Hồi thứ 4: Trẻ Con Loạn Nhà Lại , chú tiểu quét chùa lĩnh pháp chỉ, vội vã ra khỏi sơn môn, cứ thế tìm đến quá nửa đêm mới thấy con mèo già lở loét, liền ôm nó về Bỉ Lôi đường, than thở. "Đáng thương thay con nghiệt súc biết gì! Chẳng hiểu mày đắc tội với lão thiền sư ra sao mà liên lụy đến cả tiểu tang. Hôm nay thể kết liễu tính mạng của mày, rồi ta tụng kinh siêu độ cho mày về Tây phương cực lạc... " Đoạn chú tiểu nghiến răng ném con mèo xuống đầm cho chết, rồi vớt xác nó đem chôn vào khu rừng rậm phía sau núi, sau đó mới quay về chùa bẩm báo với Đàm Chân trưởng lão. Thường có câu: "Nhập môn chớ hỏi điều hay dở, cứ xem sắc mặt biết ngay liền". Đàm Chân trưởng lão trông thần sắc của chú tiểu, hiểu rằng xử lý ổn thỏa. Thấy trời sáng , hòa thượng liền hỏi chú tiểu làm thế nào giết con mèo, lúc đó trời sáng chưa? Chú tiểu quét chùa phạm sát giới, trong lòng rất hoảng hốt, nhớ lại lúc dìm con mèo già, dường như trời vừa mới hửng, cửa thành còn chưa mở, đứng trước mặt Đàm Chân trưởng lão, chú tiểu dám giấu giếm điều gì, nhất nhất kể lại hết. Đàm Chân trưởng lão nghe xong, lòng thầm nghĩ: "Đúng là ý trời, sức người thể cưỡng cầu cho được." Trước đó, vì thiền cơ thể cho tỏ tường, khó thẳng với chú tiểu chân tướng mọi . ra nhà Phật giảng lẽ tuần hoàn nhân quả, con mèo già lở loét đó tuy bị đọa trong súc sinh đạo nhưng cũng có đạo hạnh. Mỗi lần tăng nhân trong chùa Bỉ Lôi thắp hương tụng kinh, tiếng mõ cá vang lên, con mèo già lại theo thanh mà đến, nằm phục xà nhà trước điện lắng nghe kinh văn. Đàm Chân trưởng lão dùng tuệ nhãn soi xét vật, biết rằng con mèo này có đạo cốt, thành Phật được, song nhà Phật coi chúng sinh thảy như quyến thuộc, nó nghe kinh nhiều năm, trước sau cũng kết thành thiện quả, chỉ có điều phải đầu thai thành người ở chốn nhân gian, làm nên số việc mới đắc đạo được. Đúng vào đêm hôm đó, trong thành Linh Châu, có sản phụ lâm bồn, thai nhi lại xoay ngang, tính mệnh của sản phụ chỉ còn trong phút chốc, sắp sửa thây hai mạng đến nơi. Bà đỡ và cả thầy lang sản lúc ấy bó tay còn cách nào giúp được. Người ngoài hiểu gì, chỉ có Đàm Chân trưởng lão biết , nếu con mèo này chết sản phụ kia đẻ được, thế nên sai chú tiểu kết liễu nó, nhưng ngờ, trời xui đất khiến thế nào lại giết nhầm giờ, chỉ còn cách trông chờ vào số mệnh của con mèo già đó ra sao mà thôi. Sáng sớm ngày hôm đó, quả nhiên có nhà Đàm viên ngoại mừng sinh được quý tử, đặt tên là "Bách Trung". Đàm gia là nhà có truyền thống thư hương nổi tiếng thành Linh Châu, đến đời Đàm công tử lại độc đinh, nghìn mẫu ruộng chỉ còn mình chàng thừa kế. Chẳng ngờ tiểu công tử từ lúc sinh ra, toàn thân lở loét, danh y khắp nơi cũng chữa trị được. Có điều, chàng từ thông minh đỉnh ngộ, sách vở chỉ cần liếc qua là nhớ cả, từ bé có chí thi đoạt bảng vàng. Nhưng hiềm nỗi học tài thi phận, dẫu trong bụng có lời văn như gấm, chữ viết đẹp như phượng múa rồng bay, chàng vẫn có số đậu khôi nguyên, lần nào thi cũng hỏng, may nhờ gia sản giàu có nên đường kinh kế mới đáng lo. Đàm công tử có đam mê kỳ lạ, bình sinh rất thích nuôi mèo, các cuốn Miêu kinh, Miêu phổ thường xem chẳng rời tay, lại còn bỏ ra rất nhiều tiền bạc, mời người từ lưỡng Quảng về để xem tướng mèo. Mấy lần đều thi trượt khiến chí công danh của chàng dần nguội lạnh, về sau chỉ dành hết tinh thần sức lực vào việc nuôi mèo mà thôi. Chàng phá tán hết gia sản, cả ngày chỉ chơi đùa với đàn mèo. Ở Linh Châu có truyền thuyết từ xa xưa về mèo già biết tiếng người, mà Đàm công tử hễ gặp mèo là hỏi: "Ngươi có biết ?" Thấy con mèo hoang qua mái nhà, chàng cũng phải đuổi theo hỏi: "Lang quân mái xin ngừng bước, người có biết ?" Thế nhưng bất kể mèo nhà hay mèo hoang xưa nay đều chẳng buồn nheo mắt nhìn Đàm công tử lấy lần. Những cử chỉ quái dị ấy của chàng khiến cho đầy tớ, láng giềng đều tưởng Đàm công tử bị bệnh điên có thuốc chữa. năm nọ, Đàm công tử tản bộ ở ngoại ô, gặp con mèo hoang bốn tai hết sức hiếm thấy phì phò nằm ngủ chạc cây. Con mèo này toàn thân nồng nặc mùi rượu, dường như vừa mới uống trộm rượu ở đâu đó về, say nằm ở đây. Đàm công tử giỏi xem tướng mèo, vừa trông thấy biết con mèo này hết sức phi phàm, có lẽ là mèo tiên bốn tai hóa ra chứ chẳng chơi. Chàng thấy tò mò, liền ngồi xuống gốc cây định bụng xem cho ràng. Tới lúc mặt trời xế bóng, con mèo bốn tai mới tỉnh hơi men. Chẳng thèm để ý đến Đàm công tử ngồi dưới gốc cây, nó ngáp hơi rồi nhảy xuống, lắc mình, rồi đủng đỉnh bỏ . Đàm công tử theo con mèo vào sâu trong núi, miết mười mấy năm trời, ai cũng cho rằng chàng chết từ lâu. ngờ, Đàm công tử gặp được kỳ duyên trong núi, nhưng rốt cuộc là chàng gặp phải chuyện gì rất ít người tỏ tường. Chỉ biết rằng, khi từ trong núi trở về, chàng thường dẫn theo mình con mèo bốn tai, thường hay gọi bầy gọi bạn, tụ tập cả bầy mèo hoang lớn khắp nơi huyên náo, rao bán "Miêu nhi dược", xưng rằng chữa được bách bệnh. Người đời đa phần đều nghĩ chàng bị điên, làm gì có ai chịu uống loại thước lẩm cẩm ấy? Nhưng cũng có vài tên hành khất ăn xin bị ốm nặng có tiền chữa bệnh, đành dùng thử loại Miêu nhi dược của chàng, dù sao cũng còn hơn nằm chờ chết. Chẳng ai ngờ, thuốc đến bệnh , chàng cứ thế cứu chữa được rất nhiều chứng nan y, cứu sống vô số người bệnh, từ đó tiếng tăm nổi như cồn, gần xa đều biết tiếng. Rồi đến năm nọ, thành Linh Châu gặp đợt hạn hán mấy trăm năm chưa từng có, đất đai nứt nẻ, sông suối cạn khô, đến nước giếng cũng gần như hết sạch. Dân chúng trong thành phải đào giếng sâu tới mười mấy trượng mà cũng chẳng có chút hơi ẩm, cao vầng dương đỏ rực nóng hầm hập, lửa độc bức xuống, chẳng đếm nổi bao nhiêu người nghèo phải chết khát. Nắng nóng khiến cho các tử thi thối rữa sinh ra dịch bệnh. Từ vùng phồn hoa giàu có, trận hạn hán gần như biến nơi đây thành tòa thành chết chóc. Quan lại, dân chúng trong toàn thành đều tụ tập ở miếu Long vương cầu mưa. Ngôi miếu này tuy thờ Long vương của khắp tứ hải ngũ hồ, song vị nào hiển linh ban mưa xuống. Lúc ấy, Đàm công tử mới đem con mèo bốn tai đến trước miếu Long vương, với mọi người rằng, trong xà gỗ của tòa đại điên miếu Long vương có con "tằm lửa" hút hết khí nước trong mạch đất, nếu phá hủy ngôi miếu này hạn hán dứt được. Quân dân Linh Châu tuy khao khát mưa xuống nhưng đời nào dám làm chuyện báng bộ thánh thần như thế. Lời của Đàm công tử khiến đám đông nổi giận, bị họ đuổi khỏi thành. Đêm hôm đó, miếu Long vương trong thành phát hỏa, bị ngọn lửa thiêu rụi còn mảnh ngói. Có người trông thấy mấy con mèo hoang đẩy đổ chân đèn khiến miếu bắt lửa. Dân chúng ngờ rằng do Đàm công tử sai khiến, định bắt trói chàng giải đến nha môn hỏi tội. Chẳng ngờ, bỗng nghe ầm cái, sấm chớp nổi lên, mây đen bốn bề kéo đến, cơn móc ngọt từ trời đổ xuống. Mọi người lúc ấy mới biết trận hạn này quả là từ miếu Long vương mà ra, lúc trước trách lầm người tốt. Từ đó về sau, ai nấy đều coi Đàm công tử như thần tiên. Người trong thành Linh Châu bất kể già trẻ trai , giàu nghèo sang hèn đều tranh nhau uống Miêu nhi dược của Đàm công tử để mong khỏe mạnh, sống lâu, gia đình bình an vô . Ngoài việc xem bệnh bốc thuốc, có người còn đến hỏi chàng về việc họa phúc, thường quẻ bói gieo ra là đúng. Vài năm sau, Đàm công tử đem con mèo bốn tai rời khỏi Linh Châu vân du, biết về sau thế nào. Bách tính Linh Châu đều bảo chàng đắc đạo thành tiên, liền xây dựng ngôi đền trong thành để cúng dường bọn mèo khoang Linh Châu. Từ khi được xây dựng, Miêu Tiên từ hương lửa ngày càng thịnh vượng, mấy trăm năm dứt, thường hiển nhiều việc linh dị, tục sùng bái mèo ở địa phương này cũng theo đó mà rất thịnh, vì vậy, câu chuyện này đến nay vẫn còn lưu truyền lại. Việc cũ của Miêu Tiên, thực thực hư hư, hoang đường kỳ lạ, ít thấy đời, nghe tuy hay nhưng vị tất có thực. Trong truyền thuyết có đề cập đến cả "Nho, Thích, Đạo", tao giáo lục chúng, công là do phong khí của người dân địa phương vốn thế. Lão Thiết Trung hết sức tin vào câu chuyện. Lão chỉ vào sau trong ngõ, : "Hòe viên xây dựng nền đất của miếu Long vương khi xưa, vốn là khu nhà ma. Các người đương đêm vào đó phải hết sức cẩn thận, chỉ mong Miêu Tiên gia hiển linh phù hộ cho các ngươi bình an vô . Ta già cả nhát gan, tiễn các ngươi thêm được nữa, chúng ta từ biệt ở đây thôi." đoạn, lão đưa cái đèn lồng cho bọn Trương Tiển Biện, rồi lụi cụi quay người bỏ . Trương Tiểu Biện và Tôn Đại Ma Tử đều là hạng lưu manh to gan, lại có chút thủ đoạn côn đồ, trong đầu toàn nghĩ vào trong Hòe viên là phát tài to, thèm để tâm xem Thiết Trung gì, dẫn theo Tiểu Phượng và con mèo đen, giơ đèn lồng rảo bước đến thẳng trước cửa Hòe viên, lấy chìa khóa mở cửa. Chỉ thấy bên trong là khu vườn rất lớn, cửa nẻo thâm nghiêm, đình đài liền nhau, tuy phải là tiên phủ ở trời nhưng kể cũng là nhà giàu có ở nhân gian. Trong đêm đen, Hòe viên yên lặng u ám, ba bề bốn bên tiếng động, chỉ thấy dưới ánh trăng sáng, mặt đất trải màu bàng bạc, đình đền đài tạ, hoa cỏ dưới ánh trăng toát lên vẻ thê lương, lạnh lẽo. Trương Tiểu Biện vào đến nơi này, trống ngực đập thình thịch, tự nhủ Lâm Trung Lão Quỷ chỉ bảo mang con mèo đen đến nhà ma là có thể đào lên núi vàng, núi bạc, còn các chi tiết khác lại dặn dò gì. rốt cuộc làm cách nào để lấy được cáo kho báu kia. Chuyến này là lành hay dữ còn phải trông vào số vận của Trương Tam gia ta nữa. Thấy Hòe viên có rất nhiều đình đài lầu các, biết bắt tay từ đâu, đành mở gian chính ra bước vào. Nhưng bên trong mạng nhện giăng đầy, bụi phủ khắp nơi, đúng là lâu có người qua lại. Các đồ đạc bài trí trong phòng bị khiêng sạch từ lâu, ba người tìm góc, quét tước, lau dọc qua loa rồi ngồi xuống, chia nhau mấy mẫu lương khô còn lại, định lót dạ trước rồi mới xem xét tiếp các nơi trong khuôn viên. Vất vả từ sáng tới giờ, cả ba đói lắm rồi, lúc đó cắm cúi ăn như thuồng luồng, ai với ai câu nào. ăn dở được nửa chợt nghe tiếng trẻ khóc từ sau nhà vọng ra. Tiếng khóc thê lương cứ nổi lên từng chặp, lúc gần lúc xa. Con mèo đen rất cảnh giác, vốn cuộn tròn mặt đất, vừa nghe tiếng động, lập tức động đậy đôi tai soạt cái đứng dậy, hai mắt vằn đỏ. Điệu bộ của nó như sắp có kẻ địch lớn, toát lên vẻ sợ hãi tột độ. Trương Tiểu Biện nghe thấy ràng, lại thêm phen kinh hoảng, vừa sợ hãi vừa thấy lạ, thiếu chút nữa chết nghẹn vì miếng lương khô. trợn mắt lên, khó khắn lắm mới nuốt được xuống, thầm chửi thứ thanh quái quỷ trong ngôi nhà vườn hoang phế này, lấy đâu ra trẻ con khóc nhỉ? Tiếng khóc não ruột khiến Tiểu Phượng sợ hãi, hoảng hốt : "Chẳng lẽ trong căn nhà ma này có tiểu tác quái ư?" Trương Tiểu Biện ôm con mèo đen lên, với Tiểu Phượng: "Sợ gì chứ? Tương truyền mèo đen, chó trắng có thể trừ tà. Dù là quỷ dữ gặp chúng cũng phải kiêng nể vài phần. Nghe tiếng khóc vừa rồi có gì đó cổ quái, biết đâu chừng vàng bạc chôn giấu trong vườn thành tinh rồi cũng nên." Tôn Đại Ma Tử : "Sở dĩ thế gian này có ma quỷ quái, phần nhiều là do lòng người bất bình mà ra. Cái gọi là chính thắng tà tức là nếu trong lòng có gì khuất tất dẫu rằng ma quỷ có cũng chẳng đáng sợ gì!" Vừa , gã vừa nắm chặt cây gậy trong tay, lấy thêm can đảm, lần về phía tiếng khóc ở đằng sau nhà. Sau nhà là vùng rừng cây hoang vu, trồng hàng trăm gốc hòe, nhưng nay quá nửa chết khô. Những chạc cây khô lởm chởm dưới ánh trăng như những bóng ma dữ tợn. Cả vùng toàn là những lùm cỏ dại lúp xúp, tường rêu nứt nẻ, có lấy tiếng giun dế. Trong gian chết chóc ấy, chỉ có tiếng khóc trẻ con vọng lại từ trong đám cỏ cây rậm rạp, lúc gần, lúc xa. Thời xưa từng có rất nhiều truyền thuyết kể về việc bạc chôn dưới đất hóa thành tinh. Bảo rằng, trong những viện lớn phủ to của các nhà giàu quyền quý, thường có chôn giấu các hố bạc hố vàng, đề phòng đời sau con cháu phá tán hết gia sản. Nhưng bạc vàng đó chôn dưới đất quá lâu, vật già sinh biến, liền hóa thành người tác quái, dân gian gọi là: "Ngân phách". Trương Tiểu Biện bị tiền bạc làm cho mê muội, đoán chắc ấy là do trong nhà ma giấu bạc, chốn vườn hoang chôn vàng, lại cho rằng tiếng khóc đó nhất định là điềm của đóng vàng bạc chôn lâu ngày, liền giơ đèn lồng, rảo bước vạch cỏ vén cây, xăm xăm về phía lùm hòe rậm rạp. Tôn Đại Ma Tử cũng là kẻ thô lỗ, biết trời cao đất dày là gì, gã ỷ mình biết mấy đường quyền cước, liền xách gậy sánh vai cùng Trương Tiểu Biện tiến đến, định bụng "gậy đánh cho nguôi cơn thịnh nộ, côn vung để trợ sức thần uy". Nào ngờ vừa phạt đám cây khô lá úa trước mặt, liền thấy trong lùm hòe có căn lầu gỗ hai tầng, ngói biếc cột son, chạm trổ tinh xảo, nhưng cửa sổ và cửa ra vào còn nguyên vẹn, lộ vẻ hoang phế. Tiếng trẻ con khóc đúng là vọng lại từ bên trong căn lầu này. Ba người dừng chân trước căn lầu, nghe tiếng khóc rất gần, trong lòng hồi hộp, cả ba vừa nghi ngại vừa sợ sệt, chưa quyết định có nên xông vào bên trong xem cho thấy trong chỗ góc lầu tối như mực, có từng đám trắng lóa nhúc nhích, đúng chỗ ấy lại có ánh trăng nên là vật gì. Có câu rằng, tiền làm hoa mắt, sắc khiến rối lòng, Trương Tiểu Biện kia mấy đời nghèo đói, trong đầu chỉ biết có mỗi chữ tiền, nào biết trong căn lầu này nguy hiểm ra sao, liền cất tiếng hỏi: "Cháu chắt nhà ai chết khổ chết sở mà cứ khóc um lên mãi thế?", đoạn giơ ngọn đèn lồng rọi về phía trước. Dưới ánh đèn, cả ba đều nhìn thấy thể. thấy thôi, vừa mới thấy liền tức tim đập chân run, đờ ra biết trời đất trăng sao gì nữa. ra trong căn lầu tối đen như mực ấy nào có đâu Ngân tinh, Ngân phách, chỉ có đứa bé béo trắng nằm sấp, ước chừng tám chín tháng tuổi, toàn thân trần truồng mảnh vải, cổ còn đem cái khóa bạc Trường mệnh để lấy khước. Thằng bé khóc hu hu, thanh nghẹn ngào trong cổ họng, vừa thấy ánh đèn chớp lên, nó lập tức chuyển từ buồn sang vui, phá lên cười "ha ha ha" cái quái dị, rồi bò lại phía cửa lầu nhanh như cơn gió, thoắt cái đến trước mặt ba người bọn Trương Tiểu Biện. Có câu rằng: "Họ Lâu vườn cũ có ma, lên đòi mạng canh ba đêm nay." Muốn biết bọn Trương Tiểu Biện gặp phải nguy hiểm gì trong Hòe viên, đợi hồi sau . Hồi thứ 5: Lầu Đũa Thường có câu: "Xưa nay người mất, hồn còn; huống chi những kẻ ngậm hờn thác oan". Lại , đương lúc canh ba đêm đó, trong căn lầu côi ở Hòe viên, bò ra đứa bé trai đầu gắn dây đỏ, cổ đeo khóa bạc, ba người bọn Trương Tiểu Biện sợ quá, trơ mắt há mồm đứng ngây tại chỗ, ba hồn bảy vía lên mây, còn biết nên làm gì nữa. Lúc ấy, con mèo đen như có linh cảm, đột nhiên kêu "meo, meo" mấy tiếng, đôi mắt mèo sáng rực lên trong đêm tối như đốm lửa. đứng đờ đẫn, Trương Tiểu Biện và Tôn Đại Ma Tử nghe thấy tiếng mèo bên cạnh như tiếng sét ngang tai, lập tức giật mình hồi thần trở lại, nghĩ thầm, Hòe viên nhà họ Lâu đúng là nơi nguy hiểm, nếu lúc ấy bị thằng chết oan đó quấn vào, chỉ e cả đời này thể ngóc đầu lên được. Ở đất Linh Châu, tuy rằng mười dặm khác làng, năm dặm chung tục, nhưng tục mèo đen trừ được tà ma có từ xưa, ai nấy đều biết. Trương Tiểu Biện nghĩ đến điều này, định ném con mèo đen ra ngăn lại, làm thôi, làm phải dứt khoát, đây gọi là đánh trước thương lượng sau. Thế nhưng, chỉ thấy mắt hoa lên cái, đứa trẻ trần trùng trục ấy bỗng tránh sang bên, trong nháy mắt biến mất còn tung tích. Sâu bên trong căn lầu tối đen như mực trông thấy gì, chẳng nó nấp vào đâu. Trương Tiểu Biện và Tôn Đại Ma Tử vừa kinh hoàng vừa thấy lạ, chẳng hiểu là việc quái quỷ gì diễn ra, chẳng lẽ nơi này có ma quỷ ? Song cả