Chương 24 lối ra m hỏa cuối cùng cũng xuất rồi. Nghe thấy tiếng gọi của Minh Thúc trong ống truyền , tôi vội ba chân bốn cẳng chạy ra phía mũi tàu, chỉ thấy biển mù mịt mây đen, mưa lớn vẫn đổ sầm sập như trút, cách chỗ chúng tôi xa lắm, nước biển đen nghịt bỗng nhiên sôi trào cuồn cuộn, đáy biển bừng lên, ánh sáng chói lóa cả mắt. Dưới đáy biển, ngọn lửa chia làm mấy đường, những cuộn khói đen nghìn nghịt xông lên tận trời cao. Nước biển ở những chỗ có hỏa bị đốt sôi sùng sục, bọn thủy tộc bị lửa thiêu đốt chết vô số, xác nổi lềnh phềnh mặt nước. Khói đen của long hỏa dưới đáy biển làm bầu trời vốn u ám càng thêm tối tăm mù mịt. Trái lại, dưới mặt nước ánh lửa lấp lóa, từng quầng hỏa nóng bỏng, tựa như dưới đáy biển cùng lúc dâng lên mấy vầng trăng, chiếu sáng cả vùng u tăm tối. Bọn tôi ở tàu, trông thấy cảnh tượng như thế giới sắp bị hủy diệt ấy, lông tóc dựng ngược hết cả, trong lòng dâng lên cảm giác lạnh lẽo khôn cùng. Để lợi dụng lúc nước triều dâng, tiến vào vực xoáy San Hô, chúng tôi chọn thời gian vào khoảng trước sau ngày mười lăm lịch, chính là lúc trăng tròn, ngờ thời cơ xảo hợp thế nào, lại được tận mắt trông thấy long hỏa như ngọn lửa chốn luyện ngục A Tỳ thiêu đốt đáy biển. Những quả cầu lửa dưới đáy biển dâng lên nuốt chửng mọi đàn cá ở xung quanh chúng, những con may mắn sống sót cũng bị bỏng rát, quằn quại nhảy lên khỏi mặt nước, cả vùng biển chìm trong bóng đen chết chóc. Long hỏa chỉ cháy dưới biển, rời nước là lập tức tắt ngay, vả lại, thứ hỏa còn được gọi là “long đăng” trong thuật phong thủy này, tuy thế lớn kinh người, nhưng xưa nay thoắt đến thoắt , trong nháy mắt là biến mất ngay. Tôi biết, loại dị tượng này chỉ có ở những nơi dư mạch của Nam Long, là do hải khí của Nam Long ngưng kết mà thành, những tượng kiểu như núi lửa hay khí đốt phun trào dưới đáy biển thể so sánh nổi. Cứ nhìn thế lửa dưới đáy biển này là biết người thủy thủ may mắn sống sót tàu Mariana kia sai, con tàu đắm mang theo Tần Vương Chiếu Cốt kính ấy nhất định là chỉ ở quanh đây mà thôi. Những điều chúng tôi biết về hỏa chẳng qua chỉ là cái vỏ bề ngoài, đấy mới là lần đầu tiên được tận mắt trông thấy, căn bản biết nó lợi hại thế nào. Có điều, lúc này tuy tình thế kinh hiểm vạn phần, song cũng chính là cơ hội nghìn năm khó gặp, tôi vội lấy Ti thiên ngư Khôi tinh bàn ra, ghi lại vị trí của mấy ngọn hỏa, bên khoang lái, Minh Thúc cũng liều cái mạng già, cố gắng lái tàu tránh xa vùng biển lửa cháy rừng rực. hỏa ở vực xoáy San Hô này đa phần tập trung ở mé Đông đảo u linh, tàu chúng tôi ở mé phía Tây nên tương đối an toàn, mà rừng san hô cũng đều tập trung ở mé phía Tây này cả. Trải qua thăm dò sơ bộ, tình hình đáy biển bên mé Đông phức tạp hơn rất nhiều, độ sâu ít nhất cũng gấp đôi khu vực rừng san hô, lại có nhiều động biển, rãnh biển, chúng tôi vẫn chưa kịp dùng chuông lặn xuống thăm dò kỹ hơn, phỏng chừng, mười phần chắc đến tám chín là tàu Mariana bị đắm ở phía mé Đông đảo u linh rồi. Ánh lửa cháy ngầm quả nhiên chỉ như hoa quỳnh thoáng nở tàn, vừa bùng lên được giây lát ảm đạm , rồi trở về với hư . vùng trời nước mênh mang mất ánh lửa lạnh, lập tức trở nên tối đen như mực, chỉ có mưa lớn vẫn cứ trút rào rào. Tôi hỏi Minh Thúc và Nguyễn Hắc, nếu phán đoán dựa kinh nghiệm biển của họ hải tượng đêm nay thế nào? Hai người đó đều là thủy thủ dạn dày kinh nghiệm, mực khẳng định, đừng nhìn hỏa thiêu đốt đáy biển mà nhầm, tình hình có dấu hiệu gì của gió thế này, đảm bảo trong hai ngày tuyệt đối thể có sóng to gió lớn, tàu ở trong vùng biển này vẫn tương đối an toàn. Shirley Dương cũng nhận định tạm thời sợ trời nổi gió lớn, có gió dĩ nhiên có sóng lớn, những con sóng khổng lồ có thể quật vỡ cả thân tàu là sát tinh của ngành hàng hải, nhưng vẫn phải đề phòng những tượng đặc thù như nước biển đột nhiên dâng trào cục bộ, hay bắt gặp ảo ảnh do nhiệt độ nước và khí chênh lệch quá lớn gây ra, chẳng hạn như nhìn thấy những hòn đảo và tàu bè lơ lửng . Tôi bàn bạc với cả hội lúc, mọi người đều cho rằng đây là cơ hội cực tốt, cuối cùng quyết định cho tàu chạy vòng qua đảo u linh sang mé phía Đông vực xoáy San Hô thăm dò tung tích của con tàu đắm. Vậy là, toàn bộ đèn pha công suất lớn tàu Chĩa Ba được bật sáng rực, con tàu lừng lững tiến lên giữa vùng biển tối đen, chầm chậm vòng qua đảo đá ngầm màu đen. Hòn đảo này trông như cái bát úp, đỉnh núi hình chóp tù lộ lên khỏi mặt nước cao chưa đến mười mét, nhưng dốc nghiêng rất rộng, nhìn như sống lưng của con cá voi khổng lồ nổi lên mặt nước. Khi tàu lại gần, ánh đèn pha chiếu lên, đảo đá trông càng uy thế bội phần, đè nặng lên tâm trí chúng tôi cảm giác vô cùng tăm tối. Tôi định kéo bọn Cổ Thái, Tuyền béo ra phía sau chuẩn bị chuông lặn đột nhiên thân tàu rung lên chặp. Mặt biển lặng gió, nổi sóng, đột nhiên lại rung lắc dữ dội bất bình thường. Minh Thúc và Nguyễn Hắc vội bỏ mũ áo mưa ra, thò đầu ra ngoài mạn thuyền, cầm đèn pin kiểm tra tình hình, lo nhất là nước triều xuống thấp quá, tàu va phải đám đá ngầm. Bọn tôi còn chưa kịp xem rốt cuộc xảy ra chuyện gì, phía trước bỗng sáng bừng, tầm nhìn rộng mở, cơn mưa lớn thình lình tạnh ngắt. ra, long hỏa dưới đáy biển bốc lên làm tan biến mây mưa. vầng trăng rờ rỡ giữa trung, lơ lửng ngay đỉnh đầu chúng tôi. Trăng sáng như ban ngày, chiếu rọi khắp vùng biển lớn. Trong khu rừng dưới đáy biển phía sau tàu chúng tôi, hằng hà sa số con trai hé mở hai mảnh vỏ cứng, nhả minh châu, tranh thủ hấp thu khí tinh của ánh trăng. Ánh trăng trời hòa lẫn cùng ánh sáng của minh châu dưới đáy biển. Trong ánh sáng bàng bạc thấm đẫm gian ấy, vô số xác cá vừa bị long hỏa đốt cháy nổi lềnh phềnh mặt nước. bầu khí kỳ dị bao trùm lên tất thảy. Tàu của chúng tôi vẫn lắc lư ngừng, liên tục trồi lên hụp xuống khiến ai nấy càng thêm căng thẳng. Linh cảm sắp xảy ra tai họa dâng ngập trong tâm thức tôi. Shirley Dương phát ra tình huống đầu tiên: “Mau lùi lại! Hải lưu ở đây rất dị thường!” Shirley Dương vừa dứt lời, cảnh tượng cực kỳ đáng sợ đập ngay vào mắt cả bọn. Hằng hà sa số hải động lớn mặt biển, vầng trăng sáng rực rỡ cũng cách nào soi tỏ tận đáy những xoáy nước đen ngòm. Tàu Chĩa Ba giữa hai xoáy nước, rung lắc dữ dội do sức tác động của hai luồng nước ngầm từ hai hướng khác nhau xô tới. “Hải động” hay còn được dân chài và dân mò ngọc gọi là “lỗ biển”, là tượng những hố sâu lớn đột nhiên sinh ra dưới đáy biển, tạo thành các xoáy nước đổ ngược xuống dưới, tàu bè vô ý bị cuốn vào trong xưa nay đều khó thoát đại nạn. Hải động và hải nhãn là hai thứ hoàn toàn khác nhau. Tương truyền, hải nhãn, hay còn được gọi bằng tên “Quy Khư”, là hang động khổng lồ giữa trời đất. Nước trong thiên hạ cuối cùng đều đổ về nơi này. Hải nhãn là thứ tồn tại cố định vĩnh hằng, nhưng ai biết nó có thực đúng như mô tả trong truyền thuyết hay . Còn hải động có thể lớn, có thể , lúc có lúc , là tượng xoáy nước hình thành sau khi hải khí ngưng tụ bốc lên, nước biển dồn vào bù lấp khoảng chân vừa sinh ra. Hải động cũng có thể sinh ra do động đất hay nứt lở, sụt lún dưới đáy biển. Chúng tôi nhìn những xoáy nước liên tiếp xuất mặt biển, hoa hết cả mắt, nào có thể đếm kỹ xem rốt cuộc trước mắt có mấy chục hay mấy trăm cái hải động, ai nấy đều như bị giội cho thùng nước đá, toàn thân run lên chặp, rồi mới sực tỉnh. Nhân lúc hải động vừa hình thành, xoáy nước vẫn chưa mạnh lắm, phải mau mau quay tàu lùi lại, bằng , chỉ cần chậm nửa bước, bị cuốn vào hải động rồi đừng là tàu Chĩa Ba này, dẫu có là hàng mẫu hạm cũng bị hút xuống vực sâu dưới đáy biển, xé nát tan tành. thanh ầm ầm dưới hải động tựa như từng hồi chuông báo tử vẳng lên từng đợt từng đợt, nước biển cuộn dữ dội, chỉ dựa vào các công cụ hàng hải do con người chế tạo này, chúng tôi thực có chút khả năng kháng cự nào trước sức mạnh hủy thiên diệt địa của thiên nhiên. Chúng tôi biết thể lấy trứng chọi đá, nào còn dám nghĩ gì đến Tần Vương Chiếu Cốt kính nữa, vội vàng kéo cho động cơ chạy hết mức, liều mạng xoay mũi tàu chạy về mé Tây, chỉ mong rời khỏi những hải động đen ngòm ấy càng xa càng tốt, xa thêm mét là thêm phần hy vọng thoát khỏi tai họa bị biển lớn nuốt chửng. Dưới ánh trăng vằng vặc, mọi thứ mồn , chỉ thấy các dòng hải lưu xoay tròn, vô số xoáy nước vẫn hình thành, ầm ầm vang động điếc cả lỗ tai. Hải động và long thượng thủy là hai tai họa lớn biển, do nước bị hút xuống, còn do nước dâng trào. Có điều, chỉ nhìn những tượng trước mắt cũng đủ thấy, uy lực của hải động còn đáng sợ hơn long thượng thủy nhiều. Cũng may, chúng tôi cũng kịp nhận ra, hải động thực vẫn chưa xuất , tàu Chĩa Ba tuy bị dòng nước xô đập dữ dội, song vẫn còn khống chế được phương hướng. Trong giây phút sinh tử, điều duy nhất có thể làm chính là cấp tốc rời khỏi chốn hung hiểm này. Chúng tôi biết quy mô hải động sau khi hình thành lớn chừng nào, vì an toàn của cả bọn, lúc này chỉ có thể lựa chọn rời vùng biển vực xoáy San Hô, chờ dịp khác quay lại tìm xác tàu đắm. Tôi giương ống nhòm hướng về phía Đông, do tác động của mặt trăng, thủy triều hỗn hợp lên, vệt đen nơi đường chân trời lúc ban ngày vẫn còn lờ mờ trông thấy nay bị che khuất, hòn đảo u linh đen kịt từ từ biến mất, nước biển dâng trào. Đây chính là thời cơ tốt nhất để thoát ra khỏi vực xoáy San Hô. Minh Thúc ở khoang lái, con tàu như mũi tên rời khỏi dây cung lao vút mặt biển. Nguyễn Hắc và hai đồ đệ đứng ở mũi tàu vẫy tay loạn xạ, miệng gào thét gì đó, nhưng thanh bị tiếng nước xung quanh át hết. Tôi nghe ra bọn họ hét cái gì, còn tưởng mấy người họ bị hải động vừa xuất làm cho kinh hoảng, nhưng ngay sau