Chương 26 Cương thi ôi phát giác vách ống cống xi năng có thêm cái bóng, nghĩ bụng, phen này đúng là chó cắn áo rách, ngờ hồn kia lại theo xuống tận dưới này, nhưng lúc lắng nghe động tĩnh phía sau lại tuyệt có thanh gì cả, tựa hồ như sau lưng bốn chúng tôi, ngoài cái bóng ma ra, căn bản hề tồn tại bất cứ thứ gì nữa. Tôi dám tùy tiện manh động, trong đầu thầm suy đoán ý đồ của bóng ma ấy, ràng là nó thể trực tiếp hại chết chúng tôi được, vì sao vậy nhỉ? Rất có khả năng là thanh bảo đao Khang Hy của lão Dương Bì kỵ tà . Những thứ binh khí từng giết người trong chiến trận, bản thân có mấy phần hung khí, giết người càng nhiều, sát khí càng nặng. Có điều, hoàng đế Khang Hy tuy có ngự giá thân chinh đấy, song chắc gì xông trận sát địch bao giờ, vậy nên đao này chắc thể có sát khí. Tuy nhiên, vật ở trong Tử cấm thành của hoàng gia sao có thể tầm thường được, có thể cái bóng ma kia vẫn có điều úy kị thanh đao này, vậy nên mới chỉ ra tay với chúng tôi qua con đường gián tiếp. Những ý nghĩ lóe lên trong óc, bước chân tôi vẫn dừng lại, chỉ thấy ngọn đuốc trong tay lão Dương Bì cháy hết đến nơi. Nếu nhân lúc vẫn còn chút ánh sáng mà nhìn cho ràng, kéo dài thời gian thêm nữa chỉ càng bất lợi. Tôi tuy cũng hơi sờ sợ, nhưng thể đánh liều phen, nghiến răng quay đầu lại nhìn cho ràng. triệt để thoát khỏi đeo bám của bóng ma, sợ rằng chúng tôi khó mà thoát khỏi nơi đây. Tôi xuất kỳ bất ý, đột nhiên quay ngoắt người lại, vốn tưởng rằng trông thấy gì đó, rồi gọi Tuyền béo rút đao đuổi ma, ngờ lại được phen chưng hửng, trước mắt chỉ có đường ống cống tối đen như mực, đừng là bóng ma bóng quỷ gì, đến cả mấy con giòi bọ, gián giếc cũng chẳng có. Bóng đen tường cũng biến mất trong khoảnh khắc tôi vừa quay người lại, chỉ còn lại mùi hôi thối vẫn lan tỏa trong gian tối tăm mờ mịt. Tôi dõi mắt nhìn vào đường ống cống sâu hun hút, tim đập thình thịch, có thể cảm nhận được, ở trong chỗ tối tăm kia, thực có đôi mắt oán độc nhìn về phía này, toàn thân tôi nổi hết cả da gà lên, cảm giác lạnh lẽo xuyên thấu qua lồng ngực. Nhưng chỉ với ánh sáng của ngọn đuốc, chúng tôi cũng chẳng thể làm gì được nó. Tôị ngập ngừng chưa biết tính sao, mấy người hội lão Dương Bì, Đinh Tư Điềm và Tuyền béo bị hành động đột nhiên xoay người ấy làm cho sợ tái cả mặt, lại còn tưởng phía sau xảy ra chuyện gì. Cả bọn đều dừng lại ngoảnh đầu ngó nghiêng, họ thấy tôi cứ nhìn chằm chằm vào đường ống cống tối tăm bần thần cả người ra, tưởng lúc tôi ở trong gian đốt xác bị kinh hãi quá độ, vội vàng kéo lại hỏi han tình hình. Tôi thầm nhủ: “Nếu vừa nãy phát ra phía sau có cái bóng theo chúng tôi há chẳng phải là đánh cỏ động rắn hay sao? Chi bằng tạm thời ra, tùy cơ hành động thôi vậy.” Nghĩ đoạn, liền với mọi người: “ mãi trong cái cống thối hoắc này mà thấy lối ra, tôi thấy hơi lo lo nên dừng lại quan sát địa hình chút thôi.” Đinh Tư Điềm thấy vậy bèn an ủi: “Đường ống cống này vừa dài vừa sâu, chắc hẳn mặt đất ngoài tòa nhà ba tầng có cái lò đốt xác ấy, còn có rất nhiều công trình kiến trúc khác nữa. Nếu là vậy, thế nào cũng có những đường cống khác nối liền với đường này, nước bẩn cuối cùng tụ hợp lại chỗ, chúng ta cứ tiếp, thế nào cũng gặp cửa ra thôi. Tôi gật đầu khen phải, kiên trì đến cùng thấy thắng lợi. Từ lúc sáng sớm xuất phát tìm bò, cho đến giờ quá nửa đêm, cả ngày trời đằng đẵng vất vả khôn cùng, nhưng chưa tìm được lối ra chưa thể thả lỏng mình được, cần phải đề cao cảnh giác mà tiếp tục tiến lên. Nghĩ xong, tôi bảo lão Dương Bì đốt cây đuốc mới, rồi lại bảo Tuyền béo đưa thanh bảo đao Khang Hy cho. Bốn người lấy lại tinh thần, tiếp tục bước , tôi vẫn đoạn hậu, bất cứ lúc nào cũng lưu tâm động tĩnh phía sau, nhưng kể từ lúc đó lại thấy có gì dị thường nữa. Tốc độ tiêu hao đuốc nhanh hơn tính toán của chúng tôi, nếu mau ra khỏi đường ống cống tối om này, khi hết nguồn sáng càng có hy vọng rời khỏi nơi đây. Chúng tôi thể rảo bước chân nhanh hơn, mới được quãng xa, thấy đường ống cống xi măng bị cửa chấn song sắt chặn lại, phía dưới còn có cái khóa xích rất to, nửa xích chìm sâu trong nước, chấn song cái nào cái nấy đều to như quả trứng gà. Phía đỉnh đầu có cái nắp cống hình chữ nhật đục đầy lỗ thoát nước, nhưng quá hẹp, thể nào chui lên được, vả lại cũng bị khóa cứng phía bên rồi, căn bản thể nào đẩy ra từ phía dưới này được. Thấy tình hình đó, chúng tôi đều lạnh hết cả người, phía trước còn đường nào để nữa, lần này đúng là tiêu đời rồi. Lão Dương Bì ngồi xổm xuống rờ tay sờ bên dưới lớp nước đen ngòm, đột nhiên mừng rỡ kêu lên: “Đừng cuống, thanh đao của lão là bảo đao ngự dụng, bao nhiêu năm rồi mà lưỡi đao vẫn sắc bén như thế, tuy cắt được mấy thanh sắt này, nhưng đoạn xích sắt ngâm trong bùn này gỉ hết cả rồi, dồn sức vào cũng khó chặt đứt lắm đâu!” Tôi nghe vậy lập tức động lòng, vội cúi xuống kiểm tra đoạn xích bị khóa chặt lại ấy. Cửa sắt kiểu này vốn có chỗ để lắp khóa, ở phía ngoài chỉ có cái then sắt có thể di động được. Dây xích này có lẽ là được khóa tạm vào trong lúc gấp gáp, vì vậy mới bị tuột xuống dưới, đoạn xích ngâm trong nước gỉ sét hết cả, vả lại dây xích cũng hơn các chấn song phía rất nhiều. Thanh bảo đao Khang Hy này được rèn phỏng theo kiểu trường đao của người Mông Cổ, là loại vũ khí chuyên dùng chiến đấu lưng ngựa, sống đao rất dày, tuy thể chém sắt như chém bùn, nhưng muốn chặt đứt sợi xích gỉ này cũng hề khó. Thấy vậy, tôi vội bảo Tuyền béo và Đinh Tư Điềm kéo sợi xích sắt lên, rồi nhắm chuẩn vào mắt xích rút đao chém tới. Sợi xích gỉ to bằng ngón tay lập tức đứt lìa, nhìn lại lưỡi đao, thấy hề sứt mẻ chút nào. Mọi người đều khen lưỡi đao sắc bén, rồi nhanh chóng hợp sức đẩy cửa sắt ra, thêm mấy bước nữa liền gặp ngã tư, trong đó lối rẽ quá hẹp, len vào được. Hai phía còn lại lần lượt đều có cửa cống thoát nước có thể mở được từ phía chúng tôi đứng, xem ra nơi này thuộc khu vực khác rồi. Sau khi mở cánh cửa sắt to nhất, chúng tôi vội vào ngay, nhớ lại cảm giác lúc bị khóa trái trong gian đốt xác lên trời được xuống đất xong đến giờ vẫn thấy rùng cả mình, cũng may đó là lò đốt xác chứ phải nhà ngục, bằng dù có lỗ thoát nước người cũng thể nào chui lọt được. lần thiệt là lần khôn ra, lần này chúng tôi phá hỏng luôn cái khóa cửa sắt, vạn nhất phía trước được cũng đến nỗi còn đường quay lại. Chúng tôi kiểm tra mấy lượt, chắc chắn tuyệt đối thể bị khóa trái từ phía bên này rồi mới đặt chân bước vào trong cánh cửa. Thế nhưng, sau đó vẫn chỉ là đường