hai đều nhất quyết cho rằng, trong Hòe viên có chôn tiền bạc châu báu, đương khi cao hứng, cây muốn lặng nhưng gió chẳng dừng, làm sao chịu bỏ qua? Vậy là cả hai giơ cao ngọn đèn lồng, bấm bụng vào bên trong lầu thám thính đến cùng. Tiểu Phượng có cái gan liều mạng đó, thấy trong lầu có ma, ả rụng rời chân tay, cộng thêm cả ngày chịu đựng sợ hãi, lại chưa ăn được chút gì cho ra hồn, người hết sức yếu nhược, lập tức ngã lăn ra đất, bất tỉnh nhân . Tôn Đại Ma Tử là người trượng nghĩa, thấy Tiểu Phượng ngã lăn ra bất tỉnh, vội quay lại đỡ, rối rít gọi Trương Tiểu Biện: "Tam đệ, ả Tiểu Phượng này sợ hãi quá ngất xỉu rồi, để mặc ở đây chết mất." Trương Tiểu Biện giậm chân chửi bới: "Mụ Vương quả phụ trốn chồng đẻ ra con giặc cái này, chuyên làm hỏng đại của Tam gia ta!" Nhưng, thấy Hòe viên u, lạnh lẽo, oán khí đầy trời, trong lòng cũng khỏi run sợ, mình có các vàng cũng dám vào bên trong căn lầu, đành giúp Tôn Đại Ma Tử khiêng Tiểu Phượng chạy nhanh ra ngoài cổng. Chẳng ngờ cả bọn như kiến bò chảo lửa, chạy mạch ngừng chân. Chỉ thấy đầy trời mây tối trăng lu, bốn phía gió rào rạt, trong Hòe viên hoang vu vắng lặng, cành khô lắc lư rào rạo, trong đêm khuya nghe như có vô số trẻ con nấp ở khắp nơi rền rĩ khóc. Khu vườn hoang nhà họ Lâu to lớn như thế nhưng có nơi nào yên ổn, chỉ còn cách cướp đường chạy thẳng ra ngoài. Cả bọn trốn tới Miêu Tiên từ ở đầu đường mới dám ngừng chân. Quá nửa đêm, trong ngôi đền cổ này thường có bầy mèo hoang tụ tập đông đúc. Bọn mèo hoang nằm xà, mái, tò mò theo dõi ba người khách mời. Trương Tiểu Biện và Tôn Đại Ma Tử mỗi người chân tay đặt Tiểu Phượng lên bệ thờ phủ đầy bụi bặm, miết vào nhân trung, xoa bóp cho thông khí hoạt huyết, hì hụi lúc mới cứu tỉnh được ả. Sắc mặt Tiểu Phượng vẫn nhợt nhạt, vừa tỉnh dậy khóc: "Hai người bị mua đưa đường, quỷ dẫn lối hay sao? Khu nhà đó biết xảy ra án mạng gì mà bao nhiêu hồn vẫn vất vưởng, tan, để rồi lên con ma hung ác như thế. Giờ giữ được mạng chạy ra là tốt rồi, nhất thiết chớ quay lại tìm vàng bạc châu báu làm gì." Tôn Đại Ma Tử : "Xem ra hồn ác quỷ là có , hơn nữa đứa bé đó chắc bị chết oan, chỉ e người nhà nó biết tình, khiến nó đến nay cũng siêu thoát được. biết chừng, bên trong có cái án thiên cổ kỳ oan. Nếu để cho chúng ta nhìn thấy, nhất định là muốn chúng ta tìm ra lẽ phải trái hộ nó, làm sao có thể khoanh tay đứng nhìn được? Tiểu Phượng là đàn bà con , cần phải vào chỗ nguy hiểm như thế, cứ ở lại đây chờ mỗ và Trương Tam đệ thăm dò phen nữa cho ngọn ngành coi sao." Trương Tiểu Biện tuy hơn hai người kia hai tuổi, nhưng xét về lọc lõi cơ trí, khả năng tùy cơ ứng biến hơn hẳn bọn đồng trang lứa, thường có những ý nghĩ tự tung tự tác mà vẫn tưởng là thông minh. Lúc ấy, xem xét lại kỹ lưỡng tình, thấy trừ đứa bé trong căn lầu đó ra, Hòe viên dường như còn có rất nhiều tiếng ma trẻ con khóc đêm, việc hề đơn giản. Nếu bảo trong nhà hoang co ma cũng hợp lý, nhưng trong đám hòe rậm rạp mà có nhiều trẻ chết đến như vậy ràng có nhiều điều quái gở. Theo lẽ thường mà , trẻ con loạn nhà là điềm gở, khiến nhà tan cửa nát, nhưng việc trong Hòe viên chắc còn nhiều khúc mắc. Từ thuở , Trương Tiểu Biện theo lão đạo sĩ vân du đoán quẻ, từng tai nghe mắt thấy nhiều chuyện khác thường, đồng thời lại tin chắc mười mươi mình gặp được tiên nhân trong mộ Kim quan, đến nắm mơ cũng mơ thấy vớ được món tiền bạc lớn trong Hòe viên này. Linh Châu là tòa thành cổ phồn hoa có lịch sử nghìn năm, từ xưa xuất rất nhiều phú thương giàu có, xa hoa. Trong xã hội cũ, nhà giàu thường có thói quen chôn của, vì vậy có vô số truyền thuyết kể tiền chôn trong nhà cổ. Vàng bạc chôn lâu dưới đất có thể hóa thành tinh, đến khi gặp được người có phúc phận, nó mới hiển linh, như thế gọi là vật về với chủ. Nghe đồn vào những năm Vĩnh Lạc triều trước, trong thành Linh Châu cũng có ngôi nhà hoang có ma. hôm mưa to gió lớn, có vị tú tài hỏng thi người ngoại tỉnh lạc đến, người này gia cảnh bần hàn, chẳng biết làm gì ngoài việc nhận viết thư thuê để mưu sinh. hôm trời đổ mưa to, tú tài nọ vô ý mới vào căn nhà ma trú. Tú tài mới đến đất này, tất nhiên biết hay dở thế nào, thấy phòng ốc chỉn chu liền ở lại qua đêm. Nào ngờ đến đêm, trong phòng bắt đầu có ma quậy phá. Ngọn nến đầu giường vô duyên vô cớ sáng lóe lên, bầy trẻ con mặc quần áo trắng, cao đầy tấc xuyên qua khe cửa vào, có, trai có. Chúng tiền hô hậu ủng khiêng cái quan tài bé tẹo, vừa gõ chiêng trống, vừa khóc lóc ngang qua đầu giường của vị tú tài. Tú tài nọ thấy thế sợ đờ người ra, là quái vật gì, nằm nghiêng giường dám động đậy. Bỗng thấy có người tí hon trong đám hiếu đến đầu giường dừng chân ta hiệu cả bọn ngừng khóc. Chúng nhíu mày trợn mắt, đột nhiên xôn xao hẳn lên. Bên tai tú tài dường như nghe bọn chúng hỏi nhau: "Sao hôm nay trong phòng lại có thấy người sống nhỉ?" Tú tài sợ rụng rời, bỗng thấy người đàn bà tí hon mặc áo sô gai từ trong bọn chạy lại, tuy thân hình tày gang nhưng hết sức xinh đẹp, thần thái kiều diễm, trang điểm tươi tắn. Nào ngờ, nó trèo lên giường, chẳng hỏi đầu đuôi gì lập tức chỉ vào mũi tú tài, mắng chửi toàn những lời lẽ thô tục, bẩn thỉu. Tú tài vốn là thư sinh nhu nhược, đương bị mắng như tát nước vào mặt nhưng cũng dám cãi lại, chỉ cầu xin tha mạng. Bọn người lùn nọ đều xúm lại, mồm năm miệng mười chửi bới, bảo là, nơi nhà của thần tiên này đâu phải là chỗ cho bọn phàm phu tục tử mặc sức ra vào, nếu ăn tươi nuốt sống tên này làm sao cho hết cơn tức. Tú tài khổ sở van vỉ hồi mới có kẻ cất tiếng: "Muốn sống mà về cũng khó, có điều chủ nhân nhà chúng ta mới cưỡi hạc về trời, bây giờ đưa linh cữu tới đây, thằng khố rách áo ôm nhà ngươi mau đến trước quan tài rập đầu mấy cái, kêu khóc mấy câu nghe lọt tai. Nếu bà chủ nhà chúng ta mỉm cười tức là tha cho tính mạng, chỉ đánh cho trận nên thân còn lại tạm giữ cái đầu cổ cho nhà ngươi." Tú tài thấy có đường sống, nào dám tuân theo, lập tức đứng dậy đến trước cái quan tài bé tẹo, cung kính rập đầu, kêu: "Đại tiên gia gia". Bọn người lùn mặc áo sô dường như muốn gây khó dễ, lắc đầu lia lịa, : "Nhà ta vốn là thần tiên. Xưng hô là đại tiên tuy cũng tôn quý, nhưng nhàm quá, mới mẻ gì." Tú tài chỉ sợ chúng hối lại ăn tươi nuốt sống mình, liền vội đổi giọng vái rằng: "Trước linh cữu của hiền đại vương, xin nhận của tiểu nhân lạy." Đám lùn lập tức nổi giận: " được gọi là đại vương, đại vương tôn quý bằng đại tiên, thằng khố rách áo ôm này dám khinh chúng tao biết gì phải ?" Đúng là: "Vận hết hầu khinh chủ; Số xui quỷ nạt người." Tú tài nọ nhẫn nhục chịu chì chiết, lăng nhục mà dám phản ứng lại nửa lời, đành van vỉ: "Liệt vị đại tiên gia thứ tội, tiểu nhân thực nghĩ ra cách xưng hô thế nào, chẳng lẽ... chẳng lẽ gọi là Vạn tuế gia mới hợp ý?" Đám người lùn hung ác vẫn léo nhéo thôi, tranh nhau : "Vạn tuế gia là cách xưng hô với Hoàng thượng, chúng ta là hàng tiên, thích danh hiệu của đám quân vương trần thế. Xem ra, nhà ngươi phải là thằng mọt sách hết thuốc cứu chữa, bây giờ để chúng ta dạy bảo ngươi phen, ngươi cứ tôn chủ nhân nhà ta là Chí Thánh Chí Hiền lão phu tử là được rồi." Tới lúc này, đến lượt tú tài nổi giận. Gã đọc sách nhiều tới mức hủ lậu, chẳng cần biết thời thế, dưới thế nào, mà chỉ biết tôn sư trọng đạo, coi sách thánh hiền quý hơn cả tính mạng của bản thân, rập đầu van xin tha mạng cũng được, nhưng bầy quái mà dám vọng ngôn đòi ngang hàng với thánh hiền của đạo Nho ư? Gã nghe thấy thế, lập tức đùng đùng nổi giận, trong lòng tức tối, đứng phắt dậy, rút chiếc giày trỏ vào mắng: "Cha tiên nhân chúng bay, dám sỉ nhục đạo Nho ta!" Vừa mắng chửi, gã vừa cầm giày vụt tới tấp vào đám quái nọ, đuổi dạt cả ra, đến đứa được gọi là bà chủ cũng bị đập nát thành đống thịt." Bọn lùn đưa đám thất sắc, vội vã kéo nhau chạy qua khe cửa ra ngoài. là: "Cứ tưởng thà dễ dọa, đến khi họ tức, gớm chừng nào". Vị tú tài giận lắm, như giao long gặp mưa, như hổ báo giương nanh, lao như điên đuổi theo đánh, chạy đến gian bếp thấy đám lùn đều chui vào khe nứt chum nước rồi biến mất. Tú tài lúc hăng tiết, liền thuận thế đập tan chum nước, thấy ở đáy chum bị thủng, bên trong chẳng có vật gì nhưng liền ở dưới là cái hố, trong hố toàn là vàng ròng. Gã quay lại gian phòng ngủ lúc nãy, thấy cũng có nhiều vàng bạc vung vãi, mới vỡ lẽ ra hồn phách của vàng bạc hóa thành tinh giở trò trêu ghẹo. Gã nhớ lời Khổng Tử : "Vật già hóa quái", trước đây vẫn thấy khó hiểu, giờ mới biết ra đúng là có chuyện như thế . Xem ra người xưa thực cấm có sai, cũng bởi mệnh gã có số giàu sang, coi như là vật gặp được chủ, cuối cùng nhờ vậy mà trở nên giàu có. Câu chuyện này lưu truyền rộng rãi trong thành Linh Châu. Lúc ấy, Trương Tiển Biện mới kể chuyện này ra, và quả quyết, những tượng quái dị trong Hòe viên quá bán là cùng dạng như thế, có lẽ cũng chôn giấu kho báu gì đó, chỉ có điều biết là loại kỳ trân dị bảo gì mà hóa thành hình hài đứa bé xuất trong đêm tối, nếu mau đào nó lên chỉ e sớm muộn biến thành tiên thành quỷ, thể tìm thấy nữa. Tôn Đại Ma Tử vốn nóng nảy, chỉ hận thể lập tức tìm ngay ra chân tướng, Trương Tiểu Biện lại càng sốt ruột chờ được đến sáng. Cả hai đều nghĩ, Tiểu Phượng là đứa trời sinh ra có mệnh nghèo hèn, phận mỏng dung nạp được món tiền to, liền để ả ở lại mình trong miếu, sau đó chuẩn bị đèn đuốc, bắt theo con mèo Kim tuyến miêu chơi đùa với đám mèo hoang, hai người mèo trở lại Hòe viên đào kho báu. Trương Tiểu Biện và Tôn Đại Ma Tử quyết tâm vứt hết mọi nghi ngại sang bên. Tính rằng sắp canh tư, tới sáng bị Thiết chưởng quầy đến thu chìa khóa, thể chần chừ thêm được nữa, đúng là "lòng vội như tên bắn, chân nhanh tựa gió bay", hai người chạy thẳng tới cửa Hòe viên, theo lối cũ tìm đến căn lầu vắng trong đám cỏ cây rậm rạp đằng sau nhà. Căn lầu lúc ấy im ắng chẳng thấy bóng ai. Hai người, trước sau giơ đèn mò vào, thấy dưới chân khác lạ dường như có vật gì đó cộm lên, liền soi đèn nhìn thử, hóa ra trong phòng vương vãi rất nhiều đũa. Đám đũa nằm ngổn ngang, cũ có, mới có, chẳng chiếc nào giống chiếc nào, mà đến tìm cho đủ đôi cũng khó. Có chiếc thô ráp giản đơn mà nhà bình dân sử dụng, cũng có chiếc đẹp đẽ cầu kỳ của những nhà giàu ngang nước, chỉ nhìn thoáng qua thấy sừng tê, gỗ mun, tre, ngà voi, vàng bạc... đủ thứ chất liệu khác nhau. Trương Tiểu Biện sinh nghi, sao trong Hòe viên lại ngổn ngang vung vãi hàng trăm loại đũa thế này? Nhất thời cũng sao hiểu nổi, chỉ ngầm thấy có điều hay, liền giơ đèn soi xung quanh. Ngay lúc ấy, phía sau chợt vang lên tiếng khóc trẻ con, Trương Tiểu Biện và Tôn Đại Ma Tử hoàn toàn bất ngờ, khỏi có chút kinh hoàng, vội quay người về phía phát ra thứ thanh đó, vừa nhìn lại càng thêm kinh ngạc. Hóa ra ở góc sau cửa có cái hang, thò tay lại gần thăm dò, chỉ thấy từng trận gió ù ù ập tới, tiếng khóc từng đợt chính là vẳng ra từ trong hang này. Trương Tiểu Biện ôm chặt con mèo đen ghé người sát cửa hang nhìn xuống. Căn lầu này tối om như mực, nếu lại gần chắc hẳn khó phát ra phía sau cửa có cái hang. Con mèo đen đến cửa hang bỗng lộ vẻ bất an, lông tơ đuôi xù cả lên, kêu "ngao ngao", định tụt xuống bỏ chạy. Hai tên Trương, Tôn lưu ý đến điều đó, ngược lại còn nghĩ: "Thằng ở truồng lúc nãy có thể chui vào hang đất rồi, chỗ này là chỗ nào?" rồi lại nghĩ: "Nam nhi nếu có chí làm giàu uổng cho tấm thân bảy thước. Giờ gò được nữa, dù đây là quỹ điện của Sâm La Địa phủ cũng phải vào xem thử chuyến rồi mới tính sau." Hai kẻ nghèo đói bọn Trương Tiểu Biện và Tôn Đại Ma Tử, ngờ rằng rừng vàng biển bạc ở ngay trước mặt, khác nào ruồi nghe hơi mật, lòng nóng như lửa đốt, còn chuyện gì mà dám làm nữa? Hai chữ "sinh tử" sớm bỏ khỏi đầu, cả hai lập tức lần theo tiếng khóc, giơ ngọn đèn vào trong hang, mà chẳng hề hay biết chuyến này lại là: "Nộp mình đến cửa hung thần, Miệng hùm hang cọp đem thân gieo vào". Muốn biết thể ra sao, xin chờ hạ hồi phân giải.
Hồi thứ 4: Trẻ Con Loạn Nhà Lại , chú tiểu quét chùa lĩnh pháp chỉ, vội vã ra khỏi sơn môn, cứ thế tìm đến quá nửa đêm mới thấy con mèo già lở loét, liền ôm nó về Bỉ Lôi đường, than thở. "Đáng thương thay con nghiệt súc biết gì! Chẳng hiểu mày đắc tội với lão thiền sư ra sao mà liên lụy đến cả tiểu tang. Hôm nay thể kết liễu tính mạng của mày, rồi ta tụng kinh siêu độ cho mày về Tây phương cực lạc... " Đoạn chú tiểu nghiến răng ném con mèo xuống đầm cho chết, rồi vớt xác nó đem chôn vào khu rừng rậm phía sau núi, sau đó mới quay về chùa bẩm báo với Đàm Chân trưởng lão. Thường có câu: "Nhập môn chớ hỏi điều hay dở, cứ xem sắc mặt biết ngay liền". Đàm Chân trưởng lão trông thần sắc của chú tiểu, hiểu rằng xử lý ổn thỏa. Thấy trời sáng , hòa thượng liền hỏi chú tiểu làm thế nào giết con mèo, lúc đó trời sáng chưa? Chú tiểu quét chùa phạm sát giới, trong lòng rất hoảng hốt, nhớ lại lúc dìm con mèo già, dường như trời vừa mới hửng, cửa thành còn chưa mở, đứng trước mặt Đàm Chân trưởng lão, chú tiểu dám giấu giếm điều gì, nhất nhất kể lại hết. Đàm Chân trưởng lão nghe xong, lòng thầm nghĩ: "Đúng là ý trời, sức người thể cưỡng cầu cho được." Trước đó, vì thiền cơ thể cho tỏ tường, khó thẳng với chú tiểu chân tướng mọi . ra nhà Phật giảng lẽ tuần hoàn nhân quả, con mèo già lở loét đó tuy bị đọa trong súc sinh đạo nhưng cũng có đạo hạnh. Mỗi lần tăng nhân trong chùa Bỉ Lôi thắp hương tụng kinh, tiếng mõ cá vang lên, con mèo già lại theo thanh mà đến, nằm phục xà nhà trước điện lắng nghe kinh văn. Đàm Chân trưởng lão dùng tuệ nhãn soi xét vật, biết rằng con mèo này có đạo cốt, thành Phật được, song nhà Phật coi chúng sinh thảy như quyến thuộc, nó nghe kinh nhiều năm, trước sau cũng kết thành thiện quả, chỉ có điều phải đầu thai thành người ở chốn nhân gian, làm nên số việc mới đắc đạo được. Đúng vào đêm hôm đó, trong thành Linh Châu, có sản phụ lâm bồn, thai nhi lại xoay ngang, tính mệnh của sản phụ chỉ còn trong phút chốc, sắp sửa thây hai mạng đến nơi. Bà đỡ và cả thầy lang sản lúc ấy bó tay còn cách nào giúp được. Người ngoài hiểu gì, chỉ có Đàm Chân trưởng lão biết , nếu con mèo này chết sản phụ kia đẻ được, thế nên sai chú tiểu kết liễu nó, nhưng ngờ, trời xui đất khiến thế nào lại giết nhầm giờ, chỉ còn cách trông chờ vào số mệnh của con mèo già đó ra sao mà thôi. Sáng sớm ngày hôm đó, quả nhiên có nhà Đàm viên ngoại mừng sinh được quý tử, đặt tên là "Bách Trung". Đàm gia là nhà có truyền thống thư hương nổi tiếng thành Linh Châu, đến đời Đàm công tử lại độc đinh, nghìn mẫu ruộng chỉ còn mình chàng thừa kế. Chẳng ngờ tiểu công tử từ lúc sinh ra, toàn thân lở loét, danh y khắp nơi cũng chữa trị được. Có điều, chàng từ thông minh đỉnh ngộ, sách vở chỉ cần liếc qua là nhớ cả, từ bé có chí thi đoạt bảng vàng. Nhưng hiềm nỗi học tài thi phận, dẫu trong bụng có lời văn như gấm, chữ viết đẹp như phượng múa rồng bay, chàng vẫn có số đậu khôi nguyên, lần nào thi cũng hỏng, may nhờ gia sản giàu có nên đường kinh kế mới đáng lo. Đàm công tử có đam mê kỳ lạ, bình sinh rất thích nuôi mèo, các cuốn Miêu kinh, Miêu phổ thường xem chẳng rời tay, lại còn bỏ ra rất nhiều tiền bạc, mời người từ lưỡng Quảng về để xem tướng mèo. Mấy lần đều thi trượt khiến chí công danh của chàng dần nguội lạnh, về sau chỉ dành hết tinh thần sức lực vào việc nuôi mèo mà thôi. Chàng phá tán hết gia sản, cả ngày chỉ chơi đùa với đàn mèo. Ở Linh Châu có truyền thuyết từ xa xưa về mèo già biết tiếng người, mà Đàm công tử hễ gặp mèo là hỏi: "Ngươi có biết ?" Thấy con mèo hoang qua mái nhà, chàng cũng phải đuổi theo hỏi: "Lang quân mái xin ngừng bước, người có biết ?" Thế nhưng bất kể mèo nhà hay mèo hoang xưa nay đều chẳng buồn nheo mắt nhìn Đàm công tử lấy lần. Những cử chỉ quái dị ấy của chàng khiến cho đầy tớ, láng giềng đều tưởng Đàm công tử bị bệnh điên có thuốc chữa. năm nọ, Đàm công tử tản bộ ở ngoại ô, gặp con mèo hoang bốn tai hết sức hiếm thấy phì phò nằm ngủ chạc cây. Con mèo này toàn thân nồng nặc mùi rượu, dường như vừa mới uống trộm rượu ở đâu đó về, say nằm ở đây. Đàm công tử giỏi xem tướng mèo, vừa trông thấy biết con mèo này hết sức phi phàm, có lẽ là mèo tiên bốn tai hóa ra chứ chẳng chơi. Chàng thấy tò mò, liền ngồi xuống gốc cây định bụng xem cho ràng. Tới lúc mặt trời xế bóng, con mèo bốn tai mới tỉnh hơi men. Chẳng thèm để ý đến Đàm công tử ngồi dưới gốc cây, nó ngáp hơi rồi nhảy xuống, lắc mình, rồi đủng đỉnh bỏ . Đàm công tử theo con mèo vào sâu trong núi, miết mười mấy năm trời, ai cũng cho rằng chàng chết từ lâu. ngờ, Đàm công tử gặp được kỳ duyên trong núi, nhưng rốt cuộc là chàng gặp phải chuyện gì rất ít người tỏ tường. Chỉ biết rằng, khi từ trong núi trở về, chàng thường dẫn theo mình con mèo bốn tai, thường hay gọi bầy gọi bạn, tụ tập cả bầy mèo hoang lớn khắp nơi huyên náo, rao bán "Miêu nhi dược", xưng rằng chữa được bách bệnh. Người đời đa phần đều nghĩ chàng bị điên, làm gì có ai chịu uống loại thước lẩm cẩm ấy? Nhưng cũng có vài tên hành khất ăn xin bị ốm nặng có tiền chữa bệnh, đành dùng thử loại Miêu nhi dược của chàng, dù sao cũng còn hơn nằm chờ chết. Chẳng ai ngờ, thuốc đến bệnh , chàng cứ thế cứu chữa được rất nhiều chứng nan y, cứu sống vô số người bệnh, từ đó tiếng tăm nổi như cồn, gần xa đều biết tiếng. Rồi đến năm nọ, thành Linh Châu gặp đợt hạn hán mấy trăm năm chưa từng có, đất đai nứt nẻ, sông suối cạn khô, đến nước giếng cũng gần như hết sạch. Dân chúng trong thành phải đào giếng sâu tới mười mấy trượng mà cũng chẳng có chút hơi ẩm, cao vầng dương đỏ rực nóng hầm hập, lửa độc bức xuống, chẳng đếm nổi bao nhiêu người nghèo phải chết khát. Nắng nóng khiến cho các tử thi thối rữa sinh ra dịch bệnh. Từ vùng phồn hoa giàu có, trận hạn hán gần như biến nơi đây thành tòa thành chết chóc. Quan lại, dân chúng trong toàn thành đều tụ tập ở miếu Long vương cầu mưa. Ngôi miếu này tuy thờ Long vương của khắp tứ hải ngũ hồ, song vị nào hiển linh ban mưa xuống. Lúc ấy, Đàm công tử mới đem con mèo bốn tai đến trước miếu Long vương, với mọi người rằng, trong xà gỗ của tòa đại điên miếu Long vương có con "tằm lửa" hút hết khí nước trong mạch đất, nếu phá hủy ngôi miếu này hạn hán dứt được. Quân dân Linh Châu tuy khao khát mưa xuống nhưng đời nào dám làm chuyện báng bộ thánh thần như thế. Lời của Đàm công tử khiến đám đông nổi giận, bị họ đuổi khỏi thành. Đêm hôm đó, miếu Long vương trong thành phát hỏa, bị ngọn lửa thiêu rụi còn mảnh ngói. Có người trông thấy mấy con mèo hoang đẩy đổ chân đèn khiến miếu bắt lửa. Dân chúng ngờ rằng do Đàm công tử sai khiến, định bắt trói chàng giải đến nha môn hỏi tội. Chẳng ngờ, bỗng nghe ầm cái, sấm chớp nổi lên, mây đen bốn bề kéo đến, cơn móc ngọt từ trời đổ xuống. Mọi người lúc ấy mới biết trận hạn này quả là từ miếu Long vương mà ra, lúc trước trách lầm người tốt. Từ đó về sau, ai nấy đều coi Đàm công tử như thần tiên. Người trong thành Linh Châu bất kể già trẻ trai , giàu nghèo sang hèn đều tranh nhau uống Miêu nhi dược của Đàm công tử để mong khỏe mạnh, sống lâu, gia đình bình an vô . Ngoài việc xem bệnh bốc thuốc, có người còn đến hỏi chàng về việc họa phúc, thường quẻ bói gieo ra là đúng. Vài năm sau, Đàm công tử đem con mèo bốn tai rời khỏi Linh Châu vân du, biết về sau thế nào. Bách tính Linh Châu đều bảo chàng đắc đạo thành tiên, liền xây dựng ngôi đền trong thành để cúng dường bọn mèo khoang Linh Châu. Từ khi được xây dựng, Miêu Tiên từ hương lửa ngày càng thịnh vượng, mấy trăm năm dứt, thường hiển nhiều việc linh dị, tục sùng bái mèo ở địa phương này cũng theo đó mà rất thịnh, vì vậy, câu chuyện này đến nay vẫn còn lưu truyền lại. Việc cũ của Miêu Tiên, thực thực hư hư, hoang đường kỳ lạ, ít thấy đời, nghe tuy hay nhưng vị tất có thực. Trong truyền thuyết có đề cập đến cả "Nho, Thích, Đạo", tao giáo lục chúng, công là do phong khí của người dân địa phương vốn thế. Lão Thiết Trung hết sức tin vào câu chuyện. Lão chỉ vào sau trong ngõ, : "Hòe viên xây dựng nền đất của miếu Long vương khi xưa, vốn là khu nhà ma. Các người đương đêm vào đó phải hết sức cẩn thận, chỉ mong Miêu Tiên gia hiển linh phù hộ cho các ngươi bình an vô . Ta già cả nhát gan, tiễn các ngươi thêm được nữa, chúng ta từ biệt ở đây thôi." đoạn, lão đưa cái đèn lồng cho bọn Trương Tiển Biện, rồi lụi cụi quay người bỏ . Trương Tiểu Biện và Tôn Đại Ma Tử đều là hạng lưu manh to gan, lại có chút thủ đoạn côn đồ, trong đầu toàn nghĩ vào trong Hòe viên là phát tài to, thèm để tâm xem Thiết Trung gì, dẫn theo Tiểu Phượng và con mèo đen, giơ đèn lồng rảo bước đến thẳng trước cửa Hòe viên, lấy chìa khóa mở cửa. Chỉ thấy bên trong là khu vườn rất lớn, cửa nẻo thâm nghiêm, đình đài liền nhau, tuy phải là tiên phủ ở trời nhưng kể cũng là nhà giàu có ở nhân gian. Trong đêm đen, Hòe viên yên lặng u ám, ba bề bốn bên tiếng động, chỉ thấy dưới ánh trăng sáng, mặt đất trải màu bàng bạc, đình đền đài tạ, hoa cỏ dưới ánh trăng toát lên vẻ thê lương, lạnh lẽo. Trương Tiểu Biện vào đến nơi này, trống ngực đập thình thịch, tự nhủ Lâm Trung Lão Quỷ chỉ bảo mang con mèo đen đến nhà ma là có thể đào lên núi vàng, núi bạc, còn các chi tiết khác lại dặn dò gì. rốt cuộc làm cách nào để lấy được cáo kho báu kia. Chuyến này là lành hay dữ còn phải trông vào số vận của Trương Tam gia ta nữa. Thấy Hòe viên có rất nhiều đình đài lầu các, biết bắt tay từ đâu, đành mở gian chính ra bước vào. Nhưng bên trong mạng nhện giăng đầy, bụi phủ khắp nơi, đúng là lâu có người qua lại. Các đồ đạc bài trí trong phòng bị khiêng sạch từ lâu, ba người tìm góc, quét tước, lau dọc qua loa rồi ngồi xuống, chia nhau mấy mẫu lương khô còn lại, định lót dạ trước rồi mới xem xét tiếp các nơi trong khuôn viên. Vất vả từ sáng tới giờ, cả ba đói lắm rồi, lúc đó cắm cúi ăn như thuồng luồng, ai với ai câu nào. ăn dở được nửa chợt nghe tiếng trẻ khóc từ sau nhà vọng ra. Tiếng khóc thê lương cứ nổi lên từng chặp, lúc gần lúc xa. Con mèo đen rất cảnh giác, vốn cuộn tròn mặt đất, vừa nghe tiếng động, lập tức động đậy đôi tai soạt cái đứng dậy, hai mắt vằn đỏ. Điệu bộ của nó như sắp có kẻ địch lớn, toát lên vẻ sợ hãi tột độ. Trương Tiểu Biện nghe thấy ràng, lại thêm phen kinh hoảng, vừa sợ hãi vừa thấy lạ, thiếu chút nữa chết nghẹn vì miếng lương khô. trợn mắt lên, khó khắn lắm mới nuốt được xuống, thầm chửi thứ thanh quái quỷ trong ngôi nhà vườn hoang phế này, lấy đâu ra trẻ con khóc nhỉ? Tiếng khóc não ruột khiến Tiểu Phượng sợ hãi, hoảng hốt : "Chẳng lẽ trong căn nhà ma này có tiểu tác quái ư?" Trương Tiểu Biện ôm con mèo đen lên, với Tiểu Phượng: "Sợ gì chứ? Tương truyền mèo đen, chó trắng có thể trừ tà. Dù là quỷ dữ gặp chúng cũng phải kiêng nể vài phần. Nghe tiếng khóc vừa rồi có gì đó cổ quái, biết đâu chừng vàng bạc chôn giấu trong vườn thành tinh rồi cũng nên." Tôn Đại Ma Tử : "Sở dĩ thế gian này có ma quỷ quái, phần nhiều là do lòng người bất bình mà ra. Cái gọi là chính thắng tà tức là nếu trong lòng có gì khuất tất dẫu rằng ma quỷ có cũng chẳng đáng sợ gì!" Vừa , gã vừa nắm chặt cây gậy trong tay, lấy thêm can đảm, lần về phía tiếng khóc ở đằng sau nhà. Sau nhà là vùng rừng cây hoang vu, trồng hàng trăm gốc hòe, nhưng nay quá nửa chết khô. Những chạc cây khô lởm chởm dưới ánh trăng như những bóng ma dữ tợn. Cả vùng toàn là những lùm cỏ dại lúp xúp, tường rêu nứt nẻ, có lấy tiếng giun dế. Trong gian chết chóc ấy, chỉ có tiếng khóc trẻ con vọng lại từ trong đám cỏ cây rậm rạp, lúc gần, lúc xa. Thời xưa từng có rất nhiều truyền thuyết kể về việc bạc chôn dưới đất hóa thành tinh. Bảo rằng, trong những viện lớn phủ to của các nhà giàu quyền quý, thường có chôn giấu các hố bạc hố vàng, đề phòng đời sau con cháu phá tán hết gia sản. Nhưng bạc vàng đó chôn dưới đất quá lâu, vật già sinh biến, liền hóa thành người tác quái, dân gian gọi là: "Ngân phách". Trương Tiểu Biện bị tiền bạc làm cho mê muội, đoán chắc ấy là do trong nhà ma giấu bạc, chốn vườn hoang chôn vàng, lại cho rằng tiếng khóc đó nhất định là điềm của đóng vàng bạc chôn lâu ngày, liền giơ đèn lồng, rảo bước vạch cỏ vén cây, xăm xăm về phía lùm hòe rậm rạp. Tôn Đại Ma Tử cũng là kẻ thô lỗ, biết trời cao đất dày là gì, gã ỷ mình biết mấy đường quyền cước, liền xách gậy sánh vai cùng Trương Tiểu Biện tiến đến, định bụng "gậy đánh cho nguôi cơn thịnh nộ, côn vung để trợ sức thần uy". Nào ngờ vừa phạt đám cây khô lá úa trước mặt, liền thấy trong lùm hòe có căn lầu gỗ hai tầng, ngói biếc cột son, chạm trổ tinh xảo, nhưng cửa sổ và cửa ra vào còn nguyên vẹn, lộ vẻ hoang phế. Tiếng trẻ con khóc đúng là vọng lại từ bên trong căn lầu này. Ba người dừng chân trước căn lầu, nghe tiếng khóc rất gần, trong lòng hồi hộp, cả ba vừa nghi ngại vừa sợ sệt, chưa quyết định có nên xông vào bên trong xem cho thấy trong chỗ góc lầu tối như mực, có từng đám trắng lóa nhúc nhích, đúng chỗ ấy lại có ánh trăng nên là vật gì. Có câu rằng, tiền làm hoa mắt, sắc khiến rối lòng, Trương Tiểu Biện kia mấy đời nghèo đói, trong đầu chỉ biết có mỗi chữ tiền, nào biết trong căn lầu này nguy hiểm ra sao, liền cất tiếng hỏi: "Cháu chắt nhà ai chết khổ chết sở mà cứ khóc um lên mãi thế?", đoạn giơ ngọn đèn lồng rọi về phía trước. Dưới ánh đèn, cả ba đều nhìn thấy thể. thấy thôi, vừa mới thấy liền tức tim đập chân run, đờ ra biết trời đất trăng sao gì nữa. ra trong căn lầu tối đen như mực ấy nào có đâu Ngân tinh, Ngân phách, chỉ có đứa bé béo trắng nằm sấp, ước chừng tám chín tháng tuổi, toàn thân trần truồng mảnh vải, cổ còn đem cái khóa bạc Trường mệnh để lấy khước. Thằng bé khóc hu hu, thanh nghẹn ngào trong cổ họng, vừa thấy ánh đèn chớp lên, nó lập tức chuyển từ buồn sang vui, phá lên cười "ha ha ha" cái quái dị, rồi bò lại phía cửa lầu nhanh như cơn gió, thoắt cái đến trước mặt ba người bọn Trương Tiểu Biện. Có câu rằng: "Họ Lâu vườn cũ có ma, lên đòi mạng canh ba đêm nay." Muốn biết bọn Trương Tiểu Biện gặp phải nguy hiểm gì trong Hòe viên, đợi hồi sau . Hồi thứ 5: Lầu Đũa Thường có câu: "Xưa nay người mất, hồn còn; huống chi những kẻ ngậm hờn thác oan". Lại , đương lúc canh ba đêm đó, trong căn lầu côi ở Hòe viên, bò ra đứa bé trai đầu gắn dây đỏ, cổ đeo khóa bạc, ba người bọn Trương Tiểu Biện sợ quá, trơ mắt há mồm đứng ngây tại chỗ, ba hồn bảy vía lên mây, còn biết nên làm gì nữa. Lúc ấy, con mèo đen như có linh cảm, đột nhiên kêu "meo, meo" mấy tiếng, đôi mắt mèo sáng rực lên trong đêm tối như đốm lửa. đứng đờ đẫn, Trương Tiểu Biện và Tôn Đại Ma Tử nghe thấy tiếng mèo bên cạnh như tiếng sét ngang tai, lập tức giật mình hồi thần trở lại, nghĩ thầm, Hòe viên nhà họ Lâu đúng là nơi nguy hiểm, nếu lúc ấy bị thằng chết oan đó quấn vào, chỉ e cả đời này thể ngóc đầu lên được. Ở đất Linh Châu, tuy rằng mười dặm khác làng, năm dặm chung tục, nhưng tục mèo đen trừ được tà ma có từ xưa, ai nấy đều biết. Trương Tiểu Biện nghĩ đến điều này, định ném con mèo đen ra ngăn lại, làm thôi, làm phải dứt khoát, đây gọi là đánh trước thương lượng sau. Thế nhưng, chỉ thấy mắt hoa lên cái, đứa trẻ trần trùng trục ấy bỗng tránh sang bên, trong nháy mắt biến mất còn tung tích. Sâu bên trong căn lầu tối đen như mực trông thấy gì, chẳng nó nấp vào đâu. Trương Tiểu Biện và Tôn Đại Ma Tử vừa kinh hoàng vừa thấy lạ, chẳng hiểu là việc quái quỷ gì diễn ra, chẳng lẽ nơi này có ma quỷ ? Song cả hai đều nhất quyết cho rằng, trong Hòe viên có chôn tiền bạc châu báu, đương khi cao hứng, cây muốn lặng nhưng gió chẳng dừng, làm sao chịu bỏ qua? Vậy là cả hai giơ cao ngọn đèn lồng, bấm bụng vào bên trong lầu thám thính đến cùng. Tiểu Phượng có cái gan liều mạng đó, thấy trong lầu có ma, ả rụng rời chân tay, cộng thêm cả ngày chịu đựng sợ hãi, lại chưa ăn được chút gì cho ra hồn, người hết sức yếu nhược, lập tức ngã lăn ra đất, bất tỉnh nhân . Tôn Đại Ma Tử là người trượng nghĩa, thấy Tiểu Phượng ngã lăn ra bất tỉnh, vội quay lại đỡ, rối rít gọi Trương Tiểu Biện: "Tam đệ, ả Tiểu Phượng này sợ hãi quá ngất xỉu rồi, để mặc ở đây chết mất." Trương Tiểu Biện giậm chân chửi bới: "Mụ Vương quả phụ trốn chồng đẻ ra con giặc cái này, chuyên làm hỏng đại của Tam gia ta!" Nhưng, thấy Hòe viên u, lạnh lẽo, oán khí đầy trời, trong lòng cũng khỏi run sợ, mình có các vàng cũng dám vào bên trong căn lầu, đành giúp Tôn Đại Ma Tử khiêng Tiểu Phượng chạy nhanh ra ngoài cổng. Chẳng ngờ cả bọn như kiến bò chảo lửa, chạy mạch ngừng chân. Chỉ thấy đầy trời mây tối trăng lu, bốn phía gió rào rạt, trong Hòe viên hoang vu vắng lặng, cành khô lắc lư rào rạo, trong đêm khuya nghe như có vô số trẻ con nấp ở khắp nơi rền rĩ khóc. Khu vườn hoang nhà họ Lâu to lớn như thế nhưng có nơi nào yên ổn, chỉ còn cách cướp đường chạy thẳng ra ngoài. Cả bọn trốn tới Miêu Tiên từ ở đầu đường mới dám ngừng chân. Quá nửa đêm, trong ngôi đền cổ này thường có bầy mèo hoang tụ tập đông đúc. Bọn mèo hoang nằm xà, mái, tò mò theo dõi ba người khách mời. Trương Tiểu Biện và Tôn Đại Ma Tử mỗi người chân tay đặt Tiểu Phượng lên bệ thờ phủ đầy bụi bặm, miết vào nhân trung, xoa bóp cho thông khí hoạt huyết, hì hụi lúc mới cứu tỉnh được ả. Sắc mặt Tiểu Phượng vẫn nhợt nhạt, vừa tỉnh dậy khóc: "Hai người bị mua đưa đường, quỷ dẫn lối hay sao? Khu nhà đó biết xảy ra án mạng gì mà bao nhiêu hồn vẫn vất vưởng, tan, để rồi lên con ma hung ác như thế. Giờ giữ được mạng chạy ra là tốt rồi, nhất thiết chớ quay lại tìm vàng bạc châu báu làm gì." Tôn Đại Ma Tử : "Xem ra hồn ác quỷ là có , hơn nữa đứa bé đó chắc bị chết oan, chỉ e người nhà nó biết tình, khiến nó đến nay cũng siêu thoát được. biết chừng, bên trong có cái án thiên cổ kỳ oan. Nếu để cho chúng ta nhìn thấy, nhất định là muốn chúng ta tìm ra lẽ phải trái hộ nó, làm sao có thể khoanh tay đứng nhìn được? Tiểu Phượng là đàn bà con , cần phải vào chỗ nguy hiểm như thế, cứ ở lại đây chờ mỗ và Trương Tam đệ thăm dò phen nữa cho ngọn ngành coi sao." Trương Tiểu Biện tuy hơn hai người kia hai tuổi, nhưng xét về lọc lõi cơ trí, khả năng tùy cơ ứng biến hơn hẳn bọn đồng trang lứa, thường có những ý nghĩ tự tung tự tác mà vẫn tưởng là thông minh. Lúc ấy, xem xét lại kỹ lưỡng tình, thấy trừ đứa bé trong căn lầu đó ra, Hòe viên dường như còn có rất nhiều tiếng ma trẻ con khóc đêm, việc hề đơn giản. Nếu bảo trong nhà hoang co ma cũng hợp lý, nhưng trong đám hòe rậm rạp mà có nhiều trẻ chết đến như vậy ràng có nhiều điều quái gở. Theo lẽ thường mà , trẻ con loạn nhà là điềm gở, khiến nhà tan cửa nát, nhưng việc trong Hòe viên chắc còn nhiều khúc mắc. Từ thuở , Trương Tiểu Biện theo lão đạo sĩ vân du đoán quẻ, từng tai nghe mắt thấy nhiều chuyện khác thường, đồng thời lại tin chắc mười mươi mình gặp được tiên nhân trong mộ Kim quan, đến nắm mơ cũng mơ thấy vớ được món tiền bạc lớn trong Hòe viên này. Linh Châu là tòa thành cổ phồn hoa có lịch