đó, lập tức phát giác ra có điều ổn: dường như họ cố gắng với chúng tôi, trước mui tàu xuất thứ cực kỳ đáng sợ. Tôi vội nhìn ra phía ấy, mồ hôi lạnh bất giác túa ra đầm đìa. Dưới nước lù lù ra vật thể khổng lồ nhờ nhờ trắng nhanh chóng áp sát đến tàu chúng tôi. Mặt biển bị vật kia dẫn động, liên tiếp cuộn sóng, rồi tan ngay trong nháy mắt. Chúng tôi chưa kịp phản ứng gì thấy hoa nước bắn tóe, vật ấy ở sát bên, con tàu lao hết tốc lực khựng lại như húc phải bức tường sắt. Mũi tàu suýt vỡ toang. Đa Linh ở boong trước định chộp sợi thừng cố định thân thể, ngờ mất thăng bằng, loạng choạng chộp vào khoảng , tức khắc bị chấn động hất văng lên cao. Mắt thấy bé sắp rơi xuống mặt biển sôi trào, Nguyễn Hắc vội bất chấp tất cả tóm lấy sợi thừng nhảy vù ra ngoài mạn tàu. Đa Linh bị hất lên cao rồi mới rơi xuống, Nguyễn Hắc tranh thủ được khoảng chênh lệch độ cao, vừa nhảy ra khỏi tàu may là kịp chộp được trước khi chạm mặt nước. Song chính Nguyễn Hắc bị đà rơi của Đa Linh kéo theo, cũng rơi tòm xuống biển. Nguyễn Hắc thu nạp Đa Linh làm đồ đệ từ trước khi rời khỏi Việt Nam, nhiều năm nay cùng nhau ra biển đánh cá mò ngọc, tình cảm thân thiết như cha con, thấy Đa Linh sắp rơi xuống biển, lập tức nghĩ ngợi, liều mạng xông ra cứu. Mặc dù lúc nhảy ra khỏi tàu, Nguyễn Hắc tóm được sợi dây thừng, nhưng sợi thừng ấy lại buộc cố định boong, bị hai thầy trò kéo, liền cứ thế tuồn tuột trượt khỏi tàu như con rắn sống. Lúc này chỉ có mình tôi đứng gần cuộn thừng nhất, trong lòng ngoại trừ ý nghĩ cứu người khẩn cấp ra còn nghĩ đến gì khác. Tôi vội loạng choạng nhảy lên bước, nắm chặt đoạn thừng còn chưa bị tuột, trong lúc cuống cuồng biết quấn vào đâu, đành xoay người vòng, quấn sợi thừng to bằng cánh tay trẻ con quanh eo hai vòng. Đột nhiên, sợi thừng bị kéo giật cái, khiến tôi cơ hồ muốn tắc thở, huyết khí trong lồng ngực cuộn trào lên, chân mềm nhũn, mắt tối đen, suýt chút nữa bị đà rơi của Nguyễn Hắc và Đa Linh kéo văng ra khỏi tàu. Đúng lúc ấy, Tuyền béo ở phía sau tôi xông lên, tóm sợi dây, giậm mạnh chân xuống sàn tàu. Thân thể như con bò mộng của cậu ta vận sức gồ hết cơ căng hết bắp, khó khăn lắm mới giữ được hai người sắp chìm xuống đáy biển kia lại. Tôi như kẻ lĩnh án tử hình rồi được đại xá, vội lăn tròn vòng dưới đất, gỡ sợi thừng khỏi phần eo hông bầm tím vết lằn, tranh thủ liếc xuống mặt biển cái, ra tàu Chĩa Ba của chúng tôi vừa húc phải con rắn biển lớn gặp dưới đáy sâu lúc nãy. Con rắn biển trông như con rồng trắng này trời sinh sợ ánh sáng, vốn chỉ sống ở vùng biển sâu trăm mét, những lúc đêm tối, khi mây mờ trăng khuất mới nổi lên. Theo lý mà , trăng sáng lơ lửng giữa trời thế này phải thời điểm nó hoạt động, khốn nỗi, vừa nãy hỏa bừng bừng dưới đáy nước, giờ lại thêm lũ trai nhả ngọc, ánh sáng phản chiếu, khiến đáy biển còn rạng rỡ hơn trời, mới làm nó thể yên thân, buộc phải nổi lên mặt nước. Giờ con quái vật biển ấy nổi giận, định quẫy nước lật chìm tàu chúng tôi cho hả cơn tức đây. Nếu tàu Chĩa Ba được gia cố thêm ván đồng, e rằng chỉ cần bị con rắn tông cho cú thủng toác. Đòn tấn công đầu tiên vừa qua, chỉ thấy dưới biển như thể có dải lụa trắng cuồn cuộn lướt qua, thoắt cái con rắn quay đầu quật đuôi quét ngang thân thuyền. Tàu đóng bằng gỗ liễu biển tuy cực kỳ kiên cố, nhưng cái đuôi của con rắn biển khổng lồ phải to bằng thân cây san hô trong suốt dưới đáy biển, phải mãnh long quá giang, sức mạnh của cú quét đuôi ấy hoàn toàn có thể quật thân tàu vỡ tan thành mảnh vụn. Con tàu trồi lên hụp xuống, tôi và Tuyền béo giữ chặt dây thừng dám buông ra, Nguyễn Hắc ôm chặt Đa Linh, treo mình lơ lửng giữa trung, văng qua văng lại theo chuyển động của thân tàu, tình thế hết sức nguy hiểm. Shirley Dương và Cổ Thái nhanh chóng chạy đến sau lưng tôi ôm chặt. Vậy là, từ trong khoang ra đến bên ngoài tàu, sáu người nối thành chuỗi dài con tàu bị sóng dữ quăng quật như phiến lá mỏng manh, chỉ cần người chịu nổi buông tay, có người lập tức rơi xuống biển sâu làm mồi cho cá. Phúc bất trùng lai, họa vô đơn chí, chúng tôi phải gắng gượng chống chọi trong hoàn cảnh tiến thoái lưỡng nan như thế, dưới biển lại cuộn lên cơn sóng trắng xóa. Cái đuôi con rắn biển khổng lồ kia bất thình lình từ quật ngược xuống thân tàu. Tôi nghiến răng nghiến lợi dồn hết sức vào sợi dây thừng, dám lơ là dù chỉ giây, chỉ còn biết mở mắt trừng trừng nhìn cái đuôi rắn to tướng cỡ bằng cả cái ang nước cuộn đến, ngoài ra chẳng có thể làm gì được nữa. Vừa khéo đúng lúc ấy, sóng biển quăng con tàu của chúng tôi lên cao rồi đột ngột thả xuống, thân tàu rơi tận đáy ngọn sóng, làn gió tanh tưởi ộc vào mặt, lồng ngực tôi tức nghẹn như bị giáng cho cú, mắt thấy con rắn biển khổng lồ cuộn vòng bay vọt trung. Trong khoảnh khắc chỉ bằng cái chớp mắt ấy, con tàu thoát khỏi đòn trí mạng. Con rắn đập xuống mặt biển làm hoa nước ào ào văng lên, rồi lặn mất hút vào tấm màn nước khổng lồ. Tôi biết, nó bị trăng tròn làm kinh động, tuyệt đối chịu dừng lại ở đây. Quả nhiên, chỉ qua thoáng, nước biển phía sau thân tàu cuộn sôi, con hải thú khổng lồ màu trắng lại nổi lên lần nữa. Tôi chẳng kịp thở lấy hơi, cũng chẳng kịp vui mừng vì con tàu bị phá hỏng, vội dồn hết sức kéo sợi thừng, cứu hai thầy trò Nguyễn Hắc trở lại tàu. Nguyễn Hắc và Đa Linh ướt sũng, mặt tái nhợt vì kinh hãi quá độ, cắt còn hột máu. Bọn tôi vội chia nhau vừa dìu vừa đẩy, đưa hai kẻ mò ngọc đại nạn chết ấy vào trong khoang tàu. Vì số trân châu và cái xác nhân ngư, Minh Thúc ngờ lại kiên trì giữ vững vị trí, nghiến răng kèn kẹt quyết lòng tranh đấu với trời cao biển rộng, sắc mặt cực kỳ hung hãn và kiên định, toát lên phong độ của gã sói biển hào hùng. Tôi chửi thầm trong bụng, tự nhủ: “Lão nông dân Hồng Kông chết tiệt, đúng là thấy tiền mới mở mắt, mơ phát tài mà quên cả chuyện sống chết. Có điều lúc nguy cấp này được như thế lại thành ra quý hóa.” Nghĩ đoạn, tôi khua tay múa chân, ra hiệu cho lão biết con rắn biển kia lại nổi lên rồi, mau lùi lại, cố gắng lách vào góc nào có thể nổ pháo được. Trong tình hình trước mắt, xem ra chỉ có thể nhờ cậy pháo Chấn hải đẩy con ôn vật kia trở về biển sâu mà thôi. Mấy cú va đập vừa rồi khiến tàu Chĩa Ba dù tính năng ưu việt cũng tổn thương khá nặng, chưa đến nỗi thủng tàu, nhưng việc chết người nhất xảy ra rồi: bánh lái mất tác dụng, con tàu chỉ có thể ngừng tiến lên theo hướng nhất định. Con rắn biển vẫn cuồn cuộn bám riết tha. Mặt biển vằng vặc ánh trăng, cuộc đuổi bắt sinh tử giữa con hải quái và tàu của chúng tôi càng lúc càng thêm quyết liệt. Tôi cuống lên giúp Minh Thúc xử lý cái bánh lái, chợt phát lão già Hồng Kông ngoác miệng chửi mắng bánh lái điều khiển được bỗng im bặt, mặt đờ ra như phỗng đá, cũng ngẩng lên nhìn theo ánh mắt lão. Ngay lập tức, toàn thân tôi thoắt cũng lạnh cứng từ trong ra ngoài. Vừa nãy tình hình quá hỗn loạn, tàu Chĩa Ba của chúng tôi như thể bị quỷ thần sai khiến, quay ngoặt trở lại khu vực phía Đông vực xoáy San Hô, chỉ thấy vô số hải động từ từ hợp lại, hình thành xoáy nước khổng lồ sâu biết đâu mà kể... Có lẽ, đó chính là hải nhãn trong truyền thuyết... Quy Khư. Biển lớn rốt cuộc cũng phơi ra gương mặt cuồng dại đáng sợ, nước biển vô cùng vô tận cuồn cuộn bị hút vào Quy Khư, cả con rắn biển lẫn tàu của chúng tôi cũng bị dòng loạn lưu cuốn tới. Nước trong hải động dựng đứng như vách tường, khí thế muốn hút cả trời đất vào trong. Tình hình đến nước này, e là có mọc thêm đôi cánh, sợ cũng khó lòng thoát nổi.
Chương 25 Cú nhảy kinh hoàng àu Chĩa Ba bị xoáy nước khổng lồ hút tới, càng vào gần trung tâm lực hút càng lớn, dòng nước cuồn cuộn đổ vào vực sâu đáy đen ngòm. Bọn tôi thấy bánh lái mất tác dụng, con tàu lao thẳng vào hải động tăm tối, lạnh toát hết cả người, hiểu rằng chỉ trong mấy phút đồng hồ nữa thôi, đại nạn ập xuống đầu hủy diệt hết thảy. quá muộn để bỏ thuyền tháo chạy, vả lại, nếu thả xuồng cứu sinh, trọng lượng quá càng khiến nước biển dễ cuốn trôi xuồng mất. Trong bản hòa sầm sập đinh tai nhức óc của nước biển, tàu Chĩa Ba của chúng tôi chớp mắt tiến vào rìa xoáy nước vĩ đại, lập tức bị dòng nước dẫn động, mũi nghiêng , thân tàu chao đảo theo những dòng xoáy xung quanh hải động. Shirley Dương và Minh Thúc gắng hết sức kìm giữ con tàu mất lái, dứt khoát ném bớt phần đồ đạc trong khoang, giảm trọng lượng hòng hãm đà lao vào trọng tâm dòng xoáy, kế đó, nhân lúc sóng biển dập dềnh, đưa tàu dịch chuyển theo phương ngang, rồi mở hết động cơ lao vút tới, cuối cùng cũng ổn định được cái bánh lái vừa mất điều khiển, giành lại quyền kiểm soát tàu trong thời khắc quan trọng nhất. Nhưng trước uy lực hủy thiên diệt địa của xoáy nước khổng lồ, tàu Chĩa Ba của chúng tôi chẳng khác nào phiến lá khô trong cơn cuồng phong bão tố, bị dòng xoáy hút lại rồi, làm sao còn thoát ra được nữa. Minh Thúc thấy đại thế mất, chán nản ôm bánh lái gục xuống sàn tàu. Shirley Dương hét gọi tôi kéo lão ra, lập tức tiến lên tiếp lấy bánh lái, điều khiển tàu Chĩa Ba vượt gió phá sóng, sau mấy phen trồi hụp, ngờ càng lúc càng rời xa khỏi trung tâm vòng xoáy. Tôi và Tuyền béo thấy tàu Chĩa Ba phỏng chừng có thể thoát hiểm, tinh thần phấn chấn hẳn lên, nhưng ngay sau đó, tôi phát ra, nước biển ở khu vực xung quanh hải động đen ngòm như mực, trong làn nước đen dải lụa trắng chập chờn theo sóng. Con rắn biển khổng lồ nhất định là lầm tàu của chúng tôi với cá voi hay loài hải thú có thể bắt ăn thịt được, nên mới mực bám riết chịu buông tha như thế. Tôi thầm than khổ, Nam châu quả nhiên là bảo vật của Nam hải, phải thứ có thể tùy tiện mò vớt được. Câu “khinh núi chớ khinh