cống ngầm thối hoắc dài tít tắp thấy tận cùng. Chúng tôi cảm thấy đường cống ngầm này mãi hết, thực tế rất có khả năng chỉ là do ảo giác gây ra. Vì gian xung quanh vừa dài vừa hẹp lại nồng nặc mùi hôi thối, thân thể mệt mỏi, tốc độ bước lại cực kỳ chậm chạp, vậy nên mới sinh ra cảm giác ấy. Sau khi được đoạn, hai bên đường ống cuối cùng cũng bắt đầu xuất số đường ống thoát nước phụ hẹp hơn, nhưng đường kính của chúng đều lớn hơn quả bóng rổ, chỉ có chuột và gián mới có thể chui vào. Ngoài ra còn mấy chỗ khe thoát nước hình chữ nhật, nhưng đều rất hẹp, người chui vào được, ngó vào chỉ thấy tối om om, hiểu là chỗ nào, xem ra phải khu vực nào cũng có cống thoát nước lớn như chỗ lò đốt xác kia. Tôi sau cùng, nhưng lưu ý lắm đến thay đổi của địa hình trong cống ngầm, những thứ này để cho hội Đinh Tư Điềm lo là được rồi, sức chú ý của tôi đều tập trung hết cả ra phía sau để đề phòng bất trắc. Đinh Tư Điềm trước đột nhiên dừng lại, tôi hoàn toàn bị bất ngờ, suýt chút nữa đụng vào người , định thần ngước mắt lên nhìn, ra Tuyền béo và lão Dương Bì trước đều dừng bước. Tôi định hỏi họ xảy ra chuyện gì, nhưng nhờ ánh sáng của ngọn đuốc, phát ra tình. Ở bức vách rất gần chỗ trước mặt Tuyền béo, có vòng tròn màu đen, đường kính cũng khoảng bằng cái miệng cống thoát nước, hình dáng khấp khểnh đều, cũng chẳng theo quy tắc gì. Dưới ánh đuốc, bức vách xi măng màu trắng xám tự dưng có vòng tròn màu đen như thế nên rất nổi bật. Trong ánh lửa bập bùng, chỉ thấy cái vòng màu đen ấy dường như khẽ cựa quậy, Tuyền béo trông thế, tưởng là con rắn nước màu đen bò tường, liền dừng phắt lại. Tôi thầm nhủ rắn nước có loại nào màu đen hay chắc lắm, huống hồ rắn nước sao có thể cuộn thành vòng dính người vách tường như vậy được chứ? Cho dù là rắn, với chiều dài ấy, cơ thể nó cũng thể xíu vậy được, mà chỗ này lại càng thể có giun đất được. Nhưng chúng tôi nhìn lầm, vết đen tường phải là dấu vết bùn đất lắng lại, đích thực là nhích động, tuy biên độ rất , nếu nhìn kỹ rất có thể để ý thấy, còn tưởng rằng đó chỉ là dấu hiệu hình tròn bôi lên bằng thứ bùn đen dưới chân mà thôi. Vòng tròn màu đen ấy thu hút chú ý của chúng tôi, sau khi nhìn đó chắc chắn phải là rắn nước hay du diên gì cuộn thành vòng tròn, bốn người chúng tôi liền bước lại gần mấy bước, quan sát bức vách ấy kỹ hơn. Vừa trông đó là thứ gì, cả bọn đều khỏi rùng mình, da dầu gai gai, tóc gáy dựng ngược cả lên. ra bức vách trét xi măng ấy có cái rãnh hình tròn, bên trong toàn là gián bò ra bò vào, con nào con nấy chẳng to hơn hạt vừng là bao, toàn bộ đều là lũ gián sơ sinh cả, cái rãnh hình tròn này bị chúng nó biến thành ổ đẻ mất rồi, vừa khéo khép đúng vòng, trong ánh sáng mờ ảo này mà đứng xa chút, chắc chắn tưởng rằng vách có vòng tròn màu đen nhúc nhích chầm chậm. Đinh Tư Điềm nhìn thế chỉ thấy buồn nôn, muốn lập tức rời khỏi đây, mau chóng tìm lối ra ở phía trước, nhưng tôi kéo lại : “Đường cống ngầm này chẳng khác nào mê cung, đến phương hướng chúng ta còn chẳng phân biệt nổi, mà đuốc cũng sắp dùng hết rồi, tiếp cũng chẳng biết đến bao giờ mới hết đường cống này nữa. Cái rãnh hình tròn bức vách này kỳ lạ, chừng lại là lối bí mật cũng nên.” Tuyền béo cũng : “Chắc chắn là thế rồi, dùng mông đít cũng nghĩ ra được điều ấy, trong ống cống làm sao lại dễ dàng xuất chỗ khuyết hình dáng quy chuẩn thế này được chứ.” Cậu ta sớm khó chịu với cái ống cống hôi thối này lắm rồi, xong cũng chẳng buồn quan sát kỹ càng, giơ chân lên đạp luôn vào chỗ giữa vòng tròn, làm vô số con gián bên trong khe rãnh bị chấn động chạy toán loạn ra. Mảng vách xi măng ấy lớn lắm, khe rãnh hình tròn là do có người đục ra từ phía bên trong, ở chỗ tiếp giáp khít lắm bò đầy những gián là gián, mảng vách xi măng lỏng lẻo bị Tuyền béo đạp sập xuống, lũ gián lớn gián bên trong liền chạy loạn khắp lên. Lão Dương Bì vội vung đuốc xua chúng ra xa, phía sau mảng vách vừa sập là đường hầm do người đào, bên trong gập ghềnh nhấp nhô, phải quỳ hai gối khom người xuống, khó khăn lắm mới chui vào được. Tính hiếu kỳ của tôi nổi lên, muốn tra xét tận cùng, liền đón lấy cây đuốc chui vào bên trong xem thử. Đoạn đường hầm này chỉ dài khoảng bảy tám mét, ở phía cuối có lối ra hướng lên đậy bằng gạch lát, đẩy lên là mở được. Tôi thò đầu lên quan sát, thấy lối ra này nằm ở bên dưới gầm giường trong gian phòng, trong phòng còn bày bừa bãi rất nhiều thứ linh tinh khác. Bọn Đinh Tư Điềm ở đằng sau gọi tôi mau chui ra, tôi sợ họ lo lắng, nên cũng kịp quan sát kỹ, đành chui ngược trở ra, rồi kể lại tình hình trong ấy cho cả bọn nghe, ở trong ống cống thối mù, người nào người nấy đều cảm thấy bực bội khó chịu, sắp bị hun cho chết đến nơi rồi, nếu có lối thông lên gian phòng, ngại gì mà vào hít thở ít khí trong lành. Vả lại, căn phòng đó hình như còn rất nhiều dồ dùng được, chừng lại tìm đươc đồ ăn và công cụ chiếu sáng cũng nên, ít ra cũng có thêm mấy phần hy vọng sống sót. Vậy là cả bọn đều nhất trí đồng ý, vẫn là tôi bò vào trước tiên. Mới đầu, tôi tưởng đây là nhà giam, còn chỗ khuyết trong đường cống ngầm này là do người bị nhốt bên trong đào khi vượt ngục. Nhưng ngay khi thò đầu ra khỏi gầm giường quan sát, tôi liền tự phủ định ngay phán đoán của mình. Phòng giam tuyệt đối giống như thế này, tôi chuyển mấy viên gạch lát và cái giường ra nơi khác, lần lượt kéo ba người kia lên. Mọi người giơ đuốc quan sát xung quanh, đều cảm thấy hết sức kỳ lạ, nơi này tuy cũng là tầng ngầm, nhưng ràng là có bố trí hệ thống lỗ thông gió khá hoàn thiện, khí lưu thông, hoàn toàn khiến người ta có cảm giác tức ngực khó thở. Gian phòng được bố trí theo phong cách châu Âu điển hình, thậm chí còn có cái lò sưởi trong tường để trang trí nữa. Tuy ở trong gian hầm dưới lòng đất, song chúng tôi đều có cảm giác như mình vừa lạc bước vào miền đất xa lạ nào đấy vậy. Trong đây có đủ mọi đồ dùng cần thiết cho sinh hoạt, sát tường có giá gỗ chất đầy sách, nhưng đường điện đứt từ lâu, thể nào dùng đèn điện được. Đinh Tư Điềm thấy trong phòng bày giá nến dùng để trang trí, bên lại có cả mấy ngọn nến vẫn còn nguyên vẹn chưa hư hao gì, bèn bước tới cầm lên châm lửa, sau đó giơ giá nến lên cao, tò mò quan sát xung quanh, bất giác ra phòng bên ngoài lúc nào cũng chẳng hay. Tuyền béo thấy giá có mấy chai rượu Tây, vừa khéo khát khô cả cổ, bèn cầm lên tu luôn mấy ngụm. Lão Dương Bì quanh năm ngày tháng chỉ biết bò dê lợn gà, biết Tuyền béo uống cái gì, liền hỏi tôi xem cái thứ đựng trong