sử nghìn năm, từ xưa xuất rất nhiều phú thương giàu có, xa hoa. Trong xã hội cũ, nhà giàu thường có thói quen chôn của, vì vậy có vô số truyền thuyết kể tiền chôn trong nhà cổ. Vàng bạc chôn lâu dưới đất có thể hóa thành tinh, đến khi gặp được người có phúc phận, nó mới hiển linh, như thế gọi là vật về với chủ. Nghe đồn vào những năm Vĩnh Lạc triều trước, trong thành Linh Châu cũng có ngôi nhà hoang có ma. hôm mưa to gió lớn, có vị tú tài hỏng thi người ngoại tỉnh lạc đến, người này gia cảnh bần hàn, chẳng biết làm gì ngoài việc nhận viết thư thuê để mưu sinh. hôm trời đổ mưa to, tú tài nọ vô ý mới vào căn nhà ma trú. Tú tài mới đến đất này, tất nhiên biết hay dở thế nào, thấy phòng ốc chỉn chu liền ở lại qua đêm. Nào ngờ đến đêm, trong phòng bắt đầu có ma quậy phá. Ngọn nến đầu giường vô duyên vô cớ sáng lóe lên, bầy trẻ con mặc quần áo trắng, cao đầy tấc xuyên qua khe cửa vào, có, trai có. Chúng tiền hô hậu ủng khiêng cái quan tài bé tẹo, vừa gõ chiêng trống, vừa khóc lóc ngang qua đầu giường của vị tú tài. Tú tài nọ thấy thế sợ đờ người ra, là quái vật gì, nằm nghiêng giường dám động đậy. Bỗng thấy có người tí hon trong đám hiếu đến đầu giường dừng chân ta hiệu cả bọn ngừng khóc. Chúng nhíu mày trợn mắt, đột nhiên xôn xao hẳn lên. Bên tai tú tài dường như nghe bọn chúng hỏi nhau: "Sao hôm nay trong phòng lại có thấy người sống nhỉ?" Tú tài sợ rụng rời, bỗng thấy người đàn bà tí hon mặc áo sô gai từ trong bọn chạy lại, tuy thân hình tày gang nhưng hết sức xinh đẹp, thần thái kiều diễm, trang điểm tươi tắn. Nào ngờ, nó trèo lên giường, chẳng hỏi đầu đuôi gì lập tức chỉ vào mũi tú tài, mắng chửi toàn những lời lẽ thô tục, bẩn thỉu. Tú tài vốn là thư sinh nhu nhược, đương bị mắng như tát nước vào mặt nhưng cũng dám cãi lại, chỉ cầu xin tha mạng. Bọn người lùn nọ đều xúm lại, mồm năm miệng mười chửi bới, bảo là, nơi nhà của thần tiên này đâu phải là chỗ cho bọn phàm phu tục tử mặc sức ra vào, nếu ăn tươi nuốt sống tên này làm sao cho hết cơn tức. Tú tài khổ sở van vỉ hồi mới có kẻ cất tiếng: "Muốn sống mà về cũng khó, có điều chủ nhân nhà chúng ta mới cưỡi hạc về trời, bây giờ đưa linh cữu tới đây, thằng khố rách áo ôm nhà ngươi mau đến trước quan tài rập đầu mấy cái, kêu khóc mấy câu nghe lọt tai. Nếu bà chủ nhà chúng ta mỉm cười tức là tha cho tính mạng, chỉ đánh cho trận nên thân còn lại tạm giữ cái đầu cổ cho nhà ngươi." Tú tài thấy có đường sống, nào dám tuân theo, lập tức đứng dậy đến trước cái quan tài bé tẹo, cung kính rập đầu, kêu: "Đại tiên gia gia". Bọn người lùn mặc áo sô dường như muốn gây khó dễ, lắc đầu lia lịa, : "Nhà ta vốn là thần tiên. Xưng hô là đại tiên tuy cũng tôn quý, nhưng nhàm quá, mới mẻ gì." Tú tài chỉ sợ chúng hối lại ăn tươi nuốt sống mình, liền vội đổi giọng vái rằng: "Trước linh cữu của hiền đại vương, xin nhận của tiểu nhân lạy." Đám lùn lập tức nổi giận: " được gọi là đại vương, đại vương tôn quý bằng đại tiên, thằng khố rách áo ôm này dám khinh chúng tao biết gì phải ?" Đúng là: "Vận hết hầu khinh chủ; Số xui quỷ nạt người." Tú tài nọ nhẫn nhục chịu chì chiết, lăng nhục mà dám phản ứng lại nửa lời, đành van vỉ: "Liệt vị đại tiên gia thứ tội, tiểu nhân thực nghĩ ra cách xưng hô thế nào, chẳng lẽ... chẳng lẽ gọi là Vạn tuế gia mới hợp ý?" Đám người lùn hung ác vẫn léo nhéo thôi, tranh nhau : "Vạn tuế gia là cách xưng hô với Hoàng thượng, chúng ta là hàng tiên, thích danh hiệu của đám quân vương trần thế. Xem ra, nhà ngươi phải là thằng mọt sách hết thuốc cứu chữa, bây giờ để chúng ta dạy bảo ngươi phen, ngươi cứ tôn chủ nhân nhà ta là Chí Thánh Chí Hiền lão phu tử là được rồi." Tới lúc này, đến lượt tú tài nổi giận. Gã đọc sách nhiều tới mức hủ lậu, chẳng cần biết thời thế, dưới thế nào, mà chỉ biết tôn sư trọng đạo, coi sách thánh hiền quý hơn cả tính mạng của bản thân, rập đầu van xin tha mạng cũng được, nhưng bầy quái mà dám vọng ngôn đòi ngang hàng với thánh hiền của đạo Nho ư? Gã nghe thấy thế, lập tức đùng đùng nổi giận, trong lòng tức tối, đứng phắt dậy, rút chiếc giày trỏ vào mắng: "Cha tiên nhân chúng bay, dám sỉ nhục đạo Nho ta!" Vừa mắng chửi, gã vừa cầm giày vụt tới tấp vào đám quái nọ, đuổi dạt cả ra, đến đứa được gọi là bà chủ cũng bị đập nát thành đống thịt." Bọn lùn đưa đám thất sắc, vội vã kéo nhau chạy qua khe cửa ra ngoài. là: "Cứ tưởng thà dễ dọa, đến khi họ tức, gớm chừng nào". Vị tú tài giận lắm, như giao long gặp mưa, như hổ báo giương nanh, lao như điên đuổi theo đánh, chạy đến gian bếp thấy đám lùn đều chui vào khe nứt chum nước rồi biến mất. Tú tài lúc hăng tiết, liền thuận thế đập tan chum nước, thấy ở đáy chum bị thủng, bên trong chẳng có vật gì nhưng liền ở dưới là cái hố, trong hố toàn là vàng ròng. Gã quay lại gian phòng ngủ lúc nãy, thấy cũng có nhiều vàng bạc vung vãi, mới vỡ lẽ ra hồn phách của vàng bạc hóa thành tinh giở trò trêu ghẹo. Gã nhớ lời Khổng Tử : "Vật già hóa quái", trước đây vẫn thấy khó hiểu, giờ mới biết ra đúng là có chuyện như thế . Xem ra người xưa thực cấm có sai, cũng bởi mệnh gã có số giàu sang, coi như là vật gặp được chủ, cuối cùng nhờ vậy mà trở nên giàu có. Câu chuyện này lưu truyền rộng rãi trong thành Linh Châu. Lúc ấy, Trương Tiển Biện mới kể chuyện này ra, và quả quyết, những tượng quái dị trong Hòe viên quá bán là cùng dạng như thế, có lẽ cũng chôn giấu kho báu gì đó, chỉ có điều biết là loại kỳ trân dị bảo gì mà hóa thành hình hài đứa bé xuất trong đêm tối, nếu mau đào nó lên chỉ e sớm muộn biến thành tiên thành quỷ, thể tìm thấy nữa. Tôn Đại Ma Tử vốn nóng nảy, chỉ hận thể lập tức tìm ngay ra chân tướng, Trương Tiểu Biện lại càng sốt ruột chờ được đến sáng. Cả hai đều nghĩ, Tiểu Phượng là đứa trời sinh ra có mệnh nghèo hèn, phận mỏng dung nạp được món tiền to, liền để ả ở lại mình trong miếu, sau đó chuẩn bị đèn đuốc, bắt theo con mèo Kim tuyến miêu chơi đùa với đám mèo hoang, hai người mèo trở lại Hòe viên đào kho báu. Trương Tiểu Biện và Tôn Đại Ma Tử quyết tâm vứt hết mọi nghi ngại sang bên. Tính rằng sắp canh tư, tới sáng bị Thiết chưởng quầy đến thu chìa khóa, thể chần chừ thêm được nữa, đúng là "lòng vội như tên bắn, chân nhanh tựa gió bay", hai người chạy thẳng tới cửa Hòe viên, theo lối cũ tìm đến căn lầu vắng trong đám cỏ cây rậm rạp đằng sau nhà. Căn lầu lúc ấy im ắng chẳng thấy bóng ai. Hai người, trước sau giơ đèn mò vào, thấy dưới chân khác lạ dường như có vật gì đó cộm lên, liền soi đèn nhìn thử, hóa ra trong phòng vương vãi rất nhiều đũa. Đám đũa nằm ngổn ngang, cũ có, mới có, chẳng chiếc nào giống chiếc nào, mà đến tìm cho đủ đôi cũng khó. Có chiếc thô ráp giản đơn mà nhà bình dân sử dụng, cũng có chiếc đẹp đẽ cầu kỳ của những nhà giàu ngang nước, chỉ nhìn thoáng qua thấy sừng tê, gỗ mun, tre, ngà voi, vàng bạc... đủ thứ chất liệu khác nhau. Trương Tiểu Biện sinh nghi, sao trong Hòe viên lại ngổn ngang vung vãi hàng trăm loại đũa thế này? Nhất thời cũng sao hiểu nổi, chỉ ngầm thấy có điều hay, liền giơ đèn soi xung quanh. Ngay lúc ấy, phía sau chợt vang lên tiếng khóc trẻ con, Trương Tiểu Biện và Tôn Đại Ma Tử hoàn toàn bất ngờ, khỏi có chút kinh hoàng, vội quay người về phía phát ra thứ thanh đó, vừa nhìn lại càng thêm kinh ngạc. Hóa ra ở góc sau cửa có cái hang, thò tay lại gần thăm dò, chỉ thấy từng trận gió ù ù ập tới, tiếng khóc từng đợt chính là vẳng ra từ trong hang này. Trương Tiểu Biện ôm chặt con mèo đen ghé người sát cửa hang nhìn xuống. Căn lầu này tối om như mực, nếu lại gần chắc hẳn khó phát ra phía sau cửa có cái hang. Con mèo đen đến cửa hang bỗng lộ vẻ bất an, lông tơ đuôi xù cả lên, kêu "ngao ngao", định tụt xuống bỏ chạy. Hai tên Trương, Tôn lưu ý đến điều đó, ngược lại còn nghĩ: "Thằng ở truồng lúc nãy có thể chui vào hang đất rồi, chỗ này là chỗ nào?" rồi lại nghĩ: "Nam nhi nếu có chí làm giàu uổng cho tấm thân bảy thước. Giờ gò được nữa, dù đây là quỹ điện của Sâm La Địa phủ cũng phải vào xem thử chuyến rồi mới tính sau." Hai kẻ nghèo đói bọn Trương Tiểu Biện và Tôn Đại Ma Tử, ngờ rằng rừng vàng biển bạc ở ngay trước mặt, khác nào ruồi nghe hơi mật, lòng nóng như lửa đốt, còn chuyện gì mà dám làm nữa? Hai chữ "sinh tử" sớm bỏ khỏi đầu, cả hai lập tức lần theo tiếng khóc, giơ ngọn đèn vào trong hang, mà chẳng hề hay biết chuyến này lại là: "Nộp mình đến cửa hung thần, Miệng hùm hang cọp đem thân gieo vào". Muốn biết thể ra sao, xin chờ hạ hồi phân giải.
Hồi thứ 6: Mắt Mèo Tiếp theo hồi trước, đến đoạn Trương Tiến Điện và Tôn Đại Ma Tử là hai tên tiểu tử, ... . Xưa nay biết trời cao đất dày là gì. Hai gã thấy dưới sàn trong lầu có cái hang tối om, bèn cho rằng đó là đường ngầm dẫn đến mật thất nơi chôn dấu kho báu trong Hòe viên, liền kìm được sung sướng trong lòng, nào còn đắn đo gì nữa, tức khắc tên trước, tên sau, giơ đèn chui tọt vào trong. Dưới hang quả nhiên là đường hầm rộng rãi quanh co, ngập đầy bùn và đất bùn và đất vụn, lại có vô số hang lớn đan xen, vách hang lồi lõm, lối lúc cao lúc thấp, thoắt rộng thoắt hẹp, đào rất qua loa, thành lề lối gì cả. Trương Tiểu Biện thấy bên dưới Hòe viên có mê cung như thế, thầm lắc đầu lè lưỡi, hạ giọng với Tôn Đại Ma Tử: "Chắc hẳn kho báu bên dưới nhà họ Lâu này bị chôn lâu quá thành tinh rồi, nên mới hóa thành thằng nhóc ở truồng chạy vào đây. Nghe lão sĩ thầy ta rẻ cấu kỷ tử nghìn năm có thể hóa thành con chó , củ nhân sâm vạn năm có thể hóa thành người con , biết rốt cuộc có Hòe viện này chôn vật quý hiếm gì mà kinh dị như thế? Gía như để huynh đệ chúng ta tìm được, ta với ngươi lại trở thành Đặng Thông và Thẩm Vạn Tam của thành Linh Châu ấy chứ." Tôn Đại Ma Tử cả mừng, : "Đặng Thông và Thẩm Vạn Tam giỏi lắm đấy nhé. Mỗ ta thường nghe hai người bọn họ xưa kia giàu phú gia địch quốc, là những người giàu có nghiêng ngửa thiên hạ, bốn phương đều nghe danh. Chúng ta chỉ cần bằng nửa của Thẩm lão gia, ngày nào cũng có gà nướng, chân giò để ăn, thế cũng mãn nguyện rồi." Trương Tiểu Biện cười , bảo: "Ma Tử huynh thiển cận chỉ biết mỗi việc ăn chân gà nướng với gặm chân giò. Chúng ta mà có nửa gia sản của Thẩm Vạn Tam , dù cho huynh ngày nào cũng ăn gan rồng mật phượng cũng hết nữa là." Tôn Đại Ma Tử chữ bẻ đôi biết , nhưng thường ngày gã và Trương Tiểu Biện vẫn thích nghe nhà trò diễn tích kể chuyện, lúc rỗi rãi gã còn ngâm nga mấy câu, thuộc nằm lòng các khúc dân ca. Hồi ấy, trong các tích trò diễn ở địa phương, có vở gọi là "Chiêu tài tiến bảo" khá rộn rã tươi vui, kể chuyện thần tài giáng trần ở các triều đại. Mỗi khi tết đến hoặc có hội vui , hay những dịp cần điềm lành người ta đều mời gánh hát đến diễn vở này. Đặng Thông là người đời Hán, từng được Hoàng đế ban thưởng cho mô đồng, tự mình có thể khai đúc tiền nên mới có câu: "khắp nơitiền rải lanh canh biết bao được đúc từ Thành Đặng Thông", thành ấy chính là nơi người này đúc tiền. Thẩm Vạn Tâm là cự phú ở Giang Nam vào thời cuối Nguyên đầu Minh Thái Tổ Chu Nguyên Chương khi khai đô kiến quốc phải mượn Thẩm lão gia tiền để xây thành là đại tài chủ giàu giang cả nước. Hai vị đó được dân chúng xem như thần Tài đầu thai hạ phàm, nếu theo kiểu của người ngày nay, được coi là thần tượng về việc phát tài làm giàu rồi. Bởi thế, dù là hạng cùng đinh mạt rệp cửa nhà như Tôn Đại Ma Tử và Trương Tiểu Biện cũng thuộc nằm lòng những tích của hai ông Đăng, Thẩm trong các vở kịch, câu chuyện kể. Hai gã đến nằm mơ cũng tưởng tượng có lúc được giàu có như thế mà chẳng hề biết rằng, Đặng Thông và Thẩm Vạn Tam về sau đều có kết cục tốt đẹp. Trương Tiểu Biện và Tôn Đại Ma Tử niệm mấy lượt: " Miêu Tiên gia và các vị Tài thần lão gia phù hộ cho đệ tử được đại phú quý... ", sau đó liền hăm hở tìm của. Chẳng ngờ trong đường ngầm dưới nền căn lầu, cửa hang nhiều tới mức hoa mắt chóng mặt, nhất thời biết nên theo lối nào. Cả con đường khi lưỡng lự, chợt nghe văng vẳng tiếng khóc ở xa xa. Hai người vừa nghe thấy động tĩnh, vội rùn người tiếp, lần theo tiếng khóc mà tiến lên. Trương Tiểu Biện tuy bị tiền bạc làm mờ mắt nhưng dầu sao cũng là tay lão luyện trong nghề bắt gà trộm chó cũng có chút cơ tri và kiến thức của bọn trộm cướp, hiểu cần phải trả lại cho mình lối thoát thân. thấy đường ngầm dưới Hòe viên rất chằng chịt phức tạp liền bỏ con mèo đen vào lòng, bảo Tôn Đại Ma Tử treo đèn vào đoản côn trước, ở đằng sau, dùng tay và đầu gối bò đất, vừa bò vừa nhặt đũa xếp rồng rắn thành chữ nhất để đánh dấu đường phòng trường hợp tìm được đường ra, phải chết kẹt dưới long đất. Con mèo đen vốn nhát gan, biết bị cài gì dọa đến nỗi run lên cầm cập, dường như dự cảm được có tai họa sắp giáng xuống. Nó cuộn tròn trong lòng Trương Tiểu Biện kêu tiếng nào, chỉ để lộ ra đôi mắt sáng sợ sệt nhìn xung quanh. Trương Tiểu Biện thầm rủa con mèo đổi về từ hiệu thuốc nay vô dụng. " Vân vật thông tài" miêu tả về mọi loài sinh linh thế gian, trong đó viết về loài mèo có Miêu phổ, viết về chó có Khuyển kinh, trong cuốn Miêu phổ ghi rất ràng rằng, Linh Chau thời cổ sản sinh ra loại mèo đen rất quý, tên là: "Nguyệt ảnh ở đồng kim tuyến miêu". Loại mèo đen này có đường kim tuyến chạy dọc mình, có thể đảo ngói trèo tường, rất giỏi vồ chim bắt bướm, mà cũng có thể lần mò vào nhà trộm vàng lấy ngọc. Trong lúc hành động, giống mèo này thoăn thoắt như gió, giữa ban ngày ban mặt có thể lại giữa chốn đông người mà chỉ trông thấy bóng thấy hình. Nhưng phong tục cúng Miêu Tiên ở thành Linh Châu có từ lâu, vì vậy đám mèo ở đất này dù là mèo nhà hay mèo hoang đều vừa tham vừa lười. Con mèo khoang mà Trương Tiêu Biện mất bao công sức mới tìm được này, đích thị là con mèo lười mười mươi. Tuy nó đúng là giống Nguyệt ảnh ở đồng kim tuyến miêu thuần chủng, nhưng bản lĩnh mà tổ tiên nó nổi danh với đời từ mấy trăm năm trước, đến đời nó thất truyền lâu rồi, chỉ mỗi trò trèo cây bắt cây sẻ là còn giữ được đôi phần mà thôi. Trương Tiểu Biện còn nhớ mấy hôm trước trong mộ Kim quan của Quý phi, Lâm Trung Lão Quỷ từng căn dặn rằng: " Nhà người muốn vào nhà ma Hòe viên để lấy kho của trước tiên phải đến Tùng Hạc đường. đem cương thi mỹ nhân đổi lấy con Nguyệt ảnh ở đông kim tuyến miêu nhà đó nuôi. có con mèo ấy tương trợ sức, ngươi đừng hòng lấy được đồng cắc trong núi bạc núi vàng ở Hòe viên. Nhớ lấy! Nhớ lấy!" Những lời ấy được Trương Tiểu Biện coi như thánh chỉ, nhớ như in trong đầu, trong mơ cũng quên lẩm nhẩm lại. Bây giờ,cả mèo đen lẫn đường ngầm trong Hòe viên đều tìm ra rồi, nhưng hồi đó, Lâm Trung Lão Quý lại chỉ cho xem rốt cuộc phải dùng con mèo đen ấy tìm kho báu như thế nào. Trương Tiểu Biện nghĩ bụng, thiên cơ bất khả lộ, tức là đầu gặp được thần tiên chỉ lối, con đường mà họ chỉ cho người phàm đa phần cũng đều mờ mờ ảo ảo, còn phải dựa vào tham ngộ của bản thân, phá giải mới lĩnh hội được. Dù sao kiến thức cũng hạn hẹp, mấy ngày liền vò đầu bứt tai cũng chỉ đoán ra đại khái là dùng "mắt mèo" của con mèo đen để khắc trừ tà. Con mèo này tuy lười nhác nhưng lúc lấy của báu chưa chắc có đất cho nó dụng võ trước mắt còn chưa biết trong lòng đất này rốt cuộc chôn dấu thứ gì, đương nhiên thể dễ dàng để cho nó chạy trở ra. nghĩ ngợi lung tung hồi, được mấy trượng trong đường hầm hẹp, bỗng nghe phía trước có tiếng nước chảy khẽ vang đến. Tôn Đại Ma Tử cũng đứng lại, ra tuy đường trong hang càng lúc càng rộng, dẫn tới gian khá lớn, nhưng trước mặt hai gã lại có con sông