Chương 20 Dưa trôi dụ cá an Sơn đạo nhân có thuật “Dưa trôi dụ cá” mà theo truyền thống trước đây, chỉ được thực sau khi tế “Dưa thần” và “Ngư chủ”. Đương nhiên, đây chỉ là dạng nghi thức, có cũng được mà cũng chẳng sao. Có điều, chúng tôi cũng cứ theo lệ cũ mà làm, chẳng ngại gì thêm bước này, tránh để về sau xảy ra chuyện có hối cũng chẳng kịp. Thời xưa, dân chài nếu bắt được cá lớn dưới biển, đều phải tế Ngư chủ theo lệ, bởi trong mắt dân miền biển, lũ cá lớn ấy đều là con cháu của Long vương. Ngư chủ ở đây chính là Nam Hải Long vương. Thực tế là, dưới biển có những con cá lớn nặng đến cả tấn, nhìn thấy sợ rồi, hạ gục giống quái vật ấy, trong lòng ai mà chẳng có chút thấp thỏm yên, mấy trò bái tế Ngư chủ gì gì đó, có thể chỉ là tìm cái cớ để mình yên tâm mà thôi. Thuyền trưởng Nguyễn Hắc dẫn đầu cả bọn thắp hương, rồi lấy trong khoang ra vò rượu ngon lâu năm đổ xuống biển, vậy là coi như bái tế Long vương. Thời trước, dân mò ngọc lặn xuống nước, chỉ dựa vào nắm sa thạch và dao găm, cùng với cái bong bóng lợn để đổi hơi. Trước khi hành động, phải dùng nước lạnh tưới khắp toàn thân, gắng hết sức loại bỏ hơi nóng của người sống thân thể, hòng tránh bị lũ cá dữ dưới nước tấn công. Làm nghề này, có thể , gần như là đem tính mạng ra đổi lấy Nam châu. Ban Sơn đạo nhân có hứng thú đối với tất cả các loại ngọc châu thế gian này, dù là loại ngọc ngậm trong miệng người chết hay là loại sinh ra trong tự nhiên, như loại còn nằm dưới đáy biển, chưa bị con người mò vớt. Bất kể thứ nào, họ cũng nghĩ trăm phương nghìn kế để lấy được về tay. Phương pháp mò vớt Nam châu của họ hoàn toàn theo lối riêng, giống bất kỳ ai. Tuy những bí pháp kỳ môn đa phần đều được ghi chép trong kinh điển chính thống, song lại có hiệu quả rất kỳ diệu, thuật “Dưa trôi dụ cá” này là trong số đó. Trước khi lên đường ra biển, chúng tôi chất trong khoang hàng lượng lớn dưa hấu còn xanh, và mấy bao tải vôi sống, lúc này, toàn bộ đều đem ra dùng hết. Chúng tôi bắc nồi ở mũi tàu, bỏ vôi sống vào nước cho sôi ùng ục, khoét lỗ to bằng nắm tay mấy quả dưa, móc hết ruột bên trong ra, đổ nước vôi sống vào, rồi lấy miếng vỏ bít lại như cũ, ở chỗ khe hở, dùng thứ keo chế từ cỏ Chiếu Hồ và nước sắc cua biển dính chặt, sau cùng thả từng quả, từng quả dưa nhồi vôi sống ấy xuống nước. Quả dưa chứa đầy nước vôi sôi ùng ục, dập dềnh trôi nổi mặt biển. Khi quả dưa vẫn cứ dập dềnh chưa chìm xuống, mặt biển đột nhiên có hoa nước bắn tóe lên. con cá lớn dài khoảng hơn chục mét lao vút lên, đớp trọn cả quả dưa nhồi vôi đó vào miệng, theo đà vọt khỏi mặt biển, hơi dừng sững lại chút, rồi mới rơi đánh “tũm” tiếng, làm nước bắn tung ào ào. Phàm là những loài thủy tộc bị minh châu thu hút, đều có cảm ứng với ánh trăng và tính, thiên tính thích mà ghét dương. Gặp phải quả dưa hấu tròn ung ủng nổi dập dềnh mặt biển, vỏ dưa lại có khí do thứ keo đặc biệt kia tiết ra, lũ cá này con nào là nhao lên giành ăn. Mặt biển nhất thời nổi sóng, các loại cá lớn đua nhau nhoi lên mặt nước nuốt dưa. Dưa hấu ngâm trong nước biển chút là lạnh, nhưng là ngoài lạnh trong nóng, vôi sống bên trong vỏ dưa vẫn sôi, gặp nước lại càng sôi lên ùng ục. Bị lũ cá nuốt vào bụng, vỏ dưa lập tức vỡ toác ra, vôi sống tiếp xúc với nước, sinh ra nhiệt lượng cực lớn, dễ dàng đốt cháy nội tạng bọn chúng. Chỉ trong chớp mắt, có mấy con cá chết phơi bụng trắng hếu nổi mặt nước. Dưa hấu thả xuống mỗi lúc nhiều, con cá nào nuốt vào là đời con ấy, chỉ thấy mặt biển ngừng xuất những cái xác cá chết, ngửa bụng trắng phớ. Lũ cá đại tướng này trông vốn hung ác xấu xí, nay bị vôi sống thiêu đốt nội tạng mà chết, bộ dạng càng đau đớn khủng khiếp tột cùng. Hơn nữa, mắt cá trời sinh tròn xoe, nên lúc này nhìn càng giống như chết nhắm mắt. Mấy người chúng tôi đứng boong quan sát, thảy đều kinh hãi. Từ đầu cả bọn có chuẩn bị tâm lý, nhưng vẫn ngờ sử dụng bí thuật của Ban Sơn đạo nhân giết cá, lại có kết quả tàn bạo nhường này. Tôi vẫy tay với Nguyễn Hắc, ra hiệu cho bọn họ chuẩn bị xuống nước. Nguyễn Hắc và Đa Linh lập tức thay đồ lặn, mang theo bình dưỡng khí, kính lặn và dụng cụ mò ngọc, ngồi trong xuồng cao su thả xuống bên mạn tàu đợi tín hiệu. Mấy người bọn Tuyền béo vẫn tiếp tục ném dưa xuống biển, lũ thủy tộc náu trong vùng biển này dường như đông vô hạn, chết đám lại có đám khác trồi lên, lồng lộn tranh ăn mặt biển. Tuyền béo cứ ngoác mồm ra than thở, lúc trước tính toán chuẩn, cứ thế này dưa hấu với vôi sống đủ dùng mất thôi. Tôi bảo mấy người bọn họ, nên ném dưa hấu nhanh quá, tránh để con cá nuốt mất hai quả dưa, nhất định phải dùng tiết kiệm, đặt mục tiêu mỗi phát đạn hạ gục tên địch, nếu trừ hết lũ cá dữ cứ quanh quẩn xung quanh đám ngao sò ốc hến ngậm ngọc dưới đáy biển kia, lúc xuống nước mò ngọc thể nào cũng gặp bất trắc. Dẫu chúng đớp người, chỉ cần bị mấy con cá to ấy húc cho phát thôi cũng chẳng chịu nổi rồi. Chuyện đến nước này, chỉ còn cách dốc hết túi ra cược phen, cá chết lưới rách, nếu ném hết dưa hấu mà vẫn diệt sạch được lũ cá lớn xung quanh mấy cây san hô đó, chỉ còn nước chọn lại ngày lành tháng tốt mà quay lại thôi. Có điều, sau này chưa chắc gặp được thời tiết biển thích hợp như lúc này, cũng biết phải chờ tới lúc nào mới trở lại vực xoáy San Hô được. Lúc này, Shirley Dương thấy việc giết chóc quá nặng nề, thời gian ăn chưa hết bữa cơm mà có gần hai trăm con cá lớn toi mạng, khỏi hơi biến sắc mặt. Chỉ là, giờ có hối hận cũng quá muộn. Tôi thấy vậy, bèn cất tiếng khuyên giải, bảo rằng: “Đằng nào cũng đại khai sát giới rồi, tuyệt đối thể mềm lòng, bây giờ mà dừng tay chẳng phải lũ cá này chết uổng hay sao? Vả lại, hãy nghĩ đến những thủy thủ và hành khách tàu gặp nạn, rồi cả dân mò ngọc nữa, khi rơi xuống nước chẳng phải chỉ có kết cục chôn thây nơi bụng cá hay sao? Tuy bây giờ còn trả thù giai cấp nữa, nhưng chúng ta làm vậy, cứ coi là báo thù cho những người mò ngọc bất hạnh kia cũng được mà.” Thực ra, tôi chẳng để tâm đến bọn cá chết kia mấy, diệt hết bọn chúng, lúc xuống nước chẳng khác nào tự hiến thân vào bụng cá, chỉ là, trong lòng khỏi ngấm ngầm lo lắng giết hết, sợ phải trở về tay mà thôi. Cũng may, lúc còn khoảng gần ba mươi quả dưa hấu, dưới biển có cá nổi lên nữa, có lẽ bọn cá đại tướng ấy đều chết tiệt hết cả rồi. Dưới đáy biển, các khu vực được phân chia bởi những dòng hải lưu ngầm, các loài thủy tộc rất ít khi chịu vượt qua ranh giới, nhưng cũng có số ít con tham luyến tinh hoa của ngọc trai, vẫn lẩn khuất ở gần rừng rậm san hô, phải diệt trừ hết sạch lúc lặn xuống mò ngọc mới khỏi lo trước lo sau. Còn bọn cua cá thuồng luồng ở những vùng nước khác, ít nhất trong thời gian ngắn cũng mạo muội tiến vào vùng biển trống này. Nguyễn Hắc thuở trước mò ngọc, nhưng lần nào cũng phải chuẩn bị sẵn tinh thần lao đầu vào chỗ chết để tìm đường sống, nay thấy thuật “Dưa trôi dụ cá” lợi hại như vậy, chỉ trong chưa đầy nửa tiếng đồng hồ dẫn dụ toàn bộ lũ cá dữ tiềm phục ở xung quanh cây san hô lớn ra, hạ sát sạch , thủ đoạn thực là tàn độc hết sức, cũng khỏi trợn mắt há hốc miệng ra. Tôi gọi mấy tiếng liền, ông ta mới giật mình sực tỉnh, giơ ngón tay cái lên nhắn xuống, ra hiệu với chúng tôi rằng mình lặn xuống ngay. Sau đó, ông ta liền cùng nữ đồ đệ mang hai dòng máu Pháp-Việt Đa Linh, gắn các trang thiết bị lặn vào, ngồi lên mép xuồng cao su, ngả người ra phía sau, lộn đầu xuống nước. Thấy nhóm B xuống nước, Shirley Dương bèn gọi tôi và Minh Thúc: “Nhóm A vào khoang đáy chuẩn bị lặn.” Tuy tiêu diệt được khá nhiều con cá dữ có khả năng tấn công, nhưng tình hình dưới nước vẫn rất khó lường, có lẽ yên bình được mấy chốc, thời gian rất có hạn, nhóm A chúng tôi cũng phải nhanh chóng hành động. Trong các trang bị kèm theo tàu Chĩa Ba có ba bộ đồ lặn hạng nặng, chuyên dùng để thăm dò vùng biển sâu, chế tác từ vật liệu có thể chịu áp lực cao, trọng lượng lên tới trăm bảy mươi lăm ki lô gam, mặc vào để xuống nước dễ dàng như thợ lặn đeo trang bị bình thường được. Các nhà thiết kế người khéo léo lợi dụng cấu tạo của con tàu cũ, đặt khoang ngập nước đặc biệt trong khoang đáy, trang bị lặn đặc cố định trong đó, chúng tôi phải chui vào bộ đồ lặn này, đợi nước dâng lên ngập khoang, mới lặn xuống được. Sau khi chúng tôi xuống nước, tàu chỉ còn lại nhóm C đảm nhiệm việc chi viện, nên tôi phải dặn dò Tuyền béo mấy câu, rồi mới dẫn theo Cổ Thái xuống khoang đáy, nhờ cậu ta giúp tay chuẩn bị thiết bị lặn, mở van xả nước vào khoang . Cùng với nhịp hô hấp của chúng tôi, khí thể xì ra, tôi, Shirley Dương và Minh Thúc rời khoang đáy, bám theo dây thừng từ từ lặn xuống. Tàu Chĩa Ba dừng ngay phía cây san hô cao to, trong nhờ nhờ như đồi mồi ấy. Tôi thấy giữa mấy tán cây có ánh đèn lấp lóa, chính là Nguyễn Hắc và Đa Linh lấy ngọc của con ốc xanh rất lớn. Mấy con cá mập bơi lượn vòng xung quanh hai người họ. Cá mập có tính háo trăng như các loài thủy tộc khác dưới đáy biển, thuật “Dưa trôi dụ cá” hề có tác dụng với bọn chúng. Ở dưới biển, xét về các mối uy hiếp đối với dân mò ngọc, phải tính đến loài cá mập hung hãn vô địch này đầu tiên. Thời xưa, khi chưa có thiết bị đuổi cá mập bằng tín hiệu điện tử, Ban Sơn đạo nhân lặn xuống nước mò ngọc, thông thường đều dùng loại thuốc đuổi cá mập phối chế theo phương pháp cổ xưa, nhưng lại cực kỳ hiệu quả. Lúc xuống nước, mang theo bên mình cái bình thủng lỗ chỗ như cái sàng, bên trong nhét đầy thuốc đuổi cá mập dạng cao đặc. Mỗi khi cơ thể chuyển động dưới nước, thuốc đuổi cá mập trong bình hòa tan liên tục qua các lỗ , có thể ngăn cản lũ cá mập đến gần người thợ lặn. Nguyễn Hắc và Đa Linh mang theo bình thuốc đuổi cá mập của Ban Sơn đạo nhân, nhưng cũng vẫn có những con cá tò mò, quây lấy hai người họ từ đằng xa. Cũng may, thầy trò Nguyễn Hắc mò ngọc được mấy năm rồi, làm cái nghề này cực kỳ nguy hiểm, chẳng khác nào vuốt râu hùm, nên tố chất tâm lý của bọn họ tương đối ổn định, bị lũ cá mập vây quanh rình mò mà vẫn hề rối loạn. Dân mò ngọc có ba cách lấy ngọc, nếu hoàn cảnh cho phép, thông thường họ trực tiếp phá vỏ ốc vỏ trai để lấy ngọc; giả như cây san hô kích thước lớn lắm, có thể nhổ cả cây mang lên, vì san hô thượng phẩm cũng bán được giá rất cao; cuối cùng chính là kéo cả con trai lên mặt nước, chuyển lên tàu rồi mới đập vỡ vỏ trai lấy ngọc, thịt trai đem ăn. Có điều, làm theo cách này thể chắc chắn bên trong con trai có ngọc hay . Hai người nhóm Nguyễn Hắc lặn xuống gốc cây san hô, lũ trai ngọc khổng lồ bám dưới đáy biển này biết bao nhiêu năm tháng, cơ hồ nối liền thành thể với rặng đá ngầm bên cạnh cây san hô, rất phiền phức nếu muốn tách chúng ra khỏi rặng đá để mang cả lên mặt nước, chỉ có thể lấy ngọc tại chỗ mà thôi. Họ dùng đèn lặn tụ quang hoặc cát mịn dẫn dụ con trai hé mở vỏ ra, rồi đâm lưỡi dao tẩm thuốc mê vào, nhân lúc con trai khổng lồ mất cảm giác, liền bạnh vỏ trai ra, thò tay vào móc lấy Nam châu. Hai thầy trò Nguyễn Hắc thích dùng dao găm lặn chuyên dụng, mà vẫn mang theo lưỡi dao phân thủy truyền thống