng có kết quả, đột nhiên nghe vật đó thân, đương nhiên sung sướng phát điên. Chẳng ngờ tính sai bước, khác nào Quan Vũ sơ ý mất Kinh Châu, vừa tới hành lang phát tình ổn, nhưng kịp thoát thân lẩn trốn bị Nguyệt ảnh ô đồng kim tuyến miêu của Trương Tiểu Biện nhận ra, bị bắt ngay tại trận, nếu nhẫn nhịn lộ mặt ai mà tìm ra được? nghĩ lượt từ đầu đến cuối càng thấy chuyện xảy ra rất vô duyên vô cớ, đành tự nhủ chắc là do quỷ thần xui khiến ra thế, số mệnh định, ắt phải có hạn lớn ập xuống, tình do nhân quả chứ phải do người có thể tính ra được. Mã Thiên Tích trước đây làm tri phủ từng đích thân phá được cái án liên quan đến phải Tạo Súc. Hồi ấy có kẻ bất lương bắt trẻ con bọc vào tấm da khỉ, lại dùng xích sắt trói lại, bắt gõ phèng diễn xiếc. Con khỉ thấy kiệu của Mã tri phủ qua liền cản lại giữa phố, quỳ xuống rỏ nước mắt, rập đầu, Mã Tri phủ biết là chuyện lạ liền đưa cả người và khỉ về nha môn mới vỡ lẽ được tình. Trong gian mật thất lúc này, thấy con chó trắng có hình dạng kì dị, lão hiểu được bí mật của , liền giả vờ cất tiếng đe dọa, quả nhiên làm cho tên giặc phải sợ và phục xuống đất cung khai. Xem ra dẫu ngón nghề của bọn giặc có thiên biến vạn hóa bao nhiêu cũng che mắt được kẻ già dặn ở chốn công môn, đúng là: " Nước cờ trước giăng bẫy. Địch dẫu mưu mô cũng trắng tay." Lúc ấy, Bạch Tháp chân nhân bị cắt gân, thành kẻ tàn phế, dẫu có bản lĩnh bằng trời cũng cách nào thi triển được nữa. biết kiếp nạn này khó thoát, cực chẳng dã phải đem hết khai ra. Thân làm đến giáo chủ của Tháp giáo, khi rơi vào tay quan phủ, biết số mình tận, chỉ mong thượng quan đem lòng nhân từ, đừng dùng thủ đoạn tra tấn tàn khốc. tự biết tội mình tày trời, chắc chắn phải chết sai, nhưng mong được xem xét đến việc nguồn gốc của Tháp giáo và tấm thân tu luyện vất vả mấy chục năm mà đừng động đến việc chặt chém, chỉ xin được chết toàn thây, kiếp sau dẫu phải làm trâu ngựa cũng dám quên ơn. Mã đại nhân càng nghe càng căm tức. Bọn thối tha này hoành hành gây họa cho người đời bao lâu nay, cứ tự cho rằng có thể ung dung ngoài vòng pháp luật, làm biết bao nhiêu việc ác, đến ngày bị bắt giải tới công đường, lộ nguyên hình mới biết đến đường van vỉ xin tha, cái gì mà tự biết tội chết khó thoát. Muốn phải chịu cực hình cũng được nhưng phải mau cung khai toàn bộ dư đảng của Tháp giáo, nếu có nửa lời man trá, nhất định dung thứ cho đâu. Naò ngờ Bạch Tháp chân nhân thà chết khai ra những chuyện đó, Trương Tiểu Biện cùng Tôn Đại Ma Tử liền dùng kim dài chấm vào phân lỏng, hết cây này đến cay khác đâm vào những chỗ da thịt mềm khiến Bạch Tháp chân nhân đau quá, gào rú thảm thiết, mồm phun ra toàn lời nguyền rủa độc địa khôn cùng: " Các ngươi là đồ chó diều của triều đình, chỉ quen trò cáo mượn oai hùm, dám cả gan đày đọa tấm pháp thân đắc đạo của bản chân nhân, ta nguyền rủa các ngươi, đứa nào cũng phải chết yên... " Trương Tiểu Biện và Tôn Đại Ma Tử đều là kẻ sắt đá nhẫn tâm, lại rất ghét đám tà Tạo Súc, thấy điệu bộ Bạch Tháp chân nhân hung hăng, cắn răng chịu tra tấn chịu cung khai, cả hai càng nóng mắt, chửi rằng: "Tiên sư cha nhà mày, còn dám mở mồm cứng, để xem ông nội nhà mày chọc nát cái lưỡi rồi móc mắt mày ra thế nào." đoạn, dùng kim đâm vào chút dung tình, tới mức tấm thân đội lốt chó của Bạch Tháp chân nhân còn chỗ nào toàn vẹn, sau đó lại giơ kim định chọc vào lưỡi và mắt của . Mã đại nhân ở bên cạnh thấy ràng, biết Bạch Tháp chân nhân tuy sợ bị tra khảo nhưng lại càng sợ việc cung khai ra đồng đảng, chứng tỏ đằng sau lưng còn có những nhân vật cực kỳ lợi hại. Nếu cứ tiếp tục tra tấn ắt nó đau đớn mà chết mất, vì vậy, lão hạ lệnh cho tả hữu ngừng châm kim tẩm phân, hạ giọng thương nghị với đề đốc Đồ Hải vài câu. Đồ Hải cũng chẳng phải kẻ tử tế gì, lão với Mã đại nhân, chuyện này chớ truyền rộng ra ngoài, cứ kết liễu tính mạng của thằng này trong mật thất là tốt nhất, sau đó lão còn nghĩ ra được cách hết sức hiểm độc nữa. Mã đại nhân nghe xong, gật đầu đồng ý, rồi dặn Trương Tiểu Biện mấy câu, bảo hai người cứ theo ý của Đề đốc đại nhân mà kết liễu tính mạng của Bạch Tháp chân nhân, sau đó hủy thi thể, xóa tung tích. Đoạn, lão liền cùng Đồ Hải rời khỏi gian mật thất. Trương Tiểu Biện đợi Mã đại nhân khỏi liền bảo Tôn Đại Ma Tử ra ngoài chuẩn bị mấy thứ cần thiết,. Trong gian mật thất chỉ còn lại mình, giương mắt nhìn Bạch Tháp chân nhân rồi ha hả cười lạnh lùng, chửi rằng: "Thằng cẩu tặc, giờ này năm sau là giỗ đầu của nhà ngươi rồi, Trương Tam Gia ta là người ngay làm việc ám muội, trước khi ngươi chết cũng cần phải cho ngươi chết cách ràng, kẻo xuống đến phủ phải làm con ma hồ đồ. Thằng hòa thượng Chuột trong Hòe Viên và con Thần Ngao trong Hoang Táng lĩnh đều chết trong tay của Tam Gia ta đây." Bạch Tháp chân nhân tuy biết mình chết chắc nhưng bao giờ tưởng tượng nổi mình sống được qua đêm, than rằng: "Trước đây, Phan hòa thượng bị bắt ba ngày mới trói giải ra chợ tùng xẻo, sao đêm nay giết ta luôn rồi?" đoạn, đổi giọng nghiến răng rít lên: " Ta tung hoành thiên hạ mấy chục năm trời, chẳng ngờ rốt cuộc hồ đồ thế nào lại chết trong tay thằng tiểu tặc nhà ngươi, ta chết cũng nhắm mắt được." Trước lúc bị hành hình, Bạch Tháp chân nhân khỏi tim lạnh lòng run, càng nghĩ càng sợ, giọng điệu cũng nhũn , vật nài rằng: "Xin Trương Bài đầu niệm tình pháp thân của ta tu luyện chẳng dễ, hơn nữa hình hài xấu xí này trộm sống đời nhiều năm, hay là để ta được chết nhàng chút, giữ cho cái thây vẫn còn toàn vẹn." đoạn, nước mắt, nước mũi chảy ràn rụa, bảo với Trương Tiểu Biện ở chỗ đó, chỗ nọ có chôn hộp "Kim Dương tiền", chỉ cần toại nguyện cho những thứ trong hộp tiền đó đều thuộc về họ Trương cả. Trương Tiểu Biện mặt ngầm ghi nhớ địa điểm chôn dấu Kim Dương tiền, mặt cất lời rằng: " Chắc hẳn đống Kim Dương tiền đó đều là của bất nghĩa, Tam Gia đương nhiên tính sổ nhận về, chẳng lẽ còn phải khách sáo với loại cẩu tặc như nhà ngươi hay sao? Có điều, ngươi van nài với ta cũng vô ích thôi, mới rồi Đề đốc Đồ Hải dặn dò thể để nhà ngươi chết sung sướng, mát mẻ được, chúng ta là công sai phải chịu sai khiến của quan , thể tự quyết, chỉ e Trương Tam Gia này khó lòng mà chu toàn cho nhà ngươi. Nhiều nhất, chúng ta cũng chỉ có thể đến Tết Thanh minh hóa thêm chút ít tiền vàng cho ngươi mà thôi, âu cũng là để ngươi bớt chút khổ sở dưới chốn tào." Bạch Tháp chân nhân ngờ Đồ Hải có lời dặn dò, trong lòng sợ run lên, : " chúng định xử trí bản chân nhân thế nào? Định mổ bụng moi tim hay lăng trì tùng xẻo? Hay muốn dùng xe xé xác, chém ngang lưng?" Lúc ấy, Tôn Đại Ma Tử quay về, trong tay cầm cái ống gỗ, bên trong chứa toàn bong bong cá đun sôi sùng sục, ngoài ra còn mang theo hai mảnh bao gai bị cắt nát. Trương Tiểu Biện chỉ vào đó rồi : "Quan gia có lệnh, niệm tình ngươi van vỉ đáng thương, nỡ dùng đến đao búa hành hình, chỉ cho ngươi nếm trận "quấn gai tra, lột da hỏi". Nghe năm xưa, lúc Nhạc Vũ Mục bị oan uổng, cũng phải chịu lối tra khảo này. Có điều, loại thối tha nhà ngươi tội ác ngập đầu, đúng là tự gây tội nghiệt đừng mong sống, nay sắp bị đạo trời tru diệt, sao có thể sánh ngang với Nhạc gia được, mau câm mồm lại mà nhận cái chết cho rồi." Bạch Tháp chân nhân có khí lượng hẹp hòi, hơn nữa xấu xí hèn đớn, biết phải chịu hình phạt " quấn gai lột da ", hiểu đây là cực hình hết sức tàn khốc, lại nghe những lời vừa rồi, lập tức vừa nổi giận vừa kinh hãi, "ọe" tiếng phun ra ngụm máu bầm, sặc sụa vài cái, điên cuồng chửi mắng: " Ta mình trong phủ Đề đốc bao nhiêu lâu, chưa từng làm hại đến già trẻ lớn bé trong nhà, thế mà thằng cẩu quan Đồ Hải độc ác với ta như thế sao! Được rồi, các ngươi đem thủ đoạn độc địa như thế để hại tính mạnh của ta, bản chân nhân sau khi chết niệm huyết chú, toàn thành Linh Châu thây chất như núi, máu chảy thành song, người