bình thủy tinh ấy là gì thế? Tôi định trả lời, bỗng nghe Đinh Tư Điềm ở gian phòng bên ngoài thét lên kinh hãi, ba chúng tôi vừa nghe có động vội vàng xông qua tiếp ứng. Đinh Tư Điềm thấy chúng tôi chạy tới, liền kinh hãi vòng ra nấp sau lưng tôi. cần hỏi cũng biết chắc trăm phần trăm là trông thấy thứ gì đó kinh khủng lắm, bọn tôi đón lấy giá nến, vừa giơ lên soi sáng gian phòng, cũng khỏi giật thót mình kinh ngạc. Trong miệng Tuyền béo vẫn còn ngậm nửa ngụm rượu Tây chưa kịp nuốt xuống, khi ấy liền “phụt” tiếng, phun hết cả rượu ra ngoài: “Ở đây sao lại có con khỉ chết khô thế?” Lão Dương Bì run run giọng : “Cái cậu này đừng có bậy, khỉ đâu mà khỉ, trong mộ hoang ở Thiểm Tây quê lão, thứ này là nhiều nhất đấy, đây là... là... là là là...” Lúc này ông già cũng kinh hoảng thất sắc, sao tự điều khiển được mình nữa, được đến đấy cứ “là” mãi thôi. Tôi thấy ghế gỗ ở gian bên ngoài có cái xác đàn ông cao lớn ngồi, xác chết mặc áo choàng ngủ, nước trong cơ thể bay hơi sạch, biến thành cương thi rồi, làn da khô đét màu tím mọc ra tầng lông trắng trông như lông chim, nửa người bên dưới mọc lông thú, móng tay sắc nhọn dài thượt mà gãy, uốn lại thành đường cong, ngũ quan hung ác dữ tợn, miệng há hốc, chết nhắm mắt. Vì các xác ấy mọc lông khắp người, nên tướng mạo cũng khó mà nhìn cho được. Tôi đáp thay lão Dương Bì: “Là cỗ cương thi, đừng ai chạm vào nó, người sống chạm vào xảy ra thi biến đâu.” Tuyền béo tin: “Sao cậu biết là cương thi? Chẳng lẽ chạm vào cái là nó nhảy dựng lên luôn à? Cậu lại muốn hù dọa em đấy phỏng?” Tôi chỉ chú ý vào cái xác cổ quái trước mắt, hoàn toàn để ngoài tai những lời của Tuyền béo. Hồi trước chưa lần nào tận mắt trông thấy cương thi, nhưng tương truyền hình dạng của nó đúng là vậy rồi. Trong ánh nến, tôi thấy bàn viết phía trước cỗ cương thi, có mấy tấm giấy ngả vàng viết chi chít chữ, chừng những tờ giấy này là do người chết viết trước lúc lâm chung, cũng biết đâu lại giúp được gì cho việc thoát khỏi nơi đây của chúng tôi. Vậy là tôi đưa giá nến cho Tuyền béo, bảo cậu ta đứng bên soi cho , rồi tôi bịt mũi hết sức dè dặt bước đến phía trước cái xác, đưa tay nhặt mấy tờ giấy đó lên, rồi mau chóng giật lùi trở lại. Tôi bảo Tuyền béo và lão Dương Bì để ý quan sát tử thi và ngọn nến, khi có động, phải mau chóng rút trở về đường cống ngầm, sau đó giơ tờ giấy ngả vàng ấy lên xem thử, bên kín đặc toàn là chữ Nga. Trình độ tiếng Nga của tôi thực quá thấp, đành đưa cho Đinh Tư Điềm xem đó viết gì, rốt cuộc có thông tin gì giá trị hay ? Đinh Tư Điềm nhanh chóng lật xem mấy tờ giấy, rồi thuận miệng dịch cho chúng tôi nghe mấy câu, càng nghe tôi lại càng kinh hồn động phách. ra đây là nhà khoa học người Nga bị quân Nhật giam lỏng, ép phải tham gia hành động trong căn cứ bí mật này. Mấy tờ giấy này là di thư của ông, bên trong có nhắc đến rất nhiều thực khó tưởng tượng ra nổi, người Nhật đào được số thứ ở trong động Bách Nhãn này.
Chương 27 Quy miên địa iếng Nga của Đinh Tư Điềm cũng lâu lắm dùng đến rồi, ngày thường chẳng chịu thắp hương, cuống lên mới ôm chân Phật, đọc bức thư cũng hơi vất vả, tôi bảo đừng nôn nóng, cứ ngồi xuống từ từ xem, có đầu mối rồi hãy cho chúng tôi biết nội dung cụ thể tường tận thế nào, đoạn cùng Tuyền béo, lão Dương Bì bàn bạc. Trạng thái của cỗ cương thi này quá đỗi kỳ lạ, để lại ắt có hậu họa về sau, chúng tôi muốn tạm thời nghỉ ngơi chỉnh đốn ở đây mà có người chết ngồi lù lù ra đấy hẳn cũng khó mà yên tâm được, thôi dứt khoát làm làm cho trót, xử lý cái xác chết này trước . Tuyền béo : “Thế chẳng phải đơn giản quá còn gì? Lấy đao chặt đầu nó xuống, nếu vẫn yên tâm cắt thêm bảy tám chín phát nữa, rồi ném xuống đường cống ngầm là xong.” Lão Dương Bì lại : “Ở Thiểm Tây mà phát cương thi nhất định phải dùng lửa đốt, trước khi đốt còn phải lấy lưới cá phủ lên, để nó nhập vào trong đất tác oai tác quái.” Tôi với lão Dương Bì: “Ở vùng núi Đông Bắc cũng có cách tương tự như vậy, nhưng đấy là để xử lý ma chết treo, phàm là nơi nào có người chết treo, đào sâu ba thước đất ắt phát vật màu đen hình dáng như hòn than, đó chính là oán khí của con ma chết treo ấy lưu lại trước lúc lâm chung, nếu đào lên sớm muộn gì nó cũng tác quái hại người. Có điều, cháu chưa tận mắt thấy bao giờ.” Chẳng ai hy vọng mình chết rồi lại biến ra như vậy cả, hủy diệt cương thi nảy sinh thi biến là việc có lợi cho cả mình lẫn người, nhưng sử dụng cách nào để tiêu hủy cái xác này đây, thiêu đốt hay băm chặt nó ra? Với lại, cái xác này sao lại trở nên quái dị hung tợn nhường này, nửa thân dưới mọc ra lông thú, nửa thân mọc ra lông chim? tìm hiểu được duyên cơ bên trong, tôi vẫn chưa muốn lập tức khinh cử vọng động. Theo tôi được biết, nơi xuất cương thi cũng ngoài mấy nguyên nhân sau. Đầu tiên là do người chết rồi tiêu tán được, lâu ngày khô cứng lại; kế đó là trước lúc chết tự uống thuốc độc mãn tính để ngăn ngừa xác bị thối rữa, hoặc sau khi chết được người nhà đổ thủy ngân vào bụng. Cương thi nào có thủy ngân, người ắt có rất nhiều mảng đốm đen, còn nếu trước lúc chết uống loại dược vật bí truyền trong dân gian bao gồm thạch tín, chì và thủy nhân thi thể chắc lên mốc; ngoài ra, còn loại cương thi do tác dụng của điện khí, xác chết chưa thối rữa, gặp phải điện sinh vật hoặc sét đánh trúng, liền bò dậy bắt người sống. Loại thứ ba thường gặp nhất, còn số tượng tương đối hiếm gặp, chẳng hạn như thi thể bị loài tinh ma quái nào nhập vào, hoặc do cái chết ly kỳ, ngoài ra, những nơi có điều kiện phong thủy đặc thù cũng khiến xác chết lâu ngày thối rữa, da thịt vẫn như lúc sống, có điều những huyệt báu phong thủy kiểu động thiên phúc địa ấy thực là quá hiếm gặp. Tôi móc ra cuốn Thập lục tự dương phong thủy bí thuật lật xem qua, tìm được đoạn có ghi chép về truyền thuyết “Quy miên địa”, trong sách viết rằng: Năm ấy, có người ở bờ biển thấy giữa biển đột nhiên nổi lên tòa núi đen, nhìn kỹ lại, ra là mấy chục con rùa già, lưng cõng theo con rùa khổng lồ dưới biển nổi lên. Những con rùa già này đưa xác con rùa chết đến khe núi, chôn cất cẩn thận rồi mới lục tục bơi trở về biển. Người nấp chỗ quan sát tất cả kia, rất giỏi thuật chọn đất tìm huyệt, biết rằng huyệt địa này là nơi tứ linh tụ hội, trong hang động kia có “long khí xung thiên”. Lúc ấy, vừa khéo trong nhà ông ta có bề vừa qua đời, vậy là sau khi tìm hiểu tình hình bên trong, người đó bèn để xác bề nhà mình trần truồng, quan quách chôn luôn vào trong đó. Sau đấy, người đó