Ma thổi đèn - Thiên hạ bá xướng

Thảo luận trong 'Các Thể Loại Khác (Kinh Dị, Trinh Thám..)'

  • ^^! Nếu bạn không gửi link bài viết trên Facebook được, hãy sử dụng link trong khung này để chia sẻ bài viết :
    1. Skye

      Skye Well-Known Member

      Bài viết:
      698
      Được thích:
      5,624
      Chương 54

      Quá long binh

      [​IMG]
      ây gỗ Kiện Mộc này phần chóp khá rộng rãi, có rất nhiều mũi tên đá gắn vào theo đủ phương hướng khác nhau, nhìn từ xa lại, trông như là tán cây. Kỳ thực, những mũi tên đá này là hóa thạch của loài sinh vật biển, có các đường vân khá giống như đường vân vỏ trai vỏ ốc, xem ra phải do bàn tay con người gắn vào, mà do từ thời viễn cổ, bọn chúng bám vào thân cây tựa như lũ ốc bám vào cọc gỗ bây giờ, hình thành nên kỳ quan hiếm thấy.

      Tôi bị Tuyền béo kéo ngã lăn xuống, trong tiếng kêu kinh hãi của những người còn lại, bỗng thấy lưng nhói đau, hóa ra đập trúng mũi tên đá chìa ra. Mũi tên ấy như tán cây, đỡ chúng tôi lại, nhưng thứ sinh vật biển hóa thạch này cứng hơn gỗ cả trăm lần, đập cái mà tôi đau điếng cơ hồ muốn gãy mấy dẻ xương sườn, suýt ngất.

      Có điều, chuyện đen đủi còn ở phía sau. Cây gỗ này có rất nhiều mũi tên đá, đan xen chằng chịt, tạo thành hơn trăm chỗ bình đài nghiêng nghiêng, tựa như từng tán từng tán cây tùng cây bách già mọc chìa ra nơi vách núi. Những khi triều lên, đảo u linh bị nhấn chìm, nước biển qua lỗ thông cao, năm năm tháng tháng xối xuống “tán cây”, những mũi tên đá thân cây tuy gắn rất chắc, nhưng dần dà khỏi nứt rạn, số thậm chí gãy lìa rơi xuống.

      Tôi và Tuyền béo đập vào “tán cây” như thế, vẫn chưa kịp bò dậy, mũi tên đá bên dưới nứt toác thêm, hơi khựng lại, rồi “rắc” tiếng gẫy lìa. Hai thằng lại tiếp tục lăn xuống, sau khi đập gãy thêm ba bốn mũi tên khác, mới dừng lại được.

      Tuyền béo sợ nhất là bị rơi từ cao xuống, khí thế ngút trời bình thường của cậu ta lúc này bay sạch sành sanh đâu chẳng , cứ ôm chặt lấy bắp đùi tôi, nhắm tịt mắt lại gào lên: “Tư lệnh Nhất ơi, nể mặt Đảng, nể mặt nhân dân, mau kéo tôi lên với!”

      Tôi vốn được da dày thịt chắc như Tuyền béo, sau mấy cú va đập, xương cốt toàn thân nhức nhối vô kể, lại bị cậu ta ôm riết lấy chân, nên tự chủ được mà từ từ trượt xuống. Tôi nghiến chặt răng, vận hết sức dùng con dao thợ lặn đâm vào thân cây thần mộc, dù gì cũng coi như tạm thời ngăn được đà trượt xuống, nhưng bắp đùi sắp bị Tuyền béo bóp cho đứt lìa đến nơi mất rồi. Cúi đầu nhìn xuống, chỉ thấy con giao lão cắm đầu cắm cổ bò lên, những mũi tên đá chúng tôi đụng gãy vừa nãy lao phầm phập xuống, cắm hết vào mình nó, máu tươi phun như suối, nhuộm đỏ cả nước biển xung quanh.

      Giờ mà rơi xuống, dù may mắn bị con quái vật tởm lợm kia nuốt chửng cũng đập người vào mấy tượng nô lệ mới ngập nước ngang lưng kia mà vỡ đầu chết tuốt. Tôi dồn hết sức bình sinh, quên cả cảm giác đau đớn thấu xương thấu cốt hành hạ, tay dùng dao găm bổ vào cây thần mộc, tay kia bám vào mũi tên đá, từ từ nhích dần lên từng chút , kéo theo Tuyền béo bám chặt phía dưới. Chỉ cần có thể đứng lên “tán cây”, là có thể tiếp tục leo lên chỗ mọi người rồi.

      Tôi và Tuyền béo nhích dần lên, nhưng chưa được nửa mét con dao găm quá giới hạn chịu đựng, lưỡi dao gãy lìa ra làm đôi. Con dao gãy, tôi chỉ còn lại cánh tay bám vào mũi tên đá là vận sức được, toàn bộ trọng lượng cơ thể và cả Tuyền béo đều đeo cả vào đó, ngón tay thoắt tê cứng, mắt thấy sắp chuội ra đến nơi, tình hình đến mức thể cứu vãn, chỉ đành nhắm mắt lại chờ chết.

      Đúng lúc này, đột nhiên có người tóm lấy cánh tay tôi, trọng lượng đeo nặng dưới chân cũng bất ngờ giảm phần nào, mở mắt ra nhìn, ra là Shirley Dương thấy chúng tôi gặp nguy, vội cùng Cổ Thái leo xuống tương trợ, kéo tôi và Tuyền béo lên. “Tán cây” dưới chân chịu được trọng lượng của bốn người, gãy sụp xuống. Cũng may là ngay trước khoảnh khắc ấy, chúng tôi kịp bám vào thân cây, mới bị rơi xuống theo.

      Mũi tên đá này rất lớn, trọng lượng sợ phải đến mấy trăm cân, từ cao rơi xuống, lực rơi ít nhất cũng phải cả tấn. Chỉ thấy mũi tên dẹt đầu xoay vòng vòng cao rơi xuống, phang thẳng vào đầu con giao lão, rồi lại bật ra rơi tiếp, “ùm” tiếng, cắm xuống mặt nước. Cái đầu cá khổng lồ của con giao lão bị phạt lìa hẳn nửa, máu tanh phọt lên cao mấy mét liền.

      Lúc này, con quái vật giao lão bị phạt mất nửa cái đầu ló ra khỏi mặt nước, chúng tôi mới nhìn được diện mạo của nó. Chỉ thấy thân thể nó dài gấp mấy lần cá voi, e rằng chỉ có loài Liopleurodon tuyệt chủng từ trăm triệu năm trước mới có thể sánh bằng, lại lởm chởm đầy cuống rốn và vảy đen, cái đầu nó từa tựa đầu cá trê, bên mang mọc ra mấy trăm sợi xúc tu dài cả chục mét, dưới bụng có mười đôi vây, răng như những chiếc móc ngược, cái mõm cá rộng ngoác mỗi lúc mở ra khép vào đều xộc ra những luồng hơi tanh tưởi nhức cả mũi.

      Con giao lão nương theo dòng nước ngầm phun lên bám vào cây gỗ Kiện Mộc, bị mũi tên đá rơi xuống cắt mất nửa cái đầu, song vẫn chưa chết hẳn, ngược lại còn trợn trừng cặp mắt cá xám đục, to như quả bóng, nhìn chằm chằm vào vệt ánh trăng lọt xuống qua lỗ hổng phía , bộ dạng trông cực kỳ điên cuồng, dẫu bị thương rất nặng, cũng quyết chịu trở lại đáy biển.

      con cá mập xanh bị dòng chảy níu lại, luống cuống biết chọn đường thế nào, lại đâm đầu vào chỗ cây thần mộc, liền bị con giao lão vươn xúc tu quấn lấy, nhét tọt vào miệng nhai sống, mùi máu tanh trong gian càng thêm nồng nặc khó chịu. Con quái vật chẳng buồn để ý đến thân thể nó chảy máu như suối, dùng mười cặp vây trợ lực, tiếp tục bám leo lên cao. Chúng tôi trông thấy con quái vật máu chảy ròng ròng ở bên dưới vẫn có thể ăn tươi nuốt sống cả con cá mập hung hăng như , trong lòng càng thêm kinh hoảng, nào còn dám nhìn kỹ hơn, vội cố sống cố chết leo lên càng cao càng tốt, tránh nạn được thêm phút nào hay phút ấy.

      Đúng lúc ấy, hải khí ngưng kết trong Quy Khư hoàn toàn tiêu tan, hỏa vụt tắt, mất ánh sáng màu trắng nhờ, trong bóng tối chỉ còn nghe thấy tiếng nước cuộn sục sôi, vách núi nứt ầm ầm, tựa như cả bầu trời muốn sụp đổ. Mặt nước khắp bốn phương tám hướng dâng cao nhấn chìm di tích thành cổ, tạo thành xoáy nước bên dưới cây thần mộc. Chúng tôi bám vào những mũi tên đá đỉnh cây thần mộc, hồn xiêu phách tán, xương cốt toàn thân mềm nhũn ra như bơ xốp, dám nhúc nhích động cựa chút nào.

      Đám tượng nô lệ bằng đồng dưới chân cây gỗ Kiện Mộc bị nước xối dữ dội, nghiêng ngả va đập vào nhau, ngã đổ rầm rầm, các dây xích chịu được dòng chảy mãnh liệt, đứt rời ra, bắn tung lên từng đoạn. Cây gỗ Kiện Mộc cao lớn dị thường trải qua ức vạn năm này cắm nghiêng xuống đáy biển, cũng liên tục phải chịu đựng các đợt sóng ngầm xung kích, lúc này bị đứt gần hết dây xích chằng giữ bên dưới, có nguy cơ gãy đổ bất cứ lúc nào.

      Đa Linh sức đơn lực bạc, tố chất tâm lý thể sánh với những người khác, gặp phải đợt chấn động mãnh liệt u trời long đất lở trước mắt, kinh hoảng đến nỗi thốt nổi nên lời, cứ đờ ra nhúc nhích được. Lúc này, bầu lại dường như có sấm sét, trong tiếng ầm ầm, thân cây gỗ rung lên, Đa Linh chân tay mềm nhũn chuồi ra, thân thể tuột xuống dưới.

      Tôi và Shirley Dương trông thấy lăn xuống khỏi đỉnh cây gỗ, lập tức vươn tay ra, định tóm lại, song cây gỗ Kiện Mộc rung lắc quá, nên cả hai đều chộp vào khoảng . Chớp mắt cái, Đa Linh rơi xuống mặt nước cuồn cuộn. Trong màn nước đen tối, chỉ có thân hình khổng lồ của con giao lão thấp thoáng , nào có còn bóng dáng Đa Linh đâu nữa, chỉ e ngay lúc vừa chạm xuống nước bị con quái thú ấy nuốt chửng mất rồi.

      Cổ Thái thấy Đa Linh ngộ nạn, trợn trừng cặp mắt vằn đầy những tia máu, định nhảy xuống nước tìm . Tôi vội nắm chặt thắt lưng, kéo giật cậu ta lại, người rơi xuống đó làm sao còn sống nổi nữa, nhảy xuống cứu người cũng chỉ là tự đâm đầu chết uổng. Có điều, lúc này tiếng sóng nước ầm ầm, núi lở biển sụt vang động, nhấn chìm hoàn toàn mọi thanh khác, lại thêm sóng làm tai chúng tôi đau nhói, ai có thể nghe ai gì, tôi có cách nào với Cổ Thái được, đành ra sức níu chặt cậu ta lại, tránh để cậu ta xuống nước chết uổng.

      Đột nhiên có cơn gió lạnh ập vào mặt, tôi ngẩng lên nhìn, chỉ thấy cao có mấy chục dòng nước lớn đổ xuống, long hỏa hải khí nham tầng tiêu tán, xem tình hình lại sắp hình thành xoáy nước lớn nữa rồi. Có lẽ đây cũng là lần cuối cùng xoáy nước xuất ở vực xoáy San Hô, tầng nham thạch đứt vỡ, khiến mấy xoáy nước nối liền thành con rồng nước ngoằn ngoèo, hàng vạn tấn nước biển đổ xuống tựa như dựng lên trong Quy Khư bức tường nước khổng lồ.

      Lực kéo do tầng nham thạch dưới đáy biển đứt gãy gây ra, khiến điểm cao nhất của Quy Khư, cũng tức là hòn đảo u linh lộ ra mặt biển bị tách lìa ra ở chỗ lỗ hổng. Dưới biển xuất khe sâu lớn, nước biển từ độ cao hơn trăm mét bên đổ xuống ầm ầm như sấm. Hệ thống quẻ Chấn, tuy là huyền cơ người xưa thiết kế để đưa người chết ra biển, song sợ rằng ngàn vạn lần họ cũng thể ngờ được, sau nghìn năm, nó lại khiến Quy Khư chấn động tách ra làm đôi thế này. Quả đúng là Chấn kinh bách lý, lực chấn dộng này phải lan xa đến khắp cả vùng biển vực xoáy San Hô rộng lớn, nào đâu chỉ có trăm dặm. Quẻ tượng trong Dịch rất nhiều, vậy mà người nước Hận Thiên lại cứ chọn quẻ Chấn thượng chấn hạ làm đường tống tiễn người chết, lẽ nào trong quẻ tượng ấy dự đoán được đất nước này bị hủy diệt, cùng với biến hóa xảy ra ở chốn Quy Khư cả nghìn năm sau?

      Mặt biển xuất vệt nứt trông như vết sẹo khổng lồ, sâu chừng hai trăm mét, rộng khoảng bảy tám chục mét, đường nét và những chỗ lồi lõm hai bên rất đối xứng, tựa như có lực lượng siêu nhiên khủng khiếp xé toạc mặt biển ra vậy. Đỉnh cây thần mộc chỗ chúng tôi đeo bám vào, nằm ở chính giữa khe nứt, bốn bề và dưới chân là nước biển sôi sục, thế nước chấn động cả đất trời, chỉ có bầu lộ ra cao là tĩnh lặng đến bất thường. Trăng sáng cao, những vì tinh tú lấp lánh như cát li ti phủ khắp bầu trời. Nhìn biển khơi trưng ra gương mặt dữ tợn nhất của mình, và bầu trời sao bình yên tĩnh lặng như mộng ảo, mấy người chúng tôi nhất thời đều ngẩn ngơ thất thần, ngỡ bầu trời đêm cao kia chẳng qua chỉ là giấc mơ mà thôi.

      Con giao lão lúc này cũng bị nước biển xối cho cựa quậy nổi nữa, có điều, còn trông thấy ánh sáng lấp lánh của trăng sao trời, nó lại càng liều mạng bám chặt vào cây gỗ Kiện Mộc. Nước biển và dòng nước ngầm bên dưới phun lên hòa lẫn vào nhau, chẳng mấy chốc lấp đầy cả Quy Khư. Có điều, khi nước ngầm bên dưới phun lên nữa, mặt biển vẫn cuồn cuộn xoáy nước đường kính rộng tới mấy dặm. Trung tâm của xoáy nước này chính là ở chỗ cây thần mộc cắm xuống đáy biển, nước liên tục bị hút vào trong, cơ hồ vĩnh viễn thể đổ đầy động đáy bên trong châu mẫu hải. Chốn Quy Khư mà rất nhiều thư tịch cổ đề cập đến rốt cuộc cũng để lộ bộ mặt . Ngoại trừ động quỷ ở thành cổ Tinh Tuyệt ra, thế gian này đích thực vẫn còn số vực sâu đáy mà con người vẫn chưa thể thăm dò hoàn toàn, Quy Khư này chính là trong số đó.

      Giờ đây, trong Quy Khư hình thành lực trường cực mạnh, ngừng hút nước biển vào. Cây Kiện Mộc khổng lồ cắm nghiêng xuống đáy biển bị khoét rỗng từ nghìn năm trước để làm con đường siêu độ vong hồn, giờ đứng giữa dòng nước xiết khủng khiếp, thân gỗ rốt cuộc cũng xuất những đường nứt gãy, cả nghìn pho tượng nô lệ bằng đồng dùng để cố định cây gỗ bị hút xuống đáy sâu. Biến động dưới đáy biển kéo theo những cơn sóng cao như quả núi, mắt thấy mặt biển tách đôi sắp sửa khép lại, nhưng chúng tôi ở đỉnh cây Kiện Mộc khổng lồ chỉ biết nhìn mà thở dài tiếc nuối. Kiện Mộc chỉ là cái cây khổng lồ từ thời viễn cổ, chẳng thể nào thông lên tận mặt trăng. Chỗ chúng tôi đứng cách mặt biển quãng, hoàn toàn nằm ngoài khả năng có thể vượt qua của con người. Thời khắc này, chỉ có mọc thêm đôi cánh họa may mới thoát được khỏi đây.