biển” coi vậy mà lại ứng nghiệm . Núi và biển tĩnh động, lẽ thường của đạo phong thủy chính là “thiên địa hữu tình”, núi non sông biển cũng như con người, là linh khí có sinh mệnh, đến cả ngọn núi tĩnh lặng im lìm thực ra cũng có sinh mệnh, huống hồ là biển lớn mênh mông lúc nào cũng cuộn trào sóng dữ? Minh châu trong vực xoáy San Hô là linh vật do linh khí của mạch Nam Long kết tụ mà thành, giờ bị đám mò ngọc chúng tôi vớt đống lớn, khiến hải khí mất cân bằng, gây ra hỏa thiêu đốt biển sâu. Con rắn biển hung tợn bị hỏa làm cho kinh hãi nổi lên mặt biển, bất chấp tất cả đuổi theo tàu của chúng tôi, xét cho cùng, mối họa này rất có thể chính là do hành động mò ngọc của chúng tôi gây nên. Tôi biết đời này chẳng đâu có bán thuốc hối hận, giờ cũng phải lúc nghĩ ngợi về nguyên nhân gây ra những tượng dị thường này, vả lại tham ô lãng phí là tội lớn, vật vào tay Nhất này rồi chẳng có lý đâu mà ném trở lại cả. Giờ nếu muốn thoát khỏi tuyệt cảnh, phải đảm bảo Shirley Dương có thể đưa tàu an toàn rời phạm vi lực hút của hải động, đây chính là điểm mấu chốt quyết định sống chết của cả đoàn. Tàu Chĩa Ba bị ghìm chặt ở mép hải động, vùng vẫy mãi thoát, muốn rời phải chuyện dễ. Dòng nước xoáy cuộn như có nghìn vạn con ngựa sầm sập lao , tàu của chúng tôi xoay chuyển ngừng trong vòng xoáy ở rìa ngoài hải động, tuy nhất thời khó lòng thoát ra ngay, song chỉ cần duy trì trạng thái tại, để tàu bị hút lại gần trung tâm hải động, cố gắng kéo dài thời gian cầm cự, đợi đến khi xoáy nước biến mất là được. Trước mắt, e rằng chỉ còn biện pháp ấy là khả thi nhất mà thôi. Có điều, muốn kéo dài thời gian ở rìa ngoài hải động, nhất thiết thể để con rắn biển đại tướng kia đến gần tàu chúng tôi được, lỡ bị nó đụng phải, cho dù thân tàu chịu được va đập, nhưng ngộ nhỡ bị lệch trọng tâm mất thăng bằng, chắc chắn bị cuốn vào xoáy nước sâu thấy đáy kia ngay. Tôi vẫy tay ra hiệu bảo Tuyền béo xuống khoang dưới chuẩn bị thủy thần pháo, sử dụng đạn tử mẫu có nhồi tảo Bala đuổi con quái vật kia về đáy biển, hoặc dùng luôn đạn nhồi mảnh sắt bắn chết cha nó . Tuyền béo thấy Nam châu vào tay rồi lại có nguy cơ thể mang trở về, sớm tích đầy bụng tức, cơ mặt giật giật ngừng, hai tròng mắt đỏ vằn lên, thấy tôi bảo dùng đến súng pháo, kéo ngay Minh Thúc giúp tay. Có điều, ba hồn bảy vía của Minh Thúc sớm bay đâu mất nửa, Tuyền béo tát cho mấy cái liền chẳng thấy lão có phản ứng gì. Nguyễn Hắc và nữ đồ đệ Đa Linh của ông ta vừa thoát chết, chẳng có bị thương gì , Cổ Thái ở trong khoang chăm sóc cho họ. có nhân lực dư thừa để làm pháo thủ, Tuyền béo đành gọi Cổ Thái giúp vận chuyển đạn pháo. Mặt biển lúc nửa đêm, trăng treo lơ lửng đầu, ánh sáng bàng bạc phủ khắp mặt nước. Cả đời này chúng tôi chưa từng thấy vầng trăng nào tròn và lớn đến thế, ai nấy đều nảy sinh ảo giác, khỏi đặt câu hỏi chẳng có phải lực hút vô cùng vô tận trong hải động kéo cả vầng trăng trời xuống gần mặt biển hơn hay . Thời tiết biển quả đúng như Minh Thúc trước đó, có lấy cơn gió, nhưng bốn phía xung quanh hải động sóng lớn cuộn trào, thanh thế kinh người. mặt biển kỳ dị khó tưởng tượng ấy, chúng tôi mặt liều mạng điều khiển tàu Chĩa Ba thoát ra khỏi vòng xoáy khổng lồ do hải động sinh ra, mặt khác lại phải liên tục nổ pháo xạ kích con rắn biển khổng lồ lẵng nhẵng bám theo con tàu chịu buông tha. Lấy hải động đen ngòm ngừng gầm rú, nước xoáy tròn cuồn cuộn làm trung tâm, tàu Chĩa Ba và con rắn biển hung dữ như chạy cái mâm xoay. Thân tàu nhấp nhô lên xuống, lắc lư dữ dội, muốn đứng vững trong khoang tàu cũng hết sức khó khăn. Chỉ thấy con rắn biển vượt sóng xông tới, khoảng cách mỗi lúc rút ngắn, vậy mà pháo Chấn hải lại thể bắn trúng mục tiêu, từng viên đạn pháo mang theo những đóa hoa lửa rực sáng vạch bầu đường parabol rồi chìm nghỉm xuống mặt nước. Cứ trồi lên rồi lại hụp xuống theo những ngọn sóng đen ngòm, con rắn biển cuối cùng cũng đuổi kịp tàu Chĩa Ba của chúng tôi, ló cái đầu rắn hình dạng như đầu trâu ở phía mạn trái tàu, nước biển lạnh buốt xô tới đổ ập xuống thân tàu. Tôi nhìn mồn , biết việc hay, vội dồn sức rống to vào ống truyền thanh trong khoang tàu, ra lệnh cho Tuyền béo và Cổ Thái nhanh chóng khai hỏa. Nhưng trong tiếng sóng ầm ầm, chính tôi còn nghe thấy mình hò hét gì, cứ như rát cổ bỏng họng mãi hồi lâu mà phát ra bất cứ thanh nào vậy. Đúng lúc ấy, làn khói thình lình phụt ra nơi mạn tàu, đạn xuyên giáp như quả cầu lửa bắn vút về phía thân hình nhao lên giữa làn sóng của con rắn lớn. Khoảng cách rất gần, bàn tay tôi và Shirley Dương cùng ướt sũng mồ hôi lạnh, chỉ mong bọn Tuyền béo bắn trúng, nhưng viên đạn lại như sao băng lóe lên, xuyên qua màn nước, bay sượt qua cạnh con rắn. Tôi thấy có cơ hội tốt như vậy mà bọn Tuyền béo còn bắn trượt, tức tối giẫm chân bình bịch. Có điều, phát đạn tuy trúng đích, song cũng đủ khiến con rắn biển kinh hoảng xoay mình lặn xuống. Cái bóng trắng lấp lóa chìm giữa làn sóng dữ, nhưng thoắt cái vòng ra trước mũi tàu, tiến vào góc chết của họng pháo. Tôi thầm nhủ, phen này toi đời, còn chưa bị xoáy nước hải động hút vào, bị con rắn biển đáng ghét đụng cho vỡ tàu chết đuối rồi, xem ra cái câu “ phải dân trong nghề biết nghề” cấm chẳng có sai. Mô Kim hiệu úy lại học theo dân mò ngọc vớt thanh đầu, đích thực là thể nào kham nổi, lần này nếu được Mẹ tổ phù hộ cho thoát nạn, sau này nhất định tôi làm cái nghề buôn giấy phép này nữa. Vì thân tàu vẫn ngừng xoay chuyển theo những xoáy nước ở ngoại vi hải động, bọn tôi thảy đều váng đầu hoa mắt, lồng ngực tắc nghẹn, chỉ muốn nôn thốc ra, giữa lúc sinh tử thế này mà đầu óc vẫn xoay mòng mòng hỗn loạn nghĩ toàn những thứ vẩn vơ đâu đâu. Trong lúc đó, con rắn khổng lồ cong mình chặn trước mũi tàu. Chúng tôi chưa kịp phản ứng gì, bỗng thấy nó đột nhiên quay đầu lao vút , bộ dạng như chớp từng khoảnh khắc lặn nhanh xuống đáy sâu chạy tháo mạng vậy. Tôi giật thót mình, biết ngay có chuyện chẳng lành rồi. Ngoảnh mặt nhìn lại, ra hải động thành hình, trong thoáng chốc, cả tàu Chĩa Ba và con rắn biển khổng lồ kia đều bị hút vào trong. Rắn biển dường như cũng hiểu được đáng sợ của trung tâm hải động, chẳng để ý gì đến con tàu của chúng tôi nữa, lập tức cướp đường bỏ chạy. Bên tai tôi toàn nghe tiếng nước đổ ầm ầm, ngoài ra còn bất cứ thanh nào khác nữa, nhưng dù sao cũng vẫn còn đôi mắt có thể sử dụng, vừa thấy con rắn biển có hành động dị thường, tôi liền phát chân tàu đột nhiên xoay theo xoáy nước nữa. Nước trong hải động dường như có chút sức nâng nào, tuy dòng chảy vẫn dữ dội đổ dồn xuống đáy sâu, nhưng con tàu của chúng tôi lại đứng yên chỗ, bắt đầu từ từ chìm xuống, chân vịt phía đuôi tàu xoay tròn tại chỗ, bốn phía xung quanh nước đen ngòm như mực. Mắt thấy đại họa ập xuống như lửa sém lông mày, đến cả Shirley Dương cũng khỏi tái mét. Nhưng đám Mô Kim hiệu úy chúng tôi, chẳng ai chưa từng trải qua gian nan nguy hiểm, đều biết nếu thực có cơ hội sống sót, cơ hội ấy thường xuất vào những thời khắc nguy hiểm nhất. Dù họa ập xuống đầu cũng tuyệt đối thể từ bỏ hy vọng cầu sinh, chỉ có bình tĩnh trấn định, mới có thể tìm được cơ hội thoát ra. Shirley Dương chắc cũng biết bánh lái còn tác dụng, bèn xông ra ngoài khoang lái, đánh tay ra hiệu cho tôi xông ra theo, rồi co chân chạy về phía mũi tàu trước. Tôi thấy tấm màn nước dựng đứng bên mạn tàu từ từ bị hút vào hải động, bên ngoài chỉ toàn là phong hắc thủy, cảm giác như thể cả tàu lẫn người rơi xuống vực sâu vạn trượng, thực thể hiểu nổi Shirley Dương liều mạng chạy ra phía mũi tàu làm gì. Nhưng tôi cũng biết tuyệt đối phải loại người sợ hãi quá độ hoảng loạn muốn nhảy xuống biển tự sát. boong tàu kia dẫu là núi đao biển lửa gì, tôi cũng quyết cùng xông tới. Vừa chạy ra khỏi khoang tàu, tôi liền cảm thấy trong khí dường như có lực trường vô hình, dồn nén áp bức khiến người ta thở nổi. Tàu của chúng tôi hóa ra phải đứng yên, mà bị dòng nước đen ngòm từ từ mất sức nâng kia dẫn động cho xoay tròn chầm chậm. Dưới tác dụng của lực trường thần bí ấy, trong khoảnh khắc, dường như cả nước biển cũng ngưng kết trong bóng tối hư vô. Tôi nín thở, bám dây thừng theo sau Shirley Dương. Đằng trước mũi tàu xuất cái bóng trắng mờ mờ, con rắn biển lớn liều mạng vùng vẫy tìm đường thoát khỏi hải động. ra Shirley Dương muốn tìm đường sống trong cõi chết. Giờ đây động cơ tàu còn tác dụng, nhưng ở mũi tàu còn có khẩu súng phóng lao dùng để bắt cá voi, tuy con tàu này thể bắt được cá voi, nhưng mấy người kia lúc cải tạo vẫn lắp thêm thứ ấy vào để đề phòng những lúc cần thiết, bây giờ vừa khéo khẩu súng phóng lao ấy lại phát huy tác dụng. Shirley Dương nhét mũi lao có móc ngược dùng để săn cá voi vào nòng súng, nhắm về phía con rắn biển. Đằng sau mũi lao có gắn dây thừng lớn, chỉ cần móc được vào con rắn kia là có thể lợi dụng sức lực khôn cùng của nó, kéo tàu ra khỏi hải động. Tốc độ chìm xuống tăng lên, ở trong lực trường kỳ bí của hải động này, ai có thể mở miệng chuyện được, Shirley Dương chỉ tay vào con rắn biển cách chúng tôi xa lắm. Cơ hội này rất có thể chỉ có lần, tôi càng dám chần chừ, vội điều chỉnh nòng súng bắn lao rồi bóp cò, mũi lao mang theo dây thừng cắm thẳng vào sống lưng con rắn lớn. vòi máu tươi bắn tóe từ tấm thân đầy vảy trắng của nó, sợi dây thừng gắn sau mũi lao lập tức bị kéo thẳng băng. giống tàu Chĩa Ba chỉ có thể dựa vào động cơ chân vịt để chuyển động, con rắn biển kia toàn thân chứa đựng sức lực khủng khiếp của loài hải thú, vừa bị trúng lao vào sống lưng, đau đớn kịch liệt, liền lao vút về phía trước, kéo theo cả con tàu bị hải động hút chặt, vạch