Chương 39 Điện đồng gồi chiếc xuống cứu sinh , Minh Thúc chợt nhận ra hình xăm lưng Cổ Thái có điều kỳ lạ. Trong hình xăm Thấu hải trận ngoằn ngoèo chằng chịt ấy, ngờ lại có ngọn núi của vùng Quy Khư thần bí, lão kinh ngạc ra mặt, vội vàng báo với chúng tôi thông tin mới mình vừa phát . Mặt nước dập dềnh cuộn sóng, tôi nghe Minh Thúc bảo trong hình xăm có quang cảnh bên trong Quy Khư, bèn ngừng tay chèo, rồi chỉ huy cả bọn cho hai chiếc xuồng áp sát vào nhau, cố định bằng dây thừng gắn móc. Minh Thúc nôn nóng liền hơi: “Đản nhân là dân lang bạt biển từ thời Tiên Tần, hình xăm người Long hộ chính là được truyền từ thời đó đến nay, có thể thấy, Quy Khư bên dưới vực xoáy San Hô này có lẽ chính là sào huyệt của tổ tiên nhà bọn họ. Các chú mau đến xem xem, hình xăm người thằng nhãi này có giúp chúng ta tìm được lối thoát ra bên ngoài kia ?” Chúng tôi mượn ánh sáng phát ra từ tầng nham thạch phía , chăm chú nhìn lưng Cổ Thái. Khắp người cậu ta đều xăm hình cá hình rồng vờn sóng biển, ý là tự cho mình thuộc loài có vảy, lúc xuống biển giết trai mò ngọc bị các loài thủy tộc làm hại, tục gọi là “thấu hải”. Cách thức xăm mình và bí dược sử dụng để xăm xưa nay đều truyền ra ngoài. Tương truyền, từ mười tuổi là Đản nhân bắt đầu xăm mình. Hình xăm Thấu hải trận người biểu thị đứa trẻ trở thành Long hộ, có thể mình xuống biển thăm dò long huyệt. Trải qua năm tháng, tuổi tác lớn dần, hình xăm đó những càng ngày càng thêm nét và phức tạp, mà màu sắc cũng trở nên rực rỡ hoa lệ hơn. Đến khi về già, hình xăm lại dần trở nên mơ hồ mờ nhạt, tới lúc đó Long hộ thể xuống biển mưu sinh được nữa. Tôi từng đặc biệt lưu ý đến hình xăm lưng Cổ Thái, nhưng lúc này nhìn kỹ lại lần nữa, ngờ lại thấy có rất nhiều biến hóa so với trước, thấp thoáng giữa những hình xăm ngư long vờn sóng, còn có tầng đồ án mờ mờ, phải tập trung ánh mắt vào đó nhìn chăm chú lúc lâu mới có thể nhận ra được ngọn núi nhô lên khỏi mặt nước. Ngọn núi ấy rỗng lòng, bên trong có cây trụ đá đổ nghiêng đè lên con cương thi mặt mũi hung dữ nanh ác nằm giữa đống xương người chất ngất. Dưới chân núi là rặng san hô trùng điệp hang động đan xen chằng chịt, cơ hồ có cả mộ huyệt của giao nhân với hình ảnh mấy cái xác giao nhân hình dạng cổ quái vô cùng và bộ xương rồng cuộn tròn nằm sâu bên trong. Cổ Thái hề biết hình xăm người mình còn có hình hết sức chi tiết như thế, lại càng thể bản thân và chốn Quy Khư thần bí này có quan hệ như thế nào. Cha mẹ cậu ta mất sớm, chắc hẳn còn số bí mật của Đản nhân vẫn chưa hết cho cậu ta. Tôi xem kỹ thấy hình xăm Thấu hải trận còn điểm gì đặc biệt khác, bèn vỗ vỗ vai Cổ Thái, bảo cậu ta cần lo lắng: “Nhãi con, coi như cậu được về quê cha đất tổ rồi đấy nhé.” đoạn, tôi giơ ống nhòm lên, nhìn ngọn núi hãy còn cách chúng tôi chừng mấy trăm mét. Đỉnh núi đá xám chì lởm chởm nổi bật nền sóng dập dềnh. Trong Quy Khư hải khí phun trào từng đợt, khí lưu đan xen hỗn loạn, sương khói mù mịt, nhìn qua ống nhòm chủ yếu thấy những đường nét chính, di tích cổ nổi lên từng khối từng khối rải rác sừng sững, đôi lúc phảng phất như có những bóng người hư ảo. Tôi nhìn nhìn lại mấy lượt, sau đó đưa ống nhòm cho Tuyền béo xem. Hai chúng tôi đều mang máng có cảm giác vô cùng quen thuộc. Mười mấy năm trước, trong động Bách Nhãn nằm giữa thảo nguyên Mông Cổ và sa mạc, chúng tôi từng thấy ảo ảnh về tòa thành ma ở Quy miên địa. Kiến trúc cổ xám xịt ấy ngờ lại rất giống nơi đây. Nếu ngọn núi này phải ảo ảnh mặt nước, vậy quá nửa là có liên quan rất lớn đến trải nghiệm lần đó của chúng tôi rồi. Từ hồi xưa tôi có dự cảm rất mãnh liệt, rằng tòa thành cổ mà tôi trông thấy trong ảo ảnh ở động Bách Nhãn, chính là nơi số mệnh định sẵn tôi phải đến, ngờ hôm nay lại ứng nghiệm thế này. Minh Thúc quay sang hỏi Shirley Dương: “Trong đám chúng ta, kỳ thực cũng chỉ có Dương mới là người hiểu biết nhất. xem, hình xăm người cậu nhóc này có phải là bản đồ Quy Khư ? Có nó chỉ đường dẫn lối... chúng ta liệu có... trở về được ?” Shirley Dương : “Đường nét của Thấu hải trận đích thực rất giống địa hình của Quy Khư, ngọn núi nổi mặt nước kia cũng khá giống núi trong hình xăm, nhưng đồ án lưng Cổ Thái quá trừu tượng, cùng lắm chỉ là tiêu chí, thể coi là bản đồ chính xác được. Vả lại, tôi cảm thấy... đây phải ngọn núi, cũng phải di tích cổ thành, mà là… mộ táng người Hận Thiên đúng hơn.” Minh Thúc cả kinh thốt lên: “Mộ cổ của người nước Hận Thiên? Quy mô này hình như hơi lớn phải? Vậy cái xác bị cây cột trụ khổng lồ đè lên, lại còn những ký hiệu lằng nhằng dưới chân núi này là thế nào? Bên dưới cổ mộ có xương rồng hả?” Shirley Dương đáp lời Minh Thúc: “Nước Hận Thiên xưa nay vẫn được coi là ‘Mê tông chi quốc’ trong lịch sử, vả lại, hiểu biết của người đời đối với Quy Khư quá ít ỏi, giờ chúng ta cũng chỉ là suy đoán lung tung mà thôi, kết luận điều gì cũng vẫn còn quá sớm. Lại , sóng biển mỗi lúc lớn, còn tiếp tục ở lại mặt nước, sợ rằng xuồng cứu sinh bị sóng đánh lật mất. Dù phía trước là hung hay là cát, chúng ta cũng chỉ còn cách mạo hiểm xông lên thăm dò thôi vậy.” Tôi và Tuyền béo đều biểu thị đồng ý, nước ở chốn Quy Khư mênh mông bờ bến này lúc lên lúc xuống, biết lúc nào có sóng lớn ngập đầu, ngộ nhỡ xuồng cao su lật, người rơi xuống nước chỉ có làm mồi cho lũ cá dữ dưới kia. Bốn phía mênh mang có nơi nào đặt chân được, chỉ có di tích cổ của người Hận Thiên là nơi tạm thời tránh sóng gió duy nhất. Vậy là, cả bọn lại cầm mái chèo gỗ lên, quạt nước đưa hai chiếc xuồng cứu sinh tiến về phía trước. Tôi ôm đầy bụng nghi hoặc, nén được phải cất tiếng hỏi Shirley Dương: “Hình xăm Thấu hải trận người Cổ Thái cũng kỳ lạ đấy, hay là cậu ta là ‘Người đến từ Atlantic’ nhỉ?” Shirley Dương trầm ngâm suy đoán: “Nước Hận Thiên trơ trọi ngoài biển, cách xa vùng trung tâm nền văn minh Hoa Hạ, vì vậy rất nhiều người tin nơi này từng có nền văn minh thanh đồng phát triển thịnh vượng. Đất nước của bọn họ có lẽ tiêu vong vào khoảng cuối thời kỳ Chiến Quốc, những người sống sót lưu lạc biển, bị giai cấp thống trị Tần Hán coi là Đản nhân. Theo tôi thấy, Cổ Thái chính là hậu duệ của người nước Hận Thiên. Thủy tính tinh thông, cùng với hình xăm miêu tả truyền thuyết về nước Hận Thiên lưng cậu ta, chính là minh chứng nhất.” Trong thuật Ban Sơn phân giáp của Ban Sơn đạo nhân thời xưa, có loại kỳ thuật gọi là thuật tướng, dùng bí dược xăm lên da người, hình xăm lập tức , sau khi ngâm nước muối mới ra. Có lẽ, Đản nhân sở hữu rất nhiều bí phương, trong đó bao gồm cả loại thuốc nước sử dụng vật liệu đặc thù dưới biển để xăm mình. Bí mật cổ xưa của người Hận Thiên được giấu trong hình xăm Thấu hải trận, truyền từ đời này đến đời khác, chỉ khi ngâm vào nước ở Quy Khư mới hiển lộ chân tướng. có điều kiện đó, người ngoài vĩnh viễn thể phát được truyền thuyết giấu về di tích cổ của nước Hận Thiên. Trong các khe sâu dưới đáy nước Quy Khư có suối nước nóng phun trào, ngoài ra, nơi này còn có những xung mạch tần số thấp làm nhiễu loạn tín hiệu điện tử, hiểu là từ thứ gì phát ra nữa. Nước ở nơi này mặn cũng nhạt, đại để chắc còn chứa chất gì mà nước biển ở nơi khác có, nồng độ có lẽ dần tăng theo độ sâu của nước biển, nên thuốc xua cá mập dùng bí phương phối chế của chúng tôi xuống đến độ sâu thích hợp lập tức bị hòa tan. Đồng thời, chất thuốc ngấm trong hình xăm của Cổ Thái cũng nảy sinh phản ứng, tạo nên cái bóng mơ hồ, sau đó, hình xăm bên dưới mới hiển lộ ra ngoài. Nhưng dưới đáy nước Quy Khư kia rốt cuộc có thứ gì vậy? Cửa sinh của nơi này nằm ở đâu? Trong lúc chuyện, xuồng cứu sinh đến gần ngọn núi đá nhô mặt nước. Mấy chục mét phía trước có mấy khung cửa đá lừng lững, màu sắc chất đá rất khác biệt, nhất thời chúng tôi cũng khó phán đoán được nên tiến vào từ đâu. Tôi giơ tay lên bảo cả bọn giảm tốc độ, lúc này ở nham tầng phía , ánh sáng của hỏa bị hải khí nồng đậm che lấp, hỏa chuyển thành màu máu, tựa như có từng dòng máu tươi chầm chậm lưu động phía , nhuộm mặt nước thành màu đỏ sẫm. Ngồi hai chiếc xuồng tròng trành, ngoảnh mặt nhìn bốn phía, cả bọn chúng tôi đều có chung cảm giác: địa hình của chốn Quy Khư thần bí này, càng nhìn lại càng thấy giống trong bụng con cá voi khổng lồ, hỏa ở vách đá cao kia phảng phất như mạch máu của cá voi ngừng lưu thông, trong bụng cá, biển máu cuộn trào, có gió mà nước biển vẫn nổi sóng, xuồng cứu sinh của chúng tôi tựa như hai chiếc lá dập dềnh, vừa thoát khỏi hiểm họa này phải đối mặt với nguy cơ khác. Tuyền béo cuống quýt giữ chặt vòng sắt cố định mái chèo xuồng cứu sinh, kêu toáng lên: “Tư lệnh Nhất, còn mau tiến vào bên trong là chiếc xuồng này tiêu đời đấy, đến đây rồi còn do dự gì nữa chứ?” Tôi thoáng động tâm, liền với mọi người: “Tôi thấy những cánh cổng đá này hề đơn giản, màu sắc khác nhau dường như ngầm hợp với phương vị ngũ hành phải. Can chi ngày hôm nay đều thuộc hành hỏa, con rắn biển kia cùng rơi xuống Quy Khư với chúng ta, vừa xuống đây liền toi mạng, có lẽ chính vì nó toàn thân đầy vảy trắng, trắng thuộc hành kim, phạm phải xung khắc với hành hỏa. Bây giờ muốn sống, theo tôi chèo xuồng tiến vào sơn động có cánh cổng màu đen kia.” Những người còn lại đều gật đầu khen phải, vung chèo quạt nước, tranh thủ khoảng thời gian ngắn ngủi giữa hai đợt sóng đưa xuồng tiến vào cửa động dưới ánh sáng mờ ảo đỏ sẫm như máu. Mới tiến vào sơn động trong lòng núi ngập nước tới nửa ấy, sóng lặng hẳn, hai chiếc xuồng cứu sinh lập tức trôi êm ả. Shirley Dương ngồi ở mũi xuồng gí đèn pha chiếu sáng dò đường, chỉ thấy hang động màu xám chì này hóa ra là gian đại điện bị nước biển xói lở bào mòn, cửa hang kia chính là cửa điện. Cấu trúc gian đại điện này có vẻ cổ phác đơn sơ, hề có mái cong hay đấu củng[49], nhưng quy mô hùng vĩ, dùng toàn đá tảng cỡ lớn, khí thế mạnh mẽ uy phong, phong thái thâm nghiêm hừng hực. Tiến vào lòng điện, gian rộng lớn mà đen tối u ám khiến người ta có cảm giác bất an và ức chế lạ thường. Chúng tôi mới chỉ nhìn thấy nửa cảnh tượng, dưới làn nước xanh u kia, vẫn còn quá nửa di tích bị nhấn chìm. Người xưa thường coi to lớn kỳ vĩ là cái đẹp, vì vậy trong lịch sử cũng thường có những hành động vĩ đại kiểu như đục núi tạo tượng, xây đền xây điện giống như thế này. Thế giới cũng có rất nhiều kỳ tích kiến trúc cổ xưa, đa phần đều là sản phấm của mấy nghìn năm trước. Đức tin chân thành cùng nghị lực sắt đá có thể dời núi lấp biển ấy của người xưa đều là những thứ mà con người đại như chúng ta thể nào so bì được. Chúng tôi ngồi xuồng cao su theo dòng nước tiến vào giữa gian đại điện, thấy cảnh tượng hùng vĩ đều giật cả mình, khỏi thở dài trước khí phách trải nghìn năm dâu bể vẫn vô cùng hoành tráng. Nước biển bên ngoài giội vào vách đá liên tục, ầm ầm vang dội tựa như cả bầy hải thú gào thét, khiến người ta phải run lên sợ hãi, đến hạng người phổi bò chẳng để tâm chuyện gì như Tuyền béo lúc này cũng im thin thít dám mở miệng tiếng nào. Cột sáng đèn pha hai chiếc xuồng cao su liên tục quét khắp hướng, chỉ thấy mặt nước trong gian đại điện sừng sững vô số tượng thần cao lớn uy vũ bằng đồng thau, diện mạo hết sức hung ác điên cuồng, mở mắt trừng trừng nhìn xuống, thần sắc cực kỳ nặng nề nghiêm trọng. số bức tượng ngập nửa người, số đổ vật, nghiêng ngả, làm hư hại cả phần tường và trụ đá, gian điện này được xây dựng khá kiên cố, thấy có vẻ gì là sắp sụp đổ cả. Trong thời kỳ văn minh đồng thau, đồng là trọng khí của