của dân mò ngọc từ bao đời nay, nhưng để cắt vào thịt trai, thịt ốc khiến lũ cá mập gần đấy ngửi mùi máu mò tới, ông ta hết sức cẩn chận chỉ rạch khẽ chút rồi thò tay mò mẫm, lấy được Nam châu liền tức khắc bọc lại, giấu kín vào trong lòng, dám để lộ ra ánh sáng. Tôi và Shirley Dương, Minh Thúc lặn qua chỗ hai thầy trò Nguyễn Hắc, thấy bọn họ thực đâu ra đó rất bài bản, cũng cảm thấy yên tâm phần nào, bèn vẫy tay ra hiệu, rồi tiếp tục lặn xuống sâu hơn. Gốc cây san hô cao mấy chục mét ấy mọc tầng cát mịn cùng cả rừng san hô trải dài, chúng tôi chạm đất làm bùn cát cuộn lên, khiến nước biển đục ngầu. Đột nhiên có dòng chảy ngầm cuốn xuống khe sâu cạnh đó, nhờ có trang bị nặng, thân thể chúng tôi chỉ bị lảo đảo mấy cái. Tôi bám vào cây san hô, trụ vững thân mình, đoạn chỉ tay xuống phía dưới, ra hiệu cho Shirley Dương và Minh Thúc rằng đấy chính là khe sâu mà tôi trông thấy lúc ngồi trong chuông lặn. Giả sử cái khe nứt đen ngòm trước mắt chúng tôi đây phải khe sâu đáy biển, mà là lớp vỏ cứng hình thành bởi các vật trầm tích dưới biển, con tàu đắm rất có thể lọt vào trong đó rồi. Có điều, trước khi xác nhận chắc chắn khó mà phán đoán được. Tôi cũng hiểu rất , với trang bị của chúng tôi, và chuẩn bị vội vàng thế này, muốn vớt được Tần Vương Chiếu Cốt kính trong tàu Mariana thực còn khó hơn lên trời, nhưng dù sao tôi vẫn muốn thử vận may chút xem sao, nếu vớt được đương nhiên là tốt nhất, bằng chỉ cần tìm thấy xác tàu đắm là cũng tốt lắm rồi. Bởi lẽ, chỉ cần giơ ra món di vật trong tàu, là có thể tuyên bố quyền sở hữu xác tàu đắm ấy là của chúng tôi, những đội trục vớt khác có ý với nó nữa. Chỉ cần có đủ thời gian, có thể bảo Shirley Dương thuê nhóm trục vớt chuyên nghiệp đến làm nốt những thứ còn lại. Shirley Dương giơ đèn lặn lên, định thăm dò tình hình ở bên rìa mép cái khe nứt ấy, hiềm nỗi, đèn chiếu cường độ mạnh ở đây gần như mất tác dụng, thể chiếu xuyên qua được nước biển có quá nhiều tạp chất, càng chẳng thể nào chiếu xa được. Minh Thúc nghĩ ra cách, ném ống khói phát sáng dưới nước xuống dưới, luồng sáng chói mắt tức chiếu rọi xung quanh. Trong khoảnh khắc ánh sáng lóe lên ấy, chỉ thấy phía dưới có vô số cột đá sừng sững, tựa như di tích của kiến trúc cổ đại nào đó, nhưng dưới đáy sâu, nước xoáy cuộn lên, lại có nhiều dòng chảy ngầm đan xen lẫn nhau, ống khói phát sáng nhanh chóng bị cuốn mất, biết rơi vào góc chết nào, chẳng còn thấy chút ánh sáng nào nữa. Nhưng trong thoáng ấy, tôi phảng phất thấy dưới khe sâu có cái bóng đen khổng lồ, tựa như xác tàu đắm, có điều vì khoảng cách quá xa, nên dám chắc. Vả lại, điều làm chúng tôi kinh ngạc nhất là những khối đá khổng lồ kia, tuy bám đầy trầm tích, nhưng lại rất vuông vắn trật tự, giống như sản phẩm của thiên nhiên. Trong khe sâu dưới đáy biển ngờ lại có di tích thành cổ, việc này khiến tôi khỏi liên tưởng đến bức phù điêu ngọc phát đảo Miếu San Hô, cùng với cỗ quan tài nổi ở gần vực xoáy San Hô. Xem ra, nơi này quả nhiên từng xuất nền văn minh phồn thịnh, nhưng bị chôn vùi dưới đáy biển sâu, dù ngẫu nhiên có vài thứ sót lại được vớt lên, coi là hàng thanh đầu, đa phần bị nước biển xâm thực mà biến dạng nghiêm trọng, khó nhận ra, rốt cuộc cũng chỉ làm nên trang thiếu khuyết trong lịch sử nhân loại. Nơi này, rất có thể chính là Quy Khư được ghi chép trong sách cổ, là hải nhãn ở Nam Hải, dẫu có đổ hết nước trong thiên hạ vào cũng thể đầy, là lối thông đến cõi vĩnh hằng hư vô vô tận. Tôi thấy sâu bên dưới dường như có tàu đắm, nhìn có vẻ hết sức thần bí; sao nén nổi cảm giác tò mò, muốn tiến xuống xem cho ràng, ngoảnh sang thấy Shirley Dương và Minh Thúc vẫn quan sát, bèn từ phía sau gõ gõ lên mũ lặn của họ, ý bảo hãy quay sang phía này. Tôi chỉ vào thiết bị đo độ sâu, rồi lại chỉ xuống khe vực. Bọn tôi có động cơ đẩy nước gắn đồ lặn, dễ bị các dòng chảy ngầm cuốn , vả lại, còn mang theo súng bắn lao phòng thân, cậy vào mấy thứ trang bị này, chi bằng lặn sâu xuống quan sát thêm chút. Shirley Dương hơi do dự, còn Minh Thúc ngược lại, thấy tiền tài lại nổi lòng tham. Chắc hẳn lão nghĩ, mò được ngọc trai rồi, lại vớt thêm được ít hàng độc trong khu hoang phế dưới đáy biển này, chẳng phải càng trúng quả đậm hay sao, nên đồng ý mạo hiểm ngay lập tức. khi lòng tham nổi, rắn còn nuốt cả voi, chỉ cần có lợi lộc, đời chẳng có nơi nào mà lão già này dám cả.
Chương 21 Quái vật biển ung lượng bình ô xy có hạn, đương nhiên thể dây dưa trì hoãn quá lâu dưới nước được, Shirley Dương thấy tôi và Minh Thúc đều đồng ý tiếp tục lặn sâu xuống, bèn đưa tay ra dấu phải cẩn thận hơn nữa, rồi cả ba lấy dây thừng chuyên dụng nối nhau lại, bật hết thiết bị chiếu sáng người lên, đoạn cùng lúc lao xuống khe sâu tối om dưới đáy biển, van khí mũ lặn xả ra chuỗi bọt nước trắng xóa. Chúng tôi lặn xuống men theo vách đá, Shirley Dương rút con dao găm thợ lặn, cạy mảng trầm tích màu trắng xám dày bự, chỉ thấy bên trong lộ ra bề mặt đá thô ráp sần sùi, lồi lồi lõm lõm như thể tấm bia cổ. Tôi kìm được, vươn tay vuốt lên những dấu vết cổ xưa ấy, định tiếp tục lặn xuống, chợt cảm thấy trong vách đá truyền ra những chấn động dữ dội, khác thường. Tôi giật mình kinh hãi, thầm nhủ hay rồi, lần này trước khi xuống nước lại quên xem giờ hoàng đạo, sao dưng lại gặp đúng lúc có địa chấn dưới đáy biển thế này cơ chứ? Ở lại trong khe sâu này rất có khả năng bị bùn đất chôn vùi hoặc đá lở đè chết, đến nước này tôi đâu còn dám do dự, người mà ngỏm củ tỏi tìm thấy bảo vật cũng chẳng ích gì, phải lập tức rút lên mặt biển thôi. Tôi định bảo Minh Thúc và Shirley Dương mau chóng rút lui, bỗng thấy Shirley Dương đột nhiên giơ tay lên, ra hiệu “cẩn thận”, tôi thoáng ngẩn người, liền hiểu ra ngay, vách đá chấn động phải do địa chấn, mà là có thứ gì đó trong khe sâu này chuyển động. Những dòng chảy ngầm xuống phía dưới bỗng chảy xiết hẳn lên, xem ra, thứ va chạm vào vách đá ở phía chúng tôi, trong tình hình chưa ràng này, chắc chắn là thể mạo hiểm trồi lên được. Shirley Dương kéo theo tôi và Minh Thúc, lợi dụng dòng chảy ngầm, nấp vào phía sau trụ đá bị đổ dưới đáy biển. Cái khe này sâu như chúng tôi tưởng tượng, bên trong có nhiều dòng chảy ngầm phức tạp, lại quá tối tăm, chiếu đèn pha thể nhìn được địa hình bên dưới, nhưng khi lặn xuống, sử dụng “Con mắt của Poseidon” với bóng đèn khí flo, cột ánh sáng chiếu tới đâu, cảnh vật trong khoảng mấy chục mét liền lên mồn . Ba chúng tôi nấp sau tảng đá, giơ hai ngọn đèn pha công suất lớn quét khắp lượt, chăm chú quan sát động tĩnh bốn xung quanh. Tôi đưa mắt theo cột ánh sáng đèn pha, phát đây phải khe vực tự nhiên, những cột đá to lớn xếp thành hàng san sát kia chứng tỏ ở nơi này từng tồn tại quần thể kiến trúc quy mô hùng vĩ, nhưng bị nhấn chìm xuống đáy biển sâu bởi thiên tai khủng khiếp. Phần mái của quần thể kiến trúc bị bùn cát phủ lấp, trải qua nhiều năm tháng, tạo nên tầng vỏ cứng nhưng giòn và dễ vỡ. Cãi khe này bạo lộ, phải do tàu đắm rơi xuống, vì xung quanh đây thấy có bóng dáng của tàu bè đại nào cả, bên cạnh chúng tôi chỉ có mỗi cái xác tàu kiểu cũ mục ruỗng đến trơ khung, biết là bị đắm từ đời xa xưa nào nữa, nên rất có thể khe nứt hình thành do những cây cột chỗ chúng tôi náu mình đổ sập. Vực xoáy San Hô chạy dài theo hướng Đông Tây, chiều Nam Bắc rất hẹp, những mảng rừng rậm dưới đáy biển tập trung nhiều ở mé Đông có địa hình hõm sâu xuống, địa thế cao dần theo hướng từ Đông sang Tây, khi nước triều xuống thấp có đảo u linh lộ ra mặt nước. Cái khe mà chúng tôi lặn xuống thám hiểm này, chính là nằm giữa rừng san hô và đảo u linh. Lúc dùng chuông lặn xuống nước trinh sát địa hình lần đầu tiên, tôi từng phát trong khu vực này có rất nhiều khe sâu tối om om, giờ nghĩ lại, có lẽ bên dưới đều là di tích của tòa thành cổ này, xem ra quy mô cũng khá lớn. Tôi mải suy nghĩ, thoáng ngẩn ra mất lúc, chợt cảm thấy Shirley Dương khẽ chạm vào tay phải mình. Thứ đầu kia cũng lặn xuống. Tôi nén nổi tâm trạng hồi hộp, vội giơ súng bắn lao lên chuẩn bị nghênh địch. Minh Thúc vội vàng xua tay lia lịa, ra hiệu thể lấy cứng chọi cứng được, trong cái khe dưới đáy biển này chắc chắn có loài hải quái khổng lồ nào náu, chưa chắc lúc này nó phát ra chúng tôi. Kế đó, lão lại ra hiệu cho tôi và Shirley Dương mau chóng tắt hết các nguồn sáng người, tránh để bại lộ mục tiêu, đợi nó bơi rồi mới tìm cách trở lên mặt nước. Shirley Dương cũng đồng ý với cách của Minh Thúc, chúng tôi vội vàng, tắt đèn, ngoài ngọn đèn pha “con mắt của Poseidon”, cùng với đèn đeo người và gắn bên ngoài mũ lặn, bên trong mũ kim loại cũng có hai ngọn đèn . Loại đèn này gắn liền với công tắc giảm áp, khi lặn xuống dưới sâu ba mươi mét trở lên tự động bật sáng, tắt bằng tay được. Hai ngọn đèn ấy có thể chiếu sáng trong phạm vi tầm nửa mét phía trước mặt trong môi trường tối tăm áp suất lớn, đồng thời cũng để những đồng bạn ở gần đó nhìn gương mặt mình, giảm bớt áp lực về mặt tâm lý. Loại đèn gắn bên trong mũ này so với đèn pha công suất lớn chẳng đáng là gì, chính vì vậy, dù để bật sáng, chúng tôi cũng lo bị lộ tung tích. Nguồn sáng vừa tắt, đáy biển lập tức tối đen như mực, xung quanh chìm vào tĩnh lặng chết chóc. Tôi chợt nghĩ, tòa thành cổ này năm xưa gặp phải thiên tai hủy diệt, những người Hận Thiên trong thành, dẫu là già trẻ trai hay chó mèo gà lợn hẳn đều thành thức ăn cho cá, chỉ còn lại vong hồn vẩn vít quanh đây thôi. Mà nghe , dân mò ngọc Nam Hải lúc lặn xuống tìm ngọc dám nhắc đến chữ “ngọc”, tương truyền chính là vì dưới đáy biển có u hồn ác quỷ bảo vệ ngọc trai, lũ ác quỷ ấy lẽ nào chính là những vong hồn trong tòa thành cổ này? Nghĩ tới đây, tôi rùng mình ớn lạnh, vội trấn tĩnh, cố nghĩ ngợi lung tung nữa. Nhưng môi trường đặc thù dưới đáy biển, cộng với áp lực nước ở độ sâu hơn trăm mét khiến người ta phải chịu đựng sức ép tâm lý rất lớn. Tôi cảm nhận được nỗi sợ khó hiểu dâng lên trong lòng, cách nào xua nổi. Có điều, nghĩ đến Shirley Dương ở bên cạnh, rốt cuộc tôi cũng khắc chế được tâm trạng bất an ấy. Đúng lúc đó, lại chợt cảm thấy dòng chảy ngầm bên cạnh đột nhiên chấn động! Tôi biết có thứ gì đó rất lớn lướt qua chỗ chúng tôi nấp, lại sao đè nén nổi cảm giác căng thẳng cuộn dâng lên. Bấy giờ, tôi hiểu, đây là tượng tâm lý thường xuất khi ở dưới biển sâu, cơ hồ tất cả các thợ lặn đều như vậy, mới thầm mắng mình quá vô dụng. “Năm đó thấy đao trắng đâm vào đao đỏ rút ra cũng hề chớp mắt cái, sao giờ xuống đáy biển lại biến ra kém cỏi thế này?” Nghĩ đoạn, tôi lại thầm nhủ, tuyệt đối thể để Shirley Dương và Minh Thúc nhìn ra, bằng đúng là chẳng còn mặt mũi nào mà lên tàu nữa. Tuy tôi rất căng thẳng, nhưng có người còn căng thẳng hơn cả tôi. Minh Thúc ở bên cạnh như bị sứa biển đốt cho mấy phát, đớ người như có dòng điện chạy qua, chuỗi bong bóng nước ùng ục tuôn từ mũ lặn. Tôi và Shirley Dương bị lão làm cho giật thót cả mình, nhưng nhanh chóng hiểu ra ngay, lão Minh Thúc chắc là bị thứ gì làm cho kinh hãi quá độ mà thôi. Đúng lúc đó, tôi thấy