ngợm súc sinh đều chết hết!" đúng là: " Người đời cứ bảo trời xa; Ai hay báo ứng hóa ra nhãn tiền." Muốn biết chuyện sau thế nào, xem hồi sau phân giải. Hồi thứ 9: Nhạn Doanh Lại Bạch Tháp chân nhân từng nấp trong chỗ kín đáo chính mắt nhìn thấy đao phủ Bộ hình lăng trì Phan hòa thượng ở giữa ngã tư đường, cứ tưởng cực hình tàn khốc đến thế là cùng cực. Chính vì vậy, khi sa vào tay quan phủ, chỉ khẩn cầu được chết nhanh, xin đừng lóc thịt tùng xẻo, để được chết cho toàn pháp thân. là, sợ nỗi đau khổ khi bị xử cực hình; hai là, theo quan niệm mê tín của người thời bấy giờ, nếu trong đời người phạm phải tội lớn, bị xẻo thịt phanh thây thành vạn mảnh pháp trường kiếp sau được làm người, chỉ có thể biến thành vô số những con dòi bọ, ruồi muỗi, mặc cho người đời tha hồ đánh đập, giẫm đạp, trầm luân vạn kiếp cất đầu lên được. Bạch Tháp chân nhân vốn là nhân vật có tiếng tăm chấn động thiên hạ, chẳng ngờ qua khe lật thuyền, bị người ta tốn chút hơi sức bắt sống, lại còn bị cắt gân, giày vò đủ kiểu. Biết là mình sắp ngậm hờn chết trong mật thất, van vỉ vật nài bọn Mã Thiên Tích đừng dùng đao búa chặt chém, ý là tốt nhất cho uống thuốc độc hoặc sợi dây gai để thắt cổ chết. Nhưng Mã đại nhân và Đề đốc Đồ Hải nọ đều là những kẻ nhẫn tâm độc địa, dùng đến đao kiếm cũng thể tay dung thứ cho tên trọng phạm này, đời làm gì có chuyện dễ dàng như thế, nên mới dặn tả hữu dùng đến hình phạt " quấn gai keo da cá", sau đó mới rời khỏi mật thất, tuần thị bố phòng trong thành. Trương Tiểu Biện và Tôn Đại Ma Tử nhận lệnh phải đích thân kết liễu tính mạng của tên ác tặc, liền dùng dao cạo sạch lông khắp mình Bạch Tháp chân nhân, sau đó đem miếng bao gai cắt thành từng sợi mảnh, nhúng từng sợi vào keo sôi rồi nhân lúc còn nóng, dán lên người . Trong phút chốc, từ đầu đến chân tên ác tặc dính đầy hàng trăm mảnh bao gai vụn. Lúc đó, Bạch Tháp chân nhân khiếp hãi tới mức toàn thân run lên cầm cập, cứt đái vãi tung tóe, muốn cứng cũng cứng nổi nữa, đành phải nhất loạt cung khai hết nới nấp của dư đảng, dám giấu giếm mảy may, chỉ cầu xin nới tay để được chết mát mẻ chút. Tôn Đại Ma Tử mắng rằng: " Ta xem đám giặc dòi bọ các ngươi chẳng đáng mặt tí nào, quả nhiên giống hệt thằng hòa thượng Chuột, trong người có lấy chút khí khái hung, dưới tay hại chết biết bao nhiêu sinh mạng, phạm tội tày trời như thế mà cũng chỉ đền bằng cái mạng nhà ngươi, cho dù lăng trì muôn mảnh cũng là dễ dãi cho ngươi lắm rồi. Hôm nay phải chết cứ thẳng thắn vươn cổ ra mà chịu chết là được rồi, sao lại có những cử chỉ đê hèn như thế." Trương Tiểu Biện cũng đứng cạnh cười mỉa rằng: " Pháp thân của chân nhân tuy tôn quý nhưng cực hình quấn gai lột da này lại khá khó chịu, được để cho chết ngay. Chúng tôi phải là những đao phủ tinh thông ngón nghề, hôm nay lần đầu tiên làm việc này, xuống tay khỏi có chỗ vụng về, nặng thế nào cũng mong chân nhân lượng thứ cho." Bạch Tháp chân nhân căm hận đến độ cắn vỡ cả răng, rít lên với Trương Tiểu Biện và Tôn Đại Ma Tử: " Các ngươi khinh người quá lắm, bản chân nhân có thành ma quỷ cũng quên được mối hận ngày hôm nay. Hai thằng tiểu tặc nhà ngươi tưởng mình là ai kia chứ? Đều chỉ là phường chó diều của bọn triều đình, con bà các ngươi, các ngươi có biết vì sao càng bắt bớ giặc giã càng nhiều, tiễu trừ hết ? Vì quan lại và giặc cướp là , mèo chuột phường thôi, thằng bắt cướp cũng đều là cướp cả, chẳng qua được làm vua, thua làm giặc thôi. Các ngươi dùng thủ đoạn tàn độc này để hại pháp thân đắc đaọ cuả bản chân nhân, đến tối còn mong được ngủ yên sao?" Trương Tiểu Biện nghe Bạch Tháp chân nhân càng càng oán độc, liền chửi rằng: "Câm mõm! Bọn ông hôm nay thay trời hành đạo, đưa thằng cẩu tặc nhà ngươi lên đường, mau nhân lúc còn sớm sửa, đến Uổng Tử Thành ở Phong Đô dưới ty mà báo tên !" đoạn, cũng Tôn Đại Ma Tử cúi xuống, phồng mang trợn má liên tiếp thổi hơi lạnh vào mình mẩy của Bạch Tháp chân nhân. Vốn là cực hình " quấn gai lột da" được đưa vào chính điển, chỉ là hình thức tra khảo tàn khốc được lưu truyền từ thời Nam Tống, về sau cũng nhiều lần được sử dụng để hành quyết tù phạm. Đầu tiên, đao phủ dùng dải gai tẩm keo nóng, dán vào da thịt cơ thể trần truồng của phạm nhân, keo bong bóng cá rất dính, dính chặt tới mức thể bóc da được. Đợi tới khi chúng se mặt, đao phủ mới kéo đầu dải gai, rút cái lôi theo cả mảng da lẫn thịt, vì vậy mới có tên là "quấn gai tra, lột da hỏi". Dẫu là hảo hán mình đồng da sắt cũng chịu nổi loại độc hình này, thế nên mới có câu rằng: " Khiến cho hảo hán mất hồn; Dẫu là cứng cỏi cũng còn thất kinh." Toàn thân Bạch Tháp chân nhân quấn đầy dải gai, Trương Tiểu Biện và Tôn Đại Ma Tử thi nhau thổi từng luồng hơi vào cơ thể . Thấy lớp keo bong bóng cá se nguội, ước chừng có thể hành hình được rồi, cả hai liền thử túm chặt miếng vải gai lưng Bạch Tháp chân nhân rồi mắm môi mắm lợi kéo ngược ra, chỉ nghe "soạt" tiếng, miếng cả da lẫn thịt bị lột tung ra, những tia máu bắn vọt xuống đất. Bạch Tháp chân nhân đau đớn quá, rú lên như lợn bị chọc tiết, gào thét kêu trời kêu đất. Tuy người Bạch Tháp chân nhân có đội lớp da chó nhưng trải mấy chục năm, lớp da đó gắn chặt với da thịt người làm , thể gỡ ra được nữa, khi bị rút dây gai tẩm keo cả mảng thịt cũng bị xé toạc ra theo. đau như cắt ruột, tự biết nếu chết như vậy quá thảm khốc, vội cất tiếng lần nữa xin tha mạng nhưng trong cơn đau đớn dữ dội, miệng lưỡi dường như còn nghe theo sai khiến. Trương Tiểu Biện cầm miếng vải gai vừa giật ra giơ lên xem, quả nhiên là dính cả da lẫn thịt, rồi thuận tay quẳng sang bên, để cho Bạch Tháp chân nhân kịp điều gì, đột nhiên nghĩ ra câu chế giễu, giả bộ ngạc nhiên mà rằng: "Ôi!... Tam Gia ta dường như nghe thấy tiếng trống, tiếng nhạc ồn ã trung, chắc hẳn là thần tiên mở cổng lớn để chuẩn bị đón chân nhân về trời, chuyện tốt như thế chớ nên chậm trễ." đoạn, lại cùng Tôn Đại Ma Tử nhất tề động thủ, giật toạc từng miếng vải gai, mới rút được nửa Bạch Tháp chân nhân đau đớn mà chết cứng. Sau khi hành hình, trong gian mật thất vương vãi máu thịt khắp nơi, nhìn kĩ đúng là có bộ xương người dị dạng trong tấm da chó. Trương Tiểu Biện mời viên quản gia trong phủ đến nghiệm hình rồi mới nổi đống lửa để đốt thây xóa vết, còn lại những chuyện quan phủ chiếu theo khẩu cung, ngầm bố trí tróc nã dư đảng Tháp giáo ngoài vòng pháp luật như thế nào khỏi phải cần thêm. Việc đạo náu trong phủ Đề đốc đương nhiên thể rộng ra ngoài, chỉ có điều cả nhà dưới đều phải chịu nhiều sợ hãi, định bụng đợi đánh lui Việt khấu mời gánh hát tới diễn mấy vở kiểu "Tam chiến Lã Bố", "Uất Trì Cung roi đoạt giáo", "Qua năm ải chém sáu tướng" có lời tuồng diễn võ trấn trạch, những chuyện đó cũng cần phải . Lời tác giả: Đáng thương thay Bạch Tháp chân nhân, khổ tu nhiều năm trong núi, luyện được thân dị thuật, thế mà cuối cùng lại có kết cục như thế, chết thảm khốc sao kể xiết, chẳng còn cách nào khác, chỉ có thể rằng: " Khuyên người ấy chớ làm điều ác; Ba thước vai có thánh thần; Làm ác mà trời báo ứng; Hóa ra người mất hết nhân luân." Đại để cũng chỉ vì Bạch Tháp chân nhân làm việc ác quá nhiều, kiếp số hết, ông trời muốn lấy tính mạng của nên tự nhiên khó lòng thoát chết. Về tình về lý như thế, tuy là vậy, nhưng người này cũng là đầu sỏ của Tháp giáo, quan phủ truy bắt mấy chục năm trời mà tìm được tung tích, ngoài thủ đoạn giỏi lẩn trốn ra, còn biết rất nhiều tà thuật của phái Tạo Súc, ngoài ra lại còn có con Thần Ngao ở Hoang Táng lĩnh và Phan hòa thượng chuyên ăn thịt trẻ con trong thành Đũa bên dưới Hòe viên. Đám nhân ác thú này nào dễ đối phó? Thế mà sao bản lĩnh tày trời của chúng thể thi triển được chút nào, trái lại tất cả đều phải chết trong tay của Trương Tiểu Biện? Cứ xem Trương Tiểu Biện cũng chỉ học được chút thuật xem tướng mèo đầu đũa, làm