Chương 41 Lão Dương Bì, kẻ trộm mộ ũng chẳng vì lao lực quá độ hay bởi tình diễn ra quá bất ngờ, dù sao lúc đó tư duy của tôi lẫn Tuyền béo đều hoàn toàn theo kịp biến hóa của tình thế. Chúng tôi hơi ngẩn ra trong giây lát, nhưng ít nhất cũng đều lập tức có phản ứng, cái rương lão Dương Bì ôm kia, ngàn vạn lần cũng thể mở ra được, bằng đừng hòng ai ở đây mong sống sót. Mặc kệ ông già ấy có tính toán từ trước hay là bị mất trí, tôi và Tuyền béo đồng thanh hét lên tiếng, ném thứ ở tay xuống rồi bổ nhào đến. Tuyền béo chỉ bị thương ở cổ, tinh lực vẫn còn rất dồi dào, cậu ta nhảy xổ tới trước, gạt phắt hết những thứ tạp nhạp chắn phía trước mặt sang bên. Đúng vào khoảnh khắc lão Dương Bì sắp mở cái nắp rương lên, cậu ta chồm cả người đến, đè cứng ông già xuống đất. Tuyền béo tuy mới mười tám tuổi, thân thể vẫn chưa trưởng thành hoàn toàn, nhưng riêng tấm thân phì nộn ấy của cậu ta thời bấy giờ, cũng xứng được gọi là lưng hùm eo gấu rồi. Thêm vào đó, nửa năm trời được bần hạ trung nông tái giáo dục ở Đại Hưng An Lĩnh, đích thực cũng là môi trường rèn luyện rất khủng khiếp, vì vậy toàn thân dưới cậu ta đều rắn chắc như vâm, xông lên mà nghe tiếng gió rít vù vù. Chỉ nghe “bình” tiếng, tức đè cho lão Dương Bì ngã chổng vó lên trời. Người em Dương Nhị Đản của lão Dương Bì ngờ lại là thổ phỉ Nê Hội, vậy còn là mâu thuẫn nội bộ trong nhân dân nữa rồi, mà chắc hai trăm phần trăm là quan hệ thù địch. Có điều, chuyện này thực cũng quá bất ngờ, tôi lo chưa kịp làm chân tướng gây ra án mạng, vội vàng bảo Tuyền béo tay chút, nên đấu văn chứ đừng đấu võ, chỉ cần khống chế ông lão là đủ rồi. Tuyền béo nghe thấy tôi kêu lên thế, liền đè lão Dương Bì xuống rồi thuận đà lăn vòng, kéo ông lão vào sâu bên trong mật thất, tránh xa cái rương đồng kia ra. Tôi đưa mắt nhìn thử tình trạng của Đinh Tư Điềm trước, thấy vẫn ngủ say thiêm thiếm, bèn đến giúp lão Dương Bì vỗ lưng, vuốt vuốt ngực. Hồi lâu sau, lão Dương Bì chợt “a” lên tiếng, lồng ngực bị Tuyền béo đè cho tắc nghẹn cuối cùng cũng được khai thông. Ông già thở phì phì mấy hơi liền, ngạc nhiên với Tuyền béo: “Này... cậu định lấy cái mạng già của lão đấy à...” Tôi thấy thần trí lão Dương Bì bình ổn hơn lúc nãy nhiều, có thể hỏi chuyện được rồi, nhưng gian mật thất này phải chỗ có thể ở lâu, vậy là bèn cõng Đinh Tư Điềm, áp giải ông già bước qua cái thân xác bị cắt nát của cây thi sâm ra gian phòng bên ngoài, tìm chỗ tương đối sạch an toàn ngồi xuống, đốt cây nến lên, bấy giờ mới hỏi: “Vừa nãy ông suýt nữa hại chết cả bọn rồi đấy. Giờ hãy cho ràng , chuyện người em Dương Nhị Đản của ông là như thế nào? Tại sao ông ấy lại ăn mặc giống như bọn thổ phỉ chuyên đào trộm mộ kia? phải ông kể là ông ấy bị bọn phỉ ép phải dẫn chúng vào động Bách Nhãn này hay sao? Ngay từ đầu cháu thấy ổn rồi, bọn Hán gian Nê Hội đến viện nghiên cứu bí mật của bọn Nhật, lẽ nào lại tìm người chăn dê chưa bao giờ vào động Bách Nhãn dẫn đường chứ? Ngay từ đầu ông lừa bọn cháu rồi đúng !” Lão Dương Bì bị tôi cho tràng, chỉ biết cúi gằm mặt xuống, tôi biết ông lựa chọn im lặng là vì hổ thẹn trong lòng hay vì nguyên nhân gì khác, nhưng cho ngọn ngành được. Chuyện này mà chưa làm đừng nghĩ đến những chuyện khác. Nhưng muốn moi được lời của ông già này cần có sách lược, tôi bèn bảo Tuyền béo chú ý phương pháp làm việc, cứ buông lão Dương Bì ra trước . Tuyền béo cũng bắt đầu lấy đại nghĩa ra khuyên bảo ông già, từ tình hình quốc tế đến tình hình trong nước, cùng với tính tất nhiên của cuộc Đại Cách mạng văn hóa của giai cấp vô sản, kế đó lại đến xu thế từ diệt vong này đến diệt vong khác của bè phái phản động, hy vọng lão Dương Bì chớ nên từ bỏ nhân dân. Đồng thời, Tuyền béo cũng bày tỏ thái độ của mình, cậu ta sẵn sàng hy sinh thân mình vì cách mạng, vì nhân dân, luôn hướng trái tim hồng về phía Mao chủ tịch, tuyệt đối cho phép đám thổ phỉ Hán gian trà trộn vào đội ngũ bần hạ trung nông, kể cả đổ máu cũng tiếc, thề quyết tử bảo vệ cuộc Đại Cách mạng Văn hóa do đích thân Mao chủ tịch phát động. Nhưng lão Dương Bì vốn có giác ngộ và tính tự giác cao đến thế, trong đống lý luận tràng giang đại hải ấy, có những từ ông cũng biết, cũng được, đấy là do tình thế thời bấy giờ như thế, nhưng bảo ông ý nghĩa cụ thể, giá trị nằm ở đâu chắc chắn là ông chịu. Vả lại, trong lòng ông đầy tâm , nghe thấy cũng như nghe, mặt cúi gằm xuống tiếng nào, chỉ ngừng thở dài não nuột. Tôi cũng đành thở dài tiếng, xua tay với Tuyền béo, ra hiệu cho cậu ta đừng có thao thao bất tuyệt đọc thuộc lòng mấy bài đấy nữa, rồi với lão Dương Bì: “Thôi chúng ta đừng nhắc đến cương lĩnh cương liếc, đấu tranh giai cấp với giai cấp gì nữa nhé, câu, cháu và Tuyền béo ở Đại Hưng An Lĩnh đến thăm Đinh Tư Điềm, kết quả vừa gặp lúc mọi người bị mất bò, theo lý ở đây chẳng có việc gì của chúng cháu cả, nhưng chúng cháu lại chẳng nề hà do dự, lập tức liều mạng giúp ông và Đinh Tư Điềm tìm bò về ngay. Từ hôm qua đến hôm nay chảy bao nhiêu máu, đổ bao nhiêu mồ hôi ông cũng thấy cả rồi đấy, suýt chút nữa còn mất cả mạng nữa? Còn ông sao?” tới đây, tôi cố ý nhấn giọng xuống: “Còn ông sao? Ông là đồng chí mà chúng cháu tôn kính nhất, vậy mà đến giờ chúng cháu thậm chí còn biết ông câu nào là , câu nào là giả nữa. Ông có thể nể tình bọn cháu suýt nữa toi mạng ở động Bách Nhãn này, cho ràng mọi việc được ... nếu ông vẫn còn chút lương tri, cháu đảm bảo, những chuyện xảy ra trước đây nhắc đến nữa, chỉ cần can thiệp đến mưu phá hoại hôm nay, chúng cháu nhất định giữ lời trong lòng, quyết lộ ra. Nhưng vì yếu tố hoàn cảnh của chúng ta lúc này, và vì an toàn của bản thân bọn cháu nữa, ông nhất định phải cho chúng cháu lời giải thích hợp lý .” Tuy tôi những lời này cách có tính toán, muốn tấn công bằng tâm lý, nhưng đây thực cũng toàn là những lời phế phủ. Lão Dương Bì ràng bị tôi đánh động, ông bảo tôi nhét đầy thuốc lá vào ống điếu, rít mạnh hai hơi, rồi vừa ho khục khặc, vừa câu được câu mất kể lại chuyện xưa. Lão Dương Bì và người em Dương Nhị Đản từ sống bằng nghề chăn dê, thường thường bữa đói bữa no, cuộc sống khổ bút nào tả xiết. Năm hai em họ mười mấy tuổi, có lần Dương Nhị Đản đói quá chịu nổi, lén ăn trộm thịt dê của chủ nhà. Tên địa chủ liền đánh cho Dương Nhị Đản trận chết sống lại, hai em chịu nổi trận đòn đau, trong lúc phản kháng đẩy tên địa chủ ngã lăn ra đất. ngờ tên địa chủ này cũng đáng tận số, huyệt Thái dương va ngay phải cái cối đá, liền lập tức đời nhà ma. Giết người đền mạng, thiếu nợ trả tiền, từ ngàn xưa đây là chuyện thiên kinh địa nghĩa, gây án mạng phải đền mạng cho người ta, nếu muốn chết phải làm sao đây? Chỉ còn cách mai danh tích chạy trốn tha hương mà thôi. Hai em lão Dương Bì dám ở lại quê cũ nữa, phải chạy trốn gấp trong đêm, cậy mình sức trẻ, vả lại cũng thông thuộc những kênh rạch, khe núi trong vùng, nên thoát khỏi truy bắt của quan phủ, mạch chạy đến vùng phía Nam Hoàng Hà. Hai em ông già có nghề gì mưu sinh, bèn làm công, khiêng hòm vác xiểng cho ban kịch rối bóng người Thiểm Tây, thoắt cái hơn chục năm trôi . Thời bấy giờ thế đạo cực kỳ hỗn loạn, có hôm, lão Dương Bì và Dương Nhị Đản theo đoàn kịch về quê biểu diễn, may gặp phải bọn thổ phỉ. Bà chủ đoàn chỉ hơi có ý bất tuân, liền bị chúng lột sạch quần áo rồi vót làm “côn thịt người”, những người khác cũng hầu hết đều bỏ chạy tán loạn. Lão Dương Bì dẫn theo Dương Nhị Đản chạy vào hang núi gần đấy, ngờ bên trong hang núi đó lại có ngôi mộ cổ, bên trong địa cung có đủ đình đài lầu các cứ như hoa viên của hoàng đế. Đương nhiên, lão Dương Bì chẳng biết nhà của hoàng đế trông như thế nào, nhưng đoán chừng cũng chỉ như trong cái hang động đó thôi, đúng là chẳng khác nào lạc bước cõi tiên. Hai em lão Dương Bì bừa vào địa cung, vô tình cứu được vị đạo sĩ. Đạo sĩ ấy còn rất trẻ, so ra còn trẻ hơn cả Dương Nhị Đản, nhưng nhìn cung cách năng cử chỉ tuyệt phải hạng tầm thường. Điều làm họ bất ngờ nhất là vị đạo sĩ này giết người như ngóe, còn hơn cả bọn thổ phỉ, nghe họ kể bà chủ đoàn kich bị bọn thổ phỉ giết, y liền bảo họ chờ trong sơn động giây lát, chỉ thoáng sau xách theo dây đầu người trở lại. Hai em lão Dương Bì vừa thấy chùm dây đầu người đó, liền nhận ra chính là đầu của mấy tên phỉ chặn đường cướp giết đoàn kịch. Tuy rằng ác giả ác báo, nhưng lão Dương Bì là người yên phận, nhìn thấy đống đầu người máu thịt bầy nhầy, trong lòng cũng khỏi kinh khiếp. Nhưng nhìn lại đạo sĩ trẻ tuổi kia, dường như y hề coi việc giết người ấy vào đâu cả. Hơn nữa đạo nhân trẻ tuổi ấy cũng rất trượng nghĩa, nhận ơn giọt, trả ơn suối nguồn, chẳng những báo thù cho hai em lão Dương Bì, lại còn cho họ khoản tiền. Lão Dương Bì sợ đạo nhân ấy cũng là hạng cướp đường giết người như ngóe, nào dám nhận tiền bạc của y. Đạo nhân trẻ tuổi đó thấy họ nhận tiền, bèn dẫn đến nhà người giàu có họ Trần, bảo họ Trần ấy từ nay chiếu cố cho hai em, sau đó lại vội vội vàng vàng luôn, trước lúc cũng để lại tên họ gì. Người họ Trần đó tuổi tác cũng lớn lắm, tuy rằng hết sức cung kính với đạo nhân trẻ tuổi kia, song bản thân cũng là nhân vật lắm thủ đoạn hơn