nên đường thẳng cắt lìa dòng nước biển đen ngòm. Từng sợi bện nên sợi thừng lớn gắn ở mũi tàu bị luồng sức mạnh cực độ kéo căng đến cực hạn. Tuy là loại đặc biệt chuyên dùng để bắt cá voi, cực kỳ bền chắc vì bện lẫn cả tóc người và sợi đay, nhưng căng ra giữa sức giằng co của hải động và con quái thú, sợi thừng dường như vẫn quá mỏng manh, có thể đứt lìa bất cứ lúc nào. Con rắn biển cũng bị hải động hút xuống, hoàn toàn chỉ dựa vào sức mạnh cùng tài bơi lội trời sinh để gắng gượng vùng vẫy chống cự, bị xoáy nước nhấn chìm ngay. Có điều, dù to lớn đến mấy, thân thể cũng chỉ là máu thịt, sức có mạnh đến đâu cũng nằm trong giới hạn, nó kéo tàu Chĩa Ba bơi mấy vòng trong dòng nước xoáy, sức cùng, lực kiệt, nếu bị cuốn vào hải động tối tăm kia, nhất định chỉ có con đường chết. Được thúc đẩy bởi khát vọng cầu sinh mãnh liệt, con rắn dồn hết toàn bộ sức mạnh cuối cùng còn sót lại, vặn vẹo thân mình tựa như rồng thần cởi giáp, thân mình cong lên như cây cung. Liền sau đó, chỉ thấy nó phá sóng lao vút lên, ngờ lại vùng thoát được khỏi lực hút mãnh liệt của hải nhãn, trong khoảnh khắc vượt khỏi lằn ranh giới hạn giữa sinh tồn và tử vong. Thân hình nó vọt lên, liên tiếp xuyên qua mấy tấm màn nước, mang theo cả tàu Chĩa Ba vút cao hơn chục mét so với mặt nước biển, bay trung. Dưới ánh trăng vằng vặc, con rắn biển dài mấy chục mét tựa rồng bay giữa trời. Tôi và Shirley Dương ở mũi tàu bám chặt vào sợi thừng to nhất, căn bản dám nhúc nhích, thình lình thấy gió lướt vù vù qua mặt, trước mắt thoắt sáng thoắt tối như thể cưỡi thuyền tiên bay lên cung Quảng Hàn ở chân trời xa tít tắp. Trong thoáng ngẩn ngơ ấy, tôi thấy trăng treo đỉnh đầu, cung Thiềm thỏ ngọc tưởng chừng như chỉ vươn tay ra là chạm tới, còn ngỡ rằng mình ở trong ảo cảnh trước lúc lâm chung. đúng là trời xoay đất chuyển, hiểu sao tự dưng lại ở trung, nhất thời tôi cũng biết thần trí mình lơ lửng đến tận nơi nào. Nhưng chúng tôi còn chưa kịp hiểu chuyện gì xảy ra cú nhảy kinh hoàng của con rắn hết đà, cả tàu lẫn rắn rơi vèo xuống vực sâu vô tận dưới hải động.
Chương 26 Quy Khư hững dòng loạn lưu đen kịt trong hải động từ từ biến mất, có lẽ chỉ cần cầm cự thêm độ nửa phút, tàu Chĩa Ba thoát khỏi cái miệng khổng lồ nuốt hết mọi thứ xung quanh. Lúc này, con rắn biển kéo tàu bỗng uốn mình nhảy vọt mặt biển, nhưng thân thể dẫu sao cũng chỉ là máu thịt, tác động của lực kéo khủng khiếp khỏi khiến gân cốt nó đứt lìa toàn bộ. Trong khoảnh khắc con rắn bỗng mềm oặt tựa tấm vải trắng phất phơ trong gió bão, rồi rơi thẳng xuống. Sợi thừng bắt cá voi nối giữa mũi tàu Chĩa Ba và sống lưng con rắn biển tuy rất chắc chắn, song đến cực hạn chịu đựng, đứt lìa làm hai đoạn. Tôi và Shirley Dương bám vào đoạn thừng nối với mũi tàu, vừa nãy còn loáng thoáng thấy trăng sáng lấp lóa, thân thể như đằng vân giá vũ trung. Thế mà nháy mắt con tàu rơi, thân tàu cơ hồ dựng ngược, hai chúng tôi bị hất văng ra ngoài, chỉ thấy trước mắt tối sầm, cùng nhau lao thẳng vào vực sâu đáy. Dòng loạn lưu do hải động sinh ra cũng đến hồi kết, song thanh thế còn lại vẫn hết sức kinh người, tôi cảm giác như rơi vào trung tâm cơn lốc xoáy, dòng nước cuồn cuộn tạo ra áp lực khí cơ hồ muốn xé toang thân thể tôi ra thành mấy mảnh. Cũng may, trong lúc hoảng loạn, tôi và Shirley Dương vẫn níu chặt lấy nhau, thể trọng hai người gộp lại chưa đến nỗi bị dòng xoáy cuốn bay. Có điều, lúc này đầu óc chúng tôi hoàn toàn mất tỉnh táo, bên tai ù ù tiếng sóng, lục phủ ngũ tạng lộn tùng phèo, căn bản biết mình ở nơi nào nữa. Thân thể rơi của chúng tôi đột nhiên va phải luồng khí lưu nóng bỏng, đà rơi lập tức giảm xuống đáng kể, nhưng nhiệt độ của luồng gió nóng cực cao, chớp mắt khiến người ta muốn tắc thở mà chết. Thêm chốc nữa thôi, cơ thể chúng tôi bị luồng gió nóng hun cho cạn sạch nước, hóa thành hai cái xác khô. Còn chưa kịp kinh hoảng, toàn thân chợt mát rượi, hóa ra chúng tôi rơi xuống nước. Tôi bị uống liền mấy ngụm nước biển, cuống quýt tìm bóng dáng Shirley Dương. Cũng may, bơi rất giỏi, vừa xuống nước tỉnh táo được ngay. Hai chúng tôi đều bị sặc, chẳng kịp nghĩ xem tại sao lại bị rơi vào nơi này, vội rẽ nước nổi lên. Đầu vừa ló ra khỏi mặt nước, chúng tôi lập tức ho sặc sụa, há miệng tham lam hít lấy khí mặt nước, mở mắt nhìn khắp xung quanh. Chỉ thấy ánh sáng lành lạnh tỏa chiếu, nhưng đó tuyệt đối phải ánh trăng trời. Phỏng chừng chúng tôi bị hút vào trong hải nhãn, mà hải nhãn kỳ thực chính là cái động đáy trong mạch núi dưới đáy biển. Điều khiến người ta khỏi kinh ngạc là, xung quanh toàn là nước, mênh mang vô tận, chúng tôi như lọt thỏm giữa vùng biển lớn sâu thấy đáy. Mấy chục mét cao, chính là hải nhãn đường kính rộng đến mấy dặm, gió nóng hừng hực bốc lên cao chặn đứng nước biển của vực xoáy San Hô đổ vào. Biển lớn dường như sử dụng thứ sức mạnh thần bí để gìn giữ bí mật của mình. Sau khi hút con tàu vào trong, nước biển lập tức ùa tới lấp dấu tích, nếu phải lọt vào trong, e rằng ai có thể phát ra cảnh tượng nước biển phân đôi thành hai tầng kỳ bí thế này. Mãi lâu sau, tôi vẫn chưa tỉnh táo hẳn sau cơn xoay chuyển tựa như trời đất đảo lộn ấy, ngoảnh đầu lại thấy tàu Chĩa Ba thủng mấy lỗ lớn thân cũng rơi xuống cách chỗ mình xa, chầm chậm chìm xuống. Con tàu gỗ liễu biển ấy vốn có mười sáu khoang ngăn nước , thủng hai chỗ căn bản ảnh hưởng gì đến vận hành, nhưng lần này có thể thấy nó bị tàn phá nặng nề đến mức thể bỏ mất rồi. Tất cả người tàu cũng bị va đập , Tuyền béo chỉ huy Cổ Thái kéo mấy người bị thương từ trong khoang tàu ngập nước lên boong. Tuyền béo thấy tôi và Shirley Dương bơi lên mặt nước, thở phào hơi, vẫy lia vẫy lịa, chắc là muốn chúng tôi bơi lại chỗ con tàu, giúp tay chuyển đồ đạc lên xuồng cứu sinh. Tôi định bơi đến Shirley Dương đột nhiên kéo tay giữ lại. Nhìn theo hướng ánh mắt , tôi bất giác hít vào hơi khí lạnh. Chỉ thấy cái xác con rắn biển đứt lìa gân cốt kia nổi dập dềnh ở mé bên, mặt nước phẳng lặng bên cạnh xác rắn ló lên mấy cái vây cá mập như mấy quả ngư lôi bắn sát mặt nước, lẳng lặng rẽ sóng tiến về phía này. Tôi và Shirley Dương đều mang theo thuốc xua cá mập đặc dụng, gặp phải bọn này, tuyệt đối phải dễ đương đầu. Mặt nước ở vùng biển ngầm nhô lên rất nhiều trụ đá, người đồng, có lẽ đều là di tích cổ bị hải nhãn cuốn vào, chỉ lộ mặt nước phần, còn lại hẳn phải chồng chất vô số ở bên dưới. Cũng may, tất cả những tượng đồng, trụ đá khổng lồ bị nước biển xối xuống quanh năm, đa phần dạt cả ra quanh khu vực bên dưới hải nhãn, nên vừa nãy khi chúng tôi rơi xuống bị va vào, bằng sớm vỡ đầu chảy máu chết ngay tại trận rồi. Thấy lũ cá mập đến gần, Shirley Dương vội chỉ tay về phía trước, chỗ đó có trụ đá lớn màu xanh nghiêng nghiêng, chỉ nhô lên mặt nước đoạn chừng hai mét, có thể tạm thời leo lên tránh nạn. Tình thế khẩn cấp, tôi nào còn kịp nghĩ ngợi gì, lập tức cùng bơi đến, lần lượt leo lên, lập tức rút dao găm thợ lặn mang bên mình ra, đề phòng bọn cá mập bất thình lình nhảy lên khỏi mặt nước tấn công, đồng thời lớn tiếng hò hét bảo bọn Tuyền béo tàu chú ý đến động tĩnh dưới nước. Lũ cá mập cứ lượn lờ bên dưới trụ đá rời , phía bên kia tàu Chĩa Ba coi như xong đời, chúng tôi bị cuốn vào vực sâu dưới hải động tuy chết, nhưng hỏng mất con tàu, chỉ dựa vào hai cái xuồng cứu sinh bằng cao su muốn cầu sinh giữa biển lớn mênh mang đâu phải chuyện dễ, huống hồ có thể trở lại mặt biển phía kia hay là việc còn chưa đến, Shirley Dương khỏi thở dài tiếng khe khẽ, với tôi: “ Nhất à, tôi thấy lần này... chúng ta coi như tiêu rồi...” Tình trạng của chúng tôi đúng là tứ bề khốn đốn, nhiều cá mập thế này đừng hòng bơi qua chỗ con tàu tụ họp với mấy người còn lại, chỉ còn biết đợi bọn Tuyền béo chèo xuồng cứu sinh đến tiếp ứng thôi vậy. Tôi nhìn từ xa, thấy cả năm người tàu đều hành động, xem ra dẫu có ai bị thương cũng nặng lắm, lại nghe Shirley Dương thở vắn than dài vì tình cảnh trước mắt, bèn cất tiếng khuyên giải: “Ngay từ đầu tôi cảm thấy việc quá thuận lợi rồi mà, việc gì quá dễ dàng khiến người ta mất cảnh giác, người nào người nấy đều bị thắng lợi làm cho u mê đầu óc cả rồi, giờ như vậy cũng tốt, đặt mình vào chỗ chết để tìm đường sống, đây mới là cục diện mà Mô Kim hiệu úy chúng ta quen ứng phó. xem, nơi này rốt cuộc là đâu thế nhỉ?” Shirley Dương dõi mắt nhìn ra phía xa, giải thích: “Vùng nước này biết rộng dài bao nhiêu, cũng chẳng là hồ hay biển, nhưng nước ở đây có lẽ vẫn là nước biển. Lúc nãy, khi bị hải nhãn hút vào, nếu nhờ luồng khí nóng bốc lên hạn chế phần tốc độ rơi từ cao hơn trăm mét, mà cứ thế rơi thẳng xuống mặt biển, dẫu chạm phải tảng đá nào, cũng chẳng khác gì húc thẳng vào bức tường bê tông, chúng ta chết là cái chắc. Hải nhãn dường như là tượng tự nhiên có quy luật thời gian, những khi trăng tròn có hỏa xuất , hải động sụt xuống, nhưng lâu sau lại được dòng nhiệt lưu bên dưới bốc lên khép kín. Nếu chúng ta rơi xuống chậm chỉ giây lát, luồng khí hừng hực mỗi lúc nóng hơn kia thiêu cả người lẫn tàu ra tro, nhưng nếu sớm hơn chút, tránh khỏi bị dòng loạn lưu trong hải động xé toang. Thời điểm rơi xuống vừa khéo, ngờ lại khiến chúng ta thoát được cái chết, cũng coi như là kỳ tích.” Tôi thầm nhủ, bị hút vào Quy Khư mà chết cũng chẳng phải kỳ tích gì, nếu mò được ngọc mà bị rơi xuống biển, có thể bình yên trở về mới gọi là kỳ tích, rơi xuống dưới này chết, song cũng ra ngoài được, thực ra phải gọi là đen đủi mới đúng. Có điều, tôi vậy với Shirley Dương, chỉ bảo , trong Quy Khư này có bầu trời, nhưng ánh trăng sao khác gì thế giới bên ngoài kia cả, theo tôi, những tượng này