Quyển thứ ba chó ngao thần Hồi thứ 1: Đàm đạo nhân Lại , tuần phủ Mã đại nhân là người từng trải việc quan, long ôm thao lược, bụng có mưu hay, hơn nữa còn có nhãn quang phi thường, nhìn xa trông rộng, khi gặp việc tùy cơ quyết định. Sau khi thẩm vấn xong, lão sợ đêm dài lắm mộng, bèn quyết định phải mau chóng xử trí, bèn hạ lệnh cho thủ hạ đem hào thường Chuột ta cắt đứt gân chân gân tay, dung khóa sắt xuyên qua xương tỳ bà, bắt đeo gong nặng, tống vào tử lao, sai ngục tốt cho ăn uống tử tế, đồng thời hạ lệnh phong tỏa tin tức, dự định trong ba ngày giải ra chợ lăng trì. Đoạn Mã đại nhân sai người đưa Trương Tiểu Biện và Tôn Đại Ma Tử vào hậu đường, cởi dây trói, cho uống rượu áp kinh rồi hỏi han cặn kẽ. Mã đại nhân vốn là người biết dùng người, hiểu rằng trong thiên hạ này, ngắn cũng có sở trường, dài cũng có sở đoản, cái nào cũng có chỗ dùng đến, ngay trong đám giả tiếng gà, ăn trộm chó cũng có lúc trở thành kì tài. Khi biết Trương Tiểu Biện hiểu thuật xem tướng mèo thời xưa, Mã đại nhân đột nhiên nhớ ra chuyện. Linh Châu trước nay có phong tục thờ Miêu tiên gia, nhưng nhiều người biết được lai lịch của ngài, cho dù có biết cũng chỉ là lời đồn đại nơi đầu đường xó chợ, vị tất đúng . tổ tiên của lão lúc chưa phát tích từng làm thảo khấu, kết giao với đạo tặc trong thiên hạ, vì vậy rất căn dơ của câu chuyện này. Kỳ thực miêu tiên gia hồi đó phải là đạo sĩ tiên cơ gì cả, mà chẳng qua chỉ là tên trộm lành nghề chuyên trèo tường leo vách mà thôi. Vị thần ăn trộm này xuất thân từ nhà dòng dõi đất Linh Châu, thường dắt theo con mèo khoang bốn tai, chuyên di ăn trộm những nhà giàu có bất nhân chia cho người nghèo, cứu khổ tế bần. Thủ đoạn của người này hết sức cao minh, đa phần đều là diệu thuật thần kì mà người thường khó tưởng tượng nổi, chợt đến chợt để lại dấu vết, đến đám quan quân bổ khoái cũng làm gì được. Vị thần trộm này họ Đàm, ngày thường chỉ xuất dưới bộ dạng đạo sĩ rách rưới khắp hang cùng ngõ hẻm bán thuốc đạo, vì vậy người ta gọi là Đàm đạo nhân. ông ta từ hiểu thuật xem tướng mèo, khi trộm vàng cắp bạc ở khắp nơi đều nhờ vào con mèo khoang bốn tai mang theo bên mình. Con mèo này tinh nhanh phi phàm, giỏi trèo tường khoét vách. Các nhà phú hộ ngày xưa đều xây kín cổng cao tường, ngoài bọn gia đinh tuần còn nuôi nhiều chó dữ, hễ thấy có tiếng người đánh động là chúng xổ ra cắn xé. Mặc dù vậy tất cả đều bị Đàm đạo nhân qua mặt. Đàm đạo nhân phải là kẻ độc lai độc vãng. Đồng bọn của ông ta rất đông, vì ông ta là thủ lĩnh của đám trộm cắp thành Linh Châu. Phường trộm thường trong đêm, mặc y phục dạ hành, đế giày bện rơm cỏ để có tiếng động, mawyj che kín, miệng ngậm tăm để tránh cất tiếng . Sau khi ngầm lẻn đến đúng tòa nhà định gây án, cả bọn phục ở chân tường nhúc nhích, Đàm đạo nhân tóm gáy con mèo bốn tai, nhắm vào đầu tường rồi ném lên. Con mèo giặc đó nhàng linh hoạt vô cùng, vừa chạm vào tường liền thò móng vuốt bám chặt tiếng động, sau đó mượn lực, uốn mạnh nảy vọt qua bờ tường cao. Con mèo khoang bốn tai vào đến bên trong liền dụ đám chó dữ canh cửa sang phía, lừa cho chúng ăn thuốc mê,. Lũ chó ăn phải thuốc mê xong, mèo khoang ta liền lên đến cửa sau, dùng móng vuốt rút then cửa để cả bọn vào khoắng vàng bạc, đồ đạc. Đàm đạo nhân nhờ vào ngón nghề đó mà gây ra rất nhiều đại án, chưa lần nào sa cơ. Mạc dù vậy ông ta cũng có lúc thất bại. Đó là lần ĐÀm đạo nhân uống rượu cùng thủ lĩnh đảng cướp hồ Động Đình. Khi hai người uống say liền xoay sang đánh cược. tên thủ lĩnh rằng, thiên hạ đều hết sức khâm phục Đàm công có kĩ thuật thần diệu, lấy bảo vật như lấy đồ trong túi, nhưng dẫu cho ông có tài bằng trời cũng chưa chắc lấy được vật. Nghe đồn trong Hoàng cung đại nội có viên ngọc dạ quang do Phiên quốc tiến cống, to như mật tông, tinh khí sáng ngọt, trong đêm trông rạng rỡ như đèn, chiếu xa ngoài trăm bước. Viên ngọc đó là báu vât cảu hoàng hia, xưa nay vẫn cất giấu ở chỗ Thái hậu, đến Hoàng đế cũng biết chính xác ở đâu. Nếu đàm đạo nhân có thể giở thủ đoạn lấy được viên minh châu đó cho cả bọn mở rộng tầm mắt, đám thảo khấu, trộm cướp trong khắp tứ hải ngũ hồ chúng ta nhất loạt tôn Đàm công thành "Đạo trung Bắc đẩu"(Bậc Thái sơn Bắc đẩu trong đám trộm cướp) Kỳ thực đây cũng chỉ là lời vui trong bữa rượu nhưng Đàm đạo nhân vốn tính hiếu thắng, muốn tỏ ra hơn phân đấm đạo tặc ở hồ Động Đình, liền chẳng chẳng rằng, mình ôm con mèo khoang bốn tai đền hoàng cung. Thời gian đó vào đúng lễ hội hoa đăng tết Nguyên tiêu, Hoàng thượng đưa Thái hậu xuất cung để thưởng đèn, bách tính chen vai thích cánh, tranh nhau ngắm mặt rồng. Đàm đạo nhân cùng con mèo khoang bốn tai mình trong đám đông, nhìn kĩ dung mạo của Thái hậu. Song, lúc ấy cấm quân đại nội phong cành nghiêm ngặt, dẫu ông ta to gan tày trời cũng dám xông vào cướp ngọc, đành rập đầu trước con mèo thần bốn tai, cầu mong nó lẻn vào cung trộm Dạ minh châu để được mở mày mở mặt với đám thảo khấu Động Đình. Con mèo khoang bốn tai ấy có trái tim có cửu khiếu, cự kì thông linh, có thể đọc hiểu tâm ý của chủ nhân. Nó chớp đôi mắt mèo rồi lao ra khỏi khách điếm, liền mấy ngày trong hoàng cung để thăm dò đường lối, tìm hiểu quy luạt sinh hoạt của Thái hậu. Cũng làm sao con mèo nghĩ được quỷ kế, nhân đêm khuya trăng lu gió lớn, nó trộm đâu được quả pháo hoa, ngậm vào moomg. Sau đó, con mèo nhân trời tối lẻn vào hoàng cung, tìm đến cung điện của Thái hậu. Nhìn trộm thấy lão Thái hậu ngủ, bọn cung nữ bưng đèn bên ngoài cũng gà gật, nó liền rùn mình lọt vào, tiến lại gần ngọn đèn trong cung, châm ngì pháo, rồi trốn vào góc tối, nằm im nhúc nhích. Giữa đêm khuya, trong hoàng cung đột nhiên vàng động tiếng pháo nổ đùng đùng khiến Thái hậu nương nương và đám cung nữ khiếp sợ tới mức hồn bya phách lạc, lăn lê bò toài tìm chỗ nấp. Tất cả đều chuyện gì, tưởng có người hành thích hoặc trời giáng tai ương, sấm sét đánh vào cung, liền hoảng hốt hô hoán thị vệ tới cứu giá. trong lúc vội vã, lão Thái hậu cũng quên viên Dạ minh châu, liền sai đám cung nữ dìu đến chiếc giường, lấy ra cái hộp báu trong ngăn bí mật mở ra xem. trong phút chốc cả phòng liền tràn ngập trong ánh sáng rực rỡ. Lão Thái hậu thấy viên Dạ minh châu chưa nhân lúc trời giáng sấm sét mà bay về trời, lúc ấy mới thở phào nhõm, trong lòng cũng yên tâm phần nào. Chẳng ngờ, con mèo khoang bốn tia nấp sau cột nhìn , liền như tên cung lao vọt ra khỏi bóng tối, mở miệng đớp ngay viên Dạ minh châu tay Thái hậu rồi lật mình bỏ chạy, đúng là: "Đến, như gió giật; , tựa như tia chớp". Loáng cái con mèo chạy mất tăm mất tích trong điện chỉ còn trơ ra Thái hậu và đám cung nữ trợn tròn mắt há hốc mồm. Con mèo khoang cướp đường trốn được, nhưng thuộc đường trong hoàng cung lắm, đành cắm đầu cắm cổ trèo tường, vượt điện chạy thẳng theo hướng. Thị vệ trong cung tuy đông nhưng vội hộ giá, truy lùng thích khách, ai biết đâu mà bắt con mèo hoang? Đến lúc này chợt xảy ra việc. Con mèo khoang bốn tai chạy trốn lung tung, rốt cuộc chạy nhắm đến bên ngoài tẩm cung của Hoàng đế. Thời bấy giờ, các thứ dị thuật rất thịnh hành, trong đám ngự tiền thị vệ hộ giá, có cao thủ địa nội tinh thông kiếm thuật. Người đó thoáng thấy ở đầu tường cách chỗ mình xa có bóng đne vút qua nhanh như gió, hơn nữa lại thấy thoáng vật lóe sáng, dường như là con mèo khoang to ngậm viên Dạ kinh châu, ya thấy tình kì quái, liền phóng kiếm truy sát. Cũng may là mèo thần bốn tai nhanh nhạy cảnh giác, thấy luồng gió lạnh ập đến, biết chuyện chẳng lành, bèn né tránh rất nhanh, nhưng cũng bị lưỡi kiếm hớt mất tai và nửa mảng da đầu. Vết thương , máu chảy như suối, nhờ vào thân thể nhanh nhẹn mới có thể chạy trối chết thoát ra. Đàm đạo nhân biết tiếng mèo, nghe được con mèo khoang 4 tai thuật lại tình, về sau nghe ngóng thăm dò chuyện hoàng cung mất trộm mới đoán ra đầu đuôi, khỏi lấy làm ân hận. Ông ta với mèo khoang bốn tia tình như huynh đệ, nhiều năm nay, người và vật như hình với bóng. Chỉ vì hư danh làm lụy, nhất thời tức khí quyết đoạt báu vật trong hòang cung mà suýt nữa hại chết tính mạng của mèo khoang, giờ nghĩ lại, chút hư danh như phù du ấy thiết để làm gì? Thế là Đàm đạo nhân quay về gặp bọn đạo tặc hồ Động Đình nữa, tiện tay đem viên dại minh châu do mèo khoang bốn tai trộm về quăng xuống sông. Để lẩn tránh quan phủ truy nã, ông ta hành nghề ăn trộm nữa, chỉ bán miêu nhi dược trị nan y tạp chứng sống qua ngày. Chẳng bao lêu sau, ông mai danh tích, lưu lạc giang hồ, vân du tứ hải, khong kết cục ra sao. Bách tính Linh Châu cảm công đức lấy của người giàu chia cho người nghèo của Đàm đạo nhân, liền dựng ngôi từ đường để cúng tế, nhưng sợ quan phủ biết được, dàm thẳng là thờ thần trộm Đàm đạo nhân nên tránh là thờ Miêu tiên gia, lâu dần trở thành phong tục cúng bái Miêu Tiên. Đền thờ rất linh nghiệm khiến các giai thoại đơm ra càng lúc càng nhiều, truyền truyền lại hồi thành ra thể phân biệt giả được nữa. Mã đại nhân rất hâm mộ tích của Đàm đạo nhân, khâm phục thuật lạ có thể sai mèo làm trộm ấy lắm. Thời Ngũ đại có chuyện "dây đỏ trộm hộp" tới nay vẫm được coi là kĩ thuật trộm cắp vô song, nhưng nghĩ lại chẳng sánh được với thần thông của Đàm đạo nhân, chỉ tiếc rằng, quan phủ thời bấy giờ ai biết được dị thuật kia để đến nỗi ông ta phải trà trộn trong đám thảo khấu giang hồ, tài ấy mà dùng vào việc công, đem bản lĩnh đó để dò la tình hình giúp cho quan quân đoạt doanh cướp trại có lẽ lập nên công trạng xuất chúng rồi. Mã đại nhân là người có chí lớn, định bụng nhân loạn Việt khấu tỏ bản lĩnh chân thực của mình hòng được triều đình trọng dụng. Tính lão rất kiên nhẫn, xưa nay thông hiểu việc quân cơ, mấy năm gần đây lậ doanh luyện lính ở Linh Châu giáo chiến với ác liệt với Việt khấu mấy trận, hai bên có thắng có thua nhưng lão dần hiểu ra cái lẽ cây làm chẳng nên non, vì vậy ra sức thu dụng kì nhân dị sĩ khắp nơi, phân biệt cao thấp sang hèn. Hơn nữa sau khi bắt được hòa thượng Chuột trong Hòe viên, Mã đại nhân mới phát ra rằng, trong đại hạt Linh Châu còn có nhiều gian đảng của phái Tạo Súc hoạt động, xem ra bọn chúng có mưu đồ bất chính, muốn cướp ngân khố của triều đình. bọn này hành tung bí , thủ đoạn khác thường, thể dùng cách thông thường để điều tra được. Chính vì vậy, Mã đại nhân định mua chuộc Trương Tiểu Biện và Tôn Đại MA Tử, là coi trọng bản lĩnh xem hình đoán vật của họ Trương, hai là thấy hia tên này đầy vẻ lưu manh, giopongs người nàh quan làm việc công, mồm mép lại nhanh nhảu, bụng dạ nhạy bén, phái bọn dò là tin tức hoặc bí mật theo dõi dễ qua mắt được thiên hạ. Do đó lão mới phá lệ cất nhắc hai tên làm chức đầu mục trong nha môn, đồng thời phái tên công sai nhanh tay nhanh mắt cho hai tên tùy ý sai bảo, chuyên thu thập manh mối đám đồng đảng cảu hòa thường CHuột. Trương Tiểu Biện chỉ cần được tha tính mạng luôn mồm cầu giời khấn Phật rồi. thể ngờ mình liên lụy vào cái án tày trời này, chẳng những bị mảy may trách phạt mà còn được cất nhắc làm chức bổ khoái chuyên bắt bớ trộm cắp. Những chuyện ngày trước thôi cho qua, nhưng xét thời bây giờ, lúc thiên hạ đại loạn, giặc cướp hoành hành, gì đến vương pháp của nàh quan, đến tổng đốc trọng thần còn bị kẻ cướp chặt đầu, huống chi cái bản lĩnh bé của mình? Muốn đứng giữa hia dòng hắc bạch quả thực rất là khó, chỉ hơi sơ sảy là đời cái mạng ngay. Mặc dù vậy, thấy Mã đại nhân là người có thủ đoạn tàn độc, Trương Tiểu Biện nào dàm tuân theo. ngầm ngầm tính toán, chi bằng cứ ngộ biến tùng quyền, tạm thời nhận lời, sau này có cơ hội chuồn khỏi thành. Thời này đúng là : "Chiến chinh thiên hạ rối bời; Khác nào hào kiệt chơi cuộc cờ". Trong cục thế ấy, việc thắng thua thành bại cướp di biết boa nhiêu sinh linh vô tội, Trương Tam gia là hạng cùng đinh, chỉ mong tới giàu sang chứ chưa từng nghĩ tới việc tham dự nghiệp hùng gì cả, càng muốn trở thành quân cờ hay con chó trogn tay quan phủ. Mã đại nhân nhìn thấu tâm tư của , biết hia tên tiểu tửu này đều là đám thảo mãng, xuất thân nơi đầu đường xó chợ, phải dùng lời trung nghĩa thuyết phục hoặc hứa hẹn mối hời mới lung lạc được chúng. Lão liền : "Trước đây triều đình kén chọn hiền tài vẫn thường coi trọng kẻ xuất thân khoa cử nhất, ngoài ra nhưng người có ngón nghề khác như các ngươi đều được trọng dụng. Cách làm ngặt nghèo như vậy làm mai biết bao nhiêu kẻ sĩ có ý lạ mưu hay. tới nay khi Việt khấu làm loạn, chính là lúc triều đình cần người. Các người đều có chút bản lĩnh, hà tất phải cam lòng chìm đắm trong đám bình dân dung tục, rốt cuộc đều nát cùng cỏ cây mà thôi. Thế gian dẫu có cung bắn điêu, kiếm giết rồng nhưng cũng cần phải có người sử dụng mới phát huy tác dụng được. Số mệnh các ngươi coi như có quý nhân phù trợ rồi, bản quan là người biết ngọc trong đá, thấy các ngươi quả nhiên có chút đảm lược, có thể châm chước đề bạt để dùng, vì vậy mới có ý cân nhắc cho các ngươi phen này. Chỉ cần các ngươi tiêu diệt hết đám đồ Tạo Súc ta tiếc càng bạc khen thưởng" Tôn ĐẠi MA Tử vốn thẳng tính, tính những việc mạnh mẽ, tự cho mình là hảo hán. Gã nghe Mã đại nhân thế, liền dấy lên lòng hiệp nghĩa, vội quỳ xuống vái: "Lũ nghiệt đồ Tạo Súc ấy lẽ trời chẳng dung, nếu là việc nghĩa cử thay trời hành đạo, vì dân trừ bạo Tôn Đại Ma Tử tôi xin nghe quan gia sai bảo, nguyện liều chết đánh giặc" Trương Tiểu Biện lại nghĩ: "Chưa biết lão đại nhân là người biết ngọc trong đá hay chỉ alf mắt trâu biết cỏ, chẳng biết thế nào lại ngắm vào bản lĩnh xem tướng của trương tam gia ta? Nhưng bây giờ tốt nhất là chớ rượu mời uống, uống rượu phạt, cứ tìm cách nhận thưởng của quan phủ , tới lúc thấy tình hình ổn, tam gia ta tìm cách thoát thân cũng muộn."Quyết ý như thế, bèn cùng Tôn Đại Ma Tử nhân chức làm bổ khoái. ĐÚng là: "Những toan giết giặc lập công; Mượn tay bắt hổ trói rồng mới nên" Muốn biết thể thế nào, xem hồi sau . Hồi thứ 2: nghìn ba trăm đao Lại , Tuần phủ đại nhân cắt đặt Trương Tiểu Biện và Tôn Đại Ma Tử làm bổ khoái bắt cướp trong thành Linh Châu, rồi ngoài mặt lại tỏ vẻ thương xót Tiểu Phượng khổ, cho ả lưu lại trong phủ, tạm thời làm a hoàn hầu hạ Mã phu nhân, kì thực muốn giữ người làm con tin, đề phòng hia người bọn Trương Tiểu Biện tìm cách chuồn êm. Trương Tiểu Biện thông minh giảo hoạt, làm sao chẳng nhìn ra dụng ý đó? Trong lòng hắc thầm rửa Mã đại nhân trông cỏ vẻ từ bi, kì thực mưu mẹo sâu xa, toan dùng cướp trị cướp, ơợi dụng thuật xem tướng loài vật diệt trừ tà pháp Tạo Súc. Ẳ Tiểu Phượng ấy đáng giá mấy đồng cân chứ? Đợi đến khi Tam gia ta đánh được quả lớn phát tài, sớm chọn thời cơ cuỗm tiền cao chạy sa bay. Tôn Đại Ma Tử lại nghĩ khác, cho rằng Mã đại nhân biết kẻ hảo hán, có ý đề cử trọng dụng họ, liền khuyên Trương Tiểu Biện rằng: "Mỗ thường nhủ thế này, huynh đệ chúng ta là loại người nào chứ? từ lúc sinh ra, cũng chỉ ăn cơm hẩm cháo hiu qua ngày, dẫu cho có vàng bạc trong tay cũng biết tiêu, phát tài rồi lại cứ thấy thoải mái cho lắm. Huống chi đống bạc giấu trong thành Đũa ở Hòe viên nhiều quá, chúng ta bỗng dưng vớ được món tiền to như thế, chỉ e lẽ trời dung. Đấy, quả nhiên ngay sau đó xảy ra chuyện,kinh động đến cả quan phủ, rước vạ vào người. Có điều, dù rằng mộng pú quý tan tành nhưng may mà trong họa có phúc, được Mã đại nhân coi trọng, ban cho làm bổ khoái nha môn. Chúng ta nhất địh phải tận tâm tận lực, được vọng tưởng làm chuyện trái lẽ nữa" Trương Tiểu Biện vốn chẳng thèm để ý đến mấy cái lí lẽ của Tôn ĐẠi MA Tử. Tục ngữ rất hay rằng: "Cửa nhà quan, mởn hướng Nam;giàu lý, nghèo tiền chớ vào quàng", lại có câu:"Chèo đò, mở quán, kéo xe; thồ hàng, nha dịch chuyên ghè dân đen". bọn công sai ở nha môm có "tam ban tứ khoái", là sư tổ trong việc sách nhiễu nhân dân. bổ khoái chính là trong " Tam ban tứ khoái ấy, làm cái nghề này tuy cũng nhận được chút tiền hối lộ, nhưng đến khi chết làm gì còn mặt mũi nào nhìn liệt tổ liệt tông nữa, vui vẻ gì ma xăng cái làm cơ chứ? Nhưng trước mắt đao binh khói lửa dấy lên tứ phía ngoài thành, muốn trốn cũng trốn xa được, Trương tiểu Biện đành ưng thuận làm bổ khoái bắt cướp, tạm thời như thế mấy hôm rồi tính sau. Kể dài dòng chứ hớp mắt tới ngày mở pháp trường hành hình Phan hòa thượng. Mới tảng sáng, theo lệ cũ đối với tử tù sắp ra thụ hình, bọn ngục tốt trong lao vào chăm sóc cho Phan hòa thượng, lau rửa dưới cho sạch , tô ít phấn sáp lên hia bên ám, bày ra bốn bát thức ăn lớn những gà, vịt, cá, lợn, lại chuẩn bị vò rượu, khuyên lão ăn uống cho no lê để còn lên đường. Khi bị hạ ngục, hòa thượng Chuột dã bị cắt đứt gân. tuy thành phế nhân, lão vẫn toan tính phá lao vượt ngục đòa thoát chứ ngờ rằng phải ra pháp trường nhanh đến thế. Lão cũng biết rằng hôm nay bất luận thế nào cũng thoát khỏi cựu hình đau khổ, đành mặc hết mọi thứ khác, ăn bữa cơm tử tù cuối cùng cho bụng. Sau đó, liền có đám quan sai đến đón tù, đưa Phan hòa thượng ra khỏi nơi biệt giam, tống lên cái xe cũi, rồi đoàn hơn hia tẳm lính dõng áp giải diễu phố thị chúng.