người, dưới tay có nhiều huynh đệ, trong nhà bày đầy cổ vật, lại thường xuyên làm những chuyện kỳ bí. Người này trời sinh có tài ăn , giỏi biện luận, hễ mở miệng là lời tuôn như suối. Mới ban đầu người họ Trần này sắp cho lão Dương Bì và Dương Nhị Đản ở trong nhà mình, cũng coi như người hầu kẻ hạ, chỉ bảo giúp làm số việc vặt vãnh nhàng, ngày ba bữa cơm, có gì ngon đều cho ăn cùng, cuối tháng còn cho họ ít tiền để muốn mua gì mua nữa. Lão Dương Bì trời sinh số khổ, bao giờ được đãi ngộ như vậy đâu, liền cảm thấy rất ngại ngùng, chỉ muốn giúp người ta làm những việc nặng nhọc hơn, nhưng mấy việc ấy đều có người hầu làm cả rồi, muốn làm cũng có phần. Sau này ở lâu, họ rốt cuộc cũng biết người họ Trần này ra là tên trộm chuyên đào cổ mộ, có điều y chẳng những thấy áy náy xấu hổ mà còn rất tự hào, bảo rằng có gì to tát đâu, muốn thành đại nghĩa thể chấp nhặt tiểu tiết, đây gọi là chia tài tụ nghĩa, cùng chung mưu lớn, đừng là đào mấy cái mồ hoang mả vắng, đến mộ của hoàng đế lão tử cũng chẳng phải là y chưa từng đào đâu. Về sau lão Dương Bì và Dương Nhị Đản cũng nhập bọn, thoắt cái được mấy năm, học được rất nhiều ngón nghề đổ đấu từ người họ Trần này. Đám người này có thể nhìn sắc cỏ, quan sát màu đất, biết thuật “Thiên can khuyên huyệt” và “Xuyên lĩnh thủ mộ”, thường xuyên giả mạo làm thầy phong thủy khắp nơi thăm dò tin tức, cơ sở ngầm phân bố rất rộng, khi hành động là có mấy chục đến cả trăm người tham gia. Băng đảng này chỉ đổ đấu, dọc đường nếu gặp phú hào bất nhân cũng tiện tay làm mẻ, kể ra cũng hơi giống với hảo hán Lương Sơn. Nhưng có lần, tay thủ lĩnh họ Trần ấy dẫn theo nhóm em xuống phía Nam làm ăn lớn, vì đường sá xa xôi nên người theo nhiều lắm, đồng thời, rất có thể bọn họ gặp phải chuyện gì ở phương Nam, nên ai trở về, mất hoàn toàn tung tích. Sau khi người cầm đầu mất tích, cây đổ ổ cáo cũng tan, trong bọn cũng có người miền Nam tìm tung tích thủ lĩnh, còn những người khác đều ai đường nấy. Lão Dương Bì cũng định xuống miền Nam, nhưng Dương Nhị Đản lại thương lượng xong xuôi với nhóm phỉ ở miền Đông Bắc, muốn hai người cùng sang mấy tỉnh phía Đông làm ăn. Lão Dương Bì ra sức khuyên giải Dương Nhị Đản đừng Đông Bắc, cả vùng Mãn Châu ấy đều bị quân Nhật chiếm đóng, đến đấy làm gì có chốn nào mà dung thân? Nhưng Dương Nhị Đản sống chết gì cũng đòi , lão Dương Bì gặng hỏi mãi, mới biết ra có nhóm phỉ chuyên đào trộm mộ hoạt động ở vùng Đại Hưng An Lĩnh tên là Nê Hội, đám người này là bọn trộm lang thang, thuộc dòng nào, chỉ cậy gan lớn và mấy trò tà thuật, thứ gì cũng dám đào hết, nhưng lại căn bản biết cách tìm những mộ cổ có đánh dấu ràng. Dương Nhị Đản có tâm cơ hơn lão Dương Bì nhiều, bản lĩnh học được cũng tương đối, sau khi được người dẫn tiến, liền động tà niệm muốn gia nhập vào cái hội đó. Lúc bấy giờ, bọn Nê Hội rất cần người như Dương Nhị Đản, đàn bà cũng được, tiền cũng xong, muốn bao nhiêu có bấy nhiêu, mà quan trọng nhất là, bọn chúng còn cho Dương Nhị Đản ngồi lên ghế cao, hết sức a dua nịnh nọt. Dương Nhị Đản từ bé đến lớn đều phải nhìn sắc mặt người khác, bao nhiêu năm nay phải sống cúi đầu, có lẽ cũng bởi sống ở đáy xã hội lâu quá rồi, nên bản thân y thậm chí cũng đủ quyết đoán để mình xông pha thiên hạ, bấy giờ được bọn Nê Hội kia tâng bốc hồi, hồn phách lửng lơ, thấy có chuyện tốt như vậy, bèn quyết định sang vùng Đông Bắc làm “Đại Quỹ” của bọn đào mộ đó.
Chương 42 Đường lối về ương Nhị Đản thấy lợi đen lòng, quyết tâm vào vùng núi sâu miền Đông Bắc làm lão đại của bọn phỉ trộm mộ Nê Hội. Lão Dương Bì chỉ có người em này, còn coi trọng hơn cả tính mạng mình, thấy Dương Nhị Đản quyết chí ra , cũng chẳng có cách nào khác, đành theo y đến ba tỉnh Đông Bắc, làm “Đổng Cục” của Nê Hội, chức vụ này đại khái tương đương với cố vấn kỹ thuật thời bây giờ. Tuy lão Dương Bì và Dương Nhị Đản là hai em ruột, nhưng tính cách lại khác hẳn nhau. Dương Nhị Đản có dã tâm hơn, còn lão Dương Bì nhát gan vô cùng, chỉ muốn sống an phận thủ thường cho qua ngày. Chẳng những vậy, lão Dương Bì còn kính quỷ sợ thần, tư tưởng mê tín thâm căn cố đế, đúng như câu “sợ ma trộm mộ, trộm mộ sợ ma”, với tích cách ấy của ông, thực thích hợp để làm những nghề “đổ đấu” và “hung lũ” chút nào. “Hung lũ” chính là chỉ thủ đoạn che mắt người đời của bọn trộm mộ. Trộm mộ vơ vét được các loại vật phẩm bồi táng có giá trị trong mồ hoang, mộ cổ, cần phải tiến hành cả giao dịch. Trong xã hội thời xưa, phương pháp thông tin khá lạc hâu, nhịp sống chậm chạp, để tiện liên lạc với người mua, khuếch trương kinh doanh, trộm mộ phải sử dụng chiêu “mượn danh” của hắc đạo. Phàm là trộm mộ làm ăn kinh doanh, ai mở tiệm đồ cổ cả, mà chỉ chuyên kinh doanh các loại đồ dùng trong ma chay, chẳng hạn như đồ vàng mã hương đèn để đốt cho người chết, nào là người giấy, ngựa giấy, trâu bò giấy, nhà giấy, kiệu giấy... toàn là những thứ dùng ở cõi . Về tên gọi tiệm của bọn trộm mộ mở ra chỉ khác tiệm giấy tiền vàng mã bình thường chữ, tiệm bình thường gọi là “hung tứ”, nhưng thoáng nhìn bề ngoài cũng thấy hai loại cửa tiệm này khác nhau. Hồi trước, mở tiệm làm ăn đều phải có biển hiệu treo trước cửa, để cho người ta biết trong tiệm bán thứ gì. Cửa tiệm vàng mã của trộm mộ, nhất nhất đều treo lên xâu tiền giấy màu trắng, tổng cộng có bảy mươi hai lá, là số địa sát, mặt tờ tiền đều in những hoa văn hung sát. Những người làm ăn bình thường, cho dù là có bán hàng giấy tiền vàng mã đốt cho người chết chăng nữa, cũng tuyệt bao giờ treo xâu tiền cát lợi ấy lên. Phàm tiệm nào có treo bảy mươi hai lá tiền giấy, người trong nghề liền biết ngay đấy là “hung lũ”, dù phải do trộm mộ mở ra, ít nhất cũng là nơi chuyên đẩy hàng trộm được trong các mộ cổ. Những người làm nghề “đổ đấu”, mỗi lần hành động đều là vét sạch huyệt mộ nhà người ta, tục gọi là “giặc đến như dao cạo”, phàm trong mộ có thứ gì cũng đều quơ hết, đến cả thứ bít ở lỗ đít người chết cũng chịu bỏ qua. Những món minh khí quý giá đều rất dễ bán , nhưng mấy món lặt vặt hoặc có số đồ quý nhưng nhất thời chưa tìm được người mua thích hợp, đều nhất loạt quy về “hung lũ”. Cứ cách độ vài ngày lại có đám thương nhân chuyên mua bán lại đến thu mua, lúc đàm phán tự nhiên cũng toàn dùng ám ngữ của hắc đạo, đại đa số những người hiểu nghề này đều thể hiểu nổi. Tên trùm sỏ họ Trần ấy có mở hai cửa tiệm “hung lũ” ở Thiểm Tây, ngấm ngầm buôn bán đồ minh khí, lão Dương Bì từng làm quản lý cho y, kết quả là suýt chút nữa bị dọa cho thọt cả “bi” lên cổ. Đồ tùy táng bên trong mộ cổ tích lũy khí lâu, mùi hôi thối của xác chết ám vào rất khó tẩy, hơn nữa, số món đặc thù lại còn thường xuyên gây những việc quái dị nguyên nhân, lão Dương Bì vốn cũng phải “hạt giống” làm cái nghề này, về sau còn theo đồng bọn đào mồ quật mả người ta, lại càng gặp phải nhiều chuyện đáng sợ hơn, toàn là những chuyện mà thần kinh ông thể chịu đựng nối. Sau khi họ Trần mất tích, lão Dương Bì bèn định sử dụng tích lũy trong mấy năm trộm mộ về quê sống những ngày an phận thủ thường, treo “hắc hổ phù”, triệt để rửa tay gác kiếm, tránh xa cái nghề suốt ngày ôm đống minh khí tùy táng của người chết ra. Nhưng đời đâu có theo ý mình, vì Dương Nhị Đản, ông lão thể theo y đến vùng Đông Bắc làm “Đổng Cục” của đám phỉ Nê Hội ấy. Bọn phỉ Nê Hội lôi kéo em lão Dương Bì, để cho Dương Nhị Đản lên làm lão đại cũng chẳng phải thực lòng mà chẳng qua chỉ muốn lợi dụng hai người. Kẻ thực có tiếng trong Nê Hội, là quân sư “Thông Toán tiên sinh”, người này trước đây từng làm thầy giáo, lại có thời đào đất đào bùn dưới sông, cũng từng lang bạt giang hồ làm thầy bói xem tướng. Kẻ này hành tẩu nhiều năm, cũng coi như là hạng kiến thức rộng rãi, nhưng con người cực kỳ hiểm xảo trá, lòng dạ ác độc, chỉ cần có lợi lộc chẳng có gì mà y dám làm cả. Bọn thổ phỉ dưới tay y chẳng đơn thuần chỉ có trộm mộ, những việc táng tận thiên lương khác chúng cũng làm chẳng ít, hoàn toàn xứng với bốn chữ “tội ác ngập đầu”. Thông Toán tiên sinh và Dương Nhị Đản dẫn theo bọn thổ phỉ Nê Hội khắp thâm sơn cùng cốc đào mộ cổ, đục khoét lỗ chỗ tất cả những nơi nào có thể có mộ cổ ở vùng núi Đông Bắc, sau đó đem minh khí đào được đổi lấy tiền bạc, thuốc phiện, thả sức ăn chơi phè phỡn. Chỉ cần người mua nào trả giá cao, dù có bán cho thương nhân Nhật Bản, gánh lấy danh Hán gian chúng cũng chẳng hề để ý. Trong hội nếu có kẻ nào mang lòng phản đối, liền lập tức trúng phải độc thủ của Thông Toán tiên sinh, tính mạng chẳng còn. Lão Dương Bì về sau rồi cũng nhận ra, cứ tiếp tục lăn lộn với đám Nê Hội này, tuyệt đối chẳng có kết cục tốt, bèn lại hết lời khuyên Dương Nhị Đản quay đầu, nhưng Dương Nhị Đản bị ma quỷ mê hoặc tâm trí, hoàn toàn chẳng hề để tâm, coi như quyết đến cùng con đường hắc đạo. Làm thổ phỉ ăn ngon, uống cay, giết đàn ông, hiếp đàn bà, hút thuốc phiện, tiêu tiền to, ông trời là nhất ta là nhì, thử hỏi làm lương dân khiếp nhược, an phận thủ thường sao có thể sánh bằng? Đối với y con người sống ở đời chỉ có lần, phải sống như vậy mới đáng. Mùa đông năm đó, có người Nhật đến tìm Thông Toán tiên sinh, hai người