ngầm chắn ngang. Trong Hòe viên có rất nhiều cảnh trí đẹp đẽ như đình lang thủy tạ, lâu đài điện gác. Tới nay, những cái ao, con suối trong vườn tuy khô cạn nhưng mạch nước ngầm trong lòng đất vẫn còn, tiếng trẻ con khác hu hu chính là vọng lên từ bóng tối phía bên kia sông. Hai bên bờ sông ngầm trong hang động dưới lòng đất, gió vù vù lạnh buốt, tiếng trẻ khóc văng vẳng dường như xa lắm. Trương Tiểu Biện lớn ngần này tuổi nhưng chưa từng nghe thấy tiếng khóc nào thê lương đến thế, khóc tưởng như cổ họng rỉ máu. khỏi rùng mình, tự úy lạo tinh thần, hướng về phía bóng tối mắng rằng: " Tổ tông mười tám đời nhà chúng mày nghe đến tên Tương Tam già Trương to gan ta chưa? Cái bọn Kim tinh Ngân phách chúng bay cũng có mấy phần đạo hạnh, biết hôm nay sớm muộn gì cũng bị Tam gia đào mang về, mới nấp ở trong tối khóc thần gọi quỷ, dọa người ta hả. Chúng bay biết đâu rằng Trương Tam gia nhà các ngươi ăn gan hùm mật sói, sợ quái gì mấy trò đó." xong, thò tay cấu vào đuôi con mèo đen trong lòng, định bắt nó gào lên mấy tiếng dọa bọn tinh do vàng bạc hóa ra kia phải nguyên hình. Tôn Đại Ma Tử là người chính trực, chịu được cảnh bất bình trong thiên hạ, nghe tiếng khóc rỏ máu kia, cảm thấy rất đỗi đáng thương, giống như tiếng khóc để dọa dẫm người khác, liền ngăn Trương Tiểu Biện lại, : " phải rồi! Tam đệ nghe kỹ xem, đây ràng là tiếng khóc của trẻ con, chẳng lẽ nào chuyện hỗn phách kêu oan là có ? Có phải muốn nhờ bọn ta rửa oan kiếp trước cho nó .." Trương Tiểu Biện : "Trẻ con hai tuổi ranh có oan tình gì? Chắc hẳn là đống châu báu hấp thụ linh khí ngũ hành trong trời đất, ở dưới đất hàng trăm, hàng nghìn năm mới luyện thành hình hài đứa trẻ con,. Lúc này, nhân đạo hạnh của chúng chưa cao, chỉ mới biết khóc, biết bò thôi, vừa hay có thể bắt lấy đổi giàu sang phú quý, nếu để muộn mấy năm nữa, để nó đắc đạo, làm sao tìm ra tung tích được?" Tôn Đại Ma Tử lắc đầu tin: "Có lẽ đứa trẻ này bịn nười ta bỏ đói đến chết trong hang động... " Gã ngẫm nghĩ thêm, thấy đúng lại : " Nhưng cổ nó có khóa bạc, cũng giống như con nhà nghèo. Chắc hẳn là có kẻ gian lập mưu cướp gia sản nên bắt cóc nó tới đây rồi giết, vì thế trong lòng nó mới đầy oán hận. Chẳng ngờ dưới gầm trời này còn có chuyện vô đạo như thế thực khiến người ta tức nổ lồng ngực. thế nào , hai huynh đệ chúng ta tuyệt đối thể khoanh tay đứng nhìn" Gã vốn là người lỗ mãng, tin chuyện ma quỷ, thường tự cho mình là: "Người ngay lo gì bóng lệch, chân thẳng chẳng sợ giày nghiêng", hơn nữa rất tin cái lý: " làm việc xấu hại người, nửa đêm nào sợ quỷ đòi kêu oan", vì vậy xưa nay sợ gì quỷ quái. Lúc này, gã lại nổi tính lỗ mãng, bộ mặt sần sùi bạnh ra, nằng nặc cho rằng tiếng khóc của đứa bé đó chính là lời kêu oan tố khổ của vong hồn. Trương Tiểu Biện tuy lanh mồm lanh miệng nhưng cũng thuyết phục được gã, đành thầm: " Cho dù nó có là ma hay quỷ quái, hay là vật gì thành tinh. Cứ đến nơi mới trông được, mất thời gian tranh cãi với thằng em ngốc này có ích gì?" Nghĩ đoạn liền thêm gì nữa, tháy dòng sông ngầm khó vượt qua hai gã đành nghĩ cách đường vòng. Trương Tiểu Biện và Tôn Đại Mà Tử tính tìm khúc sông hẹp để nhảy qua, bèn men theo bờ sông mà tiến, được mấy trượng, liền cảm thấy đũa dưới chân càng nhiều, soi đèn nhìn xung quanh, thấy mặt đất mấp mô cũng cương vãi rất nhiều đũa. Đũa tre, đũa gỗ đều là những vật gia dụng hết sức tầm thường. Tầm thường tới mức nào đây? Lấy vó dụ thế này. Có tên phi tặc vào hàng trăm nhà phú hộ đào tường khoét vách, hôm trót vào nhầm nhà nghèo, thấy bốn vách trống trơn, trong chum gạo, chẳng có gì để ăn trộm, nhưng tôn chỉ " trộm về tay " thể phá bỏ, vậy là đành phải rút mấy sợi rơm nhóm lò rồi . Đến mức như thế là cảnh "thượng lương quân tử" cũng tuyệt nhiên lấy cái đũa nào trong chạn, vì lẽ rơm khô còn có thể giữ ấm được, thậm chí nếu có nhiều còn đổi được ít tiền bạc, chứ ai lại bỏ tiền ra mua mấy cái đũa cũ nát của người nghèo dùng nhiều năm. Những chiếc đũa trong động mỗi cái vẻ , hiển nhiên phải vật của cùng nhà, nằm ngổn ngang dễ phải đến hàng nghìn, hàng vạn cái, ai ăn no rửng mỡ đem từng ấy đũa đến hang động dưới đất này? Trương Tiểu Biện nghĩ muốn vỡ đầu cũng đoán ra lẽ gì, dành biết để đấy. lại lên mấy bước thăm dò, thấy sâu trong động, mặt nước, có cây cầu bắc ngang. Cây cầu đó hoàn toàn dùng đũa ghép lại, tuy những chiếc đũa dài ngắn khác nhau, có mới có cũ mà chất liệu cũng khác, nhưng được gắn rất bằng phẳng kiên cố. Mặt cầu hình cung, rộng đầy hai thước. Giơ đèn lồng soi phía đối diện của cây cầu đũa, thấy trong bóng tối ra tòa thành, đều ghép từ những chiếc đũa lại, trông rất ngợp mắt, nhưng cũng ra hình ra dáng. Thành cũng có cửa, có lầu gác, địch lâu còn trổ hơn mười lỗ châu mai để quan sát địch, hai bên đều là tường thành ghép bởi vô số chiếc đũa. Tòa thành đũa và mấy cây cầu đũa phia trước thành đều bó hơn nhiều so với ngoài đời thực. Trương Tiểu Biện và Tôn Đại Ma Tử nín thở bước cầu đũa, miễn cưỡng qua được sông, nhưng tới dưới lầu thành mới phát ra cửa thành có dành cho người ra vào, chỉ nhỉnh hơn cái lỗ chó chui chút mà thôi. Cổng tòa thành xây bằng những chiếc đũa ấy mở rộng, bên trong xộc ra làn gió tanh, hơi thôid xông lên đến tận đầu. Trương Tiểu Biện và Tôn Đại Ma Tử vội vã xé vạt áo nút mũi lại, nín thở, xem tiếp xuống dưới chân lầu thành thấy xương vụn rải đầy mặt đất, bị gặm đến nát bét, trắng huếch hoác chẳng chừa lại chút da thịt nào, là xương người hay xương thú. Hai người lấy làm kinh hãi: "Rốt cuộc bên dưới Hòe viện nhà họ Lâu có cái gì? Sao lại có tòa thành kỳ quái này? Ai ở trong tòa thành bằng đũa?" Chuyện này hoàn toàn nằm ngoài sức tưởng tượng Trương Tiểu Biện và Tôn Đại Ma Tử tuy to gan nhưng cũng dám tùy tiện làm bừa, hai gã nín thở, bò xuống trước cửa thành, ghé mắt nhìn vào trong. Chỉ thấy đèn đuốc trong thành sáng rực, nhà cửa phòng ốc san sát, đều do những cây đũa nhiều màu sắc ghép lại, đường phố im lìm vừa rộng vừa sâu, nhưng tất cả phòng ốc lầu gác đều bé tý tẹo, tuy giống hệt nhân gian nhưng chỉ có mèo mới ở được. Tiếng khóc "oa oa" của đứa trẻ liên tục vọng từ bên trong ra. Tiếng khóc bất thường toát lên vẻ tà mị khó hiểu khiến hai người và con mèo sợ đến nổi da gà. Tình cảnh trong thành này thực hết sức kỳ quái. Đúng là: "nghe thấy, hùng đều vỡ mật. Nhìn vào, tráng sĩ thấy run gan. " Muốn biết chuyện thế nào, xem hồi sau . Hồi thứ 7: Hầm Người Sống Hồi trước đến đoạn Trương Tiểu Biện và Tôn Đại Ma Tử hai người đêm vào địa đạo bên dưới Hòe viên, phát ra trong hang sâu có tòa thành toàn ghép từ những chiếc đũa. Hai gã kinh hãi khôn xiết, liền lấy áo che mũi, khom lưng, quỳ trước cổng thành Đũa, ghé mắt quan sát động tĩnh bên trong thành. Con mèo đen ủ rũ trong lòng Trương Tiểu Biện tuy nhát nhưng cũng tò mò thò đầu ra xem, cặp mắt mèo đảo lia lịa, cùng hai chủ nhân đánh giá tình hình bên trong thành đũa. Cách bài trí phố xá, nhà cửa bên trong giống hệt thành Linh Châu, chỉ có điều kích thước bé hơn nhiều, tựa như trẻ con chơi đồ hàng vậy. hiểu phải dùng đến bao nhiêu chiếc đũa của nhân gian mới ghép được òa thành Đũa như thế này. Đường phố chợ búa trong thành đều thắp đèn sáng trưng, đầu đường cuối ngõ đốt khá nhiều nến. Trong ánh sáng lung linh chập chờn, trùng trùng điệp điệp lầu gác làm bằng đũa toát lên vẻ u lạ thường, vô số chuột to chuột leo lên, leo xuông giữa đám nhà cửa nhấp nhô. Cũng bởi mèo khoang ở vùng này bắt chuột nên nạn chuột địa bàn Linh Châu kéo dài gần trăm năm, khó diệt được tận gốc. Tuy bọn chuột vẫn thường dung dăng thoải mái trong thành Linh Châu nhưng vì thiên tính bẩm sinh nên vẫn sợ người, sợ mèo đôi chút. Nhưng đàn chuột lớn trong tòa thành này con nào con nấy đều lộ vẻ hung ác, thèm để ý đến hai người và mèo ở ngoài cổng thành. Rất nhiều con chuột to tướng còn táo tợn bò qua bò lại trước mặt Trương Tiểu Biện và Tôn Đại Ma Tử. Trương Tiểu Biện nhìn mà thấy buồn nôn, vội giơ tay đuổi mấy con chuột to ở trước mặt thầm nghĩ : " Đâu ra lắm chuột thế này, chẳng lẽ lọt vào sào huyệt của bọn chuột thành Linh Châu rồi ư?" Thường có câu rằng: " có lửa làm sao có khói", ở nông thôn thường nghe kể rất nhiều truyền thuyết dân gian kể về đám cưới chuột, đám ma chuột, nhưng liệu có ai chính mắt trông thấy? Bọn chuột sao có thể hành động giống như con người được? Cứ nghĩ đến việc bầy chuột ăn trộm đũa của hàng nghìn nhà, xây dựng thành trì trong hang động, lại có thể bắt chước y hệt lối sinh sống của con người, Trương Tiểu Biện và Tôn Đại Ma Tử đều lạnh cả người, trong đầu chỉ có ý nghĩ: có nhẽ đâu thế? Trương Tiểu Biện thầm nghĩ, bây giờ đúng là thiên hạ đại loạn, chẳng lẽ bọn chuột cũng học tập Việt khấu khởi binh tạo phản... tự lập triều đình trong hang động này? Nhưng chuột chỉ là bọn giỏi phá kho trộm thóc, làm sao có trí tuệ để xây dựng thành trì được? Xem ra đây đúng là điềm chẳng lành, chẳng có đại họa nào giáng xuống nữa. Trong thời loạn giữ mình là hết, Tam gia ta đánh mẻ lớn, xong xuôi phải mau mau chóng chóng ôm tiền bạc cao chạy xa bay là tốt nhất. Lúc ấy, Tôn Đại Ma Tử cầm lòng nổi, kinh hãi kêu lên tiếng, chỉ tay vào trong thành với Trương Tiểu Biện: " Tam đệ mau, bọn chuột chỉ ăn trộm đũa đâu, ngươi xem, ngươi xem... Chúng còn bắt trẻ con nữa. Lũ chuột cống này thành tinh rồi!" Trương Tiểu Biện đưa mắt nhìn, quả nhiên con đường thẳng đối diện với cổng thành, có hàng trăm con chuột kìn kìn xúm lại chỗ, cõng đứa bé trần truồng từ từ vào sâu bên trong. Đứa trẻ "oa oa" khóc lớn, chân tay giãy đạp liện tục. Dẫn đầu bầy chuột bắt trẻ con là con chuột cống già, toàn thân lông trắng, trụi lỗ chỗ, nó nheo nheo đôi mắt ti hí giảo hoạt dị thường, thỉnh thoảng lại trèo lên người đứa trẻ, dùng đuôi ngoáy làm thằng bé nhột nhạt. Đứa bé trần truồng ước chừng chỉ khoảng tuổi, lúc khóc lóc, quẫy đạp, lúc bị con chuột cù lại phá lên cười, có lẽ bầy chuột dùng chính thủ đoạn này làm đứa bé thôi khóc để đưa nó từ nhà dân đến đây. Trương Tiểu Biện xem , vô cùng ngạc nhiên, hạ giọng chửi: "Bọn chuột chết toi này sao cũng học được ngón trộm gà của Tam gia ta nhỉ! " Tôn Đại Ma Tử với Trương Tiểu Biện : " nghe thành Linh Châu hay bị mất trẻ con, thường náo loạn cả thành, ai cũng bảo rằng thủ đoạn của bon mẹ mìn lợi hại. Ta cứ tưởng chỉ là lời đồn bậy phố, hóa ra mầm họa là từ " thành Đũa" bên dưới Hòe viên này. Đứa trẻ đó biết là con cái nhà ai, bị bọn chuột bắt về trong thành sốnglàm sao nổi, hai chúng ta phải mau cứu nó ra mới được." Trương Tiểu Biện tuy biết đàn chuột bắt đứa trẻ về làm gì nhưng đoán rằng phải việc tốt, vả lại tính cách của là hám lợi, hai là hiếu . Lúc bình thường, hễ thấy gió lay cây động, là lập tức nóng mắt nóng tai, chạy lại xem cho rôm rả. thường tự cho mình can đảm hơn người, thích hành hiệp trượng nghĩa, hễ thấy bất bình đường là ra tay cứu khốn phò nguy, chẳng bao giờ chịu ngồi yên. Lúc ấy nhất thời tức khí lên muốn làm hùng hảo hán, liền tạm gác việc tìm phú quý trong Hòe viên, định xông thẳng vào trong thành giải cứu đứa trẻ bị bầy chuột bắt cóc. Nào ngờ cửa thành Đũa quá hẹp, Trương Tiểu Biện tuy người gầy xương nhưng cũng chui qua được, đành trơ mắt nhìn bầy chuột mang đứa trẻ xa dần, mất hút trong thành. Chẳng bao lâu nữa, còn nghe thấy tiếng trẻ khóc đâu nữa. Trương Tiểu Biện và Tôn Đại Ma Tử thấy chưa gì mất cả tiên cơ, liền tính cách dùng sức phá vỡ tường thành xông vào. Ngờ đâu, những chiếc đũa ấy đều được gắn keo da cá rất chặt, tuy kiên cố bằng gạch đá nhưng chỉ với sức của hai gã, trong tay lại có cuốc chim hay xẻng gì, muốn phá hủy hay đẩy đổ tường cũng hết sức tốn công. Trương Tiểu Biện nôn nóng, chợt vỗ trán, nghĩ bụng : "Đúng là cuống quá hóa hồ đồ? Sao trèo thành mà vào? " Nghĩ thế, vội giơ đèn chiếu lên bờ tường thành, chỉ thấy tòa thành trong động có bề mặt thành cách trần động khoảng khá xa. Trương Tiểu Biện kéo Tôn Đại Ma Tử dậy, chỉ tay lên ra iệu, sau đó hai người dùng cả chân cả tay trèo qua tường thành cao quá nửa người. Chỗ đặt chân bỗng vang lên tiếng " chít chít" thảm thiết, cả hai giơ đèn cúi đầu xem, ra là cả ổ chuột nát nhừ, máu thịt bầy nhầy đống. Trương Tiểu Biện vội nhấc chân chà giày vào tường thành bên cạnh, kêu lên: " Đừng trách, đừng trách. Có trách trách mẹ chúng mày sonh nhầm chỗ." Tôn Đại Ma Tử cũng giơ gậy đạp tứ tung xuống đất, đuổi bọn chuột xung quanh chạy dạt ra, rồi cả hai cùng xem xét tình hình trong thành. Trong tòa thành Đũa bị lũ chuột chiếm cứ này, mỗi gian phòng ốc, lầu gác đều có vào con chuột, nhung nhúc khắc nơi sao đếm xuể. Các gian nhà thấp bé nối dài tít tắp, lốm đốm cơ man những chân đèn, chân nến cháy, nhưng ánh nến phía đằng xa yếu ớt nên nhìn rốt cuộc tòa thành này quy mô như thế nào. Hai người nhất thời biết nên đâu để tìm ra đứa trẻ bị bầy chuột đưa lúc nãy, đành dò dẫm bước vào vùng nhà cửa san sát phía trong thành, TrươngTiểu Biện phát ra con mèo đen trong lòng run lên sợ hãi, thầm cảm thấy cổ quái. Bầy chuột trộm đũa xây thành là chuyện hết sức ly kỳ trong thiên hạ, ngờ đến cả mèo trong thành Linh Châu lại cũng sợ chuột, chẳng lẽ trong tòa thành chuột này còn điều gì hung hiểm chưa hiển lộ ra nữa hay sao? Tới nước này, thể đề phòng cẩn thận hơn, chớ để Tam gia ta chưa phát tài lỗ cả vốn, mất cả tính mạng ở đây. Nghĩ đoạn, bất giác chậm lại. Hai người được mấy bước con đường hẹp hai bên san sát lầu đũa nhà đũa trong thành, bỗng thấy trận gió thổi vào mặt, trong gió thoảng mùi hương lạ, nồng nồng khác hẳn mùi xú uế, lạnh lẽo trong địa động. Mặc dù Trương Tiểu Biện và Tôn Đại Ma Tử dùng vải nút mũi nhưng mùi hương nọ vẫn xộc thẳng lên tận óc, hai người cùng bỏ vải che mặt ra, hít hà lúc rồi : "Dường như là mùi thịt hầm, nhưng thịt gì mà hầm thơm thế? Thịt bò hay là thịt chó nhỉ?" Cả hai lâu rồi chưa được ăn mặn, ngay cả mùi vị thịt bò hầm ra sao cũng gần như quên mất rồi, lại gặp đúng lúc bụng trống rỗng, ngửi thấy mùi thịt nức mũi khỏi them thuồng rỏ dãi, liên tục nuốt nước bọt, đưa tay áo rách quệt nước dãi chảy ròng ròng khóe miệng, bất giác rảo bước lại phía mùi thịt thơm nồng. Qua hai khúc ngoặt, cả hai đến trước căn lầu đũa cao lớn dị thường. Căn lầu cao hơn trượng, nằm giữa ngã tư, nhà cửa xung quanh đều thấp hơn rất nhiều, bên trong có ngọn đèn ngọn nến nào. Cửa sổ, cửa ra vào lầu cũng ghép bằng những chiếc đũa, đóng lại im ỉm. con đường phía trước của lầu đặt nồi hầm to, đáy nồi là hố bếp cháy, cũng bên trong đựng thứ gì, hơi nghi ngút bốc ra qua kẽ hở chỗ nắp vung khép hờ. Trương Tiểu Biện và Tôn Đại Ma Tử chỉ chun mũi hít hơi, biết rằng mùi thịt thơm lan tỏa trong thành chính là từ nồi này mà ra, bèn nghĩ bụng : " Ai hầm thịt nhỉ? Chẳng lẽ ngoài bầy chuột lớn, trong thành còn có người cư trú?" Mùi thịt trong nồi thơm ngon khó cưỡng, hai gã chẳng buồn nghĩ ngợi gì thêm, thấy bốn phía toàn chuột là chuột, chẳng có tượng dị lạ nào , liền rảo bước tới gần cái nồi. Trương Tiểu Biện dí mũi gần nồi, hít sâu mấy hơi, mặt mày rạng rỡ, khen rằng: "Thơm quá! Thơm quá! Ai cũng biết quán ngon nổi tiếng trong thành Linh Châu là Bát Tiên Lâu, nhưng tuy là đầu bếp trong Bát Tiện Lâu tinh thông các món ăn nổi tiếng Bắc Nam cũng chưa chắc làm được nồi thịt ngon thế này." xong, kìm được giơ tay mở nắp vung. Chẳng cần biết nồi thịt của nhà ai, định ăn bữa no rồi hẵng tính. Tôn Đại Ma Tử ngăn lại, : " Chúng ta đều là bậc trượng phu