quốc gia, kỹ thuật luyện đồng cùng với quy mô mỏ đồng đều là những yếu tố quyết định hưng vong cường thịnh của đất nước. Shirley Dương từng , muốn luyện được món đồ đồng lớn như chiếc Tư Mẫu Mậu đỉnh, chỉ riêng nhiên liệu thôi cũng gần như phải đốt hết mấy trăm mẫu rừng nguyên sinh rồi. Giới hạn về tài nguyên khiến đồng thau trở nên cực kỳ quý giá, chỉ được dùng trong các lĩnh vực quan trọng như nghi lễ tôn giáo hoặc chiến tranh, ngoại giao mà thôi. Nhưng tận mắt nhìn vô số tượng thần bằng đồng thau trong gian đại điện này, có thể suy đoán, từ mấy nghìn năm trước người dân nước Hận Thiên hiểu biết và tận dụng được hỏa dưới đáy biển, cần dùng nhân hỏa và thiên hỏa cũng có thể chế tạo đồ đồng, trình độ kỹ thuật cũng rất cao, khiến tượng đồng ngâm mấy nghìn năm dưới nước mà vẫn suy suyển hư hại. Nếu được tận mắt chứng kiến, người đời sau như chúng tôi e là khó lòng tưởng tượng nổi. Tôi đột nhiên phát đỉnh đại điện hình như có thứ gì động đậy, bèn bảo Shirley Dương chiếu xéo ngọn đèn pha lên. Cả bọn vừa ngước mắt nhìn, tức hít ngược vào hơi khí lạnh. cột trụ của đại điện, có dây xích đồng treo mười mấy cái đầu người bằng đồng thau, mỗi cái đầu ấy có lẽ phải nặng vài trăm cân, trông như thể bị chém đầu rồi mới đem treo lên để thị chúng vậy. Trong góc tối, những thân thể bằng đồng mất đầu nằm lặng lẽ. biết là thứ vũ khí sắc bén gì mà có thể chặt đứt đầu cả người đồng nặng nề to lớn như thế? Shirley Dương cũng lấy làm lạ, lúc nãy nơi đây là mộ huyệt của người Hận Thiên cũng chỉ là suy đoán theo lý, nhưng nhìn những tượng đồng ngả nghiêng, đầu nơi thân nẻo trong gian điện này, tuyệt đối chẳng giống ngôi mộ cổ chút nào. Lúc này, hai chiếc xuồng cao su vẫn chầm chậm tiến lên, có bức tượng đồng thau nghiêng xuống nước, đầu dựa vào trụ đá, nước biển ngập đến vai. Shirley Dương bèn chỉnh ngọn đèn pha chiếu về phía đó, cột sáng dừng lại gương mặt hung tợn dữ dằn. Khi mực nước trong Quy Khư dâng cao, cả ngọn núi này chìm nghỉm, tượng đồng bị nước biển ăn mòn suốt nghìn năm, bám đầy xác các loài sinh vật thích bám nham thạch và kim loại, nhưng pho tượng vẫn còn các đường nét lờ mờ nhận ra được. Minh Thúc thào với Cổ Thái: “Cậu nhóc, tổ tiên của cậu bộ dạng trông như thế này đấy, thành tâm thành ý vái vái , để họ phù hộ chúng ta được trở về bình an.” Cổ Thái hoang mang hiểu gì, nhìn những bức tượng đồng cao lớn, vẻ mặt bất an hỏi Minh Thúc: “Minh Thúc... tổ tiên tôi... sao lại bị chặt đầu thế?” Minh Thúc bị Cổ Thái bất thình lình hỏi cho câu, cũng biết nên trả lời thế nào. Nhưng lão muốn làm sư phụ người ta, làm sao chịu để đồ đệ hỏi cho tắc tị được, đành quát Cổ Thái được lung tung nữa, dù là đổ đấu mò vàng hay cõng xác lật mộ hay lặn biển mò ngọc vớt thanh đầu, tất cả những cái nghề đem mạng ra giỡn ấy, đều có hai điều đại kỵ chung. Thứ nhất, chính là được tò mò, thấy chuyện gì lạ cũng nhất định phải giả vờ như thấy, tuyệt đối được hỏi gì. Cổ Thái nghi hoặc hỏi tiếp: “Tại sao thế? Có ma quỷ à?” Minh Thúc tức tối đập “bốp” cái lên đầu cậu ta: “Đồ ngu, còn hỏi nữa! Hồ Bát Nhất phải với cậu từ nãy rồi sao, cậu vừa mới phạm phải điều đại kỵ thứ hai đấy, được nhắc đến ma quỷ!” Tôi chẳng rỗi hơi để ý xem Minh Thúc truyền dạy kinh nghiệm phong phú của lão cho Cổ Thái như thế nào, chỉ muốn xem cho hơn chút nữa, bèn cùng Tuyền béo quạt nước liên tiếp, áp xuồng sát lại, lấy dao găm cạo ít trầm tích bám bề mặt, làm lộ hẳn ra gương mặt nhe nanh nhe vuốt của tượng đồng. Cả bọn chiếu đèn pin quây lại xung quanh, chỉ thấy diện mạo của người khổng lồ bằng đồng xanh ấy thập phần quái dị, càng nhìn càng thấy kỳ lạ, trong đầu đều lên câu hỏi: “Người Hận Thiên rốt cuộc là giống người gì? Với lại, cái tên Hận Thiên đó có ý nghĩa gì?” Trong quan niệm truyền thống của Trung Quốc, phương Bắc là lớn nhất, ở giữa là chính, trời là tôn quý nhất, cho dù trong ngôn ngữ thường ngày cũng ai dám tùy tiện đắc tội với ông trời, nhưng chỉ riêng cái tên “Hận Thiên” này thôi hoàn toàn lật ngược quan niệm coi trọng ông trời ấy rồi. Tổ tiên Đản nhân rốt cuộc là làm gì vậy? Mấy người chúng tôi mỗi người góp câu, song đều chỉ là đoán bừa, vào trọng điểm. Tuyền béo : “Tôi biết hồi trước ở Nam Hải có tên Nam Bá Thiên, nhưng hình như sớm bị đội Nương tử quân của cách mạng tiêu diệt rồi. Nam Bá Thiên là tên địa chủ chuyên bóc lột quần chúng nhân dân, nhưng cũng nghe dám làm gì đắc tội với ông trời cả. Năm đó, Hồng vệ binh tuy có lòng đấu với ông trời phen đấy, hiềm nỗi đủ máy bay nên đành thôi vậy. Có điều, hùng tâm tráng chí ấy còn có thơ ca làm chứng nhé, phải vẫn ‘Dám đổi nhật nguyệt thay trời mới’ đấy còn gì?” Tôi nghe Tuyền béo mở mồm ra bốc phét vung lên, lại đưa mắt nhìn tượng người khổng lồ mặt mũi nanh ác bằng đồng thau, cảm thấy hình tượng này đúng là phải tầm thường, trong vẻ uy vũ nghiêm nghị dường như toát lên mầy phần tà khí, bèn với mọi người: “Các đồng chí, mọi người có từng nghe kể truyền thuyết về Thượng đế và Satan của người phương Tây ? Ác ma Tây phương Satan hình như chuyên môn đối lập với ông trời phải? Nước Hận Thiên này có liên quan gì đến truyền thuyết tôn giáo phương Tây nhỉ? Vì trong truyền thuyết của Trung Quốc, Diêm vương dưới địa ngục và Long vương dưới biển, hình như đều là cán bộ lãnh đạo về cơ sở nắm giữ các công tác cụ thể, do Ngọc Hoàng Đại Đế trời phân công xuống, quan hệ giữa họ là cấp và cấp dưới, có lẽ cũng khá khách khí với nhau. Hình như, trong quan niệm truyền thống của người phương Đông hề tồn tại suy nghĩ oán hận thiên thần. Đây là thế giới quan vững chắc hình thành từ trong truyền thống rồi.” Tuyền béo : “Ê, cậu cũng có lý ra phết đấy, Satan và dân nước Hận Thiên khéo lại là đấy, nghe Satan ở trời trở mặt với lãnh đạo, rồi tự mình xuống địa ngục phát cờ dẫn đội, chuyên chống đối lại lão già râu trắng trời. Vả lại, cậu nghe cái tên ấy mà xem... Satan (Sa Đản), chắc chắn là có quan hệ gì với Đản nhân rồi, khéo thời trẻ ta cũng từng làm cái nghề xuống biển mò ngọc rồi cũng nên ấy chứ.” Minh Thúc và Cổ Thái, Đa Linh nghe tôi và Tuyền béo phân tích theo kiểu “nghe vậy mà phải vậy” ấy, đều đần thối mặt ra, biết nên gì cho phải. Chỉ có Shirley Dương còn tương đối tỉnh táo, cẩn thận rọi đèn pha quan sát khắp bốn phía, đột nhiên đập tay lên người tôi : “ Nhất, hai người đừng bậy nữa...” sau đó giơ tay chỉ vào những đầu người bằng đồng thau phía bên : “Bí mật của nước Hận Thiên giấu những cái đầu người khổng lồ bằng đồng kia kìa. Các có biết ở phương Tây, ngoài kẻ địch của Thượng đế là Satan ra, còn có... ma cà rồng hút máu rất sợ ánh sáng mặt trời hay ?” Chú thích [49] kết cấu đặc biệt trong kiến trúc Trung Hoa, là tổ hợp gồm những thanh ngang từ cột trụ chìa ra gọi là củng và những trụ kê hình vuông chèn giữa các củng gọi là đấu.
Chương 40 Có gân mà chẳng có xương húc sầu thương vừa dứt, Đa Linh và Cổ Thái lại khóc lóc thêm lúc lâu nữa rồi mới chỉnh trang xong di thể của sư phụ họ. Nguyễn Hắc hai bàn tay trắng, có di sản, quý nhất chỉ có viên “trụ nhan châu” giá trị liên thành ngậm trong miệng. Nguyễn Hắc nghèo khổ, nửa đời mò ngọc vất vả, sau khi chết được hưởng đãi ngộ ngậm ngọc xa xỉ của bậc đế vương khanh tướng, lại còn được táng trong vỏ trai, cũng coi như là chết đúng nơi đúng chỗ rất thỏa nguyện rồi. Có điều chúng tôi bới mãi trong đống vỏ trai chất cao như quả núi ấy mà chả thấy cái vỏ trai nào đủ lớn lại còn nguyên vẹn để làm quan quách. các vách đá vây quanh lòng giếng trời, đâu đâu cũng có thể thấy những bức bích họa miêu tả lại cảnh người xưa giết trai lấy ngọc, bên dưới lại chất ngất nghìn vạn cái vỏ trai rỗng , tôi dám chắc mười phần, chỗ này thuở xưa vốn là nơi chuyên giết trai. Lúc ở biển, chúng tôi bắt được con trai vỏ xà cừ cực lớn, vỏ óng ánh như tuyết, hai mảnh cài vào nhau khít chặt, thể tìm được khe hở nào, nếu ở đây cũng tìm được vỏ loại trai ấy mới gọi là linh vật thích hợp nhất để làm quan tài. Tôi cam lòng, bới sâu hơn nữa vào gò vỏ trai, định xem bên dưới có chôn cái vỏ trai ăn thịt người nào còn nguyên vẹn hay , chẳng ngờ mới chốc lát thấy lộ ra tấm đồng lớn. Phủi hết vỏ trai vỡ vụn và bùn cát, tôi thấy tấm đồng tuy bị nước biển ăn mòn nhiều năm, song bề mặt chỉ có vài đốm đỏ lấm tấm, vẫn có thể nhìn rất nhiều hình phụ nữ khỏa thân nô đùa sóng biển, điệu bộ vô cùng kiều hấp dẫn. Chúng tôi ngờ lại đào được thứ này, nhất thời biết tấm đồng điêu khắc đẹp đẽ ấy là vật gì, tại sao lại bị chôn trong đống vỏ trai. Mặt tấm đồng có hai vòng đồng, phỏng chừng đây là cái nắp có thể mở ra được. Tôi định , khéo lại là cỗ quan tài, nhưng ý nghĩ xoay chuyển, lại cảm thấy hình khắc bên và hình dạng cái nắp đều có vẻ thích hợp, làm gì có nắp quan tài nào lại đúc thêm vòng đồng kia chứ? Nghĩ tới đây, lời ra đến miệng rồi lại nuốt vào. Vì rốt cuộc đó là thứ gì, dám tùy tiện nhấc tấm đồng lên, tôi bèn vẫy tay ra hiệu cho Tuyền béo tiếp tục dọn bớt vỏ trai vỏ sò. Tuyền béo gạt hết vỏ trai vỏ sò xung quanh, khiến vật thể bên dưới lộ ra hoàn toàn. ra, nơi này chôn cái vỏ ốc xanh to như lu nước, miệng vỏ ốc bị tấm đồng kia bịt kín. Hoa văn vỏ ốc tự nhiên tạo hình thành quần áo tha thướt, có cả ngón tay dài nuột nà, eo thon mặt mũi dễ coi, khác gì người sống cả. Tôi cũng thường nghe , vỏ trai vỏ ốc tự nhiên sinh ra có hình La hán, Quan , nhưng phải đến hôm nay mới được tận mắt chứng kiến. ra, câu chuyện vỏ trai có hình người, phải chỉ là lời đồn đại vô căn cứ của đám dân chài lưới. Cái vỏ ốc có hoa văn hình dạng như này cũng có thể coi là món dị bảo dưới biển rồi. Tôi gọi Minh Thúc lại xem thử, lão cũng biết cái vỏ ốc bị bịt bằng tấm đồng này dùng để làm gì, chỉ phỏng đoán đây có lẽ là quan quách của người Hận Thiên thời xưa. Dạo trước, tôi cũng từng có lần nghe đến quan tài bằng vỏ trai. Thời cổ đại, đích thực cũng có phong tục mai táng kiểu vậy, nhưng đa phần đều dùng vỏ trai chứ phải loại vỏ ốc to như cái lu đựng nước thế này. Ngoài ra những người được táng trong quan tài vỏ trai đa phần đều là ngư dân, và đều là những gã trai trẻ chưa có vợ. Tương truyền, phong tục kỳ dị hiếm thấy này, đại khái xuất phát từ ý đồ muốn kết duyên với trai tinh mà ra. Tuyền béo : “Đúng rồi, nếu sao cái nắp bằng đồng này lại có nhiều đàn bà con thế kia chứ, mà vỏ ốc cũng có bóng hình của mỹ nhân do tự nhiên tạo ra nữa. Bên trong cái quan tài vỏ ốc này, chắc chắn phải là tên háo sắc lắm, cưới vợ vẫn chưa thấy đủ, nhìn kiểu sắp đặt thế này, biết định chết rồi cưới bao nhiêu vợ ở cõi đây nhỉ?” đoạn, cậu ta liền cúi đầu đếm số lượng các khắc tấm đồng, đếm mãi lúc lâu mà xong. Minh Thúc nghe chúng tôi đây có thể là cái quan tài bằng vỏ ốc cực kỳ hiếm thấy, mà phàm có quan tài ắt phải có minh khí, thử hỏi lão làm sao động lòng cho được? Lão khọm già Hồng Kông lập tức giở kế khích tướng, xun xoe với tôi và Tuyền béo: “Phong tục nhơ nhuốc kết duyên với trai tinh ở nơi quê mùa ấy, làm sao lại liên quan đến cỗ quan tài bằng vỏ ốc này được chứ? Tôi thấy cái vỏ ốc xanh này tuyệt đối phải vật tầm thường đâu, thi thể bên trong chưa chắc là của kẻ háo sắc, mà dù sao cũng chết mấy nghìn năm rồi, hậu nhân chúng ta làm sao có thể biết được đạo đức phẩm hạnh lúc sinh tiền của người ta như thế nào chứ?” Tuyền béo nghe xong, nhe răng ra : “Hừ, bác Minh Thúc kia, sao bác vẫn tin vào đôi huệ nhãn của Tuyền béo này thế hử? Cái bánh tông trong quan tài nếu ngậm ngọc trong mồm, thi thể chắc chắn vẫn chưa thối rữa đâu. tin