đóng cửa bí mật thương nghị kế hoạch cực kỳ trọng đại. ra, tay Thông Toán tiên sinh này trong khi buôn bán cổ vật bắt quan hệ với Hắc Long hội của Nhật Bản, được bọn chúng rất tín nhiệm. Bấy giờ, quân Quan Đông tìm kiếm vật bị thất lạc trong dân gian Trung Quốc, theo tin tình báo của chúng, rất có khả năng vật ấy được chôn trong mộ cổ hoặc tháp bia của chùa chiền gì đó. Lão Dương Bì vô tình nghe được chuyện cơ mật này, ra ở vùng Đại Hưng An Lĩnh thời xưa, có bộ phận lén lút thờ cúng hoàng bì tử, cho rằng Hoàng đại tiên chưởng quản linh hồn của người chết, là vị Câu hồn sứ giả. Câu hồn sứ giả chuyên lấy vong hồn người chết, phàm người nào bị bắt hồn, đều bị đưa đến Quỷ nha môn, cũng tức là tào Địa phủ. Người dân bình thường đa phần đều có nghe qua truyền thuyết về Quỷ nha môn, đó là nơi vào rồi là thể quay lại, nhưng cũng chỉ biết Quỷ nha môn ở sâu trong núi chứ cụ thể ở đâu ai hay, vì những người vào đó rồi đều thể sống trở về. chỉ có người chết, bình thường ngay cả người sống cũng bị bắt hồn , người sống khỏe mạnh, đột nhiên mất hết thần trí, trở nên ngây ngốc điên dại, mọi người liền cho rằng kẻ đó bị hoàng bì tử do tào Địa phủ phái lên bắt hồn rồi. Người nào bị Hoàng đại tiên câu hồn, cho dù chết ngay tại chỗ cũng coi như cái xác sống, tuy vẫn còn thở đấy, nhưng hồn phách mất, chỉ còn lại cái vỏ thịt, chẳng khác nào cái xác biết . Từ xưa đến nay, Trung Quốc có rất nhiều dân tộc thiểu số, các loại phong tục tập quán dung nhập diễn hóa, sau này cũng chẳng ai có thể tìm ra tập tục coi hoàng bì tử là Câu hồn sứ giả của tào Địa phủ này khởi nguồn từ đâu và từ bao giờ nữa. Cũng có thể phong tục này, có liên quan đến vài con hoàng bì tử có đạo hành tương đối cao thâm, hiểu được ý người, lại biết thuật mê hồn. Ngoài ra, thực tế, đích thực cũng có số con hoàng bì tử hết sức đặc thù, chẳng hạn nếu hoàng bì tử ăn phải loại chuột đen đặc biệt, chất bài tiết trong cơ thể biến đổi, người sống mà ngửi phải rắm thối của chúng ngơ ngơ ngẩn ngẩn, thần trí còn tỉnh táo nữa, bảo khóc là khóc, bảo cười là cười, như bị ma nhập vậy. Những người nhà quê mê tín hiểu, trong quá trình tin đồn lan khắp chốn, thông tin ban đầu lại càng được thần cách hóa lên. Những truyền thuyết về hoàng bì tử và Quỷ nha môn đến thời Tống dần dần mai , người biết đến càng lúc càng ít, có điều trong các câu chuyện dân gian vẫn còn giữ lại khá nhiều nội dung liên quan. Tương truyền rằng, Hoàng đại tiên có cái rương đồng, bên trong chứa đựng bí mật câu dẫn hồn phách của hoàng bì tử, có rất nhiều bích họa và tượng đất trong các miếu thờ hoàng bì tử trùng khớp với truyền thuyết này, nhưng vì năm tháng lâu, ai biết được cái rương đồng của Hoàng đại tiên lưu lạc nơi nào mất rồi. Rồi quân Nhật phát ra cái hang chứa xác người bộ tộc Tiên Ty ở cuối mạch núi Đại Hưng An Lĩnh, cũng tức là khu vực động Bách Nhãn nằm ở vùng giáp ranh giữa thảo nguyên và hoang mạc. Trong hang động này ngoài vô số xác chết ra, còn có rất nhiều tượng kỳ lạ thời đó thể nào giải thích được. Chẳng hạn, khu vực động Bách Nhãn này có hai lối ra vào ở hai đầu hẻm núi, trong đám đồi núi trập trùng ở giữa có sông ngầm và “Quỷ môn quan”, tất cả đều phù hợp với truyền thuyết về Quỷ nha môn, rất có thể cánh cửa dẫn đến địa ngục này là bí mật bị cổ nhân chôn giấu suốt nghìn năm nay. Thêm nữa, lối vào phía trước hẻm núi nối liền với thảo nguyên, thi thoảng lại có “phần phong” đáng sợ xuất cuốn lấy người và động vật. “Phần phong” chính là loại gió ma quỷ thổi từ chốn A Tỳ địa ngục được nhắc đến trong kinh Phật; cửa hẻm núi phía sau thông đến hoang mạc Mông Cổ, dấu chân người. Đất đá trong hang chứa xác ở động Bách Nhãn có rất nhiều vật chất đặc biệt, có thể giữ gìn thi thể trải bao năm tháng cũng thối rữa. Sau khi điều tra tìm hiểu, người ta mới biết nơi này ra là mộ huyệt của các vu sư bộ tộc Tiên Ty. Trong truyền thuyết của họ, động Bách Nhãn được coi là nơi về của người chết, xếp ngang hàng với động Cát Tiên là nơi khởi nguồn của người Tiên Ty, gọi là hai đại thánh địa, được thờ cúng lễ bái quanh năm, tế người sống chôn ngọc, tế người chết chôn đá. Về sau, bị thời gian bào mòn, truyền thuyết và vị trí chính xác của hang động này mất , và được thay thế bằng những câu chuyện dân gian về Quỷ nha môn. Trong hang động có rất nhiều bích họa và tượng đá, nội dung diễn tả vu sư nắm trong tay cái rương đồng có thể khống chế linh hồn người chết, có thể lợi dụng nó gọi hồn người chết từ chốn tào về để bói toán, bốc quẻ, nhưng bên trong rốt cuộc có bí mật gì lại tìm được ghi chép nào cả. Người Nhật Bản rất hứng thú với truyền thuyết này, cho rằng “phần phong” có liên quan đến lối vào địa ngục ở đáy động chứa xác, là thứ gió chết chóc lùa từ chốn u minh lên dương gian, mà cái rương đồng kia rất có thể là mấu chốt để nắm giữ và điều khiển nó, nên muốn tiến hành nghiên cứu bí mật. Muốn bắt đầu nghiên cứu, trước tiên phải tìm được cái rương ấy, vì vậy mới mua chuộc đám phỉ Nê Hội, nhờ chúng tìm kiếm trong dân gian cái rương chiêu hồn của Hoàng đại tiên. Hai tên Hán gian Thông Toán tiên sinh và Dương Nhị Đản thấy tiền sáng mắt, liền bắt đầu lùng sục khắp nơi, và dần dần có chút đầu mối. Lão Dương Bì biết được chuyện này xong lại cật lực khuyên giải Dương Nhị Đản, đào mồ quật mả người ta là được rồi, giờ lại còn muốn móc xuống tận tào Địa phủ nữa, thế phải là tìm chết à? Khuyên mãi được, cuối cùng em cũng trở mặt thành thù, Dương Nhị Đản cảm thấy lão Dương Bì lúc nào cũng gây trở ngại, để lại bên cạnh sớm muộn gì cũng là mối họa, bèn giả bộ nghe lời huynh trưởng, thề sau này rửa tay gác kiếm làm nữa, rồi lừa lão Dương Bì đến vách núi, từ phía sau đá cho ông cú lăn nhào xuống. Lão Dương Bì cũng là người mạng lớn, rơi xuống vách núi liền mắc vào cành tùng mọc chìa ra nên chết, chỉ bị gãy mất mấy dẻ xương sườn, và suýt chút nữa bị cành cây chọc thủng bụng, may mắn được thợ săn cứu về, dưỡng thương mất hơn nửa năm mới bình phục. Ông vẫn lo lắng cho Dương Nhị Đản, chẳng những hận y, mà còn tự oán trách mình thể khuyên bảo y quay đầu, lại lần nữa vào trong núi tìm em trai. Bấy giờ mới biết, đám Nê Hội rốt cuộc cũng đào được cái rương chiêu hồn ấy trong nơi gọi là Mộ Hoàng Bì Tử, vì vụ này mà thiệt mất mấy mạng người, cả tay Thông Toán tiên sinh kia cũng bị Hoàng đại tiên ép phải treo cổ tự sát. Dương Nhị Đản may mắn thoát chết, lại còn mang được cái rương ra ngoài, mang theo mấy thủ hạ và tên thương nhân Nhật Bản liên lạc với bọn chúng, tập hợp thanh nhóm tiến vào động Bách Nhãn ở sâu bên trong thảo nguyên. Lão Dương Bì liền bám đuôi theo sau, định kéo Dương Nhị Đản về, nhưng bám theo đến khe núi phía trước động Bách Nhãn, liền bị làn khói đen trong lò thiêu xác người chết kia dọa cho khiếp vía, thêm nữa, lúc bây giờ mây khói biến ảo, làm lão Dương Bì tưởng đó chính là con long mà dân du mục thảo nguyên vẫn hay nhắc đến tác quái. Ông già cực kỳ tin vào những thứ đó, sau hồi do dự, cuối cùng cũng dám lại gần động Bách Nhãn. Kỳ thực, cho dù ông có bám theo vào trong, chắc chắn bị quân Quan Đông bắt giữ, bị làm vật thí nghiệm sống cũng bị giết người diệt khẩu. Lão Dương Bì quanh quẩn bên ngoài động Bách Nhãn gần nửa tháng trời mà thấy bên trong có người nào sống trở ra, trong lòng cũng hiểu nhất định xảy ra chuyện gì rồi. Thử hỏi, động Bách Nhãn là nơi nào kia chứ? Đó là Quỷ nha môn thông xuống tận cõi tào cơ mà, đặt chân lên con đường lối về ấy, chẳng ai có thể sống sót được. Lão Dương Bì tính tình vốn nhu nhược, đủ dũng khí vào động Bách Nhãn mang thi thể Dương Nhị Đản về chôn cất, cũng dám tưởng tượng ra cảm giác phải đối mặt với xác chết người em ruột thịt của mình như thế nào. Sau bận đó, ông lang thang thảo nguyên, giúp dân du mục làm số công việc lặt vặt mưu sinh. Sau giải phóng, vì cuộc sống nghèo khó bần hàn, được chính phủ giúp đỡ cho làm hộ chăn nuôi, cả ngày cứ trầm mặc ít lời, bao nhiêu chuyện quá khứ chôn chặt trong lòng, thi thoảng mới mượn tiếng đàn và điệu Tần Xoang để phát tiết bớt nỗi khổ giày xéo tâm can. Tôi và Tuyền béo nghe đến đây, cũng hiểu ra quá nửa, những chuyện sau này gần như chúng tôi đều cùng lão Dương Bì trải qua cả rồi. Vì đuổi theo đàn bò, lão Dương Bì và chúng tôi vô tình lạc vào khu vực động Bách Nhãn này, bị hoàn cảnh bức bách, ông dám thực chuyện trước đây. Đến lúc trông thấy xác Dương Nhị Đản ở ngay bên cạnh, lão Dương Bì mới sao kiềm chế được tình cảm, quá khứ dồn nén trong lòng hơn hai chục năm trời đột nhiên bùng lên, khiến ông mất hết thần trí, định mở cái rương chiêu hồn đó ra gọi hồn Dương Nhị Đản từ chốn ty về đây mà hỏi cho ràng, tại sao chịu nghe lời khuyên của huynh trưởng, để rồi cuối cùng gặp phải kết cục chịu khổ sở như thế, giờ thấy hối hận hay chưa? Lão Dương Bì ngập ngừng kể hết tình cho tôi và Tuyền béo. Tuyền béo nghe xong, liền tỏ vẻ hết sức đồng tình với ông lão: “Quá khứ của ông tuy khiến thanh niên trí thức chúng cháu cảm thấy hết sức đồng tình và thương cảm, nhưng người em Dương Nhị Đản của ông cam tâm bán mạng cho giặc, vậy là từ bỏ nhân dân, về đường lối là thể thỏa hiệp được rồi, ông phải hạ quyết tâm vạch ranh giới với ta thôi.” Song tôi dễ bị người ta gạt như Tuyền béo, từ đầu vẫn luôn chú ý lắng nghe lời kể của lão Dương Bì, thấy ông già cuối cùng cũng kể xong, trong lòng thoáng động, ý nghĩ chợt lóe lên. Trong khoảnh khắc, tôi giật luôn sợi dây lưng da trói nghiến hai tay lão Dương Bì ra đằng sau: “Dương Nhị Đản, đến nước này rồi mà ông vẫn chịu hả?”