lão đưa tay lên định cởi mũ lặn ra, thầm chửi lão nông dân Hồng Kông này hiểu uống lầm thuốc gì, vội đưa tay chụp vào vai, xoay người lão lại, mượn ánh đèn mờ mờ trong mũ quan sát, mới thấy hiểu ở đâu chui ra con mực xòe rộng xúc tu bám chặt lên kính quan sát mũ lặn của lão già. Con mực lớn lắm, chỉ cỡ bằng hai nắm tay người lớn, toàn thân trắng nhợt, lốm đốm những vệt nâu nâu tím tím. Nó trợn trừng hai con mắt xám đục, nhích động liên tục mặt kính quan sát của cái mũ lặn. Minh Thúc bị chắn mất tầm nhìn, đâu có biết đó chỉ là con mực bé tẹo, còn tưởng bị quái thú đáy biển nào nuốt chửng, trước mắt toàn là ruột với dạ dày nhu động. Lão ta dẫu từng chạy tàu lâu năm, từng lặn xuống biển mò ngọc, cũng phải kinh hãi đến mức luống cuống cả chân tay. Tôi sợ Minh Thúc giật đứt ống thở, vội giữ chặt hai tay lão, Shirley Dương từ phía sau dùng dao thợ lặn khẽ hất cái vòi của con mực lên, nhàng cạy nó ra khỏi mũ lặn của Minh Thúc. ra tay rất khẽ khàng, con mực thậm chí cảm thấy bị uy hiếp, từ đầu chí cuối hề phun mực đen. mải quan sát, tôi đột nhiên cảm thấy dòng nước bỗng xao động, có xoáy nước dữ dội cuộn trào lên ngay cạnh. cái bóng mơ hồ màu trắng quẫy đuôi ló đầu tới, chỉ còn cách chúng tôi gang tấc. Tôi biết giờ có trốn cũng nổi, cái khó ló cái khôn, vội giật lấy con mực Shirley Dương vừa tóm được, bóp mạnh cái, rồi thả ra luôn. Con mực vừa đau vừa kinh hoảng, theo bản năng lập tức phun túa ra đống mực đen hòng thoát thân. Luồng mực phụt ra đen kìn kịt, tựa làn khói mù mịt từ đáy biển bốc lên. Thân con mực liền đó lao vọt . Quả nhiên, con hải quái trong bóng tối lập tức bị con mực bỏ chạy thu hút, quay đầu đuổi theo luôn trước mắt chúng tôi. Dưới ánh sáng yếu ớt của ngọn đèn gắn trong mũ, tôi nhìn ra nổi nó rốt cuộc là giống gì, chỉ thấy mảng trắng nhờ nhờ to đến phát hãi lướt qua. Dòng nước do thứ ấy quẫy động rất mãnh liệt, như thể lốc xoáy từ đáy biển trào dâng, nếu phải chúng tôi ôm chặt lấy trụ đá, chừng bị cuốn phăng rồi. Dòng xoáy ngầm đó còn xoáy đảo mãi hồi lâu mới lắng xuống. Tôi thầm kinh hãi, cái thứ vừa rồi rốt cuộc là gì mà to lớn nhường ấy? Lẽ nào, dưới đáy biển này có rồng ? Tôi mới vừa nghĩ tới đó, quầng mực đen trước mắt bị cuốn theo xoáy nước, chỉ thấy cái bóng to lớn dài thượt như dải lụa kia nuốt chửng con mực, rồi quay ngoắt lại, bơi về phía chúng tôi. Ba bọn tôi mặc bộ đồ lặn hạng nặng, dù dưới nước có lực đẩy, nhưng muốn cất tay nhấc chân vẫn khó, nên cực kỳ chậm chạp, căn bản có khả năng chạy trốn, chỉ còn cách đánh liều phen thôi vậy. Tôi giương súng bắn lao lên, định cho con quái vật kia phát. Nhưng Shirley Dương nhanh hơn tôi nửa nhịp, bật luôn đèn pha công suất lớn, cột ánh sáng chói mắt trắng lòa bắn vút ra, rọi thẳng vào con hải quái bơi đến. Chỉ thấy trong ánh đèn ra vật thể khổng lồ màu trắng, đầu như con trâu, thân như mãng xà, vừa có sừng vừa có vảy. Cả ba bọn tôi tái mặt, con này là rồng hay là gì đây? Nếu bảo nó là rồng, hình như thiếu móng vuốt. Còn bảo nó phải rồng, vậy cặp sừng nhú ra cái đầu như đầu trâu kia, cùng với thân thể dài như dải lụa trắng, chỉ thấy đầu thấy đuôi kia rốt cuộc là thuộc về giống gì? Tôi sững người, nhất thời quên cả bắn mũi lao ra. Con quái vật bị luồng sáng mạnh chiếu phải, bất thình lình ngoặt cái đầu lao tới chỗ ba chúng tôi, vòng sang bên cạnh cột sáng trong gang tấc, thân thể dài thườn thượt lướt vèo qua. Luồng nước xiết khiến cả ba chúng tôi lảo đảo muốn ngã nhào. Con quái vật kia hình như rất sợ ánh sáng mạnh, thoắt cái quay đầu lặn sâu xuống bên dưới khu cổ thành hoang phế, khòng thấy động tĩnh gì nữa. Chúng tôi còn chưa kịp vui mừng, mấy trụ đá sau lưng bị luồng nước ngầm cực xiết do con quái vật kia gây ra ập vào, rung rinh muốn đổ. Bản thân những trụ đá này bị các dòng chảy ngầm dưới đáy biển xối vào nhiều năm, còn vững chắc nữa, có thể sụp đổ bất cứ lúc nào. Tôi chỉ cái xác tàu đắm cách xa ở mé bên, phía sau hình như có gian điện bằng đá, nấp vào bên trong may ra có thể tránh được những khối đá rơi xuống. Trụ đá xiêu vẹo, đổ là có thể đổ ngay, mà thể đoán được ập xuống theo hướng nào. Chúng tôi nhanh chóng tìm ra góc chết nơi các khối đá rơi tới được, rồi vội né vào trong cái xác tàu. Đúng lúc đó, các trụ đá nứt gãy đổ sập xuống ngay sát sau lưng. Bùn đất dưới đáy biển cuộn lên tạo thành vùng mờ mịt, che phủ cả khu vực chúng tôi vừa náu vào. Cũng may, chấn động ấy gây ra phản ứng dây chuyền. Song, ai dám chắc chắn những khu vực khác an toàn kiên cố hơn chỗ vừa rồi. Trong tòa thành cổ bị vùi lấp dưới đáy biển biết mấy nghìn năm này, căn bản có nơi nào an toàn cả. Chúng tôi nấp vào trong khung giá của con tàu đắm, tranh thủ nghỉ ngơi giây lát. Minh Thúc liên tiếp bị mấy phen kinh hãi, bắt đầu trấn tĩnh được nữa, tay chân luống cuống hết cả lên. Lão cầm cái bảng viết chữ dưới nước đeo bên người lên, ngoáy vội mấy chữ đưa cho chúng tôi xem. Loại bảng viết này chuyên dùng cho thợ lặn, trừ những người hợp tác với nhau lâu đến mức có thể hiểu hết mọi ám hiệu ra, khi có những điều phức tạp khó có thể dùng tay ra hiệu, ai cũng phải dùng đến loại bảng viết này. Tôi vừa thấy Minh Thúc viết đến chữ “rồng”, biết ngay lão muốn con hải quái chúng tôi vừa gặp phải là rồng. Lần này đúng là phiền phức to rồi. Tôi chưa từng gặp rồng bao giờ, cũng biết cái lão này trước đây đụng phải con rồng nào chưa. Có điều, chủ nghĩa Mác bao la rộng lớn, rốt cuộc cũng chỉ quy lại thành hai chữ “tạo phản”. Tạo phản là gì? Chính là dám làm những điều người trong thiên hạ dám làm. Trong thế giới quan của tôi, rồng với cá chẳng khác quái gì nhau cả. Tôi giơ súng bắn lao trong tay lên ra hiệu với Minh Thúc, bảo đợi khi nào nổi lên mặt nước, con quái vật ấy mà còn dám lộ diện lần nữa, nhất định tôi phải cho nó ăn vài mũi lao, để cho nó biết thế nào là mùi vị mũi lao thấm đẫm máu và nước mắt của dân mò ngọc. Shirley Dương xua xua tay, ý bảo chúng tôi cần lo lắng, viết lên tấm bảng ba chữ “rắn biển lớn”, rồi lại chỉ chỉ vào ngọn đèn pha. Bấy giờ, tôi mới nhớ ra, hai hôm trước, ở tàu, từng với tôi về loài rắn sống ở vùng biển sâu. Người phương Tây gọi nó là “rắn biển”, còn người phương Đông gọi là “rồng”, thực tế là cùng loài sinh vật biển. Loài này thoắt thoắt , mỗi khi trời nổi gió bão, thường hay nổi lên tấn công tàu bè hòng ăn thịt người và gia súc, vì vậy, đám thủy thủ mỗi khi nhắc đến đều biến sắc. Thời xưa, các chùa miếu bên bờ biển đa phần đều có vẽ cảnh hải quái nuốt tàu lật thuyền, hình tượng rồng nhe nanh múa vuốt trong đó chính là lấy nguyên mẫu từ loài rắn biển này. Có điều, lũ rắn này sợ ánh sáng nên bình thường chỉ xuất ở các vùng biển tối tăm, có mang theo thiết bị chiếu sáng công suất lớn rồi chẳng có gì phải sợ nó cả. Nếu sớm phát ra là rắn biển, vừa nãy chẳng cần phải nghe theo chủ ý vớ vẩn của lão Minh Thúc kia tắt hết cả đèn đuốc , hại cho cả bọn suýt chút nữa bị tấn công. Minh Thúc cũng biết lai lịch của giống rắn biển này, nếu có tình huống gì đặc biệt, nó lao ra vùng sáng tấn công tàu bè và thợ lặn. Lão cầm chắc ngọn đèn công suất lớn trong tay, sau hồi, rốt cuộc cũng trấn tĩnh, hướng về phía chúng tôi giơ ngón cái lên, ý bảo cần lo lắng, lão có vấn đề gì nữa. Tôi và Shirley Dương cầm đèn pin rọi khắp xung quanh, chỉ thấy con tàu cổ bị đắm này tuy chỉ còn lại phần khung, song vẫn có thể nhận ra kiểu dáng khác xa tàu Trung Quốc, đượm vẻ phong tình vùng Ả Rập. Thân tàu bị vùi lấp quá nửa trong cát biển, mục ruỗng gần hết. Đây rất có thể là tàu buôn qua lại vùng biển này vào thời Nguyên Minh biết gặp tai nạn gì biển mà bị cuốn vào trong vực xoáy San Hô. Khu thành cổ hoang phế dưới đáy biển suy tàn đổ nát, còn chút bóng dáng huy hoàng của thời phồn thịnh xa xưa, đối với các nhà khảo cổ học có lẽ là phát kinh người, nhưng trong mắt chúng tôi chẳng có giá trị quái gì cả. Bọn tôi bơi vòng quanh con tàu đắm, phát ra xác tàu Mariana hay con tàu đắm nào khác. Quy mô của di tích dưới đáy biển này tuy lớn, nhưng những nơi thợ lặn có thể đến lại rất hạn chế, là vì các bức tường và trụ đá đổ xuống chắn đường, hai là vì nguy cơ sụp đổ rình rập khắp nơi, rất dễ chỉ vô ý chạm phải thứ gì đó là lập tức khiến tường ngả cột nghiêng. Chừng như cả lũ thủy tộc dưới đáy biển này cũng biết mối nguy đó, nên xung quanh đây hề thấy bóng dáng chúng xuất , hoàn toàn là khu vực chết chóc tử khí nặng nề. Trong khu hoang phế ấy có mấy khe sâu tối om, con rắn biển kia rúc vào trong số đó. Tôi muốn lại gần xem xét kỹ hơn, nhưng nước ở những chỗ ấy cuộn xoáy liên tục, các dòng chảy ngầm chằng chịt giao nhau, đến cả lũ cá cũng khó lòng lại gần, vậy là đành bỏ qua. Tôi vẫy tay ra hiệu với Shirley Dương, ý rằng, nơi này có con tàu đắm chúng tôi muốn tìm rồi. Xem ra, cái Tần Vương Chiếu Cốt kính cũng phải dễ dàng mà vớt lên được. Khu thành cổ hoang phế dưới đáy biển này đầy rẫy nguy cơ, phải là chỗ tiện ở lâu, tốt nhất cứ trở lên mặt nước rồi tính kế sau vậy.
Chương 22 Xà Cừ hirley Dương cũng đồng tình với ý kiến đó. Chúng tôi khởi động thiết bị đẩy, theo đường cũ nổi lên. Thấy Shirley Dương lấy máy ảnh dưới nước ra chụp hết xung quanh lượt, tôi thầm nhủ: “Triều nhà Thương trong lịch sử Trung Quốc chỉ giới hạn phát triển ở khu vực Trung Nguyên, so với bản đồ Trung Quốc nay hơn nhiều, nếu thực phát ra khu phế tích chịu ảnh hưởng sâu xa của triều đại này ở tận cùng Nam Hải, có ý nghĩa cực kỳ to lớn đối với công tác nghiên cứu lịch sử hàng hải và lịch sử văn minh loài người, dẫu tìm được Tần Vương Chiếu Cốt kính, chỉ riêng những tấm ảnh này thôi cũng đủ khiến giáo sư Trần kích động đến phải nhập viện lần nữa rồi. Ba chúng tôi bật hết các thiết bị chiếu sáng, chầm chậm nổi lên đến chỗ khu rừng san hô. Nhưng vừa lên đến nơi lập tức phát có điều ổn, đội B ở chỗ cây san hô đại tướng mò ngọc vẫy đèn về phía chúng tôi, ràng là cần chi viện khẩn cấp. Tôi chém tay về phía trước ra hiệu, kéo theo Shirley Dương và Minh Thúc nhanh chóng bơi đến tiếp cận cây san hô. Bên dưới gốc cây san hô, Nguyễn Hắc và Đa Linh ra sức nạy con trai khổng lồ. Con trai bám chặt vào rặng san hô vôi hóa ấy to hơn cái cối xay cỡ đại phải đến ba bốn vòng, vỏ khép chặt, mặc cho hai người bọn Nguyễn Hắc cạy thế nào cũng nhúc nhích. Xem ra ít nhất nó cũng nghìn năm tuổi rồi, vỏ ngoài trắng muốt óng ánh, như gắn liền thành với khối đá khổng lồ dưới đáy biển. Đây là giống trai ăn thịt, rất hay kẹp chân người, tên khoa học là xà cừ, nhưng ngư dân và dân mò ngọc hay gọi là “khám trắng”, biết có bao nhiêu dân mò ngọc bị thứ này hại chết rồi. Tôi hiểu tại sao Nguyễn Hắc lại muốn cạy nó ra, còn chưa kịp hỏi, ông ta vội vàng ra dấu tay báo cho chúng tôi biết, bên trong con trai này có người! Tôi nhìn dấu tay ấy mà tưởng mình hiểu lầm ý của Nguyễn Hắc, ở vùng biển vực xoáy San Hô sóng gió rợp trời này ngoại trừ chúng tôi ra có còn ai khác nữa đâu, cho dù đây là con xà cừ, tục gọi là trai ăn thịt người ở vùng biển sâu, trong vỏ nó sao lại có “người” được chứ? Người sống hay người chết? Minh Thúc