chúng ta đánh cược, tôi đảm bảo chắc trăm phần trăm kẻ bên trong chính là tên háo sắc, bằng sao lại lưu manh giả danh cán bộ khắc lên nắp quan tài nhiều hình đàn bà con thế làm gì chứ? Những kẻ háo sắc tính dục rất vượng, lông chân chắc chắn vừa đen lại vừa dài, đây chính là chứng cứ rất ràng đấy.” Tôi thầm nhủ, lông măng ở chân và bắp đùi của những người thường xuyên bơi lội đúng thực là rất phát triển, người ở vùng biển vực xoáy San Hô này, lông chân tự nhiên lại càng dày rậm hơn nhiều. Đối với quý tộc của nước Hận Thiên, sau khi chết ngậm viên “trụ nhan châu” trong miệng cũng phải chuyện gì to tát, mà cái vỏ ốc này lại kín mít có kẽ hở, chừng xác chết bên trong vẫn còn nguyên vẹn, cả lông tóc người đến hôm nay sợ rằng cũng suy suyển chút nào. Tuyền béo cũng phải kẻ ngốc, cậu ta đánh cược xem chân người chết trong quan tài có lông hay , chẳng những có sáng ý, mà còn tự mình chiếm trước bảy phần thắng rồi. Ngộ nhỡ xác chết bên trong rữa nát, vậy cùng lắm cũng chỉ hòa với Minh Thúc mà thôi. Tuyền béo giở giọng khích bác, khiến lão nông dân Hồng Kông Minh Thúc nhịn nổi, nghiến răng nhận lời đánh cược, xem cái xác cổ bên trong quan tài vỏ ốc rốt cuộc có phải tên háo sắc hay . Hai bên thỏa thuận, vật cược của Tuyền béo là cái đồng hồ vàng cậu ta vớt được, còn Minh Thúc sau khi phá sản nghèo rớt mồng tơi, người có thứ gì đáng tiền, đành lấy viên Nam châu trong phần chia của mình ra đặt cược. Shirley Dương với tôi: “ đừng để họ làm loạn nữa, cũng muốn làm vậy à?” Tôi cười khì khì đáp: “Thế có sao chứ? Chúng ta... khảo sát khoa học thôi mà, giáo sư Trần phải cũng , đối với khoa học, đối với chân lý, nhất định phải mạnh dạn nêu giả thuyết, cẩn thận tìm kiếm đó sao? Lúc còn sống cái xác cổ này có phải là kẻ cực kỳ mê luyến nữ sắc hay , đây cũng là đề tài quan trọng trong phạm trù nghiên cứu học thuật đấy, tôi nhớ cũng có rất nhiều học giả cắm đầu cắm cổ nghiên cứu về tên háo sắc Hải Lăng Vương[51] gì đó kia mà. Bọn họ nghiên cứu được, chẳng lẽ Mô Kim hiệu úy được nghiên cứu à? Vả lại, nếu cái vỏ ốc xanh này là quan tài , vừa khéo dùng để an táng Nguyễn Hắc cũng tốt mà. Ông ta cũng là ‘trai chưa vợ’, táng bên trong vỏ ốc, há chẳng phải hợp hơn tên lưu manh háo sắc thời cổ đại này hay sao?” Tôi hỏi Cổ Thái và Đa Linh xem hai người có đồng ý hay . Chị em họ chưa từng trải qua những việc thế này, nên chỉ biết tỏ ý nghe theo sắp xếp của tôi. Vậy là, tôi lập tức bảo Tuyền béo cạy nắp quan tài lên, cố gắng làm sứt mẻ để sau còn dùng an táng cho Nguyễn Hắc. Shirley Dương cũng hết cách, đành khuyên Minh Thúc đừng đánh cược với Tuyền béo nữa. Minh Thúc : “ đặt cược rồi, lấy đâu ra cái lý trở mặt như vậy được? Có điều, tiểu thư Shirley Dương cũng cần lo lắng, Minh Thúc này là người như thế nào chứ? Tôi còn chẳng nhớ mình từng mua bán qua tay bao nhiêu cái xác cổ rồi, mà có thấy người chết nào vẫn còn giữ được lông chân đâu, cho dù là thi biến hay dùng hàn ngọc bịt kín thất khiếu để hơi xác bay mất cũng thế thôi. Tóm lại, người chết sau thời gian nhất định, trong hoàn cảnh đặc thù, thi thể có lẽ vẫn còn tươi mới như lúc sống, nhưng lông chân chắc chắn bị rụng hết.” Minh Thúc đắc ý ra mặt, lại cười hì hì tiếp lời: “Tiểu thư Dương, xem hai tên nhãi kia, trước giờ vẫn chẳng coi người già như tôi đây vào đâu, cũng biết thế nào là trời cao đất dày. gì , hai người bọn họ còn thiếu kinh nghiệm lắm, non nớt lắm, gừng càng già càng cay, cũng phải để tôi dạy cho họ bài học chứ lại.” Tôi và Tuyền béo nghe Minh Thúc mình nắm chắc phần thắng, liền ngẩng đầu đưa mắt nhìn nhau, trong lòng đều lấy làm tức tối, thầm mắng lão giặc già Minh Thúc này đúng là gian xảo . Bấy giờ tôi mới nghĩ kỹ lại, đúng là nhớ từng thấy cái bánh tông nào mọc lông chân cả, lần này đánh cược vội quá, thua to rồi. Có điều, tôi cũng chẳng lo lắng lắm, vì tôi quá hiểu con người Tuyền béo, cậu ta ngoại trừ cắt da cắt thịt thấy đau ra, còn nỗi đau khác, ấy chính là phải tiêu tiền. Chỉ cần chiếm được lợi ích của kẻ khác, Tuyền béo thấy mình thiệt thòi rồi, cậu ta làm sao có thể để lão nông dân Hồng Kông kia thắng tiền của mình được cơ chứ? Lúc này, Tuyền béo lấy đồ nghề ra, đeo khẩu trang lên, vẫy vẫy tay với chúng tôi, ý bảo mọi người lùi lại mấy bước, tránh để khí ẩm mốc trong quan tài phả ra chạm vào người, rồi châm lửa thắp ngọn đèn đốt bằng mỡ giao nhân lên. Có điều, lúc này căn bản chẳng thể phân biệt được đâu là Đông Tây Nam Bắc, nên chẳng qua cũng chỉ là thắp ngọn đèn lên theo thói quen mà thôi. Xong xuôi đâu đấy, cậu ta mới nắm chặt vòng đồng, vận hết sức lực hét lớn tiếng “mở” rồi kéo tấm đồng bị ấn hõm vào bên trong miệng cái vỏ ốc xanh ra. Chỉ thấy bên trong vỏ ốc đích thực phải trống rỗng, dường như vẫn còn cả thịt ốc. Nắp quan tài vừa mở, liền có luồng khí trắng bay lên trung, tựa như có vật báu bên trong, nhưng mùi bốc ra tanh thối tởm lợm vô cùng. Đợi khí thể màu trắng kia tan hết, chúng tôi mới dám lại gần xem thử, chỉ thấy trong quan tài vỏ ốc quả nhiên có cái xác. Tôi và Tuyền béo, Minh Thúc chẳng buồn để tâm xem cái xác cổ ấy hình dáng thế nào, chỉ nôn nóng nhìn xuống hai chân nó. Cái xác cổ nằm cuộn bên trong vỏ ốc co như cái lu nước, hai chân trắng bệch dị dạng, nhưng hề thấy sợi lông chân nào cả. Minh Thúc thấy vậy liền đắc ý : “Thế nào, chân có lông, lúc sinh tiền cái xác cổ này chắc chắn phải tên háo sắc, thằng béo kia, thua là phải nhận đấy nhé...” Tuyền béo chìa ra bộ mặt hết sức thành khẩn nghiêm túc với Minh Thúc: “Chân có lông chưa chắc phải là tên háo sắc, có lông chứng tỏ... chứng tỏ... chứng tỏ tên này có xu hướng tình dục biến thái, còn đáng căm giận hơn bọn lưu manh hiếu sắc nữa. Vả lại, ban đầu chúng ta phải đánh cược chân cái xác này có lông đen hay , mà là lúc sinh tiền cái xác có này có phải tên háo sắc ? Bác muốn tôi phục đương nhiên cũng thành vấn đề, nhưng ít nhất cũng phải đưa ra chứng cứ rằng cái xác này lúc sống phải là kẻ háo sắc chứ?” Cậu ta ràng là cưỡng từ đoạt lý, nhưng lại khiến người ta thể cãi vào đâu được. Minh Thúc lại rơi vào bẫy của Tuyền béo, suýt chút nữa tức hộc máu, định quay sang nhờ Shirley Dương làm trọng tài. Lúc này, Shirley Dương quan sát cái xác cổ trong vỏ ốc, vừa xem xét vừa : “Đừng cãi nhau nữa, cái vỏ ốc này vốn phải quan tài để khâm liệm người chết, nếu như quả núi đầy hang động và các gian điện thờ này là mộ cổ của người nước Hận Thiên , tôi nghĩ cái vỏ ốc này rất có thể được dùng để chứa vật bồi táng, đồng thời, giếng trời này chính là gian điện ngách chôn người và vật phẩm tuẫn táng theo chủ mộ.” Tôi nghe vậy liền ngẩn người ra, tuy những nguyên lý ban đầu của phong thủy dịch lý khởi nguồn từ thời Tây Chu, nhưng kể từ thời Ân Thương, bất luận là thành trì nhà cửa của người sống hay mộ huyệt an táng người chết cũng đều có những chuẩn tắc nhất định, tỉ dụ như hình dạng phải “trung, chính, phương, trực”, rồi xu hướng “tọa Bắc triều Nam”... thực tế, những quy tắc này chính là nguyên hình của đạo phong thủy, thậm chí cả những quy chuẩn kiểu “Bắc là dương, Nam là , núi hướng Bắc sông hướng Nam là , núi hướng Nam sông hướng Bắc là dương...” cũng xuất trong mộ táng thời Ân Thương rồi, có thể lý thuyết Dương xuất còn sớm hơn lý thuyết suy diễn ngũ hành sinh khắc rất nhiều. Có điều, nếu ngọn núi có gian đại điện thờ tượng thần Xạ Nhật bằng đồng xanh này là ngôi mộ cổ quả thực quá khó lý giải. Trước thời Xuân Thu Chiến Quốc, thể nào có chuyện xây đại điện hùng vĩ thế này trong mộ phần người chết được. Tôi đoán Shirley Dương cũng biết điều này, nhưng vậy, chắc hẳn phải có lý của mình. Chỉ thấy Shirley Dương đeo găng tay vào, nhè kéo cái xác bên trong vỏ ốc ra. Tứ chi của cái xác tay mềm oặt, thân thể như dải lụa, chẳng khác nào cái vỏ da chứa xương cốt gì, nhưng tai mắt mũi miệng lại còn đầy đủ, mái tóc xanh mướt cũng thiếu cọng. Thi thể mặc bộ Thiên châu y[52] hai tay hai chân để trần, đầu đội mũ ngư cốt, ra là . Vừa nãy chúng tôi chỉ để ý xem hai chân cái xác cổ, nên ai ngờ hóa ra nó lại là xác nữ, trong lòng đều khỏi lấy làm hổ thẹn. Tôi thấy Shirley Dương dám ôm cái xác nữ toàn thân xương cốt ấy ra khỏi vỏ ốc, vội kêu lên: “Thế cũng được à? Mau bỏ xuống, cẩn thận thi biến đấy!” Shirley Dương muốn tìm xem bên trong cái vỏ ốc khổng lồ này có bản đồ Quy Khư . Cái xác phụ nữ kia mềm như bùn nhão, có xương cốt, tương truyền thời cổ có Từ Yển Vương[53] là người có gân mà chẳng có xương, ngờ bọn tôi lại gặp cái xác như thế ở đây. Sỡ dĩ trong vỏ ốc đều là vật bồi táng, hoặc đồ vật quý được chôn giấu ở đây, là bởi cái xác nữ này dường như giống chủ mộ cho lắm, mà giống như món đồ sưu tầm thần bí nhiều hơn. Vả lại, vỏ ốc còn chứa rất nhiều thứ cổ quái khác nữa. Trong lúc chuyện, đặt cái xác xuống tấm đồng Tuyền béo vừa giật ra, rồi lại lấy bên trong vỏ ốc đôi kiếm đồng cổ màu đen như mực, cái khay ngọc để bói mai rùa, mấy ngọn nến làm từ mỡ giao nhân, ngoài ra còn bình ngọc màu đen hình dáng cổ phác, miệng bình niêm phong rất chặt, cầm cái bình ấy lên thấy khá nặng, hình như bên trong đựng đầy thứ gì đó. Tôi và Shirley Dương đều lấy làm tò mò, những thứ kỳ quái trong vỏ ốc này rốt cuộc để làm gì? Chúng tôi định lần lượt xem cho , bỗng thấy Minh Thúc và hai chị em Đa Linh đều tái mặt nhìn chằm chằm vào cái xác nữ xương kia, mắt mở trân trân chớp, cơ mặt dường như đều co giật. Tôi vội hỏi: “Minh Thúc, chuyện gì thế?” Minh Thúc như bị thứ áp lực vô hình đè nặng, thở hồng hộc, cổ họng nghẹn lại, chỉ mở miệng cất tiếng thôi cũng ngốn của lão gần hết sức lực: “Đó... phải… phải thi thể của người đàn bà đâu... thứ ấy... là tinh đấy!” Chú thích [50] Ý là: bắn rớt mặt trời, chạy lên mặt trăng. [51] Kim phế đế Hải Lăng Vương được mệnh danh là thiên hạ đệ nhất dâm đế trong lịch sử Trung Quốc. [52] Áo kết từ các hạt châu. [53] Từ Yển Vương, tên là Đản, sinh vào năm Chu Chiêu Vương thứ ba mươi sáu. Sử chép, Từ Yển Vương “sinh ra mà bào thai rách, bị cho là điềm chẳng lành, bị mang vứt xuống sông”. Còn theo sách Thi Tử ghi lại Từ Yển Vương sinh ra “có gân mà chẳng có xương”. Có lẽ là thân thể người này tương đối mềm dẻo, tựa như có xương vậy thôi. (Chú thích của tác giả).
Chương 41 Xác mồi ôi vẫn chưa nghe lão gì, liền thấy hai chân Minh Thúc mềm nhũn lập cập quỳ sụp xuống đất, Đa Linh và Cổ Thái cũng quỳ xuống theo. Dường như bọn họ mới trông thấy thứ gì đó cực kỳ đáng sợ đối với dân mò ngọc. Minh Thúc lấy đầu gối thay chân, lê lết bò lại đưa thi thể mềm nhũn xương cốt kia vào cái túi kín mít to tướng, thấy xác chết bị dính nước, vẻ mặt hết sức khó coi của lão mới dãn ra chút. Làm xong, lão lại khấu đầu lia lịa, miệng lầm bầm cầu khấn Ngư chủ phù hộ. biển sóng to gió lớn, dân chài lưới ai coi Mẹ tổ là vị thần cứu khổ cứu nạn, phù hộ cho thuyền bè được bình yên. Nhưng đa phần người mạo hiểm ra biển phải chỉ để cưỡi sóng đạp gió, mà là muốn kiếm cơm nuôi sống gia đình, mò ngọc bắt cá, hoặc vớt thanh đầu bán lấy tiền kiếm sống, mỗi khi có thu hoạch đều nhất thiết phải bái tế Ngư chủ, xin hải thần ban cho miếng cơm ăn. Xưa nay tôi vẫn nghĩ Ngư chủ là Long vương gia dưới biển, nhưng giờ lại thấy Minh Thúc và hai chị em Đa Linh hoảng hốt sợ sệt, tỏ vẻ cực kỳ cung kính với cái xác đàn bà xương kia, tình hiểu ba người bọn họ muốn làm gì nữa. Những người tu đạo sao khi phi thăng thành tiên, thi thể để lại gọi là vỏ xác, lẽ nào cái xác đàn bà mềm nhũn như đám bùn nhão ấy lại là vỏ xác của Ngư chủ để lại? Shirley Dương định tìm kiếm bản đồ Quy Khư trong vỏ ốc, ngờ bị ba người bọn Minh Thúc làm cho kinh hoảng phen, lập tức hiểu ra, ràng đám dân mò ngọc bọn họ nhận ra những thứ bên trong cái vỏ ốc xanh này. bèn hỏi Minh Thúc, cái xác đàn bà xương cốt đó, cùng với thanh kiếm đồng, khay ngọc trong vỏ ốc, rốt cuộc là dùng để làm gì? Minh Thúc quệt mồ hôi trán, : “Cái chức cố vấn chuyên môn của Minh Thúc phải là chỉ ngồi thôi đâu nhé, đừng tưởng mấy mấy cậu là cao thủ Mô Kim Ban Sơn, xưa nay lên núi băng rừng như là oách lắm, cái ngữ mấy mấy cậu ra đến ngoài biển là chẳng hiểu quy củ của nghề mò ngọc gì hết. Tuy rằng bảy mươi hai ngành truyền thống đều nhờ vào ngón nghề mà kiếm ăn, nhưng mỗi nghề mỗi khác, vậy nên các các cậu biết cái xác đàn bà và thanh đoản kiếm này dùng để làm gì cũng là chuyện dĩ nhiên thôi. Trong mắt dân mò ngọc, đây đều là thần vật do tổ tiên để lại đó.” Tôi : “Cái bác Minh Thúc này, đừng có làm bộ vòng vo Tam Quốc ra vẻ ta đây nữa. Dù hồi trước tôi chưa từng xuống biển mò ngọc, cũng đoán ra được ba bốn phần rồi, vật giấu trong cái vỏ ốc này, đại khái chắc là vật thời xưa tổ tiên Đản nhân dùng để xuống biển mò ngọc chứ gì?” Minh Thúc cười khì khì đáp: “Chú Nhất quả hổ danh là bậc tài danh trong đám Mô Kim hiệu úy, ánh mắt đúng thực là rất sắc bén. Cái vỏ ốc bị tấm đồng bít kín này, chẳng phải là quan tài gì cả, mà cũng phải hòm chứa đồ minh khí bồi táng. Các chú cũng biết rồi đấy, các ngón nghề của dân mò ngọc đều bắt nguồn từ Đản nhân thời Tần Hán. Ngày nay, trong số chùa miếu thờ thần biển cổ niên đại lâu đời vẫn có thể gặp được những bức bích họa chép lại thần tích thời cổ, phàm là dân mò ngọc ai là biết, cũng như đại đa số Mô Kim hiệu úy đều biết Mô Kim tổ sư gia trộm được cuốn dị thư trong mộ U Vương vậy. Dị thư này là thần vật thời Tây Chu, nguồn gốc các kỹ thuật của Mô Kim hiệu úy, thực chất cũng đều từ đó diễn hóa ra cả, nhưng hậu thế lại chẳng có ai được thấy dị thư đó hình dáng như thế nào. Tương truyền, Đản nhân thời xưa có thể đặt xác mồi dưới đáy biển để dụ trai nhả ngọc. Đối với dân mò ngọc, cái gọi là xác mồi ấy, cũng như cuốn dị thư của tổ sư gia Mô Kim hiệu úy nhà các cậu vậy, được coi là món thần khí mà dân mò ngọc mới chỉ nghe chứ chưa từng tận mắt trông thấy bao giờ.” Nghe Minh Thúc vậy, tôi và Shirley Dương liền hiểu được phần lớn tiền nhân hậu quả của việc này. Đản nhân là hậu duệ sống sót của người nước Hận Thiên, chắc hẳn bọn họ phải biết tổ tiên mình xuống biển giết trai lấy ngọc như thế nào, cổ vật giấu bên trong vỏ ốc đều là dụng cụ người Hận Thiên sử dụng để giết trai mò ngọc dưới đáy biển. Tương truyền, những thứ này đều do hải thần Ngư chủ tạo ra, món nào cũng là tuyệt thế vô song, chẳng ngờ lại để chúng tôi tình cờ tìm ra. Có điều, những thứ cổ quái dị dạng này rốt cuộc sử dụng như thế nào? Cái xác phụ nữ xương được gọi là “xác mồi” kia, lẽ nào cũng là đạo cụ dùng để bắt trai lấy ngọc? Đối với những chuyện xưa tích cũ này của đám dân mò ngọc, mấy Mô Kim hiệu úy chúng tôi đều là người ngoài ngành, đích thực là chẳng hiểu gì cả. Minh Thúc , chúng tôi gặp được mấy thứ này đều là nhờ hồng phúc của Ngư chủ ban cho, dứt khoát phải mang về, sau này muốn đến Nam Hải mò ngọc nữa, mấy món này đều có tác dụng rất lớn. Giờ trân châu thiên nhiên ở ven biển bị khai thác hết rồi, trong vực xoáy San Hô cũng còn nhiều nữa, có thể mấy trăm năm sau chưa chắc vẫn có nguyệt quang minh châu, có điều, những cổ vật này đều là tổ cụ của các loại thanh đầu dưới biển, dùng được có thể đem bán, chắc cũng được món kha khá chứ chẳng chơi. Trong đám đồ này có cái xác mồi tương đối nguy hiểm. Vừa nãy Shirley Dương thời cổ có Từ Yển Vương toàn thân xương cốt, chỉ có gân thịt mạch máu. Cái xác người đàn bà này có lẽ lúc sống cũng mắc phải chứng bệnh xương giống Từ Yển Vương vậy. Có điều, Từ Yển Vương từ khi sinh ra là phế nhân có gân mà chẳng có xương, chỉ có thể nằm ngửa mặt lên trời, cả đời thể ngồi thẳng lên được, còn người đàn bà bị đem làm xác mồi này phải thế. ta bị thứ hình phạt cực kỳ tàn khốc làm tan biến toàn bộ gân cốt trong cơ thể, da thịt còn lại được xử lý bằng phương pháp đặc biệt, kiểu như bị biến thành tiêu bản kỳ dị vậy. Nhưng phương pháp chế xác mồi này chưa bao giờ truyền ra ngoài, nên hậu nhân thể nào biết được. Từ thời Tần Hán, vì có nhiều con trai nghìn năm vô cùng lớn, nằm ở những nơi rất hiểm yếu, khó mà đưa lên mặt nước được, Long hộ muốn lấy ngọc cần phải mang theo “mồi ngọc” đặt dưới đáy nước. Lũ trai thấy mồi ngọc lấp lánh, tưởng là có trăng sáng trời, nhao nhao há miệng ra để minh châu trong mình hấp thụ tinh, hút lấy tinh hoa của linh khí trong trời đất. Nhân thời cơ ấy, Long hộ mới liều mạng xông vào đoạt châu. Phương pháp này cực kỳ nguy hiểm, vì lúc ấy đáy biển bỗng chốc sáng bừng lên, thu hút các loài cá dữ thuồng luồng xung quanh đến. Dùng đến cách này, Long hộ mặt phải ra sức chiến đấu với cá mập, mặt khác phải nhanh tay mò lấy ngọc trong khoảng thời gian ngắn ngủi trước khi con trai khép miệng vào. Thời xưa, nghe kể về tích xuống biển mò ngọc của Long hộ, Hán Văn Đế cũng phải liên tục thốt lên kinh ngạc: “Nguy hiểm quá! Nguy hiểm quá!” Hình thức ban đầu của mồi ngọc, chính là cái xác mồi làm từ thi thể phụ nữ này. Thời xa xưa, những nơi cực dưới đáy biển thường có trai cụ trai kỵ sinh sống, sớm thành tinh, tuổi đều nghìn năm vạn năm, kết chặt với đá ngầm dưới biển thành khối, phải lúc trăng tròn tuyệt đối bao giờ há miệng nhả châu. Ngọc ngậm trong miệng lũ trai cụ kỵ này cực kỳ sáng đẹp, mà chúng giảo hoạt vô cùng, mồi ngọc thông thường căn bản thể nào khiến chúng há miệng, chỉ có dùng xác phụ nữ mặc Thiên châu y này là may ra có tác dụng. Trân châu đính Thiên châu y đều là loại ngư châu đáng tiền, vốn chỉ là thứ kết thạch trong đầu lũ cá, xuống nước phát sáng, nhưng đặt trong cái xác đàn bà có cỗ oán khí nồng đậm, ngư châu này phát ra ánh sáng ảm đạm mờ mờ, quầng sáng tỏa ra khí dày đặc, rất giống mặt trăng. Kẻ mò ngọc lặn xuống đáy nước sâu phải cõng theo xác mồi lưng mới có thể dụ cho lũ trai cụ trai kỵ thành tinh đó há miệng ra. Xác mồi bình thường thể dính nước, hễ gặp nước là phình to ra, làm tiêu hao khí. Phương pháp mò ngọc nguyên thủy nhưng hiệu quả, song cũng có mấy phần tàn nhẫn tà ác và thần bí này, chỉ có tổ tiên của Đản nhân là nắm được, đến cả Long hộ cũng biết cách chế tạo xác mồi, chỉ có thể dùng cao lân tinh xác người chết trộn với ngư châu làm mồi ngọc, hoàn toàn có hiệu quả gì với bọn trai cụ nghìn năm thành tinh cả. Còn hai thanh đoản kiếm, thân kiếm đen tuyền, lưỡi kiếm có lỗ hổng xếp theo hình dạng Bắc Đẩu thất tinh, chuôi kiếm và lưỡi kiếm đúc liền thành khối. Chuôi kiếm được tạo hình giao nhân, đuôi cá uốn cong, đầu người vểnh lên há miệng phun ra lưỡi kiếm. Hai thanh kiếm này, dương, đối xứng chuẩn xác, lưỡi kiếm hơi ánh lên màu đỏ sậm, nhưng vẫn sắc bén vô cùng, đặt tay gần vào cảm thấy khí lạnh bức đến tận xương. Ghé tai lại gần mấy lỗ hổng lưỡi kiếm, có thể nghe thấy tiếng sóng biển phảng phất xa xa. Cũng như long hồ đao của Minh Thúc, hai thanh đoản kiếm này đều là vũ khí tổ tiên Đản nhân dùng khi xuống biển giết trai mò ngọc. Nhìn đống vỏ trai vỏ ốc chất như núi trong giếng trời, chúng tôi thực biết có bao nhiêu loài thủy tộc phải táng mạng dưới hai lưỡi kiếm này nữa. Minh Thúc tự nhận là dân mò ngọc, tuy chưa từng lặn xuống mò ngọc bao giờ, nhưng được cái sành sỏi đời, lại có dạo từng làm ăn bất hợp pháp ngoài khơi, nên cũng hiểu biết khá nhiều về những chuyện biển, về lai lịch các ngón nghề của dân mò ngọc, lão này thậm chí còn rành hơn cả những người quanh năm mò ngọc kiếm sống chứ chẳng đùa. Tôi quan sát nét mặt, biết lão bậy, có điều trong lòng cũng coi trọng mấy: “Thế này khác gì thuật giết rồng thời xưa đâu, chẳng có tác dụng thực tế gì cả. Giờ đây bọn trai già nghìn năm ấy đều gần như tuyệt tích hết rồi còn gì, môi trường sống của chúng lại hết sức đặc thù, dưới đáy biển lấy đâu ra con trai thành tinh nào cần phải dùng đến xác mồi mới dụ được chứ?” Thứ tôi quan tâm nhất, là bộ khay ngọc và nến trong vỏ ốc. Tương truyền, dụng cụ Chu Văn Vương sử dụng khi luận giải Tiên thiên Bát quái, chính là mai rùa và nến. Bởi mai rùa long cốt, hoặc ngọc thạch dưới đáy biển đều chứa long khí thần bí, từ xưa đến nay vẫn được coi là các linh vật thông thiên. Từ mấy vật này mà suy, trong cổ thành Quy Khư rất có thể có di tích của Tiên thiên Bát quái. Nghĩ đoạn tôi bèn bảo Minh Thúc đừng lảm nhảm về mấy thứ liên quan kia nữa, mau mau trả lời tôi, khay ngọc, bình ngọc và cả nến mỡ giao nhân nữa, rốt cuộc có phải là vật cổ nhân dùng để chiêm bốc bói toán hay ? Minh Thúc lắc đầu , Đản nhân là đám man di biển, chẳng bao giờ bói toán gì cả. Cái khay ngọc và nến dùng để tính toán ngày trăng tròn dựa theo bóng nến hắt xuống khay. Thời xưa, có rất nhiều Long hộ kế thừa được phương pháp cổ này, nhưng về sau xuất thêm nhiều vật có thể đo đếm trăng sao, nên dần dần người ta dùng thứ này nữa; còn loại cao đựng bên trong cái bình ngọc đen kia là thứ tiết ra dưới lớp vảy của giao nhân, ngoài tác dụng trị bệnh khí ép, còn có thể bôi lên thân thể người lặn mò ngọc để che giấu hơi người sống, bằng những con trai có linh tính biết có kẻ muốn cướp châu đoạt ngọc của nó mà khép chặt vỏ lại, khiến cho Đản nhân khó lòng tiếp cận. Những thứ này, thực tế chính là bộ khí cụ thần bí dùng để giết trai lấy ngọc thời cổ đại, sợ rằng phải cố ý được chôn trong đống vỏ trai vỏ ốc trong giếng trời này. Ở đây, bán phía đều thông gió, dễ xua tan mùi máu tanh, rất có thể là nơi chuyên giết trai đoạt ngọc thời xưa. Bọn chúng tôi nghe Minh Thúc xong, đều khỏi thấp thỏm yên, nhìn đống vỏ trai vỏ ốc chất ngất, cơ hồ như còn ngửi thấy mùi máu tanh nồng nặc xông lên. Con trai vì bị thương mà sinh ra ngọc, sống mấy trăm mấy nghìn năm dưới đáy nước làm gì hại cho người, vậy mà lại thường xuyên bị giết hại cướp lấy ngọc báu, đúng là “kẻ thất phu vô tội, tội là bởi mang ngọc trong mình”. chỉ nhân loại tham lam, mà cả lũ hải quái thuồng luồng cũng thường liều mạng xông tới cướp lấy ngọc trai, cứ quanh quẩn mãi chịu buông tha. Vỏ trai vỏ ốc trong di tích Quy Khư này nhiều đấy, nhưng tự cổ chí kim, số người mò ngọc và các loài thủy tộc mất mạng vì Nam châu, sợ rằng còn phải nhiều gấp mười lần. Cũng khó trách, bởi minh châu đều là tinh hoa của mặt trăng, khí ám vào tiêu tan được, cỗ khí này thậm chí có thể khiến xác cổ giữ được nguyên vẹn dung nhan đến nghìn năm. Chỉ là, biết những kẻ quyền quý giàu có tham luyến Nam châu nếu biết mỗi hạt minh châu bằng đầu ngón tay cái ấy, đều phải đổi bằng vô số tính mạng của dân mò ngọc và các loài thủy tộc khác, có còn dám đeo lên mình làm đồ trang sức nữa hay ? Tôi và Tuyền béo đưa thi thể Nguyễn Hắc vào trong vỏ ốc bị moi sạch, đậy tấm đồng, rồi chôn xuống giữa đống vỏ trai, chắp tay trước ngạc vái mấy vái, cầu khấn cho vong linh của ông ta được yên nghỉ nơi chín suối, đồng thời phù hộ chúng tôi thuận buồm xuôi gió sớm ngày trở về. Sau đó, cả bọn ăn chút đồ ăn chống đói và nghỉ ngơi tại chỗ. Tuyền béo hoàn toàn chẳng hề lo lắng về tình cảnh trước mắt, đem những đồ giá trị nhất như cái áo ngọc phỉ thúy cùng với xác nhân ngư ngậm ngọc, cất hết vào ba lô, ôm chặt trong lòng mà ngủ. Trong mơ, dường như cậu ta đếm tiền, miệng cứ lầm bầm mơ: “Cảm giác dính tiền lên mặt đúng là sướng