Chương 43 Mộng ôi ấn vai lão Dương Bì xuống, quát lên: “Ông vốn phải là lão Dương Bì, ông là Dương Nhị Đản.” Lời này vừa thốt ra, lão Dương Bì và Tuyền béo đều cả kinh thất sắc. Tuyền béo nghe , đớ người ra thắc mắc: “Ông già này là Dương Nhị Đản, thế người chết kia là ai? Là lão Dương Bì à?” Tôi làm ra vẻ căm phẫn sục sôi, : “Kẻ tự nhận mình là lão Dương Bì này chắc chắn là kẻ thù giai cấp của chúng ta giả mạo đấy. Cậu thử nghĩ xem, năm đó lão Dương Bì bị Dương Nhị Đản mưu hại, rơi từ vách núi xuống, móc vào cành cây, suýt chút nữa bị cành cây đâm lủng bụng, vậy tại sao lúc ở bên hồ, ông ta ăn bao nhiêu cá đen căng phình cả bụng lên, chúng ta cởi hộ áo ra cho ông ta dễ thở, lại thấy có vết sẹo nào từ thời đó? Còn nữa, lẽ nào cậu phát ra bên trong thắt lưng của ông ta, cũng buộc sợi dây đỏ để kỵ tà hay sao? Đây chính là bằng cớ chứng tỏ người này vẫn còn mưu toan ngóc đầu dậy chứ còn gì nữa! Chắc là người này lòng muốn làm thổ phỉ suốt đời rồi, hai con hoàng bì tử kia, tám chín phần mười cũng là của ông ta nuôi, bằng sao chúng nó lại ở người ông ta chứ.” Tôi cưỡng từ đoạt lý, cố tình bịa bừa ra mấy cái cớ, có điều những lý do này đủ để thuyết phục Tuyền béo rồi. Cậu này được cái sức trâu, nhưng phàm chuyện gì cũng chỉ có thể nghĩ từ góc độ, vả lại cổ cậu ta còn bị lão Dương Bì cắn mất miếng thịt, đến giờ vẫn còn đau đến nỗi cứ hít hà suốt thôi, trong lòng cũng khỏi có chút khó chịu với ông già, vì vậy cậu ta lập tức tin ngay mấy chứng cứ tôi vừa đưa ra, giận dữ gầm lên: “Nhất à, may là cậu có mắt lửa ngươi vàng, phát nhìn ra được ngay mưu ngụy kế của lão phản động này. Tôi cũng cảm thấy được ổn cho lắm, ràng là đúng như cậu rồi, vậy chúng ra có nên lập tức mở đại hội đấu tranh, trừng trị cái lão này hay ?” Kỳ thực, tôi đương nhiên biết lão Dương Bì thể nào là Dương Nhị Đản được, có điều, giờ tình thế ép buộc, thể nào vu oan giá họa cho ông già ấy. Chủ yếu là bởi tôi nghĩ đến mấy nhân tố sau: Thứ nhất, chúng tôi phải trải bao khó khăn khổ sở mới cầm cự được tới giờ, mình mẩy đều là thương tích, nặng , rồi vết thương cứ vỡ ra hết lần này đến lần khác, người nào người nấy đều mắt hoa óc váng, trong đầu như thể có vô số con kiến bò qua bò lại cắn xé, trước mắt tối sầm , thực là sắp thành ngọn đèn cạn dầu tới nơi, bất cứ lúc nào cũng có thể ngã lăn ra hôn mê bất tỉnh. Vả lại, đường lối lại bên trong tầng hầm này đan xen chằng chịt, địa hình phức tạp cực kỳ, nếu nghỉ ngơi lúc có sức đâu mà quay trở ra được. Thứ hai là vì lão Dương Bì vừa nãy trông thấy thi thể Dương Nhị Đản, sém chút nữa mở cái rương đồng của Hoàng đại tiên ra để chiêu hồn cho em trai. Tình cảm của ông già này với tên Dương Nhị Đản táng tận thiên lương ấy rất sâu sắc, cơ hồ đến mức chấp mê bất ngộ, tư tưởng tình cảm như vậy rất dễ xoay chuyển, chúng tôi chỉ cần sơ sẩy chút, hoặc thể kiên trì được mà ngủ thiếp , có trời mới biết lão Dương Bì gây ra hành động gì lỗ mãng. Thế nên, vì an toàn của tất cả mọi người, tốt nhất là tạm thời trói nghiến lão Dương Bì lại, đợi khi cả bọn an toàn rút ra được bên ngoài, rồi xin lỗi ông cũng muộn. Tôi đây vì tình cảm giai cấp mà lơ là cảnh giác, để rồi phải trả giá bằng tính mạng của Tuyền béo và Đinh Tư Điềm đâu, huống hồ cách nghĩ này của tôi tuy cũng có điểm bất ổn, nhưng vẫn có thể xem như là kế quyền nghi. Tuy rằng cũng hơi bất công với lão Dương Bì, nhưng thực tế cũng có thể xem như là bảo vệ ông lão, tránh để ông làm lại chuyện ngu ngốc liên lụy đến tất cả mọi người ở đây. Có điều, tôi lo Đinh Tư Điềm tỉnh lại trách móc, nên cần phải tìm cho mình lý do hợp lý, hợp lý cũng phải cưỡng từ đoạt lý, vậy nên mới quyết định ý đồ thực của mình cho Tuyền béo, lừa gạt tình cảm giai cấp thuần phác mộc mạc của cậu ta. Nghe tôi xúi bẩy đổ dầu vào lửa, Tuyền béo chủ trương lập tức mở đại hội phê đấu, vạch trần tố cáo, triệt để phê phán tội phản động của lão Dương Bì. Tôi thấy cậu ta hăng quá, bèn : “Chuyện này quan trọng nhưng thể vội vàng. Sau nhiều lần phát huy tinh thần chiến đấu liên tục, giờ chẳng còn hơi sức đâu mà mở đại hội phê đấu nữa rồi, chúng ta phải mau chóng tìm nơi an toàn tạm thời nghỉ ngơi chỉnh đốn, sau đó trở về khu chăn nuôi, vạch trần tội trạng của lão ta trước mặt đông đảo quần chúng nhân dân mới được.” đoạn, tôi cũng để lão Dương Bì giải thích gì, liền bảo Tuyền béo dùng thắt lưng da trói ngoặt hai tay ông già ra phía sau, rồi tôi lần mò trở lại trước cánh cửa sắt số “0” tìm cái bao bị thất lạc ở đấy. Cả bọn quay trở lại gian chứa đồ đầu tiên, khóa chặt cửa lại, ai nấy đều mệt mỏi ngả nghiêng, trông thảm hại nhếch nhác vô cùng. Bước được vào đến đây chân gần như nhấc lên nổi nữa, càng khó cưỡng hơn là cơn buồn ngủ ập đến khiến hai mắt chúng tôi cứ díp lại. Tôi tìm mấy cái rương bằng phẳng kê sát lại với nhau, để Đinh Tư Điềm nằm lên đó. Tuy sắc xanh gương mặt vẫn chưa tan hết, nhưng hơi thở nặng nề bình ổn lại từ nãy, cơ hồ như chìm vào giấc ngủ sâu. Tôi thấy yên tâm phần nào, lại đút cho lão Dương Bì ăn chút. Ông già bị trói cứng cả tay chân, cũng vùng vẫy gì, thái độ như thể tùy theo ý trời, muốn ra sao ra. Tôi bảo ông cứ nghỉ ngơi chút , giờ trạng thái Đinh Tư Điềm ổn định rồi, đợi lấy lại sức lực và tinh thần, chúng ta lập tức trở về. Sau đó đến lượt tôi và Tuyền béo ăn, hai chúng tôi ăn ngấu ăn nghiến như hổ đói, nhưng rốt cuộc chỉ ăn được nửa chừng, trong miệng vẫn còn đồ ăn chưa nuốt hết lơ mơ thiếp . Trong trạng thái cả thân thể và tinh thần đều phải chịu đựng quá giới hạn, tôi ngủ giấc rất sâu. Trong mơ, dường như trở lại thời mười lăm mười sáu tuổi, tôi và đám chiến hữu Hồng vệ binh trong các trường cùng quân khu đến thủ đô Bắc Kinh để tham gia đại hội, lại còn được Mao chủ tịch kiểm duyệt đội hình nữa. Lúc đó, phong trào lên rất cao, ga xe lửa Bắc Kinh như biển người, các học sinh và thầy giáo khắp cả nước đều đổ về, tuy rằng mỗi người giọng, mày tao răng rứa loạn cả lên, nhưng ai nấy đều hết sức hưng phấn. Chúng tôi bao giờ thấy nhiều người như thế đâu, cảm giác như có thêm hai con mắt nữa cũng đủ nhìn, là choáng váng. Vừa mới xuống tàu, liền bị dòng người tràn lên cuốn , kết quả là tôi và Tuyền béo lạc khỏi đội hình. Hai thằng chúng tôi bàn bạc hồi, quyết định là bị lạc cũng chẳng sao hết, đốm lửa cũng có thể thiêu cháy cả thảo nguyên, chi bằng cứ thế tham gia hành động cách mạng, trực tiếp thẳng đến Thiên An môn là được rồi. Nghe , Thiên An môn rất gần ga xe lửa, Mao chủ tịch đứng lầu cao tiếp kiến đại biểu Hồng vệ binh, cứ đến thẳng đấy gặp chủ tịch, báo cáo tình hình đấu tranh cho oách. Chủ ý quyết, tôi và Tuyền béo liền xếp hàng , túi đeo vai, thẳng chân tiến bước, hùng dũng oai vệ bước đều. Bấy giờ trẻ con, lại mới được lên thủ đô, cảm xúc dâng trào nên hai chúng tôi quên cả hỏi đường, cứ thấy chỗ nào đông vui náo nhiệt là chỗ đó. Tôi và Tuyền béo theo dòng người khắp nơi phố, càng người càng ít, đường Bắc Kinh tuy cắt nhau như bàn cờ, nhưng những con ngõ sâu thông khắp chốn khiến người ta đau đầu. Tôi thấy cứ tiếp tục thế này ổn, trời sắp tối đến nơi rồi, mà hôm ấy lại u, phân biệt được đâu là Đông Tây Nam Bắc nữa, phỏng chừng nguyện vọng gặp được Mao chủ tịch thành rồi, cần phải nhanh chóng tìm quần chúng cách mạng hỏi thăm xem gần đây có trường học hay cơ quan nào chiêu đãi Hồng vệ binh hay mới được. nghĩ thế, hai chúng tôi liền trông thấy mặc quân trang cũ màu vàng, đeo thắt lưng vũ trang, cầm tờ báo chữ lớn phía trước. Tôi với Tuyền béo, chúng ta lên hỏi bạn kia , vậy là hai thằng liền sải chân bước dài, chạy đuổi theo đó. Vì thời bấy giờ, mỗi khi mở miệng chuyện đều phải đọc câu trong “Ngữ lục” của Mao chủ tịch trước, nên tôi vừa bước phía sau vừa cất tiếng: “Hỏi mặt đất mênh mang, ai chìm nổi? Bạn ơi, cho mình hỏi, bọn mình từ phương Nam đến, muốn hỏi thăm mặt đất mênh mang, nơi đâu là...” Giấc mơ ấy của tôi, thực tế chính là tình cảnh lúc tôi gặp Đinh Tư Điềm lần đầu tiên, trong mơ cũng lờ mờ cảm thấy đó chính là Đinh Tư Điềm, đồng thời cũng biết, nhanh chóng quay người lại, mỉm cười với chúng tôi, trong lòng chợt dâng lên chút cảm giác vừa chua xót lại vừa ấm áp. Đinh Tư Điềm trong giấc mơ đột nhiên quay đầu lại nhưng gương mặt ấy lạnh lẽo cực cùng, hoàn toàn phải Đinh Tư Điềm mà chúng tôi quen thuộc. Tuy mặc quân trang màu vàng, tay có phù hiệu của Hồng vệ binh, nhưng mặt lại đeo tấm mặt nạ kim loại hề có chút xúc cảm nào, chỗ hai hốc mắt là hai cái hố sâu hoắm u ám, vừa đối diện với chúng tôi, liền bắn ra hai tia sáng lạnh lẽo. Bị ánh mắt lạnh lẽo như băng ấy chiếu phải, tôi lập tức cảm thấy tâm can phế phổi như chạm vào băng đá, toàn thân lạnh buốt. Người tôi đầm đìa mồ hôi, giật bắn mình tỉnh dậy ngay tắp lự, tim loạn nhịp