trong sạch, sao có thể ăn vụng của người ta được" Trương Tiểu Biện : " Huynh đệ chúng ra đương nhiên là người ngay làm chuyện mờ ám, tuy biết ai ở trong thành Đũa này nhưng cũng thể ăn của người ta được... " vừa vừa sờ soạng trong người hồi. Sau khi làng Kim Quan bị lửa chiến tranh hủy diệt, Trương Tiểu Biện bới trong đống đổ nát và xác người được ít lương khô và tiền nong. Lúc ấy, còn dư được vài đồng, liền tiện tay lấy ra đặt xuống cạnh bếp rồi với Tôn Đại Ma Tử rằng: " Bây giờ trả họ tiền là được chứ gì?" Tôn Đại Ma Tử tuy ngoài miệng cứng nhưng bụng cũng réo ồ ồ, nước bọt ứa ra chảy dài cả thước, chẳng thèm hỏi số tiền đó bao nhiêu, lập tức ngoạc mồm kêu lên: " Nếu như thế, tất nhiên mỗ cũng chẳng có gì để ... " Chưa dứt lời gã liền vội sán lại, dùng gậy nhấc nắp nồi, định cùng với Trương Tiểu Biện đánh chén bữa. Dù gan dạ có sắt thép đến mấy cũng phải thưa cái bụng đói, Trương Tiểu Biện và Tôn Đại Ma Tử bị mùi thịt thơm trong nồi quyến rũ, bao nhiêu chuyện khác đều gác hết ra sau đầu. Tới khi mở nắp vung ra, xua bớt hơi nước sôi nghi ngút, vừa mới ngó vào bên trong cả hai suýt chút nữa nôn ọe cả bữa cơm ăn từ năm ngoái. ra, bên trong nồi hầm chín nhừ bốn đứa bé trần truồng béo mập, nhìn áng chừng đều là những bé trai bé tầm , hai tuổi. đúng là: "chạy trời khỏi nắng" Tôn Đại Ma Tử bằng ngần này tuổi, ỷ mình can đảm chính trực, lại có võ nghệ, xưa nay chưa từng biết sợ là cái gì, thế mà lần này đúng là run rẩy từ tận đáy lòng, cả người từ đầu đến chân lạnh toát, sợ đến nỗi vội rụt tay làm cho nắp vung rơi trở lại: " Cha mẹ ơi, hầm như người sống! Ai mà dám ăn chứ?" Trương Tiểu Biện nghĩ thầm: " Thứ nấu trong nồi vừa làm món ăn vừa làm món nhậu được, nhưng chắc chắn phải dành cho người sống ăn, hẳn là trong nhà ma Hòe viên này có thứ gì đó rất ghê tởm, lâu ngày tự luyện thành tinh, lại còn biết sai khiến lũ chuột bắt trẻ con trong thành. Bọn chúng ta dẫu có thủ đoạn đầy mình e cũng phải là đối thủ của nó được. Nhân lúc tên cầm đầu còn chưa thân, đào thoát bây giờ còn đợi lúc nào?" liền đánh mắt với Tôn Đại Ma Tử, hai người chuẩn bị chuồn thẳng lèo, nhưng lúc đó muốn chạy khỏi thành Đũa này kịp nữa rồi. Đúng là: "Thiêu thân vào lửa thôi khôn cứu; Cá lọt đáy nồi sống được chăng?" Muốn biết việc sau thế nào, hạ hồi phân giải.
Hồi thứ 8: Quái Tăng Trương Tiểu Biện và Tôn Đại Ma Tử lạc vào thành Đũa, phát ra trong thành có rất nhiều điều cổ quái, trong cái nồi to phía trước căn lầu xây bằng đũa hầm bốn đứa trẻ béo trắng, quần áo và giày dép trẻ con vứt bừa xung quanh, khiến hai gã đều kinh hồn lạc phách, giờ mới thấy mùi thịt thơm nức trong nồi hết sức kinh tởm, súyt nữa nôn hết mật xanh mật vàng ra ngoài. Hai gã định bỏ trốn khỏi thành, chợt nghe phía sau căn lầu vang lên tràng loảng xoảng tiếng xích, tựa như có con vật lớn nào đó di chuyển từ xa lại phía này, tốc độ khá nhanh. Bầy chuột tập trung quanh bếp lửa cũng thi nhau nấp vào các phòng ốc hai bên đường. Trương Tiểu Biện thường hay bắt gà trộm chó, xưa nay vốn rất nhanh nhẹn cơ trí, thấy tình hình ổn, lập tức thổi tắt ngọn đèn cầm tay, kéo Tôn Đại Ma Tử nằm phục xuống, nấp sau đám lầu gác lúp xúp. Đám phòng ốc dựng lên bằng đũa này cái cao cái thấp, vừa vặn che được thân hình của hai gã, vừa lại có chỗ để ghé mắt nhìn động tĩnh con đường phía trước. Trương Tiểu Biện và Tôn Đại Ma Tử biết rằng, đây là lúc then chốt của sống và cái chết, tuyệt đối phải trò đùa, tuy cả hai đều nín thở, nằm yên nhúc nhíc nhưng tim vẫn đập thình thịch liên hồi, đồng thời cũng có vài phần hiếu kỳ, muốn xem kẻ nào nắp trong thành Đũa này ăn thịt trẻ con. Bầy chuột trong thành, lúc ấy cũng đều co đầu co đuôi nhìn ra phía xa chờ đợi. Bốn bề nhất thời im phăn phắc, chỉ còn tiếng xích sắt kéo lê mặt đất, vọng đến càng lúc càng gần. Từ phía sau căn lầu Đũa, vật đen sì sì to lù lù bò ra, xung quanh đèn lửa mờ mờ, cũng nhìn được , quan sát lúc lâu cũng biết rốt cuộc đấy là thứ gì. Trương Tiểu Biện dụi mắt nhìn kỹ lại, ra trong ánh nến tàn và bóng đèn lồng chập chờn kia, xuất quái nhân mình khoác bộ da chuột, phía trước, phía sau có rất nhiều con chuột to đùng tiền hô hậu ủng. Người đó để đầu trọc, trán có vết chấm tàn hương, trông có vẻ giống nhà sư. Gã sư đó tựa như bị thịt, béo tới mức rụt cả cổ lại, cái đầu trọc lông lốc giống hình tam giác ngược, đỉnh đầu có túm tóc bện lại như chỏm tóc của trẻ con, cuốn thêm mấy vòng dây đỏ lộn xộn. Nhìn từ phía sau, trông lão giống như quả lê to, lại vừa giống đạo đồng. khuông mặt béo trắng, mắt mũi bé ti, ngũ quan dồn lại sát với nhau. Dưới ánh đèn mờ mờ trông lão còn nhác giống con người, chứ nếu rất dễ lầm tưởng là con chuột trắng lớn thành tinh. Hòa thượng nọ khoác cái áo ngắn rách rưới làm bằng da chuột lửa, chui ra chui vào địa động bao năm khiến lớp lông chuột bị mài đến mức trơ trụi. Bên trong lão chỉ mặc cái yếm đỏ vừa rộng vừa to, bên có thêu hình uyên ương bỡn nước rất tươi tắn sinh động. hiểu lão gìn giữ thế nào mà da dẻ toàn thân trắng bóng nõn nà, tưởng như chọc vào là chảy mỡ ra ngay. Trương Tiểu Biện và Tôn Đại Ma Tử thấy gã sư to béo, tâm lý đề phòng vơi nữa, nhưng trông trang phục, cử chỉ của lão đều hết sức dị hợm, sư ra sư, đạo sĩ ra đạo sĩ, lại nghĩ đến mấy đứa trẻ trong nồi, nỗi sợ hãi càng tăng thêm, thầm nghĩ lão hòa thượng này chắc hẳn là quái phương nào đó hóa ra, chẳng lẽ nào hạng chuyên ăn thịt người. Chuyện hòa thượng Chuột ăn thịt người đồn đại khắp thành Linh Châu, thực hư thế nào, chẳng lẽ lại chính là đây? Hai gã kinh hãi, chợt thấy nhà sư mặc áo da chuột kia bò đến trước căn lầu Đũa, dừng lại nằm bò ra đất thở hổn hễn. Dường như lão lâu trông thấy mặt trời, da dẻ nần nẫn lộ ra trắng tới mức nhợt nhạt, có chút huyết sắc. Phía sau người lão kéo lê hang trăm cái khóa lấy khước của trẻ con có cả đồng lẫn bạc... trông như cái đuôi chuột, kêu lanh canh loảng xoảng mặt đất. Lão nghĩ ngơi lúc rồi chầm chậm trở mình, trong miệng lầm rầm như tiếng của loài chuột, đoạn dùng ngón tay vừa ngắn vừa mập mở cửa lầu Đũa. Trương Tiểu Biện và Tôn Đại Ma Tử nấp trong bóng tối nhìn trộm, liền thấy bên trong hóa ra là đống vàng bạc châu báu nhìn mà hoa cả mắt, nào là nén vàng thoi bạc, nào là ngọc ngà mã não, xếp chật cứng cả căn lầu. lúc ấy, có bầy chuột vận chuyển bạc đến. Trương Tiểu Biện từng tận mắt nhìn thấy chuột trộm trứng gà: con chuột nằm ngửa, bốn chân quắp chặt quả trứng gà trong lòng, con chuột khác ngậm đuôi nó kéo , cứ như thế mang quả trứng về hang chuột. Nhìn tình cảnh lúc này, hóa ra bầy chuột lớn trong thành Đũa sử dụng phương pháp đó để ăn trộm từng thoi, từng thoi vàng bạc mang đến trước cửa căn lầu, rồi gã sư kia lượm lại cất hết vào bên trong. Trương Tiểu Biện thấy vàng liền nổi lòng tham, cảm thấy miệng khô lưỡi đắng, lòng nóng như lửa đốt, hai mắt xanh rờn, thầm nhủ, Lâm Trung Lão Quỷ quả nhiên lừa Tam gia ta, trong Hòe viên đúng là có món tiền lớn, chỉ có điều phải làm cách nào lấy được đây? Thấy thời cơ chưa đến, đành nhẫn nại, tiếp tục nấp bên trong đám phòng xá để quan sát động tĩnh. Gã sư trong động dường như có thể sai khiến lũ chuột. Tất cả chuột lớn, chuột bé trong thành Đũa đều tuân theo chỉ bảo của gã, từng đàn chuột lũ lượt kênh đũa tre và bạc đến giao nộp. Mỗi lần nhặt nén bạc lên, lão đều xoa xoa mặt, cười hi hi hồi, sau đó mới tần ngần bỏ vào trong lầu. Thần sắc khuôn mặt cổ quái lên vẽ tham lam, đáng ghét cực độ. lúc sau, vận chuyển hết số bạc, lão đóng cửa lầu lại, rồi tập trung tinh thần dùng đống đũa để xếp ra các đình đài lầu gác. Dường như lão ta biết , chỉ có thể bò bằng tay chân như đứa trẻ chưa thôi nôi. Được lúc, lão lấy tay xoa bụng ra chiều hơi đói, rồi bò lại trước nồi thịt hầm, ghé mũi hít hà mùi thịt, mặt lộ vẻ vui sướng, nước dãi nhễu ra bên mép. Lão giở nắp vung, lôi ra đứa bé chin nhừ, lật qua lật lại nhìn ngó rồi xé tay, dứt cẳng, lẳng xương thịt xuống đất. Bọn chuột trong các phòng xá xung quanh liền nhao ra lao tới tranh ăn. Lão sư cười khằng khặc hai tiếng, giơ cái đầu trẻ con trong tay lên húp nước dịch trong ấy. Trương Tiểu Biện và Tôn Đại Ma Tử nhìn cảnh ấy vừa sợ hãi vừa kinh tởm phát buồn nôn, đành nhắm mắt dám nhìn trộm nữa. Nhưng tiếng húp dịch não xì xụp của lão và tiếng gặm xương thịt người răng rắc của lũ chuột vẫn vang lên, ngừng xói vào tai hai kẻ. Trương Tiểu Biện chỉ còn cách lấy tay bịt chặt tai lại, chẳng ngờ vì nup quá lâu, lại dám thở mạnh nên mạch máu ở chân tay lưu thong, tứ chi gần như tê dại, vừa nhấc tay lên cả người mất trọng tâm, ngã chồm về phía trước. Con mèo đen trong lòng gã vốn sợ đến nỗi cuộn tròn người lại, bị ngã đè lên, nhịn nổi đau, liền gào lên tiếng thảm thiết. Bầy chuột ăn thịt trẻ con chợt nghe tiếng mèo kêu, lập tức đờ ra, vô số con mắt chuột liên láo nhìn lại. Quái nhân nửa tăng nửa đạo mặc áo chuột Lửa cũng từ từ cất đầu lên, thần sắc ngơ ngác, bên mép còn dính nước thịt, hai con mắt ti hí ngừng dò nhìn bốn phía. Trương Tiểu Biện thầm kêu khổ: "Dớ dẩn quá, lần này mà lộ tung tích chắc hẳn bị bắt đem luộc nhừ trong nồi rồi. Ông trời có mắt, sao lại hành hạ Tam gia ta đến thế này?" Tôn Đại Ma Tử thấy bị lộ, cậy mình khỏe mạnh, định liều mình quyết chiến phen, liền nhấc cây gậy chuẩn bị lao lên đánh. Nào ngờ, gã sư mặc áo chuột lửa kia vừa lẩm bẩm chuỗi thanh sin sít trong cổ họng, lập tức có vô số chuột lớn trong thành ào ra, xông đến vây kín chỗ nấp của Trương Tiểu Biện và Tôn Đại Ma Tử. Thường có câu rất hay rằng: "Mãnh hổ nan địch quần hồ", hành ngàn con chuột kết thành đội quân dày đặc vây công, Tôn Đại Ma Tử làm sao chống lại cho được? tăng nọ thấy có người sống bước vào thành Đũa nổi giận đùng đùng, đợi đàn chuột kết xong thế trận bao vây lao phắt đến gần. Người lão nặng chừng hai trăm cân thịt, huých cho nhà cửa đổ nghiêng đổ ngã. Trương Tiểu Biện và Tôn Đại Ma Tử thấy hơi tanh xộc vào mặt, đờ đẫn cả ra, kịp phản khánh, liền bị lão quật ngãlăn ra đất. Trương Tiểu Biện biết sống chết chỉ còn trong đường tơ kẽ tóc, liền níu cứng xon mèo đen trong lòng định ném ra để giương đông kích tây, thừa cơ thoát thân. Nào ngờ đâu, con mèo vốn sợ chết khiếp, cứ rút vào trong lòng chịu ra. Trương Tiểu Biện tóm được đuôi mèo, trong lúc nguy cấp liền thò cả hai tay tóm vào hai bên tai mèo, lôi thẳng con mèo đen ra che trước ngực. Tóm tay mèo vốn là thủ pháp trong thuật xem tướng mèo thời xưa. Tương truyền, muốn biết gân cốt con mèo ra sao, người ta chỉ cần tóm hai tai mèo rồi giơ lên. Nếu là con mèo hay, biết bắt chuột khi tai bị đau, nó co rúm bốn chân lại, đuôi mèo cuộn lên đầu, toàn thân biến thành quả cầu lông để giảm bớt đau đớn ở tai; ngược lại nếu là con mèo lười, khi bị người ta nhấc tai lên bốn chân cào cấu lung tung, nhá mõm nhe nanh gào thảm thiết, loại mèo đó đuổi được chuột. Lại thêm, có câu rằng: " Tam Quốc phải bàn Gia Cát Lượng, kể Triệu Vân phải nhắc trận Đương Dương", câu chuyện của chúng ta vốn có tên là "Tặc miêu", là "Tặc miêu" đượng nhiên phải đề cập đến thuật xem tướng mèo, điều khiển mèo có từ thời xa xưa. Đó là điều cốt tủy của cuốn sách này, nhưng đó đều là chuyện về sau, từ từ . Lại đến đoạn Trương Tiểu Biện hoảng loạn tóm chặt hai tai của con mèo đen, giơ lên. Con mèo đen vốn là mèo nhà, lười hơn cả những con mèo hoang ở ngõ Miêu Nhi, nhờ vào phúc ấm của Miêu Tiên gia mà từ xưa tới nay được hưởng cuộc sống vô tư lự trong thành Linh Châu. Tuy có gân cốt thượng phẩm của giống Nguyệt ảnh ô đồng kim tuyến miêu nhưng trước nay chưa bao giờ bắt chuột hay trộm vàng trộm bạc gì, ngày thường chỉ biết trèo cây leo cột, đuổi sẻ làm vui, khi đói lẻn vào nhà bếp trộm cá, trộm bánh bao. Lúc này, hai tai bị đau, nó liền học theo lối của tổ tiên là cuộn chân, cuộn đuôi lại, nhưng làm nổi, đuôi mèo mới cuộn vào nửa đến cực hạnh, bốn chân mèo lại chỉ biết quờ lung tung phía trước. Đúng lúc đó, gã sư kia chồm về phía Trương Tiểu Biện, kịp đề phòng thấy trước mặt xuất con mèo đen bấu chặt vào bộ mặt gã, hai cặp mắt người và mèo nhìn thẳng vào nhau, móng chân mèo cào lên mặt khiến máu tươi chảy dầm dề. Gã sư này mặt mũi xấu xí, giờ máu lại chảy đầy mặt trông càng hung tợn gớm ghiếc. Lão sợ hãi chớ, con mèo đen càng sợ hãi hơn. Giống mèo sản sinh ở Linh Châu, ngày thường chẳng sao, nhưng khi khiến chúng sợ tới cực điểm hai mắt lập tức vằn lên tia máu đỏ. Con Nguyệt ảnh ô đồng kim tước miêu vừa gào thê thảm, cặp mắt lập tức biến thành hai đốm máu như hai ngọn đèn đỏ trong đêm đen. đến lúc sinh tử tồn vong, sao có thể thấy mắt mèo kỳ dị? Gã quái tăng bị con mèo đen trừng mắt nhìn mà đến nỗi " hùng ngã chết từ lưng ngựa, giỏi lội bơi song vẫn chết chìm" Muốn biết thể ra sao, xem hồi sau . Hồi thứ 9: Bát Tiên Lâu Lại , con mèo quý hiếm dị thường Nguyệt ảnh ô đồng kim tuyến miêu sợ hãi tột độ, bị Trương Tiểu Biện nắm chặt hai tai giơ lên, vừa đúng lúc bấu chặt vào mặt tên quái tăng. Bốn mắt nhìn nhau, cặp mắt mèo liền vằn lên tia máu đỏ, mình mẩy xù hết lông lên như bị ma nhập, khác hẳn lúc thường. Gã quái tăng có ngón nghề sai khiến bầy chuột kia bỗng bị cặp mắt mèo đỏ máu chiếu tướng, lấy làm khiếp sợ, kịp đề phòng, thét lên tiếng, ngã ngửa ra sau. Cũng hợp với lẽ mèo chuột tương khắc, thêm vào bản thân gã quái tăng này bẩm sinh rất sợ mèo đen, chỉ thấy lão ngã lăn ra đất, miệng sùi bọt mép, tứ chi ngắn ngủn co rút lại, giống như người bị động kinh, lồng ngực tức nghẹn thể thở được. Tôn Đại Ma Tử thừa cơ bật dậy, vung cây gậy trong tay lên giáng thẳng vào đầu lão. Gã vốn là loại khỏe như văm, gậy đánh ra cuốn theo tiếng gió vùn vụt, giáng trúng đỉnh đầu của gã quái tăng làm máu thịt bắn tung tóe, chết ngay tại chỗ. Lũ chuột trong thành Đũa mất chủ, lập tức như tỉnh cơn mê, chẳng đợi Trương Tiểu Bân và Tôn Đại Ma Tử động thủ, chúng tranh nhau trốn khỏi thành. Bốn phía xung quanh có rất nhiều hang chuột, trong chớp mắt chúng bỏ chạy sạch còn bóng. Trương Tiểu Bân định thần lại sau cơn hoảng hốt, vội bế thốc con mèo vào long, với Tôn Đại Ma Tử: "Việc này đúng là trời định, đều nhờ Miêu Tiên gia hiển linh phù hộ, cũng may là Tam gia này nhanh trí dung mèo đen phá tà thuật của tăng, lại cũng nhờ cách xử trí cũng như kiến thức của bậc hung hào kiệt Ma Tử huynh đây tương trợ nữa, vậy mới có thể đánh bại được lão hòa thượng Chuột này." Tôn Đại Ma Tử lau vết máu dính mặt, với Trương Tiểu Biện: "Ở hiền gặp lành, ác giả ác báo, trời có thần phật, nhân gian có vương pháp, dưới có Diêm vương, sao chẳng ai biết đến việc này nhỉ? Gã hòa thượng Chuột này bắt cóc trẻ em con nhà người ta đem ăn thịt, thực là trời đất thể dung tha, thế mà hóa ra chịu được đòn, mỗ mới đập có gậy mà kết liễu được cái mạng chó của gã, thực là quá dễ dãi cho tên giặc này. Thứ này phải bắt sống giải lên nha môn xử trí, lột da lóc thịt mới đúng." Trương Tiểu Biện : "Nó chết ở đây, coi như cũng bị báo ứng rồi. Huynh đệ chúng ta gặp nạn chết ắt là có phúc về sau. Giờ đây đám vàng bạc châu báu giấu trong thành Đũa này thành vật trong túi bọn ta rồi. Từ khi gặp ma trong mộ Kim quan, Tam gia ta trải qua muôn vàn gian khổ, chịu biết bao đè nén, gặp biết bao hiểm nguy, rốt cuộc cũng đạt thành chính quả, ngày tháng sau này khổ tận cam lai, chỉ còn việc ăn sung mặc sướng, sống hưởng thụ thôi... " vung thiên địa, quên sạch mọi thứ xung quanh, biết đâu rằng chuyện thế gian xưa nay biến đổi khôn lường, những gì phải