      Cả bọn chúng tôi cơ hồ còn ý chí, tinh thần lẫn thể lực đều cạn kiệt, mặt mũi thẫn thờ, chỉ biết bám vào mũi tên đá nhắm mắt chờ chết. Đúng lúc ấy, cây gỗ lại lắc lư trận, rồi bất thình lình đổ vật xuống. ra, con quái vật giao lão bị mũi tên đá rơi trúng, phạt mất nửa cái đầu, thương thế vốn đủ trí mạng rồi, song nó quá khỏe mạnh dẻo dai nên chết ngay tại chỗ, mà vẫn lòng bám lên cây thần mộc để cắn nuốt ánh trăng. Dòng chảy xiết bên dưới, cộng với sức nặng của con quái vật khổng lồ, khiến đoạn cây gỗ Kiện Mộc dài dễ đến hai chục mét bị lay lắc gãy lìa ra.

      Đỉnh cây gỗ Kiện Mộc lởm chởm tên đá xòe ra như tán cây có lực nổi khá lớn trong dòng nước, vả lại thân cây cắm nghiêng, nên đoạn gãy bị xoáy nước hút xuống đáy sâu, mà ngược lại còn được nước dâng đẩy nhanh lên mặt biển phía . Cơ hồ như cùng lúc ấy, vết nứt mặt biển cũng khép lại, che kín dòng chảy ngầm hỗn loạn trong Quy Khư bên dưới. Con giao lão ôm chặt đầu khúc cây Kiện Mộc gãy, cùng chúng tôi nổi lên, nhưng vì mất máu quá nhiều, rốt cuộc cũng trợn trừng cặp mắt xám xịt mà chết, kéo theo dòng máu tanh đen thẫm dập dờn phía sau.

      Chúng tôi ngờ lại tìm được đường sống giữa cõi chết, đều ngạc nhiên đến há hốc mồm miệng, tròn mắt nhìn nhau, ngẩng đầu trông ánh trăng lành lạnh tỏa chiếu xuống mặt biển phẳng lặng, thực lòng tin nổi mình lại có thể sống sót thoát ra khỏi Quy Khư. Nhưng bọn tôi còn chưa kịp mừng rỡ, phát cái xác to khủng khiếp của con giao lão vẫn bám cứng vào đầu kia khúc cây thần mộc. Khúc cây dài gần hai chục mét, căn bản thể nào nâng được cái xác quái thú nặng nề, e chỉ nổi được lúc rồi bị kéo chìm xuống mất.

      Khúc cây lúc này vẫn chưa trôi ngang qua đảo u linh chìm nghỉm, lực hút của Quy Khư tạo ra mặt biển vòng xoáy mơ hồ theo chiều kim đồng hồ. Khúc cây nổi lên nhanh, chìm càng nhanh hơn, chớp mắt có hai phần ba ở dưới mặt nước rồi. Trong óc tôi lóe lên ý nghĩ: “ có tàu thuyền làm sao rời khỏi vực xoáy San Hô này được? Khúc cây Kiện Mộc này há chẳng phải bè cho chúng ta vượt biển hay sao? Có nó là vẫn còn tia hy vọng có thể thoát ra khỏi vùng biển quỷ quái này.”

      Nghĩ tới đây, tôi dám chần chừ do dự nữa, vội gọi Tuyền béo giúp sức, giật lấy con dao lưỡi cong của Cổ Thái, ra sức chém bổ xuống cái xác con giao lão. Cổ Thái tựa như kẻ si đần, cứ đờ đẫn nhìn đăm đăm về phía trước, đôi mắt tuyệt đối còn chút sinh khí nào, miệng lẩm bẩm: “Sư tỉ cũng chết rồi...”

      Chúng tôi tuy rất đồng cảm với cậu ta, nhưng giờ là thời khắc quan trọng quyết định sống chết của cả bọn, chẳng ai còn thời gian mà khuyên giải gì nữa. Tôi và Tuyền béo, Shirley Dương đều tranh thủ từng giây từng phút chặt chém cái xác con quái vật biển sâu. Minh Thúc cũng như phát điên bò lại, dùng răng cắn vào những cái vây bám chặt lấy thân cây. Cả gian tanh nồng, máu tươi phun tóe ra, nhưng cái xác con giao lão quả thực quá lớn, vảy thịt vừa dày vừa cứng, chúng tôi trong tay có mỗi dao găm và đoản kiếm, rốt cuộc chỉ còn biết mở mắt trân trân nhìn khúc cây xoay tròn trong xoáy nước mặt biển, từ từ chìm xuống.

      Tôi cuống đến nỗi tim đập thình thịch, cơ hồ muốn vọt cả lên miệng. Tình hình này đúng là hết cách rồi, còn mau nhảy xuống nước, ắt bị khúc cây và xác con giao lão kéo theo xuống đáy biển, nhưng nhảy xuống vùng biển vực xoáy San Hô đầy rẫy cá mập này cũng cần dũng khí rất lớn. Đằng nào cũng chết ở đây, thà bị kéo xuống Quy Khư chết đuối còn hơn là bị lũ cá mập ấy phanh thây xé xác.

      Tôi do dự, biết có nên nhảy ra khỏi khúc cây hay , mặt biển bỗng cuộn sóng lăn tăn, thình lình nổi lên rất nhiều khối đá ngầm lớn, nâng cả khúc cây Kiện Mộc lên. Sau hồi lắc lư lảo đảo, khúc cây chầm chậm chuyển động về phía Tây.



      Minh Thúc sợ trượt chân rơi xuống biển, ôm riết lấy mũi tên đá, kêu lên: “Chú Nhất này, cũng may là Minh Thúc này bình thường làm hơi bị nhiều việc tốt, tích được phúc đức, thành thử ra cát nhân mới có thiên tướng, lần này các chú theo tôi, coi như là nhặt được cái mạng về rồi đấy. Đây là do Ngư chủ tiên sư với Mẹ tổ phù hộ, ‘Quá long binh’ đấy!”

      Hồi xưa tôi ở Phúc Kiến, cũng từng nghe chuyện “Quá long binh” ở Nam Hải, tượng này cũng như Hải thị thần lâu, là kỳ quan hiếm gặp vô cùng. “Quá long binh” là chỉ lũ cá voi hoặc rùa biển kết thành đàn, ló lưng hoặc mai lên mặt nước, nhìn từ phía xa, cảnh quan cực kỳ hoành tráng. Ngư dân cho rằng tượng “Quá long binh” cũng có điềm hung cát khác nhau, nếu là đàn cá voi hoặc đàn rùa biển nổi lên thời là điềm lành, nhưng nếu có lượng lớn các loài cá biển cùng nổi lên mặt nước, lại là dấu hiệu năm đó mất mùa hải sản, đại họa sắp giáng xuống đến nơi.

      Kỳ thực, tượng “Quá long binh” này, là do đáy biển có biến cố quá lớn, khiến các loài thủy tộc phải kết thành bầy mà di cư nơi khác. Có khả năng, chính là hải khí ở vực xoáy San Hô biến mất, đàn rùa trong Quy Khư mới buộc phải nổi lên mặt nước, vừa khéo nâng cả khúc cây Kiện Mộc chúng tôi bám vào lên theo. Hồi trước, tôi và Tuyền béo cũng từng trông thấy rất nhiều mai rùa trong động Bách Nhãn ở giữa thảo nguyên và sa mạc. Ở hang động “Quy miên địa”, hải khí biến ảo, tạo thành ảo ảnh tòa thành cổ. Giờ nghĩ lại, di tích cổ ấy, chính thị là mộ cổ trong Quy Khư. Trăm nghìn năm trước đây, ở vùng biển vực xoáy San Hô này, nhất định cũng có mấy lần đàn rùa phải di cư, có điều, lũ rùa biển năm đó đào tẩu khỏi Quy Khư, đều chôn xác trong động Bách Nhãn ở thảo nguyên cả rồi.

      Minh Thúc nhắc bọn tôi tranh thủ thời cơ, mau cầm dao chặt đứt rời xác con giao lão kia ra. Tôi thấy tình có cơ xoay chuyển, lại nghĩ đến hai thầy trò Nguyễn Hắc và Đa Linh đều vĩnh viễn ở lại chỗ tận cùng của dư mạch Nam Long, trong lòng khỏi bồi hồi hụt hẫng, bỗng cảm thấy toàn thân bải hoải, đứng cũng vững nữa, bèn thuận thế ngồi xuống. Có điều, tôi vừa chạm tay vào khúc cây, liền có mấy mảng gỗ tróc ra rơi xuống nước, cúi đầu xem thử, lại thấy những vết nứt thân gỗ thoắt cái sâu rộng hơn rất nhiều. Tôi giật bắn mình, kêu lớn: “Chết cha, khúc gỗ này bị nước biển xối vào bao nhiêu năm, giờ cực kỳ yếu ớt, xem chừng sắp vỡ tung ra đến nơi rồi!” Còn chưa kịp nhắc những người khác, khúc cây nổi dập dềnh toác ra.

    2. Skye

      Skye Well-Known Member

      Bài viết:
      698
      Được thích:
      5,624
      Chương 55

      Người Hà Lan bay

      [​IMG]
      ây gỗ Kiện Mộc cắm trong Quy Khư nghìn vạn năm mục ruỗng là nhờ cả vào sinh khí bất diệt của dư mạch Nam Long, giờ đây khi rời khỏi Quy Khư, lại liên tiếp va đập mạnh mấy lần, lớp vỏ cây xù xì, cùng với những hóa thạch sinh vật biển trông như những mũi tên đá gắn chặt đó bắt đầu thi nhau bong tróc. Xác con giao lão bị sóng biển nhồi quật cũng từ từ trượt khỏi khúc cây nổi dập dềnh. Chúng tôi đoán chừng con “thuyền độc mộc” thiên nhiên này chẳng mấy nỗi nữa bị sóng nước quật vỡ, nhưng dưới bầu trời đêm lấp lánh đầy sao, bốn bề là biển cả mênh mông vô tận, cũng chẳng còn biết phải làm sao. Chuyện tới nước này, thôi đành thuận theo tự nhiên, số trời bảo thế nào phải nghe vậy mà thôi.

      Tôi nhìn đàn rùa dập dềnh bên cạnh, vắt óc nghĩ đối sách, chợt thấy cái mai rùa cách chỗ mình xa lắm hình như có người nằm sấp. Người này mặc bộ đô lặn có tiêu ký màu vàng, trông hết sức nổi bật, mái tóc dài buông xõa, chẳng phải Đa Linh còn ai vào đây được nữa? nằm im bất động mai rùa, biết là sống hay chết. Con rùa lớn trôi nổi theo dòng biển, đột nhiên lại chìm xuống, thân thể Đa Linh lập tức bị sóng biển đẩy sang bên.

      Có thể sau khi rơi từ cây gỗ Kiện Mộc xuống, Đa Linh chết, mà dựa vào tài bơi lội của dân mò ngọc, bám vào con rùa lớn chạy thoát khỏi Quy Khư, được nó kéo theo lên mặt biển. Tôi thấy Đa Linh lăn từ mai rùa xuống biển, trôi qua bên cạnh “con thuyền độc mộc”, bèn kịp nghĩ ngợi gì nhiều, vội gọi Cổ Thái tiếng, rồi nhao đến đoạn cuối khúc gỗ, bám vào mũi tên đá nhảy xuống nước, tóm tóc Đa Linh kéo lại. Bọn Cổ Thái cũng vừa kịp chạy tới, mỗi người góp chân tay đưa Đa Linh lên khúc gỗ.

      Tôi bám vào mũi tên đá leo trở lên khúc gỗ Kiện Mộc, chỉ thấy Shirley Dương ra sức cấp cứu. Đa Linh sắc mặt tái nhợt như tờ giấy, bất tỉnh nhân , nhưng sau khi được cấp cứu, rốt cuộc cũng ọe ra vài ngụm nước biển, có chút sức sống trở lại.

      Tôi như gỡ được tảng đá lớn đè trong lòng, đưa mắt nhìn Cổ Thái, thấy cậu ta hướng về phía Đông dập đầu bái lạy, hình như cảm tạ Nguyễn Hắc trời linh thiêng, phù hộ cho Đa Linh từ cõi chết trở về, lại giống như quỳ lạy tổ tiên Đản nhân nhà cậu ta. Tuyền béo đỡ Cổ Thái dậy : “Đừng đập đầu vào khúc gỗ làm gì nữa, thằng nhãi này, cậu còn chê nó chìm chưa đủ nhanh hay sao? Cám ơn trời đất cái quái gì chứ, cái chết thuộc về giai cấp vô sản, năm xưa cậu đây vào núi đổ đấu...”

      biển kỵ nhất là nhắc đến những chữ “lật, đổ, chìm”, Tuyền béo còn chưa dứt lời bị Minh Thúc bịt mồm lại: “Thằng béo này, cả bọn sắp bị cậu hại chết rồi đấy, khinh núi chớ khinh biển, những lời phạm vào đại kỵ này mà cũng dám ra à!”

      Tuyền béo lập tức bốc hỏa lên đầu, định lên án kịch liệt quan điểm hoang đường của lão khọm già phản động, nhưng đúng lúc đó, cả bọn bỗng cảm thấy dưới chân rung mạnh, ai nấy nghiêng ngả xiêu vẹo hết lượt, đứng vững nổi nữa. Khúc cây dưới chân ngừng toác ra, tróc từng mảng từng mảng lớn. Tôi thầm kêu tiếng, mới rồi còn tưởng khúc gỗ này ít nhất cũng nổi được khoảng hai ba tiếng đồng hồ, nhưng giờ xem chừng nó sắp bung bét hết đến nơi rồi.

      Lúc này, đàn rùa lặn xuống đáy biển, hiểu đâu, mặt biển mênh mông trải rộng hút tầm mắt, tuyệt nhiên thấy bóng dáng vật thể gì khác. cơn sóng ập tới, phần khúc Kiện Mộc nổi lên mặt biển bị đánh vỡ tung. Cả bọn chúng tôi rơi hết xuống nước, đành bám lấy vài mảnh gỗ trôi nổi dập dềnh. Vùng biển này có rất nhiều cá mập, mà dẫu may mắn gặp phải lũ cá dữ, cứ ngâm mình trong nước biển lạnh như băng thế này, thử hỏi chúng tôi cầm cự được bao lâu đây?

      Tôi đeo theo tấm gương đồng nặng nề, bám vào mấy mảnh gỗ, nhưng mảnh nào cũng mục nát bươm ra, làm sao chịu nổi sức nặng của người, đành phải kéo chốt cứu sinh vai. túi khí phồng lên, nổi bồng bềnh sóng nước. Tôi thầm kêu khổ trong lòng, chợt nghe Shirley Dương gọi lớn: “ Nhất, mau xem , có tàu kìa!”

      Tôi tưởng mình nghe lầm, ở vùng biển vực xoáy San Hô này làm sao lại có tàu được? Nhưng lúc này, bọn Tuyền béo cũng nhao nhao reo hò ầm ĩ, hình như đúng là có tàu . Tôi định thần nheo mắt nhìn lại, ra phải tàu bè ở ngoài vào. Cây gỗ Kiện Mộc khổng lồ vốn bị khoét rỗng, bên trong chất đầy các loại đồ bồi táng kỳ quái, sau khi cây gỗ ấy vỡ ra, những thứ bên trong liền tung lóe trôi nổi mặt nước, trong đó ngờ lại có cả con tàu cổ còn nguyên vẹn. Con tàu này nông choẹt, cột buồm rất thấp, thân tàu hình bầu dục, trông giống như món đồ bồi táng chuẩn bị cho vong linh dưới đáy biển, theo cách của chúng tôi, nó chính là món minh khí.