đập thình thịch thình thịch, chỉ thấy trong phòng chứa đồ tối đen như mực, cũng biết ngủ bao lâu rồi nữa. Tôi định thần lại, thầm nhủ cũng may chỉ là cơn ác mộng, đời này chỉ mong phải gặp lại mụ bà đeo mặt nạ kim loại ấy lần nào nữa. Ngủ giấc, tinh lực cũng khôi phục phần nào, cảm thấy chân tay đều có sức, chỉ còn vết thương vai là vẫn vừa đau vừa ngứa. Nghe người ta , vết thương ngứa ngáy là dấu hiệu sắp hồi phục, nhưng tôi cảm thấy mu bàn tay cũng hơi tê tê ngứa ngứa, rờ thử vào, liền thấy toàn là mụn nước mưng mủ hết cả lên. Tôi vội bật đèn pin đeo trước ngực chiếu vào, phát ra mu bàn tay mình bắt đầu hơi rữa ra, ngửi có mùi như thịt bò thối, lại hơi tanh tanh như là cá ươn. Bấy giờ tôi mới sực nhớ ra, lúc nãy chỉ lo giải độc cho Đinh Tư Điềm, đầu óc mông muội, ngờ gạt hết chuyện mình và Tuyền béo bị nước thối của cây thi sâm bắn phải ra khỏi đầu. Lúc mới phát ra, tôi từng nghi ngờ mình có thể trúng độc, giờ quả nhiên sai, nhưng Tễ hồng hương cho Đinh Tư Điềm uống hết, còn để lại hạt nào, vả lại cái hạt thịt ở chân con thủ cung ấy chỉ khắc chế được các loại độc của rắn rết, sâu bọ mà thôi. Còn cây thi sâm của nước Hồi Hồi kia, chẳng phải là thực vật cũng phải độc vật, độc tố toàn là do những tử thi thối rữa tiết ra, có cả trăm loại độc khác nhau, tuy biết là có độc đấy, nhưng lại độc tính thế nào, cũng chẳng biết nên tìm thứ gì mới giải độc được nữa. Quả tim tôi như chìm xuống đáy biển sâu, nhưng cũng may bình thường tôi khá thoáng đạt với chuyện sinh tử của cá nhân, chỉ buồn lát, rồi lại nghĩ cũng chẳng còn sớm nữa, đến lúc lên đường rồi, nếu có chết cũng đừng chết ở chỗ quái quỷ này là được. Tôi cầm đèn pin lên chiếu vào những người khác, Tuyền béo ngáy to như sấm, miệng vẫn còn ú ớ mơ: “Cha mẹ mày... dám dọa ông à! Hừ hừ hừ hừ, ông đánh cho mày... đập cho mày... cả linh hồn lẫn thể xác... quét sạch cả vào bãi rác của... của lịch sử...” Còn bệnh tình của Đinh Tư Điềm dường như đỡ nhiêu, nhưng cũng mơ gì đó, nghe , chỉ thấy lồng ngực phập phồng. Tôi nhìn dung nhan tiều tụy của , thầm nhủ đúng là may mắn , vừa nãy bọn tôi quá liều lĩnh, chỉ dựa vào chút kinh nghiệm từ bé mà dám cho ăn mấy hạt Tễ hồng hương ấy, chẳng may khiến trúng độc nặng thêm, hoặc có tác dụng gì, há chẳng phải hại tính mạng rồi sao? Nếu bây giờ cho tôi chọn lựa lại lần nữa, chưa chắc tôi có quyết liệt dám lấy tính mạng Đinh Tư Điềm ra đánh cược như thế. Lúc ấy, toàn là do cuống quá u mê cả đầu óc mới đánh liều phen, ngờ lại cứu được , xem ra, giai cấp vô sản quả nhiên là có sức mạnh sáng tạo nên kỳ tích. Tôi còn để tâm đến chất độc mình trúng phải nữa, ngược lại còn lấy làm đắc ý trước những gì mình làm được hôm nay, nhưng rồi đột nhiên cảm thấy ổn lắm, khoảng quá độ từ lúc đầu óc còn đắm chìm trong cơn ác mộng đến khi tỉnh táo hoàn toàn cuối cùng kết thúc, lúc này mới phát ra lão Dương Bì bị trói cứng cả tay chân biến mất. mặt đất chỉ còn lại mấy đoạn thắt lưng da bị cắt đứt, thanh bảo đao Khang Hy vẫn nằm trong vỏ da bên cạnh. ra lão Dương Bì lợi dụng lúc chúng tôi ngủ say, xoay tay trộm lấy thanh đao bên cạnh Tuyền béo, rồi dùng lưỡi đao cắt đứt thắt lưng, lẳng lặng trốn mất rồi. Tôi vội đánh thức Tuyền béo dậy, tình hình với cậu ta, nhất thiết phải bắt được lão Dương Bì về đây. Lúc này, Đinh Tư Điềm cũng bị tiếng chuyện của chúng tôi làm thức giấc, tuy thần trí tỉnh táo hoàn toàn, màu xanh gương mặt cũng còn nữa, nhưng sắc mặt vẫn còn vàng vọt yếu ớt lắm. Chỉ nghe mơ màng hỏi tôi xảy ra chuyện gì. Tôi chẳng còn cách nào che giấu, bèn kể sơ qua tình hình từ sau khi bị hôn mê, Tuyền béo lại bổ sung thêm vụ lão Dương Bì là kẻ thù giai cấp xâm nhập vào quần chúng nhân dân. Đinh Tư Điềm sao có thể được, cậu ta bèn chỉ mặt tôi : “Cậu này thế mà, lúc về còn phải mở đại hội phê đấu vạch trần bộ mặt đen tối của lão Dương Bì ra nữa cơ.” Tôi đành phải ra: “Chúng ta hai ngày đêm chưa chợp mắt rồi, tôi sợ mọi người mệt quá cưỡng lại được mà ngủ hết, lão Dương Bì làm chuyện gì ngu ngốc, vì vậy mới kiếm cớ trói ông lão lại. ngờ trăm cẩn thận nghìn cẩn thận cũng vẫn sơ suất. Đừng tưởng lão Dương Bì bình thường ít , nhưng ông già ấy mà quyết chuyện gì rồi ba bò chín trâu cũng ngăn được đâu. Tôi thấy ông già này tư tưởng mê tín nghiêm trọng lắm, chắc là chiêu hồn dẫn phách cho em trai Dương Nhị Đản của mình rồi.” Qua tiếp xúc khoảng thời gian, tôi dám chắc rằng lão Dương Bì tỉnh dậy trước, rồi lén quay trở lại gian mật thất kia để tìm cái rương đồng thần bí. Chỉ có điều chúng tôi đều ngủ quá say, cũng biết ông già bao nhiêu lâu rồi, giờ có đuổi theo sợ rằng cũng quá muộn. Tuyền béo : “Được rồi, Nhất này, tôi bảo cho cậu biết nhé, lần sau đừng có mà giở trò gạt tôi làm đao phủ cho cậu nữa, tôi còn tưởng cậu cảnh giác cao, tìm được động hướng mới cho cuộc đấu tranh giai cấp nữa chứ, ra lão Dương Bì vẫn là lão Dương Bì, giờ tính sao đây? Chúng ta mau quay lại gian mật thất kia tìm ông lão hay là sao? Tôi... tôi vừa nãy nằm ngủ, còn mơ... mơ thấy cái xác đàn bà trong mật thất ấy, bộ mặt quỷ lạnh lẽo ấy đúng là tà môn chết được, nhưng may mà tôi đây nộ khí thiên binh bốc cửu trùng, quét sạch nghìn quân như cuộn quyển, đá đít cả linh hồn lẫn thể xác của nó vào đống rác đầy bụi bặm của lịch sử rồi.” Đinh Tư Điềm nghe Tuyền béo thế, cũng khe khẽ thốt lên: “Hả... sao bạn Tuyền béo cũng mơ thấy cái xác đó à? Mình... mình vừa nãy cũng mơ thấy, biết các bạn có cảm giác gì , chứ... chứ mình cảm thấy... cái xác... cái xác ấy... vẫn còn sống...” Vừa nãy tôi nghe Tuyền béo mơ, là biết cậu ta mơ thấy nữ vu sư người Tiên Ty ấy rồi, ngờ Đinh Tư Điềm cũng có giấc mơ như thế. Hai người còn có thể là trùng hợp, nhưng cả ba người cùng mơ thấy đúng là gặp ma rồi. Vả lại, cảm giác mà Đinh Tư Điềm ấy, bản thân tôi cũng cảm nhận được cách sâu sắc, có điều, dường như phải cảm giác của người sống, trực quan, rất khó dùng lời để miêu tả, đó chỉ là cảm giác rất mãnh liệt, thứ cảm giác khiến người ta rợn hết cả người.
Chương 44 Con đường tăm tối ôi và Tuyền béo, Đinh Tư Điềm bàn tính sơ qua rồi đưa ra quyết định, dù trong mật thất ấy có ma chăng nữa cũng phải đánh liều quay lại, nhất thiết phải tìm được lão Dương Bì, sống thấy người, chết phải thấy xác. Dẫu rằng trước đây ông lão từng là kẻ trộm mộ đổ đấu, nhưng xét thành phần chắc cũng vẫn thuộc đại đa số quần chúng nhân dân có thể đoàn kết lại. Người làm nghề đổ đấu phải dựa vào tay nghề để kiếm sống, có vốn sản xuất, cùng lắm cũng chỉ có thể coi là nghề thuộc các ngành thủ công, tranh chấp với chúng tôi chẳng qua chỉ là mâu thuẫn trong nội bộ quần chúng. Vả lại, những chủ mộ bị trộm ấy, gần như toàn bộ đều là giai cấp thống trị bóc lột ở bên kia giới tuyến với nhân dân lao động, nhìn xa hơn các vị hùng hảo hán khởi nghĩa tạo phản trong lịch sử, đa phần cũng đều có những tích hùng quật mộ đế vương, từ Trương Hiến Trung của quân Xích My, quân khởi nghĩa nông dân thời xưa chẳng mấy ai là làm qua những chuyện này cả. Vì vậy, lúc đó chúng tôi cũng cảm thấy người làm nghề đổ đấu là có gì sai trong xã hội cũ xấu xa tội lỗi ấy, thử hỏi có bao nhiêu người nghèo phải đổ cả máu và mồ hôi chứ, tạo phản liệu có được chăng? Tóm lại, dù gì gì, cũng phải tìm lão Dương Bì về. Tôi vốn định bảo Đinh Tư Điềm và Tuyền béo ở lại, để mình tôi tìm lão Dương Bì, nhưng Đinh Tư Điềm bất chấp thân thể yếu ớt, nghiến răng đòi cùng. biết phải làm sao, tôi đành chấp nhận để cả ba người cùng quay lại. Khi ấy, đối với cái xác của người đàn bà bộ tộc Tiên Ty kia, chúng tôi có nhận thức ngầm bám rễ vào trong óc, tuy ngoài miệng ra, nhưng trong tiềm thức, đều coi nó là dạng nữ quái kiểu như Bạch Cốt tinh rồi. Vì vậy, bất giác cả ba đều lẩm nhẩm: “Khỉ vàng vung gậy nghìn cân, điện ngọc trong veo vạn dặm trần. Hôm nay gọi vang Tôn đại thánh, chỉ bởi khí lại cuộn dần” để tăng thêm lòng can đảm. Chúng tôi vừa vừa lẩm nhẩm, vừa cổ vũ cho nhau, ra cũng kỳ quái, ngờ lại hề có cảm giác sợ hãi gì, có thể thấy ‘bom nguyên Tử tinh thần’ đúng phải là thứ Mao chủ tịch bốc phét ra. Ba người quay lại đường cũ, thoáng cái vòng trở lại cửa trước của gian mật thất đó. Tuyền béo vẫn luôn mồm niệm: “Tất cả bè phái phản động đều chỉ là lũ hổ giấy” để tăng lòng can đảm. Tôi vội bịt miệng cậu ta lại, với cậu ta và Đinh Tư Điềm: “Hai người có cảm giác thấy quanh đây thay đổi gì ? Hình như giống như lúc chúng ta lần đầu bước vào cho lắm.” Đinh Tư Điềm có mẫn cảm trời sinh, lập tức đáp ngay: “Hình như... hình như bóng ma trong gian mật thất còn ở đây nữa, có cảm giác lạnh hết cả sống lưng khi chúng ta đến đây lần đầu tiên...” sai, đứng trước cửa gian mật thất tôi cảm thấy có điều kỳ lạ rồi, cảm giác uy hiếp lặng lẽ lan tỏa trong bóng tối còn nữa, phải vì “bom nguyên Tử tinh thần” của chúng tôi làm tăng thêm lòng can đảm, mà bởi thứ khiến cho tâm thần người ta hốt hoảng bất an trong mật thất biến mất. Lẽ nào cái xác nữ đeo mặt nạ kia còn ở đấy nữa? Cảm giác thấp thỏm vì hiểu chân tướng còn khiến chúng tôi bất an hơn uy hiếp trực tiếp, cứ đứng trước cửa mà đoán lung tung thế này, chi bằng tận mắt chứng thực, vào