của mình về sau ắt phải hoàn trả. Hai gã nhớ lại tình cảnh lúc hòa thượng Chuột ăn thịt người bỗng nổi giận khôn tả, liền ra sức đá mấy cái lên người gã quái tăng, sau đó mới lần mò đến trước cửa lầu Đũa. Trong lầu bạc chất như núi, nhìn hoa cả mắt, hai người có bốn cánh tay làm sao vận chuyển ngần ấy bạc được. Bàn tính sơ qua, Trương Tiểu Biện nghĩ ra mánh: Ước chừng tới giờ trời cũng sắp sang, chi bằng tạm quay về trước, trả chìa khóa Hòe viên cho Thiết chưởng quầy, đồng thời dối là trong Hòe viên đúng là có con ma rất khủng khiếp, đêm hôm qua cả bọn dám vào ở, sau đó đợi đến khi trời tối, đẩy xe lừa lại phía cửa vườn sau, trèo tường vào chuyển bạc. Con phố này vốn ai dám ở, hành như vậy thực là thần biết, quỷ hay. Hai người quyết định như thế, lập tức nhét đầy bao bạc giắt vào người, lần theo đường cũ trở ra, rồi lại che đậy lối vào đường ngầm trong Hòe viên. Xong xuôi trời cũng hừng sáng, hai gã liền đến Miêu Tiên tử tìm Tiểu Phượng. Cả ba khấu đầu mấy cái kêu trước Miêu Tiên gia, đoạn đứng ở trong ngõ đợi lão lính già cầm canh Thiết Trung. Tiểu Phượng thấp thỏm lo sợ cả đêm trong ngôi miếu nát, lại nghe hai gã thêm mắm dặm muối kể chuyện bọn chuột trong Hòe viên xây thành, bắt cóc trẻ con ăn thịt, lại càng thêm kinh hãi thót tim. Cả ba đều đoán được lai lịch của gã quái tăng có thể điều khiển đàn chuột trộm bạc kia. Cứ theo tính cách của Trương Tiểu Biện trước đây, nhất định sinh long hiếu kỳ, sẵn sàng làm loạn mọi chuyện lên, nhưng lúc này khác, thấy rằng thêm chuyện chẳng bằng bớt chuyện, vì giá trị của Trương Tam gia giờ khác rồi, mạng người giàu quý như vàng, sao lại có thể xông vào chỗ nguy hiểm được nữa? Tới giờ, món đại phú đại quý vào tay, những việc muốn làm chỉ là tìm cách mang hết số bạc lớn đó rời thành cao chạy xa bay, quyết để sinh thêm chuyện râu ria nữa. Ba người thào lúc lâu trong ngõ, đầu tiên là bàn xem làm thế nào để chuyển bạc trong đêm nay, rồi lại thương lượng xem tiêu tiền thế nào, bàn tới chỗ Trương Tiểu Biện đồng ý chia cho Tôn Đại Ma Tử hai phần mười. Trương Tiểu Biện gặp được Lâm Trung Lão Quỷ trong mộ Kim quan, được tiên gia mach bảo mới biết trong Hòe viên thành Linh Châu có kho báu. Theo lý, số tài sản này đều thuộc về Trương Tiểu Biện. Nhưng Trương Tiểu Biện tự xưng là bậc trượng nghĩa, thấy cũng phải nhờ vào sức lực của Tôn Đại Ma Tử, nên chia cho gã hai phần. Tôn Đại Ma Tử vô cùng cảm kích, rối rít tạ ơn Trương Tiểu Biện: "Sinh ra trong thời loạn thế thiên tai dịch họa liên miên này, ngày ngày chỉ cần có bữa cơm ăn là mãn nguyện lắm rồi. Nay được hiền đệ chê mà chu tất cho Tôn mỗ phen này, từ giờ về sau xin nguyện theo Trương gia dắt cương buộc ngựa, cho dù hiền đệ có điều gì sai bảo, mỗ cũng xin làm theo, dẫu nhảy vào nước sôi lửa bỏng, cũng từ nan." Trương Tiểu Biện rất thích được khen là nghĩa khí, nhưng riêng ả Tiểu Phượng từ đầu chí cuối vẫn thấy khó chịu trong lòng, muốn chia đồng nào cho ả quê mùa này. Có điều, niệm tình đồng hương đồng khói, từ rày trở cứ để cho ả ta làm người hầu cho Trương Tam gia sai vặt, việc khổ việc nhọc gì giao hết cho ả ta làm, ngày cho hai bữa cơm mà ăn. Gặp lúc lễ tết, nếu làm Tam gia ta vui lòng, biết đâu còn cao hứng ban cho ả hai cái áo hoa mà mặc. Tiểu Phượng uất đến phát khóc, càng nghĩ càng ấm ức, đúng là "Cáo gặp thời còn quá hổ; Phượng khi trụi cách chẳng bằng gà." Trước đây ở làng Kim Quan, ai thèm để mắt đến thằng bắt gà trộm chó như Trương Tiểu Biện. thằng con hoang cha mẹ như , muốn đánh là cho ăn đánh, muốn chửi là cho ăn chửi, ai ngờ hôm nay lại thành tài chủ, đến Tôn Đại Ma Tử cũng trở thành thủ hạ của , mình bơ vơ, tan cửa nát nhà, về sau chắc phải cắn răng mà hầu hạ rồi. Trước đây, Trương Tiểu Biện bị mẹ con Vương quả phụ khinh khi quá lắm, bây giờ mới coi như hả cơn giận, định bụng bắt Tiểu Phượng đấm lưng bóp đùi, nhưng bỗng nhiên chợt thấy lo lắng, liền : " hay rồi, mặt trời quá con sào sao thấy lão Thiết Trung tới đòi chìa khóa? Chẳng lẽ lão cho rằng chúng ta chết cả rồi sao?" Ba người bọn Trương Tiểu Biện chờ mãi thấy lão Thiết Trung tới lấy chìa khóa Hòe viên, đành tự mình đến Tùng Hạc đường. Nào ngờ đến trước cửa hiệu thuốc, thấy cửa đóng im ỉm, sắp đến giờ ngọ mà chưa mở hang, dò hỏi bọn người làm mới vỡ lẽ rằng từ sớm tới giờ thấy bóng dáng Thiết chưởng quầy đâu, cả lão Thiết Trung cũng thấy quay về. Tùng Hạc đường rối như canh hẹ, cử người tìm khắp nơi, việc buôn bán đành phải dừng lại. Bọn người làm công trong cửa hiệu bàn tán ầm ĩ, đều Thiết chưởng quầy xưa nay quen ở nhà giữ của, tối đến bước chân khỏi cửa, bây giờ sống thấy người, chết thấy xác, chuyện phiền phức. Có người đề nghị đến nha môn báo quan, cũng có người cho rằng có khả năng là Thiết chưởng quầy đương đêm tìm tiểu nương nào đó giải trí rồi ngủ lại về, chẳng có gì đáng làm rộn lên, nên báo quan vì chuyện vặt này làm gì. Lắm người nhiều miệng, phút chốc chộn rộn hết cả lên. Trương Tiểu Biện ngầm cảm thấy có gì đó ổn. Thiết Công Kê ở nhà như thế, sao đột nhiên mất tăm mất tích cách mờ ám như vậy? Lẽ nào có liên can đến việc lão ta mua cương thi mỹ nhân ở Úng Trủng sơn? Nhưng chuyện này còn nhiều tình sâu xa, Trương Tiểu Biện căn bản biết Thiết Công Kê cần Mỹ nhân và để làm gì, nghĩ nát óc mà cũng hiểu đầu đuôi ra sao, đành mặc kệ, tính tiếp chuyện đến Hòe viên chuyển bạc khi đêm về. Ba người bàn bạc xong, liền vào cửa hiệu quần áo phố mua lấy vài món đồ mới, rồi vào hàng ăn mua mười mấy cân rượu thịt về Miêu Tiên tử, thay những thứ quần áo rách rưới người ra, ăn bữa no say, còn thừa bao nhiêu chia cho bọn mèo hoang trong miếu, đoạn trốn dưới bệ thờ đánh giấc. Cả bọn vốn định ngủ mạch đến tối rồi động thủ, nhưng trong tay sẳn tiền đâm ra ngứa ngáy, thao thức ngủ được, cảm thấy ngày sao mà dài dằng dặc, mặc trời mãi chẳng xuống núi. Trương Tiểu Biện chỉ hận mình phải là Hậu Nghệ thời xưa, giương cung bắn rơi mặt trời, rốt cuộc cũng dằn lòng được nữa, xoay sang với bọn Tôn Đại Ma Tử: "Nhàn rỗi đâm ra khó chịu quá! Đằng nào chúng ta rủng rỉnh rồi, cứ ngồi yên trong miếu thế này chi bằng để Tam gia ta mời các người đến Bát Tiên lâu ăn bữa, nghỉ ngơi khỏe khoắn rồi tối hành động." Tôn Đại Ma Tử và Tiểu Phượng luôn miện khen hay, hai người sớm nghe tiếng Bát Tiên lâu trong thành Linh Châu. Trong vòng mấy trăm dặm quanh đây, ai mà chẳng biết đây là tửu lâu lớn nhất, xa hoa nhất trong thành. Thành Linh Châu nổi tiếng là chốn phồn hoa thiên cổ, Bát Tiên lâu cũng là hiệu lâu đời cả mấy trăm năm, thực khách tới đó ăn cơm uống rượu đều là quý nhân, quan lại và đám thương gia giàu có lai vãng khắp miền Nam Bắc, bọn cùng đinh quê mùa như mấy người bọn làm gì có phúc phận mà hưởng thụ? Đến nằm mơ cũng chẳng thấy trong Bát Tiên lâu có những thức sơn hào hải vị gì. Cả ba nổi lòng ham ăn them uống, cũng mong đến đó phen cho mở rộng tầm mắt, là liền, bèn mang theo con mèo đen, hỏi thăm đường xá đến Bát Tiên lâu. Bát Tiên lâu nằm con phố lớn, nhộn nhịp nhất ở phía Nam thành. Dọc hai bên phố, hang ăn mọc lên san sát. Thương nhân trong thành Linh Châu rất đông, lại đều là nhà giàu có, cho dù ngoài thành đánh trận nhưng bên trong vẫn nhộn nhịp đàn ca, hết sức náo nhiệt. Trương Tiểu Biện thính tai, nghe loáng thoáng trong quán trà vệ đường có tiếng kể chuyện liền ngừng chân, thấy trời còn sớm, chưa đến lúc tới Bát Tiên lâu ăn cơm, liền dắt Tôn Đại Ma Tử và Tiểu Phượng vào quán trà, gọi ít trà nước điểm tâm hảo hạng, học lối của người có tiền, ngồi thưởng trà nghe truyện. Vị tiên sinh trong quán kể truyện "Thủy Hử". Trương Tiểu Biện và Tôn Đại Ma Tử thích nhất là nghe tích này, đặc biệt là tích hảo hán Võ nhị lang đánh hổ. theo cách đại hai tên này là "fan cuồng" của Võ Tòng và Yến Thanh. Nghe đến đoạn Trương đô giám hãm hại Võ Tòng, hung gặp nạn, cả hai đều nghiến răng căm tức, vỗ bàn đập ghế, nghe đến khi Võ Tòng đại náo Phi Vân phố, máu rửa Uyên Ương lâu, giết sạch cả nhà kẻ thù, đám người vỗ tay khen hay rối rít. Nghe hết chuyện cũng đến giờ cơm, cả ba thẳng đến Bát Tiên lâu, chưa vào tới nơi ngửi thấy mùi rượu thịt thơm lừng từ trong lầu xộc lên nức mũi. Ba người chưa từng đến tửu lâu nào sang trọng như thế, nhưng trong túi có tiền, lá gan cũng lớn hơn nhiều, vừa đặt chân vào, lập tức thấy tiểu nhị chạy ra nghênh đón. Tên tiểu nhị nọ chuyên phụ trách đón khách, thấy người mặt mụn, ả nha đầu quê mùa dáo dát nhìn bốn phía, bộ dạng ngó nghiêng ngơ ngác, ngoài ra, còn có tên thó, mặt mày đầy vẻ lưu manh vô lại, liền biết ngay đây là lũ cùng đinh mới lên tỉnh, nhưng thấy cả ba tuy đầu bù tóc rối mà quần áo người lại sạch chỉnh tề, giống bọn hành khất vào xin ăn, bèn thầm nhủ lúc này đương khi khách quý nhộp nhịp, tiện quát tháo đuổi chúng ra, nếu chúng ăn xong quịt tiền lột mấy món quần áo gán nợ cũng muộn. Thế rồi tên tiểu nhị liền mời bọn Trương Tiểu Biện vào chỗ ngồi, cậy tiệm lớn coi thường khách, khinh khỉnh hỏi ba vị quan khách muốn dung món gì, lại thêm rằng Bát Tiên lâu bán mấy món rẻ tiền. Tôn Đại Ma Tử và Tiểu Phượng chưa từng bước vào tiệm ăn lớn, khỏi cảm thấy tự ti, chỉ biết nghiêng ngó xung quanh, bị tên tiểu nhị hỏi liền lung túng biết gọi món thế nào. Duy có Trương Tiểu Biện to gan lớn lối, vỗ bàn mắng: "Con bà nhà ngươi, dám khinh Tam gia ta có tiền phòng? Tam gia ta muốn ăn cơm lạt canh suông mà lại đến cái tiệm này của nhà ngươi sao?" xong, quăng hai đỉnh bạc lớn lên bàn, cao giọng : "Hôm nay Tam gia ta làm chủ, mời hai vị bằng hữu đến ăn cơm. Cái đồ mặt sẹo mù mắt nhà ngươi báo cho Tam gia ta biết trong tiệm này có món gì ngon nhất?" Phàm bọn tiểu nhị đón đưa khách, phần lớn đều là lũ thấy tiền sáng mắt, chỉ biết vụ lợi. Tên tiểu nhị thấy Trương Tiểu Biện mở miện ra măng chửi, định nổi sung lên, bỗng thấy tiền bạc ra trước mắt, cả bụng bực tức liền xẹp ngay xuống, lập tức đổi thái độ, chớp chớp mắt, toét miệng cười cầu tài: "Đúng,đúng, khách quan dạy rất phải, con đúng là có mắt tròng, xin quý khách mở lượng hải hà! Bát Tiên lâu chúng con mời toàn đầu bếp danh tiếng ở các nơi về, chuyên làm các món nổi tiếng khắp Bắc Nam, được gọi là "Thiên cổ danh thành đệ nhất lâu". Các thứ bay trời, chạy dưới đất, sống núi, bơi dưới nước, muốn ăn gì là có thức nấy, thực là thiếu thức nào. Con xin đọc tên vài món cho ba vị nghe ạ." Từ xưa có câu rằng: "Mở tiệm chớ nề khách chén nhiều" có bạc vào đánh chén cửa hàng có lý đâu lại tiết kiện hộ thực khách, chỉ thấy tên tiểu nhị vội vàng dâng trà, rót nước, sau đó đứng bên cạnh đọc tên lần lượt các món ăn. Bọn Trương Tiểu Biện hầu như chưa từng nghe tới, những món này cũng chẳng biết món ngon Nam Bắc là những thứ gì, làm tình làm tội tên tiểu nhị kia chán chê, cuối cùng mới bảo, Tam gia hễ ăn bao giờ hỏi giá tiền, thôi chỉ cần là món ngon của Bát Tiên lâu, cứ mang ra độ mười mấy món là được. Loáng cái, tiểu nhị lần lượt dâng cơm rượu lên, bảy đĩa tám bát, bày chặt cả bàn. Món ăn của Bát Tiên lâu thành Linh Châu danh bất hư truyền, quả nhiên đủ cả sắc, hương, vị. Bọn Trương Tiểu Biện vén tay xắn áo, cầm đũa há mồm, định thả sức ăn uống trận đời, nhưng chưa kịp gắp nghe tiếng hét lớn bên ngoài Bát Tiên lâu, rồi đám mấy chục tên công sai hung hục xộc vào. Đám người này bước như hổ, hành động như sói, vào trong tửu lầu liền cất chân đá tung mấy cái bàn, chẳng chẳng rằng đạp Trương Tiểu Biện, Tôn Đại Ma Tử và Tiểu Phượng xuống đất như diều hâu bắt gà, rút dây thừng, trói nghiến cả bọn lại. Trương Tiểu Biện thất sắc, vội kêu: "Các vị trưởng quan xin giơ cao đánh khẽ, tiểu nhân vào thành bán ếch, phải là gian tế của Việt khẩu, các vị bắt lầm người mất rồi!" Tôn Đại Ma Tử cũng hô to: "Oan uổng tày trời! Chúng tôi đều là dân lương thiện mà!" tên công sai nghe vậy nổi giận, giơ tay tát Trương Tiểu Biện và Tôn Đại Ma Tử mấy cái nổ đom đóm mắt, máu mũi chảy ròng ròng, gãy mất mấy cái răng. Tôn Đại Ma Tử vẫn còn muốn kêu oan, bỗng thấy trong đám công sai có tay đầu lĩnh chỉ mặt chửi: "Ba người các ngươi tội đáng muốn chết mà còn dám nhiều lời hả? Mau ngậm mồm lại, ngoan ngoãn theo ông nội các ngươi về trình diện, may ra bớt chút đau khổ xác thịt. Vụ trọng án tày trời này cũng đủ cho các ngươi tan xác rồi." đúng là: "Ngỡ lòng sắt đá nhưng đâu phải. Đến trước quan nha cứng hóa mềm." Muốn biết thể tiếp diễn ra sao,xem hồi sau .
Hồi thứ 10: Tạo Súc Hồi trước đến đoạn bọn Trương Tiểu Biện vào Bát Tiên lâu gọi cơm rượu hết sức đắc ý, bỗng đám công sai hùng hùng hổ hổ xông tới, chẳng chẳng rằng đạp cả bọn xuống đất. Con mèo đen bên cạnh thấy tình thế hay, đớp ngay con cá chép chua ngọt mặt bàn rồi lủi ra ngoài như gió, biến mất tăm mất tích trong ngõ sâu. Bọn công sai tất nhiên chẳng thèm để ý con mèo ăn vụng cá kia, liền lục soát tại chỗ, lấy ra bao bạc trắng phớ, tên đầu lĩnh đám công sai liền mắng: "Quân ăn cướp trời đánh, đây là bạc trong phiên khố của triều đình, bây giờ nhân chứng vật chứng đầy đủ, còn gì để nữa?" đoạn liền lập tức ra lệnh cho bọn thủ hạ trói nghiến bọn Trương Tiểu Biện, Tôn Đại Ma Tử và Tiểu Phượng lại, giải về tống vào lao, đợi quan gia xử trị. Trương Tiểu Biện vốn tưởng được Lâm Trung Lão Quỷ mách cho món phú quý, ngỡ là vật vô chủ, trước giờ chưa từng tìm hiểu kỹ lai lịch đống ngân lượng trong thành Đũa. Cả đời , đến bạc vụn còn chưa được cầm vào tay, chi đến đĩnh bạc có đúc dấu của công khố, đâu ngờ lại rước phải cái họa tày trời này? Tới khi tên đầu lĩnh ra, mới vỡ lẽ giật mình như người tỉnh mộng, hối hận cũng kịp, bụng bảo dạ lần này đúng là tự mình dẫn lửa thiêu thân, vạn kiếp ngóc đầu dậy được nữa, thực đúng là : " Sục sôi muôn ý trong đầu, thảy đều nguội lạnh trước gàu nước băng". Muôn ý niệm đều tiêu tan, trong long cũng quên chửi rủa tổ tong mười tám đời nhà Lâm Trung Lão Quỷ. Quý vị độc giả hẳn từng nghe, thành Linh Châu vốn là đầu mối giao thong trọng yếu của hai đường thủy bộ, lại là nơi thương lái hai miền Nam Bắc lưu thông hàng hóa tiền bạc, từ đầu đời nhà Thanh thành lập các phiên khố, toàn bộ tiền thuế tiền lương của hai tỉnh miền Nam Trường Giang đều chứa trong kho này, đợi tới khi đủ hạn số nhất định chuyển về Kinh thành. Con đường nơi đóng phiên khố ở thành Linh Châu tên là phố Ngân Phòng, có nhiều thợ bạc sống ở đó. Tiền thu được thường là hào, cắc và bạc lẻ, khi nhập vào phiên khố cần phải đúc lại thành đĩnh. Bởi vùng Giang nam giàu có, lắm tiền nhiều của, các hạng thuế thu ở đây chính là tính mạng của triều đình, bởi vậy việc phòng vệ vô cùng nghiêm ngặt. Tường kho luôn có hay lớp dày chắc dị thường gọi là " Hổ tường", đồng thời đặt thêm cửa đồng vách sắt, mấy lớp khóa nặng, lại phái tốp quan binh chuyên giữ kho. Từ khi Thái Bình quân khởi ở mạn Quế Tây, Việt Đông, đánh ngược lên phía Bắc, thế mạnh như chẻ tre, các thành trấn quan trọng ở phía nam Linh Châu đều bị Việt khấu chiếm giữ. Các lộ binh mã hình thành thế bao vây hợp công Linh Châu, lượng lớn tiền thuế trong phiên khố Linh Châu kịp chuyển , để lại trong thành cùng với quân dân. Thành Linh Châu từ xưa là vùng đất binh gia tranh giành, nên thành cao hào sâu, vững như bàn thạch, hơn nữa lái buôn trong thành rất nhiều, những người này đều tiếc của cải, xuất tiền xuất lương giúp đỡ triều đình chiêu mộ lính dõng; trong thành cũng có rất nhiều súng Tây, pháo Tây, hỏa khí chẳng những nhiều vô kể mà còn hết sức đại, Thái Bình quân tiến đánh mấy lần đều thành. Nhưng