      Giữa những cơn sóng xô liên tiếp, trong chốc lát chúng tôi cũng nhìn con tàu này là như thế nào, nhưng khó khăn lắm mới gặp được cọng rơm cứu mạng, đừng là minh khí, mà dù là tàu ma tàu quỷ gì cũng phải leo lên trước rồi tính sau thôi vậy, nếu còn chần chừ nữa, chỉ sợ có sóng lớn, cả bọn ắt bị đánh cho trôi tứ tán.

      Tôi vội tự cổ vũ mình, xốc lại tinh thần, bơi đến bên cạnh con tàu. Phải đến gần mới nhìn , ra đáy con tàu được làm từ cái mai rùa lớn, kích cỡ áng chừng to hơn cái xuồng cứu sinh thông thường chút, năm sáu người lên chắc cũng thành vấn đề. tàu có khoang hẹp, người chui vào được, chứa các đồ bồi táng kiểu như san hô, ngọc thạch gì đó, vì chuẩn bị cho người chết, nên cũng có món nào có giá trị sử dụng cả. Cánh buồm làm từ da cá voi, dây chão bện bằng gân cá mập, còn lại thảy đều giống con tàu gỗ bình thường. Thân tàu trông mới nguyên, vẫn sử dụng được. Nhưng con tàu cổ này chỉ như mô hình phỏng chế mà thôi, nếu gặp sóng to gió lớn, chắc chắn phải vùi thây dưới đáy biển.

      Có điều, bọn tôi cũng lo được nhiều đến thế, vội đỡ nhau leo lên “con tàu ma”, nằm mai rùa thở hổn hển, chẳng ai còn sức lực mà nhúc nhích gì nữa. Giờ phải mùa gió, hải khí ngưng kết ở dư mạch Nam Long tiêu tán, mười phần chắc đến tám chín là phải nơm nớp lo âu như lúc đến nữa rồi, chỉ cần Mẹ tổ phù hộ cho có lốc xoáy hay bão lớn, chúng tôi ở con tàu mong manh này, ít nhất cũng tạm thời lo thành mồi cho cá mập.

      Đa Linh vẫn hôn mê bất tỉnh, những người khác đều mệt lử, uể oải nằm nhắm mắt ngủ, lúc này dẫu trời có sập xuống cũng ai muốn mở mắt. Hai mí mắt đánh nhau hồi, rốt cuộc tôi cũng mơ hồ thiếp mất khoảng hai tiếng, trong đầu vẫn mang máng nghĩ đến thuật Ban Sơn Trấn Hải, vắt óc suy nghĩ xem làm cách nào lợi dụng kỳ thuật của Ban Sơn đạo nhân đưa con tàu mai rùa này trở về đảo Miếu San Hô trong tình trạng có nước uống và lương thực.

      Đến nửa đêm, cơn đói khát trong bụng bắt đầu hành hạ, tôi ngoảnh lại thấy Shirley Dương dậy từ lúc nào biết. dựa người vào cột buồm bằng xương cá voi ngước mắt chăm chú nhìn bầu trời đầy sao. Tôi cũng ngước lên nhìn sao sáng lấp lánh đến xuất thần, những kiện trong lần ra biển này lần lượt tua lại trong óc, từ đáy lòng chợt dâng lên cảm giác bồi hồi, kìm nén nổi liền cất tiếng bảo Shirley Dương: “Mới đầu cũng biết vùng biển vực xoáy San Hô hung hiểm khó lường, nhưng vẫn cắm đầu cắm cổ xông tới, giờ rơi vào cảnh này, minh khí thanh đầu giá trị liên thành chất đầy trong khoang mà chẳng đổi được bình nước lạnh, nửa miếng lương khô. Nghĩ lại mới thấy, lúc đó chắc chúng ta lên cơn điên mất rồi...”

      Shirley Dương : “Chỉ có điên thôi, tôi cùng lắm chỉ ngốc, bị lừa đến đây điên theo .”

      Tôi vội biện bạch: “Tôi có điên cũng là do giáo sư Trần xúi bẩy đấy nhé. ra cũng khâm phục các vị tiền bối cả đời mò vàng trộm mộ thời xưa, cuộc sống chỉ biết hôm nay biết ngày mai, bốn biển là nhà này, phải ai cũng chịu đựng nổi. Sống thế này chẳng biết mỗi ngày chết mất bao nhiêu tế bào não nhỉ? Chắc tôi cũng đến lúc phải sống an phận chút rồi.”

      Shirley Dương khẽ thở dài: “ giác ngộ được như vậy tốt quá, nhưng giang sơn dễ đổi, bản tính khó dời. Trong mắt , cảnh đẹp mãi mãi ở nơi xa, đảm bảo chẳng ngồi yên được mấy ngày đâu mà. Có điều, lần này lênh đênh phiêu bạt biển, tôi cũng chỉ mong Thượng đế phù hộ, đừng để chúng ta trở thành người Hà Lan bay mới được.”

      “Người Hà Lan bay” là tên gọi khác của những con tàu ma, đặc chỉ những con tàu bị nguyền rủa, phải vĩnh viễn trôi nổi biển, thể cập bờ trong truyền thuyết, hồi xưa tôi cũng từng nghe Shirley Dương nhắc đến rồi, giờ nghĩ lại, cũng khỏi thấy sống lưng gai lạnh, vội vàng nghĩ cách dồn chú ý sang hướng khác, quay qua kiểm lại số thanh đầu vớt được trong chuyến lần này.

      Trước đây làm Mô Kim hiệu úy vào núi đào mồ, mười lần gộp lại cũng bằng thu hoạch lần này. Bên trong Quy Khư ở Nam Hải có mấy món đồ tốt, gần như bị chúng tôi vớt hết cả rồi, trong đó quan trọng nhất, đương nhiên phải kể đến Tần Vương Chiếu Cốt kính đứng đầu trong Tần Vương bát kính. Nếu có thể mang thứ này về giao cho giáo sư Trần, cũng coi như hoàn thành được tâm nguyện.

      Có điều, tấm gương đồng này khí quá nặng nề, từ lúc tìm được nó trong xác tàu đắm, tôi vẫn bỏ trong túi chưa lấy ra xem, lúc này rỗi việc bèn tiện tay lôi ra cùng Shirley Dương quan sát kỹ lưỡng lượt. biển trăng sáng vằng vặc, nhưng dưới ánh trăng ấy, tấm gương cổ lại hề phản chiếu chút ánh sáng nào, mặt gương tổn hại hết sức nghiêm trọng, thân gương khắc chi chít toàn chữ triện li ti. Đồ thời Hạ đơn giản có hoa văn mấy, đồ thời Ân cổ phác mạnh mẽ, hoa văn như vệt sâu bò, nhưng chữ khắc Tần Vương Chiếu Cốt kính lại như đàn nòng nọc, tựa hồ chứa quẻ tượng gì đấy, tôi đoán thứ này có lẽ được đúc vào khoảng thời Tây Chu cũng nên.

      Tôi ngắm nghía tấm gương, khóe mắt chợt dừng lại con nhân ngư bốn chân ở góc gương, liền ngây người ra tại chỗ luôn. Tạo hình của con cá bốn chân ấy rất đơn giản, nhưng mắt cá lại trống , hệt như tấm long phù tôi phát mười mấy năm trước ở động Bách Nhãn. Tấm long phù mắt ấy cũng chẳng là cổ vật từ triều nào đại nào, bị bỏ trong quan tài đồng của Hoàng đại tiên làm minh khí, giờ nghĩ kỹ lại mới thấy tấm long phù và hình nhân ngư bốn chân điêu khắc tấm gương đồng này xét về kiểu dáng, khoản thức đều rất giống nhau.

      Lão Trần mù làm nghề xem bói ở Bắc Kinh dường như biết được bí ảo bên trong tấm long phù, nhưng lần trước vội quá, sau khi tôi nhắc chuyện tấm long phù có mắt, lão chỉ giơ bốn ngón tay lên làm hiệu, sau đó liền biến mất. Tôi từng nghĩ nghĩ lại, song cũng đoán ra “bốn” nghĩa là thế nào? Giờ nhìn thấy tấm gương này có hình trang trí là con cá bốn chân, trong lòng lại càng thêm mờ mịt, lẽ nào lão giơ bốn ngón tay lên là chỉ bốn loại đồ cổ bằng đồng thau, rồng và cá là trong số đó? Còn hai thứ nữa là gì? Những con thú đồng có mắt này, rốt cuộc dùng để làm gì? Bên trong chứa bí mật gì đây? Hình vẽ nòng nọc Tần Vương Chiếu Cốt kính dường như cũng tàng quẻ số, có lẽ mấy thứ long phù long phiếc thần bí này khéo lại liên quan đến quẻ tượng Toàn thiên (Tiên thiên và Hậu thiên) thời Tây Chu cũng nên.

      Quẻ Toàn thiên, bao hàm vô cùng vô tận các cơ số, có thể luận ra đủ loại quẻ tượng. Quẻ tượng phải dùng đến bốc từ để giải đọc, những thứ này đối với kẻ trình độ gà mờ như tôi thực tình còn khó hơn cả lên trời. Nhưng bao đời tổ tiên nhà Cổ Thái đều lưu truyền khẩu quyết nguyên thủy nhất của quẻ Toàn thiên này. Khẩu quyết tuy phức tạp lắm, nhưng nội dung còn thâm ảo hơn những gì hậu nhân của người viết Thập lục tự dương phong thủy bí thuật Trương Doanh Xuyên nghiên cứu nhiều lần. Có điều, các đời Đản nhân xưa nay chỉ coi những lời bốc từ này là phù chú hộ thân dưới đáy biển, dường như hề biết nguồn gốc lai lịch của chúng là từ đâu.

      Nghĩ tới đây, tôi ngoảnh đầu liếc Cổ Thái say ngủ, thầm nghĩ chi bằng đợi cậu ta tỉnh lại, thử hỏi về Tần Vương Chiếu Cốt kính xem sao, biết đâu thằng nhãi này lại hiểu được huyền cơ trong mấy con thú đồng có mắt ấy. Tôi ngồi nghĩ ngợi vẩn vơ Tuyền béo và Minh Thúc cũng lần lượt tỉnh giấc vì đói quá. Mặt biển sóng yên gió lặng, con tàu rách nát này trôi dạt đến nơi nào rồi nữa. Mọi người dốc nốt mấy giọt nước cuối cùng vào thấm cổ họng, rồi bàn xem nếu lát nữa có cá nhảy bay qua mạn thuyền làm cách nào bắt được vài con ăn sống cho đỡ đói. Tôi cũng cảm thấy dạ dày cồn lên dữ dội, bèn gói Tần Vương Chiếu Cốt kính cất , với cả bọn: “Cách mạng chính là ăn cơm, nhồi đầy bụng chẳng có sức làm gì cả, đối với việc ăn uống cần phải có thái độ hết sức nghiêm túc, được qua loa sơ sài, vì vậy chúng ta phải mau chóng...”

      Tôi và Tuyền béo, Minh Thúc bàn bạc qua loa chút, chủ yếu chỉ là nghĩ cách bắt cá. Minh Thúc , ở Nam Hải này hay có cá chuồn nhảy lên mặt nước, kết thành từng đàn lớn đùa giỡn sóng, lúc nào trời sáng, chỉ cần lấy minh châu ra làm mồi là có thể dụ lũ cá chuồn mọc hai cái vây như đôi cánh lướt qua mạn tàu. Nhưng lúc này mới là nửa đêm, chúng tôi ngồi ở mũi tàu đợi mãi mà chẳng thấy bóng dáng con cá nhảy nào cả.

      Tôi chẳng biết làm gì hơn, cũng đành đợi đến khi trời sáng rồi tính sau vậy. Quay lại giữa tàu, thấy Shirley Dương kiểm tra Đa Linh vẫn hôn mê bất tỉnh. Giữa biển lớn mênh mông thầy thuốc, nếu cứ hôn mê mãi thế này, chỉ sợ nguy đến tính mạng mất, tình hình lạc quan chút nào cả.

      Shirley Dương phát tình trạng Đa Linh xấu , vội bảo tôi bắt mạch xem thế nào. Nhưng tôi vừa chạm vào cổ tay Đa Linh, liền cảm thấy dưới ống tay áo hình như có gì đó, như thể đeo đồng hồ vậy. Tôi vốn tưởng là đồng hồ lặn, liền định gỡ nó ra, ngờ, cổ tay Đa Linh lại là cái đồng hồ vàng Tuyền béo gỡ từ cánh tay người chết trong xác tàu dắm. Tuyền béo thấy thế, liền định giật lại cái đồng hồ nhưng mặt đồng hồ gắn chặt vào da thịt cổ tay Đa Linh rồi, có khi phải dùng dao mới cạy ra được.

      Tôi nhìn cái đồng hồ vàng, ngạc nhiên thốt: “Cái đồng hồ này… sao lại ở người Đa Linh?” nghi hoặc chưa biết nào, chợt ngửi thấy trong gió có mùi tanh tưởi xộc lên tận mũi. Chúng tôi từng nhiều lần tiếp xúc với tử thi, đều nhận ra ngay mùi xác thối, nhưng tàu có thi thể thối rữa, mùi ấy ở đâu ra mới được chứ?

      Minh Thúc lại còn buôn bán xác cổ mười mấy năm, vừa ngửi biết tuyệt đối là mùi xác chết. Mấy người hít hà ngửi nhau hồi lâu, mới xác định mùi xác thối này tỏa ra từ Đa Linh, kiểm tra kỹ càng, phát người đích thực là có mấy đốm ban lắm, mũi miệng có mấy giọt chất tanh lòm chảy ra. Ngay từ đầu tôi cảm thấy trong con tàu Mariana bị đắm ấy có gì ổn, cái đồng hồ vàng của thuyền trưởng rất có vấn đề rồi. Giờ tôi chẳng còn lo tổn thương đến da thịt Đa Linh nữa, vội lấy dao găm nạy đồng hồ ra, ném xuống biển.

      Minh Thúc kinh hãi kêu lên: “Chết cha rồi, cái đồng hồ ấy vớt được trong xác tàu đắm, chỉ sợ bị trúng phải thuật Giáng Đầu của người Nam Dương rồi, vứt bỏ phỏng có ích gì chứ? Giờ Đa Linh trúng phải tà thuật, mùi xác thối ấy còn ghê hơn bệnh truyền nhiễm nữa, nếu mau ném con bé xuống biển cho cá ăn chúng ta đừng hòng sống sót trở về.”

    3. Skye

      Skye Well-Known Member

      Bài viết:
      698
      Được thích:
      5,624
      Chương 56

      Cứu mạng

      [​IMG]
      inh Thúc bôn ba ở Nam Dương suốt thời gian dài, thấy cái đồng hồ vàng bốc mùi xác thối nồng nặc, liền nhận định ngay nó bị trúng thuật Giáng Đầu. “Giáng, Cổ, Thống” được gọi là Tam đại tà thuật của Nam Dương. “Thống” là thuật dùng các loại pháp môn mà người bình thường thể tưởng tượng được để chế thành kỳ độc; nguyên lý của “Cổ” nằm ngoài chữ “hoặc”, là loại tà pháp khiến người ta mê thất tâm trí bằng sâu độc; còn thuật “Giáng Đầu”, là thuật sử dụng phù chú, tinh thể, hồn ma làm trung gian hại người, trong đó, các loại “thi giáng, quỷ giáng” đều có thể nhanh chóng hại chết rất nhiều người và súc vật, mức độ nguy hại thua gì ôn dịch truyền nhiễm, cực kỳ khó đối phó.

      Ở vùng Nam Dương, các thủy thủ và thương nhân tàu biển, quanh năm phải giành giật miếng ăn đầu ngọn sóng, nếu bất hạnh gặp phải cố biển, thân thể mồi cho cá thôi, nhưng có số xác chết bị phong bế bên trong xác tàu, hoặc bị sóng biển đánh dạt lên bờ, ngư dân Nam Dương có rất nhiều người coi việc vớt thanh đầu là con đường làm giàu nhanh chóng, hễ gặp xác chết là lột hết đồ đạc đáng tiền người, sau đó bỏ xác cho trương phình thối rữa chứ chẳng thèm chôn cất. Vì vậy, để đề phòng bất trắc, số thủy thủ dùng thuật Giáng Đầu ám lên các đồ trang sức vàng bạc mang theo người, nhằm báo phục lũ hải tặc giết người cướp của, hoặc những kẻ mưu cầu món lợi bất nghĩa thân thể người chết. Kẻ nào lấy vật của người chết vì tai nạn biển, ắt trúng phải tà thuật, chết thảm vô cùng.