trong xem cho ràng. Nghĩ tới đây, ba bọn tôi bèn hướng vào phía bên trong gọi tên lão Dương Bì mấy lượt, thấy có hồi đáp gì, liền dựa sát bên nhau, tiến vào mật thất. Chúng tôi giơ đèn pin lên chiếu vòng xung quanh, vẫn là cảnh tượng bừa bộn ấy, cây thi sâm chết khô và những xác chết thối rữa nằm nghiêng ngả khắp sàn nhà, đưa ánh mắt vào phía bên trong nữa, chúng tôi đều kìm được mà “í” lên tiếng. Nằm ngoài dự đoán của chúng tôi, cái xác nữ vu sư đeo mặt nạ kim loại ấy vẫn lặng lẽ nằm bệ xi măng, có điều lần này, chúng tôi có thể cảm nhận được cách ràng, cái xác này cũng khác gì những xác chết khác trong cả viện nghiên cứu này, chẳng qua chỉ là cái vỏ xác có linh hồn mà thôi. uy hiếp tựa hồ như có hồn vẩn vít bên trong gian mật thất hoàn toàn biến mất. Trong lúc chúng tôi thiếp vì quá mệt mỏi, nơi này nhất định xảy ra biến hóa gì đó. Tôi dẫn Tuyền béo và Đinh Tư Điềm xem những nơi khác, trong mật thất cũng thấy bóng dáng lão Dương Bì đâu, cái xác Dương Nhị Đản mặc đồ đen đeo thắt lưng đỏ thối rữa vẫn nằm yên dưới đất. Tuyền béo làm ra vẻ thông minh, gật gù suy đoán: “Lão Dương Bì chắc là sợ bị mở đại hội phê đấu, nên bôi mỡ vào chân cao bay xa chạy rồi, tôi thấy rất có khả năng ông ta qua biên giới, đầu hàng Liên Xô để ăn bánh mì chấm sữa rồi cũng nên.” Tôi lắc đầu : “ thể nào, nếu chạy sang nước khác, ông ấy quay lại gian mật thất này nữa. Lúc chúng ta ra khỏi đây, tôi còn nhớ cái rương đồng của Hoàng đại tiến bị đá vào trong góc, nhưng hai người nhìn xem, sao cái rương ấy lại biến mất rồi? Nhất định là lão Dương Bì quay lại đây mang nó .” Đinh Tư Điềm lo lắng hỏi: “Vì sao ông ấy lại làm vậy? Giờ ông ấy đâu rồi.” Tôi : “Có lẽ ông ấy còn giấu giếm chúng ta về việc sử dụng cái rương đó để gọi hồn...” đến đây, tôi đột nhiên sực nghĩ ra, trong gian mật thất này bỗng dưng còn cảm giác lạnh lẽo u đầy quỷ khí, rất có thể là vì cái rương đồng của hoàng bì tử kia còn nữa. Có lẽ ngay từ đầu chúng tôi quá chủ quan mà đưa ra phán đoán sai lầm vì trông thấy cái xác nữ trong mật thất, lại cảm thấy nơi này hình như có vong linh lẩn khuất. Nhưng thực cảm giác lạnh lẽo u khiến người ta cảm thấy khó chịu từ sâu thẳm trong lòng ấy, đều bắt nguồn từ cái rương đồng có khắc hình hoàng bì tử đó. Cái rương nay bị lão Dương Bì mang rồi, vì vậy gian mật thất cũng còn bầu khí u ám như thể có hồn lượn lờ quanh đây nữa. Cho đến lúc này, chúng tôi vẫn chưa biết bên trong cái rương đồng rốt cuộc đựng gì, có điều, dường như là thứ hung tà chứ chẳng phải cát lợi. hiểu động cơ của lão Dương Bì là gì? Lẽ nào cái xác trong mật thất ấy vốn phải là Dương Nhị Đản, bằng sao lão Dương Bì lại bỏ mặc y lại như thế? Trước mắt, có thể khẳng định rằng, bất luận lão Dương Bì muốn làm gì, ông già cũng là nhân tố bất xác định cực kỳ nguy hiểm. Tôi với Tuyền béo và Đinh Tư Điềm: “Giờ biết lão Dương Bì đâu, mà địa hình khu vực động Bách Nhãn này rất phức tạp, bốn bề đều có nguy cơ, chỉ dựa vào ba người chúng ta, muốn tìm ông ấy chẳng khác gì mò kim đáy bể, tạm thời cứ rút ra khỏi đây rồi bàn tính tiếp vậy.” Tuyền béo : “Trước lúc , cho chỗ này mồi lửa, tránh để hậu họa sau này.” Cậu ta rất khoái trò phóng hỏa, chẳng cần đợi người khác đồng ý, dứt lời liền tìm mồi lửa luôn. Gian mật thất chồng chất đồ gỗ, ván gỗ, Tuyền béo xé tấm vải trắng phủ đồ vật, rồi tìm cồn đổ lên , lửa lập tức bốc ngùn ngụt. Tôi thầm nhủ, đốt cũng tốt, cát bụi lại trở về với cát bụi, để lại thân xác trăm năm tan chắc gì là điều người chết mong muốn, hóa xương cốt, cũng là để họ khỏi phải xấu mặt với hậu nhân. Thấy thế lửa lớn dần, chúng tôi buộc phải lùi dần ra khỏi gian mật thất. Lúc qua chỗ cái xác nữ ấy, tôi lại thể kìm nổi hiếu kỳ, nhủ thầm chắc cũng có nguy hiểm gì, tôi chỉ muốn xem người chết này tại sao lại đeo mặt nạ thôi mà. Nghĩ đoạn, tôi liền dùng bảo đao Khang Hy hất cái mặt nạ mặt cái xác đàn bà ấy ra, ai ngờ thi thể này lại có mặt, gương mặt bên dưới bị khoét cái lỗ lớn, trông khủng bố dị thường. Tôi chỉ liếc cái mà rùng hết cả mình. Lúc này, Đinh Tư Điềm thấy tôi ở phía sau lạch cạch gì đấy, liền ngoái lại nhìn. Tôi vội bảo đừng quay đầu lại, nhưng hết câu cũng trông thấy cái hốc toang hoác mặt cái xác nữ, lập tức kinh hãi đớ người ra tại chỗ. Tôi đột nhiên thoáng động tâm, cái xác đàn bà có mặt này rất có thể còn chứa điều gì đó, nhưng còn kịp xem kỹ hơn nữa rồi. Ngọn lửa cuồn cuộn nuốt trọn cái xác, gọi là xác, nhưng thực ra chỉ là cái vỏ da nguời mà thôi, trong chớp mắt bị thiêu thành tro bụi, chỉ còn lại cái mặt nạ kim loại phát ra những tia sáng kỳ dị màu vàng chói giữa những lưỡi lửa. Thế lửa lan nhanh đến ngờ, bốc lên ngùn ngụt dữ dội, thông đạo ngầm chẳng mấy chốc ùn ùn khói. Tôi và Tuyền béo vội kéo Đinh Tư Điềm sợ đến ngây ngốc cả người, xông qua làn khói chạy mạch ra ngoài, đến cửa tòa nhà mặt đất mới dừng lại bàn bạc xem bước tiếp theo nên hành động như thế nào. Vì chạy gấp quá, vết thương khép miệng vai lại đau nhói, tôi bịt vết thương rồi với Tuyền béo và Đinh Tư Điềm: “Ở bên dưới miếu Hoàng đại tiên vùng Đông Bắc có chôn hai con chồn lông vàng được bọc bằng da người. Người chết bị khoét rỗng, giống như cỗ quan tài bằng da người vậy. Vừa nãy tôi thấy cái xác nữ vu sư cũng rỗng, dưới cái mặt nạ rất có thể là nơi hoàng bì tử nấp. Nó nấp bên trong cỗ da người để giả thần giả quỷ mê hoặc nhân tâm, nữ vu sư rất có thể chỉ là như vậy. Xem ra, Mộ Hoàng Bì Tử ở trong núi Đoàn Sơn thuộc dãy Đại Hưng An Lĩnh, gần như là sản phẩm phục chế dựa theo động Bách Nhãn này, chẳng qua là quy mô hình thế hơn rất nhiều mà thôi.” Tuyền béo đột nhiên sực hiểu: “ ra cái Quỷ nha môn ở núi Đoàn Sơn chỉ là hàng nhái mô phỏng thôi hả, động Bách Nhãn này mới là lối thông xuống cõi ? Chúng ta có nên cho thêm mồi lửa đốt cả ngọn núi này, hủy cái lối thông ấy , để lũ oan hồn quỷ đói trong ấy bò ra ngoài, mưu đồ ngóc đầu trở lại đoạt quyền, đẩy quần chúng nhân dân vào biển lửa lần nữa.” Trong truyền thuyết dân gian ở vùng Đông Bắc, sâu trong sơn động có thú đá đứng sừng sững bên ngoài, là lối thông xuống Địa phủ. Con người ta sau khi chết , hồn tan, mà đều phải quy về nơi đó. Đó là thế giới của người chết, bên trong cũng có thành trì lầu các khác gì nhân gian, chẳng qua chỉ là thế giới của người chết, thuộc về người sống mà thôi. Nếu phải thế gian này có ma quỷ hay , thái độ của tôi dạo gần đây thoảng có chút mơ hồ. Vì có số chuyện đích thực rất khó lý giải, có điều, bảo rằng chốn tào Địa phủ đình đài lầu các trùng trùng điệp điệp tuyệt đối tôi chịu tin. Nghe Tuyền béo thế, tôi liền mắng: “Vớ va vớ vẩn, ban ngày ban mặt, trời đất sáng sủa, làm quái gì có cửa thông xuống cõi chứ. Cái gọi là Quỷ nha môn, chẳng qua chỉ là ngôi mộ quần táng lớn, chôn rất rất nhiều người chết, rồi càng lan truyền càng tà dị, bị người ta coi thành cõi đầy rẫy vong linh tụ tập mà thôi.” Đinh Tư Điềm : “Hồi mình từng nghe bà ngoại kể các câu chuyện trong thủy lục đồ[32], ở chốn tào Địa phủ có rất nhiều cực hình tàn khốc, ấn tượng sâu sắc nhất là có người đàn bà bị lũ quỷ nhét thân dưới vào cái cối xay bằng đá, nghiền thành tương thịt và bọt máu, có con chó mực ở bên cạnh liếm máu, phần máu thịt bị liếm sạch đều chảy cả vào bát sứ, ở kiếp sau biến thành giòi bọ trùng kiến ruồi nhặng cho người đời đánh đập. Thế nhưng, nửa phần của người đàn bà ấy vẫn còn sống. Nghe bà ngoại mình , những người đàn bà hiếu thuận với bề sau khi chết gặp phải kết cục này, bấy giờ mình nghe mà sợ đến nỗi toàn thân nổi hết cả da gà lên. Chốn tào Địa phủ như thế đáng sợ quá, chỉ mong là ông lão Dương Bì chạy vào Quỷ nha môn ấy.” Tuyền béo : “Tư Điềm, sao càng lúc bạn càng trở nên nhát gan vậy nhỉ, dù đời này có tào Địa phủ , những người cách mạng theo chủ nghĩa duy vật chúng ta cũng đến đó cắm cờ hồng, trảm Diêm La, dán lên mặt bọn đầu trâu mặt ngựa mấy tờ báo chữ to, tiện thể phê đấu luôn thằng cha Diêm vương nữa.” Tôi thấy mây mù xung quanh tụ lại, sắc trời u, xem chừng lại sắp tối đến nơi rồi, vậy là chúng tôi rời khỏi khu chăn nuôi trọn hai ngày đêm, cũng chẳng biết tay thủ trưởng họ Nghê kia có phái người tìm chúng tôi hay nữa. Trước mắt, việc cần nhất vẫn là nghĩ cách tìm được lão Dương Bì, bằng chẳng biết phải ăn với những người ở khu chăn nuôi thế nào, nghĩ đoạn, tôi bèn ngắt lời Tuyền béo: “Được rồi được rồi, cậu vẫn chưa chán à? Tôi thấy Quỷ nha môn hay Quỷ môn quan cũng có quan hệ lợi ích trực tiếp gì với chúng ta cả, có điều, trước mắt thể ra khu vực hang động phía sau núi chuyến, vì lão Dương Bì chắc là vào đấy. Và nếu cái của nợ Quỷ môn quan là lối vào cõi , sợ rằng ông già bây giờ đặt chân lên con đường tăm tối ấy mất rồi.” lớp bùn đất trước cửa tòa nhà, có vệt kéo dài về phía sau núi, đây là dấu vết của người kéo món đồ gì đó để lại. Xét về mặt phong thủy, khu vực động Bách Nhãn này có môi trường tự nhiên cực kỳ hiếm thấy. Theo lẽ thường, mức chênh lệch nhiệt độ giữa ban ngày và ban đêm ở vùng thảo nguyên và hoang mạc rất lớn, nhưng ở nơi này chênh lệch lại hề rệt, nhiệt độ và độ ẩm đều tương đối cao, ngoài ra thổ nhưỡng còn có những thành phần đặc biệt