sao có thể chỉ nhờ vào ăn may, thấy đâu làm đấy, mà vừa giơ tay cất chân diệt trừ hết thảy đám gian tà ác thú đó được? Suy cho cùng vẫn là nhờ vào lời chỉ dẫn ngầm của Lâm Trung Lão Qủy. Lão già ấy thôi, chứ ra đề linh nghiệm như thần, phá giải được rất nhiều huyền cơ, chỉ cần làm theo sắp đặt của lão việc nhất định tốt đẹp. Trương Tiểu Biện cứ cho rằng thời vận của mình đến, mộ tổ nhà mình chắc mọc thêm tấm bia "Tiến phúc" vô hình, chỉ trong sớm muộn được mở mày mở mặt, nên mới có quý nhân phù trợ như thế. Được Lâm Trung Lão Qủy chỉ bến mê, chẳng bao lâu nữa, Trương Tam Gia nhà được đội mũ cao, mặc áo cừu, cưỡi ngựa béo, chỉ huy vạn quân ruổi thẳng đến núi non, uy phong và vinh quang nào ai sánh bằng? đâu hiểu được rằng, quan trường trầm luân, thực là bể khổ bờ bến, nào được tiêu dao tự tại, chòm hoa linh đỏ cài mũ ấy nhuốm biết bao nhiêu máu tươi. đời này làm gì cõ chuyện dễ dàng đến thế, thường có câu rằng: " Tưởng ngon xơi mà xơi được đâu", hung thần, mầm họa sớm tàng trong đó, chỉ có điều chưa đến lúc Trương Tam Gia phải trả giá đấy thôi, muốn hỏi "Muối vì sao mặn? Dấm vì sao chua?" phải biết lai lịch của Lâm Trung Lão Qủy trong mộ Kim Quan đó như thế nào? Rốt cuộc lão trợ giúp Trương Tiểu Biện là có mưu gì? Đừng bảo chỉ riêng mình Trương Tiểu Biện bị che mắt, ngay cả Bạch Tháp chân nhân, hòa thượng Chuột và Thát tử khuyển, những kẻ nhân ác thú phải trả giá bằng cả tính mạng, cũng đều phải chết mơ hồ, minh bạch. Chỉ e rằng, bọn chúng dẫu cho đến cầu Nại Hà, bước vào thành Uổng Tử cũng biết rằng mình chết vì mưu kế của Lâm Trung Lão Qủy. Còn về Lâm Trung Lão Qủy, đó là những chuyện về sau, dần dà , bây giờ tạm thời bàn đến, lại về thời thế ngày nay, thù trong giặc ngoài, đạo tặc thảo khấu nhiều như lông bò. Thành Linh Châu tuy quân nhiều lương đủ nhưng bị Việt khấu ùn ùn kéo tới vây khốn, trải qua mấy trận ác chiến, lòng người đều lo sợ. Chuyện Trương Tiểu Biện tiễu trừ tà Tháp giáo tuy làm rất bí mật, song thiên hạ này đúng là tai vách mạch rừng, chẳng quá dăm hôm cả thành đều biết cả, tiếng tăm của liền nổi như cồn khắp trong ngoài. Tiếng lành đồn xa, đồn đồn lại, ai nấy đều cho rằng Trương Bài đầu là nhân vật có bản lĩnh cao cường, mỗi lần trông thấy đều gọi là Bài Đầu trưởng, Bài đầu phó này nọ, cứu như xưng hô với mấy vị viên ngoại giàu có bằng. được mọi người hết sức kính trọng, ngày thường ra ngoài uống trà xơi rượu, các hàng quán đều dám nhận tiền. Trương Tiểu Biện tự lấy làm đắc ý đến mức đường cũng sắp quên nên bước chân nào trước. nhớ công ơn của Lâm Trung Lão Qủy nhưng vất vả tìm kiếm mãi mà được. lại nhớ đến bầy mèo hoang thành Linh Chấu nhiều lần giúp mình, nên cũng hay mua chút đầu cá, thịt luộc, mang đến Miêu Tiên từ thết đãi chúng. Chính vì vậy, trong toàn thành Linh Châu, từ người đến mèo đều hết sức ghi nhớ công ơn của , đặc biệt là những con mèo nhà, mèo hoang được nuông cho ăn thành quen nên đeo bám khắp nơi như hình vs bóng, kêu là đến, gọi là . hôm nọ, Mã đại nhân điểm lính dõng Linh Châu mặt thành rồi gọi Trương Tiểu Biện đến. Lão khen Trương Bài đầu có tài nghệ phi phàm, đừng tưởng trẻ người non dạ, thực ra từ xưa hậu sinh khả úy, mới cất tay là trừ sạch nghiệt Tháp giáo cát cứ trong thành Linh Châu nhiều năm, bản quan và Đề đốc Đồ Hải rất hài lòng. Người như thế này mà để trong đám Bổ khoái ở Nha môn khác nào giết gà dùng dao mổ trâu, vì vậy phá lệ tiến cử, điều chuyển vào trong quân để ra sức vì triều đình, có như thế toàn bộ bản lĩnh chân thực mới có cơ hội thi triển, từ hôm nay điều đến làm doanh quan trong quân Đoàn luyện, cai quản doanh lính dõng. Vào thời ấy, quân Bát kỳ người Mãn và quân Lục doanh người Hán nhiều năm chinh chiến, quân kỷ lỏng lẻo, sĩ tốt bê trễ, còn tinh nhuệ như hồi hoành hành thiên hạ năm xưa, khó lòng đối phó được với chiến có quy mô lớn. Chỉ có mỗi đội quân Mông Cổ do Tăng Cách Lâm Tẩm chỉ huy là còn đủ khả năng Nam chinh Bắc chiến, ngoài việc phòng vệ vùng hiểm yếu của kinh kỳ còn phải điều các nơi trấn áp khởi nghĩa nông dân. Lúc đó, triều đình hỗn loạn, thiên hạ chao đảo yên, đội người ngựa ấy tuy tinh nhuệ nhưng dập được phương Đông phương Tây lại nổi loạn nên vô cùng mệt mỏi, hơn nữa đại quân trấn giữ kinh thành thể dễ dàng điều động được, triều đình phải lệnh cho các địa phương tự tổ chức dân quân. Đội dân quân đông đảo của thành Linh Châu phần lớn là quân chiêu mộ tại địa phương nên khó tránh được cảnh rồng rắn hỗn tạp, có khá nhiều thành phần thảo khấu, đạo tặc được chiêu an về, trong đó có doanh quân gọi là "Nhạn doanh". Trong doanh này đều là thợ săn nhạn đồng hương, đồng tộc xuất thân, hết sức kiêu dũng thiện chiến, dẫu xung phong hãm trận vẫn bình thản như . Song, ở đời chum vò vỡ miệng giếng, tướng quân chết trận tiền, trong trận huyết chiến giữ thành chống địch mấy hôm trước, viên doanh quan của Nhạn doanh bị viên đạn của Việt khấu xuyên vào não mà chết, chính vì vậy, chức vụ trưởng quan trong doanh tạm thời vẫn khuyết chỗ. Mã đại nhân biết rằng sĩ tốt của Nhạn doanh rất hung hăng, lại đều xuất thân từ đám thảo khấu giang hồ, quan quân khó lòng khống chế, chỉ e chúng làm loạn, chính vì vậy lão định bụng phái người tâm phúc để thống lĩnh doanh này. Còn Đề đốc Đồ Hải lại cho rằng lính dõng Nhạn doanh đều là phường kẻ cướp, nhiều lần gây náo loạn trong thành, có ý đồ giết quan lại để tạo phản, thể giữ lại được, giữ lại trở thành đại họa, nên mau chóng tìm cách phế bỏ doanh này . Hai bên tranh cãi thôi, cuối cùng Đồ Hải đề nghị để Trương Tiểu Biện chỉ huy Nhạn doanh, ngoài mặt là có ý đề bạt , kỳ thực lão dụng tâm hiểm độc, sắp xếp như thế là có ý đẩy Nhạn doanh trở lại. Nào ngờ đâu, vì chuyện này nên mới dẫn đến trường ác chiến, chém giết đến mức long trời lở đất, nhật nguyệt lu mờ. Thế mới có câu rằng: "Thiên binh vạn mã ào ào; Máu đầy khe rãnh thây cao mặt thành." Quyển này đến đây là hết, muốn biết chuyện sau thế nào, xem quyển thứ năm "Nhạn doanh" của bộ Tặc Miêu .
Quyển thứ năm Nhạn doanh Hồi thứ 1: Nhạn bài lý tứ Có câu rằng : "Trâu cày thiếu cỏ, chuột kho thừa thóc." Con trâu kéo cày cả đời vất vả khổ sở nhưng ngay cả cỏ để ăn cho ấm bụng cũng chưa chắc có đủ, tới lúc về già còn bị người ta mổ thịt. Trong khi đó, bọn chuột đục khoét kho lương được ăn đẫy thóc gạo, béo núch ních, sống an nhàn. Đời con người ta cũng thế, cứ gắng công cố sức làm lụng cách chân chính vị tất được đền đáp xứng đáng. Mã đại nhân biết hao tốn biết bao nhiêu tâm cơ để chiêu mộ quân lính giữ thành, chống giặc nhưng viên Đề đốc giá áo túi cơm người Bát kỳ Đồ Hải nọ chỉ chăm chăm sợ Mã đại nhân đoạt được binh quyền trong thành Linh Châu. Vì vậy, lão mới ủ mưu cắt hết vây cánh của Mã đại nhân, việc đầu tiên là phải xoá sổ Nhạn doanh. Quân lính trong nhạn doanh đều xuất thân từ thợ săn nhạn, hay còn gọi là nhạn dân chuyên kiếm sống bằng nghề săn trộm nhạn. Ở phía tây thành Linh Châu có vùng đầm lầy lau sậy rộng lớn, gọi là Hoàng Thiên Đăng. Nơi đây cỏ nước sải mênh mông, biết che rợp bao nhiêu dặm, là chỗ dừng chân của bầy nhạn lớn bay qua lại giữa phương Nam và phương Bắc. Nhạn là loại vật thủ tín, mỗi khi đến kỳ di trú, đàn nhạn lại rợp , từng hàng từng hàng kín nền trời, nhìn ngút mắt. Thợ săn đời này chẳng ai lại đào hầm hố đặt bẫy hoặc là dùng cung nỏ, súng ống để bắn muông thú, nếu là làm theo đúng cách muốn bắt hùm hổ báo gấu hay cầy cáo chồn thỏ gì cũng cần phải bàn, chỉ riêng có việc săn bắt nhạn là khó nhất. Tục ngữ có câu "ăn thịt chim hơn nghìn thịt thú", trong đó nhạn hoang đứng đầu trong các loài chim, từ thời cổ người ta coi nó là loài linh vật có đầy đủ cả ngũ thường. Thế nào là "ngũ thường"? Tức là: nhân, nghĩa, lễ, trí, tín. là chim nhạn có Nhân vì trong bầy nhạn, riêng những con già yếu bệnh tật, thể tự kiếm ăn những con lớn, khoẻ mẹnh nuôi