đều do hình thế của mạch Nam Long tạo nên. Hải khí trong long mạch ngưng kết sinh ra hỏa bám vào tầng nham thạch, ánh sáng của hải khí tựa ánh trăng, chính nguồn sáng đặc biệt ấy khiến nước bên trong Quy Khư có màu xanh mực, nhưng khum tay vớt lên vẫn trong vắt, có thể thấy là nước biển quá sâu, nên mới hắt lên màu xanh thẫm như thế. Shirley Dương nghe tôi xong, lại lắc đầu: “Vùng nước hải nhãn thông đến, chắc chắn là Quy Khư rồi. Tương truyền, thời cổ ở Quy Khư có mấy tòa thành, cư dân trong đó nắm được bí mật của long hỏa, văn minh đồng thau phát triển đến trình độ rất cao, nhưng các văn vật và di tích để lại cho đời sau quá ít, đến nay vẫn chưa có mấy học giả chịu thừa nhận ở ngoài biển từng có đất nước huyền bí tinh thông thuật chế luyện đồng thau như thế cả. Tôi thấy, cái gọi là long hỏa trong dư mạch Nam Long ấy, thực tế có lẽ là ngọn núi quặng lớn dưới đáy biển thôi. Ánh sáng xanh mà chúng ta thấy, còn cả dòng nhiệt lưu bịt kín hải nhãn kia nữa, đều là hiệu ứng của lớp quặng gây ra cả. Quy Khư này, có lẽ là mỏ quặng khổng lồ...” Tôi kinh ngạc thốt lên: “Quả nhiên là sức mạnh của giai cấp công nhân, đúng... thời đó làm gì có công nhân công nghiệp, chắc đều là nô lệ cả thôi. Bọn họ đào được cả ngọn núi quặng lớn như vậy cơ à?” Có điều, ngay sau đó nghĩ lại, tôi cảm thấy Shirley Dương rất có lý. Đó là thời kỳ lực lượng sản xuất vẫn còn tương đối nguyên thủy, đồng thau là vật quý của quốc gia, có vai trò rất quan trọng trong các lĩnh vực như quân , chính trị, kinh tế, văn hóa. Để có nhiệt độ cao hòng chế luyện đồng thau, thời đó người ta phải chặt phá lượng lớn các khu rừng nguyên thủy, chẳng hạn như muốn đúc được cái đỉnh đồng giống như văn vật cấp quốc gia Tư Mẫu Mậu đỉnh mới được phát gần đây, ít nhất cũng phải chặt cả khu rừng nguyên sinh vạn năm có diện tích bằng Di Hòa viên ở Bắc Kinh mới đủ. Có lẽ, long hỏa sinh ra từ loại khoáng thạch đặc biệt có thể cháy dưới nước ở trong nham tầng dưới đáy biển. Tôi với Shirley Dương: “Các đảo trong vực xoáy San Hô bị nhấn chìm, nguyên nhân rất có thể là do hành vi khai thác khoáng sản quy mô lớn gây ra. Chúng ta xúi quẩy rơi vào tuyệt cảnh kêu trời thấu, gọi đất chẳng linh, cứ ở chỗ này oán trời trách đất mãi cũng chỉ vô ích, muốn sống sót muốn phát tài phải dựa vào chính mình. Theo tôi, chúng ta cứ phải thu thập lại trang bị, kiểm điểm nhân số trước , sau đấy mới nghĩ cách tìm hiểu địa hình và hướng dòng chảy bên trong chốn Quy Khư này.” Chúng tôi bàn bạc vài câu, kế sách định, bèn gọi bọn Tuyền béo, Minh Thúc tàu mau chóng chèo xuồng qua tiếp ứng. Nhưng bọn họ ở tàu Chĩa Ba hành động rất chậm chạp, là vì thân tàu bị nước tràn vào làm nghiêng hẳn sang phía, lại boong tương đối khó khăn, hai là vì ngoài các trang thiết bị cần thiết để sinh tồn, mấy người đó còn phải gánh gánh gồng gồng thêm đống thanh đầu mò được dưới biển, chẳng những thế, hình như Nguyễn Hắc còn bị thương khá nặng nữa, có lẽ là gãy xương tay rồi. Tuyền béo xử lý cấp cứu cho ông ta, nối đoạn xương gãy rồi dùng mảnh gỗ cố định lại. Có điều, thằng béo này ra tay biết phân biệt nặng , làm Nguyễn Hắc đau đến ngất lên ngất xuống mấy lần. Đa Linh gạt nước mắt tìm thuốc tê, đầu cũng máu chảy đầm đìa. Minh Thúc muốn lôi theo cả cỗ quan tài đá dưới khoang đáy, nhưng cuối cùng cũng đành phải bỏ lại vì đủ sức, chỉ ôm theo được con nhân ngư ngậm ngọc, cùng với cái ba lô đựng đống ngọc trai, vội bò trở lại boong tàu, liền bị Tuyền béo đụng phải, vươn tay giật luôn cái túi, đeo lên vai mình. Tôi thấy tình cảnh tàu rối loạn hết sức, tuy có lòng muốn giúp nhưng khốn nỗi lại bị đàn cá mập dưới nước ngăn cản, khó mà qua đó được, chỉ đành ngồi chỗ trơ mắt ra nhìn, hy vọng tàu Chĩa Ba chìm chậm chậm chút. Có lẽ tại nước biển phía ngừng đổ xuống, mực nước trong Quy Khư từ từ hạ thấp, phế tích thành cổ lộ mặt nước mỗi lúc nhiều hơn, vô số tàn tích của các trụ đá, tượng người bằng đồng, đỉnh đồng... dần dần lên, xa xa còn thấp thoáng mảng xam xám mờ mờ như ngọn núi. tòa cung điện cổ xưa được xây dựa lưng vào núi mờ ảo ra trước tầm mắt chúng tôi, thoạt gần thoạt xa, tựa như ảo ảnh.
Chương 27 Vực dưới biển - Bụng cá voi ực nước bên trong Quy Khư xuống thấp, vùng cổ thành hoang phế bị nhấn chìm từ dưới mặt nước dần dần lên phía xa. Thành trì xây dựa lưng vào núi, trải qua mấy nghìn năm, nhưng dường như vẫn chưa bị thời gian triệt phá hoàn toàn. Nhìn từ xa, kết cấu chung của tòa thành vẫn còn lưu giữ được nguyên vẹn, phía sau tòa thành, từng cột khói vàng pha lẫn sắc đỏ lững lờ bốc lên nơi đường chân trời. Tôi và Shirley Dương đứng tàn tích của trụ đá đổ quan sát hồi lâu, đều thấy rằng vùng đất dưới biển sâu này hết sức kỳ quái ngụy dị, chặng đường phía trước vẫn còn chưa hung cát thế nào. Tôi thầm nghĩ, thứ bị hút vào bên trong Quy Khư này đều chỉ là những mảnh tàn tích của kiến trúc còn sót lại mặt biển, tuyệt đối thể nào có chuyện cả tòa thành cổ bị sụt lún xuống đây được, trừ phi là bản thân nó được xây ở đây rồi. Nghĩ đoạn, tôi bèn bảo Shirley Dương: “Thành cổ của nước Hận Thiên sao lại ở bên dưới hải nhãn thế này nhỉ? Chỗ này cũng bí mật đấy, nếu có Hán gian dẫn đường, bọn xâm lược chắc là chẳng thể nào tìm nổi đâu.” Shirley Dương nhíu đôi hàng lông mày lại, dõi mắt nhìn tòa thành cổ lộ ra mặt nước, trầm ngâm : “Hồi tôi có nghe vị thuyền trưởng già kể chuyện cá voi khổng lồ nuốt cả thành phố, từ đó trở , những người trong tòa thành ấy sinh sống bên trong bụng cá voi. xem, địa hình bên trong Quy Khư này có phải rất giống bụng cá voi hay ? kỳ diệu của thiên địa tạo hóa đúng là khiến người ta thể nào tưởng tượng hết được. Sách cổ có ghi: tiến vào Quy Khư, thấy thiên tượng biến hóa theo tụ tan của gió , cảm giác như ngồi thuyền giữa biển U Minh, bánh lái lạc hướng, nước mênh mênh mang mang, biết phải làm sao. Đoạn ghi chép này tuy thể là hoàn toàn chính xác, nhưng có thể hiểu là, khi rơi vào chốn ấy, cảm giác như ở giữa chốn hỗn độn hư , điều này ít nhiều cũng có chút trùng khớp với những gì các nhà địa lý học thời cổ .” Nghe Shirley Dương thế, tôi mới phát giác ra địa hình nơi này đích thực là giống như ở bên trong bụng con cá voi khổng lồ. Đồng thời, tôi cũng sực nghĩ, trong vùng hoang phế kia, chừng lại có bí mật về chuyện người xưa đốt đèn bói mai rùa cũng nên. Nhất thời, tôi quên béng mất con tàu hư hại nặng nề, bản thân và những người đồng hành bị vây khốn giữa biển khơi mênh mông, còn muốn tiến vào đó tìm hiểu phen. Có điều, trong lòng tôi cũng thầm hiểu, làm như vậy thực hợp thời điểm chút nào. Phía chúng tôi còn có mấy cái hải nhãn lớn đều, nhiệt độ cao của hỏa khiến những hang động dưới đáy biển sinh ra luồng gió nóng xoáy dữ dội, như thể địa nhiệt phun trào, ngăn cản nước biển đổ xuống. Nhưng khi hải khí hình thành, hải nhãn lại hút vào Quy Khư này thêm lượng nước biển khổng lồ nữa. Chúng tôi thể phán đoán tượng này còn kéo dài bao lâu, có lẽ là hai ngày, cũng có lẽ là hai tháng, tóm lại là giống như có quả bom hẹn giờ treo lơ lửng đỉnh đầu vậy, khi nước biển đổ xuống, chúng tôi “người thành cá thành tôm”[39] mất. Việc cấp bách trước mắt, chính là tìm khu vực tương đối an toàn để chỉnh đốn đội ngũ, suy nghĩ bước hành động tiếp theo. Đột nhiên, tiếng ồn ào huyên náo tàu làm dòng suy nghĩ của tôi đứt đoạn. Tuyền béo và Minh Thúc cũng vừa nhìn thấy kỳ quan xuất mặt nước, sau thoáng ngạc nhiên đến ngẩn cả người, Minh Thúc lại , cái túi đựng Nam châu ấy là tính mạng của cả bọn, sao có thể để cho hạng người thô lỗ biết nặng cao thấp như Tuyền béo cầm được. đoạn, liền vươn tay ra tính giật trở về. Tuyền béo dứ dứ cánh tay, làm bộ muốn thụi cho Minh Thúc quả, khiến lão già Hồng Kông sợ quýnh lên, dám năng gì nữa. Tuyền béo thấy mình có uy, khỏi lấy làm đắc ý, nghênh ngang xách cái ba lô, quay lại chỉ huy bọn Cổ Thái và Đa Linh khiêng Nguyễn Hắc lên, chuẩn bị chuyển sang xuồng cứu sinh. Lúc này, vì mực nước vẫn dần hạ xuống, tàu Chĩa Ba hư tổn nặng nề sau khi bị tràn nước, mắc kẹt vào bức phù điêu đá khổng lồ màu xám, nhất thời cũng lo phải chôn thây dưới đáy nước, nhưng thân tàu lệch hẳn sang bên, khiến mấy người tàu hành động hết sức bất tiện. Cổ Thái và Đa Linh trước tiên khiêng Nguyễn Hắc đặt lên phiến đá bên dưới thân tàu, sau đó lại chạy giúp Minh Thúc hạ thủy xuồng cứu sinh, còn Tuyền béo chạy chạy lại khuân vác các loại trang bị dùng khi khẩn cấp lên xuồng. chuyển bộ đồ lặn, Tuyền béo thình lình bị trượt chân phiến đá. Phiến đá ấy có lẽ ngâm nước biển quá lâu, bám đầy các sinh vật li ti, hết sức trơn trượt. Cu cậu chân giẫm chắc, ngã bổ ngửa, cái ba lô vai bị đá nhọn cứa đứt, mấy hạt trân châu bên trong văng ra rơi tõm xuống nước, ánh sáng lấp lóa hết sức chói mắt. Tuyền béo vội vàng đứng dậy nhảy xuống nước toan nhặt lên. Đống đổ nát dưới nước chồng chất lên nhau chẳng theo quy luật nào cả, các khe hở hình thành bởi tượng đồng, những tảng đá và cả xác tàu đắm chằng chịt tựa như vô số con kênh đào ngang dọc khắp nơi. Tuyền béo thấy vùng nước xung quanh chỗ mình có cá mập lượn lờ, bèn lội ra chỗ nước ngập đến thắt lưng để nhặt viên Nam châu bị rơi. Nam châu chiếu sáng khoảng chu vi trăm bước chân, sáng hơn cả đèn, rơi xuống vùng nước nông nên cũng khó tìm lắm. Nhưng tôi ở phía xa lại trông rất ràng, chỉ thấy đúng lúc Tuyền béo nhặt được viên ngọc, khoảng chừng mười mét phía trước cậu ta có bọt nước cuộn lên, lộ ra cái lưng cá đen ngòm phải to bằng cái bàn tám người ăn, vây lưng dựng như lưỡi kiếm, xông thẳng về phía Tuyền béo. Tôi biết nó là giống cá dữ nào, cuống cuồng lớn tiếng quát Tuyền béo phải cẩn thận, dưới