vãi...” Minh Thúc lúc nhìn cái xác mồi, lúc lại ngắm nghía sờ mó đôi đoản kiếm, tuy lão cũng đè nén được cảm giác mừng rỡ như điên dại cuộn trào lên trong tâm trí, song cũng lấy làm lo lắng, biết làm cách nào để thoát thân khỏi chốn Quy Khư dưới đáy biển, hiểu có phải vì sợ hay mà chốc chốc lại thấy lão run lên chặp. Cổ Thái và Đa Linh là đau lòng vì sư phụ vừa chết thảm, hai là lo lắng cho vận mệnh sau này của mình cũng như khốn cảnh trước mắt, ăn chút đồ xong trằn trọc mãi sao ngủ được, chỉ mở to đôi mắt đầy những tia máu li ti, nằm nấm mộ vỏ ốc nghe tiếng sóng biển bên ngoài. Tôi bước đến bảo hai người bọn họ tranh thủ chợp mắt nghỉ ngơi lúc, nom tình hình hải khí hỗn loạn thế này, e là điềm chẳng lành, sau đây sợ rằng có họa lớn giáng xuống. Đến lúc ấy, sinh tử chỉ cách nhau đường tơ, nếu giờ thể nghỉ ngơi hồi phục đầy đủ tinh thần và sức lực, thể nắm bắt được cơ hội sống sót chỉ đến trong khoảnh khắc ngắn ngủi. Kế đó, tôi lại bảo họ: “Chúng ta đều là người cát nhân thiên tướng, giờ cần phải nghĩ ngợi gì nhiều, cứ ngủ giấc rồi tính sau.” Từ lúc bắt đầu tiến vào vùng biển vực xoáy San Hô, tinh thần ai nấy căng ra như sợi dây đàn, chưa được nghỉ ngơi khắc, giờ cả bọn chúng tôi đều cạn kiệt tinh lực, sau khi nghe tôi khuyên giải, rốt cuộc cả mấy người họ cũng từ từ thả lỏng, Minh Thúc và chị em Đa Linh đều lần lượt ngả vào lòng xuồng cao su ngủ thiếp . Chỉ có Shirley Dương là vẫn chồng chất tâm , tài nào chợp mắt được. dựa nghiêng vào chiếc xuồng , thầm bàn bạc với tôi xem phải giải quyết khó khăn trùng trùng trước mắt như thế nào. Càng lúc càng vớt được nhiều thanh đầu, hành trang mỗi lúc nặng, tình hình trước mắt tuyệt đối cho phép chúng tôi lạc quan. Ở các hải nhãn phía Quy Khư đều có hỏa nóng bỏng lưu động, ngăn chặn để hàng trăm nghìn tấn nước đổ xuống. Nhưng người xưa đào rỗng cả mạch khoáng dưới đáy biển, khiến cho hải khí ổn định, khi nảy sinh biến hóa bất thường lại xuất xoáy, khiến nước biển vô cùng vô tận đổ dồn vào Quy Khư, khi đó, muốn trở lên mặt biển phía còn khó hơn lên trời. Uy lực của xoáy nước chúng tôi từng đích thân nếm trải, đều biết lực hút khủng khiếp của nó có thể hút cả chim bay trời xuống. Vì vậy, trở lên theo lối cũ trăm phần trăm là bất khả, đó căn bản là con đường chết. Shirley Dương : “Bên dưới Quy Khư chằng chịt những hỗn lưu, mặt nước lúc phẳng lặng, lúc lại cuộn trào sôi sục, có lúc sóng lớn ngập đầu, hai chiếc xuồng này thể trong môi trường khắc nghiệt như vậy được. Dẫu ở ngoài xa kia có thể có lối thoát theo dòng chảy ngầm nào đó, nhưng tiếp cận e cũng khó khăn vạn phần, mà chúng ta lại biết bao giờ hải động kia hút nước biển xuống lấp đầy Quy Khư nữa. Đến khi ấy, di tích thành cổ nổi mặt nước này cũng lập tức bị nước biển nhấn chìm, chúng ta thậm chí cả chỗ đặt chân cũng có nữa đâu.” Để đầu óc tỉnh táo lại chút, tôi rút bao thuốc ra châm điếu, thầm nhủ có thể hút thuốc trong di tích cổ đại nghìn năm dưới đáy biển, đãi ngộ này đúng là người thường thể hưởng thụ nổi. Nhìn làn khói thuốc vẩn vít bay lên, tôi chợt nhớ đến vị cao nhân thuở trước. Người này xuất thân là ngư dân, tên gọi Lưu Bạch Đầu. Ông ta rất thích hút thuốc, cũng là bậc tông sư phong thủy, có điều vị Lưu Bạch Đầu tiên sinh này xem thế núi, chỉ nhìn hình sông, cực kỳ tinh thông các phương pháp thăm dò quan trắc hải khí. Cuốn kỳ thư Hải để nhãn của ông trình bày rất kỹ các luận chứng về hải khí, mạch nước, thuật xem thế nước hình sông, có thể là độc bộ thiên hạ, xứng danh tuyệt học. Thập lục tự dương phong thủy bí thuật của Mô Kim hiệu úy là cuốn sách tổng quyết các bí thuật phong thủy, tập hợp rất nhiều tinh túy của các bậc tông sư, nội dung phân thành năm loại “tranh vẽ, bảng biểu, khúc ca, khẩu quyết, bài phú”, nhưng chỉ có riêng phần “Tầm long quyết” mới đề cập đến mạch Nam Long. Bởi Thập lục tự dương phong thủy bí thuật là cuốn chỉ nam dành cho Mô Kim hiệu úy, nên cũng hề phân tích ràng tỉ mỉ về mạch Nam Long vốn có rất ít núi non cổ mộ, những lý luận về “hải nhãn, hải khí, long hỏa” trong đó đều từ cuốn Hải để nhãn của kỳ nhân biển Lưu Bạch Đầu mà ra cả. Trong cuốn kỳ thư Hải để nhãn ấy có chép rằng, biến đổi của hải khí đều nằm ngoài cái lẽ “Bàn cổ hỗn độn, dương thanh trọc”. Hai câu này nghĩa rằng, hải khí chính là khí hỗn độn còn tồn lưu lại dưới biển từ thuở thần Bàn Cổ khai thiên lập địa. Nơi có hải khí đồng thời cũng có hai thứ nước dương trộn lẫn, do đó sinh ra suối nước ngọt phun trào dưới đáy biển. Dân nước Hận Thiên thời xưa sống hải đảo, từ quy mô của di tích có thể thấy, dân số hẳn ít. Bọn họ quanh năm chui dưới lòng đất khai thác quặng đồng, lợi dụng long hỏa chế luyện, nhưng cũng phải sinh sống luôn bên dưới đáy biển này, các kiến trúc chúng tôi thấy ở đây, chắc hẳn đều chìm xuống sau trận đại kiếp từ thuở xa xưa. Bởi thế, họ cần nguồn nước ngọt lớn để đáp ứng nhu cầu thường ngày. Trong rừng san hô có rất nhiều dòng chảy hỗn loạn, đại khái chắc đều là di tích của những giếng nước ngọt đào sâu xuống đáy biển năm xưa. Giờ đây, nếu chúng tôi có thể xác định được phương hướng, có lẽ có thể lợi dụng dòng nước ngọt phun từ dưới đáy biển để trở về vực xoáy San Hô cũng chừng. Tôi tự cho rằng kế này là tuyệt diệu lắm rồi, nhưng Shirley Dương lại lắc đầu phản đối, cách đó tuyệt đối bất khả thi. Nơi này cách mặt biển quá xa, căn bản thể tính toán được chênh lệch áp suất nước cũng như độ mạnh yếu của các dòng chảy hỗn loạn. Chỉ riêng hai thứ đó thôi cũng có thể dễ dàng xé xác người ta thành mảnh vụn rồi. Sau đó, lại , trong hình xăm sau lưng Cổ Thái, dường như vẫn còn giấu rất nhiều bí mật, biết đâu, nếu lĩnh ngộ được chân tướng bên trong chúng tôi tìm thấy đường thoát khỏi nơi này cũng chừng. Ngọn núi hình xăm Thấu hải trận rất giống những gì chúng tôi nhìn thấy ở đây, các kiến trúc xây dựng triền núi nhấp nhô, thế núi quây tròn, ở giữa có cây gỗ đen khổng lồ đè lên cỗ cương thi hình thù quái dị, sâu hơn nữa là xác giao nhân và rồng. Giờ điều duy nhất chúng tôi có thể làm chỉ là nghỉ ngơi dưỡng sức, lấy lại tinh thần, sau đó tiếp tục tiến sâu vào di tích cổ để làm chân tướng việc hy vọng tìm được cách thoát thân. Tôi và Shirley Dương bàn bạc hồi, đều cảm thấy hai mí mắt díp lại, rồi cứ thế thiếp lúc nào chẳng hay. Có lẽ tại mệt quá, tôi ngủ say như chết. Đột nhiên tiếng nổ kinh thiên động địa vang lên, chỉ thấy bốn phía đều có sóng biển gầm rú ập tới. Cả bọn giật mình sực tỉnh khỏi cơn mộng mị. Nước biển trong giếng trời đột ngột dâng cao, các cửa bốn vách xung quanh ngập nước, hai chiếc xuồng được kéo lên mép đống vỏ trai vỏ ốc nổi dập dềnh. Tôi dụi dụi mắt, sợ xuồng cao su bị nước cuốn mất, bèn vội vàng bảo cả bọn leo lên xuồng. Đúng lúc này, chợt nghe bên ngoài có tiếng kim loại va chạm, thanh liên tu bất tận, tựa như tất cả các tượng thần bằng đồng thau trong đại điện cùng sống dậy, áo giáp đồng lanh canh dày đặc, nhức óc, dần dần quây tới vây kín chúng tôi. Nghe những tiếng động hỗn loạn, rất khó phán đoán số lượng, xem ra tuyệt đối chỉ có mười mấy tượng đồng khổng lồ chúng tôi trong thấy trong đại điện, mà tựa như có cả cánh quân đông đến nghìn vạn người đồng rùng rùng sống dậy dưới đáy biển vậy. Thiên quân vạn mã đạp nước xông lên, tiếng đồng va chạm hòa lẫn với tiếng sóng biển cuộn trào, biết là tiếng quân như tiếng sóng hay tiếng sóng như tiếng quân nữa, nhưng thanh ầm vang như sấm động đó khiến cả đám chúng tôi nghe mà khỏi kinh hồn khiếp đảm. Cả bọn chúng tôi mặt mày tái mét, chẳng rốt cuộc xảy ra chuyện khủng khiếp gì. Tuyền béo giật mình cả kinh, còn tưởng tượng ra lũ tượng đồng dưới biển sống dậy cướp mấy món thanh đầu chúng tôi phải liều mạng mới vớt được, vội buộc chặt ba lô lên người, rút khẩu cạc bin M1, nhặt thêm mấy quả lựu đạn nhét vào thắt lưng. Minh Thúc thấy thế càng hoảng hốt hơn, kinh hãi hỏi: “Tuyền béo, cậu định làm trò gì thế?” Tuyền béo hằn học mở chốt an toàn khẩu súng, gằn giọng : “Tiên sư cha bố thằng nào dám động ngón tay đến đồ của ông, ông béo đây đánh cho chúng mày về thời kỳ đồ đá luôn!” Trong lúc chuyện, nước biển dâng lên, đưa hai chiếc xuồng ra khỏi giếng trời rồi theo dòng thác vừa mới hình thành đổ xuống giữa lòng núi. Chỉ thấy trong màn hải khí mông lung nổi lên vô số võ sĩ bằng đồng thau xếp thành trận thế, vây quanh thân cây đen kịt.
Chương 42 Định hải thần châm hế núi nhấp nhô vây quanh quảng trường khổng lồ. Hải khí bùng lên khiến nước biển trong Quy Khư đột ngột dâng, nhấn chìm di tích đại điện, nước tuôn qua các hang hốc và khe rãnh núi, đổ như thác lũ vào lòng núi. Hai chiếc xuồng cao su của chúng tôi bị dòng nước đưa ra khỏi giếng trời, chỉ thấy những bức tường nước cao ngất quây kín xung quanh, nước biển từ bốn phương tám hướng đổ dồn cả về khoảnh đất trũng trong núi này. Trong thanh hỗn loạn của những pho tượng đồng và sóng cuộn, hai chiếc xuồng cao su của chúng tôi hệt như hai chiếc lá rụng giữa cơn cuồng phong bão tố, bị cuốn theo dòng nước xiết, xoay tít rồi rơi vào giữa vùng nước bị quây chặt giữa bốn bề núi đá. Chúng tôi vội chèo xuồng ra giữa vùng nước, tránh thác lũ từ khắp các phía giội xuống làm lật xuồng, đồng thời cũng tranh thủ chớp thời cơ ngắn ngủi quan sát tình hình xung quanh. Địa hình nơi này giống đấu trường La Mã cổ đại, là quảng trường thiên tạo hình thành trong khe núi, cuồn cuộn mấy chục cái xoáy nước hút nước biển vào vực sâu đáy bên dưới di tích thành cổ. thân gỗ khổng lồ cao ước khoảng chục tầng lầu, đường kính to tướng có thể dựng nhà đó, sợ rằng cả trăm người ôm cũng hết, tựa ngôi tháp màu đen như mực cao chọc trời, cắm xuống nghiêng nghiêng tại trung tâm khu di tích. Vỏ cây gỗ nom như có vảy, phải tùng cũng chẳng phải bách, mà cũng phải hóa thạch của cây gỗ cổ bình thường, mà là trầm mộc[54] trong rừng cây cổ đại chìm dưới đáy biển từ mấy vạn năm trước hình thành nên. Phần gốc cây gỗ cắm xuống đáy nước, biết còn sâu bao nhiêu, ngọn chếch lên trời, xung quanh găm tầng tầng lớp lớp mũi tên đá, dày đặc đến mức thoạt trông tưởng như là tầng mây vẩn vít ngọn cây gỗ. Thân cây khảm những hình sâu hình cá bằng đồng màu xanh thẫm. Chúng tôi tuy chưa để tâm thực nghiên cứu chữ giáp cốt, nhưng thấy nhiều chữ giáp cốt Long cốt thiên thư, ít nhiều gì cũng nhận ra được mấy chục chữ. Tôi đoán mấy hình cá hình sâu có lẽ đều là chữ tượng hình. Riêng Shirley Dương trước đây từng được học chút, vừa liếc mắt qua lượt, liền phát thấy hai chữ cổ, trông như xương cá. Hai chữ này, chỉ đoán được chữ “mộc”, còn chữ kia cũng đành chịu. Lòng núi tựa như cái giếng khổng lồ, nước từ bốn phía liên tục đổ vào mà vẫn đầy. Hơn nghìn bức tượng đồng chìm ngập tới ngang lưng thể hình đều cao lớn dị thường, đường nét khuôn mặt thuần phác, lộ vẻ nặng nề nghiêm trọng, đầu có mũ ngư cốt, có lẽ đều là nô lệ. Trong dòng nước xiết cuồn cuộn, mười tượng đồng nô lệ quây thành vòng, gắng sức xoay chuyển bàn tời, ngoài ra còn có vô số dây xích đồng quấn quanh thân gỗ. Dòng nước xối xuống liên tục cuộn lên những xoáy nước, khiến xích đồng tượng đồng va chạm, phát ra những thanh chát chúa liên miên bất tuyệt. Tuy nhiên, mặc cho đám tượng đồng sừng sững đung đưa dịch chuyển trong dòng nước, cái bàn tời khổng lồ vẫn hề nhúc nhích. Cả bọn chúng tôi ra sức chèo xuồng tránh xa xoáy nước, rồi lần lượt quăng dây thừng buộc chặt xuồng vào hai pho tượng đồng ở gần đó, mới tạm thời yên được chút, nhưng ai nấy đều ướt sũng. Mắt