liền bình bộ thanh vân, thăng quan phát tài, tạo thành bá nghiệp phương. Chỗ hang rùa ấy cũng trở thành mộ huyệt chuyên dùng của họ nhà đó, mấy trăm năm sau long khí hết, đất sụt xuống, lộ ra vô số xác chết. Người trong vùng quây lại xem, thấy cái xác nào cũng mọc lông vũ vảy rồng, bị gió biển thổi ngày đêm, tất cả đều hóa thành hư . Năm đó, khi đọc đoạn ghi chép này, tôi cảm thấy rất vô lý nên để tâm lắm, nhưng tận mắt thấy cương thi trong hầm ngầm này mọc lông vũ giống như trong Thập lục tự dương phong thủy bí thuật miêu tả, cũng khỏi lấy làm kinh hãi. Rất nhiều năm sau đó, tôi mới biết chân tướng thực. ra ở số nơi hoàn cảnh đặc thù, có loại vi sinh vật khiến cho xác chết vẫn giữ được nguyên vẹn bị thối rữa, nhưng sau thời gian dài làm thi thể nảy sinh biến dị. Ở những nơi thế này, nếu chặt cành cây cắm xuống đất, mấy tháng sau lá cây cũng khô héo. Thời cổ đại, nơi như thế được các vị phong thủy tiên sinh gọi là “cát nhưỡng”, biết bao nhiêu người tốn cả đời, dấu chân in khắp núi non cũng chỉ vì cầu mong tìm được mảnh phong thủy bảo địa như thế mà tâm nguyện cũng thành. Lão Dương Bì và Tuyền béo thấy tôi lật quyển sách cũ rách nát ra, hồi lâu sau cũng đưa ra chủ ý, cứ cằn nhằn hỏi mãi thôi. Tôi gấp cuốn Thập lục tự dương phong thủy bí thuật lại rồi : “Tôi cũng chỉ là học đến đâu dùng đến đấy thôi, chắc lắm đâu nhé. Cỗ cương thi này sở dĩ biến ra như vậy, rất có thể là do ảnh hưởng của môi trường dưới lòng đất này. Chúng ta có lưới cá, cũng có móng lừa đen, nhưng chúng ta có khăn trải giường, muốn tiêu hủy chỉ có cách bọc nó lại, rồi dùng rượu Tây rưới lên mà đốt thôi.” đoạn, tôi liền cùng Tuyền béo, lão Dương Bì lấy vải quấn chặt mũi miệng, và hai tay, rồi lại xé tấm ga giường ở phòng trong ra, bọc kín cái cương thi nước Nga ghế lại, kéo vào trong đường cống ngầm. Tôi bảo Tuyền béo lấy ra mấy chai rượu Tây, biết đây có phải rượu vodka mà người Nga thích uống hay , nhưng đúng là rượu rất mạnh. Tôi đập vỡ cổ chai rưới lên cái xác, rồi lại sợ vẫn chưa đủ, bèn bảo Tuyền béo mang nốt mấy chai còn lại ra, nhưng cu cậu tiếc của vội vàng can ngăn: “Nhất ơi, làm cách mạng phải tiết kiệm chứ, cần kiệm mới làm nên nghiệp lớn, ngần này là đủ lắm rồi.” Tôi đành chịu cậu ta, cầm ngọn đuốc châm lửa xác chết, ngọn lửa bốc lên cao ngang người, cháy lách ta lách tách. Xác chết bị cuốn chặt bên trong ngọn lửa ngừng co giật, tựa hồ như đột nhiên sống dậy, khiến người ta nhìn mà kinh hồn khiếp đảm. Chúng tôi nghiến răng nhăn mặt nhăn mũi đứng đó quan sát, đốt lúc lâu cũng chỉ đốt cái xác thành khối than đen kịt, xem ra muốn tiêu hủy hoàn toàn là thể, trừ phi phải kéo nó lên gian đốt xác kia, dùng lửa to thiêu mới được, nhưng đến thế này chắc cũng tàm tạm được rồi. Lúc chúng tôi trở lại gian phòng của người Nga ấy, Đinh Tư Điềm đọc được quá nửa nội dung bức di thư. Để tiết kiệm nguồn sáng, chúng tôi chỉ đốt ngọn nến, bốn người ngồi quây xung quanh bàn, Tuyền béo rót cho mỗi người ly rượu. Lúc này trạng thái tinh thần và thể lực của ai nấy cũng đều gần đến cực hạn của sức chịu đựng, tuy căn phòng này cũng tuyệt đối chẳng phải nơi tốt lành gì, nhưng so với gian đốt xác và đường cống ngầm như thiên đường với địa ngục rồi. Chúng tôi cần nhân cơ hội này để nghỉ ngơi chỉnh đốn lại, tiện thể nắm bắt được số thông tin quan trọng liên quan đến động Bách Nhãn, sau đó mới có thể vạch ra kế hoạch thoát thân. Tôi với Đinh Tư Điềm: “Ăn nóng phỏng miệng, vội ngã đau, trước mắt chúng ta hoàn toàn có đầu mối gì để hành động, vì vậy làm gì cũng nên nôn nóng nhất thời. Bạn hãy cho mọi người biết rốt cuộc người Nga này viết gì trước lúc chết vậy, chừng những nội dung ấy lại có ích cho chúng ta đấy.” Đinh Tư Điềm định thần, mượn ánh nến xem lướt qua mấy trang giấy, rồi dịch lại những phần đọc hiểu được cho chúng tôi nghe, nhưng có số đoạn hiểu cho lắm, cũng chỉ đành tạm thời bỏ đấy, nội dung ghi chép bên trong đại khái là thế này: trung đội của quân Quan Đông mất tích cách thần bí ở khu vực Hulunber tiếp cận với Mạc Bắc, công tác tìm kiếm được triển khai, đội trinh sát phát ở vùng phụ cận động Bách Nhãn có số tượng thần bí siêu tự nhiên. Động Bách Nhãn là khu vực đồi núi nằm giữa thảo nguyên và đại mạc, vị trí địa lý và môi trường hết sức đặc thù, bên trong chỉ có rừng rậm, mà chỗ khe núi cũng thường xuyên có người và gia súc bị mất tích, còn có rất nhiêu người rằng tận mắt trông thấy rồng ở đó. Lúc bấy giờ Nhật Bản và Đức cùng phe với nhau, đảng Nazi xưa nay luôn tin thờ chủ nghĩa thần bí, nước Đức thông qua số kênh thông tin biết được ở khu vực Mãn Châu có tượng thần bí này, liền cung cấp cho quân Quan Đông số hỗ trợ kỹ thuật, hy vọng có thể triệt để điều trị, tìm hiểu căn nguyên của tượng này. Binh lực của quân Nhật lúc đó khó có thể ứng phó được chiến tuyến quá dài, họ bắt tay chuẩn bị cho cơ quan nghiên cứu vũ khí vi khuẩn quy mô lớn nhất toàn cầu thời bấy giờ, cũng tức là bộ đội phòng dịch bộ đội cấp nước về sau tiếng thối lưu truyền cả ngàn đời. Người Nga viết bức di thư này là hậu duệ của Sa hoàng, lưu vong sang Đức. Ông ta chỉ có thành tựu cực cao đối với y học, đồng thời cũng là chuyên gia về vi khuẩn, thường xuyên bị người Đức giam lỏng, về sau lại bị đảng Quốc xã cho quân Quan Đông “mượn”, ép đến vùng động Bách Nhãn này hỗ trợ hạng mục nghiên cứu bí mật. Trong quá trình điều tra bí mật về động Bách Nhãn, người Nhật đào ra sơn động cực lớn, đáy động tầng tầng lớp lớp điệp trùng, có rất nhiều xác cổ vẫn còn nguyên vẹn. Xác chết thực quá nhiều, dường như đào mãi cũng hết, ở chỗ cao nhất có cái xác chết nữ đeo mặt nạ, ăn mặc thướt tha là nổi bật nhất. Sau khi các chuyên gia kiểm tra và đối chiếu thư tịch cổ, đưa ra kết luận kinh người. Đây chính là vu nữ của Đại Tiên Ty thời Hán trong truyền thuyết. Ở thời kỳ nghề bói toán và vu thuật cực kỳ xương thịnh ấy, đây là nhân vật được bán thần hóa, nơi bà ta được chôn cất có long khí xung chiên, cùng với Cát Tiên động trong núi Đại Tiên Ty ở dãy Đại Hưng An Lĩnh, được người Tiên Ty coi là thánh địa, thường hay tổ chức nghi lễ chôn đá tế núi ở đây. Trong truyền thuyết của người Tiên Ty, chồn lông vàng là tử thần ở chốn gian, còn sơn động chôn xác này, cũng chính là lối vào của địa ngục. Cái gọi là “long khí” này chỉ có ở trong khe núi khu vực động Bách Nhãn, vô hình vô ảnh, lúc có lúc , khiến người ta khó thể nắm bắt, đồng thời có thể nuốt chửng tất cả người và súc vật, chỉ khi nào mây mù bốn phía, sấm giăng sét