nước có gì đó. Cổ Thái và Đa Linh tàu cũng trông thấy con quái ngư, nháo nhào hét lên: “Hải quái! Hải quái!” đồng thời nhặt súng bắn lao nhắm xuống mặt nước mà bắn. Mũi lao xiên cá bay vút , nhưng cũng chỉ khiến đà lao của con quái vật kia bị ngưng lại chút. Tuyền béo thấy tình thế ổn, chộp lấy viên Nam châu, bò vội trở lại đống đổ nát phía sau lưng. Cái lưng cá đen ngòm lộ ra mặt nước bơi tới chỗ Tuyền béo chậm mất nửa bước, bỗng nhiên chìm xuống, mất tăm mất tích. Chúng tôi thấy Tuyền béo thoát hiểm, đều thở phào nhõm. Tuyền béo đưa tay sờ xuống mông đít thấy vẫn còn, cũng chẳng buồn nghĩ lại xem vừa nãy mình phải đối mặt với hiểm nguy gì, chỉ tiện tay bỏ viên Nam châu vào ba lô. Lần này cậu ta biết khôn, buộc vết rách ba lô chặt. Shirley Dương khum tay lên miệng, lớn tiếng nhắc nhở mấy người tàu được lơ là cảnh giác, rồi quay đầu lại hỏi tôi: “ Nhất, vừa nãy có nhìn con hải quái dưới nước là giống gì ?” Tôi thấy thần sắc có vẻ nghiêm trọng, cũng dám bừa. Vừa nãy khoảng cách hơi xa, con cá dữ ấy lại chỉ lộ ra có cái sống lưng đen ngòm, thực tình thể phân biệt được nó là giống quái ngư quái thú gì, có điều, nom thể hình ấy, có khả năng là con cá mập cỡ đại cũng nên? Nhưng vây lưng cá mập làm sao rộng đến thế được chứ nhỉ? Shirley Dương lắc đầu : “Ở vùng biển băng có loài cá hổ kình, thiên tính hung ác tàn nhẫn, chỉ có thể săn bắt các loài linh hoạt như cá heo, mà còn biết từ dưới đáy nước đột phá lớp băng, nuốt chửng người hay báo biển bên . Vùng Nam Hải cũng có loài cá voi vây kiếm tương tự như thế, thể hình hơn cá voi hổ kình, miệng rộng, lưng đen vây kiếm, bụng tròn dẹt, rất hay nhào lên mặt nước tấn công, có thể trực tiếp lao lên kéo thủy thủ tàu xuống nước, cùng với cá hổ kình nổi danh là đồ tể biển, hay còn được gọi là cá voi sát thủ. Tôi nhìn sống lưng của con cá kia, rất giống với loài cá voi sát thủ ở vùng nước sâu, nếu đúng là có thứ quái vật biển sâu đó ở đây, chúng ta ngồi xuồng cứu sinh quá gần với mặt nước, thực là rất nguy hiểm đấy.” Chúng tôi vội vàng báo cho bọn Tuyền béo và Minh Thúc, dặn họ cố gắng rời xa mặt nước đề phòng con cá kia nhao lên tấn công. Mấy người bọn Tuyền béo vốn hạ xuồng cứu sinh, Nguyễn Hắc bị thương cũng được khiêng đến bên cạnh. Cả hội chuẩn bị chuyển xong đồ đạc là bỏ tàu lên xuồng, thấy tình hình có biến, đành chuyển người bị thương ra chỗ khác trước, đề phòng nằm gần mép nước quá lại bị con hải quái kia tấn công. Minh Thúc và Cổ Thái vừa đặt chân lên dốc đá gần chỗ Nguyễn Hắc nằm, liền thấy mặt nước bất thình lình dập dềnh nổi sóng, con cá voi toàn thân đen kịt lao vèo tới, cả nửa thân nhao lên bờ, há miệng đớp lấy Nguyễn Hắc rồi quẫy đuôi thoắt cái lặn xuống nước. Liền ngay sau đó, từng vệt máu đỏ tươi hòa cùng bọt nước trắng xóa nổi lên. việc diễn ra quá nhanh, trước đó lại hoàn toàn có dấu hiệu gì báo trước, cả bọn chỉ kịp kêu lên tiếng kinh hoảng, ai kịp ra tay cứu viện, cứ thế mở mắt trân trân nhìn Nguyễn Hắc bị con cá voi há miệng đớp xuống nước. Dẫu lúc này chúng tôi có nhảy theo liều mạng quyết chiến với con cá dữ cũng kịp nữa rồi. Con cá voi lưng kiếm được mệnh danh là tên đồ tể biển ấy hung dữ nhường nào chứ? khi bị nó đớp xuống nước, Nguyễn Hắc lại chẳng phải La Hán kim thân, thử hỏi làm sao có thể sống sót nổi đây? Chúng tôi còn bần thần đồ đệ Cổ Thái của Nguyễn Hắc ngậm con dao găm vào miệng, bổ nhào xuống nước liều mạng cứu sư phụ, Minh Thúc muốn kéo cậu ta lại cũng kịp, chỉ giật được mảnh áo. Thực tình Minh Thúc rất coi trọng nhân tài như Cổ Thái, thấy cậu ta xuống nước liều chết, cuống quýt mắng chửi loạn cả lên: “Cái thằng ngu si đổ đốn kia, muốn sống à!” Chốn Quy Khư này vây khốn rất nhiều loài thủy tộc, ngoài con cá voi lưng kiếm kia, còn rất nhiều cá mập, tình hình hỗn loạn, cá lớn nuốt cá bé, so với vùng biển vực xoáy San Hô kia còn hung hiểm hơn gấp vạn phần. Tôi đứng trụ đá nhìn mà sốt hết cả ruột, thấy việc đến nước này rồi, đành nghiến răng với Shirley Dương: “Chúng ta xuống nước cứu người.” Shirley Dương gật gật đầu: “Được!” Lúc này, chẳng còn ai để ý xem dưới nước có bao nhiêu nguy hiểm nữa, hai chúng tôi nhanh chóng rút dao cầm tay, chuẩn bị nhảy khỏi trụ đá. Phía đối diện, Tuyền béo cũng cầm khẩu súng bắn lao, chực nhảy xuống cứu Cổ Thái. Cả mấy người định mạo hiểm phen, chợt thấy mặt nước cuồn cuộn, máu đỏ trào lên, ràng dưới nước sâu nổ ra cuộc ác đấu sinh tử. Nước dập dềnh liên tục, chỉ thấy Cổ Thái miệng ngậm con dao găm, tay kéo Nguyễn Hắc toàn thân đẫm máu, mượn sức dòng nước trở lại phiến đá. biết cậu ta làm thế nào, ngờ lại cứu được sư phụ khỏi miệng con cá voi hung ác. Chúng tôi nhìn cảnh ấy chỉ biết há hốc miệng ra ngạc nhiên, tuy là dân mò ngọc toàn dựa vào bản lĩnh ở dưới nước để mưu sinh, nhưng cái nạn chôn thây trong bụng cá khó mà tránh được, xưa nay chưa từng nghe có kẻ mò ngọc nào thực có thể cùng lũ cá dữ chính diện giao đấu cả. Cổ Thái chẳng qua mới chỉ mười lăm mười sáu tuổi đầu, từ sinh sống đảo Miếu San Hô, trông chẳng có gì đặc biệt cả. Chúng tôi thấy cậu ta cứu được Nguyên Hắc, đều khó lòng tin nổi, khỏi phải nhìn cậu ta với ánh mắt hoàn toàn khác: tên tiểu tử này rốt cuộc có còn bản lĩnh gì mà chúng tôi chưa biết nữa hay ? Cổ Thái dùng dao găm chém con cá voi lưng kiếm bị thương, cả đàn cá mập vốn đói đến đỏ mắt, bị mùi máu tanh kích thích, ồ ạt lao đến tấn công con cá voi, tình cảnh dưới nước hỗn loạn vô cùng. Tôi thấy thời cơ thể để lỡ, vội gọi Tuyền béo mau đưa xuồng cứu sinh qua, đón tôi và Shirley Dương tụ hợp với cả bọn. boong tàu Chĩa Ba đổ nghiêng, Cổ Thái và Đa Linh ngồi bên Nguyễn Hắc khóc rống lên. Nguyễn Hắc bị con cá voi đớp gần đứt lìa cả hai chân, vết thương rất lớn, có cách nào cầm máu, hơi thở yếu như đường tơ, xem chừng khó mà sống nổi. Lúc bọn tôi và Tuyền béo đến bên cạnh, Nguyễn Hắc đột nhiên mở bừng mắt. Tôi biết, đây là giây phút bùng sáng cuối cùng trước khi ngọn đèn phụt tắt, có thể ông ta muốn trăng trối điều gì đó, bèn vội nắm chặt bàn tay giá lạnh của ông ta, : “Ông Hắc, muốn gì ông cứ ra hết , chúng tôi nhất định cố gắng hết sức làm bằng được.” Nguyễn Hắc hai mắt đờ đẫn vô thần, cực nhọc lắm miệng mới hơi mấp máy , mãi hồi lâu thốt ra được nửa chữ. Ông ta chỉ hướng ánh mắt về phía Đa Linh, tôi đoán được tâm ý ấy, bèn bảo ông ta cứ yên tâm, tôi nhất định giúp Đa Linh tìm được người thân của ở bên Pháp. Shirley Dương cũng rơi nước mắt, mấy thầy trò Nguyễn Hắc đều do thuê đến giúp, bằng ba người họ giờ vẫn ở đảo đánh cá mò ngọc, cuộc sống tuy rất khó khăn túng thiếu, nhưng ít nhất cũng đến nỗi phải mất mạng thế này. Nguyễn Hắc dồn hết sức lực rặn ra thanh, bập bõm hồi lâu câu được câu mất. Bọn họ cả đời mò ngọc, cơ hồ như trúng phải tà, biết là đáy biển nhiều hiểm nguy, sóng to gió cả, cá lớn nuốt thuyền, thập tử nhất sinh, nhưng vẫn cam tâm tình nguyện liều chết xông tới, hồi xưa nghĩ mãi cũng thông, đến giờ hình như sực tỉnh ngộ, xét cho cùng, rốt cuộc cất cả cũng chỉ vì tiền mà thôi. hứng cơn sóng dữ chẳng thể mò được ngọc quý ngàn vàng, bước lên con đường này rồi, sống chết thế nào đều chỉ có thể trách bản thân, quy trách nhiệm cho ai được, khi đen đủi gặp nạn, cũng chính là lúc tổ sư gia Ngư chủ cho bát cơm ăn nữa, khi ấy đành chỉ biết chấp nhận số mệnh thôi chứ chẳng làm gì được. Nguyễn Hắc sống cả đời nghèo khổ, ngoài hai đồ đệ xưa nay vẫn nương tựa lẫn nhau có mắc míu nào thế gian này nữa. Tuy nhiên, suốt đời mò ngọc, khốn nỗi lại sinh gặp thời, ông ta chưa từng mò được món thanh đầu nào cả, chỉ ao ước sau khi chết có thể ngậm viên Trú nhan châu mà nhắm mắt. Từ thời cổ xưa, đây là phương thức mai táng vẻ vang nhất đối với dân mò ngọc, đến tận cùng của con đường nhân sinh, ngậm ngọc nhập thổ, coi như cũng có cái để ăn với chính bản thân mình, uổng những gian nan bao năm nơi đầu sóng ngọn gió vào sinh ra tử xuống biển bắt trai mò ngọc. Tôi nghe chỉ biết thầm thở dài, đến nước này rồi mà vẫn còn nhớ đến Nam châu, lẽ nào giá trị quan của đám dân mò ngọc chỉ có thế thôi? Người cũng chết rồi, miệng ngậm châu ngọc phỏng có tác dụng gì chứ? Lẽ nào lúc sống được hưởng, sau khi chết có thể hưởng dụng được chắc? Có điều, có lẽ đây là tập tục từ ngàn xưa để lại của dân mò ngọc bọn họ, giờ Nguyễn Hắc hấp hối, chúng tôi cũng chỉ đành nhất nhất đồng ý, để ông ta được yên tâm mà lên đường. Nguyễn Hắc thấy tôi nhận lời, ánh mắt liền nhìn chằm chằm vào cái ba lô lưng Tuyền béo, bên trong ấy chính là minh châu Nam Hải mà ông ta cả đời liều mạng mò kiếm. Bất thình lình, ông ta giơ cánh tay lên chụp vào khoảng cái, hơi thở đứt đoạn, cứ thế mà thõng tay về cõi Tây Thiên. Tôi bảo Tuyền béo đưa viên minh châu sáng nhất, đoạn dùng thủ pháp lấy ngọc trong miệng chủ mộ của Mô Kim hiệu úy, nâng xương chẩm sau ót Nguyễn Hắc lên, ấn vào xương quai hàm, rồi đặt viên Trú nhan châu vào miệng ông ta, cuối cùng nâng cằm lên, để hai môi Nguyễn Hắc khép lại. Ông ta vừa mới qua đời, thi thể vẫn chưa cứng, rất dễ dàng bỏ viên ngọc vào miệng. Tinh khí của những viên ngọc chúng tôi mò được ở vùng vực xoáy San Hô rất thịnh, để người chết ngậm trong miệng dù trăm năm sau, đám người chúng tôi có thành tro bụi hết cả, thi thể ông ta vẫn bị hóa , mặt mũi hệt như lúc còn sống. Theo tục lệ xưa, dân mò ngọc nếu được chết yên lành, nhất thiết thể thủy táng. Ở biển, tập tục bọc xác người vào rồi thả chìm xuống biển tương đối phổ biến, là vì để xác chết tàu may mắn, hai là vì thời tiết nóng bức, xác chết thối rữa là nguồn gốc của dịch bệnh. Nhưng dân mò ngọc cả đời đều phải đối mặt với nguy cơ chôn thây trong bụng cá, lúc chết nếu được toàn