ĐÁm binh lính này mặt mày nghiêm nghị, sát khí đằng đằng, ai nấy thảy đều giương cung tuốt kiếm. trong tiếng thanh la phèng phèng mở đướng ầm ĩ, chúng chầm chậm đẩy xái xe tù đến giữa ngã tư giao nhau giữa hai trục dường chính trong thành. Rất nhiều bách tính trong thành Linh Châu nghe phong thanh chuyện quan phủ bắt được tên cường đạo trộm ngân khố, chẳng những vậy, tên giặc này còn bắt cóc trẻ con ăn thịt nữa. Lũ trẻ mất tích mấy năm nay, cso quá bán đều bị hầm lên ăn thịt, thực là đáng băm vằm thành muôn mảnh. Toàn bộ người trong thành đều nghiến răng căm hờn, chỉ hận thể ăn thịt, lột da tên ác tặc này. Thấy bảo, chính ngọ hôm nay quan phủ lôi ra xử cực hình, ai nấy đều rủ nhau tới xem. Nguwoif tới xme thực quá đông, kín đặc như tường thành, nhốn nháo cả biển người. Đến máy các căn lầu xung quanh cũng chật cứng những người là người, ai cũng muốn xem quan phủ xử trị tên ác tặc chuyên ăn thịt người ra sao. Đối diện với pháp trường, có lầu cao, hai tầng, góc nhìn khá rộng được bố trí là đài giám trảm. Quan đề đốc tiết chế quân vụ, giữ binh trấn thủ công khố Linh Châu Đồ Hải và Tổng lĩnh quân đoàn Luyện Mã đại nhân cùng ngồi giám trảm. Để đề phòng bọn xấu tới cướp pháp trường hoặc lũ Việt khấu nhân lúc rối loạn ngầm lẻn vào, quan phủ phái quân phong tỏa các cổng thành, lại điều thêm mấy doanh lính dõng tinh nhuệ, cầm hỏa khí ngầm phục ở xung quanh pháp trường chờ lệnh. Đúng là: "Phía dưới giương cung chờ mãnh hổ; Men sông giăng lưới bắt giao long" Thời bấy giờ, khi hành hình phạm nhân, pháp trường để dặt ở đầu đường hoặc xó chợ, có ý để dân chúng tới xem cho xem cho biết phép nước uy nghiêm, được khinh nhờn mà phạm tội. Nhưng thực tế thường khác hẳn mong muốn, việc hành hình nạn nhân lại trở thành trò náo nhiệt, tai nghe mất thấy đúng là sôi động sôi nổi hơn hẳn diễn kịch xem trò. Vào những giai đoạn trấn áp khỏi nghĩa của nông dân, quan phủ thường sử dụng các hình phạt tàn khốc hơn nhiều so với lúc bình thường, vì vậy mỗi khi pháp trường được dựng lên, dân tình xem nô nức như trảy hội đầu xuân. Có kẻ nhàn dỗi vô còn quản vất vả đầu hôm mờ sáng, đến từ sớm để chếm chỗ gần xem cho , nào có mấy ai thực để ý đến hình luật và vương pháp triều đình? Trương Tiểu Biện và Tôn ĐẠi Ma Tử làm công sai, được phái đến bục hành hình ở pháp trường để giám sát việc áp giải hòa thường CHuột. Bọn lính dõng vây quanh cái bục thành ba vòng trong, ba vòng ngoài nhưng dân chúng bốn phía đông quá, mặc cho chúng tha hồ đánh chửi, người ta vẫn chen lấn lên phía trước để xem cho . Lúc ấy, dân tình chen vai thích cánh, chật cứng tới mức giọt nước cũng lọt, những người bị đè lấn kêu cha kêu mẹ, quang cảnh lòng đường trở thành dám hỗn loạn. Hai hôm trước, Trương Tiểu Biện tìm lại được con mèo đen bỏ trốn lẩn trong bầy mèo hoang ở Miêu tiên từ. hôm nay, cứ tưởng nhân việc công mà được vòa xem công cuộc náo nhiệt, ngờ bị chèn ép ở cạnh xe tù cùng với Tôn Đại Ma Tử, đến nhúc nhích cũng xong. Con mèo đen cũng bị chen lấn tới mức còn chỗ dung thân, đành phải trèo lên ngồi mũ Trương Tiểu Biện xem trò. Thấy Mã đại nhân và bọn quan viên đều nghiêm trang lầu, Trương Tiểu Biện tự nhiên cảm thấy rất bất bình. Nếu nhờ Tam gia ta giở thủ đoạn ra quan phủ làm sao bắt được lão hòa thường này về chứ? Bây giờ công lao bị người ta cướp mất, dân chúng toàn thành có ai biết đến Tam gia ta đâu. lại nghĩ, là hùng cần hỏi đến xuất xứ. CÁi chức bổ khoái phẩm cấp, bé chẳng bằng vỏ đỗ hạt dưa, như con kiến, có gì mà ghê gớm? Nếu Trương Tam gia ta có ngày thăng quan phát tài phải làm đến Thượng Thư, tổng đốc mới uổng phen gia nhập quan trường thế này. nghĩ ngợi lung tung, Trương Tiểu Biện chợt thấy đám người bốn phía rầm rì huyên náo như chợ, hết đợt này đến đợt khác, hiểu ra làm sao. Hăn voioij nhìn về phía có tiếng reo hò, ra là ĐAo phủ Lưu ngũ gia của thành Linh Châu đem theo bốn thủ hạ đến. từ ông tổ sáu đời của vị Lưu ngũ gia này trờ xuống đều làm đao phủ của nha môn, truyền đến đời ông ta tài nghệ rất phi phàm, có thể là đao phủ có tiếng của bộ Hình. Vốn trước đây, ông ta làm cống sai trong kinh thành, hai năm trước xin cáo lão hồi hương nên được điều về nguyên quán ở Linh Châu. Tên đạo tặc này dùng thuật dể trộm bạc trong ngân khố, lại còn sai chuột bắt con cháu nhà người ta làm thịt, đúng là vụ đại án kinh thiên động địa. Chính vì vậy, trong cuộc hành hình hòa thượng Chuột hôm nay, quan phủ mời vị Lưu ngũ gia rửa tay gác kiếm này xuất thủ. Nghe , Lưu ngũ gia được chân truyền nên tài nghệ rất sức điêu luyện, cho dù là chặt đầu hay moi tim mổ bụng, ông ta động dao hành hình như nước chảy mây trôi. Chỉ có những can phạm gây tội ác tày trời hoặc những tử tù có thân phận đặc biệt bộ Hình mới mời đến Lưu ngũ gia lão nhân xuống tay hành pháp, thế nên ngay cả hồi lão ở trong Kinh thành cũng hiếm lắm mới được trông thấy lão. Hôm nay, rốt cuộc cũng được xem lão thi triển ngón nghề trước mặt phụ lão ở quê hương nên đám khán giả cứ làm ầm cả lên. Trong con mắt người dân Linh Châu, Lưu Ngũ gia cứ như tay kép hát nức tiếng khắp nơi vậy, từ lúc lão sải bước lên hình đài, mỗi cử động, mỗi bước chân của lão đều khiến cho đám đông dưới đài reo vang lên từng tràng vang dội. Trương Tiểu Biện và Tôn ĐẠi Ma Tử từng nghe đến tiếng tăm hiển hách của bị đao phủ Bộ Hình Lưu Ngũ gia này, liền vội vã nhón gót, nghểnh cổ lên xem. Chỉ thấy Lưu Ngũ gia tuổi chừng hơn sáu mươi, thân hình to cao, mắt báo tròn xoe, râu hùm hàm én, tuy râu tóc bạc quá nửa nhưng tinh thần cẫn quắc thước, trán bóng láng như bôi mỡ, mặc cái áo ngắn, dưới thắt cái quần quây bằng lụa trắng tinh, ánh mắt toát lên sát khí, trông hết sức oai phong, đúng là vị Tu là Ma quân giữa chốn nhân gian này. Cái quần quây của Lưu Ngũ gia cũng phải là vật tầm thường mà là vật ngự ban của Tiên hoàng. Bọn đao phủ bình thường từu trước tới nay đều để trần cánh tya hoặc cái áo có miếng đáp trước ngực, buộc cái tạp dề đen như bọn dồ tể. Nhưng Lưu Ngũ gia có tài nghệ điêu luyện, cho dù là chặt đầu lăng trì hay lột da moi tim, trân người và đao xưa nay bao giờ vấy máu. Thanh đao là bảo đao tổ truyền, người lại mặc đồ do Hàng thượng ban, lối phục trang như vậy tự lên tài nghệ hơn người của lão, khiến cho chúng nhân đều thấy kinh sợ. Lại nhìn đến bốn đồ đệ của Lưu ngũ gia, chẳng khác tứ đại Kim cương đầu thai giáng trần, cao thấp ngang nhau như cùng được gọt ra vậy, trông rất tề chỉnh. Cả bọn đều là những đại hán sức dài vai rộng, như hùm như hổ, bím tóc lớn, bóng mượt được vắt tròn qua đầu, cái áo có miếng đáp ngực viền đỏ nền xám được phanh ra nửa, lộ ra phần ngực bụng xồm xoàm đầu lông đen. mặt cả bọn sư đồ năm người đều đằng đằng sát khí, ánh mắt lướt tới đâu, soi vào ai cũng khiến người ta phải toát mồ hôi lạnh. đúng là : "Kẻ bé gan kinh muốn chết; Người bằng đá cũng toát mồ hôi". Đám người vây xung quanh xem đều cảm thấy may mắn" May mà kẻ ở pháp trường hôm nay phải là mình" Lưu Ngũ gia dẫn bốn đồ đệ lên bục gỗ, chắp tay hành lễ với quan giám trảm lầu, sau đó khom người xá các phụ lão hương thân. lão cũng muốn khoe khoang đôi chút, đem đồ đạc sắp ra trước mặt thiên hạ. Tuàn là những thứ như Quỷ đầu đao để chém ngang lưng, Oan trường kiếm để moi tim, ngoài ra còn có những thứ hình đao, pháp đao như Đới câu, Đới thích... đều là những loại khí giới mà bách tính tầm thường biết đến tên gọi. Thứ nào thứ ấy đều sáng lấp loáng, la liệt dưới trăm món, từng ánh sáng lạnh chớp lên dưới ánh mặt trời. Lúc đó, hình quan xác thực xong nhân thân cảu tội phạm rồi tuyên đọc tội trạng, chiểu theo luật xử Phan hòa thượng tội lăng trì. mà phỉ đồ như tên này, nếu dùng cực hình băm vằm thành muôn mảnh làm dịu cơn phẫn nộ của nhân dân, vì vậy lần này mời đao phủ của bộ Hình là Lưu Ngũ gia tới xẻo đủ nghìn ba trăm đao. Đúng giờ ngọ ba khắc, sau ba tiếng pháp làm hiệu bắt đầu động pháp đao hành hình. Người dân xung qaunh lập tức ầm ĩ cả lên, là căm phận tên Phan hào thượng cực độ, hai là nghe xử phạt xẻo nghìn ba trăm đao, đây là đại hình trước nay chưa từng có ở địa phương này nên ai cũng muốn xem Lưu Ngũ gia thi triển món nghề hành hình ra sao. Chỉ nghe đám người phía dưới bàn luận rất sôi nổi, có người bảo: "Cuối cùng cũng có cuộc này, chúng ta chờ xem ra sao. Hình phạt tùng xẻo bình thường bất quá cũng chỉ trăm hai mươi đao, bay giờ cầu xẻo đủ nghìn ba trăm đao phạm nhân mới được chết, những kẻ tài nghệ bình thường làm được đâu. đời này trừ Lưu Ngũ gia, thử hỏi còn ai có bản lĩnh đó nữa?" Lại có người hiểu biết hơn hút, nghe thấy thế liền lắc đầu: "Cái đó hẳn! Lăng trì là hình phạt tàn khốc nhất của bản triều, bình thường cũng khó có dịp được trông thấy, nhưng bây giờ khi dẹp loạn Việt khấu, hễ bắt được phản tặc là quan phủ đều dùng hình phạt này xử trí cả. Chính vì vậy mấy năm nay chúng ta đều thấy cảnh người sống bị xẻo da lóc thịt cũng nhiều rồi còn gì. Nhưng ông có phát thấy , những đứa càng khỏe mạnh bình thường càng cắt được nhiều đao, cứ như thế cứ khoang hai trăm đao mới chịu chừa ra bộ xuong máu thịt bầy nhầy. Còn những đứa to béo mập mạp, chẳng biết cắt vào đâu, xẻo cái là ra đống mỡ rồi, giống như thằng hòa thượng này ấy, to tai béo mặt, xẻo được hia trăm, ba trăm đao là giỏi lắm rồi, muốn lóc đủ nghìn ba trăm đao phải là dễ đâu. Chỉ e thanh danh đời của Lưu Ngũ gia, tới lúc già lại bị phế bỏ ở pháp trường Linh Châu này mất thôi" Trương Tiểu Biện bị chen lấn trước bục, nghe mấy người bàn tán thôi, thấy bọn họ hiểu biết gì àm còn ba hoa, cất giọng mỉa mai: " ngìn ba trăm đao kể làm gì? Bản triều nagyf nay đến đại hình ba bốn nghìn đao còn có nữa là. Đao phủ bộ Hình ở Bắc Kinh ai nấy đầu có tuyệt kĩ tổ truyền cả, người ngoài làm sao biết được. tam gia ta hồi ở Bắc Kinh từng tận măt stroong thấy đám đao phủ bộ hình luyện tập trân các laoif gia súc như bò, ngựa, lạc đà, càng luyện về sau càng áp dụng lên các loài hơn, nhưng số đao được giảm. Luyện tới mức thi triển được gà, vịt, ngan, ngỗng, chuột, thỏ mới có thể xuất sư" Mọi người làn đầu nghe thấy chuyện đó, biết hay đùa,c so mấy kẻ ngu ngơ còn ra sức tán thưởng, ngờ vịc ông sai trẻ tuổi anfy lại từng trải đến thế, có người cho rằng chuyện của Trương Tiểu Biện toành thứ vớ vẩn. Bọn súc sinh lắm thịt nhiều da làm sao có thể so sánh với phậm nhân được? Hơn nữa, dẫu cho đám đao phủ bộ Hình có tài nghệ bằng trời cũng làm sao cắt được mấy nghìn đao thân con chuột? Lăng trì hoàn toàn phải băm thịt, mà đao phủ phải cắt đủ nghìn ba trăm đao, mỗi miếng cắt da phải có cả da cả thịt, hơn nữa tới khi cắt đao cuối cùng, phạm nhân cũng chưa được đứt hơi mà chết, bằng đao phủ phải chịu tội thay cho phạm nhân, thiếu bao nhiêu đao phải gánh bù vào bấy nhiêu. Mọi người bàn tán sôi nổi mãi thôi. Bỗng nghe tiếng pháo hiệu đùng đoàng, biết là giờ ngọ ba khắc sắp tới. Đúng là : "Diêm vương hạ chỉ câu hồn; Võ Thường hai quỷ lên luôn bắt về. Muốn biết Lưu đao phủ tùng xẻo hòa thượng Chuột nghìn ba trăm đao như thế nào xem hồi sau . Hồi thứ 3: Lăng trì Xưa nay oan đền nợ trả, giết người đền mạng, thiếu nợ trả tiền, đều là cái lẽ nhân quả, có cả năm cũng hết, ngay cả chuyện phải chịu đau khổ khi thụ án chịu hình cũng từ đó mà ra, muốn thoát cũng được. Lại , khi phát pháo hiệu nổ lên, thấy sắp đến giờ Ngọ ba khắc, Lưu ngũ gia liền bảo bốn đồ đệ trợ thủ bắt Phan hòa thượng trong xe tù ra, trói bục gỗ hành hình ở pháp trường. Giữa hình đài có cái giá gỗ hình chữ Kim, các vòng sắt cột trụ còn loang lổ những dấu máu thâm đen, vết tích của các cuộc hành hình trước đây. ĐÁm đao phủ chẳng chẳng rằng, trói chặt Phan hòa thương lại rồi lột sạch quần áo tù người gã, sau đó cắp hình trụ và pháp đao đứng phía chờ nghe lệnh. Lúc ấy, tiếng pháo thứ hai vang lên, người xem xung quanh pháp trường đều biết rằng chỉ vài trong phút chốc nữa thôi, tên ác tặc bị xẻ phanh thành muôn mảnh, ai nấy chăm chú theo dõi, tiếng ràm rì lập tức lắng xuống. Lưu Ngũ gia thỉnh quan giám trảm khoanh khuyên chiếu theo lệ cũ, vái chào rồi : "Hôm nay Lưu Ngũ đưa Phan gia lên đường, chúng ta trước thù sau oán, đao phủ theo luật chấp pháp hành hình cũng là do lệnh sai khiến, thoái thác được. Nếu chúng tôi có chỗ nào chu toàn, cũng mong Phan gia lượng thứ cho" Phan hòa thượng rơi vào tình cảnh này, mọi ý niệm đều tiêu tan, nhưng trước ánh mắt soi mói của mọi người, lão vẫn muốn tỏ ra mình hảo hán cứng cỏi. Khóe miệng lão nhếch nhếch từng chặp, lộ ra nụ cười quái đản, : "Nghe đại danh Lưu Ngũ gia của bộ Hình từ lâu, ngờ lại chết dưới đao của lão, âu cũng là số kiếp của bần tăng. Trước khi thụ hình, bần tăng có cần xin gì, chỉ mong lão xuống tay nhanh ngọn chút, để ra chết cho được sung sướng. Sau khi xuống tới suối vàng, ta khong quên tụng kinh cầu phúc cho lão..." Lưu Ngũ gia buồn chớp mắt, lạnh lùng : "Xưa nay Thánh hiền lập kỉ cương, nay có triều đình đặt phép nước. Phan gia gây tội lớn tày trời, gánh nợ máu hớn trăm sinh mạng, rốt cuộc bị oan hồn ám ảnh, quan phủ tróc nã nên phải chịu cực hình lăng trì. Hôm nay, nghìn ba trăm đao này được thiếu đao. Ta khuyên thế này, ở dương gian phải chịu khổ băm vằm chút, tới phủ mới có thể sớm siêu thoát. Bây giờ nhân tiếng sáo thứ ba chưa nổ, còn điều gì dặn dò cứ ra. Phan hòa thượng nghĩ đến nỗi khổ bị tùng xẻo nghìn ba trăm đao, bất giác kinh hồn vỡ mật, bao nhiêu oán độc trong lòng trỗi dậy, im lặng lúc mới : "Bản tăng tính vốn từ bi, thích nô đàu với trẻ, từ khi tu luyện Kim Cương thiền tới nay, ăn hơn trăm hai mươi thai nhi, đồng tử, chính là nghĩa cử tốt đẹp để siêu thoát cho chúng sang thế giới Tây Thiền cực lạc. ta sắp sửa luyện thành chính đạo, đạt tới pháp thân xuất thần nhập hóa, nào ngờ bị bọn tiểu tặc phá hỏng pháp tướng, khiến ta rơi vòa tay quan phủ chịu trận tra tấn rút gân khóa xương. hôm nay chúng lại giở thủ đoạn tàn độc để bản tăng phải chịu nỗi khổ bị xẻo thịt muôn mảnh..." Phan hòa thượng càng lúc càng cay độc, há miệng nhe răng : "Ta cề phủ cũng hóa thàn ma quỷ tìm từng tên trong cá ngươi để đòi mạng trả thù. Lưu Ngũ gia ngươi chẳng qua cũng là loại chó diều cầm đao cho bọn quan lại. Con bà nhà ngươi, ngươi và thằng cẩu quan Mã THiên Tích đa hại bao nhiêu tính mạng hảo hán rồi? Các ngươi được chết yên thân đâu, ông nội các ngươi sớm muộn gì cũng từ cõi về đòi mạng các ngươi" Lưu Ngũ gia hành hình vô số tội nhân. Lũ phạm nhân thụ hình hoặc van xin cầu cứu quan phủ hoặc là mắng chửi dứt lời, lại có kẻ im lìm . thậm chí còn có tên đến mức đái ỉa ngay pháp trường. Lão vốn khá quen với những chuyện như thế này, chẳng bao giờ buồn để tâm, liền mặc cho đối phương chửi mắng thỏa mồm, gì thêm với Phan hòa thượng nữa. Người dân xem xung quanh đâ phần đều lấy làm tức giận, hôm nay còn vương pháp nữa rồi. Lão hòa thượng Chuột này tội ác tày trời, thối tha đến thế àm khi bị xử quyết còn dám cuồng ngôn, tội thực đáng muôn đao giết chết. Lại có nhiều gia đình bị mất con cái hận đến tận xương tủy, nhao nhao lượn đất đá ném vào pháp trường. Quan phủ phải chỉ huy lính dõng đến giữ nguyên cục diện, đề phòng loạn dân đến làm cản trở cuộc hành hình. Lúc ấy, có rất nhiều khổ chủ nhao nhao chen đến phía trước, lên đút lót cho toán công sai đứng cạnh pháp trường, hòng mua được những mảnh thịt của Phan hòa thượng sau khi hành hình. phải ai cũng là người nhà của những đứa trẻ bị Phan hòa thượng bắt cóc, mà còn có nhiều người nhà bệnh nhân. Xưa nay, dân gian thường bảo, khi pháp trường có án tử hình, máu thịt của phạm nhân đều có thể làm thuốc chữa bách bệnh. Chính vì vậy, bọn công sai đều nhân cơ hội này ăn của đút, chỉ có điều dám mua bán ngang nhiên mà thôi. lúc ồn áo hỗn loạn, bỗng nghe phát pháo hiệu thứ ba nổi lên, Lữu Ngũ gia thấy đến giờ ngọ ba khắc liền lập tức động thủ hành hình. Đầu tiên bọn trở thủ lấy ra tấm lưới đen ngòm, xổ tung ra rồi quấn vào tay trái của Phan hòa thượng. Tấm lưới đen này phải là lưới đánh cá thông thường mà đó là vật các đao phủ triều trước truyền lại, được bện từ tóc người và tơ tằm, chuyên dùng để đong đếm lượng thịt phải xẻo khi tử tù bị xử lăng trì với số đao quá nhiều. Chỉ thấy đường viền đen lưới ấn vào da thịt liền để lại vết hằn bằng đồng tiền lớn. Ngón nghề vốn thuần thục, Lưu Ngũ gia hô lên tiếng: "Xem pháp đao đây" liền thò tay vào bao da, lôi ra hia ngọn khoái đao tựa như đao Bạt phong. hai ngọn pháp đao này, dài ngắn, đều có tên gọi. Ngọn dài hơn thước gọi là "Xích thanh:; ngọn ngắn hơn tấc, gọi là "Thốn thanh", vốn được lưu truyền từ đời Bắc tống đến nay.Nghe , hồi đó chúng được dùng để xẻo thịt thủ lĩnh Phương Lạp của bọn giặc cướp vùng Giang Nam, lưỡi dao đúng là sắc lẹm, lạnh lẽo kinh người, thổi sợi lông qua cũng đứt. Số hảo hán bị lăng trì bởi ngọn đao này quả thực đếm xuể. Dẫu là kẻ trung thần nghĩa sĩ ngậm oan nốt hờn hay loạn thần tặc tử đầy tội ác, hễ bị trói ra pháp trường, nhìn thấy hai ngọn khoái đao này đều khỏi ớn lạnh, hồn bay phách lạc. Lưu Ngũ gia hai tay cầm hai ngọn khoái đao, mồm niệm chú Ác sát. Lời chú vừa cất, lưỡi đao hạ xuống, chiếu theo vết lúc nãy mà cắt từng đao . Lão Phan hòa thượng này ăn rất nhiều trẻ con, toàn thân béo phì, da dẻ trơn mịn, chịu nổi bị cắt xé lên đau đớn, the thé gào lên thảm thiết. Lưu Ngũ gia thèm để ý, cứ lưỡi ngắn cắt lưỡi dài móc, lội ra từng miếng thịt như lá liễu, hia ngọn khoái đao vung lên hết sức thuần thục. Chỉ thấy lão xuất thủ như gió cuốn, bóng đao cứ nháy động liên hồi, trong phút chốc lóc hết lượt thân hình to béo của Phan hòa thượng. Bốn tên đồ đệ của lão đứng cạnh, lần lượt đếm từng đao. đỉnh đài của pháp trường, máu thịt dầm dề, dân chúng trong thành Linh Châu, phần đông mới lần đầu thấy dao phủ bộ Hình dùng đao, ai tưởng tượng được cách dùng đao nào nhanh như thế và phương pháp xẻo thịt nào gọn ghẽ như thế, qua thực khiến người ta thể ngờ được, cả đám đều trợn mắt há mồm ngây ra xme như tượng gỗ. Bầu gian giữa lòng đường lớn chỉ nghe tiếng đao phủ xéo thịt và tiếng ắc tặc gào thảm thiết, còn đâu cả ngã tư đều im phăng phắc. số người non gan, khiếp sợ tới mức vãi dái ra quần. Làm đao phủ đương nhiên phải kiếm cơm bằng việc giết người. Lưu Ngũ gia quả nhiên tài nghệ cao cường. Từ năm 17 tuổi xuất sư thành tài, lão bắt đầu cầm đao hành hình ở pháp trường. Trong 40 năm hành nghề, số tử tù được lão tống tiễn phải vạn cũng tám nghìn, đúng là giết người như ngóe, kinh nghiệm hành hình hết sức phong phú. Lần xẻo thịt hòa thượng Chuột này như bình thường, bắt buộc phải cát cho trong nghìn ba trăm đao, vì vậy Lưu Ngũ gia biết rằng, xuống đao phải vừa nhanh vừa chuẩn, lát cắt phải ngọn ngàng sạch , nếu phạm nhân chết trước khi cắt đủ, hơn nữa lại còn được cắt vào mạch máu của phạm nhân. Tên này rất to béo, mạch máu và các đường kinh lạc hết sức khó tìm, khác hẳn người thường, vì vậy lão phải tập trung hết tinh thần, vận hết sức lực toàn thân mà động thủ. Phan hòa thượng cũng hết sức hung tợn, thịt người bị lóc từng miếng từng miếng khiến vừa gào thét thảm thiết, vừa chủi mắng ngớt, thốt ra toàn những lời nguyền rủa cực kì độc địa. Nhưng lời của càng lúc càng yếu, tới khi cắt được tới hơn 1200 Phan hòa thượng còn ra hình người nữa, lưỡi, mũi, tai đều bị cắt bỏ, toàn thân chỉ còn chừa lại hai cầu mắt là còn chuyển động, cứ đảo lộn liên tục nhìn chằm chằm vào ngọn đao trong tay của Lưu Ngũ gia. đúng là, ra tay như núi lở, hạ đao quỷ cũng kinh. Sau tẳm đao đầu được gọi là "lóc vẩy cá", xẻo lớp bên ngoài toàn thân dưới, 400 đao tiếp được gọi là "khoét thịt trong", 300 đao cuối cũng có tên riêng, gọi là "Gỡ hồn phách". Lần lượt đến đến đao thứ 1299, Phan hòa thượng bị lóc tới trơ ra bộ xương, chú Ác sát của Lưu Ngũ gia cũng niệm hết, lão đột nhiên dùng tay, thu hai ngọn đao nhuốn chút máu lại, đổi lấy con doa tai trâu nhọn có đính vòng sắt, rồi mời quan giám hình đến nghiệm hình. Lúc đó da mí mắt của Phan hòa thượng cũng bị xẻo, tròng mắt động đậy, ánh mắt xám như tro, biết chết hay chưa. Vị quan giám hình bưng cái gáo, vốc ra nắm lớn muối hột trắng tinh rồi vẩy vào Phan hòa thượng. Phan hòa thượng bị xót, tròng mắt đột nhiên đảo dữ, chứng tỏ alox vẫn chưa chết hẳn. Lưu Ngũ gia lập tức vung tay hạ đao. Con đao tia trâu phóng xuống, vừa chẵn số 1300 đao. Người xem bốn phía pháp trường đều ồ lên reo hò, khen ngợi ngón nghề của Lưu Ngũ gia, đến Mã đại nhân và Đề đốc Đồ Hải giám trảm lầu cũng ơhair ngầm giơ ngón tay cái, tấm tắc khen ngợi. người Lưu Ngũ gia quả nhiên vấy chút máu, hơi thở vẫn nhịp nhàng, vẻ mặt vẫn tự nhiên. Trong tiếng hô vang như sấm động, lão chắp tay vái lượt rồi xuống võ đài. Mọi người đều vòng tay chúc mừng, tựa như muôn sao chầu nguyệt. Các nhà phú hộ giàu có liên tục mang rượu thịt tới khao, mong mượn lấy sát khí người vị cao thủ đem về nhà đuổi tà trấn quỷ. Trương Tiểu Biện và Tôn ĐẠi MA Tử đúng bên cạnh xem mà chạnh lòng, cảm thấy Lưu Ngũ gia được uy phong như thế hoàn toàn dựa vào tai nghệ và bản lĩnh cao cường, huynh đệ bọn biết bao giwof mới có dịp được diễu võ dương oai trước mặt chúng nhân như thế?Lúc đó, bốn đồ đệ của Lưu Ngũ gia, mỗi người chân tay xẻ thịt, lọc xương bộ tàn cốt của Phan hòa thượng. Lục phủ ngũ tạng bị lôi hết ra, vắt lên đầu mấy cọc gỗ chôn hình đài, còn lại đầu lâu, xương xẩu giã vụn thành mảnh . Có mấy người lần đầu xem hành hình, duyên cớ, liền hỏi Trương Tiểu Biện và Tôn Đại Ma Tử: "Xin thỉnh giáo hai vị quan sai, sao tùng xẻo ác tặc xong còn phải giã nát xương cốt? Thế nghĩa là sao?" Trương Tiểu Biện liền thừacơ ba hoa rằng: "Lăng trì là cực hình tàn khốc nhất, nếu chẳng phải để trừng phạt kẻ đại gian đại ác bao giờ khinh suất đem ra dùng. Phạm nhân chẳng những bị cắt xẻo nghìn đao mà đến cả xương cốt cũng được đem niệm, phải giã nát rồi đem thiêu, vung vãi tro xương . Thực dám giấu, tên ác tặc này chính là tay Trương tam gia ta xả thân bắt sống được. chư vị biết lợi hại đến thế nào đâu! Hòa thượng này có thuật, nếu đem băm vằm thi thể rồi hủy biết đâu còn có thể giở ra pháp gì nữa, hoặc giả hoàn hồn để hại người cũng nên..." Đúng lúc , đột nhiên mặt đất nổi lên trận gió , bốn phía cát bay mù mịt, vừa mới rồi mặt trời còn chiếu sáng mà chớp mắt biến thành bầu gian kìn kịt mây đen. Bách tính thành Linh Châu như trông thấy đại họa, ai nấy đều sợ thất sắc, kêu cha kêu mẹ tranh nhau chạy trốn, đúng là: "Trời mờ đất mịt tia sáng; Quỷ khóc thần kêu kín lối mây" Rốt cuộc trong trận gió có ác quỷ nào xuất , xem hồi sau .
Hồi thứ 4: Chó ngao thần đến đoạn sau khi Phan hòa thượng bị áp giải ra pháp trường chịu đại hình lột da tróc thịt băm vằm thành muôn mảnh, đám đao phủ lột hết lục phủ ngũ tạng của gã ra, vắt lên từng cái cột, tưởng sắp châm lửa đốt, bỗng giữa từng nổi lên trận gió , trong khoảng khắc mặt trời khuất bong, cả thành Linh Châu cát chạy đá bay, đất trời mờ mịt. Ai nấy nháo nhác cả lên, mọi người ở phía Nam con phố đều tranh nhau trú vào các cửa hàng cửa hiệu ở ven đường. Con đường xuyên qua giữa chợ lập tức ra nhưng ba mặt còn lại của ngã tư người dân vẫn tụ tập như rừng, ai bỏ chạy cả. Trước đây Trương Tiểu Biện thỉnh thoảng mới vào thành Linh Châu, chưa từng chứng kiến cảnh hành quyết tù nhân bao giờ. cứ tưởng sau khi nguwofi ta giã nát xương cốt châm lửa đốt là xong việc, nào ngờ thấy người ở phía Nam phố hốt hoảng giạt ra, ai nấy nem nép im hơi, ngướng mắt nhìn như chờ điều gì đó. Trương Tiểu Biện đoán biết, cuộc lăng trì hôm nay còn chưa kết thúc, đằng sau còn có phen náo nhiệt nữa. kìm được tò mò liền lại gần gã công sai già hỏi han đầu đuôi. Lão công sai nọ biết Trương Tiểu Biện là người được đích than Tuần phủ đại nhân đề bạt, sang định bụng kết giao, liền hạ giọng khẽ: "Trương bổ khoái biết đấy thôi, mỗi khi thành Linh Châu chúng ta dựng pháp trường hành quyết, lúc cuối cùng giống các vùng khác là thiêu hóa xác chết của phạm nhân, mà chỉ giã nát xương cốt, còn nội tạng và máu thịt xưa nay vẫn để cho bọn chó đói ở ngoài thành vào ăn. Ngài xem, khắp thành mây mù che khuất, nhất định là con chó Ngao thần ở Vạn Thi phần, Loạn Tăng lĩnh vào thành rồi, chỉ có kẻ nào thiết sống mới dám gây ồn ào thôi" Trương Tiểu Biện và Tôn ĐẠi Ma Tử nghe thấy thế ngẩn người ra, đồng thanh : " ra là thế, chả trách đám đao phủ vắt tim gan phèo phổi lên mấy cái cột, hóa ra để đãi bọn chó ngoài thành!" Lời tác giả: Xưa nay người chết đều được yên nghỉ dưới lòng đất, gỗ làm quan tài càng dày người chết càng được yên ổn, bằng chuột bọ đục khoét, mưa nước thấm vòa khổ để đâu cho hết. Đen dủi nhất là những người chết mới được chôn xong xuôi bị bọn chó ban đêm bạt nấm, húc vỡ quan tài rồi sâu xé ăn thịt. Rất nhiều người nghèo thể mua được quan tài, có được manh chiếu cói bó thây là tốt lắm rồi, những nhà kha khá chút cũng chỉ có thể mua loại quan tài "chó húc" ba phân gỗ bách. Trong thời loạn, thiên tai địch họa liên mien, đại bộ phận dân chúng đều có gì để ăn, bọn chó lang thang hang cùng ngõ hẻm lại càng nhiều. mỗi lần đánh trận xong, những con chó đói lại lao ra bãi chiến trường bới ăn thịt sĩ tốt ngà ngựa nghẽo tử thương, con nào con nấy béo núc và hung dữ dị thường. Chúng thường kết thành bầy, trong những ngõ bãi hoang vu. Người dân nghèo chết vùi qua loa trong những cỗ quan tài mỏng đều bị bọn chó đói đào mộ ăn sạch, tình cảnh thê thảm sao kể siết. Vùng xung quanh Linh Châu nổ ra chiến liên mien, mỗi phen kịch liệt, xác người chết đầu nơi mình nẻo, ngổn ngang khắp lối. Thánh hiền thời xưa từng : "Thu niệm tử thi vô chủ, vùi vào đất, là hành vi của người có lòng nhân". Nhưng nhân tình thế thái bây giờ đâu còn được như xưa, ai mà chịu nhặt xác chôn thây? Huống hồ, người chết quá nhiều càng thể đem chôn kịp. Chỉ khi nào quan phủ ra tay ban ít tiền khao thưởng, người dân quanh vùng mới chịu thu nhặt xác chết đem vứt vào Vạn Thi phần. Cách sổng Nam thành Linh Châu vài dặm có vùng núi hoang vu mênh mông. Nghe thời Xuân Thu- Chiến Quốc, nơi đây là sơn cốc đúc kiếm, nhưng thời ấy quá xa xôi, tên vùng đất cổ sao tra ra được nữa, cũng chẳng thấy lưu lại cổ vật hay di tích gì. Trong núi có khe sâu, trước thời chiến loạn, đây là nơi người ta quăng thi thể bọn tù phạm bị chết trong ngục, lâu dần liền được gọi là Vạn Thi phần. Mấy năm gần đây, số lượng người chết nhiều tới mức còn chỗ chôn, quan phủ bèn chỉ địn Vạn Thi phần thành nơi chuyên chôn các thi thể vô thauwf nhận. Bất luận là chết vì thiên tai ôn dịch hay chết dưới đầu thương mũi kiếm, hễ là xác vô thừa nhận bất kể lai lịch ra sao cũng quăng vào hang hốc ở Vạn Thi phần. Cho tới giờ, ai đếm xuể số tử thi ở đó, chie biết rằng, cả vùng hang sâu núi thẳm toàn cỏ dại um tùm, xương phơi lởm chởm, cầy acso , hồn yir tê, xưa nay ai dám lảng vảng lại gần. Bầy chó hoang hung tợn quanh vùng coi Vạn thi phần là kho lương thực của chúng. Hàng trăm hàng nghìn con chó hoang kéo bè kết đảng, tranh cướp các tử thi trong hang dẫn đến các cuộc tương tàn nội bộ, đống loại cắn xé lẫn nhau, sống chết. Những con bị cắn chết lập tức bị đồng bọn ăn sạch, trơ ra đống xương trắng. Chính vì vậy, bầy chó hoang trong núi lúc nào cũng chỉ dưới vài trăm con, chưa trở thành đại họa cho người dân sống xung quanh. Cho tới năm nọ, biết từ đâu, con chó lớn lần đến. Nó cao to như con lừa, tiếng sủa như bò rống, thần uy lẫm liệt, mang phong thái của kẻ cầm đầu. Con chó đó hung ác vô cùng, thường cầm đầu bầy chó hoàng trong Vạn Thi phần, xông bừa vào làng để quật mộ. từ những xác chết trong quan tài cho đến gia súc trong thôn làng, thậm chí cả người sống lạc mình, chúng cũng đều tấn công ăn thịt, them vào đó số lượng của chúng mỗi lúc tăng, dần dần trở thành mói tai họa cho địa phương. Người dân thiếu hiểu biết đều , con chó này hết sức thần dị, phải vật tầm thường ở nhân gian, chắc hản là Hạo Thiên Khuyển của Nhị Lang chân quân ở đền Quán Khẩu giáng trần, thế nên đều gọi nó là Thần ngai, ai dám xúc phạm. Cũng quan Án sát sứ tiền nhiệm trăn trở kiểu gì nghĩ ra cách gọi là " Lấy giặc cướp đổi dân lương thiện". tựa như quan viên đạt tới thỏa thuận với bầy chó hoang, để đánh đổi việc chúng tàn sát những người dân thường vô tội, cứ hễ trong thành hành quyết tù phạm, sau khi xử trị xong cho phép người nhà liệm xác mà vứt mặt đất cho bầy chó ở vạn Thi phần vào xâu xé, uống máu gặm xương tùy thích. Từ đó trở , chỉ cần thành Linh Châu dựng pháp trường con Thần Ngao linh cảm thấy ngay. Từ tận chốn thâm sơn cùng cốc cách đó mấy dặm, nó đánh hơi thấy mùi máu tanh cảu cuộc hành hình, liền dẫn đầu bầy chó hoang, gào rú xông vào thành. Lại nghe đâu, bọn chó hoang ăn nhiều thịt người có hồn oán quye bám theo, tới đâu chỗ ấy dậy lên từng đợt gió . Chính vì vậy, hầu hết nhwungx người hiểu được lệ ấy vừa thấy giữ tầng có quỷ khí ngút trời là biết cửa Nam mở để Thần Ngao tiến vào, họ liền vội vã nhường đường, nấp vào bên quan sát. Quả nhiên, bao lâu sau, con đường phái Nam bầy chó đói khoảng mấy chục con lao đến, xúm xít xung quanh con chó lớn, dữ tợn tột cùng. Trương Tiểu Biện tuy mới lần đầu trông thấy con thần ngao những khá thông hiểu bí quyết " xem mèo đáon chó:, vừa nhìn thấy biết nó bình thường. Sách Khuyên rkinh, phần "vạn vật thông tải" căn cứ vào hình dạng lớn của loài chó mà phân thành ba loại lớn; to nhất gọi là "ngao", cỡ bình thường gọi là "khuyển", loại có thân hình bé mới gọi là "cẩu". Mặc dù từ xưa có phân biệt rang nhưng tới giờ người ta vẫn hay lẫn lộn giữa "khuyển" và "cẩu". Con chó dữ mà người dân vẫn gọi là Thần Ngao ấy to chẳng kém gì con lừa kéo cối say, mình có những đốm đỏ như vết máu, lúc nó chạy nhảy chẳng khác gì có khối mây lửa bao bọc xung quanh, chỉ riêng điểm này thôi cũng có thể đoán được, nó phải là chó ngao thực thụ mà chỉ là con "khuyển" có thân hình to gần bằng con "ngao" mà thôi. Đây chính là chó của người Thát( Mông Cổ) từ thảo nguyên Mạc Bắc đến đây, gọi là "Thát tử khuyển". Loại chó này có thể bắt sư tử, giết hổ dữ, truy sát chó sói, tính tình hết sức hung tợn, làm cách nào vùng Giang Nam lại có con vật thần dị này. Trương Tiểu Biện nghĩ tiếp nữa, hóng theo mọi người xem cảnh náo nhiệt. Chỉ thấy bầy chó sặc mùi xú uế ấy chẳng coi thiên hạ xung quanh vào đâu, cứ thế rùng rùng lao vào hình đài trong pháp trường. Cả bầy sói đói thấy máu tanh đầy bục lập tức dãi dớt chảy lòng thong quanh mõm, con nào con nấy thè cái lưới đỏ máu thở hồng hộc rồi đều nằm phục trước hình đài, vẫy đuôi, chẳng con nào dám qua mặt thủ lĩnh nhao lên gặm xương của hòa thượng Chuột. Con Ngao thần tuy thân thể to lớn nhưng hết sức nhanh nhẹn linh mẫn. Nó gầm lên tiếng, lao vọt lên như mọc thêm cánh, nhảy phóc lên bục cách đó mấy chục bước chân, rồi ngoạm miếng thịt phơi cột gỗ, nhồm nhoàm nuốt vào bụng,cúi xuống liếm máu me. Tên tử tù béo mập bị tùng xẻo xong xuôi, bục gỗ be bét mỡ và máu tươi. Cái lưỡi con Thần ngao dễ phải dài cả thước, cứ thè cái là liếm sạch mảng lớn, soàn soạt trong miệng, tỏ vẻ rất sung sướng khiến cho bầy chó hoang ở dưới thòm thèm khong chịu nổi. Đến lúc con Thần Ngao liếm đời, nó mới ngẩng đầu tru lên mấy tiếng như bò rống, rung chuyển cả trời đất. Ngay lập tức bầy chó đói dưới bục cũng cất tiếng tru theo như người ta tung hô khi tiếp nhận thánh chỉ. Chỉ chwof có thế, con bò đất liếm máu, con gầm ghè giằng nhau miếng thịt. Đàn chó đói ăn uống cao hứng, con nào con nấy nhe răng kêu gừ gừ, ánh amwts dữ tợn. Bách tính và dám lính dõng đứng xem xung quanh đều cảm thấy kinh sợ nhưng ai tỏ ra thương xót. Trong thời địa suy đồi này, lòng người yên, càng có gió tanh mưa máu, họ càng thấy thú vị, thậm chí nhiều người còn lấy việc người khác gặp họa làm điều mừng. Chí có những người còn giữ được lương tri mới ngầm than thở: "Chẳng biết triều đình làm việc trái elx gì mà khiến người đời phải chịu tội tàn khốc đến thế? Xem ra thiên hạ đại loạn khó mà yên được, trước sau gì cũng có tai họa giáng xuống" quá thời gian uống cạn chén trà, máu thịt pháp trường, thậm chí cả xương cốt bị đao phủ giã , cũng đều bị bầy chó hoang gặm liếm sạch , ngay cả cặn bã cũng còn chút gì. Đàn chó vẫn quanh quẩn rời, gườm gườm nhìn đám quân dân bốn phía. Trương Tiểu Biện và Tôn Đại MA Tử đều đờ ra nhìn, chợt nghe lão công sai đứng cạnh kinh hãi bảo:" xong rồi, bầy chó chưa ăn no, có lẽ phải... "lời chưa dút, chợt thấy con Thần Ngao pháp trường nhảy vọt lên, chồm đến vồ ngã Lưu Ngũ gia đứng lẫn trong đám người. Mọi người chưa kịp hiểu ra chuyện gì, con chó ác moi hết tim gan phèo phổi của lão. Bọn chó từ phía sau lao ra như tên bắn, trong tiếng tru gào điên cuồng, chúng vồ vào đám người đứng xem àm cắn xé. Quân dân Linh Châu như ong vỡ tổ, ai nấy tìm đường chạy thục mạng, nhưng người này chen lấn người kia chẳng còn chỗ nào mà cướp đường. Chỉ thấy tứ phía máu thịt tơi bời, trong khoảng khắc có hơn trăm người phơi xác tại chỗ, số người bị thương do chen lấn, giẫm đạp kể siết. Mã đại nhân và Đề Đốc Đồ Hải ở lầu nhìn mồn . Ten Đồ Hỉa trông thấy thảm trạng máu thịt tơi bời như vậy, sợ run lên, vội ôm đầu chui xuống gầm bàn. Tuần ohur Mã đại nhân cũng là kẻ vững dạ, thâm tấm vón muốn phá bỏ lệ cũ từ lâu nhưng chưa tìm được dịp thuận tiện, nay thấy ương mầm thành đại họa, muốn hối hận cũng muộn, vội võ ấn quát lớn: "Phản rồi! Phản rồi! tả hữu đâu nghe lệnh ta! Hễ gặp chó hoang trong thành là giết hết" Con Thần Ngao vừa cắn chết Lưu Ngũ gia pháp trường nuốt mấy miếng thịt tươi, thần trí càng thêm điên loạn dữ tợn. Dường như nó biết lầu góc phố có quan lại bản địa, liền tung mình đạp vào quân dân chen chúc, khom người cúi đầu lấy đà rồi vận hết sức tung mình lên . Con ác khuyển quả là nhanh nhẹn tuyệt luân, chẳng khác nào hùm hổ mọc cánh, đến mấy trượng tường bao cũng có thể nhảy qua chứ sá gì hai tầng lầu. Từ nó trợn cặp mắt đăm đăm nhìn Mã đại nhân rồi lao vào vồ. Mã Thiên Tích thất kinh, vạn phần tưởng tượng nổi con chó lại hành thích mệnh quan triều định, trong cơn kinh hãi khỏi hoảng hồn thất sắc. May mà lão đẫ đề phòng từ trước, mấy chục tên thân binh tùy tùng giắt hỏa khí người liền lập tức giơ sung ra bắn. Cứ tưởng làn đạn như mưa ấy đến thần tiên cũng khó thoát, ai nấy đều chắc ngẩm bắn chết con Thần Ngao tại chỗ, nào ngờ con chó ấy nhanh nhẹn gì bằng. Thấy hảo khí lợi hại, lơ lửng giữa trung, nó liền dung sức hông bụng uốn mình cái, đột nhiên vọt lên mấy trượng nữa, đạp vào ngói tầng hai làm ngói đổ xuống rào rào. dừng lại ở đó bao lâu, nó đạp mái vượt tường chạy thoát. KHói thuốc súng chưa kịp tan thấy nó đâu nữa. đúng là: " khí cá trạch thoát câu; Mất tăm mất tích biết đầu mà tìm" muốn biết thể thế nào, xem hồi sau . Hồi thứ 5: Tai mèo Lại về bầy chó hoang lớn ở Vạn Thi phần tràn vào thành làm náo loạn pháp trường Linh Châu, cắn xé sát hại quân dân, thương vong vô số, cuối cùng toàn bộ bầy chó đều bị lính dõng giết chết. Sau cơn hỗn loạn, ngã tư đường đầy những xác người, xác chó. Đáng thương thay tòa thành nổi tiếng phú quý phồn hoa, hôm nay biến thành mộ trường địa ngục quỷ khóc ma gào. Tuần phủ Mã đại nhân từ lầu trông cảnh tượng, nổi giận lôi đình, sai binh lính khóa chặt cổng thành, lại phái lính dõng truy sát con Thần Ngao khắp hang cùng ngõ hẻm. Nhưng lúc sau có người tới phi báo, phát thấy con ác khuyển vượt qua tường thành chạy thoát vào núi hoang. Mã đại nhân vội triệu tập quan viên tới thương nghị rồi : "Con nghiệp súc hung tợn đáng khiếp thay. Hơn nữa, ta xem nó dường như có chuẩn bị từ trước, ý đồ hành thích mệnh quan của triều đình, chắc hẳn bị thuật cảu bọn tạo súc khống chế. sớm trừ diệt ắt hẳn trở thành đại họa về sau" Theo lệ của đời Thanh, quan lại đồng cấp văn quản võ, Mã quản Hán, nhưng Đề đốc Đồ hải hoàn toàn