giật mới trông thấy ở gần khe núi có cái bóng đen hình rồng cuồn cuộn trong mây. Người Nhật Bản cho rằng, đây chính là “phần phong” ghi chép trong kinh Phật được hòa thượng Giám Chân năm xưa Đông độ truyền bá sang đất Nhật, thứ gió ma quỷ này thổi ra từ chốn địa ngục A Tỳ, tất cả sinh linh nơi nó qua đều lập tức biến thành tro bụi. Nếu có thể nắm bắt và sử dụng loại “phần phong” này, ắt hẳn có loại vũ khí có sức hủy diệt cực kỳ khủng khiếp. Trước thiên nhiên vĩ đại, con người quả thực quá bé, căn bản thể nắm bắt được những điều huyền bí hư ảo bên trong. Có điều, với thi thể Tiên Ty dù để ngoài khí cũng có tượng hư hoại này, có thể tiến hành nghiên cứu lĩnh vực vi khuẩn vi nấm, vì vậy người Nhật bèn xây dựng cơ quan nghiên cứu bí mật nửa chìm nửa nổi trong khu núi này, nuôi dưỡng ở đây rất nhiều chuột và các loài kịch độc kiểu như du diên... Khi ấy, quân Nhật tác chiến ở chiến trường nhiệt đới Thái Bình Dương, có rất nhiều người bị các loài độc trùng, rắn độc trong rừng làm hại, lợi dụng môi trường tự nhiên đặc biệt ỏ đây, viện xây dựng khu thí nghiệm chuyên nuôi dưỡng độc vật nhiệt đới, thử dùng các thành phần thổ nhưỡng đặc biệt trong hang động chôn xác của người Tiên Ty để tiến hành thí nghiệm giải độc. Viện nghiên cứu xây xong, càng đào sâu xuống họ càng phát ra nhiêu thi thể kỳ hình quái trạng trong hang động. Đồng thời, trong động Bách Nhãn đột nhiên xuất ma, cứ đến tối là bốn bề ma trơi lấp lóe, ban ngày sương mù mờ mịt, mây sườn núi biến ảo bất định, bên trong những hình dáng như đình đài lầu các, càng đến gần càng mờ mờ mịt mịt. hoàn toàn chẳng thể nào hiểu nổi. Đám người Nhật trong viện nghiên cứu bắt đầu hoảng hốt, vì tượng ma quỷ này ở Nhật cũng có. Họ cho rằng bao nhiêu oan hồn trong hang động chôn xác ấy đều bị thả ra hết, vậy là bèn mời vị Dương sư từ bên Nhật sang, theo chỉ thị của ông ta xây cái lò đốt xác nửa dưới lòng đất bên trong tòa nhà của viện, tất cả các cửa đều nhất loạt bịt kín, mấy lối ra vào và cửa lò cũng phải thiết kế tuân theo cầu đặc biệt. Sau đó, họ đưa lượng lớn xác chết đào được trong động vào lò thiêu sạch, vì cho rằng như vậy có thể trấn áp được vong linh trong hang, mà cũng đích thực là có số tác dụng . Người Nga viết bức di thư này, cả ngày đều phải sống trong hầm ngầm dưới đất, chỉ lúc nào cần ông ta đến trường công tác, ông ta mới được rời khỏi đây. Người Nhật biết rằng dù ông ta có chạy trốn về Liên Xô cũng xử bắn, nên canh gác quá nghiêm mật, có điều tự do rất bị hạn chế. Về sau, ông ta quen bác sĩ quân y Nhật có tư tưởng phản chiến, nhờ vị bác sĩ đó, ông ta tìm hiểu được số tình hình bên ngoài, biết được quân Nhật thất bại, đồng thời lên kế hoạch chạy trốn ra khỏi nơi quỷ quái này. Vị bác sĩ quân y kia cho ông bản đồ và mọi thứ cần thiết khi bỏ trốn. Khi mọi việc chuẩn bị xong xuôi, ông lén đào được đường hầm, định trốn ra theo đường cống ngầm, kết quả là đào nhầm góc độ, vòng qua được cửa sắt. Ông chuẩn bị đào lại lần nữa, có mấy tên thổ phỉ Đông Bắc vận chuyển tới cái rương đồng vừa đào được. Đêm hôm đó, cả viện nghiên cứu vang tiếng còi báo động. Người viết bức di thư này chợt nảy sinh dự cảm cực kỳ đáng sợ, sau khi tiếng còi báo động tắt, bên ngoài liền còn động tĩnh gì nữa, mình ông bị giam trong hầm ngầm này thể ra ngoài, biết rốt cuộc xảy ra chuyện gì. Khi định đào đường hầm mới để trốn thoát, ông phát sinh mạng mình như ngọn đèn cạn dầu, bèn đem hết những gì mình trải qua viết lại, hy vọng có người đọc được lá thư này, cái rương đồng kia là vật cực kỳ nguy hiểm… Bức di thư viết đến đây đột nhiên dừng lại, đến cả ngày tháng cũng có, ràng người Nga kia viết được đến đây qua đời, chúng tôi thậm chí biết tên ông ta là gì, chỉ có thể suy đoán thời gian áng chừng là khoảng trước khi quân Liên Xô xuất binh tấn công quân Quan Đông, vì vậy khi kiện bất ngờ xảy ra, quân Quan Đông kịp thiêu hủy viện nghiên cứu bí mật này. Cái rương đồng kia chứa thứ gì bên trong? nguy hiểm của nó từ đâu tới? Trước khi chết người Nga này rốt cuộc gặp phải chuyện gì? Trước mắt chúng tôi cũng thể nào biết được, có điều những thứ dùng khi chạy trốn của ông ta để lại, chính là thứ bọn tôi cần nhất lúc này, đặc biệt là bản đồ của viện nghiên cứu được nhắc đến trong thư. Ngoài ra, bức di thư của ông ta cũng giải đáp được rất nhiều nghi vấn trong lòng chúng tôi, tuy nhiên, là ông người Nga này cũng chỉ biết rất ít, hai là Đinh Tư Điềm dịch được toàn diện lắm, trong viện nghiên cứu này vẫn còn rất nhiều bí mật mà chúng tôi sao hiểu nổi. Bốn người chúng tôi giờ đều uống ít rượu mạnh, cộng với thân thể mệt mỏi rã rời, chẳng ai muốn nhúc nhích nữa, vốn chỉ định nghỉ ngơi cho lại sức lát rồi dậy tìm bản đồ và công cụ của người Nga kia để lại, sau đó nhanh chóng thoát khỏi đây. Nhưng mấy người bọn Đinh Tư Điềm thực quá mệt, chẳng bao lâu sau đều gục mặt xuống bàn ngủ thiếp . Lão Dương Bì và Tuyền béo ngáy to như sấm, tôi vốn định gọi bọn họ dậy, nhưng bản thân cũng cảm thấy đau nhức khắp mình mẩy, hai mí mắt chuẩn bị lao vào xáp lá cà đến nơi, biết giờ phải lúc để ngủ, nhưng lại tự mình thuyết phục mình, thầm nhủ thôi ở lại cái viện nghiên cứu này đêm vậy. Cho dù vi khuẩn vi rút gì, nếu có bị nhiễm cũng nhiễm xừ nó rồi, sợ cũng chẳng ích gì, giờ cơ thể sắp đến giới hạn chịu đựng, nếu nghỉ ngơi, gặp phải chuyện gì chắc chắn khó mà ứng phó kịp. Chủ ý quyết, tôi bèn ôm chặt cây bảo đao Khang Hy, gạt phắt mọi chuyện ra khỏi đầu, gục mặt xuống bàn ngủ luôn. Ngủ giấc say như chết, cũng biết bao lâu trôi qua, tôi giật mình sực tỉnh, ngọn nến bàn cháy hết từ lâu, trong phòng tối tăm như hũ nút. Tôi vừa động đậy, liền cảm thấy cánh tay cọ vào thứ gì đó bàn, theo bản năng đưa tay sờ thử, dường như cỗ cương thi người Nga bị chúng tôi đốt thành than ấy nằm bàn phải...