cấc thủ lĩnh Thái Bình quân cũng đều biết trong thành Linh Châu có phiên khố, tiền bạc nhiều vô kể nên mấy trận trước tuy hao tổn ít người ngựa song vẫn cố chiếm bằng được, có thể kéo quân tiến đánh bất cứ lúc nào. Cũng bởi bạc trong kho thành Linh Châu quá nhiều, khó tránh khỏi có lắm kẻ động lòng tham, chỉ có Việt khấu muốn tranh đoạt mà bọn trộm cướp phi tặc cũng muốn thừa lúc loạn lạc để vơ vét mẻ, đám người này hoặc kết thành từng đám năm ba tên, hoặc độc lai độc vãng, hành tung xuất quỷ nhập thần, rất khó đề phòng. Để bảo vệ ngân khố, quan phủ phái binh lính tuần tra ngày đêm, đặt vô số gác canh phố Ngân Phòng. Thời loạn luật lệ càng phải chặt chẽ, hễ bắt được tên nào có ý định trộm bạc là quan phủ cho lăng trì bêu đầu, giết để răn mười, quyết khoan dung. Trông coi nghiêm cẩn đến vậy mà gần đây bạc trong kho cứ liên tục biến mất. Lạ ở chỗ Hổ tường cao ngất, khóa sắt y nguyên, hiểu là bọn giặc phương nào, dùng thủ đoạn thần thông gì mà qua mặt được bao nhiêu quan binh canh giữ, trộm bạc trắng trong khố mà chẳng để lại mảy may dấu vết. Việc kho bạc bị mất trộm hết sức nghiêm trọng, quan phủ mất ăn mất ngủ, phàm là người ra vào khỏi thành đều bị tra xét rất nghiêm ngặt, đề phòng bọn trộm chuyển bạc , đồng thời đặt hạn kỳ, lệnh cho đám bổ khoái ở nha môn phải tróc nã cho được tên tặc nhân, tìm lại số bạc bị mất, bằng liên lụy cả nhà. Xưa nay vẫn có câu " quan cướp nhà", đám công sai bộ đầu vẫn thường câu kết với lũ trộm cướp cường đạo trong thành, quan nuôi dưỡng cướp, vì vậy tai mắt rất rộng, chỉ cần gió hơi lay, cây hơi động là đám ấy dò la ra được ngay. Hơn nữa, tai mắt bọn công sai cực nhạy, chúng tìm bắt mấy tên cưới chẳng khác gì mèo tìm chuột, chỉ cần đánh hơi thấy động cái là tìm ra được ngay. Ấy vậy mà trăm phương nghìn kế tìm tòi tra xét, vụ án lớn tày trời này ngờ vẫn có chút manh mối nào, đành phải bắt bừa mấy tên giặc cỏ cho đủ số, tuy bức cung đánh đập, bắt bọn kia khai nhận rồi, nhưng kho bạc vẫn tiếp tục bị mất trộm, thử hỏi phải ăn thế nào với quan được đây. Đám công sai cuống quýt chưa biết làm thế nào, bỗng tên đầu lĩnh đám bộ khoái trong nha môn nghe phong thanh ở tiệm y phục nọ, có người dùng bạc đúc đĩnh lớn mua quần áo, dưới đáy đĩnh bạc có đúc dấy ấn của phiên khố Lĩnh Châu, thám tử nhìn rất ràng, thể sai trật được. Y liền lập tức bủa người khắp nẻo, cuối cùng bắt được cả đám ở Bát Tiên lâu. Linh Châu vốn là châu thuộc tỉnh Trực Lệ, nhưng vì những thành trấn phụ cận bị Việt khấu công hãm nên các quan viên trong tỉnh đều chuyển nhà, thêm vào đó là cầu của thời chiến, vì vậy các đạo, các ty, thậm chí các cơ quan đầu não của toàn tỉnh như nha môn Đề đốc và nha môn Tuần phủ đều tập trung trong thành. tại, thành Linh Châu có cả Đề đốc và Tuần phủ. Giờ đám quan lại địa phương may mắn còn sống sót phải ra sức mà hiệp trợ Tuần phủ Mã THiên Tích trù bị tiền bạc lương thảo, chiêu mộ lính dõng để thủ thành. Việc mất trộm phiên khố sớm kinh động đến triều đình, Tuần phủ Mã đại nhân nghe tin bắt được phi tặc, liền dám chậm trễ, đích thân cùng hữu ty thẩm vấn cho ra ngọn nguồn vụ án. Chỉ thấy công đường đèn đuốc sáng lòa, bày la liệt các dụng cụ tra tấn, tiếng trống nha môn vang lên thùng thunfgm nha sai xếp hai hàng, đúng là " Uy nghiêm còn quá Diêm La điện; Khiếp sợ nào thua Đông Nhạc đài". Bọn Trương Tiểu Biện ba người quỳ đất thấy thế, mặt xanh như chàm đổ, người mềm như bún, là " Có cánh cứ thăng thiên; Có móng, độn thổ, chạy liền vào hang. biết thuật chạy làng; Chớ rước rắc rối cửa quan công đường." Trương Tiểu Biện biết chuyện rất nghiêm trọng, đến nước này chỉ còn cách cố sức thanh minh mà thôi. quen thói lựa gió đưa thuyền, đợi Mã đại nhân lên tiếng, vội : " Xin các vị chớ nhọc dùng đến đại hình! Thanh thiên đại lão gia minh giám, chúng tiểu nhân xin đánh mà tự khai hết." Mã đại nhân là kẻ già đời, nhiều mưu, tính quyết đoán, trước nay nổi tiếng là người giỏi tra khảo thẩm vấn, cũng biết phàm là ấn nặng đều phải tra hỏi ba lần bảy lượt, thẩm định kỹ càng mới được. Lão vừa nhìn tướng mạo Trương Tiểu Biện và Tôn Đại Ma Tử là biết ngay hai tên này chỉ là bọn lưu manh đầu đường xó chợ, nghĩ đến chuyện phiên khố mất bạc, bổ khoái nha môn tra xét nhiều ngày mà có kết quả, lại chảng phát được manh mối gì, thủ đoạn đó hẳn bọn trộm vặt thể làm được. Vậy mà ba kẻ quỳ dưới công đường kia đều quá mười sáu, mười bẩy tuổi, lại còn có ả nhà quê, chỉ dựa vào mấy tên tẹp nhẹp bọn chúng sao có thể gây được đại án tày trời thế này? Nhưng đích thực là có soát được người chúng có số bạc phiên khố bị mất, xem ra bên trong ắt có uẩn khúc, nhất thiết cần phải tra hỏi cho ngọn ngành mới xong. Nghĩ đoạn, lão liền đập bàn thẩm vấn. Trương Tiểu Biện hết sức ngoan ngoãn, hỏi đáp mười, bộ mặt ra vẻ vô tội, kể hết lượt từ đầu chí cuối. Quy củ nha môn biết , đầu tiên phải khai báo tên tuổi xuất thân, nhưng Trương Tiểu Biện, Tôn Đại Ma Tử ba người vốn là dân quê nghèo khổ, làm gì có tên có hiệu đâu chứ? Tiểu Phượng lấy theo họ mẹ là bà Vương quả phụ nên gọi là , Vương Tiểu Phượng, Tôn Đại Ma Tử là cả trong nhà, từ mặt đầy mụn nên mới có biệt danh như thế, trước nay cũng có tên gì khác. Nguyên quán Trương Tiểu Biện vốn phải ở làng Kim Quan, mà là con nhà dòng dõi, đời ông tổ từng làm quan trong Kinh thành, về sau gia cảnh suy vi nên mới lưu lạc đến đây. Từ , được học lễ nghĩa, vốn cũng có tên tuổi đàng hoàng, chỉ vì lúc ấy quá nên nhớ được nhiều, giờ nghĩ kỹ lại dường như tên là Trương gì gì Hiền, chữ "Hiền" trong sách dạy thánh hiền, phải là chữ"Huyên" trong từ "huyên thuyên", tên đệm nhớ ra. Sau này lưu lạc, cũng từ đâu mà làng Kim Quan đều gọi là "Quan lão tam", người có tuổi trong làng gọi là "Tiểu tam", bọn cùng trang lứa xưng huynh gọi đệ kêu là " Tam ca, Tam đệ". Trương Tiểu Biện trước tiên mình là người giữ phép trọng đạo, hiểu thi thư lễ nghĩa, lại còn bảo về sau định đóng cửa đọc sách, thi đỗ làm quan để rạng rỡ tổ tông, ra sức vì triều đình, chứ những chuyện xấu xa bắt gà trộm chó bao giờ chịu làm. Nhưng cũng chỉ vì đao thương có mắt, chiến hỏa vô tình khiến cho làng Kim Quan bị phá hủy, bất đắc dĩ mới cùng hai người cùng lành là Tôn Đại Ma Tử và Tiểu Phượng cuốn gói rời khỏi quê hương, chỉ biết lên núi bắt ếch mang vào thành đổi ít gạo dầu mắm muối sống qua ngày. Cũng bởi dạo gần đây nạn chuột hoành hành, đúng lúc mấy hôm trước cả bọn đào được thứ dược phẩm quý hiếm, liền mang đến Tùng Hạc đường trong thành để đổi lấy con mèo đen giỏi bắt chuột, mang về trông nom cửa nhà. Lúc ấy trời tối, cửa thành khóa, lại sợ đội lính dõng tuần tra tưởng là gian tế, mấy tên liền mượn tạm căn nhà hoang Hòe viên của Thiết chưởng quầy mà trú ngụ qua đêm. Mã đại nhân nghe tới đó liền gật đầu, : " Ờ... Hòe viên là nhà cũ của họ Lâu, bỏ hoang phế từ lâu rồi, nghe bên trong có ma, lại được sạch cho lắm." Trương Tiểu Biện đáp: " Đại nhân đúng là vị quan tốt hiểu thấu dân tình, dân như con, đến chuyện như vậy cũng như lòng bàn tay, trong Hòe viên quả có con ma rất ghê gớm." Đoạn liền đem chuyện trong Hòe viên gặp lũ chuột bắt cóc trẻ con thế nào, thành Đũa trong đường hầm ra sao, cả tên quái tăng ăn thịt trẻ con thế nào, rồi chuyện dùng con mèo đen đánh ngã quái tăng trừ hại cho dân, tất cả tình tiết đều kể hết lượt. Cuối cùng, mới đến món bạc lớn trong lầu Đũa, bảo rằng biết đõ là vật của quan phủ, cả ba chỉ vì tham món lợi , tiện tau cầm ít đem dùng. Riêng việc gặp Lâm Trung Lão Quỷ trong mộ Kim Quan và chuyện đào được cương thi mỹ nhân ở Ứng Trung Sơn nhắc đến chữ nào. Kế đó, Mã đại nhân lại thẩm vấn riêng hai người kia. Tôn Đại Ma Tử và Tiểu Phượng vốn biết toàn bộ tình, tuy cung khai có chỗ sai khác nhưng về đại thể cũng giống với lời cua Trương Tiểu Biện. Mã đại nhân tra hỏi đến đây, khỏi ngấm ngầm kinh hãi. Bản thân lão kiến thức uyên bác, nắm việc hình ngục cũng thể ngờ được rằng vụ án mất trộm ngân khố lại phanh phui ra nhiều việc dị thường đến thế. Thành Linh Châu mấy năm nay thường có trẻ con mất tích, mãi đến giờ cũng phá được án, có điều trước mắt đại quân Việt khấu vây thành, quan phủ có thời gian truy lung mấy đứa mẹ mìn bắt cóc trẻ con. Chẳng ngờ việc này lại liên quan đến vụ trộm công khố, lão vội phái người đến Hòe viên điều tra, đồng thời tới Tùng Hạc đường triệu kiến Thiết Công Kê đến đối chứng. giờ, ai biết Thiết chưởng quầy đâu, sống thấy người, chết còn xác, làm sao đến công đường được? Chỉ có mấy tên người làm trong cửa hiệu và thủ quỹ bị giải đến công đường làm chứng, quả nhiên tên nào cũng khai rất khớp với Trương Tiểu Biện. Đồng thời, đám công sai được phái đến Hòe viên tìm thấy tòa thành Đũa trong hang động ngầm dưới lòng đất, phát ra tất cả số bạc trộm trong ngân khố ở đó, lại thấy rất nhiều của cải, trang sức trộm từ nhà dân. Tên hòa thượng nọ tuy bị trung gậy vào đầu hôn mê bất tỉnh nhưng chưa chết, cũng bị bắt giải đến công đường. Mã đại nhân thấy vụ án nghiêm trọng, dám chậm trễ, liền cùng với quân Bát Kỳ đồn trú tại Linh Châu đốt đèn thẩm án cả đêm. Tên hòa thượng nọ dẫu bị tra hỏi gắt gao nhưng thà chết nhận vì biết tội mình quá nặng, nếu cung khai ắt phải chịu cực hình tùng xẻo, thà chịu tra tấn công đường đến chết cũng còn nhàng hơn. Mã đại nhân trước tiên sai người đánh hòa thượng Chuột hai mươi hèo nặng. Thấy lão vẫn ngoan cố, mực rằng mình là hòa thượng vân du hóa duyên, Mã đại nhân liền mắng: " Thằng tặc tử to gan. Những chuyện phóng hỏa giết người toàn là thủ đoạn của bọn sư hổ mang như nhà ngươi. Bây giờ bốn phương đầy đao binh, dân tình lầm than, làm gì có thức ăn mà bố thí cho sư sãi, hơn nữa người xuất gia chỉ ăn chay niệm Phật, vốn trọng đạm bạc thanh bần, làm sao có được thể tạng phì nộn như ngươi được? Đúng là ăn thịt người mới như thế. Bọn hung đồ gian xảo như ngươi còn dám khua môi múa mép trước mặt bản quan hay sao? Tội lớn tày trời thế nào mà ngươi tưởng rằng che giấu được hay sao?" hòa thượng Chuột vẫn bao hoa: " Thiện tai! Thiện tai! Bởi Phật tổ từ bi nên bần tăng càng đói càng béo đó thôi." Mã đại nhân biết lão cắn răng chịu hình, nghĩ bụng: "Để bản quan xem xem ngươi có phải La hán đúc bằng gang thép ?" Đoạn lão liền lệnh cho tả hữu dùng đại hình tra tấn nhưng được hại đến tính mạng của hòa thượng Chuột. Bọn hình quan, công đường làm những gì? Đương nhiên chúng có nhiều thủ đoạn để đối phó với lũ ác tặc mà cần đến đao to búa lớn gì. Chỉ thấy chúng lột sạch quần áo người hòa thượng Chuột, bịt mắt lão bằng miếng vải đen, treo ngược lên , sau đó dùng sáp nóng rỏ vào gan bàn chân, cách này được đặt tên là " Từng bước nảy son".Gan bàn chân là nơi tập trung nhiều huyệt đạo, cực kỳ mẫn cảm, chỉ cần rỏ năm ba giọt sắp nóng xuống là đỏ tấy lên. Hòa thượng Chuột cho dù là Kim cương La hán cũng chịu thấu, gào lên thảm thiết ra tiếng người. Quả nhiên, hòa thượng Chuột chịu nổi cực hình, cuối cùng đành dốc miệng cung khai hết. ra thế gian này có đám giáo đồ tà ma, chuyên cắt sinh thực khí của người chết, phối với dược vật ngũ hành luyện thành đan dược để ướng. Phép đó gọi là Kim Cương thiền. Muốn luyện đến cảnh giới tối cao cần phải ăn thịt đủ trăm sáu mươi thai nhi và trẻ con mới thành . Hòa thượng Chuột chính là tên trong đám đó. Đám người này hành hết sức quái dị, thủ đoạn thần bí, hơn nữa thường nuôi các động vật bên mình để sai khiến, to có lợn, dê, bò, ngựa; tới côn trùng, sâu kiến, loại gì có. Dân thường hiểu tường tận, ngoa truyền càng lúc càng kinh khủng, tới mức cho rằng bọn chúng là bọn "Tao Súc", tức là đám người biết thuật, phục thuốc để bết người sống thành súc sinh rồi bán kiếm lời. Kỳ thực, người luyện Kim Cương Thiền chỉ yếu dùng xác chết để luyện bùa thuốc, rồi cho thú vật ăn vào khiến chúng bị nghiện dể chịu sai bảo. Hồi thiên hạ thái bình, trọng lễ nghĩa, văn hóa, ít khi tìm được xác chết vô thừa nhận, đám nghiệt đồ đó phải lén quật các phần mộ mới. lột da róc thịt xác chết ra để luyện tà pháp. Nay có loạn Việt khấu, giặc cướp ở các nơi nổi dậy như ong, sau mỗi lần chiến nổ ra, thi thể vô chủ nằm ngổn ngang khắp nơi, tà phái sắp tuyệt diệt này lại có cơ hội phực hưng. Lão hòa thượng này họ Phan nên còn gọi là "Phan hòa thượng". Phan hòa thượng bản tính ngu độn, biết chữ, cũng chẳng biết vì sao có tật nghiện xây lầu dựng tháp. Sau khi lão xuất gia, lão giết thầy thiêu chùa, trở thành nhà sư hoang. Trước đây, lão chuyên bắt cóc trẻ con đem bán, thân thể lão béo phì như con chuột trắng, nên còn có biệt danh là hòa thượng Chuột. Lão này chuyên giả bộ ngây ngô như bọn trẻ con lên ba để dễ gây án ở Linh Châu và các vùng lân cận. Về sau, khi tập Kim Cương Thiền, biết thủ đoạn khống chế chuột, lão liền nấp trong Hòe vên hoang vắng bế quan t u luyện. Lão sai khiến đám chuột lớn trộm bạc trong công khố nên quan binh có nằm mơ cũng thể ngờ rằng bạc lại bị chuyển ra qua hang chuột. Hòa thượng Chuột chẳng hề coi trọng quan phủ là gì, tuy bị giải đến công đường chịu nhận đại hình tra tấn nhưng thái độ vẫn hết sức ngạo mạn. Lão , tuy rằng thất thủ bị bắt nhưng chẳng qua do sơ ý trúng phải quỷ kế, cùng lắm chết mà thôi, hai mươi năm sau lại thành trang hảo hán. Nhưng trong ngoài thành còn có nhiều đồng bọn của lão, bổ khoái của nha môn dẫu có tài thánh cũng đối phó nổi phép tiên của "Tạo Súc", sớm muộn bạc trogn ngân khố cũng bị lấy hết dể dâng lên Tổ sư gia. Mã đại nhân nổi giận lôi đình, thương nghị với Đề đốc Đồ Hải rằng: " Thiên hạ này, những kẻ nhân luyện tà thuật là bọn xấu xa đáng tởm nhất. Từ xưa các vị hiệp khách chuyên tru diệt lũ này. Sử sách chép rằng chúng nó tuyệt tích từ thời Ngũ đại, thế mà tới triều ta ngày nay vẫn còn đám nghiệt đồ dư đảng. Theo ý của Đề đốc đại nhân, chúng ra nên xử trí lũ này thế nào?" Đề đốc Đô Hải tuy là đại quan thống lĩnh quân vụ trong vùng , nhưng ngoài bản lĩnh đấu đá chốn quan trường, chẳng có tài cán gì, thực là kẻ ngu si hèn kém. Cả đêm thẩm vấn khiến buồn ngủ díp mắt, ngủ gật bị Mã đại nhân hỏi, liền ngáp cái, hít hít lọ thuốc xông cho tỉnh, nhỏm nửa mông, hướng về phía Bắc chắp tay : "Nước Đại Thanh chúng ta hồng phúc tày trời, đương kim Hoàng thượng càng minh thần vũ, sao có thể dung da đám thối tha làm chuyện hung ác này được? Nếu bắt được cần gì hỏi nhiều, đến sáng cứ theo luật mà xử quyết, tới lúc đó, chúng ta đến xem đổ máu cũng vui." Tuần phủ Mã đại nhân lập tức đón lời: " Bản quan cũng có ý đó, hòa thượng Chuột này tuy chỉ là tên trèo tường khoét vách thối tha, đáng để Hoàng thượng bận tâm nhưng án này thực , pháp luật thể dung tha. Hơn nữa, lão theo tà giáo, vả lại còn chưa bắt được lũ đồng đảng Tạo Súc, nếu tống vào tử lao lâu ngày chỉ e chúng giở thủ đoạn cởi gông phá ngục chạy trốn, hoặc tuyệt thực tự tận để tránh phải chịu cực hình. Chi bằng cứ cho nhanh chóng tronh vòng ba ngày, giải ra chợ lăng trì trước bàn dân thiên hạ, giã nát xương cốt để giương cao pháp độ của triều ta." Kỳ án trong Hòe viên thành Linh Châu tạm thời kết thúc ở đây, thường có câu thơ rằng: " chớ bàn họa phúc hôm nay;Dữ lành sau nữa ai hay thế nào?" Hẵng còn chưa biết bọn Trương Tiểu Biện bị quan phủ xử trí ra sao, lại cũng chưa vì sao Lâm Trung Lão Quỷ lại bảo họ làm những chuyện dị thường như thế, rốt cuộc bên trong còn có những mưu kinh người nào khác? là: " Đời loạn nào đâu còn lẽ phải; Trời gieo kiếp nạn dấy tai ương." Muốn biết chuyện sau thế nào, hãy xem Tặc miêu quyển ba