cso thự quyền ở Linh Châu, chẳng qua chỉ đứng bù vào lấp chỗ trống. thực tế, triều đình cũng chỉ phái lão xuống làm giám quân, mà kẻ này cũng rất u tối chẳng có năng lực gì. Vừa mời rồi lão thấy con Thần Ngao cắn chết Lưu Ngũ gia trong nháy mắt, lại dữ tợn nhảy lên lầu định hành hung, rồi tránh khỏi làn đạn súng đạn, vọt lên amis lầu tẩu thoát, mảy may tổn thương, thực đúng là"chó trời". Tinh thần Đồ Hải dã hoàn toàn bán loạn, chỉ còn cách thoái thác, giao mọi cho Mã đại nhân tòan quyền xử lí. Mã Thiên Tích vốn chẳng hy vọng gì vị Đề đốc giá áo túi cơm này đưa ra được cao kiến gì, liền lệnh cho mọi người hiến kế. Có kẻ trợ tá : "bọn chó hoang ngoài thành này đều kết bầy lang thang, ban ngày có nơi ở cố định, chỉ có ban đêm mới quần tụ trong sơn cốc. Chi bằng phái vị tướng quân kiêu dũng thiện chiến, ban đêm dẫn theo người ngựa, mang nhiều hỏa khí tiến vào Vạn Thi phần rồi tiêu diệt chúng tận gốc" Lại có kẻ khác bàn rằng: "Chó hoang tuy đông nhưng đáng lo. Phéo dung quân có câu: bắt giặc nên bắt tướng. Trước tiên cần tìm cách trừ khử con chó dữu đầu đàn mới được. Nhưng con chó này được người ta gọi là Thần Ngao, tuyệt nhiên hề giống bọn cho hoang bình thường. nó chẳng những mặt xanh nanh nhọn, dữ tợn vô cùng mà còn hết sức nhanh nhẹn, nhảy phắt cái vọt lên được mặt thành, nếu phải là quái trong" tây du kí" cũng là linh thú trong "Phong thần bảng" giáng trần. Dù chúng ta phái nhiều dũng sĩ nhưng chưa chắc là đối thủ của nó" Mã đại nhân gật đầu : " cũng có lí! Vậy theo người nên làm thế nào mới được? Nếu có mưu hay cứ thẳng thắn trình bày để chia sẻ bớt lo âu cho bản quan" Gã trợ tá đó thường cho mình là người biết nhiều hiểu rộng, nhưng từ khi về dưới trường Mã đại nhân vẫn chưa hiến được mẹo mực gì. Hôm nay thấy cơ hội đến, gã liền dâng lời rằng: "Tiểu nhân từng nghe số người Tây Dương , ở nước Di phương tây cũng có nhiều chó dữ hoành hành, vì vậy đất đó có tục là những kẻ thân sĩ khi ra khỏi cửa cầm theo cái gậy, gọi là Văn Minh côn, chuyên dung để đuổi chó. Chó hoang phố hễ trông thấy gậy này là chạy xa, dám lại gần, vì loài chó bẩn sinh sợ gậy gộc, đó là bản tính trời phú cho tạo vật này". Mọi người đứng bên thấy thế đều bảo: " Di đúng là nước man dợ ở vùng biển hoang, chưa từng được chịu ơn khai hóa. Đừng trông chúng có tầu chắc pháo mạnh mà lầm, riêng cái việc đám thân sĩ khi ra đường phải cầm gậy đánh chó là bằng nước Đại Thanh ta rồi. Cái thứ Văn Minh côn đó xưa nay chỉ dành cho bọn ăn mày khất thực thôi. Có điều, bản tính bọn chó đúng là sợ gậy gộc. Cho dù chó dữ mấy chăng nữa, cứ thấy gậy gộc là chờn mấy phần. Có lẽ nên cấp cho quân dân Linh Châu nhiều đoản con để đề phòng bọn chó dữ hại tính mạng" Cả đám nhao nhoa hiến kế, nhưng lại chẳng có kế nào dung được. Đương lcus vô kế khả thi, chợt cso thám tử vào bảo, đại quân Việt khấu chia làm mấy lộ đánh thành. Lần này chúng kéo quân bất ngờ và bí mật, đến khi phát mũi tên tiên phong chỉ còn cách thành đén ba mươi dặm. mã đại nhân vội vàng hỏi số lượng quân giặc, thám tử bèn bẩm báo: "Chỉ thấy quân giặc ào ạt đến đầy non chật núi, đao thương như rừng, giáp binh như mưa, thể đếm được" Tạm thời kể tiếp việc Việt khấu đột ngột phát bịnh đánh thành và thành Linh Châu điều binh khiển tướng để phòng ngự ra sao, chỉ đến chuyện Trương Tiểu Biện bị đám dân chúng bỏ chạy tháo thân pháp trường xô đẩy, tự chủ được cũng phải chạy theo. Chẳng biết Tôn Đại Ma Tử và con mèo đen bên cạnh chốn đâu nữa. mình chạy vào lối ngõ hẹp, chẳng biết Đông Tây Nam Bắc thế nào,chỉ mừng thầm vì bị bọn chó dữu cắn chết trong đám hỗn loạn. Thấy xung quanh có ai, liền ngồi xuống bậu cửa trước ngôi nhà dân, thở hổn hển. Trương Tiểu Biện nghĩ bụng, cứ tưởng trong thành được yên ổn chút, nào ngờ lại hỗn loạn đến thế. Bầy chó hoang đột nhiên phát cuồng, cắn chết bao nhiêu dân chúng, đầy phố toàn xác người chết thảm nằm ngồn ngang, cho bằng mau chóng tìm Tôn Đại Ma Tử rồi rồi khỏi nơi thị phi này, chạy đến tận Kinh Thành mà tìm đường phát tài. Trong lòng đương toan tnhs, chợt nghe phía đầu đường có tiếng mèo kêu, ngoảnh lại nhìn hóa ra là con Nguyệt ảnh ô đòng kim tuyến miêu. Trương Tiểu Biện đến gần con mèo rồi : "Con mèo tham lam này vừa chốn đâu chơi để Tam gia nhà ngươi phải mất công tìm, hay là ngươi theo ta đến Kinh thành chuyến cho mở mang... " chưa dứt lời bỗng thấy bím tóc phía sau bị người khác nắm chặt khiến đau tới mức phải thốt lên, chửi: " còn vương pháp hả?Con bà đứa nào ăn gan hùm mật gấu dám giật bím tóc của Trương tam gia ta chứ?" Chỉ nghe phía sau có tràng cười khô như xẻ gỗ vang lên:"Hà hà, bây giờ là Trương bổ khoái rồi, có còn nhớ cố nhân nữa ?" Trương Tiểu Biện nghe thấy biết ngay người đó chính là Lâm Trung Lão Quỷ, liền vội đổi giọng : "Tiểu nhân làm sao lại dmas queend dại ân đại đức của lão tiên sinh" Trương Tiểu Biện thấy mũ tóc được tảh ra liền chỉnh đốn mũ áo, quay lại thi lễ. Chỉ thấy Lâm Trung Lão Quỷ nọ vẫn mặc trường bào rộng thùng thình, màu vải cũ kĩ rách rưới, cũng là trnag phục của triều đại nào nữa, mặt vẫn bịt kín bằng cái khăn chỉ chừa ra 2 con mắt khô khốc, chẳng giống người sống chút nào. Lão mở miệng hỏi: "Trương bổ khoái. Món đại phú quý mà lão phu mach bảo ngươi nay lấy được chưa?" Trương Tiểu Biện vốn rầu rĩ về chuyện món kim ngân châu báu mà lão già này mach bảo, tuy bảo là có nhưng đó là tiền trong ngân khố của quan phủ hại ngon ngọt chưa thấy, thấy bồ hòn, phải liên liên lụy khổ sở phen. Song thấy khí sắc cảu Lâm Trung Lão Quỷ, ba phần chẳng giống người, bảy phần tựa như quỷ, đời nào dám xúc phạm, đành ngậm bồ hòn làm ngọt, làm ra vẻ đau khổ kể lại lượt những chuyện vừa xảy ra, cuối cùng mới : "Lão tiên sinh mach bảo tuy đúng nhưng chẳng biết làm sao mà số của tiểu nhân phát tài, vất vả phen hóa ra công cốc, bạc vào tay còn chưa ấm bị đám công sai cướp ngay phố rồi" Lâm Trung Lão Quỷ bảo: "Có hai người cùng nhà ngươi chạy nạn ở làng Kim Quan, là Thảo đầu Thái tuế, có thể trợ giúp cho ngươi, kẻ còn lại chính là Táng môn Bạch hổ Tinh quân. Ngươi đem con nha đầu đó cùng làm sao có thể mở mặt được? Xem ra, số mệnh của ngươi được phát ở chỗ này, nên mới xui khiến cho sao dữ chiếu mạng. Nhưng ngươi chớ có phiền não? Bình sinh lão phu gặp nhiều người rồi, nhưng những người có số phận, mệnh tưởng tốt đẹp trong thiên hạ chỉ e ai hơn nổi họ Trương nhà ngươi đâu. Sau này, số kiếp của ngươi có nhiều biến chuyển. Trương Tiểu Biện vừa nghe rằng sua này có thể mở mày mở mặt liền lập tức vui mừng ra mặt. Tục ngữ có câu rất hay rằng: "Rượu làm đỏ mặt, tiền làm mờ mắt". lúc ấy, chẳng cần biết lời của lâm Trung Lão Quỷ thực hư ra sao, rốt cuộc lão có mưu đồ gì, vội khom người cúi xuống lạy, khẩn cầu cao nhân đoán xem vận mệnh của như thế nào. Lâm Trung Lão Quỷ chẳng chẳng rằng đỡ Trương Tiểu Biện dậy, lôi xềnh xệch vào trong Miêu tiên từ trong ngõ Miêu nhi, đến ngơi yên tĩnh có bong người lão mới hỏi:"Trương Tam gia, ngươi cho lão phu nghe xem, chỉ hướng bình sinh của ngươi như thế nào?" Trương Tiểu Biện xấu hổ tuột ra: "Ngoài tiền bạc ra còn mong ước gì khác", đoạn mặt dày mặt dạn tiếp lời : "Lão nhân gia chớ coi thường tiểu nhân là kẻ vô lại rong chơi đầu đường xó chợ, bất học vô thuật, chẳng có tài cán bằng người ta, giống trang hào kiệt chọc trời khuấy nước. Tiểu nhân trong bụng cũng có chí lớn,cũng thường... thường muốn làm nên nghiệp hung lừng lẫy" Lâm Trung Lão Quỷ cười lạnh rồi hỏi tiếp:"Ngươi thử xem, thế nào là hung hào kiệt?" Trương Tiểu Biện trả lời: "từ xưa tới any, phàm là kẻ hùng hào kiệt, đương nhiên chịu ăn đời ở kiếp với ruộng nương cuốc thuổng, lại càng thể làm trâu làm ngựa cho người khác được. Hành động cần phải khẳng khái trượng nghĩa, bao gờ lấy tiền tài làm mục đích, khi chu du bốn bể vung tiền như rác, khi kết giao với bạn bè lòng nghĩa khinh tài, lập chí lớn, làm việc lớn, khiến tiếng thơm lưu truyền rộng rãi, như thế mới đúng là hùng hào kiệt". Kỳ thực, ý tứ của hết sức ràng, ấy là muốn làm được đại , trước hết phải có được tiền người, có câu rằng: "MẠnh vì gạo, bạo vì tiền" là như vậy. Lâm Trung Lão Quỷ gật đầu :"Ờ... Quả nhiên là hùng có dạ phàm phu, tuy lời của ngươi có chút ba hoa quá đáng, hơi hợp với thiên đạo nhưng cũng chính là chỗ câu nệ trong chí của kẻ hào kiệt. tuy nhiên, ngươi làm lỡ món bạc trong Hòe viên, mấy năm tới cung tài vận trong mệnh của nhà ngươi tốt. Muốn được đại phú quý đúng là khó như lên trời... " Trương Tiểu Biện nghe thế lấy làm sợ hãi, vội : "Tiểu tử cũng chẳng thèm khát có được ngón tay điểm đá háo vàng của Lã Thuần Dương tổ dư, càng dám hy vọng có được vận may lấy được Tụ Bảo cầu, chỉ cần được giàu sang sung túc, tiền như núi, vàng đầy chum. Nếu được thỏa mã ý nguyện ngày ngày xin thắp hương cũng bái Miêu tiên" Lâm Trung Lão Quỷ :"Có được núi tiền hầm vàng là phú gia địch quốc rồi còn gì, bản thân nhà ngươi chưa chắc đạt được như thế. Có điều, tuy giờ đây cung tài vận nhà ngươi có phần sút kém, nhưng vừa hay lại có tướng tính chiếu mệnh, ứng vào điềm vô tận hanh thông. Nếu nhà ngươi chiu theo lời lão phu mà hành nội trong vòng năm,nhất định trở thành võ quan thống lĩnh quân đội. tới lúc đó, lão phu tiếp tục mach bảo cho nhà ngươi con đường lên cao bay xa, cũng vô cùng oai phong phú quý" Trương Tiểu Biện nghe thấy thế, tự dưng cương cốt toàn thân dười đều nhõm mấy phần, đến nằm mơ cũng chưa bao giờ nghĩ mình tốt số như vậy, vụ này quá nửa là do mộ tổ kết phát rồi đây, Đời này cứ có quyền là có tiền, nếu đúng là làm được đại tướng thống lĩnh, rạng rỡ tổ tong, khôi phục dòng dõi nàh họ trương còn gì phải nữa. Khong cầu làm được đến quan to như Tổng Binh, Đề đốc, chỉ cần làm tướng quân oia lắm rồi. liền vội thỉnh giáo Lâm Trung Lão Quỷ xem nên hành động ra sao. Lâm Trung Lão Quỷ bảo: "Điềm thiên hạ thái bình khí đất từ Bắc xuống Nam. Tới nay loạn từ phương nam sinh ra tức là chủ về việc đất nước loạn lạc, đúng là thời cơ tốt để lập công kiến nghiệp. Cư như vận mệnh của nhà ngươi, chẳng những làm tới võ quan tam, tứ phẩm, mà ngay đến Thượng thư, Tông đốc cũng chẳng khó. Bây giờ, ở chốn thâm sơn cùng cốc ở phía Nam thành có con Thần Ngao Mạc BẮc tụ tập bầy chó hoang lớn gây hại cho dân. Quan binh trong thành tuy đông nhưng mà khó bắt giết được nó, dưới toàn thanh Linh Châu ắt ăn ngon, ngủ yên. Họ Trương nhà ngươi muốn thăng quan tiến chức phải đoạt ngay lấy công đầu mới được". Trương Tiểu iện há hốc mồm. Hôm nay, chính mắt thấy hung tợn bất phàm của con Thần Ngao, đến đao pủ Lưu Ngũ gia của bộ Hình ghê gớm nư vậy cũng bị nó phanh thây mổ bụng ngay tại trận. Huống hồ, con thú này chạy nhảy như bay, nguy hiểm khôn lường. Tạm chưa đến súng ống sáo thương, ngay cả đặt bẫy, hạ độc nó cũng phát được ngay. Quan binh khắp thành còn chẳng làm gì nổi nó, Trương Tam gia nhà lấy đâu ra phép thuật gì? Mấy hôm trước tuy dùng con mèo đen phá được tà pháp của hòa tượng Chuột. Nhưng ấy cũng chỉ là may mắn gặp phải hai loài tương khắc với nhau, nhưng xưa nay, có bao giờ nghe chuyện mèo hàng phục được chó đâu. Lầm Trung Lão Quỷ chẳng thèm để ý đến Trương Tiểu Biện, lấy từ trong lòng ra gói đồ, bên trong bọc toàn cá muối, thịt muối. Lão xé ra rồi tiện tay vung ra nền đất. Bầy mèo hoang trong ngõ Miêu nhi đánh hơi thấy mùi tanh hôi liền từ bốn phương tám hướng nhao lại. Trương Tiểu Biện biết trong bụng Lâm Trung Lão Quỷ tính toán điều gì, cũng dám hỏi nhiều, đành ngồi chồm hỗm trong góc trố mắt nhìn. Sauk hi cho bầy mèo hoang ăn no nê, Lâm Trung Lão Quỷ mới bảo Trương Tiểu Biện rằng: "Cần mượn mấy món đồ của tổ sư gia bọn chúng để dùng nên phải đãi đằng chúng chút, nếu chúng ưng chịu đâu!" Trương Tiểu Biện càng tháy kì quái hơn. Nghe đồn Miêu tiên gia vốn là đại bản lĩnh tày trời, nổi tiếng lừng lẫy trong thành Linh Châu, về sau ông ta ăn trộm Dạ minh châu trong hoàng cung, lo rằng bị quan phủ truy nã,nên mới mai danh tích, quy giang hồ. Trong miếu này làm sao lại có vật tùy thân của ông ta? Lâm Trung Lão Quỹ gỡ mấy viên gạch xanh phía dứơi bệ thờ, lôi ra cái hòm gỗ trông khá cổ kính, hình dáng màu sắc đều cũ mèm, chắc hẳn chôn dấu rất nhiều năm rồi. Mở hòm ra, bên trong chỉ có bộ quần áo dài hành của bọn trộm cắp. Lão trông thấy mấy món đồ đó liền cất tràng cười lạnh trầm, rồi với Trương iểu Biện: "Đây là trang phục mà Miêu tiên gia mặc hồi trước, tên là "Hắc Thiền", như long hồng, đồng thời có thể tránh được đao thương, vào lửa cháy, xuống nước chìm, là bảo vật hiếm thấy đời. Nhưng quý hiếm hơn là cặp tai mèo con để tận đáy hòm kia. Có được cả bộ này, đêm này ngươi chỉ cần làm thế này, thế này... Muốn bắt giết được con Thần Ngao MẠn Bắc hung dữ cũng dễ như trở bàn tay, lấy đồ vật trong túi vậy" là: "Lập mưu bắt thỏ cung trăng; Những toan đoạt quạ ở ngang lưng trời". Muốn biết chuyện sau thế nào xem hồi sau . Hồi thứ 6: Lò đúc kiếm Lại về Miêu Tiên Đàm Đạo nhân năm ấy mai danh tích quy vân du tứ hải, năm nọ quay lại quê cũ Linh Châu, thấy người trong thành lập ngôi sinh từ cho mình. Ông thấy mình nào có tài đức gì àm được hưởng hương hỏa như thế, vậy là trước lúc ra , ông bèn đem tất cả bộ đồ hành nghề khi xưa chôn giấu dưới bệ thờ trong đền.. Chuyện này trải qua biết bao nhiêu triều đại rồi, chẳng hiểu bằng cách nào mà Lâm Trung Lão Quỷ lại nắm như trong lòng bàn tay vậy. Trương Tiểu Biện biết lão này nhất định là nhân vật lạ lung, thầm nhủ là may cho mình gặp được thần tiên thực thụ. như người nghèo vớ được của, như tối nhặt được đèn, vội vã thỉnh giáo cách đối phó với con Thần Ngao trong Hoang Táng Lĩnh. Nếu quả thực có thể lập được công lao này, về sau lo gì được phen mở mày mở mặt, mọc mũi sủi tăm? Đúng là: lâm cường địch quyết thư hùng, Sao được trổ tài lập chiến công? Tới lúc thanh danh lưu truyền bốn bể, Nam nhi thế ấy mới oai phong. Lâm Trung Lão Quỷ bảo Trương Tiểu Biện mặc đồ dạ hành cảu Miêu tiên gia, rồi lấy trong đáy hòm ra cái mặt nạ. mặt nạ vẽ cái mặt mèo, phía đầu còn gắn hai cái mặt mèo, sờ vòa thấy mềm mại dị thường. Lâm Trung Lão Quỷ bảo: "Vật này gọi là " Miêu nhi diện", có nguồn gốc từ vùng cực Tây của nước Ba Tư, chuyên dùng để che dâu hơi thở của con người. Chỉ cần đeo mặt nạ này lên chồn cáo, chó hoang trong núi thẳm dẫu có trông thấy người nhưng cũng chỉ nghĩ là con mèo hoang qua đường". rồi, lão bảo Trương tiểu Biện đeo cái mặt mèo lên mặt, đồng thời dạy cho kế hay, bảo mình mang con mèo đen vào vùng Hoang tang Lĩnh bắt giết Thần Ngao,sau đó còn mách cho rất nhiều việc làm từ nay về sau, dặn dò phải nhớ kĩ trong lòng. Trương Tiểu Biện thấy kế sách của Lâm Trung Lão Quỷ thực là hiểm hóc, người thường thể nghĩ ra nổi, mình có thể thi hành được , định hỏi lạ nghe thấy bên ngoài có tiếng trống nư sấm dậy. vội vã chạy ra ngoài miếu nghe ngóng rồi sợ hãi thốt lên: "Ai dà! Thành Linh Châu đánh trống gọi quân, chắc là chuẩn bị đánh trận lớn rồi." Lúc quay vào trong thấy bóng dáng Lâm Trung Lão Quỷ đâu nữa, chỉ thấy bầy mèo hoang trong sảnh bị tiếng trống trận làm kinh động, chạy trốn tứ phía. Trương Tiểu Biện ngẩn ngơ lúc, cúi đầu nhìn bộ đồ dạ hành đen tuyền từ đầu tới chân mặc, mới hiểu rằng chuyện vừa nãy phải là giấc mơ. nghĩ bụng, quân địch áp sát chân thành., Linh Châu tuy binh nhiều lương đủ nhưng cũng chỉ là tòa thành lẻ có viện binh, biết có thể giữ được bao lâu nữa. Đằng nào khi thành bị phá tất cả cùng chết hết, chi bằng cứ làm theo lời của Lâm Trung Lão Quỷ, liều phen đoạt lấy vinh hoa phú quý cho riêng mình. Dân gian có câu rằng: "Từ khi mắc lỡm gian thương; Những lời đường mật tởn luôn tới già". Nhưng tầm nhìn của Trương Tiểu Biện hết sức thiển cận, cũng chưa từng " ngày đàng học sàng khôn", cảm thấy: "Đằng nào Tam gia ta đây ngoài cái mạng chẳng có thứ gì khác, nếu nhân thời vận này mà làm nên, đúng là nhặt được món lợi trời cho rồi". ĐÚng là lòng tham đáy, còn chưa được voi đòi tiên rồi. Từ đây quyết chủ ý, liền quan tâm đến nông sâu gì nữa, nhặt nhạnh đồ đạc đâu đấy, rồi đem theo con Nguyệt ảnh ô đồng kim tuyến miêu vội vã chạy về nha phủ trình diện. được nửa đường, liền gặp Tôn Đại Ma Tử chạy tới tìm. Trương Tiểu Biện vừa nếm vụ nhớ đời trong vụ bạc công ở Hòe viên nên giờ dám khoe khoang nữa, chỉ vắn tắt tình hình lượt. Hai người trở về cầu kiến Mã đại nhân, xin được nhận lệnh tiêu trừ bầy chó hoang trong Hoa tang lĩnh trừ hại cho dân địa phương. Chớ nghĩ Mã Thiên Tích chỉ là quan văn mà chớ hiểu lầm. Hơn năm nay, lão có công chiêu mộ lính giữ thành, được hoàng thượng hạ chỉ khen thưởng, nghe đâu bao lâu sau thăng quan cho lão. Vì vậy, lão mới nắm hết mọi việc quân vụ, bố phòng ở địa phương, trực tiếp nhận lệnh của quan Tổng đốc Lưỡng Giang. Lúc này, quân Việt Khấu áp sát chân thành, có lẽ snags sớm mai tổ chức tấn công, Mã Thiên Tích bận rộn luôn chân luôn tay, liên tục điều khiển lính dõng, phân phát hỏa khí, mọi việc khác đều tạm gác sang bên. Chỉ riêng Đề đốc Đồ Hải là khong dứt được chuyện hồi sang bị con Thần Ngao làm cho phen sợ vỡ mật. Bọn Việt khấu đánh tới thành tuy đông nhưng có tường cao hào sâu ngăn trở, bọn quân ô hợp như chúng chắc cũng chẳng làm được trò trống gì. Nhưng con chó dữ ở Hoang Táng lĩnh đúng là như ma như quỷ, biết đâu nó ngầm lẻn vào trong thành, nhân lcus người ta phòng bị mà xông tới cắn. Lão lại nghĩ đến tình cnahr của Lưu NGũ gia bị phanh ngực moi bụng mà bất giác run lên, đứng ngồi yên, cứ thôi thúc Mã đại nhân phải mau chóng tìm ra đối sách. Đúng lúc ấy lại có Trương Tiểu Biện đến xin nhận lệnh, Mã Thiên Tích mừng