thấy bốn phía nước biển dựng thành tường cao ngất, thế nước mỗi lúc dữ dội, xuồng cứu sinh của chúng tôi lại thể chịu được sóng to gió lớn, cảm giác tuyệt vọng khỏi trào lên trong tâm thức. Chúng tôi ngẩng đầu nhìn quanh, tựa như lũ cá dưới đáy biển sâu ngưỡng vọng trời xanh, ngoài sợ hãi đến nguội ngắt tâm can, trong lòng chỉ còn nỗi hoang mang chới với. ai hiểu rốt cuộc mình đến nơi nào thế gian này nữa. Ở vực sâu nơi cổ nhân nghìn năm trước thu thập long hỏa này, chỉ toàn là những vật thần bí khó mà lý giải nổi. Vậy xem ra, di tích cổ trong Quy Khư chưa chắc là thành cổ hay mộ cổ rồi. Tuyền béo thấy xuồng cao su tạm ổn định, liền đứng dậy đưa tay sờ sờ cây gỗ đen cao lớn, ngạc nhiên thốt lên: “Đây chẳng phải là Định hải thần châm trong Thủy tinh cung của Long vương sao? Quả này có khi em ta lạc bố nó vào Long cung rồi, nhìn quanh đâu đâu cũng thấy thanh đầu, tiếc là có tàu chở hàng lớn mà vận chuyển về, tiên sư nhà nó, thế này phải làm tôi xót hết cả ruột hay sao?” Tôi : “Thằng béo kia, cậu nhìn cho kỹ vào, Định hải thần châm của người ta bằng sắt, cái khúc trước mặt cậu phải vàng, phải sắt, phải đá, mà chính là gỗ thượng hảo hạng, chỉ có ở trong những khu rừng cổ từ trăm triệu năm về trước. Hồi tôi lính công binh ở núi Côn Luân, từng trông thấy hóa thạch của loại cây gỗ khổng lồ này rồi, nghe chỉ ở những vùng biển sâu khí nặng nề hình thái gỗ ban đầu của nó mới giữ được. Mọi người nhìn xem, đám nô lệ bằng đồng thau kia gắng sức lay chuyển nó, đây tuyệt đối chẳng phải ‘định hải’, mà tám chín phần là ‘động hải’ rồi, phải khuấy cho nước biển cuộn lên mới bắt được những con cá dữ nuốt được thuyền bè.” Shirley Dương cũng , nhân cho rằng đời có ba loại thượng cổ thần mộc, chính là Côn Luân thần mộc, sau khi bị đốn lìa gốc, để vào nơi thể quang hợp vẫn cứ tiếp tục sinh trưởng được; hai loại sau là Phù Tang và Kiện Mộc. Tương truyền, Phù Tang là đại thụ, nơi đậu nghỉ của mặt trời sau khi lặn xuống núi, người Hận Thiên coi mặt trời là kẻ thù, suy ra cây gỗ này phải Phù Tang, mà có lẽ là Kiện Mộc có thể xuyên thẳng từ đáy biển lên đến mặt trăng trong truyền thuyết. Minh Thúc và Cổ Thái dừng xuồng cách chúng tôi xa lắm, nghe Shirley Dương nhắc đến cây gỗ thần Kiện Mộc dưới biển, lão vội lên tiếng: “Nhiều tượng nô lệ bằng đồng thế này, chắc chắn dùng để tuẫn táng rồi. Xem ra, chỗ này đích thực là lăng mộ của người Hận Thiên đấy. Kiện Mộc là thượng cổ thần mộc, bên dưới khẳng định là cương thi thành tinh từ thời cổ đại, lần này chúng ta có cơ hội lặn xuống đó tìm đường thoát trở về mất rồi.” Shirley Dương lắc đầu : “Lúc trước tôi đoán nơi này là mộ cổ, nhưng giờ xem ra có thể tôi đoán sai. Thời kỳ dùng long hỏa để luyện đỉnh đồng ấy, người ta vẫn tuẫn táng bằng người sống, chứ chưa thay thế bằng tượng đồng. Nếu ở đây có tượng đồng, quá nửa phải là mộ cổ rồi, ngoài ra, đỉnh cây gỗ này có rất nhiều mũi tên đá, xung quanh có hàng trăm hàng nghìn nô lệ chuyển động theo vòng tròn, theo tôi, đây có lẽ là totem binh khí Xạ nhật đúng hơn.” Tôi thấy Kiện Mộc tuy là loại gỗ thần đời hiếm gặp, nhưng muốn đem nó bắn xuyên qua mặt trời đúng là giấc mộng của kẻ điên. Những tượng đồng cố gắng dịch chuyển xích sắt kia đều được đúc bằng long hỏa, ngâm cả trăm năm nghìn năm dưới nước biển mà vẫn chưa gỉ ruỗng, chất đồng vẫn còn rất chắc chắn. Có điều, tôi hiểu người dân nước Hận Thiên xưa đúc nhiều tượng đồng như thế làm gì? Chẳng lẽ họ mong những bức tượng này sống dậy để xoay chuyển Kiện Mộc bắn rơi mặt trời hay sao? Điều đó dường như vô nghĩa. Tôi tình nghĩ ra, di tích này có tác dụng gì nữa. Shirley Dương lắc đầu : “Chúng ta thể dùng quan niệm thời để xét đoán vật thời cổ đại. Trong mắt người đại, totem Xạ nhật này hoàn toàn chẳng có giá trị gì cả, tất cả chỉ là đống phế vật đổi bằng máu và mồ hôi của vô vàn nô lệ, phải dốc hết cả quốc lực mới đúc nên. Nhưng ở thời cổ đại, nó chính là nơi ký thác tín ngưỡng và ý nghĩa cuộc sống của con người, là nơi gửi gắm thế giới tinh thần của họ.” Nghe thế, tôi dường như cũng ngộ ra được chút. Mấy thứ vớ vẩn này, có thể chẳng là gì cả, đồng thời cũng có thể là “tất cả”. Nghĩ tới đây, tôi bèn gác chuyện này sang bên, tiếp tục suy nghĩ xem bước tiếp theo nên hành động thế nào chợt cảm thấy núi rung đất chuyển, nước biển sôi sục dữ dội chưa từng thấy. Các tượng đồng xung quanh cây gỗ Kiện Mộc dường như mọc rễ dưới chân, bất chấp nước biển xối xiết cuồng bạo, vẫn chỉ khe khẽ lay động. Tiếng giáp đồng ma sát vào nhau vang lên chói tai dị thường, hải khí từ cao dẫn động long hỏa bùng phát, trung thình lình đổ xuống trận mưa lửa phủ rợp cả đất trời. Chúng tôi nấp dưới cây gỗ Kiện Mộc đen tuyền và các pho tượng đồng, tránh được vô số đám hỏa rơi xuống. Nhưng sóng biển cuộn sôi dữ dội quá, mực nước dâng cao, mép xuồng cứu sinh rốt cuộc cũng dính hỏa, chớp mắt thấy mùi lạ xộc vào mũi, khói trắng xèo xèo bay lên. Mấy người chúng tôi đều vô kế khả thi, chỉ còn biết chấp nhận mệnh trời, sống được thêm phút nào hay phút ấy thôi vậy. Trong ánh sáng lạnh lẽo của hỏa, bỗng cái bóng khổng lồ xuất giữa làn nước biển, theo dòng chảy hỗn loạn lặn xuống chỗ gần cây Kiện Mộc. Minh Thúc vội nhắc cả bọn đề phòng cá lớn nuốt xuồng, lời vừa mới dứt, dưới nước nhô lên con cá chình đen ngòm. Thân hình đen thui dài mấy mét ánh lên sắc lam nhạt. Loài cá này sống dưới đáy biển tối đen, chỉ toàn dựa vào cảm giác, lúc này bị hoảng hốt thế nào lại đâm thẳng vào cái xuồng cao su của Minh Thúc, lập tức đẩy cái xuồng trượt ra xa mười mấy mét mặt nước. Bọn Minh Thúc ngồi sém chút nữa ngã lộn cổ, Cổ Thái định vung mái chèo gỗ lên đập, nhưng khốn nỗi chẳng thể nào bò dậy nổi. Chúng tôi kêu lên kinh hãi, chiếc xuồng của bọn họ sắp va phải tượng đồng đến nơi. Tôi cuống quýt vỗ vào vai Tuyền béo, bảo cậu ta nổ súng giải vây. Chộp lúc con cá chình nhô hẳn lên mặt nước, Tuyền béo giương khẩu M1 nhả liền ba phát đạn. Ở khoảng cách gần thế này, cậu ta bảo bắn trúng mắt phải tuyệt đối bắn trúng mắt trái, tiếng súng vang lên, máu lẫn mảnh thịt bay tung tóe, phun lên đầy mặt đầy đầu Minh Thúc. Con cá chình đen trúng thương phóng thẳng xuống xoáy nước gần đó mất tăm, chỉ để lại vệt máu tanh, chốc lát bị dòng nước cuốn trôi. Chiếc xuồng của bọn Minh Thúc cũng sém chút bị hút vào xoáy nước, ba người vội quạt mái chèo lia lịa, cố hết sức xáp lại gần chúng tôi. Nhưng bất ngờ lại thấy hoa nước bắn tóe lên, vật thể khổng lồ dài đến sáu bảy chục mét trồi lên. Đó là con quái ngư toàn thân phủ kín vảy nhọn hình quả trám, đầu đuôi màu xanh đen, đầu có thứ gì đó phát ra ánh sáng, thân thể xám xịt, hai mắt lồi hẳn ra ngoài. Nó đuổi theo con cá chình đen vừa chạy ra khỏi vùng nước sâu, mang phồng má trợn, thình lình mất con mồi, liền bổ thẳng tới chỗ hai cái xuồng cứu sinh của chúng tôi. Shirley Dương nhận ra đây là loại cá săn mồi gọi là cá mui mắt vàng, chuyên sống ở vùng biển sâu, cả nó lẫn con cá chình khổng lồ kia đều bị dòng nước nóng dưới đáy biển ép phải nổi lên. Dưới đáy biển sâu mấy nghìn mét thường rất thưa thớt sinh vật, nên bọn cá này có thói quen gặp gì là xơi nấy, hễ rời xa môi trường sống quen thuộc đến vùng nước nông là chúng khó thích ứng, sống nổi bao lâu. Bởi thế, dù có bất cứ lý do gì, con quái ngư này cũng vì khó chịu mà điên cuồng tấn công mọi sinh vật nó gặp phải mặt nước. Khốn nỗi, chiếc xuồng của chúng tôi núp bên dưới cây gỗ Kiện Mộc để tránh mưa lửa và sóng dữ, thể nhúc nhích đâu được quá nửa mét, còn Tuyền béo lại ở vào góc chết, thể nổ súng phòng ngự, tôi đành với tay nhặt khẩu M1 còn lại xuồng bắn bừa. Đạn vãi ràn rạt xuống nước, có điều loại súng cạc bin 8 li này dùng phòng thân được, chứ muốn bắn hạ con cá khổng lồ da dày như da tê giác đó e là vô dụng. Tuy nhiên, đạn vãi như mưa ít nhiều cũng có hiệu quả nhất định, con quái ngư nơi đáy biển quẫy mình đập nước bắn tung lên, bơi lướt sát qua xuồng cứu sinh của bọn tôi, rồi đâm thẳng tới chỗ xuồng của Minh Thúc và hai chị em Đa Linh, Cổ Thái. Minh Thúc mặt xám như chì, ngây người ra tại chỗ, trân trối nhìn chiếc xuồng sắp bị hất tung lôi xuống đáy nước. Đa Linh và Cổ Thái đành vung mái chèo lên đập bừa xuống cái đầu há mõm nhe nanh của con quái ngư ghê tởm. Tình hình hết sức nguy cấp, chỉ cần chiếc xuồng bị lật, ba người bọn Minh Thúc đúng là đủ cho con quái vật biển sâu kia nhét kẽ răng, mà hai khẩu cạc bin M1 của cả tôi và Tuyền béo lại thể hạ sát được nó. Bọn tôi đành giở lại chiêu năm đó dùng để đánh cá dưới sông, cùng Tuyền béo mỗi thằng rút chốt quả lựu đạn, cố ném trúng khoảng giữa con cá mui mắt vàng với xuồng cao su của bọn Minh Thúc. Lựu đạn từ lúc thoát khỏi tay đến lúc nổ chỉ có khoảng thời gian ngắn, thể nổ trúng đầu con cá mui mắt vàng, nhưng ít ra vẫn nổ trúng cái đuôi màu xanh đen của nó. Vụ nổ làm bắn lên cột nước lớn, hất con cá dữ lên trung, nhưng vị trí nổ lại quá gần xuồng cứu sinh của ba người bọn Minh Thúc, sóng xung kích đồng thời cũng hất văng Minh Thúc và Đa Linh xuống nước. Cổ Thái lập tức nghĩ ngợi gì, ngậm con dao găm lao ngay xuống cứu người. Cũng may, ba người này đều quen vật lộn với sóng gió ngoài khơi, dẫu bị rơi xuống nước cũng đến nỗi quá hoảng loạn, thoáng cái nhanh chóng bơi trở lại phía chứng tôi. Tôi thấy bốn phía đều có bóng dáng cá mập thấp thoáng , khỏi toát mồ hôi thay cho họ, vội đưa xuồng áp lại gần. Chiếc xuồng của bọn Minh Thúc bị vào nước, coi như vô dụng, nhưng xuồng của chúng tôi căn bản thể chứa hết cả sáu người cùng với lượng lớn các loại trang thiết bị. Nếu cả bọn cùng lên xuồng, những thứ chiếm nhiều diện tích là các vậc phẩm quan trọng để duy trì sinh mạng như bình lặn, nước ngọt và thức ăn đều phải vứt bỏ. Lửa cháy đến lông mày, đành được đến đâu hay đến đó vậy, trước mắt cũng chỉ còn cách liều chết lặn xuống đáy nước tìm lối ra. Tôi bảo cả bọn tạm thời giẫm lên tượng đồng, bám vào cây gỗ Kiện Mộc khổng lồ nghỉ chân. Lúc này, cách duy nhất để thoát khỏi Quy Khư chính là lặn xuống sâu, rồi lần tìm dòng chảy ngầm, theo đó lặn trở ra rãnh biển ở gần vực xoáy San Hô, nên trang bị lặn tuyệt đối thể vứt bỏ được. Vì vậy, cả bọn đều phải đeo bình lặn, kính lặn lên người, rồi mang theo ít thuốc nổ dưới nước, súng phóng lao, lưu đạn, còn thực phẩm và nước ngọt đều bỏ lại hết. Tần Vương Chiếu Cốt kính từ lúc tìm được đến giờ vẫn luôn buộc chặt trước ngực tôi, chỉ cần có thể sống sót trở về tấm gương cổ này nhất thiết phải mang theo, những món thanh đầu quý giá khác và thực phẩm nước ngọt đủ dùng cho ngày, cùng với phần thuốc men dùng khi khẩn cấp, đều nhét vào túi buộc kín có gắn thêm cục chì, chia đều cho mỗi người. Minh Thúc đưa hai thanh đoản kiếm màu đen của nước Hận Thiên cho tôi và Tuyền béo, , muốn tìm đường sống sót thoát khỏi Quy Khư này, về cơ bản phải chuẩn bị sẵn tâm lý có mà chẳng có về, có trời mới biết dưới đáy nước kia rập rình bao nhiêu hiểm nguy, mang theo bảo kiếm của tổ tiên Đản nhân, ít nhất cũng đáng tin cậy hơn là dao găm với súng phóng lao thông thường. Tôi và Tuyền béo đều chửi thầm trong bụng, nghĩ lão khọm già này lại muốn đem chúng tôi ra làm bia đỡ đạn cho lão rồi đây. Chúng tôi chẳng hơi đâu tính toán với lão, tôi tranh thủ chút thời gian ngắn ngủi với cả bọn: “Xem tình hình này, sắp sửa có đợt triều lớn. Quy Khư bất cứ lúc nào cũng có thể bị ngập nước biển, ở lại đây chỉ có con đường chết. Chúng ta lặn xuống nước cầu sinh, cơ hội chỉ có lần, tuyệt