      Những chuyện này, tôi và Tuyền béo đều từng nghe loáng thoáng, có điều lúc lặn vào trong xác tàu Mariana, trông thấy cái đồng hồ vàng chóe kia, Tuyền béo lại sao kìm được cái bản tính tham lam món lợi của cậu ta, lòng tham nổi lên có mười vạn Kim cương La hán hợp lực cũng đè xuống nổi, nên mới tiện tay dắt dê mà cầm lên.

      Có điều, sinh khí trong Quy Khư quá thịnh, thuật Giáng Đầu hiển lộ, về sau ai nấy cuống lên chạy tháo mạng, Tuyền béo đánh rơi mất cái đồng hồ ở đâu . Lẽ ra đánh rơi rồi coi như xong, thế cũng là điều may mắn, nhưng chẳng ai ngờ được, cái đồng hồ vàng mang vạ ấy lại rơi vào tay Đa Linh.

      Con tàu mai rùa mà chúng tôi ngồi đây, thực ra to hơn cái bè là mấy, sáu người ngồi là phải chen chúc rồi, vừa có nước, lại cũng có lương thực, có chịu được sóng gió hay còn chưa biết, huống hồ giờ lại thêm Đa Linh bốc mùi xác thối, toàn thân bắt đầu xuất các đốm ban chỉ có ở xác chết. Theo kết luận của Minh Thúc, trúng phải thuật Thi giáng, tuy vẫn còn sống, nhưng thân thể dần biến thành cái xác thối rữa, nếu nhanh chóng ném xuống biển, những người tàu này chắc chắn nhiễm phải ôn dịch mà chết.

      Minh Thúc thê thiết kêu rống lên: “Chú Nhất, chú Tuyền béo... cả Shirley Dương nữa, mọi người phải cân nhắc cho kỹ, đừng vì con bé mò ngọc đâu mà khiến tất cả mất mạng. Sau này trở về đảo Miếu San Hô, Minh Thúc tôi nhất định bỏ tiền làm lễ siêu độ cho con bé. Nó trúng phải thuật Giáng Đầu rồi, đằng nào cũng chết, chúng ta hà tất phải chết theo nó làm gì chứ.”

      Cổ Thái thấy Đa Linh bắt đầu xuất đốm ban như xác chết, lại thấy Minh Thúc làm bộ làm tịch, muốn thuyết phục chúng tôi ném Đa Linh vẫn sống sờ sờ xuống biển, lập tức trợn trừng mắt lên như con thú nổi điên, rút dao găm ra định liều mạng với lão khọm già Hồng Kông ấy.

      Minh Thúc là lão già gian xảo thành tinh, làm sao lại sợ thằng nhãi mười mấy tuổi đầu như Cổ Thái được? Trong mắt thoáng lóe lên ánh hung quang, ràng là động sát cơ, lão lẳng lặng đặt tay lên cán con dao găm lặn nước. Tôi thấy ý tứ của lão khọm quá ràng, việc trước mắt quan hệ đến sinh tử tồn vong, chừng cũng chỉ còn cách giết luôn cả Cổ Thái, ném xác xuống biển để khỏi lưu lại hậu họa sau này.

      Con tàu mai rùa trôi lênh đênh mặt biển dưới bầu trời đầy sao, gió biển nhè phơ phất thổi lên cánh buồm da, biển cả tĩnh lăng đến lạ thường, nhưng khí tàu căng thẳng đến mức cơ hồ như đông đặc lại. Tình hình xem ra cực kỳ nan giải. Tuy Minh Thúc chỉ bo bo muốn giữ cái mạng của mình đòi ném Đa Linh xuống biển, nhưng rốt cuộc cũng chỉ là hành động chó cùng rứt giậu, cơ bản là hơi xác thối từ Đa Linh mỗi lúc nồng nặc, khi để bé biến thành xác thối, những người khác chắc chắn bị truyền nhiễm, đến lúc đó cả bọn đều chết hết ở đây. Có điều, tôi cũng tuyệt đối thể nhìn người sống sờ sờ bị ném xuống biển cho cá ăn được.

      Tôi đành đứng chắn vào giữa Cổ Thái và Minh Thúc, để hai người họ tạm thời thể hạ thủ với nhau. Minh Thúc hét lên với tôi: “Chú Nhất, phải chúng ta vô tình vô nghĩa, muốn trách trách con bé Đa Linh ấy tự nhặt cái đồng hồ vàng lên chứ. Minh Thúc tôi chừng này tuổi đầu rồi, cái gì cần hưởng thụ cũng hưởng thụ hết, giờ chết cũng chẳng còn gì tiếc nuối. Nhưng các các chú còn trẻ, tương lai còn dài, đừng chán sống như thế...”

      Cổ Thái ở sau lưng tôi rống lên: “ Nhất, đừng ném chị tôi xuống biển, chị ấy còn thở mà... còn sống mà!” Shirley Dương cũng rối rít : “ Nhất, chớ có nghe lời Minh Thúc, thế là mưu sát đấy! Chúa tha thứ cho đâu.”

      Hoàn cảnh của tôi lúc này thực vô cùng khó xử, mạng người đổi lấy năm mạng người, bên nào nặng bên nào rất ràng, nhưng đây đâu phải chợ rau chợ cá mà dễ dàng cân đo đong đếm như thế. Tôi lại liếc mắt nhìn sang chỗ Tuyền béo, chỉ thấy cậu ta cảm khái mà rằng: “Nhất ạ, lựa chọn chúng ta phải đối mặt bây giờ, khỏi khiến tôi nhớ đến bộ phim Buổi đầu chiến tranh của điện ảnh Albania, nhân dân Albania hùng là ngọn đèn sáng của châu Âu. Trong phim, đội du kích dũng sáu người ấy có nữ du kích xinh đẹp bị thương, để yểm hộ cho các đồng chí an toàn rút lui, chút do dự lựa chọn ở lại ngăn cản quân Đức, kết quả là bị bọn Đức bắn chết ngọn núi cao. nghiệp mò ngọc vớt thanh đầu của chúng ta, tuy rằng thể gạch dấu bằng với cuộc chiến chống chủ nghĩa phát xít vĩ đại của nhân dân thế giới được, nhưng mà...”

      Tôi nghe Tuyền béo ba hoa tràng giang đại hải mà phát ngán, chuyện gì qua cái mồm cậu ta xong cũng đều biến vị, hỏi cũng như , vội vàng ngắt lời: “Đa Linh phải đội viên đội du kích, có can hệ gì đến điện ảnh Albania đâu?” Có điều, dây dưa trì hoãn được chút, trong đầu tôi nảy ra ý, bèn quay đầu lại với Minh Thúc: “Lúc Nguyễn Hắc hấp hối, nhờ chúng ta đưa Đa Linh và Cổ Thái sang Pháp, lúc đó mọi người đều chính miệng đáp ứng, nhưng giờ xác Nguyễn Hắc vẫn còn chưa lạnh mà định ném xác đồ đệ ông ta xuống biển, thậm chí còn định giết Cổ Thái diệt khẩu, thế là lẽ gì chứ? Tôi từng đánh trận, cũng từng nổ súng giết người, bao nhiêu năm nay trải qua nhiều chuyện sinh sinh tử tử, nhưng bác bảo tôi hạ thủ giết người bạn cùng mình vào sinh ra tử, thế nào tôi cũng ra tay được.”

      Minh Thúc thấy tôi chịu, vội vàng khuyên can: “Có bảo cậu phải đích thân động thủ đâu, chúng ta ném con bé xuống biển cho nó tự sinh tự diệt là được rồi. phải chúng ta ác độc gì, nhưng con tàu nát này, trừ phi Nam Hải Quan hạ phàm, bằng thử hỏi có ai cứu được người trúng thuật Giáng Đầu chứ? Đừng mềm lòng nữa...”

      Tôi vỗ vai Minh Thúc : “Bác đúng rồi đấy, Quan Nam Hải chúng ta mời được, nhưng đồ của Phật gia vừa khéo có món.” đoạn, tôi liền cho tay vào túi Tuyền béo lấy ra chiếc áo phỉ thúy vớt được trong xác tàu đắm. Cỗ bảo y này tám chín phần là để cung phụng Phật tổ trong ngôi chùa lớn nào đấy bên Thái, hiểu sao lại bị trộm ra, rồi chìm theo tàu Mariana xuống đáy biển vực xoáy San Hô. Bộ y phục này, vốn là thánh tích được bao đời cao tăng khai quang, mặc lên người đông ấm hè mát, chẳng những diên niên ích thọ, tiêu trừ bệnh tật mà còn có thể trừ ma đuổi tà nữa.

      Tuy Phật khí khai quang có thể đuổi tà, nhưng đây chỉ là truyền thuyết ở vùng Nam Dương, chẳng biết giả thế nào, song tôi lại biết, ngọc được coi là tinh hồn của đá, thường có câu “nhất phỉ thúy, nhì ngọc thạch, ba mã não”, chỉ là ngọc cổ có thể ngăn thi thể thối rữa, là phỉ thúy lại càng tốt hơn, chỉ cần bọc tấm “Phật y” bằng phỉ thúy này lên người Đa Linh, biết đâu có thể ngăn thuật Giáng Đầu phát tác. , đây cũng là biện pháp khả thi, ít nhiều cũng tốt hơn là mọi người cùng nhiễm ôn dịch hoặc ném Đa Linh xuống biển.

      Mọi người nghe tôi xong, đều lộ vẻ mừng rỡ, vừa nãy đúng là cuống quá hóa hồ đồ, ai nghĩ đến tấm Phật y cứu mạng này, cả bọn vội vàng giúp Đa Linh mặc lên người. Chất ngọc trấn áp được hơi xác, dần dần mùi hôi thối thậm chí còn phảng phất trong gió biển nữa, nhưng Đa Linh vẫn sốt cao, miệng ngừng mơ, có giữ được tính mạng hay là điều rất khó .

      Để Đa Linh dễ thở hơn, Shirley Dương cắt đường ngắn ở gần cổ áo bé, phát cổ Đa Linh đeo mặt dây chuyền hình chiếc hộp , có thể đóng mở. tiện tay mở ra, bên trong có ảnh đôi vợ chồng, Cổ Thái bảo, đó là ảnh cha mẹ ruột Đa Linh.

      Tôi thấy tò mò, cũng ngó đầu vào xem, ngờ vừa liếc mắt nhìn, lập tức sững người ngạc nhiên. Người Pháp trong tấm ảnh bé tí xíu ấy nhìn trông quen mắt quá, giống hệt như bóng ma tôi trông thấy trong xác tàu Mariana? Lẽ nào thuyền trưởng tàu Mariana chính là người cha quốc tịch Pháp thất tán của Đa Linh? Sau khi theo quân Pháp rút khỏi Việt Nam, ông ta bèn ở lại Nam Dương làm nghề buôn lậu, chuyên đánh đồ cổ? Nếu đúng là vậy , vị thuyền trưởng buôn lậu cổ vật này, dùng tà thuật Giáng Đầu để hại người, ngờ lại hại đúng con ruột của mình. Xem trong cõi u minh đúng là có nhân quả tuần hoàn, sợ rằng Đa Linh vĩnh viễn thể tìm được người thân ở bên Pháp rồi.

      Trong đầu nghĩ vậy, song tôi cũng với những người khác, tránh để Đa Linh và Cổ Thái biết rồi lại lo lắng đau lòng. Sau khi sắp xếp cho Đa Linh xong xuôi, mặt trời nhô lên biển, ai nấy vừa đói vừa khát, đành dùng bí thuật của Ban Sơn đạo nhân truyền lại, bắt cá ăn cho đỡ đói, vớt “giếng biển” giải khát, sử dụng phương pháp cổ xưa nguyên thủy nhất để giải quyết tình hình khốn đốn trước mắt.

      Minh Thúc và Shirley Dương dùng gân cá mập tàu làm thành cái lưới lớn lắm, cũng may còn mang theo được hơn ba chục viên minh châu, lấy ra làm mồi, dụ bọn cá chuồn lao lên ngay sát mạn tàu, có con còn tự nhảy luôn vào khoang tàu. Ở Nam Hải có loại sứa trong suốt, dân mò ngọc gọi là “giếng biển”, chúng cũng bị ánh sáng của minh châu thu hút, nổi lên mặt biển. Loại sứa này, sau khi vớt lên, dùng dao găm rạch ra, bên trong có túi mềm trong suốt, tựa như túi mật, đựng nước trong vắt, vừa mát vừa ngọt, tuy mỗi con sứa biển chỉ được chừng ngụm, song cũng tạm đủ để giải quyết mối nguy trước mắt.

      Có điều, ánh sáng của minh châu vùng biển vực xoáy San Hô này quá thịnh, buổi đêm thể đem ra dùng được, sợ dụ lũ cá lớn dưới đáy biển trồi lên làm lật cả tàu bè. Cứ thế, chúng tôi áp dụng phương pháp cổ xưa của Ban Sơn đạo nhân, bắt cá vớt sứa ăn qua ngày. Cũng may, Minh Thúc có kinh nghiệm hàng hải rất phong phú, nhận biết được các dòng chảy, sau mấy ngày trôi nổi lênh đênh, cuối cùng chúng tôi cũng thoát khỏi vùng vực xoáy San Hồ, gặp được tàu bè qua lại gần đảo Miếu San Hô.

      Lúc bọn tôi về đến đảo, giáo sư Trần và Răng Vàng nóng ruột gần phát điên, khổ nỗi tàu bè vào trong vực xoáy San Hô lại liên lạc được nữa, cũng chẳng có ai dám mạo hiểm tiến vào đó tìm kiếm. Hai người họ đành đợi hết ngày này qua ngày khác, trông ngóng đến mòn con mắt, rốt cuộc nhóm trục vớt chúng tôi cũng trở về.

      Chúng tôi lên bờ, chẳng kịp thuật lại những chuyện kinh hoàng trải qua cho giáo sư Trần nghe, lập tức cùng Tuyền béo, Cổ Thái khiêng Đa Linh chỉ còn thoi thóp chút hơi tàn, chạy thẳng đến chỗ tay buôn chợ đen Võ thọt đảo, bảo y mau mau tìm bác sĩ.

      Võ thọt thấy bọn tôi người nào người nấy cháy nắng đen nhẻm, da phồng rộp, quần áo rách rưới bẩn thỉu, khỏi giật bắn mình, thể ngờ lại có người sống sót từ vùng biển vực xoáy San Hô trở về, hỏi tình mới biết Đa Linh trúng phải thuật Thi giáng. Cái đảo Miếu San Hô bé bằng nắm tay này lấy đâu ra bác sĩ, vả lại, có bác sĩ Trung y bác sĩ Tây y gì cũng vô dụng, Đa Linh bị trúng tà thuật của Nam Dương chứ đâu phải mắc bệnh thường. Nếu có mấy trăm phiến ngọc phỉ thủy phủ lên người, e rằng toàn thân sớm phù thũng thối rữa biến thành xác chết từ lâu rồi.

      Võ thọt bảo, có điều các vị cũng chớ lo cuống lên, trong làng chài có vị sư phụ biết thuật Giáng Đầu, mau đến gặp ông ấy xem thế nào. đoạn, y vội dẫn chúng tôi đến nhà ông thầy mo kia. Ông thầy mo thấy Đa Linh bị trúng thuật Thi giáng, dám chậm trễ, vội đốt nến trắng gí khắp người lượt. Da Đa Linh lập tức tiết ra mấy giọt chất lỏng trắng nhầy nhầy.