quá, cất tiếng gợi khen: "Quả thực bản quan nhìn người lầm, Trương bổ khoái thực là bạc trang sĩ vậy. định làm thế nào, cần mang theo bao nhiêu người ngựa?" Trương Tiểu Biện đáp:"Tiểu nhân đội ơn ân tướng yên mên cất nhắc mà chưa có dịp nào báo đáp, nếu có cơ hội chia sẻ nỗi lo cho Mã đại nhân dẫu phải nhảy vào núi đao biển lửa, tiểu nhân quyết từ nan. Việc này phải đụng đến binh tốt nào, chỉ cần Tôn Đại Ma Tử ở lại mặt thánh tiếp ứng là được. Tiểu nhân tự có cách đối phó với bọn chó dữ ở Hoang Táng lĩnh" Mã đại nhân thấy mồm mép tép nhảy, nhưng trông thần sắc tựa như trong lòng có kế sách. Lão cùng nghi, nghi dùng, liền gật đầu : "Nếu phải kẻ có tài trí muôn phần sao có thể làm được như thế! Xem ra nhà ngươi đúng là viên ngọc trong đá. Nếu chỉ dựa vào quần áo, diện mạo mà xét đoán người ắ bỏ lỡ hiền sĩ trong thiên hạ! Trương bổ khoái quả nhiên phải người tầm thường, bản quan y theo lời của ngươi, điều phái toán công sai đến mặt thành đẻ tiếp ứng. Sau khi thành công, ắt trọng thưởng!" xong, lão sai người mang ra thanh đoản đao, chính là ngọn Thốn thanh của đao phủ thời xưa truyền lại, sau khi Lưu Ngũ gia chết nhập vào công khố, giờ trao lại cho Trương Tiểu Biện mang theo phòng thân. Kế đó, lão ban cho cái lệnh bài giắt lưng để ra vào thành, cho phép tùy nghi hành . Song những viên quan khác, đến ngay cả lão Đề đốc người Bát Kì Đồ Hải nọ, đều nghĩ thầm, thằng ranh Trương Tiểu Biện có tài cán thực nỗi gì, chẳng qua chỉ là phường lưu manh vô lại m àthôi. CHuyện này đâu phải chuyện đùa, khác nào vuốt râu hùm, nhổ răng cọp, dễ gì làm nổi, dù có đánh liều àm cũng là dưng đâm đầu vào chỗ chết mà thôi. Lúc ấy trời chập tối, Trương Tiểu Biện liền cáo từ ra, gọi Tôn Đại Ma Tử và toán công sai tới phía Nam thành. Ngoài thành có đại địch áp sát nên cổng thành hông dám mở, đành phải ròng giỏ tre lớn đưa người xuống dưới. Trương Tiểu Biện thấy thành đầy chặt, toàn lính dõng liên tục vận chuyển những súc gỗ đá, tên nỏ và đặt rất nhiều hỏa khí diệm pháo, từng khẩu Phách SƠn pháo và súng ống bày la liệt đếm xuể, đúng là: "Khói lang sông vũ trụ; Sát khí ngập đất trời". chưa từng chứng kiến quang cảnh trận đánh nào như thế, trong lòng khỏi run sợ, dưới chân mềm nhũn ra, trong lòng cũng hơi hối hận vì vừa nãy chót khoa trương trước mặt lão quan họ Mã, đến giờ còn đường nào lui nữa, đành đem hết tinh thần sức lực toàn thân chuẩn bị đợi đến khi trời tối hẳn ra ngoài thành hành . Lần này mới phải: "Liều thân vào hang cọp; Mạo hiểm xuống đầm rồng" Trương Tiểu Biện nghĩ bụng, non gan thể làm tướng quân được, liều thân sao được phú quý, ai bảo mình sinh ra tiền tài, thân thế, lại có tài cán gì để mưu sinh, cam sống kiếp cực nhọc qua ngày, xả thân liều mạng kiếm chút lợi lộc bao giờ mới vẻ vang cho được? Nghĩ tới đây, muons ra sao ra, nai nịt ngọn ngàng bộ dạ hành lên người, dùng dây xanh quấn chặt bắp chân lại, xỏ đôi giày gai, sau đó mang theo lương khô, nước uống và bao vôi bột , giắt ngọn đoản đao Thốn thanh vào hông, rồi ngồi mặt thành ăn uống bữa no say cùng con mèo đen. Tôn Đại Ma Tử rất hâm mộ hành động của Trương Tiểu Biện, có ý muốn cùng, nếu có gì bất trắc hai người có thể tiếp ứng cho nhau. Trương Tiểu Biện liền ngăn lại : "Xem thế trận này, tờ mờ sang mai Việt Khấu đánh tới thành. Nếu có huynh ở lại thành khi ta về ai tiếp ứng kéo lên?" Tôn Đại Ma Tử gật đầu cho là đúng, đồng thời dặn Trương Tiểu Biện nhất định phải quay về trước khi trời sáng, nếu bị vây khốn trong quân Việt Khấu, rồi chết trong đám loạn quân cũng chừng Lúc đó, mây đen che khuất ánh trăng, đúng là cơ hội tốt để lẻn ra, Trương Tiểu biện ngồi vào trong giỏ tre cho ngưởi thả xuống, nghiêng ngó bốn phía rồi nhét con mèo đen vào trong lòng, nhân có mấy ánh sao sáng lờ mờ mà chạy thẳng vào Hoang Táng lĩnh ở phía Nam thành. Tuy ngọn ní hoang rất gần thành những hang hốc rất sâu, là nơi hết sức hoang vu, ngoài những dân phu chuyên vứt xác ra, rất ít người dám lại gần, đến quân Thái Bình cũng dám đường núi này, mấy làn trước đều phải chia làm hai ngả tránh vòng qua. Trương Tiểu Biện được lúc đến trước hang núi. Xưa này chịu cảnh màn trời chiếu đất quen, cũng bào giờ phải để tâm lo lắng chuyện mình giữa vùng núi hoang lúc khuya tối, Chỉ thấy bốn phía cỏ dại mọc cao quá đầu, mộ phần lớp lớp trong đám cây cối um tùm, tỉnh thoảng có vài con chó hoang lang thang giữa khu nghĩa địa. làm theo lời Lâm Trung Lão Quỷ, đội mặt nạ lên mặt, quả nhiên gặp phải bất cứ nguy hiểm gì. phân biệt phương hướng rồi di thẳng xuyên qua bãi tha ma ộng lớn hoang vu, tiến thẳng vào sâu trong sơn cốc, thấy dưới chân toàn là xương người trắng hếu, bốn phía từng đám lửa lân tinh chập chờn mờ tỏ, ánh trăng xuyên qua kẽ mây đen rọi xuống, chiếu vòa những phiến đá lớn hình thù quái dị ở hai bên, phóng mắt nhìn ra xung quanh chỉ thấy vùng mồ hoang núi dại. Thất là : "Tám hướng ai tới; Bốn mùa ít người qua" . vào đó chẳng khcs nào vào Quỷ Môn quan ở tào Địa phủ. Cho dù Trương Tiểu Biện to gan nhưng cũng khỏi cảm thấy rợn người, chỉ còn cách vừa vùa với con mèo đen mấy câu để xốc tinh thần: "Thường nghe mèo nhà Linh Châu bằng mèo hoang, hết sức tham lam lười nhác, thích ăn trắng mặc trơn, nhưng lần này chúng ta vào núi bắt giết con Thát tử khuyển, đều phải dựa vòa sức chú mày cả đấy.Chỉ cần làm sao đại , ngày nào cũng mua cá tươi về để chú mày ăn cho bõ thèm, Chớ thấy Tam gia ta nghèo khổ xu dính túi mà lầm, nhớ hồi xưa Hòa hầu Hàn Tín lúc chưa gặp thời còn phỉa chịu nhục luồn trôn, Lữ Mông nhà Bắc Tống khi chưa làm nên tể Tướng, cũng chẳng phải giống như TRương tam gia ta, ngày ngày chú ngụ trong miếu nát qua đêm đó sao? Vì vậy , con người ta ở đời, vận số giàu nghèo, suống khổ còn phải chờ xem sau này thế nào, chứ chuyện tại tính, chú mày đừng lấy mắt mèo ra mà xem thường người khác... " Trương Tiểu Biện rầm rì lúc lâu, chủ yếu là để mình nghe, cứ thế thẳng vào hang sâu, thoáng chốc đến bên dưới vách dá lớn, dưới ánh trăng thấy chân núi có khắc hai chữ đại , nét bút cong cọng quẹo quẹo như đnà nòng nọc bơi. Tuy rằng cũng biết được dăm ba chữ, nhưng tài nào đọc được những chữ Triện cổ kia, nhưng nghe Lâm Trung Lão Quỷ bảo rằng, trong Vạn thi phần Hoang Táng lính ngày xưa có nơi đúc kiếm, dưới hang núi có khắc hai chữ "Kiếm Lô", liệu chừng chính là nơi đây rồi. Vốn thời xưa có rất nhiều danh kiếm, những đao kiếm tầm thường thời này thể so sánh được. Phàm là loại kiếm sác bén xuống nước có thể chem. Giao long, lên cạn có thể chặt tê tượng. Nổi tiếng nhất là Thái A, Long Tuyền, Bạch Hồng, Tử ĐIện, Can Tương, Mạc Da, Ngư Trường, Cự Khuyết... gì gì đó, mỗi thanh đều có tích xuất xứ ràng. Núi này thời xưa đa sản sinh ra nhiều thép tốt, Từ thời Xuân Thu- Chiến Quốc là nơi đúc kiếm rèn binh khí đệ nhấ, tới khi bảo kiếm đúc thành tinh khí ngọn núi cũng cạn kiệt, trở thành vùng hoang phế u. Cạnh hai chữ" Kiếm Lô" vách núi có hang động, chính là di tích của lò đá đúc kiếm năm xưa. Trương Tiểu Biện tìm đến cửa động, thổi to ngọn bùi nhùi mang theo, chiếu sáng đường phía trước rồi mò mẫm vách đá tiến thêm mười mấy bước nữa, thấy kẹp giữa ai vách đá trong hang núi là ngôi điện đá lớn, phía dưới bị lún đến nửa, phần còn lại trông như khảm chặt vào chân vách đá, để lộ lớp mái đá trong hang núi. Ngôi điện đá cao lớn rộng rãi, được phân thành ba gian Thiên Địa Nhân. Bên trong cửa đá là lò gạch rất to, cỡ phải bằng nửa gian nhà dân bình thường, lún xuống nửa tường. Trương Tiểu Biện nghĩ bụng: "Đây chính là lò đúc kiếm rồi cửa lò là chữ nhân, tuy hẹp nhưng bên trong khá rộng rãi, cứ vào trong nấp tạm , đợi con Thát tử khuyển rồi tính sau". Nào ngờ vừa mới lách nửa người vào trong, trông thấy có người chết treo trong hầm lò. Người chết gương mặt trắng bệch, mắt trợn tròn lên, lưỡi thè ra ngoài, hai chân lơ lửng , chao chao lại phía trước. Trương tiểu Biện vốn đề phòng, thoạt trông thấy có vật "đánh đu" trước mắt, liền giật nảy mình, sợ suýt chết. Đúng là: "Phú quý vinh hoa ai chẳng thích; Phép màu sinh tử mấy người hay?" trương Tiểu Biện gặp được kỳ ngộ gì trong lò đúc kiếm và có lập mưu bắt giết được con Thần ngao hay , xem hồi sau .
Hồi thứ 7: Bạch gia Lại về lò đúc kiếm thời Xuân Thu- Chiến Quốc, kỳ thực ra nên gọi là Kiếm thất, bên trong điện được chia thành ba gian Thiên Địa Nhân, đồng thời trong ngoài chia thành hai tầng, bên ngoài ốp gạch ngói chịu lửa, bên trong như gian nhà dân, cũng có cột đá kèo đồng, có đặt cái lò để lấy lửa luyện thép. Lò chữ Thiên phun lửa, là chữ Địa luyện thép, lò chữu Nhân là nơi người sống nhảy vào, lấy tính mạng để tế kiếm. Trong gian lò có vị kiếm sư treo cổ tự tử, lẽ nào linh hồn nhập vào kiếm khí chỉ còn lại cái xác treo lơ lửng hàng nghìn năm nay. Trương Tiểu Biện hiểu chuyện gì, bỗng dưng bắt gặp cái xác chết "đánh đu" trong lù đúc kiếm, quá sức sợ hãi, lập tức co rúm người lại định bỏ chạy, nhưng dưới ánh sáng lấp lóa của đám bùi nhùi trong tay nhác thấy bên dưới thân thể chết treo kì quái kia, có người toàn thân nhuốm máu nằm ngục. Trương Tiểu Biện tinh mắt, vừa liếc qua nhận ra người quen, chẳng phải ai khác mà chính là lão Thiết trung, lão bộc của Thiết Trưởng quầy ở Tùng Hạc đường Trương Tiểu Biện đảo cặp mắt hai vòng, bụng bảo dạ: "Từ đêm hôm mượn chỗ tá túc ở Hòe viên Thiết chưởng quầy và Thiết trung đều đâu mất tích, sống thấy người, chết còn xác, chẳng ngờ lão Thiết trung này lại ở chỗ này. Việc này có nhiều uẩn khúc, người này lại thà lương thiện, Tam gia ta sao có thể khoanh tay đứng nhìn được?" hơi do dự, rồi rùn người quay vào trong lò, đến bên canhjc ái xác chết treo chắp tay : " dương đôi ngả, làm phiền nhau, chúng ta nước sông phạm nước giếng nhé" Sau đó Trương Tiểu Biện ngỡ thân thể lão hán Thiết trung xuống, thò tay sờ thử vào tim, thấy vẫn còn ấm, nhưng máu thịt cơ thể bầy nhầy, bị thương rất nặng, lại còn sốt cao, môi kiệng nứt nẻ, đúng là: "Thân như trăng nhạt khi mờ sáng; Mệnh tựa đèn côi lúc cạn dầu", tính mạng chỉ còn trong khoảng khắc. Trương Tiểu Biện cậy răng Thiết trung, đổ mấy ngụm nước trong hồ lô mang theo vào mồm lão. Được uống nước mát, liền kêu aid a tiếng, từ từ lấy lại hơi thở, thần trí hơi tỉnh táo lên chút. Đúng là: "Hang lạnh may thay tia nắng rọi; Tro tàn lại có vẻ bùng lên". Nhưng vừa mơ màng mở mắt, lại trông thấy Trương tiểu Biện đeo mặt nạ mặt mèo, những tưởng là miêu ly trong núi thành tinh, sợ quá suýt nữa chết ngay tại chỗ. Trương Tiểu Biện vội đẩy mặt nạ lên đỉnh đầu, hỏi vì sao lão gặp nạ tới mức này. Lão Thiết trung thấy Trương Tiểu Biện tuy rằng vô cùng ngạc nhiên nhưng sợ hãi nữa, liền nhân khi hồi quang phản chiếu, đầu óc còn minh mẫn, xốc lại tinh thần kể lại cho lượt câu chuyện đưa xác vào Hoang Táng lĩnh. Số là từ hôm Trương Tiểu Biện và Tôn Đại Ma Tử vào thành Linh Châu, đem cái xác phụ nữ từ Ứng Trủng sơn đến hiệu thuốc Tùng Hạc đường đổi lấy con mèo đen nuôi sau nhà của Thiết trưởng quầy. Lão Thiết trưởng quầy là kẻ biết người biết của, xưa nay cưa từng làm việc lỗ vốn bao giờ. Lão nhận ra cỗ cương thi này chính là mỹ nhân vu của triều trước, do ngưởi đó ngậm oan mà chết nên hình hài nát, là thứ hàng hóa quý báu khó tìm ngoài chợ đen,. Mấy năm gần đây, vùng Giang Nam xuất rất nhiều nhân tu luyện tà thuật Tạo Súc, nhân thieen tai địch họa để làm những việc táng tận thiên lương. Bọn người này đến đâu cũng tìm cách cắt hạ bộ của người chết, đem phối nam dương, nữ lại thành bộ để luyện thuốc. Tà thuật này càng luyện đến tầng cao càng cần nhiều cương thi và thai sống. Phàm là tử thi chết oan rửa nát, trả con bị bắt cóc, hoặc thai nhi trong bụng sản phụ, thậm chí cả bộ nhau thai, đều là những món mà bọn chúng thèm muốn. Xưa nay chiến tranh luôn kèm với tàn phá, sau mỗi trận đánh là đất bỏ hoang nghìn dặm, thóc lúa sạch , người chết đói và chết trong chiến loạn nhiều đếm xuể, đâu đâu cũng có xác người mới chết. Những xác chết mấy trăm năm và thai đồng tử lại rất khó kiếm, vậy là liền xuất bọn trộm mộ bắt cóc, buôn qua bán lại đến tay đám nghiệt đồ Tạo Súc, việc kinh doanh thu lợi rất lớn. Giữa cái thời buổi nhớp nhúa, chỉ cười chê kẻ nghèo chứ cười chê con điếm ấy, kiếm tiền bằng những cách mất nhân tính như thế cũng có đáng kể gì. Thiết Công Kê tuy có gia sản lớn lao nhưng tính tình biển lận khắc bạc, xưa nay chưa bao giờ chán tiền chán bạc. lại làm nghề buôn bán dược liệu, thuộc các đường lối lại, bến cảng cửa ngõ, quen được lũ đạo tặc chuyên trộm lăng, quật mộ, vì vậy ngấm ngầm buôn bán cả cương thi. Mỗi khi có hàng, lão lại tự mình đem ra ngoài thành bán, Những vụ buôn bán ấy đều tiến hành trong bóng tối, đến cả những người cực kì thân tín trong nhà Thiết Công Kê cũng hay biết. Có điều thế đơn lực mỏng, mình làm nổi nên mỗi lần đều phải dẫn lão bộc già Thiết Trung theo. Thiết Trung lúc đầu hề biết đầu đuôi ngọn ngành, nhưng về về thời gian dài, dần dần cũng hiểu được số tình. Lão là người trung hậu chất phác, những chuyện tày đình như thế khi nào dám làm, cứ khuyên chủ nhân dừng lại để tránh rước họa vào thân, hiệu thuốc làm ăn lớn thế này rồi, sao lại vất vả khổ sở làm cái việc buôn bán táng tận lương tâm như thế. Nhưng lão Thiết Công kê ấy tầm mát hạn hẹp vô cùng, trong đầu chỉ biết có mỗi chữ "lợi". tuy kiếm được cả gia sản to lớn nhưng lão vẫn coi từng đồng từng cắc quý hơn tính mạng, ngoài chuyện bất chấp thủ đoạn kiếm tiền ra, đối với người nhà lão cũng hết sức keo kiệt, bủn xỉn. Mỗi sáng thức dậy, bảnh mắt ra giường là lão lại cảm thấy đau đớn đến rơi nước mắt, trong lòng hơi giân khôn nguôi, vì lẽ gì nhỉ? Lão giận vì mặt trăng mặt trời, tinh tú trời cứ thế luân chuyển, hôm qua ăn cơm, hôm nay tỉnh dậy lại phải ăn cơm, tiền gì cũng tiết kiệm được, duy chỉ có ngày hai bữa cơm là thể ăn. Vào thời đó, đám địa chủ và gian thương kéo bẩn đều có tuyetj chiêu dè sẻn riêng của mình. Nhưng kẻ khác thôi bàn, chỉ đơn cử Thiết Công Kê giàu nứt đố đổ vách nhưng mỗi ngày hai bữa cơm sáng và tối tyrong nhà, đến dưa muối cũng dám ăn. Mỗi năm nhà lão chỉ mua con cá, ướp muối suốt nửa tháng cho đến khi con ác mặn chat, ngay cả lũ mèo già cũng dám ăn vụng, lão mới mang con cá mang ra treo phía bàn ăn. Tới bữa cơm, cả nàh mỗi người chỉ có bát cơm hẩm, ngẩng đầu nhìn con cá muối cái, chỉ nhìn thôi cũng tháy mặn tới tận ruột gan rồi, sau đó và vội và vàng hai miếng cơm vào mồm, vậy là tiết kiệm được tiền thức ăn cả năm. Cho tới tận tối ba mươi Tết, lão mới cho hạ con cá muối tròn năm tuổi đó xuống, dùng nước rửa cho bớt muối rồi chia cho cả nhà lón bé cùng ăn. Đến sáng sớm mùng , ai nấy đều hò hè như biến hết thành "hổ ướp muối" bằng.(Hổ ướp muối: tức con dơi. Theo truyền thuyết dân gian, con chuột ăn nhiều muối biến thành con dơi. Tên gọi khác của con dơi là Dạ Miêu Hổ, vì thế mới gọi là hổ ướp muối) Chuyện này trong xã hội cũ hiếm, chỉ vì những kẻ bo bo ôm của ấy biết tiền bạc thực dễ kiếm, mỗi đồng bạc đều phải vất vả nghĩ trăm phương nghìn kế mới rút được ra, bởi vậy trừ những nhà giàu xổi ra, phần lớn các phú hộ đều hết sứ keo kiệt, xem hai chữ tiền tài to như trời bể.Chúng thường cho rằng tiền tài là thứ có linh tính nhất đời, chỉ có ai tiếc tiền tiền nó mới cam lòng theo. Nếu ai đó cầm tiền mà quan tâm đến tiền, tiền vào tay này rồi ra tay kia tức là xúc phạm đến Tài thần lão gia, làm sao ngài đem tiền cho nữa? Bởi thế mới có câu: "Buôn tàu bán bè bằng ăn dè hà tiện", hễ nàh nào ăn ở keo bẩn nhất định nhà đó là phú hộ. Loại người như Thiết Công Kê chính là hạng bủn xỉn keo kiệt, đồng cắc cũng buông, cả ngày đều tính toán làm sao cho tiền có vào mà có ra, ứng với câu xưa: "có số kiếm được tiền mà có phúc tiêu", chỉ cần mưu lợi được dẫu có cắt thịt ông bà tổ tiên ra bán cũng can tâm tình nguyện, sao lại để tâm đến lời của lão bộc Thiết Trung làm gì. Lão Thiết Trung này đời đời đều làm gia bộ, xưa nay chủ nhân dặn làm chuyện gì cũng tuyệt đối dám nửa chữ "". Lão khuyên can Thiết Công Kê hai lần được, buồn đến nỗi trằn trọc cả đêm ngủ, biết nên làm thế nào, Thiết chưởng quầy lại gọi lão dậy làm, đành phải gắng gượng theo. Hai người vào mật thất lóc thịt Mỹ nhân vu, ném xương tàn vào lò thiêu, chỉ đem da thịt và cái đầu gói vào túi da rồi nhân lúc ai hay biết trèo tường rời khỏi tiệm thuốc. Thiết Công Kê đem mấy thứ thuốc rởm ra hối lộ bọn lính dõng tuần thành mở cửa thành chuồn ra ngoài, trăng mờ gió lớn, cả hai thẳng mạch đến Hoang Táng lĩnh. Thiết Công Kê thông đường thuộc lối ở đây, nhưng lão cũng biết trong sơn cốc toàn chó hoang, dám ngang nhiên sâu, liền cầm ngọn đèn lồng trắng trong tay, đứng chờ trước cửa núi lúc, lâu mới thấy con chó già trụi đuôi ra. Con chó này như tên ma dẫn đường, nghiêng ngó nhìn hai người rồi quay mình, vẫy đuôi vào trong. Thiết Công Kê vội sai Thiết Trung vác cái túi da đựng đầy thịt xác chết, theo con chó trụi đuôi vào trong sơn cốc. Càng càng sâu, rốt cuộc cũng tới hang động, chỉ thấy có con chó xù toàn thân lông trắng nằm phục mặt đất giữ hòm tiền, bên trong toàn là vàng ròng bạc nén, chỉ có bạc đúc của bản triều mà còn có rất nhiều "Kim Dương tiền" của nước ngoài nữa. Thiết chưởng quầy lần đầu tới giao dịch ở Hoang táng lĩnh này, chỉ nghe người dẫn mối là "bạch gia" muốn xme hàng, lão những tưởng làm ăn với người nào đó giống như những lần buôn bán trước, nào ngờ trong núi chẳng thấy bóng người, chẳng lẽ con chó này chính là Bạch gia? Thiết Công Kê bụng bảo dạ, chẳng cần biết mày là người hay chó, chỉ cần có tiền tức là đại gia rồi, nghĩ đoạn liền mang