Chương 28 Túi đồ kiểu Nga rong bóng tối, tôi rờ lên mặt bàn phía trước, có gì đấy vừa cứng vừa khô, lấy ngón tay miết , liền miết ra ít bột vụn giống như muội than. Phán đoán dựa theo cảm giác nơi đầu ngón tay, bên dưới lớp bột vụn ấy là xương người chết cứng đơ đơ. Sờ thấy xương người chết cũng chẳng có gì lạ, nhưng tôi nhớ rất , mình và lão Dương Bì, Tuyền béo kéo cái cương thi người Nga ấy xuống cống ngầm đốt thành than, da thịt lông tóc đều cháy hết, chỉ còn lại mấy khúc xương đốt được mà thôi. Ai mang cái xác thiêu hết ấy đặt lên bàn thế này? Trong lòng tôi cực kỳ kinh hãi, nhất thời cũng kịp nghĩ nhiều, xung quanh tối om như mực, bàn chắc vẫn còn diêm và cái giá nến sáu cây chúng tôi tìm thấy trong phòng. Tôi thầm tính, phải rờ được những thứ đó thắp sáng lên trước để nhìn cho ràng , bèn đưa tay ra mò thử. Nhưng mò thấy diêm đâu, mà đụng vật vừa cứng vừa tròn, bề mặt có nhiều lỗ, sờ kỹ lại ra là cái đầu lâu người chết. Ngón tay cái của tôi vừa khéo thọc vào hốc mắt của cái đầu lâu ấy, bàn tay khẽ run lên liền hất ngay nó xuống bàn. Lúc này, ở vị trí cái đầu lâu kia rơi xuống mặt bàn phát ra tiếng động, trong bóng tối đột nhiên bùng lên hai đốm lửa ma xanh leo lét. Toàn thân tôi run bắn, cảm thấy thân thể cứng đờ ra như bị bóng đè, tâm thần hoàn toàn bị đốm lửa ma chấn nhiếp, cơ thể như bị hút trống rỗng, chỉ còn lại cái vỏ xác , chẳng thể suy nghĩ, cũng chẳng thể hô hấp. Tôi vốn tin vào cái thuyết con người có hồn phách, nhưng lúc này thực được trải nghiệm thế nào gọi là hồn lìa khỏi xác rồi. lúc hồn bất phụ thể ấy, trước ngực đột nhiên thấy rung rung chấn động, lưỡi đao Khang Hy nằm trong vỏ chợt reo lên mấy tiếng, thanh “ong ong ong” chấn động bầu khí. Ánh mắt như hai đốm lửa ma kia tức tắt lụi, tôi như thể vừa thoát khỏi cơn bóng đè “a” lên tiếng, trước mắt sáng bừng, chỉ thấy mình ngồi ngay ngắn ghế, ngọn nến bàn chỉ còn đoạn ngắn nhưng vẫn chưa tắt, xung quanh giá nến rơi rớt ít xương cốt bị thiêu cháy còn sót lại. Khắp người tôi ướt đẫm mồ hôi lạnh, tựa hồ vừa trải qua cơn ác mộng, nhưng lại hết sức chân thực. Di cốt của cỗ cương thi người Nga kia vẫn còn nằm lù lù mặt bàn, tất cả việc này ràng đơn giản chỉ là giấc mơ. Tôi đưa mắt nhìn quanh, ba người còn lại gục xuống bàn nghỉ ngơi đều tỉnh lại, kể cả Tuyền béo, người nào người nấy ướt đẫm mồ hôi, sắc mặt tái nhợt. cần phải hỏi, vừa nãy họ cũng giống tôi, suýt chút nữa bị hút mất hồn phách trong giấc mộng khủng khiếp ấy. Đinh Tư Điềm lồng ngực phập phồng dữ dội, với chúng tôi: “Có chuyện này ra, mọi người được cho là mình duy tâm chủ nghĩa đâu đấy, trong... trong căn phòng này… căn phòng này cũng có ma, giống như ở gian đốt xác ấy, có lẽ nào trong cái rương đồng ấy giam giữ vong linh gì đó?” Đinh Tư Điềm hoảng hốt trong lòng, cũng chỉ đoán bừa đoán bậy nhưng chúng tôi ai phản bác lại. Vừa nãy ràng là chỉ muốn ngồi xuống nghỉ ngơi giây lát, nhưng ma xui quỷ khiến thế nào cả bốn người đều ngủ thiếp , rồi cùng gặp cơn ác mộng giống hệt nhau, xương cốt của cỗ cương thi người Nga cũng hiểu vì sao lại được mang lên đặt bàn, chúng tôi gặp ma quỷ mới là lạ. Có điều, tôi dường như từng gặp cảm giác lạnh lẽo vừa nãy ở đâu đó rồi, đồng thời cũng ý thức rằng, đó rất có thể phải do người Nga kia tác quái, mà có khả năng là hồn ma trong lò đốt xác vẫn cứ bám theo chúng tôi gây ra. Tôi vuốt thanh đao dài trong lòng, thầm nhủ, cũng may là thanh đao này trấn áp được nó, bằng cả bọn toi mạng cách minh bạch rồi. Những việc khủng khiếp này, liệu có liên quan gì đến cái rương đồng được nhắc đến trong bức di thư kia nhỉ? Mọi người trong viện nghiên cứu này hình như cùng lúc mất mạng hoặc biến mất vào ngày nào đó của hơn hai chục năm về trước, rốt cuộc là xảy ra chuyện gì. Càng chân tướng, lại càng khiến tâm chúng tôi được vững, ai nấy đều cho rằng nên ở đây thêm phút nào nữa, cần phải nhanh tìm thấy bản đồ rồi mau chóng rời khỏi chốn thị phi này càng sớm càng tốt. Nhìn mức độ cháy của ngọn nến, chúng tôi ngủ giấc khoảng bốn năm tiếng đồng hồ, tuy là nằm ngoài kế hoạch, nhưng đầu óc so với lúc trước tỉnh táo hơn nhiều. Tôi mang hết chỗ tàn cốt chưa thiêu hết của người Nga kia cho vào bọc vải gói lại, rồi tìm cái tủ trong phòng bỏ vào, nghĩ lại thấy nhà khoa học người Nga này cũng tội nghiệp. Bị người Nhật nhốt bao lâu như vậy mà sớm chạy muộn chạy, lại nhằm đúng lúc xảy ra chuyện mới nghĩ đến chạy trốn, chắc rằng chết rồi cũng được cam tâm cho lắm, bèn với cái tủ ấy: “Người sinh ra đời phải sống cho vĩ đại, chết cho quang vinh. Lúc sinh tiền ông làm được gì có ích cho nhân dân, lúc chết lại càng phải an phận thủ kỷ. Tuy ông bị người ta uy hiếp bắt phải làm việc, nhưng cũng là giúp kẻ ác làm điều xấu, cuối cùng gặp phải kết cục này cũng là tự ăn quả đắng, thể oán trách được ai. Biển khổ vô biên, sớm quay đầu những lời hối hận phỏng còn ý nghĩa gì? Giờ đây chủ nghía phát xít bị hủy diệt hoàn toàn, đồ đạc trong phòng này của ông, chúng tôi cũng khách khí nữa, nay thay mặt cho nhân dân tịch thu lại hết.” Lúc này, ba người còn lại lục soát cả gian phòng, cuối cùng phát ra trong lò sưởi tường có cái túi. Cái túi này ràng chính là túi hành trang kiểu cũ của người Nga, làm bằng vải buồm, dạng thức như cái bao tải, chẳng có phéc mơ tuya hay khuy nút gì, miệng túi có sợi dây, kéo cái là thắt chặt miệng. Từ thời Thế chiến thứ Nhất loại túi này thịnh hành ở Nga, khoảng trước sau Thế chiến thứ Hai, ở vùng Đông Bắc, Mãn Châu của Trung Quốc cũng thường hay gặp. Nó là điển hình của phong cách kiểu Nga, đơn giản, thô ráp, nặng nề, chịu lực tốt. Lão Dương Bì giơ ngọn nến chiếu sáng, Đinh Tư Điềm và Tuyền béo đổ hết các thứ ra, kiểm tra từng món từng món , phát cái túi của người Nga này chuẩn bị chẳng khác nào túi bách bảo, linh ta linh tinh thứ gì cũng có. Trong các vật phẩm ông ta chuẩn bị, ngoài bình nước và hộp cơm dã chiến ra, thậm chí còn có cả tiền bạc, có lẽ là để mưu sinh sau khi trốn thoát khỏi nơi này, còn có diêm, nến chống gió, mấy bình đựng chất hóa học khoảng mấy chục mililit. Những chất hóa học này là vật thiết thân rất cần khi đào tẩu ở vùng hoang dã, có thể giải độc rửa ruột, mồi lửa, rồi làm tín hiệu dạ quang... nhưng chúng tôi chỉ biết tác dụng chứ lại phân biệt được loại nào với loại nào, cứ lấy rồi tìm hiểu sau vậy. Đinh Tư Điềm lần lượt phân loại, các vật phẩm chúng tôi cần nhất xếp sang bên, thứ nào cần bỏ lên bàn. Kế đó, bọn họ lại tìm được hai cái đèn công binh kiểu Nhật, khác hẳn với đèn pin chúng tôi vẫn thường thấy, hình vuông vuông dẹt dẹt, đen tuyền, to cỡ hai bao thuốc lá. Cái chụp đèn to bằng nắm tay phía trước hình tròn, gắn phía hộp sắt đen ấy, phía sau có chỗ nào nắm tay, nhưng phía có cái tay xách hình tròn cố định, lúc sử dụng có thể lấy dây đai buộc trước ngạc, chiếu sáng trong cự ly ngắn. Trong túi còn có số pin dự trữ nữa. Ngoài ra, còn ít thức ăn. Năm đó, việc hậu cần cung ứng của quân Nhật còn rất lạc hậu, căn bản thể cung cấp lương khô dã chiến cho toàn quân. Nhưng số đơn vị đặc thù được đãi ngộ khác với bộ đội bình thường, chẳng hạn như hải quân, quân và nhiều quân đoàn đặc thù khác. Có lẽ người Nga này được vị bác