dường như sực hiểu, liền giơ tay làm điệu bộ cá bơi ngoằn ngoèo, lần này phát tài to, bên trong con xà cừ này tám chín phần là có kẹp con nhân ngư cực kỳ hiếm thấy, thịt nó còn đắt gấp đôi bạch kim chứ chẳng chơi đâu. Minh Thúc ấn tay lên con trai ăn thịt người to như cái cối xay cỡ đại, kích động phun ra chuỗi bọt khí dài, khua tay múa chân với chúng tôi, bên trong con trai này có thể kẹp con nhân ngư dưới đáy biển. Có điều, đây chỉ là suy đoán phía của lão mà thôi, bên trong con trai này có thứ gì, chỉ có hai người Nguyễn Hắc và đồ đệ Đa Linh của lão trông thấy. Ở dưới nước cũng khó mà miêu tả tỉ mỉ được. Tôi thấy con trai lớn có vỏ ngoài lấp lánh rất hiếm gặp, ràng là món hời to. Đằng nào dưa hấu ở khoang sau cũng ném xuống biển hết rồi, tàu còn ối chỗ trống, làm thôi, làm phải làm cho trót, sao mang cả vỏ lẫn ruột lên cho xong? Nghĩ đoạn, tôi bèn đánh tay ra hiệu, bảo hai thầy trò Nguyễn Hắc và Đa Linh ở dưới canh chừng, còn tôi và Shirley Dương lên tàu trước, để Tuyền béo mang đục và xà beng xuống giúp tay, nạy con trai ngọc nghìn năm lên boong tàu. Sắp xếp xong xuôi, chúng tôi liền nổi lên đến gần mực giảm áp, sau đó lần lượt trỏ vào khoang lặn như cái tủ lạnh ấy, tháo bỏ bộ trang bị nặng trịch như cái cùm người ra. Tôi kể sơ qua cho Tuyền béo và Cổ Thái nghe tình hình dưới nước. Tuyền béo ở tàu đợi sốt ruột lắm rồi, vừa nghe xong liền kéo Cổ Thái đổi ca lặn với chúng tôi, mang theo đục và thiết bị kích bằng áp lực chất lỏng lặn xuống bắt con trai lên. Ba thầy trò Nguyễn Hắc đều là thợ bắt trai mò ngọc lành nghề, có dụng cụ trong tay, công việc càng thêm thuận lợi, nhưng cũng phải tốn khá nhiều công sức mới đục được con trai to tướng ra khỏi rặng đá ngầm. Mấy người họ lợi dụng lực đẩy của dòng nước ngầm, đưa nó lên mặt biển, rồi lấy dây thép buộc chặt lại. Minh Thúc khởi động tay cần cẩu tàu, rốt cuộc cũng kéo được con trai nghìn năm khổng lồ lên khỏi mặt nước. Tuyền béo có ý khoe khoang, đứng vỏ trai lơ lửng giữa trung, đẩy cặp kính râm lên trán, hét ầm ĩ: “Êu Nhất, cậu xem Tư lệnh Tuyền béo tôi bắt được cái gì này? Tính giá thị trường bây giờ, bứng cả con sang Mỹ, ít nhất cũng phải đổi được quả du thuyền. Đến lúc ấy hai em mình ôm mấy em người Mỹ...” Cánh tay cẩu rời mặt biển lên mỗi lúc cao, Tuyền béo còn chưa dứt lời bắt đầu hoa mắt chóng mặt, kêu “ái ôi” tiếng, hai chân mềm nhũn ngã bổ ngửa xuống nước. Tôi lo cậu ta hí hửng quá hóa rồ, gây động quá lớn làm bọn cá mập lại kéo đến, vội bảo Nguyễn Hắc kéo cu cậu lên tàu, đồng thời cũng Nguyễn Hắc mau chóng trở lên, xem chừng đến lúc thu dọn trở về rồi, nhưng Nguyễn Hắc lại cho rằng mặt biển phẳng lặng, nước triều xuống thấp, mà dưới đáy biển vẫn còn rất nhiều trai ngọc, cơ hội mò ngọc nghìn năm hiếm có này sao có thể dễ dàng bỏ qua như thế? Ông ta cũng chẳng buồn để ý đến nguy cơ mắc phải bệnh khí ép[37], sau khi thay bình dưỡng khí mới, nằng nặc đòi dẫn theo hai đồ đệ lặn xuống mò ngọc thêm lần nữa. Minh Thúc cũng có ý này, lão khuyên tôi chớ nên ngăn cản mấy người nhà Nguyễn Hắc, nhìn thời tiết này có thể đổ mưa, nhưng thấy có gió, ắt thể nổi sóng được. Chỉ cần có sóng dữ, dù biển đổ mưa to mấy, cũng chẳng thể ảnh hưởng gì đến việc lặn xuống cả. Có điều, Minh Thúc cũng muốn đích thân lặn xuống nữa. Xét cho cùng, thầy trò nhà Nguyễn Hắc là trợ thủ dùng tiền thuê về, mà bọn chúng tôi ăn bớt phần tiền công nào của ba người đó đâu, bọn họ muốn ra sức kiếm thêm mớ, cớ gì phải ngăn cản chứ? Cứ để cho họ thỏa sức làm có phải hơn ? Lúc này, bầu trời càng thêm u ám, mây dày đen như mực trùm cả mặt biển. Trong luồng gió vừa lùa tới, dường như chứa thứ tín hiệu nguy hiểm. Tôi thoáng giật mình, thầm cầu khấn, xin ông trời tuyệt đối đừng nổi sóng to gió lớn đêm hôm nay. Có điều, tôi lại nghĩ Minh Thúc và Nguyễn Hắc đều là hạng sói biển lão luyện, hết sức quen thuộc thời tiết biển, bọn họ sao có lo mấy cũng chẳng được tích gì. Tương truyền vùng biển vực xoáy San Hô này năm bốn mùa lúc nào ngơi gió bão, chỉ vào những đêm trăng tròn mới trời quang mây tạnh, còn lại liên tục mây mù mờ mịt, ngừng xuất những luồng khí hỗn loạn kèm theo tiếng sấm thứ thanh[38], nên máy bay khó lòng bay qua được. Sóng điện từ tần số thấp dưới đáy biển gây nhiễu loạn thiết bị điện tử, khiến hầu hết tàu thuyền tránh khỏi lạc xa tuyến đường định sẵn. Vì thế, rất nhiều tai nạn khủng khiếp xảy ra ở đây, nhưng đến nay, tượng này vẫn chưa có lời giải thích. Trong lúc đó, Shirley Dương tò mò quan sát con trai ăn thịt người chúng tôi mới bắt lên. Trừ ra, cả bọn cứ mải lo việc tiếp tục xuống biển mò ngọc, có thời gian để ý đến nó, chỉ lấy dây thép buộc lại quẳng ở góc, định là khi nào rảnh tay xử lý sau. Shirley Dương với tôi: “Vỏ con trai này trắng bóng lấp lánh, vừa bồng bềnh như sóng cuộn, vừa hơi giống với bánh xe của chiến xa thời La Mã cổ đại, quả là tạo vật kỳ diệu của thiên nhiên, đẹp đẽ vô cùng. xem, những đường vân rất mảnh mà dày đặc, chứng tỏ ít nhất nó cũng phải sống dưới đáy biển kia mấy nghìn năm rồi. Mà nền văn minh của loài người chúng ta cũng chỉ có ngần ấy năm thôi... Điều này khiến những kẻ chỉ có thể sống vài chục năm như chúng ta đây phải bồi hồi cảm thán.” Tôi lo Shirley Dương nổi lòng từ bi bất chợt, lại đòi thả con trai cụ cổ này về biển, há chẳng phải bao nhiêu công sức của mọi người từ nãy đến giờ thành ra công cốc, miếng thịt đến miệng rồi còn bị chó tha mất hay sao? Nó sống mấy nghìn năm chắc là cũng quá đủ, người thầy vĩ đại của chúng ta chẳng phải từng , ý nghĩa của cuộc sống phải ở dài ngắn, mà là ở chỗ có giá trị hay đó sao? Nhưng suy nghĩ đứng đắn như thế chẳng thể nào rơi từ trời xuống được, tôi đành phải làm công tác tư tưởng cho nàng: “Sinh vật dưới đáy biển có rất nhiều loại sống dai sống lâu. Tôi thấy, nghìn năm vạn năm cũng chẳng có gì đặc biệt cả. Con trai này thực ra ăn thịt ngươi, chẳng qua cái vỏ hình răng cưa của nó khi kẹp phải chân người có chết cũng chịu nhả, xưa nay biết bao dân chài và dân mò ngọc mắc phải nạn này, nên người ta mới đặt cho nó cái tên nghe phát khiếp như thế thôi. Nghe Nguyễn Hắc , hình như ông ta trông thấy bên trong cái vỏ xà cừ này có người chết. Cả trăm năm nay ai dám đến trung tâm vực xoáy San Hô mò ngọc, biết bên trong là xác nhân ngư ở Nam Hải hay là thủy thủ của con tàu bị nạn nào đấy nữa. Nhưng mà, nợ máu phải trả bằng máu, chúng ta cứ nạy con quái này ra xem thế nào rồi tính sau.” Trong lúc chúng tôi chuyện, trời bắt đầu đổ mưa. Trời biển mênh mang thoắt cái tối tăm mù mịt, tuy giữa ban ngày ban mặt, nhưng chẳng khác nào lúc chập choạng tối cả. Mặt biển phía xa xa biến thành khoảng mịt mùng, chỉ có mấy cái phao tiêu lập lòe chớp sáng. Khốn nỗi, chúng tôi còn phải đợi đến khi nước triều dâng lên cao nhất lần nữa mới có thể rời khỏi nơi này, thời tiết có ác liệt mấy cũng chẳng cách nào ứng phó. May thay, đúng như Minh Thúc , cơn mưa tuy lớn , nhưng ảnh hưởng nhiều đến khí tượng biển, mặc biển vẫn phẳng lặng như cũ, điều này có lẽ ít nhiều liên quan đến tượng hải khí bùng phát hôm trước. Thời tiết vùng biển vực xoáy San Hô này khó dùng lẽ thường để xét đoán, trời đổ mưa như trút, vậy mà mặt biển vẫn cứ sóng yên gió lặng lạ thường. Chúng tôi cùng vào trong khoang lấy áo mưa mặc lên người, rồi quay ra xử lý con trai khổng lồ to như cái cối xay. Ánh sáng trong màn mưa rất mờ mịt, ảm đạm, tôi buộc phải cho chỉnh ngọn đèn pha công suất lớn gắn nóc khoang thuyền chiếu xuống, khiến màu trắng vỏ con trai ngọc càng ánh lên vẻ nhợt nhạt. Con trai lớn bị cẩu lên khỏi mặt nước vẫn chưa chết hẳn, nay được nước mưa tưới tắm lại rục rịch muốn động cựa, nhưng vỏ trai vẫn khép cứng, lộ ra dù chỉ khe hở . Đứng trước cái giống sống mấy nghìn năm này, tôi với Tuyền béo loay hoay biết nên bắt đầu từ đâu, chỉ lo may làm hỏng cái vỏ đẹp đẽ của nó đúng là mất oan cả núi tiền. Minh Thúc thấy bọn tôi định nạy vỏ con trai ra, cứ rối rít chạy xung quanh xem xem ngó ngó. Lão đoán chắc trong bụng con trai khổng lồ này kẹp con nhân ngư cực kỳ giá trị. Tôi chưa từng nghe chuyện Nam Hải có nhân ngư bao giờ, cho rằng thứ này chắc cũng giống giao nhân vảy đen bị chế thành nến trường sinh trong mộ Hiến Vương, bèn hỏi Minh Thúc xem hai thứ này có phải là hay . Minh Thúc lắc đầu, bảo giao nhân và nhân ngư là hai thứ hoàn toàn khác nhau, ác thiện, hình dáng lẫn tập tục sống cũng giống nhau. Nhân ngư thể phát ra thanh, thịt ăn được, còn giao nhân tính ác, có thể trồi lên mặt biển phát ra thanh hấp dẫn dụ hoặc người ta, thịt có độc ăn được, duy chỉ có cao chế từ mỡ nó có tác dụng làm dầu đèn trường minh. Những người biết rất dễ nhầm hai thứ này là , có điều, giao nhân vảy đen tuy rất hiếm thấy, nhưng dù sao cũng từng có người bắt được, còn “nhân ngư”, hoặc “ngư nhân” thực là thứ cực hiếm lạ đời, trăm năm khó gặp. Tương truyền, thịt nó thơm ngon gì sánh nổi, lại có thuyết , ăn thịt nhân ngư có thể trường sinh bất tử, chỉ có điều, bản thân Minh Thúc cũng chưa từng gặp ai được ăn thứ thịt ấy cả. Có lần, thời lão còn chạy tàu ở Nam Dương, thủy thủ bắt sống được hai con nhân ngư, từ bụng trở lên là hình người, khác gì người bình thường cả, thân dưới như đuôi cá, có thể dùng vây quẫy nước, ung dung bơi lội giữa sóng to gió lớn, lại gần xem, thấy toàn thân bao bọc trong lớp nhầy nhầy, mùi tanh tưởi cực kỳ khó chịu. Cả hai con nhân ngư bị bỏ vào thùng nước lớn, đám thủy thủ tò mò quây hết lại xem, nhưng chúng hề kinh hãi, vẫn bình thản bơi vòng quanh trong cái thùng gỗ. Bấy giờ Minh Thúc biết hàng, gặp phải tay thương nhân tàu muốn xuất tiền ra mua đôi nhân ngư phóng sinh, lão liền hạch món tiền lớn, rồi để tay kia mang nhân ngư mất. Sau này, khi biết giá trị của nhân ngư ở chợ đen châu Âu và Bắc Mỹ còn đắt gấp ba lần giá bạch kim, Minh Thúc mới biết mình hố to, lúc ấy chỉ biết giẫm chân vỗ ngực hối hận vô cùng. Chuyện qua mười mấy năm mà giờ nhớ lại lão vẫn thấy tức ngực khó chịu, rủa xả ngớt, tuôn ra hàng tràng những lời lảm nhảm kiểu như, năm đó mình tử tế quá, tốt quá, dễ tin người quá, bằng sao lại bị tên gian thương khốn kiếp chết băm chết vằm đó lừa cơ chứ... Lúc này, thấy có cơ hội bắt được con nhân ngư nữa, thử hỏi, Minh Thúc làm sao mà bừng bừng nhiệt huyết cho được? Minh Thúc vừa vừa chuẩn bị các thứ cần thiết, bảo, con trai này là sinh linh sống dưới đáy biển cả mấy nghìn năm, mấy nghìn năm là gì chứ? Dù là Tần Thủy Hoàng, Hán Vũ Đế chưa chết, sống mạch đến bây giờ, chưa chắc hơn tuổi con trai này đâu. Vì vậy, trước khi giết nó dĩ nhiên phải làm lễ tế Ngư chủ, đây là quy củ ngàn đời của các thủy thủ biển, làm theo trình tự cấm ai được ra tay, bằng tổn dương thọ chớ trách. Tuyền béo bỏ lỡ thời cơ xỉa xói Minh Thúc, vội lên tiếng bảo rằng: “Nguyễn Hắc chỉ trong vỏ con trai thấp thoáng thấy có người, chắc gì là nhân ngư. Dưới biển này có nhiều thứ hình dạng giống con người lắm. Những nơi gần biển gần hồ lớn ở trong nước, nơi nào chẳng hay diễn kịch về lũ trai lũ ốc thành tinh. Bọn tinh này thường biến thành các