có tác dụng bảo tồn xác chết, đồng thời khiến hầu hết thi thể đều mọc lông như lông vũ. Khắp thế giới, sợ rằng khó mà tìm được nơi thứ hai nào khác. Chính bởi đặc thù về mặt thổ nhưỡng ấy, khoảng cách giữa các hạt đất tương đối lớn, nên chất đất cũng khá mềm và rời rạc, khiến dấu vết kéo lê mặt đất hết sức rệt. Lúc chúng tôi đến tòa nhà này lần đầu, hề trông thấy vệt kéo ấy, cần phải hỏi cũng biết, đó chắc chắn là do lão Dương Bì kéo lê chiếc rương đồng của hoàng bì tử vào trong núi để lại. Tuy cái rương đồng lớn, nhưng ôm nó trong thời gian dài cũng rất tốn sức, chắc ông già vừa lôi vừa kéo cái rương đó vào hang chứa xác kia rồi, có trời mới biết tiếp theo ông ấy làm gì nữa. Đinh Tư Điềm phàm chuyện gì cũng nghĩ theo chiều hướng tốt, cho rằng có lẽ lão Dương Bì muốn tìm nơi nào đấy tiêu hủy cái rương chiêu hồn nguy hiểm ấy , để nó lưu lại thế gian này gây họa nữa. Trước khi tìm được lão Dương Bì, tôi cũng khó mà đưa ra kết luận, nên chỉ mong là như thế, sau đó, ba người bèn lần theo dấu vết vào trong núi. Cảm giác tê tê ngứa ngứa tay tôi và Tuyền béo mỗi lúc thêm khó chịu, nhưng hai thằng lại dám gãi, hễ chạm vào bị rỉ nước, đau đến nỗi cứ xuýt xoa hít hà mãi thôi. Tôi sợ Đinh Tư Điềm lo lắng hoặc lại tự trách mình làm liên lụy đến chúng tôi, nên cũng dám chuyện mình trúng độc với , chỉ cố cắn răng chịu đựng, nhưng thực lòng cũng biết với tình trạng này còn kiên trì được bao nhiêu lâu nữa. Có điều, việc khiến tôi lấy làm an ủi nhất là coi như cứu được tính mạng Đinh Tư Điềm, thấy tinh thần và sức khỏe của đều khá hơn nhiều, áp lực trong lòng tôi cũng giảm phần lớn, tinh thần phấn chấn tiến vào khu vực núi đồi phía sau tòa nhà nghiên cứu. Dốc núi này, hiểu là do sụt lở hay do con người phá hủy, mà nguyên mặt cắt của quả núi, bao nhiêu hang động lớn trong lòng núi đều lộ hết cả ra ngoài, cái hang có tượng người đá thú đá khổng lồ ở trước cửa là cái lớn nhất trong các hang động, thoạt nhìn tựa như cái miệng đen ngòm, muốn sâu vào trong, cái hang động như thể cái miệng khổng lồ này chính là con đường duy nhất. Chúng tôi dìu đỡ nhau tiến vào trong hang, bên trong nhấp nháy ánh lân tinh, cảnh vật lờ mờ, nhưng cũng phải tối đen như mực. Trong này có lối rẽ, lòng hang vừa cao vừa rộng, vách đá mát lạnh, sâu bên trong động gió thổi vù vù, khiến người ta khỏi rùng mình hoảng hốt. Khoảng hơn hai trăm bước chân phía trước, là hang sâu hình thang rộng bằng chừng bốn năm cái sân đá bóng, bốn phía có bậc đất chia thành từng tầng xuống dưới, tạo nên hình kim tự tháp ngược. Nhìn các loại công cụ và thiết bị chiếu sáng còn vương vãi lại, bọn tôi cho rằng đây hẳn là khu khai quật quy mô cực lớn. Có điều, khu vực này thực là quá lớn, tôi phát rầu biết phải làm sao mới lần theo được dấu vết của lão Dương Bì, đột nhiên thấy Đinh Tư Điềm bên cạnh lảo đảo thân hình, ọe ra búng máu đen, rồi ngã lăn ra đất. Chú thích [32] Tranh vẽ mười tám tầng địa ngục.
Chương 45 Điện Diêm La inh Tư Điềm đột nhiên ọe ra đống máu đen sau đó ngã vật ra đất, tôi và Tuyền béo đều hoảng hồn, vội luống cuống đỡ ngồi dựa lưng vào bức tường, vốn tưởng rằng chất độc trúng phải bị Tễ hồng hương của con thủ cung áp chế, chẳng ngờ lại còn ọe ra máu đen. Trong lòng tôi hết sức bất an, thầm đoán biết có phải dùng thuốc quá liều chăng? Hay là Tễ hồng hương ấy căn bản có tác dụng giải độc, mà chỉ kéo dài thời gian chất độc phát tác ra thôi? Còn Đinh Tư Điềm gượng đứng lên định tiếp tục tìm lão Dương Bì: “ sao đâu… chỉ là mình hơi bị tức ngực chút thôi mà, nôn máu bầm ra xong dễ chịu hơn nhiều rồi, nghỉ lát là sau đâu. Bát Nhất, rốt cuộc bạn và Tuyền béo cho mình uống thuốc giải độc gì thế? Sao mình cảm thất trong miệng cứ có vị...” Vừa , vừa lảo đảo đứng dậy tiếp. Tôi thấy miễn cưỡng cầm cự, trước mắt khó mà phán đoán ra được tình trạng sức khỏe thế nào, nhưng nôn ra máu đen tuyệt đối phải dấu hiệu tốt lành gì. Có điều, Đinh Tư Điềm hết sức cố chấp, tôi đành phải đỡ tiếp tục tiến bước, bị hỏi rốt cuộc cho uống thuốc gì giải độc, tôi đương nhiên cũng dám đó là hạt thịt móc tiêu bản con thủ cung, chỉ đáp: “Thuốc đắng dã tật, là thuốc bao giờ chẳng có ba phần độc. Thuốc mà, dĩ nhiên thể ngon như kẹo hoa quả được, vả lại cái viện nghiên cứu này bị bỏ hoang nhiều năm rồi, thuốc men trong kho tuy biến chất, nhưng cũng khó tránh khỏi có mùi lạ. Đợi khi nào về khu chăn nuôi, mình kể cho bạn nghe lai lịch của thứ thuốc giải độc này, đảm bảo rất thú vị cho mà xem.” Tuyền béo : “ sai, thề có Mao chủ tịch là bạn cảm thấy rất thú vị, vì vậy trước khi nghe cậu Nhất đây kể chuyện thuốc giải độc, tốt nhất là nên ôn tập lại lần quyển Thép tôi thế đấy của ông Ostrovsky mà chuẩn bị tinh thần cho đầy đủ.” Tôi trừng mắt nhìn cậu ta cái, cũng may là Đinh Tư Điềm nghe hiểu Tuyền béo nhảm cái gì, còn tưởng cậu ta bảo học tập nghị lực ngoan cường chiến đấu với bệnh tật của Pavel Korchagin, nên cũng hỏi gì thêm nữa. Tôi thấy mặt vàng ệch, bước hết sức khó khăn, nhưng tôi biết có khuyên ở lại bên ngoài hang động chờ cũng uổng công vô ích. Tính cách của này quá quật cường, quyết chuyện gì tuyệt đối dễ quay đầu lại, vậy là đành phải để Tuyền béo cõng lên, ba người lại tiếp tục sâu vào trong tìm kiếm tung tích lão Dương Bì. Trong lòng núi đâu đâu cũng có những đốm sáng lập lòe tựa như lửa ma trơi, lại tựa như khoáng thạch, lợi dụng chút ánh sáng nhấp nhóa như sao trời, chúng tôi có thể nhìn thấy lờ mờ đường nét địa hình. Khu khai quật khổng lồ phân bố theo hình thang, tầng tầng lớp lớp xuôi sâu xuống, ở bên ngoài khó có thể nhìn dưới tầng sâu nhất có gì, nhưng trong lớp đất vàng ở những tầng phía đều lộ ra vài bộ phận thi thể, chỗ cái đầu, chỗ cánh tay, tất cả cơ hồ đều mọc lông, bất cứ lúc nào như cũng có thể đội đất sâu chui lên. Chỉ liếc qua góc khu khai quật, có thể hình dung khu vực khai quật này từ xưa là hố chôn xác khổng lồ đến cỡ nào, thực biết có bao nhiêu là xác cổ nằm ở đây nữa. Hẳn “Quy miên địa” mà các sách phong thủy nhắc đến chính là đây rồi, thành phần thổ nhưỡng đặc thù khiến xác chết rơi vào trạng thái tương tự như trạng thái “vũ hóa” trong Đạo giáo. Nhưng thế có tác dụng gì nhỉ? “Vũ hóa” cũng chưa thể thăng thiên thành tiên được, bao nhiêu người sau khi chết đều được chôn cất trong hang động này cách thành tâm thành ý, e rằng đây cũng xuất phát từ hiểu biết và sợ hãi của con người thời xưa đối với quy luật sinh tử. Bọn họ thể chấp nhận thực rằng con người chỉ có thể sống lần, mà hy vọng sau khi chết, sinh mạng có thể tiếp diễn dưới hình thức khác, vậy nên mới có những truyền thuyết về tào Địa phủ. Thảng nhược, người sau khi chết mà có vong linh , nhìn thấy xác mình biến thành hình dạng cổ quái dị dạng thế này, rồi bị người ta đào lên, chẳng hề tôn trọng, thực biêt cảm giác như thế nào nữa? Đống xác chết này già trẻ trai gì cũng có, ăn mặc kỳ quái dị hợm, chúng tôi đều chưa từng thấy bao giờ. Hôm nay chúng tôi cũng nhìn thấy quá nhiều xác chết kỳ hình quái trạng rồi, vốn rằng tinh thần tê liệt còn cảm giác, nhưng đứng trước khu khai quật có cả nghìn vạn xác chết, tầng tầng lớp lớp vô số cương thi, ai nấy đều khỏi run rẩy sợ hãi. Chẳng trách người ta trong Quỷ nha môn là mười tám tầng địa ngục, người sống đặt chân vào đây đều chết đứng tại trận vì khiếp sợ. Trong cái hang lớn toàn là xác người chết này, ngoại trừ ba chúng tôi ra, căn bản có bóng người sống nào, có trời mới biết lão Dương Bì vác cái rương đồng kia chạy tới đây làm gì. Chúng tôi đoán lão Dương Bì chẳng có lý do gì mà xuống cái hố toàn người chết chất thành đống này, rất có khả năng là men theo vách đá vào sâu hang động rồi, nghĩ đoạn, bèn cũng dọc theo mép khu khai quật, tiếp tục tiến vào bên trong. Dọc đường, ba người vừa lo lắng nghiêng ngó khắp nơi, vừa gọi tên lão Dương Bì, bảo ông già mau mau quay lại. Tuyền béo mãi thấy bóng người nào, trong lòng càng thêm nôn nóng, mà ngay từ đầu cũng luôn cho rằng lão Dương Bì có lòng phản quốc, hang động này chạy theo hướng Nam Bắc, qua vùng cao nguyên phía Bắc là biên giới, nên cậu ta bèn hỏi tôi có nên áp dụng thế công chính trị, dùng lời lẽ tuyên truyền tấn công tâm lý lão Dương Bì hay ? Tôi thầm nhủ cái hang quá lớn, chúng tôi cứ như người mù cưỡi ngựa đui tìm kiếm thế này cũng phải là cách hay, chi bằng cứ theo cách của Tuyền béo, kêu gọi trước , nếu lão Dương Bì nấp ở gần đây, biết đâu lại khuyên được ông già hồi tâm chuyển ý cũng nên. Nghĩ thế, tôi bèn gật đầu đồng ý. Tuyền béo lập tức hướng vào sâu trong hang động hét lớn: “Tôi bảo ông này lão Dương Bì, đổ đấu là nghề dựa vào lao động kiếm cơm, mâu thuẫn giữa chúng ta chỉ là mâu thuẫn trong nội bộ nhân dân mà thôi, ông đừng có mơ chạy sang nước ngoài, đoạn tuyệt với nhân dân, đó là con đường chết đấy... Stalin phản bội chủ nghĩa Mác - Lê, phản bội Cách mạng tháng Mười, Matxcơva đau lòng rơi lệ, bia kỷ niệm hùng vô danh cũng chảy nước mắt... ông chớ nên vì hai cái bánh mì chấm sữa mà sai lại càng thêm sai, đứng nhầm đội ngũ cũng phải chuyện gì to tát, ông chỉ cần đứng lại là được thôi mà...” Tôi thực thể nào nghe thêm nổi, vội kéo Tuyền