dưỡng chúng đến chết, bao giờ bỏ mặc đồng loại, đó là tấm lòng của kẻ có nhân. Nhạn những có Nhân mà còn có Nghĩa. Nhạn trống và nhạn mái luôn thành cặp, chung thuỷ với nhau. Dẫu cho nhạn trống hay nhạn mái chết trước con nhạn lẻ còn lại tới chết cũng hông tìm kiếm bạn mới. Đó là điểm mà loài nhạn có tình nghĩa còn hơn cả loài người. Đàn nhạn bay trời thường xếp thành hình chữ nhất hoặc hình chữ nhân, từ đầu đến cuối được xếp theo thứ tự dưới, được gọi là "thứ tự của nhạn," bay ở đầu đàn đều là những con nhạn già. Những con nhạn khỏe mạnh dẫu có bay nhanh cũng dám vượt lên trước những con nhạn già, đó là ý tứ khiêm tốn, giữ lễ. Nhạn là loài vật khó bắt nhất vì nhạn có mưu trí.Khi cả đàn đáp xuống đất nghỉ ngơi, trong bầy có con nhạn lẻ đóng vai trò cảnh giới, thế mới gọi là "đất ngán chó, trời ngán nhạn, nước ngán cá chuối", ba loài đó là những sinh linh hết sức nhạy bén, mưu trí. chỉ cần có hơi chút gió cây lay động là bầy nhạn lập tức bay vọt lên trung trốn tránh, chính vì vậy, cho dù là thợ săn hay dã thú đều khó mà tiếp cận được bầy nhạn mặt đất. Chữ Tín của nhạn tức là chỉ vào tập tính thiên di xuống phương Nam, về phương Bắc của nhạn hoang. Hễ đổi mùa là chúng lại di trú, xưa nay hề sai lệch, vào mùa thu là lại bay xuống phương Nam, vì vậy màu thi còn gọi là "mùa Nhạn". Ngũ thường có "Nhân, nghĩa, lễ, trí, tin" của loài nhạn cho dù người chí hiền chí thánh cũng vị tất có đủ, vì vậy, những người thợ săn nhạn mưu sinh ai kính trọng đức hạnh của chúng. Khi giới bắn nhạn của cánh thợ săn gọi là "Nhạn Bài", tức là cái bè gỗi có gắn súng kíp. Đầu tiên, họ giấu kín bè gỗ trong vùng lau rậm rạp, sau đó, những thợ săn có thân thủ nhanh nhẹn, khỏe mạnh, mình choàng áo tơi, đầu cắm lông nhạn trú ngụ, cách tầm tên bắn tiếp cận nữa, bằng ắt làm đàn nhạn hoảng sợ bay mất. Đám thợ săn nhạn nằm phục đến tận đêm khuya, tới khi trăn lạnh sao mờ mới đột nhiên châm cây đuốc khiến con nhạn lẻ cảnh giới trong bầy nhạn lập tức vỗ cánh báo động, người thợ săn cũng lập tức dìm tắt ngọn đuốc xuống nước rồi tiếp tục im hơi lặng tiếng, náu mình nhúc nhích. Bầy nhạn hoảng sợ tỉnh giấc định giương cánh bay lên thoát thân phát thấy bốn bề mờ mịt, im ắng, đâm ra nghi ngờ con nhạn lẻ đó báo động nhầm, liền quang quác trách mắng nó trận rồi yên tâm nghỉ ngơi tiếp. Đám thợ săn nhạn nấp ở bốn phía nghe bầy nhạn dần dần yên ắng liền lại châm lửa lần nữa. Con nhạn lẻ tận trung, hết mình vì nhiệm vụ, lập tức lại báo động, nhưng đám thợ săn nhạn vẫn dập ngay ngọn đuốc. Cứ như thế lặp lại vài lần, bầy nhạn bị quấy nhiễu đến mức quá mệt mỏi. Trải qua chặng đường dài, vốn chúng nhọc sức lắm rồi lại bị con nhạn lẻ năm lần bảy lượt làm phiền mà nào có nguy hiểm nào đe dọa trong đám lau lách? Cuối cùng chúng nổi nóng mổ chết tươi con nhạn lẻ nọ. Nhưng như thế là trúng phải quỷ kế của bọn thợ săn nhạn rồi, là mất con nhạn lẻ cảnh giới, hai là bị quấy nhiễu nhiều lần tới mức buồn ngủ rũ ra, tâm lý cảnh giác giảm rất nhiều. Đám thợ săn nhạn liền nhân cơ hội giơ súng kịp bao vây bốn phía. Khi bầy nhạn phát giác ra đại hỏng vội bừng tỉnh dậy, lúc ấy muốn chạy cũng muộn,tất cả đều lọt vào lưới đạn từ các bè săn nhạn, hầu như chết hết cả đan. Cách săn nhạn như thế được gọi là "đánh nhạn lẻ". Đám thợ săn dựa chủ yếu vào nghề bắt nhạn để sinh sống cũng chỉ đủ rau cháo qua ngày nhưng vẫn bị quan phủ bắt ne bắt nẹt, cho tới lúc thiên hạ đại loạn càng áo đủ che thân, cơm đủ ấm bụng. Trong đám có người dựa vào thân thủ nhanh nhẹn, chuyên nấp trong đám lau lách hoang vu để cướp của, giết khách thương qua lại, làm những việc gọi là thay trời hành đạo, lấy của nhà giàu, chia cho người nghèo, cũng coi như đứng vào hàng lục lâm mãi lộ. Về sau, đám người này đều được Mã tuần phủ chiêu an cho biên chế vào lính dõng Linh Châu, gọi là Nhạn doanh. Tới nay, khi viên quản doanh chết trận, Đồ Hải liền tiến cử Trương Tiểu Biện tới thống lĩnh doanh này vì lão phát ra, chính là người tra xét ra đạo náu trong phủ tướng quân khiến lão bị ê chề mặt mũi, lại chỉ e người này sau trở thành cánh tay phải đắc lực của Mã Thiên Tích. Đồ Hải ngấm ngầm căm giận, định bụng tìm cái cớ để diệt trừ mối vạ gan ruột, đúng là: "Trong triều gian đảng lộng hành; hùng thiên hạ cũng đành sa cơ." Trương Tiểu biện những tưởng được quan cất nhắc, chứ nào biết được những chỗ hiểm ác của cuộc đấu tranh trong sáng ngoài tối giữa chốn quan trường. Chính vì vậy, mới đưa Tôn Đại Ma Tử và con mèo đen, xúng xính đến nhận chức, nghĩ bụng, Nhạn doanh ít nhất cũng có tầm, chín trăm lính dõng, nay đều phải nghe hiệu lệnh sai khiến của Trương Tam gia ta, thực là đắc ý vô cùng. Lão quân doanh của Nhạn doanh chết nên vụ trong doanh tạm thời do con trai lão là Nhạn Bài Lý Tứ cầm đầu. Lý Tứ mới hai mấy tuổi đầu, vốn là kẻ mãi lộ kiếm tiền xuất thân từ dân săn nhạn, giỏi kết bè chèo mảng, vì vậy mới có tên hiệu là "Nhạn Bài Lý Tứ", đồng thời, gã còn nổi tiếng là tay thiện xạ, súng trong tay bắn trăm phát trăm trúng. Gã còn có em được cưng chiều từ tên là Nhạn Linh Nhi, tuy nét mày thanh tú, thần thái thướt tha nhưng lại là trang nữ nhi căn quắc hùng thua kém đẩng tu mi nam tử, còn hơn cả Hỗ tam nương trong "Thủy Hử", chẳng nhường Bà La Sát trong "Tây Du". chẳng những từng trải chiến chinh mà còn có tài bắn bách bộ xuyên dương, thường dắt bên mình cái loan cung đầu nhạn và bay mươi hai mũi tên đuôi nhạn, xưa nay hễ tên rời dây cung là trúng, trăm phát như , lúc này, cũng ăn mặc giả nam giới, theo việc đánh trận trong doanh. Nhạn Bài Lý Tứ từ lâu cảm thấy vieencj làm lính dõng bán mạng cho quan phủ tuy cũng là vào sinh ra tử nhưng được xem bằng với cánh quan quân có lương có lậu, lại càng kém xa hồi giết người cướp của sung sướng của Hoàng Thiên Đãng, sao phải khuất thân làm thằng lính quèn để ngày nào cũng phải phiền não, vào luồn ra cúi mới sống được? Gã đương định đem quân rời thành, tới lúc đó "chọc trời khuấy nước mặc dầu, dọc ngang nào biết đầu có ai" chẳng cần biết đến quân Thanh hay quân Thái BÌnh cái quái gì,chỉ cần bước chân vào Hoàng Thiên Đãng là mặc ông nội các ngươi muốn chém muốn giết tùy thích. Chính vào lúc đó, bỗng nghe có Trương Bài đầu ở nha môn tới thống lĩnh Nhạn doanh. Nhạn Bài Lý Tứ là kẻ đầu đội trời, chân đạp đất, tráng chí ngút mây xanh, rất thích kết giao với các trang hào kiệt trong thiên hạ, nghĩ bụng: "Nghe đại danh Trương Bài Đầu lâu, được người ta kể đến mức muốn rộp cả tai, nay có duyên sao khong gặp mặt lần xem có thực là hảo hán xuất chúng , sau đó rồi bỏ cũng chưa muộn," Đoạn, gã ra nghênh đón. Nào ngờ khi hai bên gặp mặt, Nhạn Bài Lý Tứ cứ tưởng mình bị hoa mắt. Trông Trương Tiểu Biện nọ, tướng mạo vô lại, loắt cha loắt choắt, mũ đội lệch lạc, mắt nhìn liên láo, quan phục mặc người hết sức thùng thình, vai còn vắt vẻo con mèo đen, chỉ có gã mặt mụn bên cạnh còn ra dáng lưng hùm vai gấu, nhìn vóc dáng bước chân liệu chừng cũng là tráng sĩ có chút võ nghệ. Mặc dù vậy, đất Linh Châu từ xưa có phong tục thờ cúng Miêu Tiên, đám thợ săn Nhạn cũng tôn kính Miêu Tiên gia. Vừa trông thấy vai Trương Tiểu Biện có con mèo đen ngồi bọn Nhạn Bài Lý Tứ cũng dám quá coi thường, lập tức chắp tay hành lễ nhưng trong lòng vẫn còn chút nghi hoặc, thể tin tưởng hoàn toàn rằng, bằng vào thằng nhóc lưu manh này làm sao mà có bản lĩnh giết chết những tên giặc khét tiếng như Phan hòa thượng và Bạch Tháp chân nhân được? Trương Tiểu Biện rất biết với bụt mặc áo cà sa, với ma mặc áo giấy, lại được lời mách bảo của Lâm Trung Lão Quỷ, hiểu rằng trong Nhạn doanh phần lớn là những đại hán lỗ mãng. cũng chắp tay hành lễ, rồi hỏi thẳng bọn lý Tứ rằng: "Chư vị hảo hán trước đây đều là cánh mãi lộ tụ tập trong rừng núi phải ?" Bọn Nhạn Bài Lý Tứ, Nhạn Linh Nhi nghe xong giật mình. Nhạn doanh ngày nay được triều đình