con xinh đẹp, dụ dỗ đàn ông trai tráng bắt ăn thịt, về sau có lão ngư ông vạch trần trò bịp của tinh, bắt nó phải hàng phục khiến người người đều hoan hỉ. Vậy nên, bên trong con trai này tôi thấy mười phần chắc tám là có nhân ngư rồi, có khi lại có tinh náu mình cũng nên, ai nạy vỏ con trai ra, nó nhảy ra thơm người ấy phát. Bác mau rửa cái bộ mặt già quắt queo của bác , đợi lát nữa là nó hôn bác đấy.” Minh Thúc quỳ trước lò hương mỏ vịt bằng đồng, mặc kệ nước mưa làm tắt hết cả hương khói, vẫn làm bộ thành tâm khấn khấn khứa khứa, nghe Tuyền béo nhăng cuội, ngoảnh đầu lại mắng: “Cái thằng béo chết tiệt nhà cậu lại xằng, đám trộm mộ chúng ta đào biết bao nhiêu cái mả rồi, chẳng lẽ còn tin mấy thứ ma quỷ đấy à? Các cậu phải vẫn bảo mấy thứ đấy là mê tín sao?” Mắng dứt lời, lão chẳng buồn để ý đến Tuyền béo nữa, giơ con dao cong chuẩn bị dùng để lách qua khe vỏ giết con trai lên, cung kính dập đầu lẩm nhẩm khấn nguyện. Tuyền béo thấy Minh Thúc tin, bèn lôi tôi với Shirley Dương về hùa chứng thực lời mình. Tôi bảo: “Tôi chưa xem kịch có ngư ông bắt tinh hóa thành thiếu phụ dâm ô ấy bao giờ. Cái loại kịch đó chẳng bao giờ được diễn chính thức cả đâu, toàn là đoàn hát rong đến các làng chài biểu diễn lúc dân chài nghỉ đánh bắt để lũ cá ngoài biển kịp sinh sôi nảy nở. Mấy đào hát đánh phấn tô son choe choét lên mặt, mỗi cánh tay buộc cái chảo to sơn màu trắng, trông như con gà đập cánh ấy, lúc diễn nhảy qua nhảy lại, ưỡn ẹo cợt nhả với ngư ông và đám trai tráng, ảnh hưởng rất là tốt, mà người xem còn có rất nhiều thiếu niên nhi đồng nữa…” Shirley Dương chưa nghe chuyện trai hóa thành tinh bao giờ, hiếu kỳ hỏi tôi: “ chưa xem bao giờ sao lại biết thế? Đến cả khán giả có nhiều trẻ con cũng biết, mà con trai thành tinh sao lại biến thành ?” Tôi đáp, chưa xem đâu có nghĩa là hiểu biết. Những chuyện ở nhà quê, chuyện gì tôi chẳng biết. Hồi trước khi nhập ngũ, tôi đây từng có lý tưởng thiêng liêng, chính là về nông thôn, nghiên cứu quy luật đấu tranh giai cấp để sau này khi triển khai cách mạng ra toàn thế giới mới có thể xây đựng đầy đủ nền móng chiến lược cho kế hoạch lấy nông thôn bao vây thành thị. Tại sao cách mạng thế giới phải theo con đường lấy nông thôn bao vây thành thị chứ? Bởi vì trong mắt chúng ta, Bắc Mỹ và Tây Âu chính là những thành thị lớn nhất, châu Á, châu Phi, châu Mỹ Latinh đều là nông thôn... Có điều chuyện này ra dông dài lắm, ta chuyện tại sao trai thành tinh lại hóa ra cơ mà. Hồi xưa, ở bên hồ Động Đình có truyền thuyết về Nàng Ốc, kể rằng: có gã ngốc lại còn nghèo rớt mồng tơi, nghèo đến nỗi nhà cửa có gì, chỉ có sức trâu quần quật đánh cá nuôi dưỡng người mẹ già bị mù. Cũng bởi vì nghèo quá mà thường đủ ăn, hai mẹ con chỉ được bữa đực bữa cái qua ngày. Sau này, gã ngốc kia bắt được con ốc lớn ở hồ Động Đình, thấy lạ bèn bỏ vào ang nước trong nhà nuôi. Té ra con ốc ấy thành tinh, biến thành nàng mặt hoa da phấn xinh đẹp tuyệt trần, cho gã ngốc kia lương thực thực phẩm, lại cho cả tiền, rồi còn giúp gã ta quét dọn nhà cửa, chăm sóc mẹ già. Ốc thành tinh với trai thành tinh đại để cũng cùng loại thôi. Nàng Ốc thành tinh ấy nhìn trúng gã ngư dân nghèo, cảm thấy gã ta thuần phác lương thiện cần lao dũng cảm gì gì đó, chung là con người có đầy đủ mọi mỹ đức của nhân dân lao động, cuối cùng quyết ý gả làm vợ gã. Cọc tìm trâu, chuyện tốt thế này, cả gã ngốc cũng biết nhận lời, vậy là từ đó trở hai người sống mãi bên nhau, cũng biết là nhà ấy có sinh ra quái thai quái dị gì hay nữa. Shirley Dương phì cười : “Đây hình như là truyền thuyết dân gian tuyệt đẹp mới đúng. Nhưng tôi cũng lấy làm lạ, nghe qua cái miệng kể lại chẳng thấy đẹp đẽ gì hết, ngược lại chỉ cảm thấy tức cười. Có phải thích châm chọc phá thối những thứ đẹp đẽ lắm phải ?” Tôi vội bảo, thế là đổ oan tày trời cho tôi rồi còn gì? Truyền thuyết Nàng Ốc ấy đẹp đẽ lắm hay sao? Đẹp đẽ chỉ là cái vỏ bề ngoài, còn bản chất của vật sao? Bản chất phía sau truyền thuyết đẹp đẽ ấy đáng để chúng ta đào sâu suy nghĩ hay sao? Những truyền thuyết đẹp đẽ kiểu như Nàng Ốc ấy nhiều kể xiết, thời trước giải phóng, nhân dân đều rất thích nghe, tại sao lại như vậy chứ? Đó là tại vì quần chúng lao khổ quanh năm ngày tháng đổ máu đổ mồ hôi, nhưng rốt cuộc tài sản làm ra đều thuộc về những kẻ khác, cả đời chăm chỉ cần mẫn, vậy mà vẫn phải lo ăn đói mặc rét, rốt cuộc vẫn phải sống cảnh nghèo, ăn no mặc ấm, dù có bệnh nặng bệnh cũng dám bỏ lỡ công việc, mồ hôi vừa ráo là có cái ăn rồi. Những người số khổ ấy có ai mong muốn tự dưng trời rơi xuống người vợ tốt, vừa xinh đẹp lại vừa hiền thục, lý tưởng nhất là giống như Nàng Ốc kia, chẳng những biết phép thuật biến ra gạo, biến ra tiền, biến ra tem phiếu đổi lương thực toàn quốc, chàng muốn ăn gì là biến ra cái ấy cho chàng xơi, thế nàng dâu xinh đẹp tuyệt trần lại còn có nhà mẹ đẻ, lòng dạ tòng phu sống đời thanh bần đạm bạc, có lấy chổi quét nhà ra đuổi cũng nhất quyết chịu . Bọn họ tất cả đều sẵn lòng tin những truyền thuyết mỹ miều ấy là , nhưng thực ra chỉ là dối trá, dối trá trần trụi trăm phần trăm, do đám vương tôn quý tộc cố ý bịa đặt để vẽ ra cho nhân dân lao động tương lai tưởng như quá đỗi xán lạn huy hoàng. Cứ làm , làm hộc máu mồm ra cũng chớ kêu mệt, cứ từ từ nín nhịn khổ nhục nghèo hèn cho qua ngày tháng, nhưng phải thành thực, được lười, được trộm, được cướp, lại càng được tạo phản, cũng được bất mãn với gốc gác gia thế và số phận mà ông trời sắp xếp cho ngươi. Ngươi cứ sống thành cần lao như vậy, tương lai nhất định có người vợ xinh đẹp chui từ trong vỏ ốc ra, đợi ngươi ở nhà. Hỏi nàng ta hình dáng thế nào à? Phi tử của hoàng đế hẳn cũng tồi rồi đúng ? Nhưng hồng phấn giai nhân khắp tam cung lục viện gộp lại cũng bằng cái gấu quần của nàng tiên Ốc đấy đâu. Nàng Ốc những xinh đẹp tuyệt trần, lại còn có gia tài khổng lồ, bảo bối dưới Long cung muốn lấy thứ gì cũng có, tấm lòng lại chỉ nghèo khó, ghét kẻ giàu sang, nhất tâm nhất ý muốn cùng tên ngốc nhà ngươi chịu khó chịu khổ, chắp cánh uyên ương. Thế chẳng phải gạt người ta là cái nước mẹ gì chứ? Tuyền béo nghe tôi xổ ra tràng toàn là cao kiến, nhịn được vỗ tay bôm bốp: “Tư lệnh Nhất cậu hay quá mất, phát là trúng phóc, mấy truyện cổ tích của nước ngoài phải chuyện công chúa cũng là hoàng tử, mà chủ yếu toàn là theo nguyên tắc môn đăng hộ đối, từ đây có thể thấy tác dụng đầu độc của câu chuyện Nàng Ốc kia là khủng khiếp. Mao chủ tịch từng , năm xưa dẫu có quan cao chức trọng đến mấy, giờ cũng chỉ là phân thổ mà thôi, chúng ta nhất định phải đào mả mấy cái bánh tông xưa kia từng dùng lời ngon lẽ ngọt lừa dối quần chúng lao động lên, cho bọn chúng biết, lừa của ông cái gì sớm muộn cũng phải ọe ra cái ấy!” Shirley Dương bị tôi làm cho tức nghẹt cả thở, giờ nghe Tuyền béo có ý rủ rê tôi trở lại nghề Mô Kim hiệu úy, vội lên tiếng nhắc nhở, bùa Mô Kim gỡ xuống rồi, làm sao làm Mô Kim hiệu úy được nữa? Sau này sang Mỹ, tốt nhất hãy nên chịu khó làm ăn hơn. Tuyền béo cười hì hì : “Dương tiểu thư, xưa nay tôi vẫn nghĩ là người thông minh, nhưng giờ phát so với tư lệnh Nhất nhà ta đúng là vẫn cùng cấp bậc rồi. Cứ nghĩ sau này phải sống với cậu ta, tôi đây lại khỏi lấy làm lo lắng thay cho đấy. Cái danh dự thanh cao với cả niềm tin sâu sắc vào giá trị nước Mỹ làm lú lẫn phát giác nổi cậu ta giở trò gì rồi. Tên Hồ Bát Nhất này mà là hạng thiện nam tín nữ ăn chay niệm Phật được sao? NO! Cậu ta chả phải ngọn đèn cạn dầu đâu, mà là hạng người mồm đầy lý lẽ, miệng trơn tuồn tuột như bôi mỡ đấy. Cậu ta mà muốn bỏ bùa Mô Kim Tuyền béo tôi đây mang đầu ra cho các vị đá bóng luôn nhé. Hừ đeo bùa Mô Kim lên cổ mà xem là rửa tay gác kiếm hả? Mà rửa tay rồi còn chân rửa đâu chứ...” Tôi thầm mắng cái thằng Tuyền béo này gì lại lôi chuyện này ra, phá hoại hình tượng tuân thủ kỷ cương phép nước mà tôi khó khăn lắm mới gây dựng được trong lòng Shirley Dương. Chuyện này vị tất biết, chẳng qua là muốn để cho tôi chút thể diện nên mới bươi móc ra thôi, cái thằng Tuyền béo kia cần gì phải lắm mồm chõ mõm vào. Nghĩ đoạn, tôi vội lảng , phân tán chú ý của cả bọn, vừa khéo lúc ấy Minh Thúc cũng bái tế Ngư chủ xong xuôi, định động thủ với con trai ăn thịt người, mới gọi chúng tôi lại giúp sức nên cũng tạm thời hàm hồ cho qua được cái vụ kia. Chỉ thấy Minh Thúc bước lên hai bước, chúc ngược con dao lưỡi cong, liên tiếp dịch chuyển vỏ trai, phát ra những chuỗi thanh ken két chẳng lành. Lưỡi dao này dài đến thước, thân cong, phát ra ánh sáng lạnh ghê người ngay cả trong mưa, chỗ đốc dao khảm đầu rồng mạ vàng, tay nắm có hoa văn dạng vảy. Món đồ này chúng tôi mua được từ tay Võ thọt đảo Miếu San Hô, là loại dao chuyên dùng giết trai lấy ngọc của các thủ lĩnh mò ngọc thời xưa, có lai lịch phải mấy chục đời rồi, số lượng trai ngọc chết dưới lưỡi dao cong bén ngọt ấy e khó mà tính nổi, nhưng dùng để xử lý thứ “xà cừ” nghìn năm tuổi này, hẳn mới là lần đầu. Chú thích [37] Bệnh do có bọt ni tơ trong máu và các mô (thường gặp ở thợ lặn và người thường xuyên làm việc trong đường hầm), triệu chứng là buồn nôn, khó cử động, khó thở, huyết áp tụt nhanh, đau khớp và ngực, rát da và chuột rút. [38] Thứ thanh: sóng thấp hơn tần số thấp nhất mà tai người có thể nghe thấy được.
Chương 23 Khinh núi chớ khinh biển ơn mưa lớn ầm ầm trút xuống mặt biển, bọn chúng tôi mặc áo mưa đứng boong tàu nhìn Minh Thúc tay cầm dao lưỡi cong chạm đầu rồng, xoèn xoẹt đưa qua đưa lại vỏ con trai khổng lồ. Dân mò ngọc thời xưa chỉ biết dựa vào nghề xuống biển tìm ngọc trai để mưu sinh, thường tự xem mình là đồng loại với giống ngư long, sở dĩ cũng vì nghề mò ngọc quá nguy hiểm, muốn ghép thêm chữ “long” vào để các loài cá dữ dưới biển làm hại. Con dao này chuyên dùng giết trai lấy ngọc, cũng có tác dụng chiến đấu lúc lặn dưới nước, được gọi là “long hồ đao”, nhưng vì thời xưa chỉ có hoàng đế mới được ví với “long”, dân mò ngọc dùng chữ “long” là phạm húy, nên người bên ngoài đều biết đến danh xưng này, mà bọn họ cũng bao giờ dám cho người khác xem long hồ đao của mình. Ông cậu của Minh Thúc năm xưa xuất thân từ dân mò ngọc, vì vậy lão ta rất quen thuộc với các loại tập tục cũng như tiếng lóng của hạng người này. Tôi và Tuyền béo thấy lão ta cứ cầm con dao chọc chọc cái vỏ trai, lẩm bà lẩm bẩm đọc bùa chú cứ như lão thầy cúng làm pháp siêu độ trước khi hành hình người ta, đều lấy làm tức cười. Minh Thúc lại quở trách chúng tôi hiểu cái lợi hại bên trong, đổ đấu và mò ngọc đều là nghề truyền thống, ngành nào chẳng có quy tắc riêng. Quy tắc hành nghề đổ đấu có vô số, chẳng ai tránh khỏi phạm phải hai điều, nhưng, phạm cứ phạm, chỉ cần mạng lớn phước lớn, chưa chắc phải mất mạng. Riêng nguy hiểm mà dân mò ngọc phải đối mặt ở biển so với Mô Kim hiệu úy lên núi đào mồ trộm mả lớn hơn biết bao nhiêu lần mà kể. Thường có câu, “khinh núi chớ khinh biển, lừa trời đừng dối biển”, mộ cổ trong núi niên đại cổ xưa đến mấy cũng chưa chắc bằng tuổi thọ của số loài thủy tộc dưới đáy biển