thây, đa phần đều hy vọng có thể nhập thổ vi an. Tôi thấy ở gần đây chỉ có di tích tòa thành cổ kia là có thể an táng Nguyễn Hắc, bèn bảo Cổ Thái giúp sư phụ cậu ta thay bộ đồ sạch , lau rửa vết máu người . Cổ Thái và Đa Linh tuổi tác chưa lớn, ít giao thiệp bên ngoài, đột nhiên mất người thầy bao năm sớm tối có nhau, gần như sụp đổ, cứ ngơ ngơ ngẩn ngẩn thất thần, nước mắt đầm đìa mà tay chân luống cuống chẳng biết làm sao. Tôi phải khuyên bảo mãi cả hai mới tạm thời nén nỗi bi thương để chỉnh trang di thể cho Nguyễn Hắc. Minh Thúc thấy tôi nhét viên Nam châu đẹp nhất vào miệng Nguyễn Hắc, hình như hơi xót của, cứ vòng vòng lại lượn lờ quanh xác chết, song lại tiện trắng ra, chỉ đành nhẫn nhịn chịu đựng nỗi đau cắt da cắt thịt ấy. Có điều, dường như lão đột nhiên phát ra chuyện gì đó bình thường, thình lình chụp lấy cánh tay tôi, kéo ra phía sau lưng Cổ Thái: “Chú Nhất, chú xem thằng nhãi Cổ Thái kia... có gì... có gì bình thường ?” Tôi nhìn Cổ Thái quỳ dưới đất chỉnh trang cho Nguyễn Hắc, nửa thân để trần, vì áo bị Minh Thúc xé toạc lúc cậu ta nhảy xuống nước cứu người, để lộ ra những hình xăm chi chít. Những hình xăm này đủ màu sắc lại hết sức phức tạp, chủ yếu toàn là các hình sóng to gió lớn ngư long dưới biển đuổi theo hỏa châu..., khí thế ngập trời, toát lên vẻ ảo diệu khó . Vùng Nam Dương rất phổ biến tục xăm mình, nhưng hình xăm toàn thân mà lại kỳ công tinh xảo như Cổ Thái thực hiếm thấy, song tôi cũng hiểu ý tứ của Minh Thúc cho lắm. Có điều, tôi lại sực nghĩ: Gã thiếu niên này có thể xuống nước vật lộn với cá voi sát thủ, dân mò ngọc tầm thường có thể làm được hay sao? Nghĩ tới đây, tôi lập tức giật mình, vội hỏi Minh Thúc vậy là có ý gì? Lẽ nào Cổ Thái có gì ổn? Minh Thúc liền ghé miệng sát tai tôi thấp giọng thầm: “Tôi thấy thằng nhóc Cổ Thái này thân thế phải tầm thường, rất có thể là rồng trong biển...” Chú thích [39] Câu này rút ra trong bài từ Côn Luân viết theo điệu Niệm Nô Kiều của Mao Trạch Đông.
Chương 28 Rồng ôi nghe Minh Thúc thế, lại ngoảnh nhìn Cổ Thái, ý nghĩ xoay chuyển trong đầu, thầm nhủ làm gì có chuyện đó, bản lĩnh dưới nước của Cổ Thái mặc dù hơn người, dám quần nhau với cả cá voi cá mập, nhưng cậu ta dẫu sao cũng chỉ là người thường có máu có thịt, làm sao mà là rồng riếc gì được chứ? Rồng chẳng qua chỉ là truyền thuyết vô căn cứ lưu truyền trong đám dân chài và dân mò ngọc, lẽ nào đời này lại có rồng ? Lão Minh Thúc xem chừng bốc phét hơi quá đà rồi Thằng nhóc này cùng lắm cũng chỉ là người đến từ Atlantic[40] mà thôi, điểm này tôi phát ra ngay từ đầu rồi. Có điều, so với thần tượng Mark Harris[41]năm đó nổi tiếng khắp Trung Quốc cậu ta kém xa, trông chẳng có vẻ gì là tuấn hào hoa phong nhã, mà vừa gầy vừa đen, trông như con lươn vậy. Tôi đoán Cổ Thái có thiên phú lặn nước, phỏng chừng cũng như Mark Harris kia vậy, đều là “ khúc gỗ từ biển Alantis trôi vào”. Minh Thúc : “Tôi bốc phét tí nào đâu, hai đứa nhóc Cổ Thái và Đa Linh này, thân thế trước đây của chúng nó thế nào chúng ta cũng chỉ biết đại khái qua loa thôi. Cổ Thái là nhi đảo Miếu San Hô, nhưng chú xem hình xăm người cậu ta có phải rất kỳ quái hay ? Tôi lăn lộn nửa đời ở vùng biển Nam Dương, cũng chưa từng thấy ai ở dưới nước gặp phải cá voi lưng kiếm mà vẫn có thể trở về, lại còn sứt mẻ tẹo nào. Lấy kinh nghiệm của Minh Thúc này ra phán đoán, giờ chúng ta bị hút vào Quy Khư, có lẽ Cổ Thái này giúp đỡ được rất nhiều đấy. chừng, cậu ta còn có bản lĩnh nhìn sắc nước nhận huyệt rồng nữa cơ.” Tôi và Shirley Dương đưa mắt nhìn nhau, mặc dù là thế, cũng thể thằng nhóc Cổ Thái này là rồng phải là người được. Shirley Dương , tương truyền Ban Sơn đạo nhân thuở trước biết nhìn sắc nước nhận huyệt rồng cực kỳ tinh thông, có điều phương pháp ấy giờ thất truyền quá lâu rồi, làm gì có cái lẽ Cổ Thái lại hiểu được kỳ thuật cổ xưa này? Từ trước đến nay, hình như cậu ta đều theo Nguyễn Hắc học nghề, bao ngón nghề mò ngọc tìm trai chỉ từ sư phụ này mà ra, những phương kỹ của Ban Sơn đạo nhân, Nguyễn Hắc sao có thể nắm được mà truyền thụ? Minh Thúc thấy chúng tôi đều tin, đành giải thích tường tận hơn, vén lộ số truyền thuyết xưa hiếm người biết đến của dân mò ngọc. Minh Thúc hiểu rất về các nghề nghiệp biển, nên mới nắm lai lịch xuất thân của cái nghề mò ngọc này. Mô Kim hiệu úy và dân mò ngọc, tuy đều thuộc bảy mươi hai nghề có từ thời cổ đại, nhưng giữa hai bên tồn tại điểm khác biệt lớn, chính là Mô Kim hiệu úy biết quan sát tình thế đưa ra phán đoán, biết tiến biết lui, còn dân mò ngọc xưa nay vẫn luôn liều mạng, đem tính mạng ra đổi lấy trân châu, chết về. Tổ sư gia của họ chính là Long vương hay còn gọi là Ngư chủ. Tất cả những ngón nghề và quy tắc nghề nghiệp của dân mò ngọc tới ở đây hầu hết phải đến thời nhà Minh mới bắt đầu định hình. Nhưng thực tế, cái nghề mò ngọc trai này chính thức xuất trước thời Minh rất xa, có truyền thống và lịch sử hết sức lâu đời. Tương truyền, thời Tần Hán, ở Nam Hải có tộc người gọi là Long nhân, đời đời đều sống thuyền , để mình trần, tóc xõa. Bọn họ xuống biển dễ dàng như , dũng mãnh tuyệt luân, cực giỏi lặn nước tìm ngọc, xăm hình rồng hình cá khắp thân thể. Họ tự cho mình là giống rồng, mực tuân theo quản chế của triều đình. Về sau, vì môi trường sinh tồn ngày khắc nghiệt, người tộc Long nhân thể thuận theo chiêu an của triều đình, bắt đầu được gọi là “Đản nhân”[42], chuyên trách mò châu tìm ngọc dưới biển. Đản nhân chính là tiền thân của dân mò ngọc sau này, từ xăm hình rồng hình cá lên người, lúc lặn nước luôn để mình trần, nghe hình xăm ấy gọi là “Thấu hải trận”, có thể khiến các loài cá dữ dưới biển trông thấy ngỡ là thủy tộc mà tấn công làm hại. Đản nhân có thể chất rất đặc biệt, những năm tháng đằng đẵng lặn dưới đáy biển mò ngọc bắt cá khiến các thế hệ đản nhân sau này sinh ra có đôi mắt phủ lớp màng mỏng, những vùng đáy biển đan xen vô số dòng chảy ngầm dữ dội đối với họ chẳng khác nào đường lớn thênh thang mặt đất. Đản nhân thời xưa bị giai cấp thống trị bóc lột tàn khốc, bản tính lại tương đối dã man khát máu, trời sinh có tính cách phản nghịch, dù là săn bắt hải quái hay tìm châu mò ngọc, đều cực kỳ liều mạng, thản nhiên coi cái chết ra gì, nên hễ bị áp bức quá độ là sẵn sàng nổi dậy giết quan tạo phản, hết đời này đến đời khác cứ phản rồi lại hàng, hàng rồi lại phản. Dân tộc cổ xưa sống biển này nhân số đông, lực lượng có hạn, khó làm được chuyện gì lớn lao, cuối cùng bị quan phủ truy giết đến độ gần như tuyệt tích, dần dần biến mất khỏi dòng chảy lịch sử. Tuy nhiên, hoàng đế và các quan lại quý tộc vẫn cần rất nhiều minh châu, nên công việc của Đản nhân liền do các ngư dân nghèo khổ vùng duyên hải thay thế đảm nhiệm, dần dần mới hình thành nên tầng lớp dân mò ngọc nay. Dân mò ngọc có các ngón nghề và quy tắc hành nghề, về cơ bản cũng tương tự như của các Đản nhân thời cổ đại, có thể là trông mèo vẽ hổ, nắm được cái vỏ bề ngoài, nhưng bao nhiêu tuyệt chiêu của Đản nhân cổ đại họ đều học được, hai bên cao thấp thể đặt cạnh nhau mà so sánh. Chỉ là, cuộc sống của dân mò ngọc vẫn tàn khốc khắc nghiệt như Đản nhân thuở xưa, luôn bị quan binh giám sát nghiêm mật, như thể có thanh đao luôn lơ lửng đầu. Dẫu đáy biển hung hiểm đến đâu, họ vẫn phải buộc đá vào thân lặn xuống tìm ngọc, mười người ra đến chín kẻ trở về. Cũng có kẻ cam tâm đem Nam châu phải đổi bằng tính mạng cống nạp, giết trai lấy ngọc xong liền nuốt luôn vào bụng, nhưng khi bị phát , phải đối mặt với mối họa mổ bụng. Quan binh trói banh tứ chi kẻ phạm tội, rạch từ dạ dày xuống hậu môn, cắt ruột tìm tang vật xong, vứt xác xuống biển cho cá ăn. Dân mò ngọc đa phần đều là hạng khốn cùng còn kế khác để sinh nhai, hoặc là tội phạm đày, nên dù có chết thảm thêm bao nhiêu nữa, cũng chẳng có ai buồn nhíu mày. Shirley Dương nghe tới đây, nén nổi tiếng thở dài: “Đám vương công quý tộc sở dĩ thích vật này chẳng qua cũng bởi xưa nay vật hiếm quý, càng hiếm lại càng quý, lại càng tôn địa vị, thân phận và tài sản của họ lên cao hơn nữa, nhưng chẳng ai biết, bao nhiêu châu ngọc ấy đều được đổi lấy bằng tính mạng của dân mò ngọc vùng Nam Hải này sao? Họ đeo những thứ phải đánh đổi bằng vô số sinh mạng người như thế, chẳng lẽ sợ oan hồn bám theo hay sao?” Minh Thúc , thế có gì là lạ, đấy chính là đặc quyền của hoàng đế thiên tử. Dưới gầm trời này, có chỗ nào phải đất của vua đâu, vạn người luyện đan chỉ để người thăng thiên, nếu chẳng phải vậy làm sao có nhiều kẻ muốn làm hoàng đế như thế? Đến cả những hạng đen đủi xúi quẩy, chẳng phải cũng thường tự an ủi mình rằng, hoàng đế là ghế luân phiên, phong thủy mỗi năm mỗi khác đấy hay sao? Có thể thấy, quyền và lợi, là những thứ mà đám phàm phu tục tử ai khao khát mong cầu. Tôi thầm nhủ, cái lão Minh Thúc này chỉ cần năng vòng vo là chắc chắn có ý đồ chi đây, lải nhải suốt lúc lâu về lai lịch nguồn gốc của dân mò ngọc với cái nghề này, hiểu rốt cuộc là muốn gì nữa? Thời cổ đại, rồng có rất nhiều hàm nghĩa, ngoại trừ là tượng trưng cho thiên tử, với những người trong nghề phong thủy, rồng chính là mạch núi mạch sông, còn ra đến ngoài biển, ý nghĩa của nó lại đổi khác . Lẽ nào, Đản nhân thời Tần Hán lại là rồng ở trong biển? Nghĩ tới đây, tôi bèn với Minh Thúc và Shirley Dương, trong xã hội tại sao lại tồn tại tượng người bóc lột người chứ? Muốn tìm hiểu nguyên nhân có thể tham khảo cuốn Luận về khởi nguyên và cơ sở của tượng bất bình đẳng của loài người do Rousseau[43] trước tác, đó là vấn đề mà các nhà triết học và nhà xã hội học cần nghiên cứu, chúng ta cứ tiếp chuyện về Đản nhân hơn. Hình xăm người