cái túi da đến trước mặt con chí xù lông trắng mở ra, lấy cái đầu của Mỹ nhân vu đặt xuống đất. Con chó xù lông trắng lại gần đánh hới lát rồi rồi dùng móng chân khều ra hai đĩnh vàng. Thiết Công Kê cảm tạ rối rít: "tạ ơn bạch gia ban thưởng", rồi bước lên hai bước nhặt vàng bỏ vào trong bọc. Thiết Trung bình sinh chưa bao giờ thấy cảnh tượng quái dị như vậy, đúng là lạ lung hết sức, đời này làm gì có chuyện như thế được! lão bất giác lo gặp phải quái, liền giật ống tay lão Thiết chưởng quầy, khuyên chủ nhân lấy được tiền mau chóng quay về. Nào ngờ, Thiết Công Kê thấy tiền nóng máu, huống hồ thấy trong núi có người, chỉ có con chó xù canh cả hòm bạc lớn, nhất là đống Kim Dương tiền, màu vàng rực làm người ta lóa cả mắt. Lòng tham quặn từng khúc ruột, sao kìm nén lại được, liền manh tâm chiếm hòm làm của riêng. Thiết Công Kê vừa nhặt hòn đá lên tay, định vòng ra phía sau đập chết con chó trắn, nào ngờ trong núi vọt ra chó lớn, to như con lừa, người đầy đốm máu, cuốn theo trận gió ập đến. nó vồ ngã Thiết Công Kê ra đất, rồi đúng như: "Hổ dữ vồ dê; Diều hâu chộp én non", chẳng để Thiết Công Kê kịp giãy giụa, trong chớp mắt moi quả tim bê bết máu trong lồng ngực lão ra. Đáng thương Thiết Công Kê cả đời so trước tính sau, cả đời ăn dám ăn, mặc dám mặc, vất vả lao tâm, tốn sức, rốt cuộc lại kết thúc tính mạng như thế, đúng là: "Thế là tính mạng đời, đắng cay để lại ngọt bùi cho ai?" Thiết trung đứng bên cạnh đờ người ra, lão nhiều lần tận mắt thấy con chó lớn mà dân gian vẫn gọi là Thần Ngao này pháp trường trong thành. Lão hoảng sợ vô cùng, chỉ mong bỏ chạy thoát thân, chẳng ngờ bước hụt cái, ngã vào lò đúc kiếm này. Thiết trung ngã gãy chân, người bị đá cứa chảy máu be bét, may mà chui vào được trong lò kiếm, chặn cửa lò chật hẹp lại mới giữ được tính mạng. Lúc cầm canh gõ mõ vào buổi đem, lão hay mang theo chút lương khô và nước, giờ đó miễn cưỡng kéo dài được mạng sống đến giờ, chỉ có điều thể nhấc chân được bước nào, tính mạng coi như bỏ . Lão cũng tự biết rất mình chẳng thể sống được bao lâu nữa, trước lúc xuôi tay nhắm mắt, chẳng có mong muốn gì khác, chỉ khẩn cầu Trương Tiểu Biện giúp cho việc là đem tin tức về báo với người nhà, để họ biết Thiết chưởng quầy chết đến thi thẻ cũng bị bầy chó ăn hết rồi, mau mời hòa thượng pháp sư đến lập cái đọa trngaf siêu độ cho vong hồn, rồi đắp mọt cái mộ gió chôn mũ áo để chủ nhân phỉa làm hồn dã quỷ. Ánh mắt Thiết Trung dần dần tán loạn, tới khi lão phều phào dặn dò xong hơi thở mảnh như tơ, cuối cùng cũng lấy lại được hơi thở nữa ,à "chết" trước mặt Trương tiểu Biện. Trương Tiểu Biện thầm kinh hãi, chẳng ngờ Thiết chưởng quầy ở Tùng Hạc đường lại cấu kết với bọn tà Tạc Súc, hơn nữa, Lâm Trung Lão Quỷ sao bảo trước cho về con chó xù lông trắng canh hòm tiền trong hoang táng lĩnh, việc giết chết con Thần Ngao này rốt cuộc có làm được hay đây? Trong đầu nghĩ mien man lúc rồi vái thi thể Thiết Trung hai vái: "thiết lão, sống khôn chết thiêng, xin hãy hù hộ cho Trương Tam gia ta bình an trở về, bằng lão và Thiết chưởng quầy phải ngậm hờn oan uổng, mãi mãi chết ràng" Đúng lúc ấy, bỗng nghe đàn chó hoang lớn trong núi tru gào điên cuồng, tiếng kêu dần vang lại gần, thoắt cái đến. Trương Tiểu Biện biết có lạ, vội thổi tắt bùi nhùi, men theo tường lò trèo lên chỗ cao nhất trong nhà đá, mượn ánh tắng nhòm trộm động tĩnh trong núi. Chỉ thấy bầy chó hoang trong Hoang Táng lĩnh bới được trong khu mộ nào ở đâu ra ổ cáo, tổng cộng cso ba con to, con , trong đó, con cáo già ngậm con cáo con trong miệng, ra sức bỏ chạy thục mạng. Nghe vạn vật thế gian, trừ con người ra, chỉ có loài cáo là linh nhất, thế mói có chuyện "hồ ly mê hoặc người", dẫu cho chó săn có khôn ngoan, nhanh nhẹn cũng khó lòng bắt được chúng. Nào ngờ đâu, có lúc chúng bị bọn chó hoang truy đuổi tới mức đường cùng, phải chạy trốn vòa chỗ tuyệt lộ trong Hoang táng lĩnh này. Thực là: "Kể ra câu chuyện kinh trời đất; hành tung khiếp cổ kim" rốt cuộc chuyện ra sao xem hạ hồi phân giải. Hồi thứ 8: tinh tinh trản Lại đến Trương tiểu Biện và con mèo đen nọ trốn bên gian điện đá, thò đầu ra nhìn trộm động tĩnh trong Hoang táng lĩnh. Lúc ấy, tinh tú trời đều ló ra, dưới ánh sáng lạnh lẽo của trăng sao, chỉ thấy đàn chó hoang lớn tru gào đuổi ổ cáo vào lối cụt. Bọn chó hoang này kết bầy trong núi chuyên môn đào mộ, húc quan tài trong bãi tha ma, lôi thi thể những người chết còn chưa rữa nát ra ăn cho đỡ đói, lúc bình thường cũng hay rượt bắt, ăn thịt bọn chồn, thỏ trong vùng gò mộ hoang vu này. Mỗi con cáo có tuyến hôi, nếu gặp phải nguy hiểm, chúng có thể phóng ra mùi hôi giống như loài chồn hôi, được gọi là" Hồ yên"(khói hồ ly) Hồi yên có màu xanh đậm, thối như mùi rắm của bọn chồn hôi, nhưng lại có tác dụng làm mê loạn thần trí. Khứu giác của chó cực kỳ nhạy bén, khi hít phải thứ khói này, bị tê liệt các giác quan, trong lúc chạy đuổi húc vào đá vỡ đầu, chảy máu, gãy xương, đứt gân, nngawj ũng sủi bọt mép ngã quay ra, chân cẳng co quắp, sau cùng thần thái mê man biến thành chó dại. Truyền thuyết hồ ly tinh giỏi mê hoặc người hẳn chỉ là quan niệm mê tín dưng nghĩ ra được. bầy chó hoang trong Hoang Táng lĩnh tựa hồ hiểu về tập tính của lũ cáo, cứ đuổi dồn phía sau rất gấp nhưng vẫn giữ khoảng cách nhất định với ổ cáo, cho chúng cso cơ hội phóng hồ yên, cứ thế đuổi vào tận sâu trong hang núi cho bọn chúng sức cùng lực kiệt mới nhao vào bắt gọn. Cầm đầu ở cáo này là con hồ ly già dễ có đến trăm năm tuổi, toàn thân đỏ rực như lửa, trước trán có đốm trắng, thoáng nhìn tựa như có ba con mắt. trong miệng nó ngậm con cáo non, dẫ theo hai con khác chạy cuống cuồng, mấy lần giở kế sách hòng chạy thoát khỏi truy kích cảu bầy chó hoang, khốn nỗi đây là đại kiếp ông trời giáng xuống, từ đầu chí cuối chúng giở ra được trò trống gì. Thấy sức lực kiệt quệ, trước mắt lại bị vách đá chắn ngang đường, chúng biết số mệnh hết, đành dừng lại nhắm mắt chờ chết. Bầy chó hoang thấy lũ cáo có chắp cánh cũng thoát được nữa bèn bao vây chặt trong sơn cốc, rồi nhe nanh múa vuốt, sủa râm ran nhưng vội ào lên cắn xé. Tình cảnh thực giống mèo bắt chuột, trước hết bắt ba lần, thả ba lần, vờn con vật bị bắn cho chán rồi mới ăn thịt. Mấy con cáo lớn cáo sợ hãi tới mức toàn thần run rẩy, rơi nước mắt, nhưng con cáo gì ba mắt nọ tựa như can tâm giơ đầu ra chịu chem., liền nhả trong miệng ra viên đỏ tròn trịa long lanh, trông giống như châu ngọc. trước đây, con cáo này từng gặp kì duyên, ăn được gốc linh chi ngàn năm trong núi sâu, đồng thời nấp trong mộ nhiều năm, mỗi đêm đều ngẩng đầu nhìn trăng để hít luyện khí, cuối cùng cũng luyện được viên ngọc Hồ ly có khả năng cải tử hoàn sinh. Giờ khi lâm vào cảnh đường cùng tuyệt lộ, liền định mang ngọc ra đổi mạng. Có câu rằng, chó có Khuyển bảo, trâu cso Ngưu hoàng, viên sỏi trong cơ thể con cáo gài chính là ngọc Hồ ly. Bọn chó hoang tuy chỉ là bầy ô hợp nhưng cũng biết ngọc này là vật chân quý, nuốt vào bụng chí ít cũng tăng thêm được mấy chục năm tuổi thọ, con nào con nấy trợn mắt định lao vào cướp chợt nghe trong đêm khuya có tiếng sủa lớn như tiếng bò rống. tiếng sủa mạnh mẽ cât lên, khí thế rung động cả trời xanh, khiến cho bầy chó hoang rung mình, rên ư ử cúp đuôi, nhất laotj lùi về phía sau. Chỉ thấy con chó lớn như con lừa vọt từ núi xuống ơn cốc như làn khói đen, đích thị là con Thần Ngao trong Hoang Táng lĩnh. Con Thát tử khuyển tung mình nhảy cáitới trước mặt con cáo ba mắt, há miệng nuốt chặt viên ngọc rồi quay sang đè chặt hai con cáo lớn, cắn chết ngay tại chỗ, móc hai bộ tim gan ra ăn, rồi nhân khi cổ họng hai con cáo vẫn còn ấm, cúi xuống uống máu ừng ực. Con cáo già ba mắt đứng cạnh trông mồn người nó cũng dính đầy máu tươi, sợ run như cầy sấy, rồi đột nhiên tỉnh ngộ, biết con Thần Ngao tha mạng cho mình và con cáo con. Nó ở chỗ chết lại được sống, liền vội vã ngoạm con áo con sống sót duy nhất chạy mạch khong quay đầu lại, trong chớp awmts mất hút trong bóng tối mênh mông. Tới khi con Thần Ngao uống máu, nó mới để hai cái xác cho bầy chó hoang hưởng thụ. Có điều mật ít ruồi nhiều, trong thaongs chốc, trong thoáng chốc bầy chó hoang ăn sạch hai con cáo chết, cả lông, da cũng chừa. Những con ăn chưa no cũng dám oán giận, đành tiếp tục vào bãi tha ma xung quanh để bới người chết, bắt cáo thỏ. Hai mắt con Thần Ngao sáng như đuốc, vừa lè lưỡi liếm vết máu chồn dính quanh mồm, vừa sải chân dì về phía lò đúc kiếm. trong lò còn rất nhiều thép tinh để đúc kiếm năm xưa, con Thần ngao thường dùng nơi này làm sao huyệt để nuôi dưỡng thêm hung bạo trong mình. Trương Tiểu Biện chốn trần của gian điện đá, chứng kiến việc từ đầu chí cuối, sợ toát mồ hôi, biết con thát tử khuyển này cso thể săn bắt cả các loài mãnh thú như chó sói, hổ báo, thỏa nguyên Mạc bắc nên dám xem thường. Chỉ thấy con Thần Ngao tiến vào lò kiếm, nhất nhất giống hệt như lời Lâm Trung Lão Quỷ mách bảo, nghĩ thầm: "ĐÚng là vận số của Trương Tam gia ta đến rồi. Con chó dữ đêm này vào trong dẫu có ba đầu sáu tay, lưng mọc cánh nữa cũng chẳng có cửa mà ra" lập tức phấn chấn tinh thần nằm phục cái xà nhà cùng con mèo đen, rón rén bước, giấu mình, nhè bò về phía sau điện đá. Con Thần Ngao ăn tim gan của hai con cáo, lại nuốt ngọc Hồ ly vốn là vật cực nóng, thấy trong bụng sôi lên sung sục, nó liền vào trong tòa điện đá đổ nát, định bụng tìm chỗ kín gió để nghỉ ngơi lúc. Con chó tinh tường vô cung, cần ngẩng đầu cũng biết nóc xà điện có tiếng động bất thường, hít hít mấy hơi biết là hai con mèo hoang qua đường, chẳng bõ dính răng, nên thèm để ý nữa, cứ thế về hậu điện, nằm phục trước gian lò chũ Thiên để ngủ. Trương Tiểu Biện luồn lúc xà nhà cũng mò tới nóc hậu điện. tường đá ở đây lúc tới nửa, trời ánh trăng sáng lóa như nước, lọt qua mái dột của tòa điện, chiếu xuống mặt đất long lanh như dát bạc. Dưới ánh trăng chỉ thấy con Thần Ngao nằm bệ đá cạnh lò nghỉ ngơi, đỉnh đầu nó có ba đĩa đèn bằng đồng treo lơ lửng từ xà ngang xuống. Mỗi đĩa đèn đều to cỡ cái chậu rửa mặt, phía đều có nắp đồng, chạm trổ họa tiết tinh tú, chất đồng trải qua mưa vùi gió dập lâu ngày giờ mốc xanh. Ba đĩa đèn này phải vật tầm thường, mà được gọi là Tinh Tinh trản, cổ vật bằng đồng từ thời Chiến Quốc. Đây chính là đèn đồng dùng để giữ mồi lửa khi đúc kiếm cho các bậc vương hầu. Để đúc nên bảo kiếm sắc bén tuyệt luân, ngoài tay nghề cao siêu của các bậc thầy đúc kiếm và vật liệu tinh quý trong ngũ kim ở nơi thâm sơn cùng cốc ra, còn cần có lửa trời để đốt lò, chứ thể dùng lửa thường ở chốn dân gian được, có lửa trời, kiếm đúc ra thể có được kiếm khí lẫm liệt như rồng ngầm hổ rống. Tuy nhiên, cơ hội lấy lửa trời là hết sức ngẫu nhiên, chứ phải cầu mà có được, phỉa đợi khi sấm sét đánh túng cây cổ thụ nghìn năm mới sinh ra lửa trời thực thụ. Mấy ngọn Tinh tinh trản treo trong điện đá chính là dùng để giữ gìn mồi ửa trời năm xưa. Trải qua nghìn năm dâu bể, cho tới ngày hôm nay, lửa tắt ngúm, nhưng dầu đèn vẫn còn. Mỗi ngọn Tinh tinh trản gồm có ba phần, là phần thân đèn bằng đồng, hai là tim đèn, ba là dầu đèn bên trong. Lúc đó bụi bặm tích lại lâu ngày phủ đầy Tinh tinh trản, sớm bịt kín miệng đèn lại. Trương Tiểu Biện nằm phục xà nhà quan sát hồi, sau đó thò tay bắt con mèo đen, định noi theo kế của Lâm Trung Lão Qủy để giết con Thần Ngao. Cũng bởi tại mặc bộ đồ của miêu tiên gia nên con mèo đne tưởng là đồng loại, lại nghĩ muốn đùa nghịch với mình, Nó liền kêu meo meo cái rồi nhảy phóc cái từ xà nhà lên mái nhà. Trương Tiểu Biện chụp hụt con mèo liền chửi thầm tiếng: "Con mèo giặc, trốn nhanh". định leo lên mái nhà bắt nó trở lại, nhưng chênh vênh xà nhà rất cao, nhìn xuống phía dưới là thấy hoa cả mắt. miễn cưỡng bò được lên đến đây là chân tay tê liệt cả rồi, Huống chi người thể giống như mèo, sao có thể nhảy nhót leo tròe xà nhà tùy thích được. Giờ nếu có con Nguyệt ảnh ô đồng kim tuyến miêu, trương Tiểu Biện cũng khó lòng làm nên chuyện gì ở chốn Hoang táng lĩnh này. nhìn xuống phía dưới, nuốt ực miếng nước bọt.bạo gan đứng lên xà đá, định bụng thử bắt con mèo đen xuống lần nữa, nhưng chân vốn ngắn, nhón gót chụp mấy lần mà với tới được. Trương Tiểu Biện cuống cả lên, mồ hôi lanh trán chảy ròng ròng, đành phải hạ giọng cầu khẩn: "Miêu nhị ga, đây phải là chỗ để đùa đâu, mau xuống chớ làm hỏng đại kế cảu Tam gia ta... " Con mèo đen nọ ngồi ở cạnh chỗ mái thủng, vừa thè lưỡi liếm chân, vùa dùng chân xoa xoa lên mặt, tỏ ra rất nhàn hạ, chỉ thấy hai con mắt mèo như dát vàng, ánh lên rực rỡ dưới ánh trăng. Tựa hồ có ý đùa giỡn với Trương Tiểu Biện, nó mặc kệ cho van nài khổ sở, nhất định chịu xuống. Trương Tiểu Biện có được khả năng lại như mèo, miws chỉ cử động hơi mạnh chút làm rơi nhiều bụi băm xà nhà xuống dưới điện. Con Thần Ngao phủ phục dưỡng thân bệ đá, nghe thấy hai con mèo hoang nóc điện cứ đùa giỡn hoài, lại bị bao nhiêu bụi bặm trút xuống đầu, nó giận lắm, liền ngẩng đầu lên, hung tính trỗi dậy, hận chẳng thể ăn tươi nuốt sống hai con mèo ranh kia được. Mặc dù vậy, viên ngọc Hồ ly trong bụng là thứ đâị bổ, biến thành sức nóng hập chưa tan, tinh thần con chó hơi mệt, mê man chực ngủ, nó lại nghĩ đến vị thế của mình, thèm đích thân bắt hai con mèo hoang, vì vậy mới chịu nín nhịn nổi khùng,c hỉ gầm gừ khẽ trong kẽ răng để cảnh cáo rồi tiếp tục lim dim ngủ. Lần này Trương Tiểu Biện sợ tới mức hồn phách suýt nữa lên mây, vội vã cuộn tròn như con nhím nằm phục xà nhà, đến thở mạnh cũng dám, chỉ có quả tim vẫn thình thịch đập loạn nhịp. hiểu rất , con Thất tử khuyển này phải là con chó thông thường, dẫu cho thiên la địa võng cũng bắt nổi, chỉ cần khiến nó cảm thấy hơi khác lạ là mình thành tro bụi ngay Con mèo đne kia vốn rất nhát, cũng rất sợ hãi, lông dựng đứng cả lên định chạy trốn ngay lập tức. Trương Tiểu Biện thầm kêu khổ thôi, chỉ sợ nó chạy mất liền vội lấy từ trong bọc ra cái bánh bao nhân cá, hươ hươ lên , dụ con mèo tham lam đến. Con mèo Nguyệt ảnh ô đồng kim tuyến miêu này vốn có tập tính khác hẳn những con mèo khác, ngoài non gan và tò mò ra, nó thích nhất là ăn trộm cá và đồ tanh. Thấy cái bánh bao nhân cá, mồm nó lập tức nước dãi, cặp ngươi vàng tức dán chặt vào cái banh bao. Trương Tiểu Biện thấy tình cảnh như thế, chửi thầm: "Con mèo tham chết toi, lại đây rồi tao cho mày biết tay", đoạn tiếp tục hươ hươ cái bánh bao trong tay. Nào ngờ con mèo đen vốn sợ con Thát tử khuyển tận gan ruột, tuy mắt dõi theo sát cái bánh bao nhân cá lắc qua lắc lại nhưng cũng dám nhúc nhích xuống dưới. Trương Tiểu Biện cuống quá liền giơ cái bánh bao nhân cá lên cao chút, nào ngờ phủ phục xà dã lâu, khí huyết toàn thân thông suốt, các ngón tay đều cứng đờ ra, đánh tuột cái bánh khỏi tay, rơi xuống đúng đầu con Thần Ngao. Con ác khuyển rống lên tiếng hung dữ, điên cuồng bật người dậy, rồi như mũi tên rời cung, vọt lên xà nhà. Trương Tiểu Biện mặt như chàm đổ, sợ hãi kêu thầm: "Chết rôi! Đêm hôm nay Trương Tam gia ta phải chết ở đây rồi!" Đúng là: "Mặc lòng sẵn mưu kì diệu; Khó tránh đêm này họa phen" Muốn biết chuyện sau thế nào, xem hạ hồi sau phân giải.