sâu. Nếu có lòng kính sợ biển cả, ở biển mà cứ tùy tiện vọng động có mười cái mạng cũng đủ mà chết. đời này, kẻ làm nghề chạy tàu đánh cá mò ngọc nhiều như lông trâu, vậy mà nào có ai dám bất kính với hải thần đâu. Tôi cho là vậy, kinh nghiệm mấy năm làm Mô Kim hiệu úy cho tôi biết, quy củ “gà gáy đèn tắt mò vàng” của Mô Kim hiệu úy tuyệt đối chẳng phải thứ mê tín dị đoan gì, chẳng qua là đám người phàm tục hiểu được ý tứ cốt lõi của nó nên mới hiểu lầm mà thôi. Có điều, lúc này cũng tiện nhiều, tôi chỉ nhắc Minh Thúc mau ra tay để mọi người xem thử, bên trong rốt cuộc có phải náu con trai thành tinh đáng ghét chuyên lừa gạt những tình cảm tốt đẹp của nhân dân lao động hay ? Shirley Dương muốn nhìn thấy cảnh đổ máu, bèn ra phía mũi tàu tiếp ứng cho thầy trò nhà Nguyễn Hắc. Trước lúc , gọi tôi lại: “ Nhất, chúng ta ra chỗ mũi tàu kia được ? Tôi có mấy câu muốn với .” Tôi thầm than ổn, chắc chắn là thằng Tuyền béo vừa nãy nhỡ mồm, giờ Shirley Dương muốn truy vấn tôi xem rửa tay với rửa chân có gì khác biệt đây. Tôi sợ nhất nhắc đến chuyện này, vội tóm lấy sợi dây trói con trai ăn thịt người boong sau, lắc đầu nguầy nguậy : “Minh Thúc với Tuyền béo làm sao xử lý được con trai to vật thế này? Tôi phải giúp bọn họ tay, có gì ở đây cũng được, giờ có chết tôi cũng đâu hết cả.” Shirley Dương nhìn tôi với ánh mắt thất vọng, rồi mình đội mưa ra chỗ mũi tàu. Tôi nhìn theo bóng lưng mà thở phào nhõm, xem chừng cái bùa Mô Kim này của tôi rốt cuộc cũng giữ được rồi, có điều, chỉ cần lần này kiếm được đủ vốn liếng, sang Mỹ làm ăn nghiêm chỉnh tử tế thà cũng được. Dù gì đời này cũng còn bao nhiêu người cần tôi nuôi sống, thiếu gì thiếu, chứ tuyệt thể thiếu tiền, chỗ khó của mình cũng chỉ có mình biết mà thôi. Nghĩ đến ánh mắt của những đồng đội hy sinh ngay bên cạnh mình nơi tiền tuyến, người nhà của họ ở quê vẫn sống nghèo sống khổ qua ngày, tôi làm sao an tâm mà cho đành? Đầu óc tôi rối loạn mất lúc, đợi khi định thần lại Minh Thúc niệm xong bài chú dài dằng dặc của lão, giờ dùng lưỡi dao cong nạy khớp nối giữa hai mảnh vỏ trai, nghe phát ra những tiếng trong vắt, như thể theo tiết tấu nhất định nào đó, con trai khổng lồ bị thôi miên, khe khẽ nhích động, ngờ hai nửa vỏ lại có thể tự tách ra khe hở . Tôi và Tuyền béo nhìn mà chỉ biết há hốc miệng, mãi hồi lâu mới ngậm lại được: “Chiêu này ngờ lại có công dụng khác gì bài ‘Khai quan chú’ thất truyền nhiều năm của Mô Kim hiệu úy, nghe , gặp phải quan đồng quách sắt gì cũng chỉ cần niệm đủ trăm lần bài ‘Khai quan chú’ ấy, cần động tay động chân cũng có thể thăng quan phát tài rồi. Mà sao bác mới nạy nạy có vài cái, con trai nghìn năm tự buông súng đầu hàng rồi thế?” Minh Thúc lộ vẻ đắc ý, phương pháp cổ này lão cũng mới dùng lần đầu tiên, ngờ lại có hiệu quả kỳ diệu thế, xem ra đúng là có Long vương bảo hộ, con trai lớn này coi như phần thưởng cho dân mò ngọc rồi. Tôi và Tuyền béo đều xuýt xoa tán thưởng Minh Thúc thủ đoạn cao minh: “Tiên sư nhà bác, bác làm chúng tôi phải thấy kính nể rồi đấy.” Xem chừng, các ngón nghề của dân mò ngọc thời xưa truyền lại, quả đều có đạo lý riêng cả. Ba chúng tôi đều hết sức hưng phấn, trong màn mưa mù mịt, chỉ thấy từ khe hở trắng nhợt giữa hai miếng vỏ của con trai ăn thịt người bắn vọt ra tia sáng vàng chói lóa, hoa hết cả mắt. Cũng may, Tuyền béo nhanh tay nhanh mắt, giơ ngay mũi kim tiêm có thuốc mê cực mạnh chọc vào khe hở ấy, làm con trai đau đớn run lên bần bật, chỉ trong chớp mắt tê liệt toàn thân, nhúc nhích gì được nữa. Chúng tôi vội dùng kích chống hai miếng vỏ trai lên, chỉ thấy mùi biển tanh nồng xộc vào mũi, dưới làn mưa u ám, ánh sáng bên trong vỏ trai lóe lên rực rỡ chói mắt, chiếu xa đến cả trăm bước mặt biển mênh mang. Chúng tôi chưa kịp nhìn là cái gì, Minh Thúc cuống quýt giật bung áo mưa mặc người, che chắn luồng ánh sáng chói lòa đó, vẻ mặt hết sức phức tạp, vừa kinh hãi lại vừa mừng rỡ. Tuyền béo sốt ruột hỏi: “Sao thế? Bên trong là nhân ngư hay là ốc tinh vậy?” Minh Thúc vuốt mặt, tuy toàn thân ướt sũng nước mưa, nhưng trong lòng lão bốc hỏa, miệng khô khốc, phải nuốt mấy ngụm nước bọt mới thốt lên lời được: “Mỹ nhân ngư cánh ngọc vảy vàng, thể sai được, xem chừng chết trong miệng con trai khổng lồ này nhiều năm lắm rồi. Quả này phát tài to con mẹ nó rồi, còn đáng tiền hơn cục kim cương to đúng bằng nó ấy chứ...” tới đây, lão nghẹn giọng nấc lên, nước mắt nước mũi chảy ròng ròng: “Ngư chủ Long vương Thiên hậu nương nương cao có mắt, cho Lôi Hiển Minh có được ngày hôm nay, bắt được tổ của thanh đầu dưới biển sâu... đời này con sống đủ rồi, dẫu có chết ngay lập tức cũng uổng...” Tôi vội bịt ngay mõm lão ta lại, nhăng bậy, cái gì mà chết cũng đáng chứ? Vừa mới vớt được dị bảo dưới đáy biển, giờ mà chết mới gọi là ngàn vạn lần đáng. Minh Thúc sực hiểu ra, cật lực tự vả luôn hai phát, ngừng lẩm nhẩm khấn nguyện, bảo những lời vừa toàn là đánh rắm, tính chữ nào cả. Tôi và Tuyền béo chẳng buồn để ý đến cái lão Minh Thúc kiểm soát nổi cảm xúc bản thân ấy làm gì, cùng chui đầu vào trong lớp áo mưa che con trai, định nhìn cho kỹ xem cái gọi là “tổ của thanh đầu” kia là gì. Nhưng vừa mở mắt, ngoại trừ kinh ngạc ra, bao nhiêu ý nghĩ có trong óc lập tức bay biến đằng nào. Tôi vốn tự cho rằng mình gặp vô số kỳ trân dị bảo trong các mộ cổ, nhưng tất cả những thứ ấy gộp lại, e cũng cách gì so được với bảo vật trong cái vỏ trai trước mắt này. Chỉ thấy trong đám thịt trai vẫn khe khẽ nhu động có con quái ngư to như đứa trẻ. Con cá ấy đầu người, thân phủ vảy lấp lánh. là “đầu người”, nhưng kỳ thực chẳng qua chỉ là cách ví von hình tượng thôi, vì so với đầu người quá sức khác biệt. Con cá nhìn na ná quái thai còn non, vây lưng và vây hai bên lườn cá tựa hai cánh tay ngọc trong vắt, sắc vàng của vảy cá sáng chói lóa cả mắt. Tôi phát , con cá này hóa sừng từ nhiều năm trước, sở dĩ vẫn phát sáng được là bởi trong khuôn miệng he hé của cái đầu trông như đầu kia lộ ra nửa hạt minh châu, linh khí dạt dào, khiến vảy vàng vây ngọc sáng lòa, ai có thể nhìn thẳng vào được. Tôi chỉ nhìn thoáng cái mà mắt hoa đầu váng, vội dụi dụi mắt, che áo mưa lại, hỏi Minh Thúc xem con quái ngư đầu người ấy sao lại thành ra như thế? thể nào tưởng tượng nổi, rốt cuộc giá trị của nó lớn chừng nào? Minh Thúc thứ này quý giá lắm, thực là món kỳ trân của thiên địa. Cứ thử nghĩ, con trai này phải mất bao nhiêu năm mới ngậm được viên ngọc hóa từ thứ vô hình thành thực thể như vậy chứ? Chúng tôi cũng từng nghe đến câu, trăng là tinh hoa của nước, ngọc châu là tinh hoa của mặt trăng, viên linh châu này chính là do con trai hấp thu tinh hoa của mặt trăng hàng bao nghìn vạn năm mới thành được. Ở dưới đáy biển, những đêm trời trăng, lũ trai ốc đều ngậm ngọc khư khư nhả, nhưng gặp lúc trăng tròn rạng rỡ, nhả ngọc giỡn trăng, khiến thủy tộc đua nhau kéo đến. Chắc chắn, đêm trăng tròn của trăm năm trước, có con nhân ngư bị hạt minh châu của con trai này thu hút, lẳng lặng tiếp cận, lao vào khoang miệng con trai với tốc độ sét đánh kịp bưng tai, đớp viên ngọc rồi quẫy đuôi định dông thẳng. Dân mò ngọc gọi hành vi này của lũ thủy tộc là “đoạt đan”. Con nhân ngư tuy giỏi quẫy nước đạp sóng, nhưng dẫu nhanh đến mấy cũng bì được với tốc độ con trai khép miệng, liền bị đối phương giữ lại cái mạng. Nhưng tại sao trải qua bao nhiêu năm như thế mà xác nhân ngư tan, ngược lại còn hóa thành chất sừng trong suốt như ngọc? Chính là nhờ vào Nam châu trân quý vô ngần, từ xưa có tên gọi là “Trú nhan châu”, người chết ngậm vào, thi thể thối rữa, ủ lâu ngày biến thành sáp khô. Thứ ngọc này mới chính là minh khí hàng đầu trong các mộ cổ. Nhân ngư “đoạt đan” cướp linh châu, rồi bị chôn thây trong miệng con trai khổng lồ, con trai nỡ bỏ hạt châu bao năm mới kết được thành hình, cuối cùng tạo nên cục diện “trai nuốt cá, cá nuốt ngọc”, chuyện cũng là lẽ thường tình, hề khó suy đoán chút nào. Giống nhân ngư vảy vàng vây ngọc chỉ có ở trong hải nhãn này xưa nay hiếm gặp, lại được bảo tồn hoàn hảo như thế trong miệng con trai, trong miệng còn ngậm viên Trú nhan châu, cứ thế tính ra, giá trị của nó hẳn phải bay vút lên mấy tầng trời cao ấy chứ. Tôi và Tuyền béo cả mừng, chuyến này mười cái du thuyền cũng có, hai thằng vội lấy nệm dày cẩn thận bọc kín cái xác nhân ngư, khiêng vào khoang đáy cất kỹ. Lúc trở ra mấy người nhà Nguyễn Hắc từ dưới đáy biển nổi lên, nhìn nét mặt là biết thu hoạch của lần lặn xuống thứ hai hề . Minh Thúc còn muốn xẻo hết thịt trai, lấy hai mảnh vỏ xà cừ mang về bán. Nhưng tôi biết Shirley Dương muốn chúng tôi sát hại con vật sống cả nghìn năm này, bèn ngăn lại, với cả bọn: “Con trai này sống nhiều năm như thế, biết trải qua bao nhiêu biến cố long trời lở đất dưới biển rồi, sống được đến ngày nay phải chuyện dễ dàng gì, chi bằng chúng ta phóng sinh cho nó hơn. Chính sách của chúng ta là khoan hồng độ lượng, nó hiến báu vật, ta hé góc lưới tha cho nó cũng là lẽ thường tình. Vả lại, lần này vớt được rất nhiều đồ tốt, dẫu thiếu cái vỏ trai, công sức coi như cũng được đền đáp hậu hĩnh rồi, chúng ta ra biển mò được ít báu vật của Nam Hải, nhưng đồng thời cũng làm tổn hại đến linh khí của trời đất, làm gì cũng phải giữ đường lui, chớ có tuyệt tình quá, tránh để sau này lại xảy ra việc gì ngoài ý muốn.” Shirley Dương hết sức tán đồng, chỉ Tuyền béo và Minh Thúc là có vẻ hoan hỉ lắm, đằng nào cũng bái tế Ngư chủ rồi, có lẽ nào lại thả nó về biển khơi chứ? Tuyền béo bèn nghĩ ra chiêu độc, giật con dao lưỡi cong của Minh Thúc, khắc mấy hàng chữ lên vỏ trai, ghi quyền sở hữu: “Mô Kim hiệu úy kiêm chuyên gia mò ngọc Vương Khải Tuyền dẫn theo các thuộc hạ đến nơi này, chúng ta đứng chỗ cao nhìn chỗ xa, lòng ôm tổ quốc mắt dối hoàn cầu, giờ đây có việc gấp phải bôn ba sang Mỹ kiếm tiền, tạm thời lưu con trai khổng lồ này lại đây, đợi khi cách mạng thế giới thành công quay về vớt lên bán lấy tiền, kẻ nào chưa được chúng ta cho phép mà vớt vật này lên, nhất định bị trời đánh, chết chốn chôn thây giữa biển. Ngày... tháng... năm...” Bấy giờ mới ném con trai to bự chỉ còn thoi thóp chút hơi tàn ấy xuống nước, mặc cho nó tự tìm đường sống. Con trai mất linh châu, thực chẳng khác nào phượng hoàng bị vặt trụi lông, vội vàng lặn xuống đáy sâu lẩn mất. Sau đấy, cả bọn bắt đầu kiểm lại thu hoạch sau hai lần lặn, tổng cộng được ba mươi hai viên minh châu, thêm cái xác nhân ngư ngậm ngọc, cỗ quan tài cổ bằng “thạch kính”. Mấy thứ ấy, đem bày trong khoang đáy, liền tỏa sáng lung linh, khiến người ta có cảm giác như thể ở chốn Long cung. Có điều bọn tôi cũng dám ngắm nhìn lâu mà nhanh chóng cất giấu, thứ nhất là sợ những thứ châu báu này rời khỏi môi trường đáy biển mất linh khí, thứ hai là các bảo vật đó, thứ nào cũng là tinh hoa của biển, bảo khí xung thiên, bày lồ lộ ra, chỉ sợ kình ngư, hải thú dưới biển liều mạng nổi lên tranh đoạt. Khinh núi chớ khinh biển, những thứ dưới biển tốt nhất cố gắng dây dưa vào hơn. Lúc này, sắc trời ngả về hoàng hôn, Minh Thúc