đối thể quay đầu, nếu ô xy trong bình lặn cạn hết mà vẫn thoát ra được... kết quả thế nào tôi cần phải nữa, tóm lại là chỉ cần nhớ ba điều. Thứ nhất, hành động theo nhóm, cùng tiến cùng lùi; thứ hai, được lề mề làm lỡ thời gian; thứ ba, đến giờ khắc cuối cùng nhất định phải cố gắng chống chọi với áp lực tâm lý, nhất thiết phải thoát ra được, phen này được ăn cả ngã về , nghìn vạn lần được quay đầu trở lại.” Mọi người đều hiểu , với lượng dưỡng khí trong bình lặn của chúng tôi, muốn thoát ra khỏi Quy Khư trong tình trạng chưa có gì xác định thế này, tỷ lệ sống sót sợ là chưa đến phần nghìn. Nhưng cứ chần chừ ở lại nơi này, nếu phải xuồng cao su bị sóng đánh lật, người rơi xuống nước làm mồi cho cá, cũng bị long hỏa và suối nước nóng hấp chín. Tình hình hết sức gấp, chúng tôi chỉ có mấy phút để suy nghĩ và nghỉ lấy lại sức, nếu còn mau hành động cơ hội sống sót mong manh đến phần nghìn kia cũng chẳng có, đúng như Minh Thúc từng : “ đánh bạc làm sao biết mình hên,” cơ hội nhoi mấy cũng vẫn là cơ hội, ở đây ngồi chờ chết chi bằng nhân lúc tinh thần và sức lực vẫn còn đầy đủ mạo hiểm lần chẳng hơn sao. Đột nhiên cơn mưa lửa ngừng bặt, lũ cá mập ở gần đó bận tranh cướp cái xác con cá mui khổng lồ, nước ngập lên đến cổ các pho tượng đồng thau, chỉ thấy mặt nước lô nhô toàn đầu là đầu. Tiếng sóng nước xung quanh dội về nghe như có người gõ lên cái chuông khổng lồ dưới đáy biển, khí đè nén gây ức chế khó chịu tả nổi. Nhưng tôi nhận ra đây chính là thời cơ tốt nhất để xuống nước, bèn vẫy tay ra hiệu, đeo kính lặn và ống thở lên, định dẫn đầu nhảy từ cây gỗ Kiện Mộc xuống. Chợt Cổ Thái giơ tay ra kéo tôi lại. Tôi nâng kính lặn lên hỏi: “Sao thế? Lâm trận đầu hàng hả?” Chỉ thấy Cổ Thái nét mặt đầy vẻ kinh ngạc hoảng hốt, lắp bắp : “ thể được... tôi nhìn thấy... nhìn thấy... mặt trời... màu... màu trắng!” Chú thích [54] trầm mộc: hay còn gọi là ô mộc, chỉ những loại cổ thụ quý hiếm chôn dưới đất hàng mấy nghìn năm. (Chú thích của tác giả.)
Chương 43 Bôn nguyệt ôi nghe Cổ Thái trông thấy vầng mặt trời màu trắng, căn bản chẳng hiểu thằng nhãi này bậy bạ cái gì nữa, còn tưởng cậu ta căng thẳng quả độ mà mê muội thần trí, dẫu sao áp lực tâm lý khủng khiếp do nỗi tuyệt vọng mang lại phải là thứ đứa trẻ mười sáu mười bảy tuổi như cậu ta có thể chịu đựng nổi. Nhưng Minh Thúc giật bắn mình, ở biển trông thấy mặt trời màu trắng phải là điềm tốt lành gì, những người hiểu cách xem hải tượng đều biết “mặt trời trắng bệch, giờ bão ngập trời”, đó chính là dấu hiệu của đại nạn sắp sửa giáng xuống. Lão khọm già sém chút nữa là ngồi phịch xuống, cũng may tôi kịp đưa tay ra đỡ. Shirley Dương hỏi Cổ Thái: “Đừng cuống, cậu ra xem nào.” Cổ Thái vội chỉ tay : “Mọi người mau xem , mặt trời màu trắng...” Cả bọn đều ngờ mặt trời mà cậu ta lại ở đỉnh đầu. Chúng tôi ở trong Quy Khư dưới đáy biển, sao có thể trông thấy mặt trời trung được cơ chứ? Tất cả liền lập tức hướng ánh mắt lên phía , chẳng ngờ lại có vật thể hình tròn màu trắng mờ mờ treo lơ lửng ở ngay chỗ đỉnh cây gỗ Kiện Mộc găm chi chít tên đá. Vừa nãy hải khí bùng lên, long hỏa ở tầng nham thạch phía bùng lên, trút xuống trận mưa lửa, trung mù mịt hơi sương bốc lên từ mặt nước bị long hỏa hun đốt, thành ra bọn tôi ai chú ý đến tình hình phía cả. Tôi lạnh toát người, hiểu thể rốt cuộc ra sao, ngạc nhiên thốt lên: “Cái gì thế?” việc xảy ra quá bất ngờ, nhất thời cả bọn ai kịp định thần, chỉ hoang mang ngước nhìn, song cũng vẫn biết, thứ ở kia tuyệt đối phải mặt trời. Shirley Dương chăm chú nhìn mảng màu đen gồ hẳn lên so với xung quanh ở tầng nham thạch đỉnh đầu, tựa như sực nhớ ra thứ gì đó, mừng rỡ reo lên: “Đảo u linh!” ra, quầng sáng trắng nhờ nhờ ấy, phải là mặt trời như Cổ Thái , mà là “cửa sổ trời” bị hải khí trong Quy Khư che khuất. Kể ra cũng hợp với lẽ thường, nơi này có cửa trời, dưới có dòng chảy ngầm, như vậy mới bảo đảm sinh khí trăm nghìn năm suy giảm. Lúc chúng tôi mới tiến vào vùng biển vực xoáy San Hô, gặp đúng lúc nước triều rút, hòn đảo màu đen lộ ra mặt biển, đó chính là đảo u linh thoắt thoắt theo quy luật thủy triều. Lúc nước triều dâng, hòn đảo chìm xuống, khi thủy triều rút, nó lại ló ra mặt biển. Mới đầu, chúng tôi còn tưởng đảo u linh là lưng con cá voi khổng lồ, chỉ sợ nó quẫy sóng làm lật tàu, sau khi nổ pháo oanh kích mới chắc chắn đó là hòn đảo trơ trọi biển. Đảo u linh chia vực xoáy San Hô thành hai khu vực Đông và Tây, chúng tôi bị con rắn biển khổng lồ tấn công, chìm vào hải nhãn ở mé phía Đông, ngờ di tích cổ của nước Hận Thiên trong Quy Khư lại được xây ở ngay bên dưới đảo u linh như thế. Chúng tôi càng thể ngờ được đảo u linh lại có hang động giống như cửa sổ trời, thông thẳng lên mặt biển, chắc hẳn bên ngoài sáng, lộ ra mảnh trời to như cái khay, nên Cổ Thái mới tưởng lầm là trông thấy mặt trời màu trắng trước cơn bão lớn. Tôi đoán hang động như cái miệng giếng này phải bị súng pháo tàu Chĩa Ba của chúng tôi bắn sập. Cây gỗ Kiện Mộc này tựa như cây đại thụ, tên đá ghim vào xòe ra thành tán cây, trông hình thế cơ hồ muốn phá trời bay vút lên. ra, bố cục totem Xạ nhật này hết sức nghiêm mật, mọi điểm đều có ý tứ sâu xa, đến giờ tôi mới cảm nhận được người dân nước Hận Thiên xưa tốn bao công sức để tạo ra khung cảnh như trong truyện thần thoại này. Quy Khư tuyệt đối đơn giản chỉ là bày ra như vậy, bên trong ắt hẳn còn chứa bí mật gì đó lớn hơn nhiều. Tuy nhiên, tôi thực tình cũng đoán nổi tại sao cổ nhân lại sắp xếp như vậy. Tuyền béo hỏi cả bọn: “Các vị, chúng ta đừng có thở vắn than dài ở đây nữa, thấy nước dâng lên đấy à? Chúng ta nên bám theo cây gỗ Định hải thần châm này bò lên , hay là lặn xuống đáy nước tìm đường ra khác đây? Việc thể chần chừ nữa, như thế nào, cần phải nhanh chóng quyết định ngay thôi.” Tôi thấy cửa sổ trời đảo u linh thông thẳng lên sinh môn mặt biển, lại nghe bốn phía ầm ầm, chính là tín hiệu nước triều sắp dâng cao. Mặc dù sau khi thủy triều dâng, đảo u linh cũng bị ngập chìm dưới nước, có điều, lúc này cũng chỉ biết tranh thủ thời gian bám vào cây gỗ Kiện Mộc này mà rời khỏi Quy Khư, những chuyện khác đợi khi trở lên mặt biển rồi tính toán sau cũng vội. Tôi nghĩ tới đó, chuẩn bị quyết định Shirley Dương chợt ngăn lại: “Mới đầu tôi có cảm giác sử dụng Kiện Mộc tạo thành mũi tên khổng lồ thế này hình như phù hợp với truyền thuyết cổ xưa của nền văn minh Hoa Hạ cho lắm. Người dân nước Hận Thiên tuy tự coi mình là hậu duệ của totem Xạ nhật, nhưng Kiện Mộc lại chính là thượng cổ thần mộc, có thể thông thẳng từ đáy biển đến Nguyệt cung. Đồng thời, hang động như cửa sổ trời kia lại đặt ở Nguyệt vị, nhất định là tượng trưng cho mặt trăng chứ chẳng sai. Ghi chép về nước Hận Thiên trong thư tịch cổ rất ít, có điều đỉnh đồng thời Chu Mục Vương có đúc hình ảnh truyền thuyết người dân nước Hận Thiên sau khi chết liền chạy lên mặt trăng. Bởi vậy, tôi thấy đây có lẽ phải totem Xạ nhật, mà là đường lên mặt trăng, cho vong linh người chết sử dụng. Chúng ta leo lên theo lối này, liệu có nguy hiểm ?” Quả tim của cả bọn đều chùng xuống, ra cây gỗ Kiện Mộc này phải totem chiến tranh Xạ nhật, mà là tượng trưng cho con đường u minh dẫn linh hồn người chết lên mặt trăng, xét đến tận cùng, ngọn núi này quả nhiên là ngôi mộ cổ nằm ngoài lẽ xét đoán thông thường. Quầng sáng trắng lóa đỉnh cây gỗ Kiện Mộc quả thực tựa như vầng trăng tròn vành vạnh, khiến cho người ta có cảm giác cây thần mộc đáy biển để linh hồn được thăng hoa này tựa như chỉ cách vầng trăng kia bước, chỉ cần leo lên đỉnh Kiện Mộc, tung người nhảy lên là có thể rời khỏi vùng Quy Khư hỗn loạn có lối ra này rồi. Minh Thúc thấy mặt nước xung quanh thấp thoáng bóng cá mập, tự biết nếu lặn xuống ắt khó tránh khỏi phải huyết chiến với lũ cá dữ ấy. Lão là người qua lại biển nhiều năm, dĩ nhiên hiểu lợi hại của đàn cá mập, trong lòng đương nhiên muốn lên hơn muốn xuống, cuống quýt lên tiếng: “Tiểu thư Shirley Dương rất có lý, biển đích thực có truyền thuyết xa xưa về cây gỗ thần thông lên mặt trăng, có điều dù là thần mộc để oan hồn người chết nơi đáy biển lên cung trăng, trước mắt chúng ta cũng chỉ còn cách đặt mình vào chỗ chết để tìm nẻo sống mà thôi...” đoạn, lão xông lên dẫn đầu cả bọn bám cây gỗ nghiêng nghiêng vỏ xù xì như vảy rồng, chầm chậm leo lên cửa sổ trời phía , miệng ngừng lẩm bẩm khúc hát thê lương bi tráng của dân mò ngọc cho vững dạ, giọng điệu như sói tru quỷ gào: “Hải thần của con ơi, xin hãy cứu vớt lấy kẻ khổ này, sợ sóng sâu nước cả, chỉ sợ thể về nhà...” Minh Thúc tranh leo lên cây thần mộc trông tựa như có thể thông tới tận cung trăng ấy trước, hơn sáu chục tuổi đầu rồi, bảo leo là leo luôn chút chần chừ do dự, tay chân hết sức nhanh nhẹn. Tôi thấy vậy, trong lòng khỏi chửi thầm cái lão già này đúng là hạng cá nhân chủ nghĩa chỉ biết nghĩ đến mình, chẳng lo gì cho tập thể. Nhưng hành động của lão đồng thời cũng đập tan mọi lo âu của chúng tôi, thôi được ăn cả ngã về , đánh liều phen vậy. đến nước này, cũng chỉ còn cách cả đội bò lên cửa hang kia tìm đường thoát khỏi Quy Khư, nhưng bình ô xy và mặt nạ vẫn thể vứt bỏ, để vạn nhất lối ấy được vẫn còn có thể nhảy xuống nước tìm đường khác. Vậy là cả bọn cùng nghiến răng đành vác nặng, gắng sức leo lên. Tuyền béo leo lên thứ hai, đeo bình lặn và cái bao to tướng đựng những món vớt được, tuy hết sức nặng nề, nhưng cu cậu nỡ vứt bỏ thứ gì. Mang vác nặng đối với cậu ta mà phải là vấn đề, nhưng leo cao xưa nay vốn là nhược điểm lớn nhất của Tuyền béo. Có điều, chuyện đến nước này rồi, cậu ta cũng chỉ còn biết cắm đầu cắm cổ, nhắm tịt mắt lại, chỉ nghe “bạch bạch bạch” mấy tiếng, tấm thân phì nộn lên được mấy mét. Bọn chúng tôi xếp hàng bám theo cây gỗ khổng lồ quấn nhằng nhịt xích đồng, cũng biết khúc cây trải qua nghìn vạn năm này có chống chọi nổi sóng gió hay nữa. Cúi người nhìn xuống dưới, nước biển cuồn cuộn sục sôi, nhấp nhô vô số bóng dáng tượng nô lệ bằng đồng thau, ngoài ra còn có rất nhiều cá mập lượn lờ rình rập trong làn nước dìm ngập quá nửa di tích thành cổ. Tôi lo Tuyền béo căng thẳng quá tuột tay ngã, bèn kêu lên với cậu ta: “Tư lệnh Vương Khải Tuyền, mau mở mắt ra xem, chúng ta sắp bò lên đến mặt trăng rồi, bà quả phụ cung trăng và thuốc trường sinh bất tử của bà ta đợi cậu đến nhận đấy.” Tuyền béo cảm nhận được thế nước cuồn cuộn phía dưới, lại thấy gió lạnh từ cao quạt vù vù bên tai, nào dám mở mắt, nhưng mồm miệng vẫn bi bô chẳng chịu kém cạnh gì ai: “Hồ Bát Nhất, giờ là lúc nào rồi, sao cậu lại giở cái trò thất đức ấy ra hử? Cậu biết tư lệnh Vương Khải Tuyền này vốn có cái thú lên chỗ cao là thích nhắm mắt lại trầm tư hay sao? Lòng ta sáng như gương, mở mắt ra chẳng những thấy nàng quả phụ xinh đẹp mà chỉ có nước rơi xuống làm mồi cho cá thôi, đến lúc ấy tôi đây nhất định phải kéo cái thằng thất đức khốn kiếp nhà cậu xuống theo...” Trong thanh vang của muôn ngàn cơn sóng, sáu người chúng tôi leo dần lên đỉnh cây thần mộc dưới đáy biển. Ai nấy lúc này cũng bị vật nặng đè lên làm cho lưng nhức vai mỏi, tuy rằng tay chân mềm nhũn cả ra, song đều dám lơi tay dù chỉ chút. khí mặt biển phả vào mặt, từ chỗ này chúng tôi có thể trông thấy vùng trời trắng xóa. Có điều, lúc ở bên dưới thoạt nhìn cảm thấy khoảng cách giữa cây gỗ Kiện Mộc và lối ra hình như rất gần, nhưng đến tận nơi mới phát ra, mọc thêm đôi cánh đừng hòng bay lên đó được. Minh Thúc loạng choạng nhổm