Hồi thứ 9: Lấy Đèn Trộm Dầu đến đoạn Trương Tiểu Biện nấp xà nhà định bụng tìm cách dẫn dụ con mèo đen nóc nhà xuống, chẳng ngờ tuột tay làm rơi cái bánh bao nhaanc á khiến con Thát tử khuyển nổi giận, lao vọt lên , cuốn theo mọt trận gió , định chộp con mèo hoang xà nhà để ăn tươi nuốt sống. Thế vồ của con Thần Ngao hết sức mạnh mẽ, lợi hại, Trương Tiểu Biện cả kinh thất sắc, muốn trốn cũng trốn kịp nữa, đành nhắm mắt chờ chết. Nào ngờ trong nháy mắt, lúc con ác khuyển chưa vồ đến xà nhà, bỗng nghe mái điện vang ầm lên tiếng, đống gạch nát ngói vỡ đổ xuống, bụi bặm tung lên mù mịt. Số là con mèo đen ngồi mái nhà, dán mắt vào cái bánh bao nhân cá trong tay Trương Tiểu Biện, mình rướn xuống phía dưới hơi quá, rốt cuộc mất đà giẫm hụt chỗ trống, đụng rớt mấy mảnh ngói vụn và mọt mảng bụi, rồi cả nó cũng rơi thẳng xuống dưới. Con Thát tử khuyển phản ứng rất nhanh, ở chừng khoong, bỗng thấy ngói, bụi đổ xuống liền lật người tránh qua bên, thân mình to lớn hạ xuống đất nhàng như lá rụng, rồi ngay lập tức ngẩng đầu quan sát động tĩnh ở mái điện. Dưới ánh trăng, ánh amwts nó như điện chớp, lộ vẻ hung dữ phấn nỗ khôn cùng. Trương tiểu Biện vốn tưởng phen này phải gặp DIêm Vương rồi, chẳng ngờ con Thần Ngao cắn trúng mà chỉ có đống bụi bặm đổ xuống người. vội vã nín thở, dùng tay xua bớt bụi bặm,chợt nghe tiếng xích đồng loảng xoảng, vội giương mắt nhìn xuống phía dưới. Chỉ thấy con mèo đen cũng chưa rơi xuống đất, nhờ vào thân thể nhàng, nhanh nhẹn, nó giơ hai chân trước bấu chặt vào mép Tinh Tinh trản, đôi chân sau giãy giụa , khiến ngọn đèn đồng chao qua lắc lại như đánh đu. Ngọn đèn đồng treo lơ lửng bằng sợi dây xích, con mèo đen vất vả lắm mới trèo đến nắp đèn, rồi run run rẩy rẩy thò đầu xuống nhìn. Thấy con Thát Tử khuyển ngẩng đầu, trừng trừng nhìn lên, nó sợ quá, lập tức rụt cổ lại. co ro phía ngọn đèn đồng, con lối nào thoát nữa, cho dù giỏi trèo tường leo cây đến mấy cũng thể thi triển được. Lúc ấy, người, mèo, chó, run gan vỡ mật nấp xà nhà, mật vỡ gan run bám ngọn đèn đồng, còn trợn mắt gườm gườm canh ở dưới điện, vừa đúng chia thành ba tầng , giữa, dưới trong tòa điện đá, nhưng bên nào dám vọng động, chỉ có ngọn đèn Tinh Tinh trản cứ cót ca cót két chao qua lắc lại. Trương Tiểu Biện và ocn mèo đne dám cử động vì đnag sợ hãi muốn chết nhưng con Thát tử khuyển cũng nhúc nhích àm tở vẻ ngạc nhiên dị thường, trái ngược hẳn bản tính hiếu sát lúc thường ngày, đó là vì sao? Số là chuyện này cũng lắm nhiều khê. Đĩa đen đồng dùng để lưu trữ lửa trời nọ bị con mèo đen cóa cấu chặp, những bụi bặm tích trữ lâu ngày bề mặt bị rớt xuống mảng lớn, mùi hương lạ lập tức tỏa ra. Loài chó đánh hơi rất tài, vừa ngửi cái, con Thần ngao biết phải là việc tầm thường. Mùi dầu đèn trong Tinh Tinh trản thơm hơn gấp trăm lần mùi dầu thơm khiến nó khỏi sinh nghi. Dưới ánh trăng, Trương Tiểu Biện trông thấy ràng, bụng bảo dạ, Miêu tiên gia hiển linh rồi, Trương Tam gia đúng là người có số đại phúc đại mệnh, thường có câu rằng: "Gặp thời cỏ mục hơn hoa, vận may bùn đất hóa ra vàng ròng" Thời vận đến dẫu có muốn ngăn cản cũng nổi, chỉ vì con Thần nGao đó sát nghiệp rất nặng nên số phận định trước phải bỏ mạng ở đây. Bây giờ, hãy xme Nguyệt ảnh ô đồng kim tuyến miêu giở trò gì ngọn đèn dầu. Chỉ thấy con mèo đen định nhảy lên xà nhà để bỏ chạy, nưng có chỗ nào đẻ leo bám, muốn nhảy xống đất thấy con Thần Ngao nhe nanh gầm gừ, nhìn chằm chặp. Con mèo lòng run ý loạn, vừa sợ vừa cuống như kiến bò chảo lửa, đúng cũng vững, đành loanh quanh mấy vòng phía ngọn đèn. Cuối cùng nó nìn ba ngọn đèn đồng xếp hàng lơ lửng trung, ngọn đèn ngoài cũng khá gần chỗ vỡ của bức tường đổ, có thể chui qua lối đó để thoát ra ngoài lò đúc kiếm. Nhưng khoảng cách giữa các ngọn đèn rất xa, tìa nào nhảy trực tiếp qua được. Có câu rằng: "Chó cùng rứt giậu, mèo vội nhảy lầu". Lúc ấy, để tìm đường sống, chẳng cần biết có nhảy được hay , con mèo đen ngọn đèn đồng ra sức đu đẩy, chỉ mong nó lắc đền càng gần cái đèn còn lại càng tốt. Con mèo lắc cật ,ực khiến dầu đèn bên trong chao đỏa mạnh. lúc mừng rỡ, chao qua lắc lại, bỗng nghe con chó phái dưới sủa tiếng như bò rống, con mèo đen sợ quá, bốn chân nhũn ra, lập tức bò rạp ngọn đèn đồng chao liệng ngừng. Chẳng ngờ đèn bì lắc quá mạnh nên nó bị trượt chân lắn xuống phía dưới, kêu lên tiếng meo thảm thiết, cố hết sức bám chặt vào mép đèn. Nó chỉ sợ rơi xuống ắt bị con chó khổng lồ bên dưới cắn chết, liền xù lông đuôi, mấy chân cào cấu lên phía . Nhưng lúc này cũng chớ phải lo, bởi cú ngã của nó khiến ngọn đèn đồng lắc lư nữa mà lại nghiêng hẳn về phía cở , dầu đèn trong đĩa lập tức trào ra ngoài. Dầu đèn nghìn năm vừa thơm tho vừa trơn láng, là vật hiếm có thế gian. Con Thát tử khuyển bất giác ngoác miệng, thè chiếc lưỡi dài đón lấy dầu đèn đổ xuống. Đêm nay, nó ăn sống tim gan của lũ cáo, trong bụng đnag nóng như thiêu đốt, uống được mấy hớp dầu đèn, chẳng những mồm miệng thơm tho mà tinh thần cũng trở nên sảng khoái, hoạt bát nên nhiều. Lúc ấy, chân con mèo giẫm phải dầu lập tức trượt khỏi đĩa đèn, rới thẳng xuống dưới đất. Con Thần Ngao uống sung sướng, đột nhiên bị cắt mất nguồn dầu, lập tức nổi giân, đợi con mèo đen rơi xuống lao lên đón lấy, ngoạm chặt mồm nhưng dùng sức cắn, trái lại, chỉ lắc cái, hất con mèo đen trở lại phía ngọn Tinh Tinh trản rời trừng mắt gầm gừ, bắt con mèo đen phải tiếp tục nghiêng đèn cho dầu đổ xuống. Con mèo giữ được mang sống, nào dám nghe theo, vội vã vận hết sức, đu ngọn Tinh Tinh trản chao liệng hồi, tiếp tục nghiêng đĩa đèn cho dầu rỏ xuống từng chút . Con Thần Ngao ở phía dưới thè lưỡi đón lấy sót giọt bào, liếm cách khoái trá. Thần Ngao tuy cảnh giác và giảo hoạt nhưng chẳng ngờ con mèo hoang nọ đám đưa mình vào bẫy, trong lòng lại khô nóng như lửa đốt, vì vậy nhất thời khỏi chủ quan. Con chó uống dầu đèn tới mức mồm mép trơn nhẫy, chẳng cần biết nhiều ít thế nào, cứ uống lấy uống để, nào ngờ dầu đèn tuy bổ cũng độc, nhưng được uống quá nhiều. tục ngữ có câu: "Dạ dày chó, tày hai lạng dầu thơm". Uống quá nhiều bugj trướng lên, con chó tức phọt ra ba cục phân, rồi cả người mềm như bún, chẳng khác nào con cừu. Trước lúc con Thần Ngao còn chưa kịp trướng bụng phọt phân, thần trí nó mê man bởi dầu đèn, phân biệt nổi phương hướng nữa. Nó ngầm biết là hau, cố gắng lăn lộn mặt đất hai vòng, nhưng nó càng lúc càng trở nên mơ màng, lảo đảo đập đầu vào tường. Cái đầu chó chuyên húc quan tài quả thực cứng rắn vô cùng, vừa húc vào bức tường lở phá sụp nửa vách, rồi cứ thế sụm xuống đất thể dậy được nữa, dớt dãi chảy lòng thong bên mép, tiếng ngáy như bì rống, ngủ mê man bất tỉnh. Trương Tiểu Biện nấp xà nhà, nhìn thấy con Thát Tử khuyển ngã ra đất, lòng liên vui sướng như điên, nhưng vẫn dám sơ suất, tiện tay nhặt hai hòn đá vụn, ném vào mình con chó. Trong bubgj con Thần Ngao toàn là dầu đèn, tâm trí hôn mê, cho dù Thái Sơn có đổ ngay trước mặt nó cũng chẳng biết gì nữa. Trương Tiểu Biện cả mừng, chửi rằng: "Ác cẩu nhà ngươi dẫu có ranh ma cũng phải nốc nước rửa chân của ông". đoạn, phi thân từ xà nhà xuống dưới, bạo gan đạp hai cước vào người con ác khuyển, quả nhiên thấy nó ngủ say đúng như choc hết, liền cười hà hà, : "Cái này là ác giả ác báo, nhà người chwos trách Trương tam gia ta lòng lang dạ sói đấy". Phải biết rằng: "Thương xót đừng nên hạ thủ; Xuống tay quyết chớ dung tình". Trương Tiểu Biện thò tay rút ngọn đoản đao Thốn thanh người ra, cắt tươi cái đầu chó xuống, đoạn dùng vôi bột rắc lên, bọc vào mấy lớp giấy dầu, bên ngoài dùng miếng vải rách gói lại, rồi buộc thành cái tay nải đeo lưng. Trương Tiểu Biện vừa tính rút lui nhớ ra còn mấy việc phải làm trước khi trời sáng. Thấy cũng còn sớm sủa gì nữa, vội vã hành . thường lại vùng núi hoang nên biết rất nhiều loại rau dại, cỏ dại, thấy có rất nhiều khóm Thất bộ đoạn trường thảo mọc rẩm rạp ở xung quanh lò đúc kiếm, bèn thuận tay vặt lấy, rồi lóc mình mình con Thát tử khuyển đầu, moi ra viên nội đơn của con cáo trong dạ dày chó, nhét vào trong bọc, cuối cùng cả máu chó cũng thu thấp ngọn ngàng sạch , chất hết vào trong lò chữ Địa. Tòa điện đá trong hoang táng Lĩnh chia làm hai tầng, lò chữ Địa ở giữa có cái đỉnh lớn, phía dưới có cửa đốt và hầm đốt. thấy trong núi có nhiều cành khô, củi mục, vội lượm bó, châm lửa nhóm lò, lại vòng ra phía sau điện lấy chút nước suối, bỏ mấy nắm Thất bộ đoạn trưởng thảo vào trong, nấu thành nồi canh thịt lớn thơm nức. Trương Tiểu Biện nhanh chân chạy nhưng cũng phải mất hơn giờ mới xong. Cuối cùng khi mùi canh thịt trong cái nồi to bốc lễn từng đợt, biết việc lớn thành, liền vội vã ôm con mèo đen, nấp lên nóc điện. Chẳng bao lâu sau, bầy chó hoang lớn lang thang xung quanh Hoang Táng lĩn bị mùi canh thịt hấp dẫn kéo đến. Chúng đều biết tòa điện đá là sao huyệt của Thần Ngao, bọn chó hoang trong núi đều khiếp sợ thần uy hung tợn của nó nên con nào dám mạo muội bước vào nửa bước, nhưng mùi thịt càng lúc càng đượm khiến chúng sao kìm được. Rốt cuộc ó hai con chó hoang tham lam, liều mạng, nhịn nổi nữa liền can đảm tiến vào trong. Bọn chó kia thấy thế, chảng nghĩ ngợi được gì thêm, dãi dớt ra lòng thong, lập tức nhao nhao tiến vào như ong, tranh đoạt, giằng xé lẫn nhau, ăn sạch sành sanh nồi thịt trong lò chữu Địa, rồi mỗi con tự cuỗm lấy khúc xương, cắm cúi gặm nhầu. Dược tính của thất đoạn trường thảo bộc phát, hễ con chó nào ăn thịt, uống nước canh lập tức trúng độc ngã lăn ra, cảm thấy như là: " hòn lửa nóng thiêu gan phổi; Vạn mũi dùi châm thấu ruột gan" . Chúng đau đớn lăn lộn khắp đất, quá thời gian thắp tuần hương, tất cả đều chết ráo. Trương Tiểu Biện thấy đạii công cáo thành, bồi hồi như đnag nàm trong mộng. trước đây việc bắt gà trộm chó làm nhiều nên giết mấy con chó hoang cũng chẳng nhằm nhò gì, chỉ tấm tắc nể tài tiên tri của Lâm Trung Lão Quỷ, xem ra khoảng khắc thời vận xoay chuyển của Trương Tam gia đến rồi. Có điều, đúng là: " tướng nên danh,vạn xác phơi" Hôm nay chẳng qua chỉ là trăm mười mấy con chó hoang, nghĩ tới khi mình ở đỉnh cao chót vót, hoạn lộ thênh thang, biết còn biết bao nhiêu người phỉa liên lụy đến bỏ mạng vì mình. Trong lòng khỏi có chút trống rống, chưa biết là phúc hay là họa. Lúc ấy, Trăng sáng ngả về tây, Phương Đông sắp hửng, vùng núi non hoang dã chìm trong bóng tối u trước bình minh, Trương Tiểu Biện tuy lòng thắc thỏm yên nhưng cũng đành ra sức chạy về thành Linh Châu. vác cái đầu của con Thát tử khuyển, vạch cỏ tìm đường, rời khỏi hang núi, mải miết nhanh đến phía cổng thành trời cũng sáng hẳn. bỗng bên tai có tiếng pháo nổ, chỉ nghe khắp nơi dậy tiếng chem. Giết vang trời, thấy vô số quân Tahsi Bình đầu chít khăn đỏ, như trời long đất lở áp sát tường thành trong tiếng gào thét xung trận, thế quân rất lớn, cơ quạt đao thương mọc kín như rừng. đúng là: "Đao thương lấp lóa buốt trời rộng; Cờ xí tung bay rợp đất bằng" Muốn biết việc sau thế nào, xem cuỗn Tặc Miêu tập sau .
Quyển thứ tư Tháp Vương Hồi thứ 1: Kinh thiên động địa Kể từ khi Bàn Cổ Mở trời, Nữ Oa tạo người, Đại Vũ trị thủy đến nay, thiên hạ trải qua ba đời hạ Thương, Chu thời thượng cổ, sau đó các nước chư hầu cát cứ, ngũ bá thất hùng làm loạn thời Xuân thu- Chiến Quốc dẫn đến việc tần vương trỏ kiếm quét sạch ngầm trời, rồi khiến cho Hán Sơ tranh đoạt giang sơn... Trong cả quãng thời gian đó, thể đếm xuể biết bao lần đổi đời, hưng suy của các triều đại, mãi đến cuối đời Minh, quân thiết giáp Bát Kì vào Quan Nội, đánh trận quét sạch cả Nam Bắc, bình dịnh Trung Nguyên, thiên tử người Mãn Châu ngồi lên điện rồng ở Bắc Kinh cũng phen ra sức trông nom chính , khiến bách tính được dễ thở chút, cũng từng xuất cảnh "Khang Càn thịnh trị", trong nước từng có độ yên ổn vô . Thế nhưng, tới những năm cuối đời Thanh, tầng lớp thống trị phong kiến hết sức hủ bại, thù trong giặc ngoài liên tiếp nổi lên. Triều đình bên trong ra sức cướp bóc của cải, đè nén người dân cách tàn khốc, bên ngoài cắt đất bồi thường, nhu nhược nhục nhã khiến nghĩa quân khắp nơi dựng cờ khởi nghĩa, thiên hạ đại loạn, trong đó, phong trào thái Bình Thiên Quốc duy trì được thời gian lâu nhất, quy mô lớn nhất, làm lung lay tận gốc rễ thống trị của vương triều Mãn Thanh. Khởi nghĩa Thái Bình Thiên Quốc nổ ra từ vùng Việt tay, nhanh chóng lan ra quá nửa thiên hạ. Trong nước lâu nay vốn vô , giáp binh đều trễ nải, lực lượng quân của đế quốc Đại Thanh từ lâu thể so được với hồi Bát Kì vào Quan Nội. Quân chính quy do "Bát Kì" và "Lục Doanh" hợp thành, lâu tác chiến, cơ bản thể ứng phó được với các trận đánh quy mô lớn, Hoàng đế đành phải hạ chiếu cho các quan lại địa phương chủ trì việc chiêu mộ lính dõng, xây dựng đội quân mới để chống giặc dẹp loạn. Kỳ thực ra, trong thời kì trấn áp "Bạch Liên giáo" khi xưa, triều đình sớm, cảm thấy lực bất tòng tâm, vì vậy bắt đầu cho phép chiêu mộ lính dõng, dùng các lực lượng vũ trang địa phương do quan phủ khống chế thay thế cho quan binh đánh trận. Cuối đời Thanh, có khá nhiều cánh quân kiểu mới, nổi tiếng như "Tương quân", "Hoài quân", "Sở quân"... , đều là các toán lính dõng đồng hương. Đồng tộc, nên đánh thế nào cũng chịu lui, chiến đấu rất ngoan cường, Chỉ riêng về Mã Thiên Tích vốn chỉ là tri phủ bé , nhưng vì có công tổ chức quân đội, binh định giặc cướp nên mới được triều đình phá lệ cất nhắc làm tuần phủ. Lão chẳng những thông hiểu đạo làm quan, trong bụng càng có tài quân cơ thao lược, lại xuất thân từ danh ngôn vọng tộc có gốc rễ bền ở địa phương,thực là có khả năng to lớn, bao trùm cả vùng. Tuy nhiên, nếu đổi lại ở thời bình, có chỗ dựa trong triều, dẫu cho có bản lĩnh thực thụ cũng đủ để đảm đương chức vụ quan trọng, có được hoạn lộ thênh thang. Những người có quan lại đỡ đầu trong triều Như Mã Thiên Tích cũng lắm được chức vụ nhãi nhép gì đó ở Niết Ty hoặc Phiên ty. Chứ còn các chức to như Tuần phủ,. Tổng đốc đừng hòng mơ tới. Đúng lúc ấy, Việt khấu nổi loạn, cơ hội trổ lại của Mã Thiên Tích cuối cùng cũng tới, lão liền đích thân tìm tới nhiều nàh buôn giàu có, phân tích lợi hại để họ xuất tiền, xuất lương, xuất trai tráng, tổ chức huấn luyện để trợ giúp quan quân giữ thành. Những nhà buôn cự phú đó đều kinh doanh buôn bán nhiều đời, chỉ sợ Việt khấu tới phá hủy cơ nghiệp tổ tong, vì vậy đều tiếc vốn liếng chi viện cho quan phủ. Những người mong muốn loàm lính ăn lương ít, huống hồ lại có cờ chiêu mộ của quan gia. Chỉ cần có lương thực là có thể mau chóng chiêu mộ được lượng lớn lính dõng. Dựa vào thành Linh Châu lương thực sung túc vả lại tường thành kiên cố, địa thế hiểm yếu để ác chiến với Việt khấu mấy năm, đánh hàng chục trận lớn , chẳng những chưa để mất thành trì mà còn khắc chế được mấy cánh chủ lực của quân giặc nên lính dõng Linh Châu đều dần trở thành đạo quân mạnh mẽ, thiện chiến. Hoàng thượng rất khen ngợi chiến công ấy, đặc cách thăng quan cho Mã Thiên Tích, để lão thống lĩnh quân chính vụ trong vùng. Nhưng, Mã Thiên Tích hiểu ra như lòng bàn tay rằng "được chim bẻ ná, được cá quăng cơm", triều đình hứa hẹn ban thưởng "Hoa linh cài mũ" cũng chẳng qua là lời hứa suông. Nếu muốn mưu cầu việc phong hầu phong tướng, cốt phải dựa vào thực lực của chính mình, ngoài việc kết giao với đám quyền quý trong triều còn phải nhân cơ hội bình loạn trước mắt, ra sức mở rộng lực lượng binh lính. Dưới trướng càng có nhiều quân vốn liếng để thăng quan càng nhiều. Chính vì vậy, trong tay Mã Thiên Tích, ngoài việc nắm giữ quân chiêu mộ bằng tiền của các thương gia, lão còn phủ dụ, chiêu an rất nhiều toán cướp cạn. cướp sông, đồng thời lợi dụng quan hệ, ngầm giao dịch với người Tây Dương, mua về rất nhiều hỏa khí của Tây, phòng thủ thành Linh Châu như tường đồng vách sắt. Quân Thái Bình liên tiếp mấy lượt công phá thành nhưng gặp phải tường cao hào sâu nên đều chịu thất bại, lại thêm lương thảo trong quân đủ, khó vây khốn được lâu. Nhưng lần này lại ào ạt kéo tới, có ý quyết chi chiếm bằng được, đợi đến lúc trời tờ mờ sáng, từng đội từng đội quân Thái Bình từ bốn phương tám hướng đều tề tựu lại, trước tiên cho bắn đợt pháo đá, sau đó đại đội người ngựa cuốn trời rợp đất lao về phía tường thành. Quân giữ thành Linh Châu sắn sàng giương cung tuốt kiếm đợi cả đêm, thấy Việt Khấu kéo tới như ong, thanh thế cực lớn, tinh kì đầy nội, đao thương như rừng. Mặc dù vậy, lính dõng trong thành phần lớn đều trải trận mạc, lúc ấy đều nôn nóng ứng chiến. Các doạnh đều cuốn cờ im trống, lẳng lặng nằm phục đằng sau bức tường, nhúc nhích. Dưới chân tành có ba con hào, hai bên hào đều cho cắm đầy cọc nhọn,. con hào ở giữa rộng nhất, bên trong đầy nước bẩn. Giữa các hào nước đều cho kết hàng rào nhọn lởm chởm để ngăn cản thế tấn công. Đội quân Thái Bình hàng đầu nhanh chóng áp sát trước hào, phải ngừng lại phá vỡ hàng rào và kiếm thang tre bắc cầu, trong khoảng khắc, vô số binh lính bị hào nước ngăn trở, gào thét ầm ầm, dồn lại đống. Lúc ấy, bỗng nghe đầu thành có tiếng mõ khua gấp, lính dõng phục bờ thành nhất tề hét lớn, chìa súng ống và pháo Phách Sơn ra ngoài. Lập tức khói súng mù mịt, đạn chì rào rạt, quân Thái Bình tập trung dưới thành bị bắn, máu thịt tung tóe, chen lấn, xô đẩy thành đám hỗn loạn. Nhiều người rơi xuống hào, bị chông chà đâm chết cũng bị chết chìm trong làn nước bẩn, số bịtrúng thương gãy chân, đứt tay càng đếm xuể, máu đổ đầm đề, ngã xuống đất gào thét thảm thiết. Mặc dù vậy, quân Thái Bình lớp trước ngã, lớp sau lên, vẫn thiết sống chết kéo đến ùn ùn, tấn công vào tường thành. Quân thủ thành lập tức cho ném gạch, lăn gỗ. Những súc gỗ đều gắn mảnh đồng, đinh sắt, khi lăn xuống tạo thành đường máu. Chỉ thấy xung quanh thành khói lang, tiếng pháo ầm ầm dứt, cung cứng nỏ mạnh bắn ra như mưa gào gió giật, giết đến nỗi "thây chất tựa non khe hào chật, máu tuôn như suối đỏ nền trời". Trận ác chiến kéo dài từ tờ mờ sáng đến giờ Ngọ, quân Thái Bình tử thương vô số, phải tạm thời dừng thế tấn công, bò lại mấy nghìn xác chết mà thu binh rút lui. Mã đại nhân đứng thành, giơ ống nhòm lên để lượt traanhj, phát thấy Việt khấu bại mà loạn, ở vùng phụ cận tụ tập rất nhiều người ngựa để đóng doanh, hạ trại, bao vây thành Linh Châu tới giọt nước cũng lọt, xem ra chúng định vây khốn lâu dìa. Trong lòng lão khỏi ngầm lo âu. Đề đốc Đồ hải nghe Việt khấu đại bại dưới chân thành, bị quan quân giết chết vô số, lập tức chỉnh đốn mũ giáp, lên mặt thành quan sát kết quả trận đánh. Lão nai nịt nhung phục đâu đấy, tiền hô hậu ủng đến mấy chục tên thân binh, ngoài gia còn có hai gia nô chuyên vác đại bao, đương nhiên từ xưa đến nay chưa ai từng thất Đề đốc đại nhân dùng đao bao giờ, chẳng qua chỉ là bố trí để thêm oai mà thôi. Khi lên đến đầu thành, vì bộ khôi giáp nặng trịch, mệt bở hơi tai, thở ra hồng hộc. Vừa nhìn thấy Đề đốc lão gia đến, Mã đại nhân vội sai mang ghế thái sư ra, mời Đề đốc Đồ Hỉa ngồi lầu thành để đốc trận. Đề đốc tướng quân thấy thi thể quân Thái Bình la liêt khắp nơi, trong lòng lấy làm đắc ý, liền chỉnh lại mũ khôi, mở miệng cười ha hả, với mọi người: "Đương kim Hoàng thượng của chúng ta minh thần vỗ thế nàu? Đám phản tặc làm loạn kia biết tự lượng sức mình, chẳng khác nào đem trứng chọi với đá, cos thể làm được bao năm? Ta xem ra, cần phải dùng đến đạiu quân của triều đình để tiêu trừ, chỉ càn vài trận thế này bọn thối tha chúng nó cũng bị chúng ta chém hết rồi" Mã đại nhân vội phụ họa theo, trước tiên Hoàng thượng là chân long giáng trần, đúng là minh cái thế, thần võ vô song, lại khen Đề đốc Đồ Hải đúng là phúc tướng thủ hạ của Hoàng thượng, nhưng thực ra thâm tâm lão vốn cho là thế. Tuy trận này giết và làm bị thương vô số Việt khấu nhưng để thắng được còn phải trải qua nhiều gian nan. Việt khấu hết sức hung bạo, giảo hoạt, nếu chúng đều chỉ đến tìm cái chết như đám sáng nay sớm bị quan quân quét sạch và trấn áp từ lâu rồi, chứ đâu đợi