sĩ quân y người Nhật kia giúp đỡ, nên để dành được ít cá khô, đường viên, đồ hộp... tôi sợ thực phẩm đều biến chất, bèn nếm thử chút, liền phát ra trong môi trường nhiệt độ biến đổi dưới hầm này, số thực phẩm ấy đến giờ vẫn sử dụng được. Điều này, có thể cũng do hoàn cảnh đặc thù khiến cái xác của người Nga kia trải qua hơn hai chục năm cũng thối rữa tạo ra. Trong túi ngờ lại có cả khẩu súng lục Nambu 14 bọc trong vải dầu, loại súng này là do xưởng công binh Nhật Bản chế tạo mô phỏng theo súng lục Luger Parabellum 08 của Đức, tức là súng đeo tiêu chuẩn của sĩ quan Nazi, thân súng có cơ cấu khóa bán tự động, bắn được tám phát đạn. Thời kỳ kháng Nhật, quân dân Trung Quốc gọi loại súng này là “súng poọc hoọc”. Nhà Tuyền béo hồi trước có đống chiến lợi phẩm súng ống tịch thu được của địch, nhìn thấy khẩu “poọc hoọc” này liền như gặp lại bạn cũ. Cậu ta cầm khẩu súng lên ngắm nghía hồi, lớp vải dầu bọc bên ngoài rất kín nên hề có dấu vết gỉ sét, băng đạn cũng còn nguyên chưa bắn phát nào. Có điều loại súng này tồn tại rất nhiều vấn đề về mặt công nghệ thiết kế, các lỗi như kẹt đạn, cướp cò, tịt ngòi rất nhiều, mang nó bên mình cùng lắm cũng chỉ có tác dụng phòng thân mà thôi. Tuyền béo có súng tay chẳng còn để ý gì nữa, rằng nhét luôn vào sau lưng, tôi bèn với cậu ta: “Súng poọc hoọc bản thân dễ sử dụng rồi, vả lại khẩu súng này hơn hai mươi năm nay chưa được duy tu bảo dưỡng, cậu tốt nhất là nên kiềm chế chút, đến lúc vạn bất đắc dĩ cố gắng đừng dùng đến nó. Súng poọc hoọc còn được gọi là súng tự sát, bắn trúng kẻ địch còn đỡ, bắn phải mình toi đời luôn đấy. Tuyền béo định phét lác về tài bắn súng của mình với tôi, Đinh Tư Điềm đột nhiên hoan hỉ reo lên: “Tờ giấy này rất có thể chính là sơ đồ của viện nghiên cứu.” Vừa vừa nhặt tờ giấy trong đống đồ tạp nhạp lên, chúng tôi liền ngừng câu chuyện lại, vội vàng đón lấy tấm bản đồ giơ lên gần ánh nến xem thử, thoáng nhìn liền thấy hơi thất vọng. Có hai tấm bản đồ lớn , tấm là bản đồ bố trí của nơi được gọi là viện nghiên cứu này, có điều chỉ là bản đồ vẽ tay, bên có rất nhiều ký hiệu nhìn rối rắm vô cùng. Ngoài ra còn tấm lớn hơn là bản đồ địa hình của khu vực động Bách Nhãn, phía Bắc nối liền đại mạc, phía Nam nối với thảo nguyên, những điều này lão Dương Bì biết cả rồi, vì vậy ý nghĩa của tấm bản đồ lớn này đối với chúng tôi lớn lắm. Xem kỹ lại tấm bản đồ kết cấu của viện nghiên cứu mấy lượt, mới phát ra nơi này cực kỳ rộng lớn. Tấm bản đồ ấy tuy sơ sài đơn giản, nhưng hóa ra lại rất trực quan dễ hiểu, cũng rất hoàn thiện, chủ yếu là những đường cống ngầm phân bố chằng chịt dưới lòng đất. Nhìn những ký hiệu đánh dấu bản đồ thấy tuyến đường đào tẩu của người Nga đó xuất phát từ gian hầm ngầm này, men theo đường cống ngầm qua chỗ gian đốt xác, sau đó quành qua khu vực giam cầm bị bịt kín hoàn toàn, vòng vòng lên phía Bắc, khe núi phía Tây thỉnh thoảng lại có “phần phong” giết người trong vô hình vô ảnh, ràng là ông ta muốn thoát ra từ khe núi phía Bắc. Chúng tôi vẫn còn chưa hết sợ gian phòng có cỗ cương thi, xem xong bản đồ liền lập tức tìm ra con đường thoát, sau đó quyết định phải nhanh chóng xuất phát. Vậy là cả bọn chia nhau thu thập hết mọi thứ có thể dùng được, cả mấy chai rượu Tây cũng mang theo. Cái đuôi tư bản chủ nghĩa của mấy người đều chưa cắt sạch, trước lúc còn nhặt thêm mấy món đồ chơi Tây hiếm gặp, cả quần áo giày dép gì mặc được cũng bỏ lại. Tôi thấy trong phòng có cái mũ bảo hộ chiến đấu, liền thuận tay đội luôn lên đầu mình. Cái mũ da chó của tôi rơi mất rồi, đầu lại có vết thương hở, đội mũ rất dễ bị uốn ván, cũng khỏi để lũ gián nhảy lung tung dưới nước kia rơi vào tóc. Tôi cứ thế tìm cớ biện minh cho mình, cuối cùng cũng coi như vạch được giới tuyến phân biệt hành vi của mình với hành vi chứng tỏ giác ngộ rất thấp của bọn lão Dương Bì và Tuyền béo. Trở lại đường cống ngầm hôi thối, tính ra bên ngoài trời chắc sáng rồi, tuyến đường thoát khỏi chốn tuyệt cảnh này vạch ra, tuy những việc phải giải quyết sau khi trở về thực khiến người ta phải đau đầu, nhưng dù sao cũng tốt hơn là từng giờ từng khắc nơm nớp lo sợ trong cái viện nghiên cứu có ma này. Chúng tôi đều nóng lòng trở về, vừa tham chiếu bản đồ vừa giơ nến tiến lên, dựa theo tuyến đường vạch ra, chúng tôi phải quay ngược trở lại đoạn. Nhưng chưa được bao lâu, tôi phát ra Đinh Tư Điềm cứ ho mãi, sắc mặt rất ổn. Ban đầu còn tưởng rằng tại thiếu ánh sáng nên nhìn lầm, nhưng khi dừng lại để kiểm tra cho kỹ, liền thấy thần sắc hết sức tiều tụy, giữa hai chân mày phủ làn khí xanh rất , rờ tay lên trán thấy hơi hâm hấp, tuy sốt cao, nhưng nhìn sắc mặt bệnh tình có vẻ hề chút nào. Tôi sớm lo lắng biết đường cống ngầm và lò đốt xác này liệu có vi rút vi khuẩn gì , thấy tình hình đó liền khỏi lo lắng thay cho Đinh Tư Điềm: “Bệnh dịch hạch? Đậu mùa? Nhưng giống như nhiễm phải bệnh truyền nhiễm trong cái viện nghiên cứu bí mật này cho lắm, nếu thế ai cũng có phần, tại sao mình, Tuyền béo và lão Dương Bì đều cảm thấy có tượng gì dị thường cả nhỉ?” Lão Dương Bì và Tuyền béo nghe có động tĩnh cũng đều dừng bước quay lại nhìn , lão Dương Bì hiểu biết các loại thảo dược, có thể coi như nửa ông lang vườn, ông lão quan sát đầu lưỡi Đinh Tư Điềm, rồi lại thử bắt mạch, đoạn kinh hãi kêu lên: “Sợ rằng trúng độc rồi...” Đinh Tư Điềm là hết sức kiên cường, về đây tham gia lao động sản xuất, mấy bệnh vặt, hay vết thương đều nghiến răng chịu đựng, để người khác phải chăm sóc cho mình, vốn định kiên trì đến lúc cả bọn thoát ra ngoài rồi mới , nhưng lúc này cũng biết là thể giấu được nữa, bèn lên tiếng: “Lúc chạy ra khỏi gian thiêu xác, bị hơi độc của con trăn vảy gấm phả ra liền bắt đầu cảm thấy hơi tức ngực khó chịu. Mình thấy mọi người đều sao, nên cũng để tâm lắm, lúc vào đến căn phòng của người Nga đó vẫn chưa thấy gì, nhưng giờ cảm giác càng lúc càng nặng hơn, toàn thân lạnh run, sợ là trúng phải độc của con trăn đó rồi.” Sương độc mà loài trăn vảy gấm phun vào hai giờ Tý, Ngọ rất nồng, lúc đó chúng tôi đều bị vây khốn trong gian đốt xác, tuy kịp thời đào thoát trước khi hít phải thứ sương độc trí mạng ấy, nhưng chất độc quá mạnh, lúc ấy mỗi người đều khỏi cảm thấy váng đầu buồn nôn, sợ rằng ít nhiều hít phải chút. Trăn vảy gấm có tính hàn, chất độc của nó cũng thuộc loại độc, đàn ông dương khí vượng nên thấy gì mấy, nhưng trong cùng điều kiện như thế, phụ nữ lại nhạy cảm với chất độc này hơn nhiều, vậy nên chỉ cần hít phải