chiêu an làm lính dõng, quan gia từ lâu tỏ ý xá cho hết những hành vi làm trước kia, lời vừa rồi của tên này có ý gì? Chẳng lẽ quan phủ đổi ý, định khử chúng ta chăng? Nghĩ tới đây, cả bọn bất giác nổi bụng đề phòng, nhè đặt tay lên chuôi đao, chỉ đợi khi quân mai phục của quan phủ ồ vào mọi người giết trước rồi liều chết phen. Nào ngờ, Trương Tiểu Biện vẫn to mồm oang oang: "Nhớ khi xưa, tổ tiên nhà họ Trương của ta cũng có người làm nghề mãi lộ, hồi đó cũng là nhân vật có tiếng tăm trong đám lục lâm. Từ trước tới nay, là mãi lộ phần lớn là cướp giữa ban ngày, gặp những đại phú hộ hay khách thương qua lại việc đầu tiên là bắn mũi tên gió làm hiệu, sau đó mới xuất để cản đường, đồng thời, đọc lên mấy lời dọa nạt quen thuộc: "Núi này do ta khai hoang, cây này do ta trồng, muốn qua mười xe để lại chín, nếu hé răng nửa chữ "" "ha ha", đao là tong mạng." Làm như thế mới gọi là to gan mật lớn, đến cỗ ngựa cũng cần phải đeo nhạc, đến đâu tiếng vang đến đó, thế mới đáng mặt thảo khấu đường đường, có bản sắc hùng Lương Sơn, chứ đám chuột bọ cướp cạn tầm thường tuyệt đối thể sánh được. Thế nhân người trần mắt thịt, chỉ biết chúng ta xuất thân là dân mãi lộ, chứ biết được nghĩa khí của kẻ lục lâm chẳng phải bọn trai tráng tủn mủn nào cũng có thể học được. Chư vị xuất thân từ cánh mãi lộ chắc đều là đấng hùng khảng khái, phóng khoáng đương thời, tiểu đệ đây may mắn được gặp mặt, là có phúc ba đời." Hai hôm trước, Trương Tiểu Biện cùng với Tôn Đại Ma Tử bí mật đào được hộp Kim Dương tiền do Bạc Tháp chân nhân lúc sinh thời chôn giấu trong thành. tin theo lời của Lâm Trung lão quỷ, chỉ sợ giữa nhiều tiền bạc rước tai vạ, tự hủy tiền đò của mình. Trước khi làm đến quan to, dám nổi lòng tham, lúc ấy vắt gan cắt ruột đem toàn bộ đống kim tiền vào trong doanh để phân chia cho tướng sĩ, bày tỏ lòng kết giao. Cổ nhân có câu: "Kẻ sĩ chết vì người tri kỷ", mấy lời này của trương Tiểu Biện thực là đúng nỗi lòng, hộp Kim Dương tiền đầy chặt càng khiến người ta hoa mắt. Bọn Nhạn Bài Lý Tứ đều mang trong lòng mình hào khí của bậc hùng, tính tình lỗ mãng, vừa nghe thế ai nấy đều thay đổi sắc mặt, cảm thấy rằng, chưa vội bàn bãn lĩnh của vị họ Trương này ra sao, chỉ riêng về trọng nghĩa khinh tài vừa rồi cũng đáng kể vào hàng trượng phu, đún có khí lượng của bậc tể tướng. Kẻ có thể ra những lời ấy, tuyệt đối phải bình thường, nây giờ tuy mới chỉ là trưởng quan trong doanh lính nhưng ngày sau ắt thành việc lớn, hơn nữa cũng có xuất thân mang dòng máu lục lâm của bọn ta. Nếu có thể theo người này lo gì chẳng được trọng dụng? Chính vì vậy, cả bọn đều tâm phục khẩu phục, lập tức khuỵu gối khom lưng, lạy rạp tung hô cả lượt. Lý Tứ cầm đầu cả bọn, : "Tuy chúng tôi đều xuất thân từ trong đám nhơ nhuốc nhưng cũng biết được những chuyện hùng, từng xem tích xưa nay, hiểu được rằng, hai chữ "nghĩa khí" ở đời này rất quan trọng. Nếu Trương Tam ca ruồng bỏ, chúng tôi nguyện được kết giao, từ nay về sau đồng sinh cộng tử, vinh nhục có nhau, cho dù phải nhảy vào núi đao biển lửa cũng vĩnh viễn xin theo." Có lời rằng: "Đánh hùm nhờ sức huynh đệ, xông trận cậy quân cha con". Trong các cảnh dân quân lính dõng đương thời, phần lớn rộ lên trào lưu kết nghĩa huynh đệ, nếu làm như thế khó có chỗ đứng trong quân. Lần này đúng là bọn họ có duyên phận từ kiếp trước, số kiếp tương đồng, vừa gặp mặt nhau thấy tâm đầu ý hợp, nguyện cùng kết nghĩa em sống chết. Chọn ngày chẳng bằng nhân dịp, tướng sĩ Nhạn doanh lập tức đắp đất làm lư, cắm cỏ làm hương, Trương Tiểu Biện, Tôn Đại Ma Tử, Nhạn Bài Lý Tứ, Nhạn Linh Nhi và những tùy tùng xuất thân từ thợ săn nhạn cùng quỳ xuống đất, chắp hai tay, nhón tay cái hướng vào trong tim mình, trước mặt con mèo đen, ngẩng đầu nhìn trời mà thề, cùng nhau đọc lời "Lệnh thắp hương" là: Hai kẻ đồng lòng Sức bạt núi sông Vạn người như ; Sử ghi tiếng tốt. em giang hồ; nghiệp nghìn thu. Thắp hương cắt máu; Sống chết có nhau." Trương Tiểu Biện may được Lâm Trung lão quỷ chỉ đường số mệnh của mình, chỉ cần năm câu ba điều tự dưng được đám hảo hán nguyện đem cả tính mạng ra giao phó, thực là hổ thêm cánh, cái gọi là ba cây chụm lại nên hòn núi cao là thế, nếu được như vậy lo gì kế lớn chẳng thành công? Đúng là "Muốn sang bắc cầu kiều; Lên non phải liều thân mở đường." biết Trương Tam gia chỉ huy Nhạn doanh như thế nào, xem hồi sau .
Hồi thứ 2: Người kể chuyện, Lại về thành Linh Châu, từ thời xưa nổi tiếng là sản sinh ra nhiều mèo khoang, vì vậy mới có tên gọi nôm na là "Miêu nhi thành". Nơi đây tuy là chốn giàu có, phồn hoa, gấm vóc nhưng cũng là đất dụng võ của quốc gia. Thiên tai địch họa kéo dài từ năm này qua năm khác, bên là quan phủ vơ vét, trưng thu, bên là giặc giã bốn bề tắm máu, làng xa thôn gần quanh vùng phần lớn bị tàn phá tới mức điêu tàn. Những người thợ săn nhặn sống dựa vào nghề bắt nhạn và đánh cá, hầu hết chẳng còn đường sống cho gia định, liền nhao nhao làm thảo khấu. Nhưng khi chiến tranh nổ ra, đất hoang nghìn dặm, ở chốn hoang vu, ngoài đám dân chạy loạn tụ tập để trốn tránh ra, nào có khách buôn hay nhà giàu nào mang hàng qua, cũng chẳng có nơi nào để cướp của nhà giàu chia cho kẻ nghèo. Đám thợ săn nhạn chỉ còn mỗi hai con đường, là, theo lệ cũ, "muốn làm quan giết người phóng hỏa nhận chiêu an", toàn bộ được biên chế vào lính dõng để ra sức vì nước, theo quan phủ tiều trừ giặc giã, hai là, nhập quân Thái Bình, dựng cờ làm phản. Tóm lại, dầu đàu thân vào đâu cũng tránh khỏi cảnh xông pha trận mạc, nếu có trách chỉ trách nhà mình nghèo khổ, sinh ra ở tận đáy xã hội, lại gặp phải tời tao loạn, chẳng chết dưới lưỡi gươm thi cũng chết nơi đầu giáo. Phân tích kĩ hơn con đường thứ nhất vừa có lương vừa có tiền, lại là danh chính ngôn thuận, còn con đươngg thứ hai khó thoát khỏi tội tru di cửu tộc, ngoài ra quân thía Bình thờ Thượng đế, so với phong tục thờ Miêu Tiên ở Linh CHâu trái ngược như nước với lửa, những người bình dân thể tiếp nhận quan niệm đó được. Sau khi đám thợ săn nhạn thương nghị, kết quả là thanh niên trai tráng đều theo thủ lĩnh là Lão Nhạn Đầu, đem thân về với quan phủ, liều mạng đánh trận để đổi chút lương tiền mang về nuôi dưỡng người già, đàn bà và trẻ con. Sao khi Lão Nhạn Đầu chết, Nhạn doanh như rắn mất đầu, thiếu lương hết tiền, cả bọn vốn xuất thân từ cánh mãi lộ ở Hoàng Thiên Đăng, lại thường lo sợ quan phủ để bụng hiềm nghi, tính làm ầm lên rồi bỏ thành Mã đại nhân phái Trương Tiểu Biện đến làm doanh quan. Trương Tiểu Biện giở ngón đem tiền bạc ra kết giao, thu nạp nhân tâm. ĐÁm lỗ mãng trong Nhạn doanh quả nhiên cảm kích vô cùng, đều tình nguyện nghe theo hiệu lệnh của , mọi người chiều theo quy củ của đám lục lâm thắp hương ăn thề, tyu chỉ là cắm cỏ dại làm hương, lấy nước suối làm rượu nhưng đây là nghi lễ của tiên hiền ngày xưa truyền lại, truyền đến đời sau danh thơm bất hủ vẫn còn lưu muôn thuở. Đọc xong lời "Lệnh thắp hương", mọi người tự ra ngày sinh tháng đẻ, phân chia lớn , rồi trước Hoàng thiên hậu thổ và Miêu Tiên gia, ai nấp rập đầu, cắt amus ăn thề, kết thành an hem sống chết. Cánh lục lâm mãi lộ lập bang, lập hội, xưa nay đều tôn thờ "Vua Cướp" ở Động Đình tỉnh Hồ Nam, sau khi thắp hương xong, ai nấp đọc lượt bài" Thường thắng tán phú" làm chứng. Vào thời ấy, ngay cả tướng sĩ, quan quân Lục doanh chính quy cũng đều ngấm ngầm làm theo lệ đó chứ chẳng riêng gì lính dõng vũ trang ở địa phương, thế mới là quan và cướp làm , điều này chắc cho thấy ? Tạm hãy nghe bài tụng kết nghĩa rằng: Doanh chữ "Nhạn" lệnh ban bố; Người hữu duyên nghe lời đây; Hôm nay tốt tháng đẹp ngày; Chúng tôi huynh đệ nơi này kết giao; Khí tượng coa nguy nga trời đất; Đúc lầu vàng chọn đặt danh sơn; Bắc Nam hào kiệt đổ dồn; Toàn người danh nổi như cồn mà thôi. Chánh phó quan xin mời lên trước; Đội tiêu