béo lại, chẳng hiểu cậu này hò hét cái của khỉ của nợ gì nữa, trình độ là thấp quá mất. Tôi định thay cậu ta tiếp tục thực chính sách tuyên truyền với lão Dương Bì, bỗng bị Đinh Tư Điềm kéo tay giữ lại, chỉ xuống dưới chân : “Hai bạn nhìn con đường xuống phía dưới này mà xem, bên cũng có dấu vết kéo lê vật nặng, vẫn còn mới nguyên, liệu có phải ông lão Dương Bì xuống bên dưới khu vực khai quật này rồi ?” Tôi cúi đầu xuống nhìn, quả đúng như Đinh Tư Điềm , ở mỗi góc khu khai quật đều có con dốc tương đối thoai thoải, vòng vèo dẫn xuống sâu bên dưới. Con dốc này lát đá, có thể trước đây cũng vùi trong đất, mỗi tầng bị xác chết che mất đoạn, về sau người Nhật Bản đào ra, nền đá còn vương vãi đầy đất. lớp đất vụn ấy còn lưu dấu vết có đồ vật bị kéo qua. Gió hú gào trong sơn động, khí mát rượi cực kỳ thông thoáng, nếu như dấu vết này có từ rất lâu trước đây tuyệt đối thể nào rệt như vậy được, điều này chứng tỏ, lão Dương Bì rất có khả năng mới qua đây chưa được bao lâu. Ba chúng tôi đều nôn nóng muốn tìm lão Dương Bì về, rồi nhanh chóng rời khỏi khu động Bách Nhãn như cơn ác mộng này, thấy cuối cùng cũng có đầu mối, ai nấy đều phấn chấn hẳn lên, vội bước xuống theo con đường đá. Lúc này, cảm giác so với lúc nhìn xuống từ bên ngoài hoàn toàn khác hẳn, càng càng xuống sâu, cơ hồ như áp sát vào những xác chết lộ ra bên ngoài mặt cắt của lớp đất vàng, mà con đường đá này lại rất chật hẹp, người chúng tôi chốc chốc lại cọ phải những cánh tay, cẳng thân của xác chết thò ra bên ngoài. Cảm giác băng lạnh mà có sinh khí ấy khiến dây thần kinh mỗi người lại càng thêm căng ra. Dù vừa sợ vừa mệt, nhưng ai đề nghị bỏ cuộc, tất cả đều nghiến răng tiếp xuống dưới. Tuyền béo đeo đèn pin trước ngực phía trước dò đường, ba người tay nắm tay chầm chậm nhích từng bước xuống con đường đá quanh co. Đường càng càng tối, sâu bên dưới kia dường như có cái miệng khổng lồ, thoạt nhìn chỉ thấy vùng mông lung mờ mịt, nhưng cũng phải đen kịt màu, toát lên vẻ hết sức kỳ dị. Tuyền béo với chúng tôi: “Cái hố chôn người chết này sao mà sâu thế biết, các cậu xem dưới đáy cái hố này liệu có gì được nhỉ?” Đinh Tư Điềm : “ phải hố đâu, chỗ này chôn cất bao nhiêu người chết như thế, sợ rằng bên dưới cũng có vô số xác chết nữa, nơi đây chính xác phải là ngôi mộ khổng lồ mới đúng. biết ông lão Dương Bì sâu xuống dưới này để làm gì...” tới đây, lại khỏi lo lắng thay cho lão Dương Bì, muốn rảo chân bước nhanh, nhưng hai chân mềm nhũn yếu ớt chịu nghe lệnh, nếu phải tôi và Tuyền béo kéo lại, suýt nữa ngã khuỵu xuống rồi. Tôi thấy lòng bàn tay Đinh Tư Điềm đẫm mồ hôi lạnh, biết rằng vừa lo vừa sợ, lòng thầm nhủ: “Cái khu khai quật này của bọn Nhật ràng là càng đào càng sâu, lẽ nào bên dưới tầng tầng lớp lớp xác chết này còn có thứ gì quan trọng? Chẳng lẽ chính là...” Tôi lo bên dưới ngôi mộ cổ của cả vạn con người này chính là địa ngục thổi ra “phần phong” trong truyền thuyết, thể cẩn thận chút, nên bèn bảo Tuyền béo và Đinh Tư Điềm đừng nôn nóng, đến như bọn chuột cống rời hang cũng còn phải tính toán nữa là chúng ta, nhất thiết phải hết sức cẩn thận, chầm chậm, động não suy nghĩ, nhìn kỹ tất cả mọi thứ xung quanh đây, ngộ ngỡ có xảy ra chuyện cũng còn biết đường mà tiến thoái. Đinh Tư Điềm rất đồng ý với quan điểm của tôi, hỏi: “Ông nội bạn hồi trước hình như là thầy phong thủy phải, chắc bạn cũng học được khá nhiều kiến thức của ông nhỉ? Xác chết trong ngôi mộ này đều bị thối rữa, có phải là do nguyên nhân phong thủy gì đó mà bạn hay ? Bọn họ... liệu bọn họ có đột nhiên sống lại thế?” Tôi biết, Đinh Tư Điềm vòng vo như vậy là muốn nhờ tôi tìm lý do để phải sợ hãi, bèn : “Mấy mớ kiến thức ông nội mình dạy toàn là đồ của xã hội cũ, tuy rằng mấy năm nay mình cảm thấy số chuyện ông cũng có lý lẽ riêng, có điều, thể nghe gì tin đấy được.” Như tôi được biết, ngoài nguyên nhân phong thủy ra, cũng có rất nhiều nhân tố khác, người ta sau khi chết , dưới tác dụng của vi khuẩn, thân thể thông thường đều thối rữa. Nhưng loại vi khuẩn làm người chết thối rữa này, cần nhiệt độ thích hợp và môi trường tương đối ẩm thấp mới sinh tồn được. Ở những nơi khí hậu lạnh giá, hoặc thời tiết khô nóng như trong sa mạc hoặc núi tuyết, đều có loại vi khuẩn này tồn tại, vì thế xác khô trong sa mạc và xác đóng băng núi tuyết, đều mục rữa. Ngoài ra còn có nhân tố con người nữa, tỷ như người chết nhập liệm, quan quách được làm bằng loại gỗ tuyển chọn kỹ càng, chất gỗ dày đặc, thông khí, rồi trong quan tài lại bỏ thêm các thứ chống ẩm như vôi bột, than củi, hình thành nên gian kín, khô ráo và có nhiệt độ ổn định, khiến vi khuẩn thể hoạt động xác chết cũng dễ gì mà rữa nát ra được, có thể biến thành xác khô, hoặc thậm chí là xác ướt, thành phần nước trong cơ thể vẫn mất . Ngoài ra, còn có số ngoại lệ đặc biệt, ví dụ như chết vì bệnh thổ tả, hoặc khi còn sống bị bệnh tật giày vò, lúc gần chết cơ thể gần như mất hết nước, trường hợp như thế sau khi chết nhanh chóng biến thành xác khô, dễ gì bị mục rữa. Xác khô hình dạng khô quắt queo, trọng lượng bằng nửa người mới chết hoặc hơn, da dẻ nhăn nheo co rút, thường có màu đen hoặc màu nâu nhạt, lông tóc và móng tay móng chân vẫn có thể tiếp tục mọc dài ra thêm. Hiếm nhất là loại xác nguyên hình hay còn gọi là thi lạp, những thi thể tương đối béo hoặc nhiều mỡ, bị rơi xuống sông hay vào chỗ đất nhiễm phèn, rất dễ hình thành nên lớp “thi lạp” bên ngoài, khiến cái xác bị thối rữa, vì khi ở trong dòng nước, chỗ nào thối rữa đều bị dòng nước cuốn , mang theo cả vi khuẩn gây thối rữa, còn mỡ trong cơ thể biến thành dạng vật chất giống như xà phòng, vừa trơn vừa ngấy, chính là “thi lạp”. Ngoài ra, nếu muối phèn ngấm vào xác, cũng tạo ra thứ cao mỡ trắng mịn đó, xác người được ở bọc bên trong, dễ gì bị thối rữa. Hồi lên cấp II, tôi từng xem triển lãm tiêu bản thi thể do Sở Công an tổ chức, bấy giờ đó được gọi là hoạt động giáo dục tri thức phổ cập, bài trừ mê tín dị đoan. Ông nội Hồ Quốc Hoa cũng với tôi, ông triển lãm tuy khá khoa học, cũng khá là có lý, nhưng toàn diện, vì đời này, nguyên nhân khiến người ta sau khi chết bị thối rữa quá nhiều, cái triển lãm này thể bao quát hết được. Có điều, những chuyện ông tôi kia, đương nhiên tôi dám kể với Đinh Tư Điềm, chỉ là dựa theo ký ức của lần triển lãm ấy mà sơ qua chút với , để khỏi lo lắng những cái xác này nảy sinh thi biến mà thôi. Có điều, người có trí tưởng tượng bình thường, rất dễ nảy sinh liên tưởng với những thứ mình nghe được. Càng khoa học, người ta lại càng liên tưởng đến những truyền thuyết mê tín từ thời phong kiến, đặc biệt là Tuyền béo lại biết lựa lúc lựa lời, mồm lúc nào cũng ngậm chữ “ma” chỉ chực phun ra. Cậu ta cứ vừa vừa cằn nhằn: “Cái Quỷ nha môn này mang tiếng là nơi tà quái, xuống sâu thế này rồi cũng chẳng thấy quái gì, lại càng chẳng có bóng ma nào, chỉ có mỗi đống xác chết mọc đầy lông lá, vớ va vớ vẩn! Lúc ở chỗ cái lò thiêu xác chúng ta nghi thần nghi quỷ lại còn tưởng ở đấy có con ma bị nhốt, thực ra chỉ là bọn hoàng bì tử giở trò thôi, xem ra đúng là ma quỷ ở tại lòng người, kẻ ngu tự chuốc lấy phiền toái vào thân. Đầu óc chúng ta được vũ trang bằng chủ nghĩa Mác - Lê, thêm cả tư tưởng Mao Trạch Đông, nên tin vào mấy cái lý luận của chủ nghĩa duy tâm ấy làm gì, đây là sỉ nhục, là sỉ nhục của chủ nghĩa duy vật thế giới! Thế nhưng tại sao chúng ta lại hết lần này đến lần khác bị ăn quả lừa thế nhỉ? Xem ra bài học lịch sử phải bao giờ cũng khiến người sau cảnh giác, đây là quy luật khách quan của đấu tranh giai cấp, ý chí con người thể nào xoay chuyển được...” Trong tiếng lảm nhảm tự tìm cớ cho mình của Tuyền béo, chúng tôi đến cuối con đường đá ngoằn ngoèo, chỗ này lại xuất cửa hang bị bít kín bằng những khối đá tròn màu trắng, bên dán rất nhiều bùa chú của Nhật Bản. Người Nhật nghi trong động Bách Nhãn này có ma, nên dán loại bùa chú kiểu này ở rất nhiều chỗ, kể cả chỗ lò đốt xác lúc ban đầu. Có điều, ma ở đây, rất có thể chỉ là bọn hoàng bì tử giở trò mà thôi. Bức tường bằng đá ấy bị người ta dỡ ra, lỗ hổng lớn lồ lộ trước mặt chúng tôi, bên trong thoáng hắt ra ánh sáng mờ mờ. Bọn tôi vốn tưởng xuống dưới đáy cái mộ khổng lồ này là tận cùng rồi, chẳng ngờ bên dưới này lại còn gian khác nữa. Chúng tôi cũng dám thẳng vào, chỉ đứng bên ngoài gọi lão Dương Bì mấy tiếng, thấy có hồi đáp, mới quyết định vào, tôi đây tin rằng cái hang này có đáy. Tuyền béo vẫn trước mở đường, tay cầm cây bảo đao Khang Hy, vừa gọi tên lão Dương Bì, vừa lần dò từng bước sâu vào hang. Tôi đỡ Đinh Tư Điềm sát phía sau. Được khoảng hai chục bước, Tuyền béo đột nhiên dừng lại, vẻ mặt hoang mang thào với hai chúng tôi: “Nhất này, vừa nãy ai bảo có ma thế? chẳng có trách nhiệm gì cả, mau nhìn phía trước... phía trước kìa... cái... cái đó là gì thế?” Tôi bước lên mấy bước xem thử, tức da gà nổi khắp người, thầm than hay, sao lại có cả khu đình đài lầu các kiểu cổ thế này, nơi đấy rốt cuộc là ở đâu vậy? Vả lại, trong những kiến trúc cổ xưa này, dường như còn thứ gì đó hoạt động nữa, lẽ nào chúng tôi lạc bước xuống điện Diêm La mất rồi?