Cổ Thái đích thực là phải tầm thường, lẽ nào cậu ta lại là hậu nhân của tộc người đó hả? Minh Thúc lão cũng suy đoán thế, tuy nay đảo vẫn còn rất nhiều người mưu sinh bằng nghề mò ngọc. Ngoài đánh cá và mò ngọc, thi thoảng bọn họ cũng vớt thanh đầu. Những người này dày dạn kinh nghiệm hoạt động dưới nước, chỉ cần mấy thứ trang thiết bị cổ lỗ thô sơ cũng có thể làm nghề được rồi, nên thường xuyên được các đội trục vớt thuê mướn. Tuy nhiên, Đản nhân đích thực gần như tuyệt tích mấy trăm năm rồi, dẫu có rơi rớt hậu duệ, sợ rằng cũng hiếm như sao buổi sớm. Theo lời Nguyễn Hắc lúc chưa thiệt mạng, hình ngư long hải thú người Cổ Thái đều do cha mẹ ruột của cậu ta xăm lên. Cổ Thái trời sinh có mắt cá, bơi lặn cực giỏi, những tố chất ấy, dân chài hay dân mò ngọc bình thường tuyệt đối thể nào có được. Mới rồi cậu ta xuống nước cứu người, động tác cực kỳ nhanh nhẹn dũng mãnh, người thường sao có thể sánh kịp? Bởi thế, Minh Thúc mới dám phán đoán, Cổ Thái chính là hậu duệ của Đản nhân năm xưa. Theo truyền thuyết xưa, Đản nhân thời Tần Hán quanh năm sinh sống biển, vật lộn với sóng gió để mưu sinh, nam nữ đều siêu giỏi mò ngọc. Trong bọn họ, những kẻ xuất chúng, toàn thân xăm Thấu hải trận, đàn ông gọi là “Long hộ”, đàn bà gọi là “Thát gia”, đều được coi là con cháu của Long vương Ngư chủ. Cổ Thái rất có khả năng chính là Long hộ. Minh Thúc phiêu bạt biển cả nửa đời người, vậy mà ngoài Cổ Thái, lão cũng chưa hề gặp được Long hộ nào khác. Hình xăm khắp người Cổ Thái trông tựa như thứ bùa chú cổ xưa, rất có thể được xăm lên cùng loại bí dược truyền dưới da, giúp cậu ta bơi lặn vượt sóng khác nào người thường ở chốn đất bằng, bị lũ hải quái làm hại khi ở dưới nước. Có điều cha mẹ Cổ Thái qua đời quá sớm, bộ hình xăm Thấu hải trận lưu truyền mấy nghìn năm cùng phương pháp xăm mình và bí dược tuyệt mật của Đản nhân e là chịu số phận hoàn toàn thất truyền rồi. Cổ Thái có thể là Long hộ cuối cùng thế giới này cũng nên. Long hộ và Thát gia có sở trường “nhìn sắc nước nhận long huyệt”, “vào long cư cướp long châu”, toàn những kỹ năng cực khó trong nghề mò ngọc; đặc biệt với Long hộ, mấy ngón nghề như nhìn sắc nước, nhận huyệt, đoạt ngọc đều là bản lĩnh trời sinh cả rồi. “Long huyệt, long cư” ở đây là tiếng lóng chỉ những con trai già ngậm ngọc quý. Minh Thúc cho rằng, trong chốn Quy Khư này có rất nhiều dòng chảy hỗn loạn, địa hình phức tạp khôn cùng, cứ quờ quạng mò mẫm cầm chắc cái chết, nhưng nếu có Cổ Thái trợ giúp, cả bọn dù tiến hay lùi, ít nhiều cũng có thêm được mấy phần vững dạ. Tôi nghe xong, lập tức đồng ý với Minh Thúc. Cho dù Cổ Thái có đúng là Long hộ hậu duệ của Đản nhân, thiên phú hơn người, nhưng mới có mười sáu tuổi đầu, thể để cậu ta mạo hiểm được, mà cũng tuyệt đối thể đem tất cả hy vọng gửi gắm vào mình cậu ta. Vả lại, lời lẽ của lão Minh Thúc này xem ra còn lấp ló ý tứ khác, chính là sau này để cho lão dẫn dắt Đa Linh và Cổ Thái. Sư phụ họ chết, Minh Thúc hẳn rất muốn sau này bảo bọc hai kẻ mồ côi, rồi dẫn họ vớt thanh đầu với lão. Chuyện này cả tôi và Shirley Dương đều thể chấp nhận. Cha đẻ của Đa Linh là sĩ quan quân đội Pháp, sau chiến dịch Điện Biên Phủ[44], quân Pháp cuống cuồng rút khỏi Việt Nam, gia đình từ đó thất tán. Đối với Shirley Dương, việc tìm người thân của Đa Linh ở Pháp nào phải chuyện khó khăn gì. Còn Cổ Thái tất nhiên có thể theo sư tỉ của cậu ta cùng sang Pháp sống những ngày bình yên, việc quái gì phải theo lão giặc già Minh Thúc kia mạo hiểm lang thang biển vớt thanh đầu chứ. Chúng tôi bàn bạc mấy câu, cuối cùng đáp ứng thỉnh cầu của Minh Thúc. Thấy Tuyền béo dùng vải dầu bọc thi thể Nguyễn Hắc lại xong xuôi, cả bọn liền định nhân lúc bầy cá mập vây công con cá voi vây kiếm, tranh thủ chèo xuồng cứu sinh ra chỗ di tích thành cổ. Lúc này nước trong Quy Khư gần như bình ổn, mực nước hạ thêm nữa, phế tích và xác tàu đắm phơi ra nhiều đếm xuể, các loại xác tàu niên đại khác nhau chất chồng dưới nước, bất luận là tàu buồm lớn hay chiến hạm gắn động cơ, chỉ cần gặp tai nạn bị đắm ở phía Đông vùng biển vực xoáy San Hô, nhất loạt đều bị hải nhãn hút vào vùi xác trong Quy Khư. Phóng mắt nhìn bốn phía, cảm giác như tiến vào nghĩa địa tàu đắm, dưới nước sâu lại càng biết có bao nhiêu xác tàu và cả những đống đổ nát của nước Hận Thiên. Sau khi mực nước hạ xuống, bên cạnh tàu Chĩa Ba bị mắc cạn, tảng đá lớn lù lù ra phần mũi của du thuyền màu trắng, xem chừng cũng mới bị đắm chưa lâu, gỉ sét mục nát như những con tàu khác, thân tàu trắng hết sức nổi bật nền nước xanh đen. Từ lúc lên xuồng cứu sinh, chúng tôi chú ý đến cái mũi tàu ló lên mặt nước này rồi, thoạt nhìn có vẻ rất quen mắt, có thể đó chính là mục tiêu tìm kiếm chủ yếu của chúng tôi trong chuyến này, tàu Mariana. Trước khi khởi hành ra biển, Shirley Dương chuẩn bị số ảnh và tư liệu về tàu Mariana, lúc này vội vàng lấy ra đối chiếu, các đặc điểm đều trùng khớp. Con tàu này thuộc về vị phú hào Nam Dương, lớn lắm, lúc này đuôi tàu chĩa xuống dưới, chìm nghiêng nghiêng, dưới đáy tàu dường như có vật gì đó gồ lên chống đỡ. Bọn tôi phát ra con tàu đắm chỗ Tần Vương Chiếu Cốt kính, bất giác dừng hết công việc. Có lẽ đây chính là cơ hội duy nhất để vớt món hàng quý này, hiềm nỗi, ở trong hoàn cảnh này đến cái thân mình chúng tôi còn lo nổi, mà chừng hải nhãn lại hút nước vào Quy Khư, hoặc hỏa bùng lên lần nữa bất cứ lúc nào, địa hình bên dưới phức tạp vô cùng, dòng chảy ngầm hỗn loạn, cá mập thoắt thoắt , muốn lặn xuống chui vào con tàu phải mạo hiểm rất lớn. Tôi thầm tính toán trong đầu chút, cảm thấy cũng có thể đánh liều thử phen, mưu tại nhân, thành tại thiên, Quy Khư chống đỡ được toàn bộ đều nhờ vào hải khí ngưng tụ sau khi hỏa bùng cháy, nhưng nom hải tượng ở vùng biển vực xoáy San Hô hết sức bất thường, sợ rằng long khí của dư mạch Nam Long dưới biển sắp tận, nơi này sớm muộn cũng bị nhấn chìm. Để tới khi xác tàu bị vùi xuống đáy sâu, nó vĩnh viễn bao giờ còn cơ hội thấy ánh mặt trời nữa, nếu lúc này mà vẫn do dự dám tiến lên, tương lai nhất định phải hối hận. Nghĩ tới đây, tôi nghiến răng, khó khăn lớn bằng trời cũng phải liều mạng khắc phục, kết luận chỉ có chữ: “Vớt!” Việc thể chậm trễ, đứng trước tình thế biến đổi bất ngờ, tôi nhanh chóng sắp xếp nhiệm vụ cho cả nhóm. Tôi vẫn luôn cảm thấy lão già Minh Thúc ôm bụng bất mãn với nghiệp mò ngọc, có ý đồ phá hoại những sắp xếp chiến lược của đội hình liên hợp giữa Mô Kim hiệu úy và dân mò ngọc, vì vậy quyết định lão phải xuống nước với tôi, tôi tới đâu lão theo tới đó. Minh Thúc vừa nghe phải mạo hiểm lặn xuống nước, sém chút nữa quỳ xuống cầu xin. Lão già này cũng rất giảo quyệt, biết có van vỉ tôi và Tuyền béo cũng vô dụng, bèn nhắm vào Shirley Dương, lèo nhèo đòi ở lại trông thi thể Nguyễn Hắc và đống đồ quý, đảm bảo có sai sót gì. Lão viện ra đủ thứ lý do, nào là nhà có người già như có bảo bối, đội trục vớt có thể thiếu ai chứ thể thiếu được thuyền trưởng, mà đội trục vớt cũng tuyệt đối thể có cố vấn hàng hải dạn dày kinh nghiệm như lão được. Cố vấn cũng chính là chuyên gia, nên gia nhập vào nhóm hành động mà cần phải ở khu vực an toàn, trợ giúp cho nhóm hành động về kỹ thuật và thông tin, giúp đỡ hoạch định ra các kế hoạch và chiến thuật. Shirley Dương mềm lòng, thấy bộ dạng Minh Thúc cũng đáng thương, bèn với tôi: “Bỏ Nhất, Minh Thúc cũng lớn tuổi rồi, để ông ấy lại chăm sóc cho Đa Linh và Cổ Thái hơn. Dưới nước rất nguy hiểm, cần nhất là trinh sát hải quân, tôi với là tốt nhất.” Tôi đành đồng ý, dù sao Mô Kim hiệu úy cùng hành động, hô ứng phối hợp đều ngầm hiểu nhau, tình hình dưới nước có phức tạp mấy cũng ứng phó được, cùng lắm là rút lui rồi nghĩ cách khác. Quyết định xong, tôi và Tuyền béo liền sắp xếp trang bị, chuẩn bị lặn xuống vớt Tần Vương Chiếu Cốt kính. Chúng tôi sắp xếp đồ đạc Cổ Thái đột nhiên đứng bật dậy, hỏi mượn con dao lưỡi cong của Minh Thúc. Cậu ta , dân mò ngọc bọn họ ngoài việc chính là mò ngọc trai ra còn vớt thanh đầu dưới đáy biển nữa, cậu ta tuy chỉ là lính mới, nhưng Nguyễn Hắc chết, cậu ta cũng muốn bị mọi người coi như đứa trẻ mới lớn, hy vọng có thể thay thế sư phụ, ít nhiều giúp đỡ đội trục vớt được việc gì đó, cũng là để vong linh sư phụ trời được yên lòng. Tôi nhìn hình xăm Thấu hải trận kỳ dị tấm lưng trần của Cổ Thái, biết rằng thủy tính của cậu nhóc này hết sức cao siêu, ở dưới nước, tôi với Tuyền béo đều thể bì được. Cậu ta có gan đứng lên giúp sức, đối với chúng tôi, cũng là trợ thủ rất tốt, vậy nên tôi lập tức đồng ý, đồng thời dặn dò cậu ta được tự ý hành động, khi xuống dưới nước, tiến hay lùi, tất cả đều do trinh sát hải quân Shirley Dương chỉ huy. Bốn người chúng tôi đeo kính lặn, định xuống nước Shirley Dương chợt nhớ ra việc gì đó, lại dặn dò cả bọn lượt. bảo, nếu thực tìm được Tần Vương Chiếu Cốt kính bên trong xác tàu Mariana, ngàn vạn lần cũng thể soi vào mặt sau của tấm gương ấy, bằng ắt bị khí trong tấm gương xâm nhập, chết cũng bị thương. Chú thích [40] bộ phim truyền hình thể loại khoa học giả tưởng của Mỹ, phát sóng vào khoảng thập niên 1970-80. Khi chiếu ở Trung Quốc gây chấn động lớn, được rất nhiều người hâm mộ. (Chú thích của tác giả) [41] Nhân vật chính trong bộ phim Người đến từ Atlantis. [42] Người sống lênh đênh mặt nước. [43] Jean-Jacques Rousseau (1712-177: nhà văn, triết gia Pháp. [44] Chỗ này có thể tác giả nhầm lẫn. Chiến dịch Điện Biên Phủ kết thúc vào năm 1954, nếu cha Đa Linh rút khỏi Việt Nam ngay thời điểm đó thể nào mới chỉ có mười mấy tuổi ở thời điểm câu chuyện này diễn ra (khoảng những năm 80 của thế kỷ 20) được.