đầu lần lượt xưng tên; Sai quân thám thính bốn bên; Chớ cho gian tế làm phiền nhiêu khê; Đàn ăn thề đắp xong xuôi hết; Lên thắp hươngrồi kết an hem Nén dầu, đem tuổi so xem; Trước kia Dương, Tả từng phen thế này; Tiếng thơm nay hẵng còn lưu cả; Học người xưa còn qua ruột liền; Nén hai, kính thuở Đào viên; ràng nghĩa khí còn truyền thiên thu; Cắt màu nguyền sao cho được thể; Dâng ngựa trâu mà tế trời xa; Noi Lương Sơn, nén thứ ba; Sẵn lòng đem mạng để mà vì nhau; Nay trước sau chúng tôi kết ước; Quyết đồng lòng theo bước cổ nhân. Lại về việc kết nghĩa, muốn giống được người xưa phải làm sao cho sắt đá khong thể đổi dời, sống chết thể lay chuyển mới được, người xưa kết giao làm bạn rất coi trọng lời thề, giống như người thời nay, chỉ kết giao kiểu đầu môi chót lưỡi, rượu thịt lắm em, đến khi hoạn loạn chẳng thèm nhìn nhau. Mọi người trong doanh theo lệ thời cổ kết bái huynh đệ, cảm tháy vui mừng vô hạn. Tuy xét về tuổi tác, Trương Tiểu Biện thể xếp wor , nhưng thân làm trưởng quan của Nhạn doanh, ai nấp đều tôn kính, nên dẫu người lớn tuổi cũng gọi là tam ca. Trương Tiểu Biện cũng nhắm mắt nhận bừa, xưng hô huynh đệ với mọi người, sau đó sai bày tiệc rượt để say sưa trận. Số là từ khi Trương Tiểu Biện mò được Phong Vũ chung mang ra khỏi giếng cổ trong chàu Tháp Vương tòa tháp phía trung thành Linh Châu cuồn cuộn tản ra, che rợp bốn phía, khuất lấp tám phương, hóa ra là do trận mưa lớn kéo dài suốt mấy ngày, Mưa trút như nghiêng dốc đổ bể khiến cho sông ngòi đầy ư, làm ngập biết bao nhiêu ao xung khe hốc. Thành Linh Châu địa thế khá cao nên bị ngập, nhưng quân Thía Bình đnag bao vây ngoài thành đủ lương thảo, lại đào hào vây khốn thành, thực tế là chuẩn bị mở đường hầm để nổ thành, tới giờ mưa lớn mấy hôm liền, thuốc nổ đều bị ướt hết, sử dụng được. Thấy lương thảo trong quân hết, vả lại có cách nào đánh thành, đại quân đành tụ tập người ngựa chuẩn bị bỏ vây, rút thành. Tuần phủ Mã Thiên Tích đứng mặt thành theo dõi động tĩnh Việt khấu, biết quân địch bị thua liên tiếp mấy trận, lại còn lương thảo, khi rút nhất định hoảng loạn, nếu có đại đội quan binh vây chặt xung quanh thêm lính dõng trong thành Linh Châu thuờ cơ đánh ra, trong ngoài thành cùng tấn công chém cho chúng còn manh giáp. Tuy nhiên mấy tỉnh ở Giang Nam đều bị đánh chiếm, quanh vùng vốn chẳng còn đại đội quân nào để điều động được nữa. Mã đại nhân hiểu , cũng chỉ vì thành Linh Châu tay đơn phó vỗ, Việt khấu thấy muốn đến là đến, nên khi rút kui nhất định sao lãng việc đề phòng, chính vì vậy, lão tính toán phái mấy doanh lính tinh nuệ, vòng ra ngoài phục kích đường. Nhưng Đề đốc Đồ Hải lại sống chết đồng tình, lấy lí do là lính dõng Linh Châu có hạn, chỉ đủ giữ thành, được tùy tiện điều động quân, moojy tốt nào ra ngoài dã chiến với đại quân của Việt khấu, bằng phòng vệ trong thành vững chắc. Nếu tham công mà để mất Linh Châu, khi triều đình giáng tội biết ăn làm sao. Mặc dù vậy, cuối cùng Đề đốc Đồ Hải cũng : "Quan quân tuần thị và quân Bát Kì thể điều động, nhưng cứ để bọn giặc tóc dài đó khoa trương thanh thế mà rút như thế, hóa ra tăng uy thế cho chúng hay sao? Theo bản Đề đốc thấy, Nhạn doanh của thành Linh Châu chúng ra rất kiêu dũng thiện chiến, chi bằng ái doanh này đuổi theo chém giết chúng phen. Mã thiên Tích thầm biết Đồ hải chẳng những tính tình hẹp hòi mà còn lợi dụng chuyện công để trục lợi, đến đâu cũng ra sức vơ vét của cải cho đầy túi riêng, thực là tham lam vô độ. Lão từng phái người chuyển mấy xe tiền của về Bắc Kinh nhưng đến giữa đường bị đám thợ săn nhạn cướp mất, chính vì vây, đối với doanh quân này thường ôm hận trong lòng, coi họ là cái gai trong mắt, sớm có bụng xóa sổ càng nhanh càng tốt. Từ xưa có câu: "Trứng khôn chọi đó, rắn há thắng rồng". doanh lính dõng bé làm sao đối phó nổi với đại quân việt khấu hàng vạn người? Mã Thiên Tích vốn muốn ưng thuận nhưng lại nghĩ rằng: "Bây giờ chưa nên đắc tội với lão thất phu Đồ hải, hơn nữa, nếu như có thể đánh mộ trận bất ngờ, thắng bại cũng chưa biết đâu được" Lão liền trú tính lúc rồi sai Nhạn doanh mang theo nhiều hỏa khí, lại cho nghỉ ngơi ngày hôm nay, ăn uống rượu thịt no nê bữa, đợi đến tối nhân lúc mây mưa mù mịt theo cửa Thủy môn ra ngoài thành, vòng đến Hoàng Thiên Đăng mai phục rồi đợi đến khi Việt khấu qua đổ ra chém giết. Quan sĩ dưới trong Nhạn doanh nhận được lệnh đều biết ngàu mai nổ ra trận ác chiến. Nhưng, cánh thợ săn nhạn vốn đều là những tay kiêu dũng, xưa nay chưa hề sợ chết, sau khi no say trận ai nấy đều chỉnh đốn khí giới, riêng bọn Lý Tứ vẫn bình tĩnh tiếp trương Tiểu Biện chưa chịu thôi. Tôn Đại Ma Tử và Lý Tứ nể nhau là kẻ hào kiệt, liên tiếp mới uống cạn mấy bát rượu, cứ hơi là hết, rồi nhân tử hứng liền bàn chuyện võ nghệ. Hai người phục nhau, liền xắn quần xắn áo ra tỉ võ. Trương Tiểu Biện tửu lượng kém cỏi, đúng là loại: "Ba ly Trúc Điệp vừa xơi; Hai quầng mặt trời vội mọc lên". Mới uống có hai, ba bát rượu, chân đá chân chiêu, ngồi cũng ngồi vững, nhưng Nhạn Linh Nhi và mấy viên tiêu quan bên cnahj vẫn cứ chuốc rượ mãi, đặc biệt là Nhạn Linh Nhi Có tửu lượng nghìn chén say, đẩy rượu tới trước mặt Trương Tiểu Biện rồi : "Tam ca! Hôm nay có hứng quá, chi bằng uống thêm bát nữa" Trương Tiểu Biện hoa mắt ù tai, líu hết cả lưỡi, biết rằng nếu uống tiếp tam gia này ngục mất, vội vã giơ tay đẩy bát rượu đằng trước ra, nhưng cũng bởi uống quá nhiều nên tay chân loạng choạng, đẩy cái lại chạm vào ngực cảu Nhạn Linh Chi. Tay vừa sờ vào thấy có gì khác lạ liền nhên tiện bóp cái, ra sức vần vò thử, rồi lơ mơ hỏi bằng giọng ngạc nhiên: "Xem ra cơ thể của hiền đệ cũng... cũng ... cũng béo lắm, mà sao... sao lại có bộ ngực như phụ nữ vậy" Nhạn Linh Nhi vừa sợ vừa xấu hổ, mặt mũi đỏ bwungf lên, gạt phắt tay của Trương Tiểu Biện khỏi người mình, rồi lập tức dựng ngược cặp lông mày lá liễu, "soạt" tiếng rút đao ra, là: "Mày tầm hóa sắc như dao cạo, định chém rồi đời gã Sở khanh". Hai tên tiêu quan đứng cạnh thấy tình thế ổn, vội vã đứng dậy giữ ta lại. Nhạn Bài Lý tứ cũng biết tiểu muội của mình giết người như ngóe, năm ngón vươn ra là người ta đời, hễ trợn mắt như thế là đối thủ phải chết tươi, gã vội dừng tay với Tôn Đại Ma Tử kêu to: "Bà của ta ơi, hôm nay là ngày vui kết nghĩa của Nhạn doanh chúng ta, sao lại động đao thương. Ngươi dám vô lễ với Tam ca, chắc còn coi ta là huynh trưởng của ngươi nữa phải ? Mau thu đao về cho ta!" Trương Tiểu Biện vốn say bét nhè, nhưng mắt thấy ánh đao sáng lòa, sợ quá, hơi men tỉnh quá nửa, liền định thần nhìn kĩ Nhạn Linh Nhi mới đột nhiên hiểu ra, thấy xấu hổ vì phân biệt được vị thiếu niên đó chính là tiểu nương từ xinh đẹp đóng giả nam trang. Đám lục lâm kị nhất là việc" bỡn chị, cợt em", đây là tội phải chịu đâm xuyên ba đao, dẫu có chém chết ngay cũng chẳng oan uổng gì. Dù Trương Tam gia mồi rồi còn khoe khoang là hùng, nhưng lúc ấy sợ hãi đến mức thở dám thở, đánh rắm chẳng dám đánh rắm. Nhạn Bài Lý Tứ thấy tình hình khó xuôi liền dàn hòa rằng: "Từ lâu trong thành Linh Châu nghe có người kể chuyện rất li kì, cổ quái, những chuyện dã sử, du hiệp qua lời kể của ông ta đều trở nên rất hay, ngoài ra ông ta còn biết gieo quẻ đoán vận, xem việc họa phúc dữ lành. Nhạn doanh chúng ta đêm nay ra ngoài thành giết giặc, việc chinh chiến nguy hiểm, sống chết khó lường, nhân lúc này còn sớm, nếu uống rượu xong chi bằng chúng ta lên phố xem chơi chuyến, nghe người đó kể mấy câu chuyện, đồng thời hỏi xem Nhạn doanh chúng ta chuyến này lành dữ ra sao" Trương Tiểu Biện muốn còn chẳng được, liền vội bảo như thế rất hợp lí, rồi dẫn mọi người cùng , là : "Muốn tỏ tường chuyện sau việc trước; Phải hỏi người sáng suốt minh" Đương lúc Việt khấu vây thành, nhà nhà trong thành đều đóng chặt cửa nẻo, quán trà cũng chẳng có air a vào, cả bọn đành