      Ông vu sư cứ lắc đầu lia lịa, này xem ra hết cứu rồi. Thuật Thi giáng và Quỷ giáng quá độc địa, tuy Đa Linh bốc mùi xác thối nữa, nhưng hơi người sống tan hết, được bọc trong áo phỉ thúy của Phật gia dù có thể chết, cũng chỉ như người thực vật thôi, vĩnh viễn chẳng bao giờ tỉnh lại. Xem tình hình này, mấy hôm nữa sợ rằng có đút cháo đút nước cũng nuốt được, trừ phi bỗng có thi đơn nghìn năm, chừng mới cứu nổi cái mạng của bé về.

      Tôi biết ở vùng Nam Dương này người ta cũng công nhận các thuyết về nội đơn với ngoại đơn. Thi đơn cũng là loại nội đơn, thứ ung nhọt hoặc kết thạch (giống như sỏi thận) vẫn tiếp tục phát triển trong cơ thể sau khi sinh vật chết . Nhưng tình huống cơ thể sinh nội đơn sau khi chết thực quá hiếm hoi. Nội đơn là thứ phải nhờ vào linh khí của trời đất, tinh hoa của nhật nguyệt mới ngưng luyện thành hình, cả đời này tôi mới chỉ trông thấy có lần, chính là thi đơn trong cơ thể con chồn lông vàng. Còn những xác cổ khác, cùng lắm cũng chỉ ngậm trong miệng viên ngọc, lấy đâu ra nội đơn với chẳng ngoại đơn gì chứ.

      Thi thể và nội đơn của con hoàng đại tiên ấy đều bị hủy mất rồi, cái thứ hiếm có khó tìm ấy, nếu phải cơ duyên đặc biệt, cả đời e rằng đến lần gặp cũng chẳng có. Tôi thở dài tiếng, tuy có phụ nhờ vả của Nguyễn Hắc, song đích thực chúng tôi tận hết sức mình rồi.

      Lúc này, giáo sư Trần biết được đầu đuôi tình qua Shirley Dương. Ông già cảm thấy mình cũng có phần trách nhiệm rất lớn đối với việc của Đa Linh, vẻ âu lo lồ lộ nét mặt, muốn giúp mà cũng chẳng có cách nào. Nhưng rồi, hình như ông lại sực nhớ ra điều gì đó, vội lẳng lặng kéo tôi sang bên, thấp giọng thào: “Nội đơn sống trong xác cổ thực là vô cùng hiếm, tôi sống ngần này tuổi đầu rồi cũng chưa gặp bao giờ. Nhưng tôi nhớ từ rất nhiều năm trước... hồi ấy đương là thời kỳ quân phiệt hỗn chiến, ở vùng giao giới giữa Hồ Nam và Quý Châu từng xảy ra vụ xác cổ quấy nhiễu dân tình. Tương truyền, đấy là cương thi đời Nguyên trong mộ cổ Bình Sơn ở Tương Tây, lúc thi biến, trong miệng từng phun ra viên nội đơn màu đỏ chói...”

      HẾT Q 2

    4. Skye

      Skye Well-Known Member

      Bài viết:
      698
      Được thích:
      5,624
      Tặc Miêu

      Thiên Hạ Bá Xướng



      Quyển thứ nhất

      Lâm chung lão quỷ

      [​IMG]
      Hồi thứ 1: Chó húc
      Chuyện kể rằng hồi nọ có ngôi làng tên là Kim Quan, vì sao lại có tên như vậy? Vốn là từ xưa tới nay, quan quach của Hoàng đế gọi là "Tử cung", quan quách của Quý phi gọi là "Kim Quan". Tương truyền ngày xửa ngày xưa, có bà quý phi thưở sinh tiền rất được sủng ái, nhưng vì đắc tội với Thái hậu, phải nhận "tam ban triều điển", tức là bị thắt cổ cho đến chết. Cũng bởi quý phi chết oan, nên đêm đến, hễ chợp mắt, Hoàng thượng và Thái hậu lại mơ thấy bà ta mặc váy đỏ tới đòi mạng. Nhằm an ủi vong linh của bà phi, họ liền cho xây ngôi mộ ở ngoài cõi xa để mai táng thi hài.

      Trước khi mai táng, cỗ Kim quan của bà phi được quàn tạm trong ngôi chùa cổ của cái làng này, nên từ đấy về sau, từ tên làng đến tên chùa cũng bị đổi thành làng Kim quan, chùa Kim quan. Tuy nhiên câu chuyện này giả thế nào, đến các bậc cổ lão trong làng cũng biết . Bà phi nọ ngậm hờn dưới suối vàng cũng hàng trăm hàng nghìn năm, phần mộ hóa đất bằng, chẳng cỏn ai biết đích xác ngôi mộ cổ giờ ở chỗ nào nữa, chỉ còn lại cái tên làng Kim quan và ngôi miếu cũ hoang tàn chừng như muốn sập xuống bất cứ lúc nào làm chứng cho điều đó. Những ngói nát, gạch vụn dường như vẫn thầm thuật lại câu chuyện xác thực của những năm tháng xa xưa.

      Cho đến những năm cuối đời Thanh, khỏi nghãi Thái Bình Thiên Quốc nổ ra quá nửa mảnh giang sơn. Lãnh tụ của Thái Bình Thiên Quốc là Hồng Tú Toàn, người Quảng Đông, cuộc khởi nghãi lại dấy lên ở vùng Quế Tây, Việt Đông, cũng thuộc đất lưỡng quảng, nên thưofi đó người ta gọi là loạn "Việt khấu"

      Trăm họ quanh làng Kim Quan phải gánh chịu nỗi khổ chiến loạn kéo dài gần hai mươi năm, quan quân và nghĩa quân công phạt chém giết liên miên. Mỗi lần chiến qua , thây người lại trải khắp nội, hầu như ai xử lý. Người dân quanh vùng có muốn cũng thể mang chôn cất vì ngừuoi chết quá nhiều, vô số thân xác máu thịt đành cứ thế phơi ngoài đồng hoang, mặc cho chó tha quạ rỉa.

      Chẳng những thế, cả bọn chó làng, lợn nuôi cũng tới ăn thịt người chết. Những con lơn hay ăn xác người trông khác hẳn những con lợn thường, người tinh mắt liếc qua là phân biệt được ngay. Bọn lợn ăn xác ấy béo ú đến phát sợ, da bóng lông mượt, cả đôi mắt nhìn người ta cũng lộ vẻ hung tợn. Tuy lợn béo , nhưng những người nào biết nguyên do cả đời cũng dmas xơi thịt lơn nữa, mà đến nhìn người khác ăn vào cũng còn thấy buồn nôn.

      Trong làng Kim Quan có đứa trẻ mồ côi , họ Trương con thứ ba, hai người chị chết yểu từ lâu nên tự xưng là Trương Tam. Cũng chẳng hiểu tên của là gì, chỉ biết bẩn sinh tóc vừa thưa vừa vàng, tới mười lăm, mười sáu tuổi cũng tết nổi cái bím, đành phải dùng cỏ bện lại gắn bừa vào thành cái bím nho trông như đuôi chó, phàm là người quen đều gọi là "Trương Tiểu Biện"( Trương bím )

      Trương Tiểu Biện nghèo xơ xác, có lấy túp lều trú thân nên thường quanh quẩn trong ngôi chùa Kim Quan đổ nát. hẩy đổ tượng đất, trải ít rơm cỏ nên bệ tượng để ngủ, ban ngày thường đến các nhà giúp gánh nước và làm việc vặt để kiếm chút rau cháo qua ngày. từng có lúc theo học vị sư phó của tiệm quan tài, lại cũng từng nhận vị đạo sĩ bói toán làm thầy. Song cái thời loạn lạc này, mấy ông thầy lo thân còn chẳng nối gì đến chuyện nuôi thêm đồ đệ, thế là mấy cái nghề đó cũng chẳng học được cho ra ngô ra khoai. Có những đạn khó khăn, mấy ngày trời chẳng có gì ăn, Trương Tiểu Biện đnahf quanh sang bắt gà trộm chó hàng đêm cho qua cơn đói khát. biết rằng nahf mình trước khi suy vi có ông tổ làm quan to trong Kinh thành, trong tham tâm vẫn thường tự hao lắm, phải trộm cáp thế này kể cũng lấy làm nhục. Nhưng trong thời buổi binh đao loạn lạc ấy kiếm được miếng ăn đâu phải chuyện dễ dnag, bụng đói khó mạnh, bàn gì đến xuất thân này nọ nũa.

      Mấy năm rồi thiên tai địch họa liên miên, cái ăn trong làng cũng còn xung túc như truớc, đến rau cháo qua bữa cũng khá vất vả. Đêm hôm đó, Trương Tiểu Biện đói đến mức trằn trọc mãi ngủ được. nằm ngang bệ tượng thần, chân vắt chữ ngũ, ngửa mặt nhìn ánh trăng xuyên lốm đốm qua mái chùa nát, trong lòng tính cách kiếm gì ăn cho đỡ đói, chứ thực chịu nổi nữa. Vài năm nay. vẫn quen thói trộm gà bởi trong làng có nhiều nhà nuôi, cách ba bữa lại bắt vài con, trước nay chưa từng trộm trượt bao giời. Chưa từng trộm trượt phải vì may mắn mà bởi tự nghĩ ra ngón trộm gà hết sức độc đáo.

      Quyết ý như vậy, Trương Tiểu Biện liền nhân lúc trăng lu gió lớn, mò vào sân ngoài của mẹ con bà Vương quả pụ trong làng. Nhà này có đàn ông lại nuôi chó, cửa nẻo thấp ., Trương Tiể biện lại thuộc vị trí các ổ gà trog làng như lòng bàn tay, chẳng tốn chút sức nào vượt qua bờ tường và phát ngay con gà mái thiêm thiếp trong chuồng.

      Nhìn song Trương Tiểu Biện bắt ngay mà nhàng thò tay vào trong ổ, thi triển tuyệt chiêu độc đáo của mình, gãi nhè vào bụng của con gà mái. Phàm mỗi khi có kẻ trộm gà hay chồn khoét ổ, bọn gà chắc chắn vỗ cánh kêu toáng lên khiến nhà chủ thức dậy. nhưng, Trương Tiểu Biện có cách riêng của gà, chỉ gãi mấy lượt, con gà mái trong chuồng chẳng nhữung vỗ cánh và kêu toáng lên mà còn tỏ vẻ dễ chịu sung sướng, tựa hồ rất thích thú vì được người ta gãi ngứa hộ.

      Trương Tiểu Biện mừng thầm, chỉ cần bước đâu tiên này thất bại, con gà này kể như vào tay rồi. Nhìn bộ dạng con gà, thầm cáu tiết: "Ông chẳng chiều chuộng mày xuông đâu, đợi khi về đến miếu hoang vặt lông, mày chẳng được dễ chịu như này nữa!" Trong lòng vui vẻ, tay vẫn ngừng gãi cho con gà, tay kia dỡ mái chuồng gà ra, định bụng ôm con gà lên theon lối phía . Nhưng có lẽ vì lâu trộm, ngón nghề có hơi chệch choạch, cũng có khả năng vì mấy bữa đói ăn, tựu trung là tay chân có phần luống cuống, đúng lúc nhấc được con gà khỏi chuồng, chưa kịp ôm cho chắc làm rớt xuống đất.

      Còn gà mái nửa tỉnh nửa mê, lúc sung sướng mơ màng bỗng ngã oạch xuống, lập tức tỉnh cơn mộng đẹp. Đại khái nó cũng hiểu ra đây là kẻ trộm gà, nào chịu buông tha, nó liền lập tức dang cánh vỗ phành phạch, kêu loạn lên, quả nhiênn khiến chủ nhà thức giấc. Chỉ nghe tiếng Vương quả phụ trong cửa sổ chửi vọng ra: "Thằng ranh nào dám vào trộm gà nhà bà! Chắc lại thằng ranh chết bầm Trương Tiểu Biện ở miếu Quan Tài phải ? Bà còn mỗi con gà đẻ trứng mà mày cũng tha hả... " Chửi chưa dứt lời, thấy cửa sổ nhấc lên, thùng nước tiểu vụt bay ra.

      Trưởng Tiểu Biển thấy vật hình thù bay ra, vội rụt cổ tránh. Thúng nước tiểu vốn nhắm chuẩn, va vào tường đánh chát cái, thứ nước khai thối vãi tóe ra tứ phía. biết chuyện chẳng xong, thầm nhủ, ngờ tiếng tăm của Tam gia ta lừng lẫy đến thế, đến mụ Vương quả phụ nghe tiếng gà động mà cũng biết Tam gia ở đây, lại còn tương ra thùng nước tiểu vừa khai vừa thối, rơi vào tay mụ này chắc ốm đòn, tránh voi chẳng xấu mặt nào, giờ mà chạy mà còn đợi lúc nào nữa!

      Nghĩ tới đây, Trương Tiểu Biện dám chậm chễ, vội tung mình nhảy ra ngoài, bên tai còn tiếng VƯơng quả phụ chửi bới liên thanh trng nhà, dường như bảo đứa con Tiểu Phượng sang nhà hàng xóm mượn chó đuổi trộm. Trương Tiểu Biện chửi thầm: "Mụ Vương được lắm! Chả trách người ta vẫn bảo, nhà quả phụ lắm điều nhiều tiếng, lời này chẳng sai chút nào. Ông trộm có mỗi con gà mà nào vào tay ông, cớ sao mụ phải đuổi tận giết tuyệt chớ? Đợi Tam gia ta phát quan, ông đền cho mụ thùng nước tiểu bằng vàng... "

      Miệng cứng như vậy nhưng dẫu sao vẫn có tật giật mình. Các nhà láng giềng xung quanh nhà nào cũng nuôi chó, khi ấy đều bị thùng nước tiểu của Vương quả phụ đánh động, thế là bốn phía chó sủa gà kêu, cả làng loạn hết cả lên, người ta còn tưởng là sơn tặc tới cướp làng nữa. Quả này vạ to rồi, Trương Tiểu Biện biết phải trốn mấy ngày mới xong, nếu cả làng ai chẳng biết trú ngụ ở miếu Kim Quan, nếu bị chặn bắt ở ngôi miếu nát đó chắp cánh cũng thoát nổi, vậy là liền nhân đêm tối, vội vã bỏ chạy khỏi làng.

      Chạy mảnh tưởng đứt hơi mới dám dừng chân, tiếng người kêu chó sủa trong làng bặt hẳn, Trương Tiểu Biện thở phào như cất được gánh nặng trong lòng, vừa thở hổn hển vừa đưa mát nhìn xung quanh để xem mình chạy tới chỗ nào. Chỉ thấy trăng lạnh sao mờ, cây khô cỏ dại, trong lùm cỏ rậm gò mộ nhấp nhô, đá bia lởm chởm, hóa ra lúc nãy hoảng quá chẳng chọn đường chạy lạc vào bãi tha ma phía sau làng.

      Bãi tha ma này nghe phong thủy tốt lắm àm lại là đất vô chủ, ngừoi chết ở làng xa thôn gần đều mang đến đây chôn, vì thế vô số mộ phần chen vai thích cánh, màu đất còn tươi mới là những mộ mới đắp, còn những mộ lâu lắm đầy cỏ dại nhiều đếm xuể. Cách đây lâu có mấy cánh quân Việt khẩu xuất ở địa bàn này, giao tranh áo liệt với quan binh mấy trận, cũng mới vừa rút , bỏ lại chiến trường hàng nghìn xác chết. Xác người kịp chôn cất, rữa nát bốc mùi gây ra đợt ôn dịch , vì vậy dân cư vùng lân cận chết nhiều hơn trước, bãi tha mà này cũng bởi thế mà có thêm nhiều mộ mới. Những nhà khá giả chút mộ có quan tài, bia đá, còn đám người cùng khổ đâu máy mắn như vậy, khi chết có được cỗ áo quan mỏng là may mắn lắm rồi, có khi còn phải lấy manh chiếu gai bó lại rồi vùi xuống huyệt, nắm mồ cũng bé đến tội, còn bia đá bỏ được bỏ, lấy miếng gỗ, cành cây cắm xuống cũng xong. Những ngôi mộ mới được đánh dấu như thế nhanh chóng biến thành những nấm mồ vô chủ.