người đứng đỉnh cây gỗ, nhón mũi chân, cam lòng vươn tay với lên mép cửa hang. Nhưng từ chỗ lão đứng đến cửa hang vẫn còn quá xa, ít nhất cũng phải đến cả chục mét. Lão khọm già lập tức ỉu xìu, lòng nguội ngắt như tro tàn, suýt chút nữa tuột khỏi cây gỗ ngã ùm xuống nước. Tôi thầm tự mắng mình quá sơ suất, lúc ra biển lại mang theo mấy thứ dụng cụ trèo cao như súng bắn dây móc hay phi hổ trảo, thành ra chỉ còn cách có mấy bước, mà cả bọn chúng tôi chỉ biết trơ mắt ra nhìn chứ chẳng còn cách nào hơn. Đến lúc này, bọn tôi mới ngộ ra mình đúng là hạng người phàm mắt thịt, phải Thường Nga uống thuốc bất tử thân thể bẫng bay được lên cung trăng. Người sống ở đời, thân thể bằng máu thịt, bản chất vốn ô trọc nặng nề, dẫu là bậc chí thánh chí hiền như ông Khổng ông Mạnh, có tài học vô song hoặc thần dũng vô địch như Tây Sở Bá Vương Hạng Vũ, sức khỏe bằng ba bò chín trâu, cũng thể nào thoát khỏi trọng lực địa cầu, tuyệt đối thể bước trung được. Phi thiên bôn nguyệt, những cảnh tượng kiểu như thế chỉ tồn tại trong truyền thuyết thần thoại mà thôi. Tôi bám tay lên mũi tên ghim vào đầu của cây gỗ, nhiều năm bị nước biển xối vào vẫn chắc chắn như thường. Chỉ thấy, hải khí mờ mịt, người ở cao tựa như đạp chân lên mây mù, mấy chục mét dưới chân là vùng nước hỗn độn sục sôi cuộn trào, ngừng dâng cao. Mặt mũi cả bọn chúng tôi ướt đẫm mồ hôi hòa lẫn hơi nước, mắt thấy con đường “bôn nguyệt” trở thành tuyệt lộ, ai nấy đều thở dốc, chẳng biết phải làm sao. Minh Thúc lại đưa ra chủ ý hão huyền, đợi đến khi nước dâng cao, nương theo dòng nước mà bơi ra bên ngoài. Cổ Thái và Đa Linh chỉ biết nhìn ngó quanh quất, bộ dạng cũng rất lúng túng. Tôi nghe đỉnh đầu vọng xuống tiếng gió rít như xé vải, thầm nhủ trời bên ngoài chắc vừa sáng, triều sớm chuẩn bị dâng, sợ rằng chẳng mấy chốc nữa u linh đảo bị nước biển nhấn chìm. Khi đó nước biển cuồn cuộn đổ vào qua “cửa sổ trời”, bọn tôi còn lấn bấn trong này chắc chắn bị dòng nước xiết xé xác. Xem tình hình này, có khi vẫn phải lặn xuống dưới kia tìm đường khác thôi vậy. Nghĩ tới đây, tôi bèn cúi đầu nhìn xuống, chỉ thấy trong làn nước vô số bóng cá mập, lố nha lố nhố đếm nổi, cảnh tượng thực khiến người ta phải rùng mình khiếp hãi. Trong tình trạng có gì yểm hộ che chắn như thế mà nhảy xuống nước, đừng là lặn được xuống đáy sâu, chỉ sợ vừa chạm vào mặt nước, chúng tôi bị bầy cá mập ấy lao vào xơi tái ngay tại trận rồi ấy chứ. Đột nhiên Shirley Dương “a” lên tiếng, thân cây gỗ này có rất nhiều mũi tên đá dài mấy mét, xòe ra như tán cây, kỳ thực chính là hóa thạch của loài sinh vật biển cổ. Cây gỗ Kiện Mộc chìm dưới đáy biển vạn năm, giờ thể nào phán đoán được các mũi tên là tác phẩm của thiên nhiên hay do con người cắm vào nữa. Có điều, ở chỗ lưa thưa ít mũi tên đá nhất, có cánh cửa bằng đồng khắc hoa văn dạng vảy, rất giống hình dạng vảy gỗ màu đen khúc cây. Nếu phải Shirley Dương tình cờ bám vào đúng chỗ dễ gì mà phát được cánh cửa đồng này. Chúng tôi đều ngờ gần ngọn cây gỗ lại có cánh cửa đồng to tướng thế này. Lấy tay gạt đám rong rêu bám bên ngoài , cánh cửa lờ mờ ra hình khắc cây gỗ thần đâm xuyên từ đáy biển lên cung trăng. Những totem Tống tử điểu bay lượn trung có thể gặp được trong các mộ cổ thời kỳ Ân Thương và Tây Chu kia lại càng chứng tỏ rằng đây là mộ đạo của ngôi mộ cổ. Chúng tôi lập tức nghĩ đến giả thiết, cây gỗ khổng lồ này rỗng ruột, bên trong có con đường, con đường để vong linh người chết theo thần mộc lên cung trăng. Bên dưới thông đạo ấy chắc chắn là mộ cổ của người nước Hận Thiên. Điều này xem ra có vẻ rất giống tục để lại “Thiên môn” trong địa cung để chủ mộ có thể phi thăng vũ hóa thành tiên trong phong tục mộ táng Trung Quốc, chỉ có điều “Thiên môn” để vong hồn lên cung trăng cầu thuốc bất tử ở đây nằm trong lòng thần mộc tương truyền có thể thông từ đáy biển lên tới mặt trăng này mà thôi. Nước triều dưới vực xoáy San Hô dâng, màn hơi sương lờ mờ sáng tối sầm . Chúng tôi đều hiểu , chỉ cần đảo u linh bị nhấn chìm, nước bên ào ào xối xuống, nước bên dưới kia cũng đồng thời dâng lên. Lũ cá mập ăn sạch con cá mui mắt vàng bị lựu đạn nổ chết, giờ mà xuống nước chẳng khác nào tự đâm đầu vào chỗ chết. Đứng trước biển lớn nhe nanh múa vuốt, thân lâm vào tuyệt cảnh tiến thoái lưỡng nan, dẫu là ai cũng thể giữ vững được tinh thần mà ra vẻ ta đầy hảo hán nữa, lũ chúng tôi mặt mũi xám xịt như tro, ôm chặt lấy những mũi tên đá ngọn cây gỗ khổng lồ, tâm trí hoảng loạn tột độ. lúc quẫn bách, tôi thấy cánh cửa đồng ấy hơi lún vào bên trong thân cây gỗ, có vẻ đóng rất chặt, cũng biết có phải mộ cổ sớm bị ngập nước biển rồi hay . Lúc này còn lựa chọn nào khác, chỉ có chui vào trong mộ cổ qua đường mộ đạo này, họa may mới thoát khỏi hiểm cảnh có dòng chảy xiết, dưới có bầy cá mập. Tôi chỉ tay vào cánh cửa đồng, gào lên với Shirley Dương: “ lên được cung Quảng Hàn chúng ta đành xuống dưới mộ phần vậy.” Shirley Dương gật đầu, rút dao găm ra nạy cánh cửa đồng đóng chặt. Tôi cũng lật tay rút thanh cổ kiếm mà người dân nước Hận Thiên cổ dùng để giết trai cướp ngọc. Bấy giờ, tôi cũng chẳng để ý xem thanh kiếm đồng ấy quý giá nhường nào nữa, cứ thế ra sức mà chọc, nạy vào khe cửa. ngờ, lưỡi kiếm sắc bén dẻo dai, vận sức mấy lần, cắt đứt luôn được sợi xích buộc cửa. Nước triều vẫn chưa ngập hết đảo u linh, nhưng sóng biển dập dờn, ngọn sóng vỗ cao quá chóp đảo, khiến nước từ cao bắt đầu đổ xuống đỉnh đầu chúng tôi. Tình thế quá bức bách, Minh Thúc và Cổ Thái ở bên cạnh nhìn sang, ruột gan xem chừng cũng nóng như lửa đốt, bèn tiến lại giúp sức nạy cánh cửa. Cánh cửa đồng nặng nề nghìn năm nay đóng im ỉm, thế mà lúc mở ra, lại hề có mùi ẩm mốc, mà chỉ thấy tanh tưởi xộc lên tận óc, khiến người ta chỉ muốn nôn ọe. Bên trong cánh cửa lộ ra thông đạo rộng rãi tối đen như mực, sâu thấy đáy, tựa như thông thẳng đến cõi u minh. Shirley Dương quẹt que diêm ném xuống, kiểm tra thấy khí lưu thông, vô hại với con người, lập tức với cả bọn: “Bên trong có nước, khí cũng an toàn, xuống được!” Trong lúc chuyện, nước triều lên đến đỉnh, thời gian cho chúng tôi nghĩ ngợi gì nhiều nữa. Tôi vội lần lượt đẩy từng người bên cạnh vào thông đạo, sau đó nhanh chóng chui vào theo, tiện tay đóng cánh cửa đồng lại. Trong bóng tối, tôi chỉ thấy cả gian ngập chìm trong tiếng động như sấm nổ, dòng nước xiết đổ sầm sập xuống thân cây gỗ khổng lồ, người ở bên trong lại càng đinh tai nhức óc hơn gấp bội phần, gân cốt toàn thân tưởng chừng như bị nghiền nát. Chỗ bị chúng tôi nạy ra cánh cửa đồng ngừng có nước rỉ vào chảy tong tỏng. Tôi vội há to miệng dám ngậm, đề phòng tổn thương màng nhĩ. Trong thông đạo tối om như mực có người bật đèn pin lặn nước lên. Loại công cụ chiếu sáng này hiệu quả lắm đối với môi trường có nước, song có thể đeo người, rảnh hai tay để làm việc khác. Tôi cũng bật ngọn đèn treo trước ngực mình lên, chỉ thấy mộ đạo lớn khó tưởng tượng nổi này được làm từ thứ gỗ rắn chắc dị thường, tuy bên ngoài ngập nước, bên trong vẫn hề ẩm ướt chút nào. Bọn chúng tôi ai cũng mang vác nặng, theo mộ đạo dốc nghiêng này lên dễ, xuống mới khó, chỉ còn cách dùng dao găm đâm vào vách gỗ, nghiến răng từ từ dịch chuyển xuống. Cũng biết nhích dần từng bước như thế được bao lâu, thanh nước triều đổ xuống va vào cây thần mộc cũng dần, là nước trong Quy Khư dâng đầy hay là nước triều rút, song chúng tôi vẫn chưa đến được cuối mộ đạo. Càng xuống sâu, mùi tanh tưởi và hơi ẩm càng xộc mạnh, thêm lúc lâu nữa, cuối cùng cũng nghe thấy tiếng nước chảy róc rách. Chúng tôi xuống đến đáy thông đạo. Shirley Dương ném quả pháo lân tinh, ánh sáng bừng lên, chỉ thấy chúng tôi cách mặt nước chừng mười mét, đầm nước phẳng lặng trải ra bên dưới, xung quanh thấy chỗ nào để đặt chân. Tôi bảo cả bọn giật hai chốt bơm hơi bơm phồng ba lô rồi ném xuống trước, sau đó lần lượt thả mình xuống đầm. Vừa chạm nước, tất cả đều vội bơi lại chỗ ba lô, thở hổn hển. Trong ánh sáng lân tinh nhợt nhạt, tôi ngẩng đầu quan sát xung quanh. Cây gỗ khổng lồ sừng sững như ngọn tháp đen kịt đứng chôn chân vào lòng động san hô ngập nước hình thành từ thời thượng cổ, biết sâu đến chừng nào. Cánh cửa đồng mở vào thông đạo xuyên xuống tận mặt nước trong động san hô. Tôi còn thấy trong hang chất đống rất nhiều mai rùa to như cối xay, khắc chi chít các tiêu ký và dấu hiệu cổ xưa dùng để suy diễn quẻ trong Bát quái, nhưng ngâm nước biển quá lâu, hầu hết hình khắc đều mờ tịt, khó lòng nhìn ra. rặng đá cách chỗ chúng tôi xa lắm, đặt bộ xương của sinh vật cổ trông giống cá voi khổng lồ, bên trong xương đầu thấp thoáng gồ lên mấy chục hình người, có lẽ đây là nơi đặt thi thể trong mộ cổ. Phỏng chừng, những xác cổ này miệng đều ngậm “trụ nhan châu”, dẫu ở đáy biển nghìn năm cũng sợ bị thối rữa. Theo bản năng, tôi đưa tay rờ túi đeo bên người, bây giờ mới sực nhớ ra mình đem theo móng lừa đen. Có điều, tôi lại nhớ ra mình vẫn còn Tần Vương Chiếu Cốt kính, liền thấy yên tâm ngay tắp lự. Quan sát lượt xong, tôi định xem lòng hồ này sâu bao nhiêu, liền nhận ra chỉ số mặt đồng hồ đo chỉ mức tối đa, biết là đồng hồ hỏng hay hồ nước trong động san hô sâu tới nỗi thể thăm dò. Lúc mới xuống đây, Tuyền béo sợ đến mềm nhũn cả hai cẳng ra, nhưng vừa trông thấy trong ngôi mộ cổ kỳ quái này còn có cả người chết, cu cậu tức lấy lại tinh thần, hăm hở kéo cả bọn bơi lại gần xem cho ràng. Tôi thấy đống xương hóa thạch vừa khéo cũng là chỗ thích hợp để mọi người nghỉ ngơi chỉnh đốn, bèn đưa tay vẫy vẫy, bảo cả nhóm bơi ra đó tạm thời tháo bỏ trang bị, ngồi nghỉ chút cho lại sức. Cả bọn nhọc nhằn leo lên rặng đá, thấy ngọn đèn làm bằng xác giao nhân phơi khô bên trong đựng mỡ. Mỡ giao nhân dùng đốt đèn trải qua nghìn vạn năm cũng khô, điểm cháy rất thấp, chỉ cần có chút khí là đèn vẫn sáng, vừa khéo có thể thay thế đèn pin. Minh Thúc lập tức châm đèn, chiếu vào mấy cái xác chết trong xương con cá voi khổng lồ, miệng lầm bầm như thể tự với chính mình: “Tiên sư cha bố nó, ngờ vùng Nam Hải này lại có mộ cổ của người Hận Thiên , cương thi đáy biển hàng xịn thế này, nhất định là được giá lắm đây... chậc chậc...” Dưới ánh đèn, chúng tôi còn chưa nhìn mấy cái xác mặt mũi mơ hồ kia, phát ra cái mai rùa nằm phía trước bộ xương cá voi khổng lồ có tiêu ký “Chấn thượng chấn hạ”. Vì lúc ở biển thấy tiêu ký này ba bốn lần rồi, nên ngay cả Minh Thúc và Tuyền béo cũng nhận ra, đây là quẻ tượng Chấn kinh bách lý. Trong Quy Khư cứ xuất xuất lại quẻ tượng cổ này, rốt cuộc là có thâm ý chi đây? Tôi mệt bã cả tinh thần lẫn thể xác, cứ nghĩ đến những quẻ số thâm ảo phức tạp trong Kinh Dịch là đầu đau như búa bổ, nhưng trong quẻ Chấn dường như có tình liên quan mật thiết đến Quy Khư. Tôi vắt óc nghĩ ngợi mà vẫn chưa tìm ra đầu mối gì, Shirley Dương chợt lên tiếng hỏi: “Tôi hiểu Kinh Dịch cho lắm, nhưng từng đọc qua trước tác của vị học giả người Hoa sống ở Mỹ, ông ấy là chuyên gia nổi tiếng về nghiên cứu Dịch học, quan điểm hết sức độc đáo. Vị học giả đó từng đề cập rằng, trong các quẻ tượng của Dịch, phàm là những câu có chữ số bên trong, chẳng phải dưng mà có, mà đều chứa đựng thông tin được mã hóa của cổ nhân, người ngày nay đa phần đều thể nào giải nổi. Quẻ Chấn này có câu ‘Chấn kinh bách lý’[55] có biết, tại sao trong quẻ phải là chín mươi chín dặm hay trăm linh dặm hoặc là nghìn dặm vạn dặm luôn, mà lại đúng là trăm dặm hay ?” Chú thích [55] Chấn kinh trăm dặm.