lên khoang lái quan sát tình hình mặt biển, những người khác vào trong khoang ăn cơm. Nguyễn Hắc và hai đồ đệ đều mệt rũ, nhưng Nguyễn Hắc bảo, những dân mò ngọc chuyên nghiệp như bọn họ vốn là cầm tinh con cá rồi, ở dưới nước lâu mấy cũng chịu được, chỉ cần nghỉ ngơi chút là khỏe, đợt lát nữa ăn cơm xong nhân lúc có sóng lớn, còn có thể xuống mò thêm lần nữa, hai chuyến đầu tiên chẳng qua mới chỉ lấy ngọc của đám trai ốc xung quanh cây san hô thiết thụ kia, mà trong khu rừng đáy biển ấy còn rất nhiều cây như thế, thời cơ sau này khó mà gặp lại được thể để lỡ, giờ nguồn cung Nam châu thế giới cạn kiệt từ thời nhà Thanh rồi, chúng ta gặp được đúng thời gian mức nước triều xuống thấp thế này, nhất định phải xuống mò cho sướng tay đời. Tôi nghe ông ta mà khỏi thầm kinh hãi, hồi trước vẫn cho rằng đám dân mò ngọc cũng dựa vào tay nghề đem tính mạng ra đánh cược này khác gì Mô Kim hiệu úy chúng tôi cả, giờ coi như biết nhau rồi, xem ý tứ của Nguyễn Hắc chừng như mò hết Nam châu, quyết dừng tay, dẫu có mất mạng cũng chẳng để tâm. ra, khác biệt giữa dân mò ngọc và Mô Kim hiệu úy chính là ở chữ “tham” này. Mô Kim hiệu úy tuy mạo hiểm cầu tài, nhưng vẫn có quy tắc “gà gáy đèn tắt mò vàng” và “ba lấy ba lấy”. thực tế, những quy tắc ấy đặt ra chẳng phải vì tôn trọng vong linh mộ chủ hay gì gì cả, mà chẳng qua chỉ là cố gắng để mình trở nên quá tham lam. Tự cổ chí kim, những kẻ xấu xa chuyên đào mồ quật mả người ta nhiều kể xiết, thử hỏi có bao nhiêu tên trộm mộ chỉ vì chữ “tham” này mà mất tính mạng chứ? phải vì đủ trí tuệ, cũng chẳng phải vì kỹ thuật kém người, mà chỉ bởi chữ “lợi” làm mê muội tâm thần. Lòng tham đáy, chính là nguồn gốc của tai họa, là căn nguyên của thất bại. Mô Kim hiệu úy xưa nay vẫn luôn biết dừng đúng thời điểm, giữ cho mình đường lui và đầu óc tỉnh táo, còn mạng mới hưởng được giàu sang, mất mạng rồi hết thảy chỉ là hư mà thôi. Nhưng dân mò ngọc biển, vốn là những người bị bóc lột tàn khốc nhất trong lịch sử khác. Thời xưa, bọn họ chịu giám sát cực kỳ nghiêm ngặt, nếu quan binh nghi ngờ kẻ nào nuốt Nam châu ở dưới nước hòng che giấu, lúc trồi lên thậm chí có thể bị rạch bụng moi ra. Sinh tồn trong hoàn cảnh khắc nghiệt như thế, dân mò ngọc thành ra toàn những kẻ sống chỉ biết hôm nay mà biết ngày mai, trình độ giác ngộ đương nhiên sánh được với các cao thủ đổ đấu mò vàng tinh thông Dịch lý, hiểu được lẽ “sinh sinh bát tức” như chúng tôi. Vì vậy, quy củ của dân mò ngọc chính là bất chấp tính mạng, chỉ cần mò được ngọc. Nhìn ánh mắt sôi sục nhiệt huyết mà mệt mỏi của Nguyễn Hắc, tôi có cảm giác dường như ông ta chẳng đếm xỉa gì đến những nguy cơ dưới nước, dù có mắc bệnh khí ép mà chết cũng chẳng hề tiếc cái mạng già chút nào phải. Xem ra mạng người tuy quan trọng, nhưng mò ngọc còn quan trọng hơn, vả lại đến giờ ông ta cũng chưa số hàng trong khoang tàu của chúng tôi có thể đem lại biết bao nhiêu tiền. Có thể , Nguyễn Hắc này chưa từng thấy nhiều tiền bao giờ, chẳng có khái niệm gì về tiền bạc hết, như Minh Thúc cáo già kia, rành rẽ giá cả thị trường, biết thứ nào giá trị thứ nào . Tóm lại, Nguyễn Hắc chỉ biết mò được càng nhiều ngọc thu được càng nhiều tiền mà thôi. Tôi biết nên giải thích đạo lý thể quá tham lam này với Nguyễn Hắc như thế nào, đành dùng biện pháp mạnh với ba thầy trò nhà họ, trong rãnh sâu dưới đáy biển có ngư long, lúc này trời mưa lớn, đến tối nước triều dâng cao, con rắn biển nấp dưới đáy sâu nhân lúc mây mù mà nổi lên mặt biển, lặn xuống mò ngọc chẳng phải là tự đâm đầu vào chỗ chết sao. Còn ai muốn tự tiện xuống nước, con bà nhà nó, đừng trách thằng Nhất này trở mặt nhận người nhé. Chuyến này ra biển vật tư đều do chúng tôi cung cấp, phương pháp tiến vào vực xoáy San Hô cũng do chúng tôi nghĩ ra, trắng ra mấy tên Mô Kim hiệu úy bọn tôi mới là ông chủ, dân mò ngọc các ông chỉ làm thuê thôi, kể từ bây giờ trở , tôi gì, ông phải nghe đấy. Có điều, cứ nghĩ đến chuyện tiền mua tàu là của Shirley Dương xuất ra, Ti thiên ngư, Khôi tinh bàn giúp chúng tôi có thể tiến vào vùng vực xoáy San Hô, rồi cả thuật “Dưa trôi dụ cá” cũng do tổ sư Ban Sơn đạo nhân của truyền xuống, tôi cũng hơi ngượng mồm khi ra mấy lời này, bèn liếc trộm Shirley Dương cái. Thấy khe khẽ gật đầu với mình, tôi lập tức vững dạ hẳn lên, mắng cho ba thầy trò nhà Nguyễn Hắc chặp, im thin thít còn gì để , đành phải nghe theo sắp xếp của tôi, từ bỏ ý định mò ngọc khi tối trời. Sóng gió vô tình, tôi định kiếm đủ rồi là đánh trống thu quân, nhưng lại chưa tìm thấy xác tàu Mariana, đâm ra rất khó xử. Nếu thời tiết ban đêm cho phép, tôi bàn với cả hội, định sử dụng chuông lặn thăm dò thêm mấy khe sâu dưới đáy biển nữa, chỉ cần chụp được bức ảnh thôi là cũng có cái ăn với giáo sư Trần rồi. Đúng lúc này, Minh Thúc ở khoang lái đột nhiên phát tín hiệu qua ống đồng truyền : “Mau lên này, nguy cấp lắm rồi, hỏa cháy lên mặt biển rồi đây này!”
Chương 24 lối ra m hỏa cuối cùng cũng xuất rồi. Nghe thấy tiếng gọi của Minh Thúc trong ống truyền , tôi vội ba chân bốn cẳng chạy ra phía mũi tàu, chỉ thấy biển mù mịt mây đen, mưa lớn vẫn đổ sầm sập như trút, cách chỗ chúng tôi xa lắm, nước biển đen nghịt bỗng nhiên sôi trào cuồn cuộn, đáy biển bừng lên, ánh sáng chói lóa cả mắt. Dưới đáy biển, ngọn lửa chia làm mấy đường, những cuộn khói đen nghìn nghịt xông lên tận trời cao. Nước biển ở những chỗ có hỏa bị đốt sôi sùng sục, bọn thủy tộc bị lửa thiêu đốt chết vô số, xác nổi lềnh phềnh mặt nước. Khói đen của long hỏa dưới đáy biển làm bầu trời vốn u ám càng thêm tối tăm mù mịt. Trái lại, dưới mặt nước ánh lửa lấp lóa, từng quầng hỏa nóng bỏng, tựa như dưới đáy biển cùng lúc dâng lên mấy vầng trăng, chiếu sáng cả vùng u tăm tối. Bọn tôi ở tàu, trông thấy cảnh tượng như thế giới sắp bị hủy diệt ấy, lông tóc dựng ngược hết cả, trong lòng dâng lên cảm giác lạnh lẽo khôn cùng. Để lợi dụng lúc nước triều dâng, tiến vào vực xoáy San Hô, chúng tôi chọn thời gian vào khoảng trước sau ngày mười lăm lịch, chính là lúc trăng tròn, ngờ thời cơ xảo hợp thế nào, lại được tận mắt trông thấy long hỏa như ngọn lửa chốn luyện ngục A Tỳ thiêu đốt đáy biển. Những quả cầu lửa dưới đáy biển dâng lên nuốt chửng mọi đàn cá ở xung quanh chúng, những con may mắn sống sót cũng bị bỏng rát, quằn quại nhảy lên khỏi mặt nước, cả vùng biển chìm trong bóng đen chết chóc. Long hỏa chỉ cháy dưới biển, rời nước là lập tức tắt ngay, vả lại, thứ hỏa còn được gọi là “long đăng” trong thuật phong thủy này, tuy thế lớn kinh người, nhưng xưa nay thoắt đến thoắt , trong nháy mắt là biến mất ngay. Tôi biết, loại dị tượng này chỉ có ở những nơi dư mạch của Nam Long, là do hải khí của Nam Long ngưng kết mà thành, những tượng kiểu như núi lửa hay khí đốt phun trào dưới đáy biển thể so sánh nổi. Cứ nhìn thế lửa dưới đáy biển này là biết người thủy thủ may mắn sống sót tàu Mariana kia sai, con tàu đắm mang theo Tần Vương Chiếu Cốt kính ấy nhất định là chỉ ở quanh đây mà thôi. Những điều chúng tôi biết về hỏa chẳng qua chỉ là cái vỏ bề ngoài, đấy mới là lần đầu tiên được tận mắt trông thấy, căn bản biết nó lợi hại thế nào. Có điều, lúc này tuy tình thế kinh hiểm vạn phần, song cũng chính là cơ hội nghìn năm khó gặp, tôi vội lấy Ti thiên ngư Khôi tinh bàn ra, ghi lại vị trí của mấy ngọn hỏa, bên khoang lái, Minh Thúc cũng liều cái mạng già, cố gắng lái tàu tránh xa vùng biển lửa cháy rừng rực. hỏa ở vực xoáy San Hô này đa phần tập trung ở mé Đông đảo u linh, tàu chúng tôi ở mé phía Tây nên tương đối an toàn, mà rừng san hô cũng đều tập trung ở mé phía Tây này cả. Trải qua thăm dò sơ bộ, tình hình đáy biển bên mé Đông phức tạp hơn rất nhiều, độ sâu ít nhất cũng gấp đôi khu vực rừng san hô, lại có nhiều động biển, rãnh biển, chúng tôi vẫn chưa kịp dùng chuông lặn xuống thăm dò kỹ hơn, phỏng chừng, mười phần chắc đến tám chín là tàu Mariana bị đắm ở phía mé Đông đảo u linh rồi. Ánh lửa cháy ngầm quả nhiên chỉ như hoa quỳnh thoáng nở tàn, vừa bùng lên được giây lát ảm đạm , rồi trở về với hư . vùng trời nước mênh mang mất ánh lửa lạnh, lập tức trở nên tối đen như mực, chỉ có mưa lớn vẫn cứ trút rào rào. Tôi hỏi Minh Thúc và Nguyễn Hắc, nếu phán đoán dựa kinh nghiệm biển của họ hải tượng đêm nay thế nào? Hai người đó đều là thủy thủ dạn dày kinh nghiệm, mực khẳng định, đừng nhìn hỏa thiêu đốt đáy biển mà nhầm, tình hình có dấu hiệu gì của gió thế này, đảm bảo trong hai ngày tuyệt đối thể có sóng to gió lớn, tàu ở trong vùng biển này vẫn tương đối an toàn. Shirley Dương cũng nhận định tạm thời sợ trời nổi gió lớn, có gió dĩ nhiên có sóng lớn, những con sóng khổng lồ có thể quật vỡ cả thân tàu là sát tinh của ngành hàng hải, nhưng vẫn phải đề phòng những tượng đặc thù như nước biển đột nhiên dâng trào cục bộ, hay bắt gặp ảo ảnh do nhiệt độ nước và khí chênh lệch quá lớn gây ra, chẳng hạn như nhìn thấy những hòn đảo và tàu bè lơ lửng . Tôi bàn bạc với cả hội lúc, mọi người đều cho rằng đây là cơ hội cực tốt, cuối cùng quyết định cho tàu chạy vòng qua đảo u linh sang mé phía Đông vực xoáy San Hô thăm dò tung tích của con tàu đắm. Vậy là, toàn bộ đèn pha công suất lớn tàu Chĩa Ba được bật sáng rực, con tàu lừng lững tiến lên giữa vùng biển tối đen, chầm chậm vòng qua đảo đá ngầm màu đen. Hòn đảo này trông như cái bát úp, đỉnh núi hình chóp tù lộ lên khỏi mặt nước cao chưa đến mười mét, nhưng dốc nghiêng rất rộng, nhìn như sống lưng của con cá voi khổng lồ nổi lên mặt nước. Khi tàu lại gần, ánh đèn pha chiếu lên, đảo đá trông càng uy thế bội phần, đè nặng lên tâm trí chúng tôi cảm giác vô cùng tăm tối. Tôi định kéo bọn Cổ Thái, Tuyền béo ra phía sau chuẩn bị chuông lặn đột nhiên thân tàu rung lên chặp. Mặt biển lặng gió, nổi sóng, đột nhiên lại rung lắc dữ dội bất bình thường. Minh Thúc và Nguyễn Hắc vội bỏ mũ áo mưa ra, thò đầu ra ngoài mạn thuyền, cầm đèn pin kiểm tra tình hình, lo nhất là nước triều xuống thấp quá, tàu va phải đám đá ngầm. Bọn tôi còn chưa kịp xem rốt cuộc xảy ra chuyện gì, phía trước bỗng sáng bừng, tầm nhìn rộng mở, cơn mưa lớn thình lình tạnh ngắt. ra, long hỏa dưới đáy biển bốc lên làm tan biến mây mưa. vầng trăng rờ rỡ giữa trung, lơ lửng ngay đỉnh đầu chúng tôi. Trăng sáng như ban ngày, chiếu rọi khắp vùng biển lớn. Trong khu rừng dưới đáy biển phía sau tàu chúng tôi, hằng hà sa số con trai hé mở hai mảnh vỏ cứng, nhả minh châu, tranh thủ hấp thu khí tinh của ánh trăng. Ánh trăng trời hòa lẫn cùng ánh sáng của minh châu dưới đáy biển. Trong ánh sáng bàng bạc thấm đẫm gian ấy, vô số xác cá vừa bị long hỏa đốt cháy nổi lềnh phềnh mặt nước. bầu khí kỳ dị bao trùm lên tất thảy. Tàu của chúng tôi vẫn lắc lư ngừng, liên tục trồi lên hụp xuống khiến ai nấy càng thêm căng thẳng. Linh cảm sắp xảy ra tai họa dâng ngập trong tâm thức tôi. Shirley Dương phát ra tình huống đầu tiên: “Mau lùi lại! Hải lưu ở đây rất dị thường!” Shirley Dương vừa dứt lời, cảnh tượng cực kỳ đáng sợ đập ngay vào mắt cả bọn. Hằng hà sa số hải động lớn mặt