      Đêm đến, những lúc mây đen mù mịt, bãi tha ma lại thấp thoáng những đốm lửa ma chơi, thỉnh thoảng hai con mèo hoang lao vụt ra từ đám có, thêm vào đó là những thanh quái dị chẳng biết là ma kếu hay sói gào vọng ra tít tắp bên trong khiến người nghe dựng cả tóc gáy.

      Trương Tiểu Biện vốn là kẻ gan to bằng trời, đằng nào cũng có mỗi cái mạng quèn, lại nghèo khổ mạt vận, ở đâu cũng thế cả, vì thế xưa nay đều chẳng đếm xỉa ma cũng chẳng dợ quỷ thần, giả như lớn mặt thế, làm sao đêm đêm dám mình ở tròn cái miếng hoang nhập nhoạng kia chứ. Chỉ có điều tự dưng chạy lạc vào bãi tham ma nhưu thế, cũng tháy hơi sợ, vội vã nhìn tứ phía vái như sảy gạo: "Cái vị đại ca, đại tỉ! Tiểu nhân là Trương Tam dám mạo phạm, chỉ vô tình làm kinh động, xin đừng trách mắng, xin đừng trách mắng... "

      xong, định quay người rời . Chính lúc đó, đột nhiên nghe thấy bên trong nấm mồ sau lưng nổi lên tràng:"Thùng! Thùng! Thùng!", tựa như có người nào dùng hết sức đập vào cánh cửa gỗ. Nhưng, trong bãi tha ma lổn nhổn này, lấy đâu ra nhà cửa thânh ấy nhất định là tiếng đập nắp quan tài rồi.

      Đương lúc đêm khuya, bốn bề vắng lặng lạ thường khiến cho tiếng đập nắp quan tài này càng nghe thêm kinh hồn táng đởm. Trương Tiểu Biện thấy cái bím sau gáy dựng đứng lên, nhưng lập tức bỏ chạy ngay. Cuộc đào thoát bở hơi tai vừa rồi cộng thêm cái bụng đói meo khiến thể nhấc nổi chân lên nữa, chỉ lấy ống tay áo quệt nước mũi, quan sát các nấm mồ xung quanh, lòng thầm nghĩ biết con mả chết toi nào đừa giỡn với Tam gia ta? Tam gia chẳng vừa khấn vái chúng bay rồi còn gì, sao vẫn còn lằng nhằng tha, định dọa để Tam gia phải rập đầu xin chắc?

      Tiếng đập quan tài trong nấm mồ kia càng lúc càng to, Trương Tiểu Biện hồ nghi hay là bọn trộm mộ cạy nắm quan tài? Phải lại đó xem thứ gì tác quái mới được. Nếu đúng là phường trộm mộ, Tam gia ta dọa phen, vừa ăn cướp vừa la làng, phỗng tay của nó ít tang vật, thế gọi là cá lớn nuốt cá bé, càng nuốt càng béo.

      vài bước ra phía sau ngôi mộ ấy. Đó là nấm mộ vô chủ còn mới, gò đất bị ai đó đào lên lỗ lớn, thanh quái di "Thùng!", "Thùng!", "Thùng!" kia từ phía dưới vọng lên. vừa bước tới gần nghe thấy tiếng gầm gừ rất lớn vọng lên từ cái hố bên cạnh nấm mộ, cái mặt đầy lông lem luốc màu máu thò ra. trán nó mọc cái u lớn hình bầu dục, lưỡi thè ra đỏ lòm, ranh nanh bên mép còn dính vết máu, hai mắt lóe lên vẻ hung ác, hằn học nhìn vào Trương Tiểu Biện.

      Trương Tiểu Biện thầm kêu khổ, sao nghĩ đến cái của nợ này cơ chứ! Bây giờ hiểu ra cũng muộn rồi, chỉ còn cách lẩn vào bụi rậm mà thoát thôi.

      ra chó hoang xưa kia và ngày nay giống nhau, sau Giải phóng, xã hội ổn định rồi số loài chó hoang dần tuyệt tích. Còn giữa thời loạn lạc, mạng người như cỏ rác, bởi người chết quá nhiều nên chuyện thi thể phơi giữa đồng ở đâu cũng có, thế nên những động vật ăn xác chết cũng rất nhiều. Ở vùng nông thôn hoang dã có loại chó hoang chuyên ăn xác chết, đánh hơi thấy mùi người chết là bới lỗ mộ, đào xuống đến quan tìa dùng đầu húc vỡ áo quan để lôi người chết ra mà ăn ruột gan. Loại chó hoang này vóc dáng cao lớn, tính tình hung tàn, ăn nhiều phủ ngũ tang của người chết đâm ra muốn ăn bất cứ thứ gì khác, có những lúc gặp người sống đơn độc, chúng cũng bổ nhào đến cắn chết ăn thịt. Những con chó hoang có bướu máu là do ăn nhiều người chết, tử khí ám nặng nề cơ thể, răng có độc của xác chết, bị nó cắn coi như rồi đời. Đặc trưng của nó là trán có cái bướu đỏ màu máu, cứng hơn cả búa sắt. Quan tài của người nghèo vừa mỏng vừa rẻ, cùng lắm dày quá " ba phân gỗ bách", ván quan tài bị loài chó này húc đầu vào vài lượt là vỡ. Những quan tài đơn sơ như thế còn có tên là quan tài "chó húc", ý nghĩ hết sức dễ hiểu. Tang gia mua quan tài "chó húc" về tẩm liệm mai táng người chết là tận tâm lắm rồi, sau đó cái vị trong quan kia cứ ở đấy mà đợi chó hoang đến xơi vậy. Song thời đó đến quan tài "chó húc" ba phân gỗ này cũng đủ mà bán.

      Đúng là: "Người có lòng hại chó; Chó lại có ý giết người." Muốn biết diễn biến thế nào, xin xem hồi sau .
      Hồi thứ 2: Mộ mèo khóc
      Tiếp theo hồi trước, kể đến đoạn Trương Tiểu Biện nửa đêm trộm gà thành, chạy nhầm vào bãi tha mà hoang vắng, làm kinh động con chó hoang húc mả ăn xác. Con chó đào được ngôi mộ mới, vùa húc thủng ván áo quan, cắn toét cả ngực lẫn bụng tử thi, định lôi bộ ruột ra nghe thấy phía sau có tiếng động, liền lập tức chui ra bên ngoài. Đúng lúc đói mờ mắt lại vừa liếm ít máu thịt của tử thi, thấy gã xớ rớ ngoài nấm mộ, hia con mắt vằn tia máu của nó liền long lên sòng sọc, đầy vẻ hung tợn. "Oắc!" tiếng, con chó lao khỏi nấm mộ, xộc thẳng vào kẻ mới đến cắn xé.

      Trương Tiểu Biện thấy nguy, vội la lên: "Có giỏi đứng yên đấy... " Lời chưa dứt quay đầu bỏ chạy, ràng còn cất chân nổi, nhưng trong cơn kinh hoàng, chẳng hiểu lấy sức lực ở đâu ra, sải bước chạy như bay trong bãi tha ma. thừa hiểu rằng, nếu cứ thế mà chạy, chưa được mười bước ắt bị con cho hoang vồ được mà móc ruột ra, vậy là liền nảy ra ý, dùng phắt lại, tránh khỏi cái vồ của con chó đuổi sau lưng, rồi chạy chéo vào sâu trong bãi tha ma, mượn đám bia mộ để nấp tránh né.

      Con chó hoang vồ hụt phát, càng điên tiết, lập tức quay ngoắt đầu lại, gục oặc cái bướu thịt to đỏ như máu, cắm đầu đuổi sát Trương Tiểu Biện chực cắn. Trương Tiểu Biện chạy quanh co quanh rừng bia mộ và các nấm mồ, địa thế bãi tha ma cao thấp lô nhô, ngăn bước truy đuổi điên cuồng cảu con chó hoang. người chó cứ thế đuổi bắt quanh mấy ngôi mộ thành vòng tròn. Con chó hoang hung hăng tàn bạo tuy mắt thấy miếng mồi sống đến tận miệng rồi mà nhất thời cũng khó vồ lấy ngay được.

      Rốt cuộc con chó hoang cũng hiểu ra, nó lòng vòng đuổi theo Trương Tiểu Biện giữa đám mồ hoang nữa, mà nhảy chồm lên ngôi mộ cao, định bụng lấy cái cách ở cao đánh thấp, từ ấy vồ thẳng xuống mà thị người, chiêu này gọi là "chó cùng rứt giậu". Kỳ thực ra, dẫu cho nó làm như thế, Vị Trương Tam gia kia cũng sắp chạy nổi nữa rồi, lúc này thở hổn hển, lồng ngực như muốn nổ tung ra.

      Nhưng chó cùng dứt giậu, người ta khó ló cái khôn, Trương Tiểu Biện thấy mình lâm vào đường cùng, tự dưng cái mật lại to hẳn ra, liền bỏ qua chuyện sống chết, khom lưng ngồi xổm xuống đất chạy nữa. Xưa nay, việc quân chẳng ngại dối trá, chiêu này của Tam gia cũng tuyệt phải cái dũng của kẻ thất phu.

      đêm ở đường làng thường gặp phải lúc chó hoang lang sói. Sau nhiều bài học sương máu, dân gian đúc kết ra số cách phòng thân, có câu tục ngữ rất hay rằng: "Chó sợ khom lưng, soi kinh thúc trống"

      Lang sói, chó hoang dẫu hung hăng đến mấy đều có nhược điểm. Tính đa nghi của loài sói nặng nhất, người đêm mình gặp sói, khó mà khống táng đởm kinh hồn cho được, nhưng nếu bỏ chạy mười phần chắc chin phần là bị sói đuổi kịp mà sơi tái. Thảng như lúc ấy có thể bình tĩnh, giả tảng lờ con ác thú , thò tay vào túi mò bên này, sờ bên nọ, làm những việc mà chính cũng biết mình làm gì nữa, con sói dám mạo hiểm xôg tới cắn, nó nghi ngờ bày mưu bắt nó. Còn bọn chó hoang lại sợ người ta khom người, bởi cho rằng cúi xuống lượm gậy để đánh nó; dẫu cho con chó hung hăng bao nhiêu mặc lòng, bẩm sinh loài chó hết sức sợ những thứ côn bổng ấy rồi. Vậy nên đám hành khất đều đem theo "đả cầu bổng" là thế.

      Nhưng Trương Tiểu Biện cũng that là đen đủi, đại khái là làm nhiều việc bắt gà trộm chó, lúc nào cũng mặt la mày lét, chính khí đủ, lúc này khom lưng, giả tảng nhặt gậy đánh chó mà con chó hoang bị mắc lừa, nó thuận thế nhảy vọt từ nấm mồ xuống, hùng hổ vồ vào Trương Tiểu Biện.

      Trương Tiểu Biện kêu trời tiếng, nghĩ mình chắc phải bỏ mạng ở đây. Chẳng ngờ gò mộ phía sau lưng khe hở, ở chỗ phình ra hình thành cái hang thiên nhiên, bên ngoài cửa hag bị cỏ lác che khuất, có đến gần cũng trông , lúc ấy, bị con chó dữ vồ ngã lăn, cả người lẫn chó cùng rơi xuống hang mộ.

      Khe nứt chỗ gờ mộ tuy sâu, song chỗ cuống khe lại khá chật hẹp. Trương Tiểu Biện người gầy , cứ thế théo đường dốc của khe nứt lăn thẳng xuống dưới, còn con chó hoang kia thường nhật hay ăn ruột gan người chết, thân thể to lớn như con nghé, bị kẹt cứng ở chỗ đường hẹp, giãy giụa hồi, tiến lui đều chẳng được.

      Trương Tiểu Biện giữ được cái mạng, cũng chẳng thiết đến người đau như dần, lúc này rơi xuống bên dưới khe nứt, bốn phía tối đen như mực, xòe bàn tay trông thấy ngón, chửng rốt cuộc mình ở đâu. cố căng mắt nhìn, thấy phía xa xa chợt mờ chợt tỏ tựa như có ánh đèn, liền xốc lại tinh thần mò mẫm đến.

      loáng sau, hết bờ đất, sờ phải bức tường đá lạnh ghê người, rờ rẫm thấy phiến đá to lớn lạ thường, hơi buốt thấu xương. Bức tường đá nứt ra khe hở, qua khe hở thấy đằng sau là gian điện đá, tường gắn đãi đèn chiêu hồn như hạt đậu, cháy leo lét. Trương Tiểu Biện chẳng cần biết hay dở thế nào, cứ thấy có ánh đèn là chui tọt qua khe nứt vào bên trong, đến khi nhìn quanh cảnh bên trong minh điện, càng kinh ngạc khôn xiết.

      Dưới ngọn đèn chiêu hồn đặt loại bệ quan tài bằng đá xanh, bên là thi hài của thiếu phụ trẻ, chừng mười tám mười chín, áo liệm người rộng thùng thình, đính nhiều vàng bạc, trông đến xa hoa lộng lẫy. Xem lối phục sức phải người thời nay, song người thiếu phụ trẻ này tóc mây da trắng, mặt mày thanh tú thoát tục, chẳng giống tử thi chết hàng trăm năm gì cả. Trương Tiểu Biện sợ vẫn sợ, nhưng lúc đường sinh nhai bế tắc, nghèo khổ đói rách chẳng có cái ăn, trước đống châu báu vàng bạc lấp lánh trong ánh đèn chiêu hồn, sao có thể động lòng cho được.

      Trong điện còn bày rất nhiều người ngựa bằng giấy hình thù quái dị, bên cạnh xác chết còn có vũng nước xanh biếc trong vắt. Sau phen chạy trốn vừa rồi, Trương Tiểu Biện thấy miệng khô lưỡi đắng, bèn lất tay vực nước uống vài ngụm cho sướng, cảm thấy mùi vị nước còn ngọt ngào hơn cả nước Cam Lộ, chỉ có điều nước Cam Lộruốt cuộc ra sao chưa từng được nếm thử bao giờ. Uống nước xong, đầu óc tỉnh táo phần nào, tự nhủ thói đời thằng gan chết no, thằng nhất chết đói, là kẻ cùng khổ liều ba bảy cũng liều, vậy là nổi tà niệm, tiến lại gần cái xác, rút tram vàng, tháo vòng ngọc, lột hài thêu... lấy hết những thứ đáng giá, rồi cởi cả tấm áo niệm của thiếu phụ làm thành cái tay nải, vừa làm vừa khấn với cái xác để trấn an: "Xem tiểu nương tử vàng bạc đầy người, hồi còn sống hẳn là quý nhân sung sướng, tiểu nhân sinh ra số khổ, ba tháng nay chưa được nếm thử mùi thịt rồi. giờ còn kế sinh nha, bất đắc dĩ đành mượn tạm vài thứ linh tinh đổi gạo dầu mắm muối qua ngày, xin đừng trách, về sau nhược bằng tiểu nhân được mở mày mở mặt, nhất định đốt vàng, thắp hương tạ ... "

      Đương khi lấy vàng ngọc, Trương Tiểu Biện chợt nghe có tiếng mèo kêu ở phía góc gian điện đá, vội vã quay lại nhìn, chỉ thấy trong góc tối om có con mèo khoang to tướng bò ra. Nhưng việc ngoài sứ tưởng tượng là con mèo đó lại phát ra tiếng người khóc, ai oán như mưa sầu gió thảm. Trương Tiểu Biện từng thấy cảnh đám khóc trước linh cữu khi đưa ma, con mèo khoang này sao lại như khóc điều người chết như thế, chẳng lẽ mèo già dã hóa thành tinh?

      Con mèo khoang to như thể trông thấy Trương Tiểu Biện, có thế trong hai con mắt như hai ngọn đèn đỏ, cất tiếng khóc thống thiết. Trong gian yên ắng dưới lòng đất, tiếng mèo khóc the thé chói tai khiến tự sâu trong lòng Trương Tiểu Biện cảm thấy hết sức bực mình. Con mèo gia này mà cũng dọa ma dọa quỷ, tự dưng trogn lòng liền nảy sinh ác ý.