phỉa hoi đường đến nhà người kể chuyện nọ. Vòng vèo đường phố hồi rốt cuộc cũng đến trước că nhà hết sức thanh khiết, nhã nhặn, vừa gõ cửa có đứa tiểu đồng ra hỏi có việc gì, bọn Trương Tiểu Biện là đến nghe tiên sinh kể tích cũ, uống mấy chén trà, liền được dẫn vào trong cái sảnh.Cả bọn chia vai vế lớn , phân nhau ngồi hia bên vị trí khách. Chẳng bao lâu sau, người kể chuyện ra ngoài tiếp kiến. CHỉ thấy vị tiên sinh, tuổi tác quá tứ tuần, dưới cằm có chòm râu ngắn,da dẻ trắng trẻo, vóc dáng hơi gầy. ông ta tự xưng là người kể chuyện mưu sinh, thỉnh thoảng có xem bói cho người ta, từ xưa đến nay chưa hề đoán trượt boa giờ nhưng dùng cách Tứ trụ, Ngũ hành, cũng cần đến gieo quẻ bói toán, chỉ cần xem sắc mặt và lời là có thể biết được chuyện sống chết, tiến thoái sau này. Có người hỏi ông ta học đâu ra những ngón nghề đó ông ta là hiểu rộng chuyện xưa biết được chuyện ngày nay, kể chuyện cũ nhiều tự nhiên được nguyên lý hưng suy cảu vạn vật thế gian. Chuyện Nhạn doanh rời thành phục kích Việt khấu là việc quân cơ bí mật, đương nhiên thể tiết lộ được, Trương Tiểu Biện ỷ mình có Lâm Trung Lão Quỷ mách bảo nên cũng tin những lời đơm đặt của vị tiên sinh này, chỉ có điều đến đây chơi hẳn có nhân duyên. CHính vì vậy, mới hỏi thẳng vị tiên sinh kể chuyện nọ, nếu Nhạn doanh chúng tôi lâm trận việc giáp binh lành dữ ra sao? Đồng thời cũng hỏi luôn những điềm báo thắng bại. Nào ngờ, tiên sinh nọ vừa trông thấy Trương Tiểu Biện cả kinh, lặng người lúc, mặt biến sắc rằng: "Thất lễ quá, tại hạ quyết dám khoe khoang kiên thức trước vị liệt trưởng quan lão gia" đoạn, ông ta sai dâng trà tiễn khách. Nhạn Bài Lý Tứ vẫn giữ tình cục cằn cả bọn mãi lộ, nóng như lửa, làm sao chịu nổi kiểu rề rà của tiên sinh kể chuyện chốn thị thành như thế. nghe thấy vậy , đột nhiên cả giận, vỗ bàn đánh bốp cái rồi đứng dậy, rút dao mắng: "Lại còn biết nặng hay sao? Cái đồ nhà người, tuy hủ lậu nhưng cũng là giống người có hai cái tai, chẳng nhẽ chưa từng nghe đến đại danh lừng lẫy của trưởng quan chúng ta là Trương Bài đầu ở Linh Châu sao? Để xem ông nội nhà người cắt thử hai cái tai vô dụng đó xuống xem sao?" Tiên sinh kể chuyện nọ chẳng mảy may rung động. Tính tình của lão cũng hết sức cứng cỏi, thần sắc vẫn ngang nhiên, "hừ" tiếng cười lạnh, rồi chỉ : "Ta xưa nay chưa từng những lời lòe bịp, nhưng chuyện của Trương doanh quan phải tầm thường, được, dám , là phải chết. bây giờ, nếu cưỡng bức ta , muốn chém muốn mổ cứ việc tùy thích, chết có khi sướng hơn" là: "Vì chưng biết hết chuyện đời; Phải rước cái chết vào người phen" Rốt cuộc vị tiên sinh kể chuyện này khám phá ra đầu mối gì, trong đó có tai họa to lớn thế nào mà ông ta thà chết hãy xem hồi sau phân giả Hồi thứ 3: Rải đậu sông La Sát ở hồi trước đến việc mọi người muốn bói quẻ xem số vận, tiền trình của Nhạn doanh, nào ngờ vị tiên sinh kể chuyện nọ nhất định chịu cho , hơn nữa mới được mấy câu làm cho Nhạn Bài Lý Tứ nổi nóng. Lý Tứ lập tức rút dao định cắt hai tai của ông ta xuống, Tôn Đại Ma Tử là người cương trực, muốn ỷ mạnh hiếp yếu, liền đứng cạnh khuyên can. Nhạn Linh Nhi cũng nhịn được bực mình, đứng bật khỏi ghế, với Trương Tiểu Biện rằng: "Tam ca! Cái loại người năng biết năng , chỉ e phải kẻ lương thiện, thôi đừng dây vào nữa, chúng ta về doanh thôi!" Trương Tiểu Biện cũng chẳng thấy vui vẻ gì, cất tiếng mỉa mai rằng: "Tam gia ta trước đây nhận lão đạo sĩ làm thầy, cũng là bậc đại sư trong nghề xem quẻ đoán mệnh giang hồ. Mấy trò ba hoa lừa bịp của các ngươi, che mắt được thiên hạ chứ làm sao che mắt được Trương tam gia ta đây. Thường có câu rất hay rằng là: Nghe thầy bói, đói rã họng." xong hô hố cười, đứng dậy nghênh ngang bước . Lời tác giả: Vị tiên sinh kể chuyện này tuyệt phải là hạng tầm thường. từ ông ta đọc làu kinh điển, bách gia chi tử, thiên văn địa lý, gì tinh thông, nếu xét riêng về tài hoa ngay cả các bậc địa nho ngày xưa như kiểu Tô Đông Pha, Bạch Lạc Thiên cũng sánh kịp. là người bụng chưa vạn quyển sách, bút quét muôn nghìn quân, hùng biện ai bằng, văn chương duy có , lại càng giỏi thuật xem tướng số, tài hoa sao kể hết. Nhưng, ông ta thấy thế đạo suy đồi, chẳng thiết công danh nữa, liền lui về ở thành Linh CHâu, hành nghề bói toán kể chuyện để sống qua ngày. Ông ta thấy Trương Tiểu Biện vận số phức tạp, chỉ có điều dám trực tiếp mách bảo, vốn định bụng đuổi cả bọn cho rồi. Nhưng, người này vốn tính tình kiêu ngạo, lúc ấy thấy Trương Tiểu Biện nghênh ngang bước ra ông ta nghĩ bụng: "nếu như cứ để bọn chúng như thế hóa ra bản lĩnh của ta bị người ta coi là lòe bịp giang hồ ư?" Chính vì vậy, ông ta mới gọi: "Hãy khoan! Mong chư vị quân gia bớt giận, nếu đến đây, chi bằng hãy nghe tại hạ kể chuyện lạ để tiêu khiển rồi hẵng cũng chưa muộn" Sau cuộc rượu chè, bọn Trương Tiểu Biện vốn định đến nghe kể chuyện làm vui, thấy vị tiên sinh kể chuyện khách sáo như thế, liền nguôi lửa giận, quay lại ngồi vào ghế, Tôn Đại Ma Tử hứng chí, sốt ruột, ngoác miệng cười lớn rồi : " tiên sinh định kể cho chúng tôi đoạn chuyện nào? Có thể kể chuyện Võ tòng Võ Nhạ Lang địa náo Phi vân Phố ? Tổ tiện nhà ta vốn là người huyện Thanh Hà, tỉnh Sơn Đông nên rất thích nghe tích bọn hảo hán Lương Sơn" Nhạn Bài Lý tứ liền : "Đoạn đại náo đó ngắn quá nghe sướng, chi bằng kể đoạn Tinh trung báo quốc Nhạc Vũ Mục đại phá quân Kim ở Chu tiên trấn, hoặc là kể chuyện Đại Minh liệt, Yên Vương tảo Bắc . Những chuyện đó mới sôi nổi." Mọi người ai cũng góp câu, loạn cả lên, lúc biết được nghe kể chuyện gì tiên sinh kể chuyện cất lời: "Liệt vị quân gia! Chúng ta hôm nay kể chuyện dã sử dài dòng, cũng kể chuyện du hiệp ngắn ngủi, chỉ xin hầu các vị mẩu chuyện kì dị lưu truyền trong dân gian. Câu chuyện có tên " Rãi đậu sông La Sát"." Mọi người đều : "Cái này lạ đấy, xưa nay chưa từng nghe thấy cái tên" Rải đậu sông La Sát", chẳng lẽ có thể trồng đậu ở sông hay sao? biết sông La Sát ở chỗ nào? Chuyện này lại có nguồn gốc ra sao? Chỉ cần nghe tên truyện là những tích sông nước rồi? ông kể thử nghe xem nào?" Chỉ thấy, vị tiên sinh kể chuyện nọ chỉnh đốn y phục, hắng giọng, gõ phách gỗ "chát" cái để thính giả tập trung rồi mới đem câu chuyện "Rải đậu sông La Sát" ra kể thao thao, nhàn nhã khi bổng khi trầm, đẩy đưa lúc nhanh lúc chậm, câu chuyện cất lên có lúc hồi hộp, có lúc hòa hoãn, quả nhiên khiến người nghe say sưa, trước tiên ông ta xướng lên đoạn mở màn: Khí hởn cửa bể giật ì ồ, Thuyền lái bảo hồn Ngũ Tử Tư. Nước vỗ lưng trời, rung sấm nổ; Sóng cồn mặt đất, ngựa chen đua. Thiên luân định, sáng và tối; Vũ trụ nay chia, tỏ với mờ. Ngô Việt chiến trinh đâu hết cả? Xóm chài chiều xuống tiếng hò ở. Bài thơ cổ chỉ tán riêng về lớp song triều ở sông Tiền Đường. thủy triều wor đây hùng vĩ mạnh mẽ vô cùng, dấy lên các trận phong ba hiểm ác, thường cuốn trôi quân dân, lật đắm thuyền qua lại, chính vì vậy từ thời xưa, sông tiền đường có tên gọi là sông La Sát. Lại những năm đầu thời Thanh, ở bên bờ sông La Sát có nhà nghèo nọ, người đàn ông trụ cột trong gia đình họ Hoàng tên là Sam tự là Hạo Niên, hia vợ chồng mở cửa hàng chuyên xay xát đậu hạt để nuôi sống già trẻ cả ngày, ngày nào cũng phải thức khuya dậy sớm, làm lụng vất vả, sống chật vật qua ngày đoạn tháng, được bữa nay lo bữa mai, vất vả chạy ăn từng đận. Mấy năm trước đó, gia đình họ Hoàng cũng từng là nhà giàu có ở địa phương. Thường tu thiện tích đức, xây cầu dựng quán, làm nhiều nghĩa cử tốt đẹp. Nhưng hiểu xúc phạm thần linh thế nào mà dến đời Hoàng Hạo Niên gia nghiệp tiêu tan đến nông nỗi đó. Hai vợ chồng ngày nào cũng than thở, cầu xin trời đất rủ lòng thường xót, biết cuộc sống khổ cực này còn kéo dài bao lâu nữa, ví thử trong gia đình còn mẹ già, dưới còn con dại hai vợ chồng sớm nắm tay nhau nhảy xuống sông tự tận rồi. Có ngày nọ, Hoàng