biển, vầng trăng sáng rực rỡ cũng cách nào soi tỏ tận đáy những xoáy nước đen ngòm. Tàu Chĩa Ba giữa hai xoáy nước, rung lắc dữ dội do sức tác động của hai luồng nước ngầm từ hai hướng khác nhau xô tới. “Hải động” hay còn được dân chài và dân mò ngọc gọi là “lỗ biển”, là tượng những hố sâu lớn đột nhiên sinh ra dưới đáy biển, tạo thành các xoáy nước đổ ngược xuống dưới, tàu bè vô ý bị cuốn vào trong xưa nay đều khó thoát đại nạn. Hải động và hải nhãn là hai thứ hoàn toàn khác nhau. Tương truyền, hải nhãn, hay còn được gọi bằng tên “Quy Khư”, là hang động khổng lồ giữa trời đất. Nước trong thiên hạ cuối cùng đều đổ về nơi này. Hải nhãn là thứ tồn tại cố định vĩnh hằng, nhưng ai biết nó có thực đúng như mô tả trong truyền thuyết hay . Còn hải động có thể lớn, có thể , lúc có lúc , là tượng xoáy nước hình thành sau khi hải khí ngưng tụ bốc lên, nước biển dồn vào bù lấp khoảng chân vừa sinh ra. Hải động cũng có thể sinh ra do động đất hay nứt lở, sụt lún dưới đáy biển. Chúng tôi nhìn những xoáy nước liên tiếp xuất mặt biển, hoa hết cả mắt, nào có thể đếm kỹ xem rốt cuộc trước mắt có mấy chục hay mấy trăm cái hải động, ai nấy đều như bị giội cho thùng nước đá, toàn thân run lên chặp, rồi mới sực tỉnh. Nhân lúc hải động vừa hình thành, xoáy nước vẫn chưa mạnh lắm, phải mau mau quay tàu lùi lại, bằng , chỉ cần chậm nửa bước, bị cuốn vào hải động rồi đừng là tàu Chĩa Ba này, dẫu có là hàng mẫu hạm cũng bị hút xuống vực sâu dưới đáy biển, xé nát tan tành. thanh ầm ầm dưới hải động tựa như từng hồi chuông báo tử vẳng lên từng đợt từng đợt, nước biển cuộn dữ dội, chỉ dựa vào các công cụ hàng hải do con người chế tạo này, chúng tôi thực có chút khả năng kháng cự nào trước sức mạnh hủy thiên diệt địa của thiên nhiên. Chúng tôi biết thể lấy trứng chọi đá, nào còn dám nghĩ gì đến Tần Vương Chiếu Cốt kính nữa, vội vàng kéo cho động cơ chạy hết mức, liều mạng xoay mũi tàu chạy về mé Tây, chỉ mong rời khỏi những hải động đen ngòm ấy càng xa càng tốt, xa thêm mét là thêm phần hy vọng thoát khỏi tai họa bị biển lớn nuốt chửng. Dưới ánh trăng vằng vặc, mọi thứ mồn , chỉ thấy các dòng hải lưu xoay tròn, vô số xoáy nước vẫn hình thành, ầm ầm vang động điếc cả lỗ tai. Hải động và long thượng thủy là hai tai họa lớn biển, do nước bị hút xuống, còn do nước dâng trào. Có điều, chỉ nhìn những tượng trước mắt cũng đủ thấy, uy lực của hải động còn đáng sợ hơn long thượng thủy nhiều. Cũng may, chúng tôi cũng kịp nhận ra, hải động thực vẫn chưa xuất , tàu Chĩa Ba tuy bị dòng nước xô đập dữ dội, song vẫn còn khống chế được phương hướng. Trong giây phút sinh tử, điều duy nhất có thể làm chính là cấp tốc rời khỏi chốn hung hiểm này. Chúng tôi biết quy mô hải động sau khi hình thành lớn chừng nào, vì an toàn của cả bọn, lúc này chỉ có thể lựa chọn rời vùng biển vực xoáy San Hô, chờ dịp khác quay lại tìm xác tàu đắm. Tôi giương ống nhòm hướng về phía Đông, do tác động của mặt trăng, thủy triều hỗn hợp lên, vệt đen nơi đường chân trời lúc ban ngày vẫn còn lờ mờ trông thấy nay bị che khuất, hòn đảo u linh đen kịt từ từ biến mất, nước biển dâng trào. Đây chính là thời cơ tốt nhất để thoát ra khỏi vực xoáy San Hô. Minh Thúc ở khoang lái, con tàu như mũi tên rời khỏi dây cung lao vút mặt biển. Nguyễn Hắc và hai đồ đệ đứng ở mũi tàu vẫy tay loạn xạ, miệng gào thét gì đó, nhưng thanh bị tiếng nước xung quanh át hết. Tôi nghe ra bọn họ hét cái gì, còn tưởng mấy người họ bị hải động vừa xuất làm cho kinh hoảng, nhưng ngay sau đó, lập tức phát giác ra có điều ổn: dường như họ cố gắng với chúng tôi, trước mui tàu xuất thứ cực kỳ đáng sợ. Tôi vội nhìn ra phía ấy, mồ hôi lạnh bất giác túa ra đầm đìa. Dưới nước lù lù ra vật thể khổng lồ nhờ nhờ trắng nhanh chóng áp sát đến tàu chúng tôi. Mặt biển bị vật kia dẫn động, liên tiếp cuộn sóng, rồi tan ngay trong nháy mắt. Chúng tôi chưa kịp phản ứng gì thấy hoa nước bắn tóe, vật ấy ở sát bên, con tàu lao hết tốc lực khựng lại như húc phải bức tường sắt. Mũi tàu suýt vỡ toang. Đa Linh ở boong trước định chộp sợi thừng cố định thân thể, ngờ mất thăng bằng, loạng choạng chộp vào khoảng , tức khắc bị chấn động hất văng lên cao. Mắt thấy bé sắp rơi xuống mặt biển sôi trào, Nguyễn Hắc vội bất chấp tất cả tóm lấy sợi thừng nhảy vù ra ngoài mạn tàu. Đa Linh bị hất lên cao rồi mới rơi xuống, Nguyễn Hắc tranh thủ được khoảng chênh lệch độ cao, vừa nhảy ra khỏi tàu may là kịp chộp được trước khi chạm mặt nước. Song chính Nguyễn Hắc bị đà rơi của Đa Linh kéo theo, cũng rơi tòm xuống biển. Nguyễn Hắc thu nạp Đa Linh làm đồ đệ từ trước khi rời khỏi Việt Nam, nhiều năm nay cùng nhau ra biển đánh cá mò ngọc, tình cảm thân thiết như cha con, thấy Đa Linh sắp rơi xuống biển, lập tức nghĩ ngợi, liều mạng xông ra cứu. Mặc dù lúc nhảy ra khỏi tàu, Nguyễn Hắc tóm được sợi dây thừng, nhưng sợi thừng ấy lại buộc cố định boong, bị hai thầy trò kéo, liền cứ thế tuồn tuột trượt khỏi tàu như con rắn sống. Lúc này chỉ có mình tôi đứng gần cuộn thừng nhất, trong lòng ngoại trừ ý nghĩ cứu người khẩn cấp ra còn nghĩ đến gì khác. Tôi vội loạng choạng nhảy lên bước, nắm chặt đoạn thừng còn chưa bị tuột, trong lúc cuống cuồng biết quấn vào đâu, đành xoay người vòng, quấn sợi thừng to bằng cánh tay trẻ con quanh eo hai vòng. Đột nhiên, sợi thừng bị kéo giật cái, khiến tôi cơ hồ muốn tắc thở, huyết khí trong lồng ngực cuộn trào lên, chân mềm nhũn, mắt tối đen, suýt chút nữa bị đà rơi của Nguyễn Hắc và Đa Linh kéo văng ra khỏi tàu. Đúng lúc ấy, Tuyền béo ở phía sau tôi xông lên, tóm sợi dây, giậm mạnh chân xuống sàn tàu. Thân thể như con bò mộng của cậu ta vận sức gồ hết cơ căng hết bắp, khó khăn lắm mới giữ được hai người sắp chìm xuống đáy biển kia lại. Tôi như kẻ lĩnh án tử hình rồi được đại xá, vội lăn tròn vòng dưới đất, gỡ sợi thừng khỏi phần eo hông bầm tím vết lằn, tranh thủ liếc xuống mặt biển cái, ra tàu Chĩa Ba của chúng tôi vừa húc phải con rắn biển lớn gặp dưới đáy sâu lúc nãy. Con rắn biển trông như con rồng trắng này trời sinh sợ ánh sáng, vốn chỉ sống ở vùng biển sâu trăm mét, những lúc đêm tối, khi mây mờ trăng khuất mới nổi lên. Theo lý mà , trăng sáng lơ lửng giữa trời thế này phải thời điểm nó hoạt động, khốn nỗi, vừa nãy hỏa bừng bừng dưới đáy nước, giờ lại thêm lũ trai nhả ngọc, ánh sáng phản chiếu, khiến đáy biển còn rạng rỡ hơn trời, mới làm nó thể yên thân, buộc phải nổi lên mặt nước. Giờ con quái vật biển ấy nổi giận, định quẫy nước lật chìm tàu chúng tôi cho hả cơn tức đây. Nếu tàu Chĩa Ba được gia cố thêm ván đồng, e rằng chỉ cần bị con rắn tông cho cú thủng toác. Đòn tấn công đầu tiên vừa qua, chỉ thấy dưới biển như thể có dải lụa trắng cuồn cuộn lướt qua, thoắt cái con rắn quay đầu quật đuôi quét ngang thân thuyền. Tàu đóng bằng gỗ liễu biển tuy cực kỳ kiên cố, nhưng cái đuôi của con rắn biển khổng lồ phải to bằng thân cây san hô trong suốt dưới đáy biển, phải mãnh long quá giang, sức mạnh của cú quét đuôi ấy hoàn toàn có thể quật thân tàu vỡ tan thành mảnh vụn. Con tàu trồi lên hụp xuống, tôi và Tuyền béo giữ chặt dây thừng dám buông ra, Nguyễn Hắc ôm chặt Đa Linh, treo mình lơ lửng giữa trung, văng qua văng lại theo chuyển động của thân tàu, tình thế hết sức nguy hiểm. Shirley Dương và Cổ Thái nhanh chóng chạy đến sau lưng tôi ôm chặt. Vậy là, từ trong khoang ra đến bên ngoài tàu, sáu người nối thành chuỗi dài con tàu bị sóng dữ quăng quật như phiến lá mỏng manh, chỉ cần người chịu nổi buông tay, có người lập tức rơi xuống biển sâu làm mồi cho cá. Phúc bất trùng lai, họa vô đơn chí, chúng tôi phải gắng gượng chống chọi trong hoàn cảnh tiến thoái lưỡng nan như thế, dưới biển lại cuộn lên cơn sóng trắng xóa. Cái đuôi con rắn biển khổng lồ kia bất thình lình từ quật ngược xuống thân tàu. Tôi nghiến răng nghiến lợi dồn hết sức vào sợi dây thừng, dám lơ là dù chỉ giây, chỉ còn biết mở mắt trừng trừng nhìn cái đuôi rắn to tướng cỡ bằng cả cái ang nước cuộn đến, ngoài ra chẳng có thể làm gì được nữa. Vừa khéo đúng lúc ấy, sóng biển quăng con tàu của chúng tôi lên cao rồi đột ngột thả xuống, thân tàu rơi tận đáy ngọn sóng, làn gió tanh tưởi ộc vào mặt, lồng ngực tôi tức nghẹn như bị giáng cho cú, mắt thấy con rắn biển khổng lồ cuộn vòng bay vọt trung. Trong khoảnh khắc chỉ bằng cái chớp mắt ấy, con tàu thoát khỏi đòn trí mạng. Con rắn đập xuống mặt biển làm hoa nước ào ào văng lên, rồi lặn mất hút vào tấm màn nước khổng lồ. Tôi biết, nó bị trăng tròn làm kinh động, tuyệt đối chịu dừng lại ở đây. Quả nhiên, chỉ qua thoáng, nước biển phía sau thân tàu cuộn sôi, con hải thú khổng lồ màu trắng lại nổi lên lần nữa. Tôi chẳng kịp thở lấy hơi, cũng chẳng kịp vui mừng vì con tàu bị phá hỏng, vội dồn hết sức kéo sợi thừng, cứu hai thầy trò Nguyễn Hắc trở lại tàu. Nguyễn Hắc và Đa Linh ướt sũng, mặt tái nhợt vì kinh hãi quá độ, cắt còn hột máu. Bọn tôi vội chia nhau vừa dìu vừa đẩy, đưa hai kẻ mò ngọc đại nạn chết ấy vào trong khoang tàu. Vì số trân châu và cái xác nhân ngư, Minh Thúc ngờ lại kiên trì giữ vững vị trí, nghiến răng kèn kẹt quyết lòng tranh đấu với trời cao biển rộng, sắc mặt cực kỳ hung hãn và kiên định, toát lên phong độ của gã sói biển hào hùng. Tôi chửi thầm trong bụng, tự nhủ: “Lão nông dân Hồng Kông chết tiệt, đúng là thấy tiền mới mở mắt, mơ phát tài mà quên cả chuyện sống chết. Có điều lúc nguy cấp này được như thế lại thành ra quý hóa.” Nghĩ đoạn, tôi khua tay múa chân, ra hiệu cho lão biết con rắn biển kia lại nổi lên rồi, mau lùi lại, cố gắng lách vào góc nào có thể nổ pháo được. Trong tình hình trước mắt, xem ra chỉ có thể nhờ cậy pháo Chấn hải đẩy con ôn vật kia trở về biển sâu mà thôi. Mấy cú va đập vừa rồi khiến tàu Chĩa Ba dù tính năng ưu việt cũng tổn thương khá nặng, chưa đến nỗi thủng tàu, nhưng việc chết người nhất xảy ra rồi: bánh lái mất tác dụng, con tàu chỉ có thể ngừng tiến lên theo hướng nhất định. Con rắn biển vẫn cuồn cuộn bám riết tha. Mặt biển vằng vặc ánh trăng, cuộc đuổi bắt sinh tử giữa con hải quái và tàu của chúng tôi càng lúc càng thêm quyết liệt. Tôi cuống lên giúp Minh Thúc xử lý cái bánh lái, chợt phát lão già Hồng Kông ngoác miệng chửi mắng bánh lái điều khiển được bỗng im bặt, mặt đờ ra như phỗng đá, cũng ngẩng lên nhìn theo ánh mắt lão. Ngay lập tức, toàn thân tôi thoắt cũng lạnh cứng từ trong ra ngoài. Vừa nãy tình hình quá hỗn loạn, tàu Chĩa Ba của chúng tôi như thể bị quỷ thần sai khiến, quay ngoặt trở lại khu vực phía Đông vực xoáy San Hô, chỉ thấy vô số hải động từ từ hợp lại, hình thành xoáy nước khổng lồ sâu biết đâu mà kể... Có lẽ, đó chính là hải nhãn trong truyền thuyết... Quy Khư. Biển lớn rốt cuộc cũng phơi ra gương mặt cuồng dại đáng sợ, nước biển vô cùng vô tận cuồn cuộn bị hút vào Quy Khư, cả con rắn biển lẫn tàu của chúng tôi cũng bị dòng loạn lưu cuốn tới. Nước trong hải động dựng đứng như vách tường, khí thế muốn hút cả trời đất vào trong. Tình hình đến nước này, e là có mọc thêm đôi cánh, sợ cũng khó lòng thoát nổi.