      Nghĩ đến đây, nhân lúc con mèo khoang đề phòng, bất ngờ cầm cả cái tay nải chứa đầy vàng bạc châu báu đè nghiến nó xuống. Chỉ thấy con mèo khoang giãy giụa hồi rồi bị đè chết luôn tại chỗ. Trương Tiểu Biện nghĩ thầm, bây giờ đói đến nỗi nhấc chân nổi về làng Kim Quan nữa, tam gia ta làm làm cho trot, cứ thịt con mèo già thành tinh này để tế cái dạ dày , xem rốt cuộc đọa hành của con mèo già hay của Tam gia thâm hậu hơn.

      Trương Tiểu Biện to gan lớn mật, ỷ mình hồi trước cũng từng theo học lão đạo sĩ học về bùa bắt quỷ, chẳng them để ý đến mấy chuyện y Địa phủ gì. mổ bụng lột da con mèo khoang, sơ chế hồi rồi nhổ ngọn đèn chiếu mệnh tường ra, gom mấy con ngựa giấy vàng hương lại nhóm lửa, đem thịt mèo quay quay nướng nướng. ngờ tay nghề chẳng tới nơi tới chốn, nướng cháy hết thịt mèo, phần bên ngoài xém thành lớp than đen. Nhưng Trương Tiểu Biện đói cuống cả lên, thằng đói chẳng kén thức ăn, àm ngửi cũng thấy thơm nức, chẳng cần biết có cháy hay , há miệng định đớp miếng mèo nướng. Bỗng đôi tay lạnh ngắt như băng bấm vào cổ từ phía sau và giọng u cất lên: "Thằng kia, ngươi có thấy con mèo hoang trong cung của ta ? Này... thằng ranh chết yểu nhà mày nướng cái gì đấy?"

      Trương Tiểu Biện sợ hãi rụng rời, gan có to mấy cũng chịu nổi nữa, định vẽ bùa niệm chú nhưng trong đầu trống trơn chẳng nghĩ ra cái gì, đành buột miệng trả lời luôn: "... thấy, nướng ... nướng gà". Chỉ thấy phía sau có luồng hơi lạnh phả vào, toàn thân run lên càm cập, mồ hôi ở lỗ chân lông tưởng như đông lại thành băng, giộng nữ ở phía sau lại tiếp tục cất vấn: "Nướng gà sao lại có bốn chân?" Trương Tiểu Biện vẫn bướng bỉnh vặc lại: "Tam gia nướng hai con gà, hai con gà nướng có bốn chân... "

      Có câu rằng: "Diêm La trước điện thêm hảo hán, hồn bám riết biết sao buông?" Muốn biết chuyện ra sao, xem hồi sau .

    5. Skye

      Skye Well-Known Member

      Bài viết:
      698
      Được thích:
      5,624
      Hồi thứ 3: Xác phượng
      Lại , Trương Tiểu Biện lớ ngớ xông vào ngôi mộ cổ, thấy có con mèo già khóc lóc, nghĩ là quái liền hạ thủ giết chết, rồi lột da đem nướng chín, nào ngờ lại làm con ma chết oan trong mộ tới tìm mèo. Trương Tiểu Biện bị nó ở đằng sau bóp cổ, cật vấn nguyên do, liền cãi chày cãi cối rằng thứ mình nướng cháy sém là gà chứ phải là mèo.

      Con ma phía sau nào chịu tin lời, đôi tay lớn lạnh lẽo tựa như cái móc sắt, tàn độc khóa chặt yết hầu của Trương Tiểu Biện. thấy cổ bị thít lại, vội vận sức gỡ đôi tay ma đó ra, nhưung sức yếu, lại thêm bị đói mất ngày, làm sao giằng ra cho nổi,lập tức trợn mắt trắng dã, lưỡi thè ra, quỷ Vô thường tới lấy mạng, mặc cho luyến tiếc dương gian. Tưởng chừng như ba hồn bảy vía của Trương Tiểu Biện sắp sửa rời xác để trở thành oan hồn dưới chân thành Uông Tử.

      Chính lúc sống chết chỉ trong đường tơ kẽ tóc, bỗng cso tiếng nổ như sấm, đất đá trong điện đổ rào rào, tường đá sau lưng bị địa lôi phá thủng lỗ lớn từ bên ngoài, Trương Tiểu Biện bị sặc cát bụi, nước mắt nước mũi chảy giàn giụa, hai tai bị tiếng nổ ù cả lên, đôi tay ma tren cổ cũng biến mất tăm tích. Nhưung vừa loáng thoáng nghe thấy tiếng người sau bức tường bị địa lôi phá vỡ, Trương Tiểu Biện lập tức ngã lăn ra đất giả chết. phiêu bạt giang hồ lâu nên rất nhanh trí, hiểu ngay có người tới chộm mộ, nếu để chúng thấy trong gian thạch này có thêm người sống, chắc chắn cái mạng của phải toi đời, ngộ biến phỉa tong quyền, chỉ còn cách nằm thẳng cẳng giữa đống ngói nát, gạch vụn àm thôi. Mấy năm nay chiến tranh liên miên, người chết đầy khắp nơi, nhiều lần trông thấy cái xác chết chẳng ai thu nhặ nằm ngổn ngang, vì vậy giả làm xác chết cũng khá giống .

      khéo, đúng như Trương Tiểu Biện đoán, ra có hai tên trộm nghe ngóng trong bãi tha ma làng Kim Quan có ngôi mộ triều trước, sau khi lần ra dấu vết và ra sức tìm kiếm, chúng đào được cái hang dẫn vào tới nơi. Trộm mộ là công việc lén lút, muốn vội cũng chẳng được, đầu phải chuyện ngày ngày hai mà xong, lại chỉ thích hợp làm vào đêm khuya, phải mất hơn nửa tháng trời, chúng mới đào được đến tầng gạch mộ .

      Canh ba đêm nay, hai tên trộm mộ mang theo đồ nghề, tiếp tục lẻn vào hang, dùng địa lôi pahs tường mộ, thấy ngọn đèn chiêu hồn trong minh điện vẫn sáng, liệu chừng bên trong cso khí độc, chúng liền thắp đuốc vào. tên khoác áo tơi bước vào trước tiên. thấy ở cửa hang có thiếu niên da bọc xương, mặt mũi lem luốc, nằm ngay đơ xác chết, nén nổi ngạc nhiên, thốt nên: "Ôi!...Quý phi nương nương trong mộ Kim Quan lại cũng có tên đồng tử bồi táng theo cơ à, có điều thằng này hơi lớn phải! Đồng tử tuẫn táng theo phải dưới mười tuổi mới đúng chứ?"

      Gã trộm mộ đằng sau vội giục: "Có khi là tiểu thái giám chưa biết chừng. Hiền đệ chớ hỏi nhiều, chốn minh điện này kị nhát là hai chữ "tò mò" đấy, mau lấy các đồ tùy táng rồi rút cho sớm sửa, may ra kịp về Quan Hoa lâu trong thành tìm mấy em chơi bời cho "

      Hai tên trộm mộ nóng lòng phát tài nên xme kĩ Trương Tiểu Biện giả chết, trước tiên chúng quanh điện vòng, thấy phía tường hậu bị động đất làm nứt ra khe hở đủ cho người lớn lọt qua cũng thèm để tâm, quay thẳng ra chỗ bệ đá, thấy chẳng có quan quách gì ngoài thi thể của thiếu phụ trẻ áo trắng, đồ trang sức nằm trơ bên . Hai gã trộm xiết đỗi kinh ngạc vì thi thể được bảo quản quá hoàn hảo, chẳng khác nào người nằm ngủ, tưởng chừng chỉ cần sơ ý làm kinh động là có thể đánh thức bà Quý phi. Những xác chết mà rữa khô, là do oán hận tiêu, hai là hóa thành cương thi, ba là bị chết mờ ám, chờ được rửa oan, chẳng hiểu bà Quý phi này ra sao nữa? Lạ lùng ở chỗ, có quan quách, hai là có đồ bồi táng. Tương truyền năm xưa cũng có người được mai táng đơn sơ bằng áo giấy và quan tài giấy, có lễ bao nhiêu năm qua, quan quách bằng giấy mục nát hết cả rồi, song có đồ đạc chôn theo khiến người ta bực mình, trot uổng phí bao công sức, chẳng lẽ lại về tay ?

      Trương Tiểu Biện nằm dưới đất nghe thấy hai tên trộm ngoạc mồm chửi bới, nghĩ thầm: "Hai gã này chẳng biết gì, cả bao tiền vàng trang sức bị Tam gia nhà các ngươi gói gém hết rồi, giấu dưới mình đây này, các ngươi trộm hụt đừng nấn ná nữa, mau biến nhanh, biến nhanh ... " mong cho hai tên trộm bỏ chạy cho nhanh vì giả chết khá lâu rồi, cơ thể nằm đóng gạch bắt đầu thấy ê ẩm, muốn thở mạnh cũng dám, thể chịu nổi nữa.

      Vẫn có câu, cướp chẳng về , hai tên trộm sao chịu bỏ qua, thấy người Quý phi nương nương còn mấy bộ quần áo, liền hợp sức dùng dây thừng trói xác phượng lại, lột sạch từng cái . Đáng thương thay Quý phi ngậm hờn mà chết, chiếc thân chín suối còn chưa hóa hết hình hài, tới bây giưof còn bị hai tên trộm lột cho lõa lồ còn mảnh vải.

      Hai tên trộm lấy xong quần áo, còn cạy lấy ngọc ngậm trong mồm và nhét trong hậu môn, những thứ lúc nãy Trương Tiểu BIện chưa lấy, đương định bỏ , chợt thấy xác phượng lột trần kia đúng là tấm thân ngọc ngà tuyệt sắc nằm thiêm thiếp, chẳng giống người chết chút nào, chúng bỗng thấy người nóng ran lên, dục vọng trỗi dậy, nảy sinh tà niệm định giở trò đồi bại với xác chết. Hai gã thường đào trộm cổ mộ, từ xưa tới nay chưa từng trúng quả nào lớn, những tử thi trong quan tài, phải rữa cũng thối, hoặc giả nát bấy, chừa lại mấy khúc xương, còn bà Quý phi này là loại người nào chứ? Là đàn bà mà Hoàng thượng mới có thể ôm ấp ngủ, đêm nay là cơ hội trời cho, cớ sao nếm thử qua chút mùi vị của thằng cha Hoàng đế xem rốt cuộc thế nào?

      Càng nghĩ càng thấy toàn thân nóng ran, miệng khô lưỡi đắng, hai gã tiện tay vục uống mấy ngụm nước mát trong ao, hòng mong nước mát đè nèn lửa dục vòng dâng lên trong lòng. chúng chưa bao giờ giở trò đồi bại với xác chết, có điều đối mặt với tứ khoái họa may có thần tiên mới bỏ được, đứng trước xác chết đẹp tuyệtt rần thế này, mấy ngụm nước vừa rồi chửng những thấm vào đâu mà còn khiến dục vọng trỗi dậy mạnh hơn. Chuyện gì đến đến, chỉ có trời đất mới biết, mày biết toa biết, còn phải do dự gì nữa.

      Tú tài gặp nhau chuyện chữ nghĩa, đồ tể gặp nhau chuyện giết lợn, hai gã trộm mộ ở cùng với nhau bàn cái gì đứng đắn? Chúng xốc tinh thần cho nhau, rồi dùng dây gai treo cái cổ, buộc chập hai tay lại lên đề phòng cái xác có điều gì cổ quái sau đó hai tên nở nụ cười gian hiểm trèo lên bệ đá, định bụng làm phen sung sướng phong lưu như thằng cha Hoàng đế...

      Trương Tiểu Biện nằm ở góc điện chịu nổi nữa, nghe thấy hai tên trộm cười hỉ hả chuẩn bị gian dâm với xác Quý phi, trong bụng cũng có chút tò mò nhưng lại dám sơ suất vọng động, chỉ e làm kinh động hai gã kia. Chợt trong phút chốc, gian mộ bỗng nhiên im bặt chẳng có động tĩnh gì, hia tên trộm nọ như đột nhiên biến mất, khỏi vừa hoảng vừa nghĩ, lại bứt rứt chờ đợi lúc, thấy trong minh điện vẫn có động tĩnh gì, mới nhè quay đầu lên nhìn. Chỉ thấy hai tên trộm nằm phục cái xác lõa lồ của QUý phi, mỗi tên tay nắm cán dao đâm vào ngực của đối phương, tyển mặt vẫn còn cứng đờ nụ cười dâm dục, máu chảy lênh láng mặt đất,c hửng ngờ chết được lúc lâu.

      Lời tác giả: "Kim trì ngọc dịch" (nước ngọc ao vàng) trong minh điện chính là cái bẫy chí mạng, bọn phàm phu sao có thể biết được lợi hại của nó? Nếu uống phải nước này ắt phát điên tới chết, bị oán hồn bàm riết thôi.

      Trương Tiểu Biện vốn biết duyên cớ bên trong, nhưng khi ngồi dậy nhìn chẳng thấy con mèo già bị nướng đâu nữa cũng đoán được hai phần, thứ nước ma đó thể uống bừa uống bãi, bằng có ác quỷ theo đuổi. hết sức sợ hãi, vội đứng bật dậy, định nhặt tai nải châu báu kia rồi cướp đường chạy, chẳng ngờ vừa với tay sờ vào chẳng còn châu báu mà chạm phải vật sống đầy lông mềm mềm. Ngọn đèn chiêu hồn trong điện chập chờn chực tắt, tiếng mèo u lại vọng về từ phía sau

      Đúng là: "Bước vào tới cửa Diêm vương, Cho hay lúc sống mới nhường vui sao" Rốt cuộc trong mộ Kim Quan xảy ra biến cố gì, xin xem hồi sau .
      Hồi thứ 4: Lâm Trung Lão Quỷ
      Trương Tiểu Biện mò phải con mèo già mềm mềm, thấy con mèo kêu lên những tiếng thê thảm như phán quan dưới ty đòi mạng, bất giác chửi thầm: "ĐÁ mọc lông, gà trống đẻ, hay là tại kiếp trước ta nên thân? Sao bao nhiêu quái trong gầm trời này cứ nhè đầu Tam gia ta mà đổ xuống vậy. Cha bố cái con mèo chết bầm, đừng có mà ám ông mày mãi nữa... " Mặc dầu trong bụng lầm rầm chửi bới thôi nhưng thực ra sợ hãi tột độ, ba hồn bảy vía lên mây cả, chỉ giận đôi chân mọc cánh để mau chóng rời khỏi đây. Song vì quá khiếp đảm. cộng thêm cái bụng lâu chưa được xơi gì, tuy muốn trốn chạy, chỉ hiềm nỗi lực bất tòng tâm.

      Trong lúc tinh thần hoảng hốt, Trương Tam gia tự dưng cảm thấy có con mèo khoang to đnag trèo lên đỉnh đầu, ngỡ con mèo đó là ma quỷ biến ra nên đâu dám động đến, đành mặc con mèo khoang luồn lên luồn xuống lúc giũa đỉnh đầu và vai.

      Trươnbg Tiểu Biện chửi thầm con mèo chết bằm khinh người quá lắm, song lại dám làm gì, đúng lúc ấy, trong góc gian mộ bỗng cso người nhỏm dậy. Ngôi mộ bà phi chết oan này bốn góc đều mờ mịt, u, chẳng trông thấy gì, Trương Tiểu Biện nào ngờ ở đó lại có người nấp, hơn thế nữa người này nhất định là có mặt trước khi và hai tên trộm mộ tới đây, có trời mới biết kẻ đó là người hay ma quỷ nữa. vô cùng kinh hãi chẳng biết nên làm thế nào cho phải, đành ngồi lặng chỗ theo dõi động tĩnh của người kia. đến nước này, chẳng quản gì chuyện sống chết nữa, đành mặc cho số mệnh an bài thôi.

      Chi thấy người kia thân thể gầy guộc bé, dáng lòng khòng, nhin fbooj dạng hình như là ông lão già nua, người khoác tấm áo choàng màu tro rách rưới tả tơi, che mặt bằng miếng vải đen, chẳng thể đoán ra tuổi tác, chỉ để lộ đôi mắt nhoang nhoáng như chớp, nhìn thế nào cũng giống người sống.