Hạo Niên phải xay bao đậu hạt cho nhà người ta, vì trong của hàng có lừa kéo cối xay nên chàng ta đành nai lưng ra kéo, mồ hôi mồ kê nhễ nhại, vất vả đứt hơi, đến lúc xong xuôi trời cũng tối muộn, định đóng cửa về, chợt thấy có ông lão ở đâu đến. Ông lão nọ cao, mắt mũi đều bé, vóc dáng đuồn đuỗn như cái ống nước, mặc tấm trường bào bằng vải Hồ Châu màu trắng, phục sức hết sức kì di, cặp mắt trong đêm đen sáng lóe lên. Lão đến thẳng trước cửa hàng xay xát, khuôn mặt tươi cười, hỏi Hoàng Hạo Niên chập. Hoàng Hạo Niên đáp lễ rằng: " biết quý khách lặn lội đến đây có gì chỉ giáo?" Lão già : "Ta có chuyện cần nhờ nên mới đến làm phiền quý nhân". ra, lão mang thuyền của cải về quế, tới sông La Sát gặp phải sóng ta gió lớn, đấm thủy thủ và lái thuyền đều bị cuốn xuống sông cả, lão may mắn thoát chết và giữ được thuyền của cải nhưng chẳng còn thuyền phu và thủy thù nào. Con thuyền mắc cạn bãi tiến lui được nữa, nơi đây trước có làng, sau có quán, vì vậy đành nhờ Hoàng Hạo Niên canh giùm con thuyền trong đêm, để lão vào thành thuê nhân công để sớm mai khởi hành, đương nhiên nhờ chàng công, lão hứa trả cho chàng bằng phần mười số của cải. Hoàng Hạo Niên tuy là người nghèo khổ nhưng khảng khái nghĩa khí, thấy người gặp nạn, vả lại được hứa hẹn thù lao, chàng liền gật đầu ưng thuận, : "Chuyện này nhặt, có gì khó đâu, quý khách cứ tìm thuê người ,vãn sinh ở lại trông hộ hàng hóa, chắc chắn sao" Lão già năm lần bảy lượt cảm ơn, dặn dò Hoàng Hạo Niên nhất định được để mất hàng hóa, nếu sáng mai ta quay về con cháu ta sớm muộn cũng đến lấy, sau đó lão vội vã vào thành ngay trong đêm để thuê người làm công. Hoàng Hạo Niên về nhà, mình chịu đói, chịu mệt ra nhóm đống lửa ở bờ sông, ngồi xuống đất để trông chiếc thuyền. Tới quá nửa đêm, người vợ sốt ruột, đốt đèn tìm, nghe Hoàng Hạo Niên đầu đuôi, vợ cũng bảo: "Cứu người giúp nạn là việc thiện, nên để sơ suất: "Đoạn, hai người cùng thay nhau canh thuyền. Chẳng ngờ, suốt ba ngày hai đêm cũng thấy lão già trở lại, Hoàng Hạo Niên muốn thất tín, liền vòa thành tìm kiếm, nghe ngóng khắp nơi, song cũng tung tích của lão già đó ở đâu. Hoàng Hạo Niên bắt đầu bối rối, liền bàn bạc với vợ cho rằng ông lão số đen, gặp phải kẻ cướp đường bị mất mạng chừng, có điều còn thuyền của cải biết xử lí ra sao? Nếu ông lão hứa cho ta phần mười sao lên xem trong thuyền có những gì hẵng tính." Hai vợ chồng quyết định như thế, bèn vào bên trong, thấy thuyền đậu nành, dưới nghìn cân, hơn nữa hạt nào hạt nất tròn mẩy. Hoàng Hạo Niên làm nghề xay xát laau những chưa bao giờ thấy loại nào hảo hạng đến thế, liền đem cái cân to, tự lấy ra hơn trăm cân rồi về nhà xay xát, chế thành đậu tương. Nào ngờ, loại đạu này sau khi chế thành đậu tương hương bay ngào ngạt khắp nơi, mùi vị rất thơm ngon, uống hớp lại muốn uống hớp nữa, người mua khảo nhau chẳng mấy chốc mua hết sạch. Hai vợ chồng Hoàng Hạo Niên luôn tay bán hàng mấy ngày trời nhưng thấy bóng dáng ông lão nọ, bèn quyết định lấy thêm ít đậu nữa trong thuyền, định bụng nếu ngày sau chủ nhân của số đậu đó quay lại gộp cả vốn lẫn lãi để trả lại cho ông ta. Cứ bụng tính tay làm, quá hai tháng lấy sạch nghìn cân đậu nành trong thuyền.. Nhà họ Hoàng từ đấy phát tài. là việc đầu thông trăm việc đều thông. Hoàng Hạo Niên vốn xuất thân từ gia đình buôn bán, khi trong tay sẵn vốn liền chuyển sang kinh doanh nghề khác, từ đó gặp thời gặp vận, mấy năm sau có được gia sản lớn, tậu được nhà cửa ruộng vườn, trong nhà đầy tớ đông đảo, ngày hưng vượng. Hoàng Hạo Niên ngày ngày vẫn nhớ đến ông lão năm xưa, nếu có con thuyền đậu nành của ông lão làm sao có được nhà họ Hoàng như hôm nay. Chàng càng nghĩ càng thấy câu chuyện này phải tầm thường, có lúc chuyện lại với vợ, đều cho rằng ông lão phục sức kì dị đó là thần linh Ngũ thông Ngũ hiển, thấy họ Hoàng chúng ta xưa nay đều là thiên nam tín nữ bneen có ý ea phép thần để giúp đỡ, xem ra chúng ta cần phải tô tượng đắp chuông, năm nào cũng phải lập mấy đạo tràng để cảm tạ công đức của trời xanh mới được. Tiếc thay chuyện vui ngắn ngày tày gang, tới năm thứ năm,hễ ban đêm chợp mắt là Hoàng Hạo Niên lại mơ tấy có người gõ cửa, lúc mở cửa ra xem chỉ thấy bọn người như hung thân nanh ác xông vào. Bọn đó tướng mạo dữ tợn, xấu xí, đều mặc áo bào màu trắng, đầu đội mũ thời xưa, tranh nhau mắng nhiếc, đánh đấm Hoàng Hạo Niên chút dung tình, mồm nưm miệng mười bảo rằng nhà họ Hoàng thiếu nợ lão thái gia nhà chúng món tiền lớn, rồi lôi cuốn sổ ra, chỉ cho Hoàng Hạo Niên xem từng dòng . cuốn sổ đó ghi rất ràng, ngày này tháng này năm này, họ Hoàng dùng thuyền đậu hạt của lão thái gia để kiếm ra bao nhiêu bao nhiêu tiền, rồi ngày nào tháng nào năm nào, dùng số tiền đó kinh doanh những gì, thu được bao nhiêu lợi nhuận. Nay nhà các ngươi chiếm dụng vốn để phát tài, chắng hóa ra ăn ngồi trốc hết phần của thiên hạ hay sao. Bây giờ món nợ đáo hạn rồi, mau mau trả hết cả vốn lẫn lời ra đây. Hoàng Hạo Niên đêm nào cũng bị giấc mơ kì quái đó làm cho giật mình tỉnh mộng, khi tỉnh lại thấy người bầm tím từng mảng, toàn thân đau nhức, sợ đến mức ba hồn bảy vía lên mây, bỏ ăn bỏ uống, gầy rộc như bộ xương. Chàng hiểu rằng, chắc chắn mình rước phải đại họa, liền vội vã mời vị cư sĩ giỏi xem việc lành dữ đến hỏi nguồn gốc họa phúc. Vị cư sĩ hỏi đầu đuôi nhân quả, nghe xong liền bảo Hoàng Hạo Niên rằng: "Các hạ quả nhiên bị nhân quả báo ứng rồi. Trong đường vận mệnh của cá hạ vốn có số giàu sang, nhưng hai vợ chồng lại can tâm sống nghèo khổ, ngày nào cũng cầu trời, cầu đất kể lể mãi thôi, cuối cùng lại bị bọn tà ma ngoại đạo dưới sông La Sát nghe thấy. Chúng giả vờ đến đẻ ban lộc cho các ngươi, lừa các ngươi lấy đồ vật dưới thủy cung, bây giờ phải trả lại chúng cả gốc lẫn lãi. Cái gì Ngũ thông Ngũ hiển đó đều là ma quỷ quái, xưa nay bao giờ làm điều tốt. Chúng cho cái gì nhất định đòi lại, Xưa nay thiếu nợ phải trả tiền, chẳng aic ứu nổi các hạ đâu, chẳng những cái gia sản này mà chỉ e ngay cả tính mạng cả nhà cũng đền đủ được" Hoàng Hạo Niên được mách bảo, biết là việc hỏng rồi, chỉ e tai họa đổ ập xuống già trẻ trong nhà. Chàng dám chậm chễ, rồi chuẩn bị đúng mười thuyền hạt đậu loại hảo hạng, rồi sắm sửa nhiều đồ cúng lễ như lợn, bò, dê, trở ra giữa sông La Sát rồi cùng vợ quỳ xuống đầu thuyền, thắp hương, khấu đầu, ném toàn bộ các thứ xuống lòng sông. Chỉ thấy, nước sóng cuồn cuộn đục ngầu, dưới sông xuất vô số cá lớn mở miệng tranh nhau đớp. Hoàng Hạo Niên niệm thầm "A Di Đà Phật", cho rằng hoàn trả hết nợ nần, khấp khởi mừng thầm bỗng thấy sóng to gió cả nổi lên, thực là "đáy nước rồng run sợ, trung quỷ khóc gào", sóng lớn từ sông La Sát đột ngột vọt lên, trong phút chốc đổ ập xuống nhấn chìm toàn bộ thuyền bè, những người thuyền đều vùi thây vào bụng cá. Tới khi sóng lặng trời êm làng xóm nơi nàh họ oàng cư ngụ bị cuốn phăng hết. Đáng thương thay Hoàng Hạo Niên chịu an phận thủ thường, tuy có được mấy năm giàu có, nhưng rốt cuộc phải trả giá bằng tính mạng của cả nhà, đúng là: "Dẫu cho sức mạnh trùm đời; Đến khi hết số chạy trời được chăng" Câu chuyện "Rải đậu sông La Sát" tuy nửa thực nửa hư nhưng có lửa sao có khói, chỉ khuyên những kẻ oán trời hận mình chớ suy nghĩ nông cạn mà kêu trời kêu đất lung tung, cũng được tham lam những thứ thuộc về mình. Nên biết rằng: "Phú quý chỉ là giấc mộng năm canh; Công danh nào khác mây trời lênh đênh; rốt lại vạn tan tành" Vị tiên sinh nọ kể cho bọn Trương Tiểu Biện câu chuyện xưa, đúng là: "uốn ba tấc lưỡi kể mà chơi; nông sau ở lẽ đời. Chớ tưởng say vì chén rượu; Chẳng qua thức tỉnh kẻ làm người" Quả nhiên câu chuyện điểm trúng huyệt khiến Trương Tiểu Biện nghe mà toát mồ hôi đầm đìa, đứng ngồi yên, nhưng Trương Tam gia có thể hiểu hết được lẽ" bể khổ vô bờ" để mà sớm quay đầu lại , mời xem hồi sau .