đến ngày nay. Theo kinh nghiệm trước đây, bọn bị giết dưới chân thành đều chỉ là những dân chạy loạn hoặc tù binh bị Việt khấu bắt được, còn chủ lực của quân địch vẫn chưa hề bị tổn thất, chỉ e trận ác chiến thực vẫn còn ở phía sau. Đúng lúc ấy, có toán quân Thái bình đến trước thành chửi bới, giở ra chiêu chiến tranh tâm lý thời xưa. Những câu mắng chửi ngoài mấy chuyện: " nghiệt nhà Thanh" đều là lũ ma quỷ quái thành tinh trong hang sâu núi thẳm ở Quan Ngoại, chiếm cứ giang sơn của dân Hán, làm loạn Trung Hoa, lại bắt dân chúng gióc tóc, tết cái đuôi chó lợn ở phía sau đầu,ai gióc tóc chặt đầu, là chẳng còn thiên lý con bà gì. Bọn nghiệt còn dám miệt thị thiên binh, Thiên tướng của Thiên triều chúng ta là giặc cướp mà biết rằng từ thời cổ, khi Thương Hiệt tạo ra chữ vốn có hai chữ "tạo phản", tất cả đều là bọn quan lại ngụy tạo ra để lừa gạt bách tính, khiến dân chúng bị gạt và chịu khinh khi của chúng. Trước khi " tặc nhà Thanh" chưa nhập Quan Nội, chả phải từng bị chúng ta chửi là Thát tử Mãn Châu sao? Khuyên cá người chớ phản lại lẽ trời mà giúp bọn hung bạo, làm nô tài cho triều địa Mãn Thanh, hãy mau chóng tỉnh ngộ, bắt trói hết quan lại tronmg thành dâng nộp trước trận tiền rồi theo Hông Thiên vương chúng ta giết hết nghiệt nhà Thanh, cùng hưởng đời Thái bình thịnh trị. Trong thành sớm có chuẩn bị, nghĩ sẵn những câu chửi từ trước, sai toán lính dõng to mồm đấu khẩu bới Việt khấu, nào là bọn chúng aby là bọn thối tha phản nghịch chỉ biết tin vào cái gì " ngang dọc"; xưa nay tuân theo tiên hiền cổ thánh, tên đầu đảng ngụy vương ăn mặc theo lối hòa thượng của Tây Dương chẳng qua chỉ là tên bát tài vô tướng mà thôi. Vốn hứn chính là con dân cảu quốc triều ta thế àm dám cả gan tiêm nhiễm, mê hoặc nhân tâm, lớn tiếng bảo là con cháu cảu thần tiên Tây Dương, đến tổ tông nhà mình cũng nhận, bây giờ con dám giương mắt khoanh tay to mồm cái gì thiên đạo, kì thực ra có hiểu thiên đạo là gì đâu. Hôm nay bọn các người tử thương thê thảm, hẳn là nếm đủ thủ đoạn sấm sét của quan quân, sao còn phải chịu đau khổ làm những chuyện đại nghịch bất đạo như thế? Phải biết rằng quay đầu là bờ, khuyên các người chi bằng sớm cải tà quy chánh, mau bắt tất cả bọn ngụy vương, ngụy soái trói nộp trước thành, quan phủ niệm tình các ngươi nhất thời tin lầm vào lời ngôn, nhất định truy cứu,c òn thưởng tiền bạc để các ngươi quay về quê cũ, làm người dân lương thiện, an phận thủ thường, bằng đợi đến khi đại quân triều đình kéo đến, thiên uy giáng xuống các ngươi đều chịu tội tru di cửu tộc. Song phương mới đầu có chủ ý khuyên hàn nhưng rốt cuộc chẳng ai nộp thành dâng tù, thành Linh Châu nhiều ngăn chặn quân Thái Bình. Trải qua nhiều trận ác chiến, hai bên đều có thương vong, đều hận quân địch đến tận xương tủy, đều hiểu, nếu mình rơi vào tay đối phương chẳng có gì hay ho, nhưng cứ mặc sức vung thiên hạ cũng chẳng chết ai Chửi mắng đến đoạn sau lập tức biến thành trận chửi bới với những lời lẽ thô tục, kiêng kị hì nữa, hai bên đều vang những câu văng tục bẩn thịu nơi đầu đường xó chợ, nguyền rủa hết sức độc địa. Tới mãi khi mặt trời gác bóng đằng tây, trận chửi bới loạn tùng bậy, tao mòe mày chó đó nọ cũng còn chưa thôi. Mã đại nhân thấy trong lòng yên, cứ có cảm giác Việt khấu tựa hồ che dấu hành động nàokhác. Lão liền dẫn mấy tên tùy tòng, tuần sát kĩ vòng mặt thành, dặn dò các doanh phải cẩn thận đề phòng, chuẩn bị nhiều tên lửa, rồng lửa để phát mọi vật từ xa, ngăn Việt khấu nhân trời tối àm lẻn tới cướp thành. Chính vào lúc đó, Mã đại nhân chợt phát dưới chân thành có điều dị thường. Lão quan sát thấy mảng cây cỏ ở phía Nam thành lộ ra vẻ trơ trụi héo úa, nhưng nếu phải người tinh ý và quan sát kĩ hì dễ mà phát ra được. Càng nhìn càng tấy kì quái, đột nhiên lão tỉnh ngộ ra, trong lòng sợ hãi kêu thầm: "Thiếu chút nữa bị che mắt, hóa ra trong quân Việt khấu có doanh quân đào hầm. Chắc từ tờ mờ sáng bắt đầu dòa rồi, định đào hầm đặt thuốc nổ làm sập tường thành, có lẽ chúng đợi đến khi trời tối phá thành. Lõa còn chư kịp nghĩ xong nghe thấy tiếng nổ lớn long trời lở đấtm rung chuyển núi non, sập nàh đổ cửa Thế mới là: "Trời nghiêng đất lật bao giờ nhỉ; Hổ đấu rồng tranh áh chịu thôi?" Muốn biết thể thế nào, xem hồi sau . Hồi thứ 2: Mây mù biến hóa Lại , xưa nay hai phía giao phong việc quân ngại dối trá. Doanh lính đào hầm của quân Thái Bình nhân đêm hôm trước bắt đầu đào đường hầm, rồi ban ngày nửa buổi đánh thành nửa buổi sai lính chửi mắng, chừng như dẫn dụ dân binh ra ngoài thành quyết chiến, kỳ thực ra, đó đều là động tác nghi binh. Trong bóng tối, quân Thái Bình thầm đaò được đường hầm vừa sâu vừa rộng, vận chuyển vào trong lượng lớn thuốc nổ, định bụng tới đêm châm ngòi nổ, phá hủy bức tường thành cao lớn, kiên cố của Linh Châu. Nhưng, trong thành Linh Châu sớm có cao nhân xếp đặt, bố trí phòng vệ như tường đồng vách sắt, hơn nữa, biết quân Thái Bình quen dùng ngón đào hầm nổ thành nên có bố thành từ trước, chôn dưới chân thành có rất nhiều pháo Ngũ lôi khai hỏa. Quân Thái Bình hề ngờ đến điều đó, quả nhiên có tên vô ý chạm nổ pháo ngầm khiến số lượng thuốc nổ vừa mới vận chuyển vào đường hầm phát nổ theo. Lập tức, hơn nghìn người bị nổ tan xác, những kẻ bị nổ chết cũng bị đất đá chôn vùi trong lòng đất. Cũng bởi lượng thuốc nổ trong đường hầm quá nhiều, uy lực khi phát nổ cực lớn, gây chấn động mạn, làm móng tành rung chuyển. Những căn nhà gần chân thành phía Nam đều bị đổ sập dãy, đè chết rất nhiều quân dân Linh Châu. Ngay lúc đó, quân Việt khấu tập kết ở phía ngoài cửa Nam nhân lúc quan giữ thành hỗn loạn, liền nổi trống điều động đại quân giơ khiên nặng tầng tầng lớp lớp, vác thang mây ào ạt tấn công tành Linh Châu. Lính dõng giữ mặt thành vẫn dùng Phách sơn phái, súng trường, súng phun lửa, ten nỏ, bình vôi, đá hộc, gỗ súc chống lại. Tuy nhiên, cánh quân Thái Bình này là quân tinh nhuệ trong các doanh cũ ở Việt tây, thân trải trăm trận từ Nam chí Bắc, chẳng phải toán binh lính ô hớp đánh thắng hồi sáng, đội quân này lấy thuẫn da khiên mây to nặng kết thành trận thế, che trân đầu kín bưng, mặt trân thuẫn bài phần lớn đều dát đồng lá, cản được loạt tên bắn, đạn súng, đá hộc như mào gió giật trút xuống từ thành. Quan quân chỉ còn cách dùng Phách Sơn pháo và Hổ Tôn Cữu pháo để oanh kích, tuy sát thương được nhiều quân địch nhưng cánh quân thái Bình đó tiến đánh rất nhanh, tựa như từng đám gió lốc màu đỏ rực. toán tiên phong liều chết áp sát đến phía trước, dùng bao cát lấp đày các khe hào, đại quân phía sau lũ lượt vượt qua, đánh tới góc chết ở chân thành, nơi hỏa pháo thể bắn tới, rời lập tức dựng thang mây, tranh nhau trèo lên mặt thành. Cánh quân Thái Bình xung phong trèo lên mặt thành đều là những thiếu niên có thân thủ nhanh nhẹn chẳng kém gì loài vượn, khỏe mạnh, dẫu cho tên đạn tơi bời nhưng hề sợ sệt, trèo thang lên mặt thành như đất bằng, chỉ cần lên đươc đến mặt thành là dùng binh khí ngắn hỗn chiến với đối pương, đến lúc ấy thành Linh Châu thất thủ là cái chắc. Dưới chân thành có vô số tướng sĩ quân Thái Bình thấy cánh tiên phong trong phút chốc lên được mặt thành, đều cho rằng sắp sửa phá được, lập tức sĩ khí dâng cao, rút đao thương gioe lên như phát cuồng, hò hét: "Vào thành giết hết Thanh ! Giết hết Thanh hưởng thái bình!"Tiếng hô giết chóc tựa như núi gầm biển động, nuốt chửng lấy tất cả Mã Thiên Tích tuy hiểu binh pháp nhưng phải là võ tướng, mới rồi bị tiếng nổ dưới lòng đất chần động làm người đờ đẫn ra, phải cậy mấy tên thân tùy dìu vào trong lầu thành, lúc sau mới tỉnh táo trở lại. Lúc ấy, nghe phía đầu thành đại loạn, lão vội vã đứng dậy nhòm qua lỗ bắn tên nhìn ra ngoài, vừa nhìn thế trận hiểu ra đội đánh thành toàn là quân tinh nhuệ của Việt khấu, lính dõng thành Linh Châu tuy đều dựa vào hỏa khí lợi hại để liều chết ác chiến với quân địch nhưng mất tiên cơ, sắp ngăn nổi nữa. Mã Thiên Tích đúng là người có tài làm tướng, lâm nguy mà loạn, vội vã hạ lệnh kéo ngọn đèn lông đỏ lên lầu thành. Ngọn đèn lồng đó báo hiệu cho các doanh lính dõng dùng nước "thương thủy" để chống dịch, là: "Nguyên soái màn trướng lập mưu; Tướng lính xung trận để liều lập công" Linh Châu là thành cổ nghìn năm, là vùng đất xưa nay tranh đoạt, đằng sau tường thành đặt rất nhiều nơi giấu quân. Mã tuàn phủ từu sớm bố trí tráng dinh nấp trpng các chỗ đó để nổi lửa đốt những nồi lớn, đun sôi hàng loạt nối nước "thương thủy". Nước "thương thủy" được chế ra từ dầu nóng trộn với cứt đái và vôi bột nấu lên, đun đun lại nhiều lần.Lúc ấy các nồi "thương thủy" sôi sung sục được đổ vào các ống gỗ rồi cuyển từng ống từ tường thấp lên mặt thành, đổ vung từng ống xuống phía dưới. Khiên dầy thuẫn nặng tuy có thể ngăn được đá hộc, gỗ súc nhưng thể ngăn được chất lỏng. Da thịt người chỉ cần bị dính thứ nước thương thủy nóng gỏng này là lập tức sưng phồng kên, mau chóng rữa nát, cho đến khi lộ ra xương cốt trắng hếu. Nếu tay chân bị bỏng còn may ra để người kế bên dùng đao, búa chặt đứt, kịp thời giữ được tính mạng, nhưng chỉ cần người, đầu bị dính chút đến thần tiên giáng trần, Hoa Đà tái thế cũng cứu được, thực là độc địa vô cùng Quân giữ thành trút thương thủy sôi sung sục xuống, lập tức khiến vô số quân Thái Bình bỏng chết hoặc bị thương, những người trèo thang mây cũng gào thét thảm thiết ngã xuống phía dưới, quân lính dồn dưới chân thành cũng loạn cả thế trận, quân Thái Bình bị chết bởi thương thủy nhiều đếm xuể. Cả đại đội người người đều phải rút về phía sau, lính dõng Linh Châu thừa cơ dùng hỏa khí oanh kích lại. khiến quân Thái Bình phải bỏ lại phía sau rất nhiều tử thi. Mã đại nhân tuy ngoài mặt từ bi hỷ xả nhưng kỳ thực lòng lang dạ sói, am hiểm hiếu sát, thấy dưới chân thành xác chết chồng chất như núi, lão chẳng hề nhíu mày, chỉ hận rằng vất vả lắm mới phá tan được chủ lực của Việt kháu nhưng lại chẳng có đại đội quân nào ở ngoại vi để thừa cơ xông ra chém giết, bằng nhất định có thể cất tay trận mà tiêu diệt được cả, lập nên kỳ công bất hủ. Tạm nhắc đến việc quân Thái Bình bị tan vỡ thảm thương dưới chân thành Linh Châu và quân dân trong thành chỉnh đốn giới bị ra sao, lại riêng về Trương Tiểu Biện bọc cái đầu chó Thần Ngao, từ Hoang Táng lính quay về lúc tờ mờ sáng, đúng lúc gặp phải Việt khấu đánh thành. thấy tình thế ổn, vội vã co đầu rút đuôi nấp trong khe núi. Nghe tiếng gào thét giết choc rung trời từ phía thành Linh Châu, chiến cuộc ra sao, dám vọng động. Đợi mãi đến lúc hoàng hôn, thấy đại quân Thía Bình tan vỡ rút lui, tiếng pháo dần dần im bặt, mới ngầm quay về thành trong đêm tối. Sau cả ngày trời kịch chiến, các cửa thành Linh Châu đều đóng chặt, Trương Tiểu Biện mò mẫm trong bóng đêm tới trước cửa thành, thấy tử thi dưới chân thành tầng tầng lớp lơp đè lên hau, kẻ trúng thương dính tên, người mất chân, cụt đầu, thủng bụng, sổ ruột... chết kiểu nào cũng có, ngay cả trong hào nước cũng lấp đầy xác chết, bọn lợn rừng, chuột rừng tranh nhau rỉa thịt. thấy vậy khỏi kinh hãi, vỗi vã bắn mũi tên gió lên lưng trời để người thành thả giỏ tre xuống tiếp ứng. Tôn Đại Ma Tử vất vả chờ đợi thành đúng ngày đêm, toán công sai sớm bỏ chạy từu lâu. Cho dù lúc quân Thái Bình đánh thành kịch liệt nhất, gã vẫn trước sau ở lại thành, chỉ sợ bỏ lỡ mất tín hiệu của Trương Tiểu Biện. bấy giờ thấy trời đất tối đen, gã tưởng Trương Tiểu Biện bỏ mạng trong đám loạn quân, định tìm cớ ra ngoài tìm xác, bỗng nghe thấy tiếng tên xé gió, lập tức thả giỏ tre xuống kéo Trương Tiểu Biện lên Giao tình của người đời phần lớn đều đặt chữ "lợi" lên hàng đầu, tiền bạc nhiều tình cảm bền, nếu mưu đồ việc lợi lộc phần nhiều là loại kết giao đầu môi chót lưỡi, bạn bè rượu thịt. Thế nhưng, gã và Trương Tiểu Biện kết giao sinh tử từ trong hoạn nạn, khác hẳn tình bạn thông thường. Lúc ấy, cả hai cùng nhìn nhau, thấy máu me đầy mặt nhưng vẫn may mắn còn sống sót đều mừng rỡ khôn cùng. Trương Tiểu Biện và Tôn Đại Ma Tử chỉnh đốn lại trang phục rồi cùng nhau đến bái kiến Tuần phủ Mã đại nhân. Đại quân Việt khấu vừa rút quân xong liền thu thập giáp binh ngoài mấy chục dặm, nhưng vẫn tiếp tục vây thành Linh Châu. Mã đại nhân cũng dám nghỉ ngơi, bận rộn kiểm điểm số thương vong và điều kiến lính dõng từ các nơi, nghe Trương Tiểu Biện từ Hoang Táng Lính trở về, chưa biết chuyến đio thành bại ra sao, vội truyền họ vào. Trương Tiểu Biện hành lễ rồi mở tay nải lưng ra, cho mọi người nhìn thấy cái đầu chó, đồng thời đem hết câu chuyện ra kể qua lượt. biết mình dẫu có mọc thêm lưỡi cũng che mắt được Mã đại nhâ, dám ba hoa nhiều, những chuyện trải qua lần này phần nhiều là thực, chỉ riêng về Lâm Trung Lão Quỷ đề cập đến câu chữ, Bên trong sảnh đường tụ tập rất nhiều quan lại, đều tận mắt chứng kiến con Thần Ngao ở Hoang Táng lính hung dữ ra sao khi wor pháp trường hành hình Phan hòa thượng. Chẳng ngờ rốt cuộc, con chó dữ bị tên tiểu tử Trương Tiểu Biện thân mình giết chết, ai nấy đều khỏi há hốc mồm, dám tin đây lại là thực. Chỉ có Mã đại nhân vui mừng ra mặt, lão vỗ tay khen ngợi, than phục thuật xem tướng mèo quả nhiên khác hẳn các thủ đoạn tầm thường, có thể khai khiến con mèo láy đèn trộm dầu làm cho con Thần Ngao mê man. Cách dùng mẹo thắng địch này, thực phải dễ mà nghĩ ra được. Từ đó, lão càng nhìn Trương Tiểu Biện với con mắt khác, lại bảo với mọi người cũng có ví dụ: chuyện kể về con cá ngao già ở biển, thấy biển trời mênh mông, liền khinh thường con ếch ở đáy giếng thấy trời to bằng cái vung. Nó lại biết đâu rằng, con đại bang cánh vàng trước xa giá của Phật tổ chỉ cần cất cánh cái là có thể bay tới tận chân trời góc bể. Thế mới , ngoài núi còn núi, ngoài trời có trời, là nước bể đấu đong hết, người phàm thể đoán biết được. Phải chăng, Hàn hầu, Mông Chính, những nhân vật lớn thời xưa, lúc đầu đều phải chịu cảnh nghèo đói, khốn khổ, do đóm chớ lấy mắt thịt người ytaanf ra mà so đo gốc tích của kẻ hùng. Chúng quan đều vội rối rít khen ngợi, Trương Bái đầu đúng là cao nhân bất lộ trường, quả nhiên có bản lĩnh thực thụ, nhân tiện ca ngợi Mã đại nhân có huệ nhãn nhận ra hùng, có thể phân biệt được kì nhân dị sĩ trong thiên hạ, câu nệ khi đề bạt nhân tài, bọn chúng tôi muốn theo cũng kịp, Hôm nay, trước là đại phá Việt khấu, sau là trừ được đại họa cho thành Linh Châu, thực alf đáng vui, đáng mừng, thánh thượng mà biết ắt trọng dụng, xem ra Mã đại nhân nhận được đặc chỉ thăng chức trong nay mai. Mã đại nhân khen ngợi Trương Tiểu Biện hồi, thưởng cho rất nhiều tiền bạc, bảo tạm về nghỉ ngơi. Trương Tiểu Biện rốt cuộc cũng trổ được tài nghệ trước mặt mọi người, tuy chưa phải quá nở mày nở mặt nhưng trong lòng cũng ngầm đắc ý, cho rằng mình là rồng khô gặp nước, cảnh tượng hưởng thụ sung sướng ắt chẳng còn bao xa nữa. Trương tam gia a sinh ra phải là hàng phàm phu tục tử, nếu khiến cao tính đại danh được truyền tụng mãi ở khắp làng xa thôn gần trong thiên hạ là phải với bản thân. Cỏ nhân có câu rằng: "Phượng đậu cành ngô, rồng vẫy khe vực, vật đều có nơi, ai nấy riêng phúc", Nào phải là điều vọng tưởng, nằm mơ giữa ban ngày? Trương Tiểu Biện đắc ý, vui lòng nhận bạc thưởng, cùng Tôn Đại Ma Tử quay về nhà trọ, ăn thịt uống rượu no nê, rồi lăn ra ngủ biết trời nam đất bắc thế nào, trong giấc mộng đẹp còn thấy mình đêm được thăng quan phát tài. Đúng lúc hồn lơ lửng mây, trong mơ chỉ thấy trời cao đất rộng, thoáng đãng vô cùng, chợt bị hai tên công sai đến tận đàu giường kéo phắt dậy, là Mã đại nhân muốn mau chóng tới nghe lệnh, Sô là, trong thành Linh Châu xuất việc lạ. Hồi đầu hôm, Việt khấu bị sập địa đạo ở ngoài thành, tuy tường thành chưa bị tổn hại nhưng phía Nam thành có mấy chỗ nhà cửa bị rung đổ, trong lúc dọn dẹp bãi đổ nát, xúc các ngói vỡ đá vụn ra, thấy ở mặt đất bị chấn động nứt ra vệt lớn, mây mù trắng xóa từ bên trong ngớt phun ra. Lúc đầu thấy có điều gì lạ, nhưng càng lúc mù trăng càng dày đặc, ngưng tụ biến hóa, mãi mà tan, dần dần tạo ra hình ảnh tòa tháp cổ. Tuy chỉ có viền bên ngoài nhưng thấy đó là tòa tháp lục giác linh luing có mười sáu tầng mái, mỗi tầng đều ràng dị thường, thậm chí những chỗ rường cột đổ nát cũng trông mồn . Mù trắng hóa thành tòa tháp cổ cao chọc trời, lớn như tháp , chầm chập bay lên trung rồi đứng im lơ lửng giữa trời. Lúc ấy mặt trời lên cao, trời quang mây tạnh, tầng bốn phía xanh ngắ, chỉ duy có đám mây mù hình cái tháp là vẫn quần tụ tan, đúng là kì lạ để đâu cho hết. Những bậc hiểu rộng biết nhiều trong thành cũng là tượng dị thường gì. Ngay cả quân Thái Bình bên ngoài thành cũng trợn mắt há mồm nhìn, ai nấy đều đứng ngắm từ xa, trong lòng rất sợ hãi, còn tưởng là bọn quái nhà Thanh trong thành giở tà thuật gì, đành phải tạm thời bỏ ý định đánh thành. Nhân tâm trong thành Linh Châu cũng hoảng hốt yên, lời đồn đại lan truyền khắp nơi, có người bảo rằng do chấn động làm mở ra động , phủ quỷ, có người bảo rằng đó là con mãng xà dưới đất nhả mù, mọi người bàn tán phân vân nhưng ai dám xuống để thăm dò hư thực, còn có người hiến mưu kế với Tuần phủ đại nhân rằng, hình ảnh tòa tháp mây rất cổ quái, biết điềm lành dữ thế nào, ắt căn nguyên xuất phát từu lòng đất. Trong đám công sai ở nha môn chúng ta có Tam ban Tứ khoái, trong đó có vị Trương bài đầu tài nghệ cao cường, mưu kế xuất chúng, vả lại học được dị thuật, nay nuôi quân ngàn ngày, dùng quân giờ, sao sai thăm dò đầu đuôi chuyến. là : "Tìm kim đáy nước nên bơi xuống; Mở cửa biển sâu phải lặn ngay" Muốn biết thể thế nào, hạ hồi phân giải