      Trương Tiểu Biện nhìn tướng mạo người đó, lòng thấy bất an, chẳng trách Quý phi tiểu nương tử có quan tài, thi thể để trơ trơ bệ, ra cỗ quan tài đó tu luyện thành tinh rồi, biến thành lão già gầy guộc. Tốt chẳng đến, đến thời chẳng tốt, lão già kia xuất đúng vào lúc này, chỉ e là muốn lấy cái mạng của Tam gia ta rồi.

      Nhưng ông lão gày gò từ trong góc tường ra kia lại chẳng tehfm để ý đên Trương Tiểu Biện. Lão đến thẳng chiếc giường đá vái cái xác cái, sao đó thêm chút dầu cho đĩa đèn chiêu hồn tường, làm gian trong mộ thất sáng sủa hơn, rồi mò mẫm lúc xác hai tên trộm mộ xấu số, lấy ra bao lương khô.

      Lão già cầm bọc lương khô, run rẩy tới trước mặt rương Tiểu Biện, ném mấy bánh lương khô xuống cho , rồi cũng chẳng thèm câu nào, cứ giương đôi mắt nhìn chòng chọc vào Trương Tiểu Biện dò xét. Đôi mắt lấp loáng của lão nhìn chằm chằm, dường như thấu đến tận xương tủy của người ta, đến nỗi Trương Tiểu Biện nổi da gà, toàn thân khó chịu.

      Đỉnh đầu Trương Tiểu Biện vẫn vắt vẻo con mèo, hết nhìn lão già trước mặt lại ngó mấy bánh lương mặt đất, tự dưng cơn đói nổi lên. ở bước đường cùng chí khí cũng hết, lão tinh quan tài ném lương khô ra đây, chắc hẳn là cho Trương Tam gia ta ăn rồi, ở đời cũng có lúc cũng phải khom lưng uốn gối, vội vã thò tay nhặt mấy cái bánh, tọng cả vào mồm. Tuy mấy cái bánh đều khô nứt nẻ nhưung Trương Tiểu Biện hiểu rằng thứ nước suối trong mộ này, người sống thể tùy tiện uống vào được, đành phải trợn mắt cố nuốt hết vào bụng.

      vừa ăn nhồm nhoàm, vừa tự an ủi mình rằng " người thể chống lại mệnh". Xem ra trước mắt Tam gia còn phải vất vả thêm thời gian nữa, tục ngữ có câu "chớ khinh thiếu niên nghèo", người còn ít tuổi, ngày sau ắt phương trưởng, sông có khúc, người có lúc, biết đâu sau này tới lượt Trương Tam gia ta đổi vận, đến lcus đó, hôm nào chẳng có thịt mà xơi...

      Trương Tiểu Biện để ý đến lão già chăm chú nhìn mình, chỉ cốt sao cho đầy cái bụng, nhưngn chợt nghĩ: "Thối chết! Lão quan tài thành tinh này chắc thèm ăn gan uống máu ta đây, lão thấy ta gầy guộc nên mới vỗ béo trước rồi ăn thịt?" Nghĩ tới đây, bỗng hốt hoảng ngước nhìn lão già che mặt đứng đằng trước, trong miệng lúng búng mấy miếng bánh khô nhưng dám tiếp tục nhai nữa.

      Lão gài nọ chợt cất tiếng: "Kẻ hậu sinh chớ sợ hãi, ngươi có biết lão phu đây là ai ?" Tiếng của lão rào rạo như tiếng cưa gỗ, nghe cổ quái lạ thường.

      Trương Tiểu Biện thấy quái quan tài mở mồm , thầm nghĩ nếu có thể cởi mở với lão, chuyện này mười phần chắc tám là có cơ hội xoay chuyển. thường lưu lạc khắp nơi, thấy được đời nên cũng ít nhiều hiểu được lẽ thói đời ấm lạnh, mấy lối a sua bợ đỡ cũng biết cả, với bụt mặc áo cà sa, với ma mặc áo giấy, vả lại cũng khá là khóe mồm, miệng trơn như bôi mỡ, giờ nghe lão già hỏi thế, vọi cố nuốt ực miếng bánh trong miệng, đáp rằng: "Tiểu nhân là Trương Tam, tuy biết lão tiền bối là ai nhưng là người nghĩa khí đường đường, chắc trng hào kiệt ngày nay... "

      Lão gài nghe thấy thế, biết rằng Trương Tiểu Biện lai lịch của mình, liền gật gật đầu, dẫn Trương Tiểu Biện lại phía tường mộ, dùng tay áo lau hết bụi bặm tên tường, làm lộ ra mảng bích họa đầy màu sắc rực rỡ. Trong tranh vẽ vô số mèo: mèo khoang, mèo trắng, mèo đen... có con ngủ, cso con nô đùa hoặc vồ chim sẻ, muôn hình vạn trạng tuy rằng thần thái khách nhau nhưng đều sống động như , ra là bức bách miêu đồ đẹp.

      Trương Tiểu Biện ngấm ngầm lè lưỡi, chắc là Quý phi tiểu nương nương này nuôi nhiều mèo trong cung lắm. Chết rồi còn muốn vẽ chúng lên vách mộ làm bầu bạn, nhưng biết lão già này rốt cuộc có ý đồ gì khi cho Tam gia xem cái Quần miêu đồ này?

      Trong bụng hồ nghi, chợt nghe lão già phía sau hạ giogj : "Nghĩ cách đếm đủ số mèo trong tranh, nếu sai con cả đời nhà ngươi phải ở lại trong cái mộ Kim Quan này như ta, đừng mong nhìn thấy mặt trời nữa"

      Trương Tiểu Biện nghe lời này cảu lão thất sắc, trước nay vốn biết chuyện ở chốn u minh phải trò đùa, huống chi vừa ròi trong mộ có ma quỷ giửo trò, đích thân nhìn thấy tận mắt, chuyện tới nước này, muốn tin cũng phải tin, chẳng lẽ lão già này cũng bị oán hồn trong mộ nhốt lại mà chẳng thể thoát thân hay sao?

      Lão già vẫn trơ ra như tượng gỗ chút sức sống, gương mặt bịt kín chỉ lộ ra cặp mắt vô thần, thấy Trương Tiểu Biện sợ đến ngây người, đành phải cất tiếng chuyện, kể cho nghe đầu đuôi câu chuyện.

      ra bà Quý phi trong mộ Kim quan này lúc sinh thời nghiện mèo, mèo thành thói, thường nuôi tới hơn trăm con mèo đap, lại làm cho chúng rất nhiều thứ đồ chơi, tỷ như những chiếc tinh xảo, rèm gấm màn thêu... Cậy được Hoàng đế sủng ái, bà phi nghiễm nhiên biến nơi cấm cung đại nội thâm nghiêm thành vườn mèo, nhà mèo. Có điều những con mèo Quý phi nuôi đều là loại quý hiếm, tinh quái lạ thường, khiến cho Thái hậu kinh sợ, liên lụy đến bà phi nọ pahri chịu thắt cổ đến chết.

      Quý phi ngậm hơn mà chết, táng vào mộ Kim quan, Thái hậu ác độc lại thắt cổ hơn trăm con mèo Quý phi nuôi dưỡng, bất luận hay dở đều bị tăhts cổ rồi đem chôn vào giếng vàng trong mộ thất. dóng suốt mát trõng giếng vàng ấy là do oán khí của lũ mèo chết háo ra, kẻ nào uống phải ắt gặp ma quỷ. Vừa mới rồi, coi như Trương Tiểu Biện cao số, nhờ địa lôi của bọn trộm mộ làm cho ngất giây lát, bằng giờ sớm chầu Địa phủ rồi.

      Trương Tiểu Biện nghe đến đây suýt rơi nước mắt, nghẹn ngào với lão già: "Sao cái khố Trương tam tôi lại khổ thế hả trời? Bị cõn chó dữ đuổi lăn xuống đây, lại chưa từng làm tổn thương mảy may đến xác phượng của QUý phi nương nương, chả hiểu ma xui quỷ khiến thế nào, uống pahri mấy ngụm nước mà rước họa đến nông nỗi này... Lão tiền bối chắc cũng cùng cảnh ngộ. Đến cả lão tiền bối cũng chưa từng đếm số mèo tường, tiểu nhân trẻ người non dạ, chỉ e vô vọng mất rồi... Dám hỏi lão tiền bối quý tính đại danh là gì? Quê quán ở đâu? Sao lại có thể hiểu tường tận nguồn cơn trong mộ đến thế: " tỏ vẻ thân thiết, hy vọng lão già đồng cảnh ngộ chiếu cố nếu phải ở lại trong mộ suốt đời. Nhưng dầu sao trong lòng vẫn còn chút nghi ngờ, xong khỏi đưa mắt liếc nhìn, dò ý tứ của đối phương.

      Lão già kia dường như dã hơi mất kiên nhẫn, lạnh lùng : "Lõa phu vân du tứ hải, đâu cũng là nhà, sống đến chừng này tuổi rồi cả tên của mình cũng nhớ nổi nữa. Ngày nay những kẻ biết lão phu đều gọi là Lâm Trung Lão Quỷ. Ta đợi trong mộ Kim Quan này nhiều năm rồi, đêm ngày giữ lăng mộ cho Quý phi, chỉ đợi người số cao phúc dày có thể đếm số mèo trong Bách miêu mê hồn đồ... " đến đây lão già cất tiếng cười khan rào rạo như xẻ gỗ, sừng sộ nhìn Trương Tiểu Biện: "Hà hà..biết đâu người đó chính alf Trương Tam nhà ngươi?"

      Trương Tiểu Biện sững sờ, mắt trông ngọn đèn chiêu hồn trong mộ nhòa , quỷ khí mờ mịt, càng nhìn càng tháy lão gài che mặt nọ phải là người sống, huống hồ chính lão cũng tự xưng là "Lâm Trung Lão Quỷ" gì đó, có điều đổi thành "Mộ Trung Lão Quỷ" có vẻ hợp hơn. Lão quỷ này phải là kẻ trộm mộ càng giống như mình, đâm đầu vào chốn thị phi mà lạc tới đây, nghe ý trong lời của lão, có lẽ đợi trong mộ nhiều năm rồi, có trời mới biết rốt cuộc lão mưu gì? Nghĩ sâu hơn chút nữa, khỏi khiến cho người ta sởn tóc gáy.

      Nghĩ đến đây, Trương Tiểu Biện nảy ra ý định bỏ trốn, liền phụ họa: " ra lão tiên sinh đợi người, tiểu nhân có chút việc gấp, trong nhà còn mẹ gài tám mưoi tuổi chờ bốc thuốc mang về, xin thứ cho tiểu nhân hầu chuyện được nữa.." xong, vội xoay người ba chân bốn cẳng định bỏ trốn, bỗng thấy vạt áo sau lưng bỗng thít lại, người bị lão già tự xưng là Lâm Trung Lão Quỷ nắm chặt, quật thẳng vào vách mộ phía trước như ném con gà con: "Trước khi trời sáng, nếu đếm được cho ra. Đừng trách lão phu vô tình"

      Trương Tiểu Biện đau đến thấu xương, bây giờ gọi trời, trời thấu, gọi đất, đất hay, đành mặc cho người ta sai khiến, bị bắt đếm" Bách miêu mê hồn". Lúc nãy mới chỉ nhìn lướt qua bức tranh như cuoix ngựa xem hoa, tới giờ trấn tính nhìn kỹ, chỉ thấy bọn mèo vách mộ phân bố nhất quán, dường như bên trong còn có ý gì.

      Trước đây, nhưunxg con mèo mà Trương Tiểu Biện thấy đa phần đều xấu chẳng ai thèm nhìn. Thời ấy, nuôi mèo làm cảnh là cía thu tiêu khiển khi trà dư tửu hậu cảu các vương công qúy tộc trong Kinh thành. con Sư miêu hoặc mèo Ba Tư trắng tuyền là hàng giai phẩm, giá bán tỏng Kinh thành rất cao, còn trong làng ngoài xóm, ở chỗ châu phủ tâm thường, đa phần là nhưunxg con mèo giặc, mèo hoang lem luốc, dẫu là thi thoảng có mèo nhà nuôi cũng chỉ là loại mèo mướp chẳng có phẩm cấp gì.

      Trở lại bức tranh Bách miêu đồ trong mộ Kim quan, nửa phía đều là con mèo có phẩm chất cao, mặt tròn răng sắc, thần hình mâpk mạp, thần thái an nhàn. Những con đen tuyền như mây đen phủ tuyết, những con trắng tinh như bình ngọc ngân câu, những con có vằn hổ chẳng khác nào quả tú cầu. Ở giữa bức tranh phẩm cấp mèo hơi kém hơn, càng gân chân tường phẩm cấp càng thấp.

      Dưới cùng là bốn mèo con gày gò giống hệt nhau, chỉ có mỗi đôi mắt là sáng lóa, mất thần thái. Chúng dường như cùng bọc sinh ra. Trương Tiểu Biện nhớ ngày trước ở làng Kim Quan cũng có con mèo hoang sinh tư, mấy ông già hiểu biết về mèo trong làng bảo rằng, mèo sinh càng ít càng quý, con quý hai con đần, ba con kém, nếu sinh tư gọi là "đài kiệu tử"(phu khênh kiệu), chẳng có giá trị gì mà còn hay chết non.

      Trương Tiểu Biện xem đến đây, trong lòng nghĩ ngợi:"Hẳn là thằng cha Hoàng đế thương phi tử xinh đẹp chết thảm, nên tìm tay thợ khéo vẽ đám mèo mà tiểu nương tử vẫn nuôi lên vách mộ để làm bầu bạn. Cứ như trong tranh, Quý phi tiểu nương tử này lúc sinh thời hễ có mèo là nuôi tất, chẳng kể hay dở. Bây giờ, cái mạng của Trương tam gia sắp chẳng bằng bốn con mèo con "khênh kiệu" kia rồi, chỉ cần sơ ý chút là bị lão quỷ tử kia khử ngay. Các vị mèo tổ tiên trời nếu có linh thiêng, nhớ phù hộ cho Tam gia đếm sót,. Nếu giữ được mạng, sau này ta bỏ tiền mời thầy chùa, thầy cúng tới lập đạo tràng cầu siêu cho các vị sớm siêu thoát"

      vừa lẩm nhẩm cầu khấn vừa đếm kĩ số mèo bức bích họa, đếm đếm lại, sau, bảy lần, càng đếm mắt càng hoa, đầu càng loạn, dường như bọn mèo trogn Bách miêu đồ đều sống vậy, trông tưởng đứng im ra trốn đông chốn tây. Hai mắt hơi mất tập trung chút là bức tranh lập tức biến đổi khác hẳn, cứ mỗi lần đếm lại ra kết quả khác nhau, đếm đếm lại chỉ biết được đại khái trong bức tranh có khoảng trăm mười mấy con mèo, nhưng rốt cuộc có bao nhiêu con tài nào đếm ra được.

      Trương Tiểu Biện càng thêm hoảng loạn, dã đờ đẫn rồi mà vẫn muốn đếm tiếp, bỗng nghe phía sau có thanh khác lạ, vội quay đầu lại nhìn, chỉ thấy cái xác vẫn chưa hóa của Quý phi động đậy, nhưng móng ta đột ngột dìa hẳn ra, những đốt tay cương cướng phát ra những tiếng răng rắc.

      Lão già từ đầu đến cuối chăm chú theo dõi Trương Tiểu Biện, cũng nghe thấy tiếng động, lạnh lùng liếc sang xác phượng lẩm bẩm: "Hai thằng trộm ngu xuẩn, biết đào mộ mà biết vật ngậm trong mồm cương thi được lấy ra hay sao? dám cậy lấy ngọc lại còn định giở trò đồi bại, đúng là chán sống... " Rồi lão giơ tay nắm chặt vai Trương Tiểu Biện, gặng hỏi: "Hôm nay ngày xấu, được làm kinh động chủ nhân nữa. mau! vách có bao nhiêu con mèo?"

      Có câu rằng: " lời có thể gây nên họa; Chưa nghĩ cho sâu chớ càn." Sống chết trong đường tơ kẽ tóc, ai dám bạo mồm bậy. Muốn biết thể thế nào, xem hồi sau .

    6. ^^! Nếu bạn không gửi link bài viết trên Facebook được, hãy sử dụng link trong khung này để chia sẻ bài viết :