chút, Đinh Tư Điềm sao chịu đựng nổi. Qua giai đoạn tiềm phục, cuối cùng chất độc bắt đầu phát tác. Nghe đàn bà con mà trúng phải chất độc của trăn vảy gấm phun ra, mắt miệng xanh lét, đồng thời có triệu trứng hâm hấp sốt, hai mắt nảy sinh ảo giác, trông thấy những màu sắc rực rỡ nhảy múa. Nếu có thuốc hoặc biện pháp giải độc, phỏng chừng trong hai mươi bốn tiếng đồng hồ người choáng váng, hít thở khó khăn, toàn thân tê cứng, nghiêm trọng dẫn đến hôn mê bất tỉnh, cuối cùng tử vong vì hệ thống hô hấp ngưng trệ và toàn bộ cơ bắp đều tê liệt. khi chất độc phát tác đến thời kỳ cuối dù Hoa Đà tái thế cũng chẳng thể làm gì được. Lão Dương Bì cuống quýt cả lên: “Hết cứu rồi, hết cứu rồi, thảo nguyên rất khó tìm được loại thảo được giải chất độc này, chúng ta về được khu chăn nuôi rồi chạy đến bệnh viện tiểu khu, nhanh nhất cũng phải mất đến hai ngày, thế chẳng phải Tư Điềm mất mạng rồi sao?” Tuyền béo cũng lo lắng vò đầu bứt tóc, với tôi: “Nhất ơi, cậu có cách gì ? Mau nghĩ cách gì cứu Tư Điềm , thể để ấy chết thế này được!” Tôi thấy tuy Đinh Tư Điềm chỉ hít phải ít hơi độc, đến giờ tình hình tạm coi như ổn định, vẫn còn lại được, thần trí cũng khá tỉnh táo, nhưng triệu chứng trúng độc giai đoạn đầu dù sao cũng xuất . Nếu thoát ra bên ngoài từ khe núi mé phía Bắc, vậy tức là đến vùng giáp ranh với hoang mạc người sinh sống, càng cách xa khu chăn nuôi hơn. Mà dẫu đường vòng ấy, có ngựa, chúng tôi căn bản cũng thể kịp thời đưa đến bệnh viện. Vả lại, ngộ nhỡ chất độc trúng phải lại phát tác trong thời gian ngắn hơn sao? Thêm nữa, ai có thể đảm bảo dọc đường bình an thuận lợi, xảy ra bất cứ chuyện gì ngoài ý muốn nữa chứ? Tôi nhíu chặt mày, cầm bản đồ lên xem thử, rồi lập tức quyết định: “Con trăn vảy gấm đó là do cái viện nghiên cứu này đặc biệt nuôi dưỡng. Bọn họ nghiên cứu nó là để trị liệu cho các binh sĩ bị trúng phải chất độc của loài trăn này chiến trường Thái Bình Dương, chừng ở đây lại có huyết thanh giải độc cũng nên. Khả năng này rất lớn! vào hang cọp sao bắt được cọp con, tôi thấy muốn xoay chuyển tình thế này chỉ còn cách đánh liều phen, đến tòa nhà chính của viện nghiên cứu mà tìm thuốc giải độc thôi.” Để gây áp lực tâm lý cho Đinh Tư Điềm, tôi tỏ vẻ gấp gáp gì cho lắm, sau khi xác định tuyến đường, cả bọn vẫn tiến lên với tốc độ bình thường. Đằng nào xem bản đồ, khoảng cách từ chỗ chúng tôi đến tòa nhà chính cũng xa lắm, có chậm hơn nữa cũng vẫn kịp. Nếu trong tòa nhà chính có thuốc giải độc hay huyết thanh gì đó, vậy mọi chuyện cũng coi như xong. Tôi khỏi ngấm ngầm lo sợ, trong đầu cứ vẩn vơ ý nghĩ ngộ nhỡ có thuốc giải độc sao? Vả lại trong đám bọn tôi, có ai nhận ra được thuốc giải độc nó trông như thế nào đâu? Nghĩ mãi nghĩ mãi, cuối cùng dứt khoát mặc kệ hết, chẳng cần nghĩ ngợi gì nhiều nữa. Tiên sư cha nhà nó, đằng nào cứ làm cho đến cùng trước , ông đây thấy quan tài rơi lệ, đến Hoàng Hà dạ cam. được lúc, chúng tôi tiến vào đường cống ngầm rất rộng, nơi này có rất nhiều đường ống xi măng cùng đổ về. Tuyền béo trước mở đường đột nhiên giẫm phải thứ gì đó, làu bàu chửi đổng rồi nhấc chân hất lên cú, trong làn nước bẩn liền lộ ra mấy khúc xương người chết, có nửa khúc xương chân vẫn còn đeo dính cái giày, tôi định xem cho kỹ, bỗng phát giác, trong bóng tối, đường cống xi măng nơi chúng tôi đứng đột nhiên xoay chuyển.
Chương 29 Cốc tai Molotov[30] em tấm bản đồ viện nghiên cứu mà người Nga đó vẽ, hệ thống thoát nước ngầm này thực tế là dòng sông ngầm được đổi dòng bằng phương pháp nhân tạo. Chính vì trong khe núi ở động Bách Nhãn có rất nhiều mạch nước ngầm, mà hoàn cảnh địa chất cho phép làm kênh dẫn nước mặt đất, người ta đành phải sử dụng hệ thống thoát nước chằng chịt như lưới nhện ngầm bên dưới để dẫn nước ra ngoài, bằng nước ngầm nhấn chìm cả khu vực phía đầu chúng tôi, thể xây dựng viện nghiên cứu bí mật ở vị trí đó được. Nhưng giờ các đường cống của hệ thống thoát nước ngầm gần như khô kiệt, chỉ còn lại ít bùn nhão, có lẽ nguồn nước trong lòng núi kia cũng cạn rồi. Hệ thống thoát nước ngầm chia làm hai phần, phần hoàn toàn bịt kín, phần ở trạng thái nửa đóng nửa mở, trong lúc khẩn cấp có thể dùng làm thông đạo sơ tán, nếu muốn tiếp cận tòa nhà chính, tuyến đường gần nhất chính là thông qua khu vực đường ống bị hoàn toàn phong bế này. Nơi này địa hình phức tạp, các đường ống chằng chịt như mê cung, nếu có tấm bản đồ, thực khó có thể tìm được lối ra. Chúng tôi cầm nến lần dò tìm đến được khu vực khá rộng có nhiều đường ống giao nhau. Ở đây, bốn vách đen như mực, bùn nhão và nước bẩn ngập ngụa, dưới nước toàn sinh vật phù du. Chỗ này chính là trung tâm của hệ thống cống ngầm. Mắt thấy sắp đến được điểm đích đầu tiên, bỗng chúng tôi phát ra trong làn nước đen ngòm dưới chân có rất nhiều xương cốt, nhìn mấy bộ quần áo chưa rữa nát hết, rất có thể đây là các cảnh vệ của viện nghiên cứu bí mật phía . Tuyền béo bịt mũi đưa chân đá đá mấy khúc xương bị ngâm nước nhừ cả ra ấy lên. Chúng tôi thấy thế đều khỏi nghĩ: “Trong đường ống sao lại có xác của quân Nhật nhỉ?” Cả bọn định xem cho ràng, bỗng phát đường ống chợt rung lên, như thể trời xoay đất chuyển. Nhưng đó chỉ là ảo giác của mắt, dưới chân chúng tôi hề có cảm giác rung động. Bọn tôi giơ nến và đuốc, ngẩng đầu lên nhìn, cảnh tượng trước mắt làm cả bốn người đần thối mặt ra. bức vách phía trước, chỉ cách người khoảng mét toàn gián là gián. Gián đen gián nâu đủ cả, lưng mọc cánh, con nào con nấy to phát khiếp, chiều dài ít nhất cũng phải ba đến bốn xăng ti mét, đè lên cả nhau bám chi chít phủ kín bức vách. Bọn gián này sợ rằng bị thành phần nào đó trong nước thải kích thích, chỉ thể hình to gấp đôi gián bình thường, mà còn có thể ăn xác đồng loại, cùng với xác chuột, xác giòi bọ trong đường cống ngầm để duy trì sinh mệnh. Lũ gián vốn tiềm phục bất động, chầm chậm cắn xé lẫn nhau, giờ có bộ phận bị ánh lửa và tiếng bước chân làm kinh động, lập tức nhảy bật lên, trong chớp mắt nảy sinh phản ứng dây chuyền, tất cả gián trong đường ống tựa như sôi sùng sục, bay loạn xạ, vách tường biến thành cái hố đen xoay chuyển cuồn cuộn. Rất nhiều gián rơi xuống, đầu vai chúng tôi lập tức lúc nhúc gián là gián. Tôi định gọi cả bọn chạy ngược lại, nhưng lúc này chẳng ai lo được cho ai nữa rồi, vả lại cũng người nào dám mở mồm ra chuyện. Lũ gián lớn gián rơi xuống làm mấy ngọn đuốc suýt tắt, vừa rơi xuống người là bò loạn xạ, mở miệng ra chừng liền có mấy con chui ngay vào toi đời. Hơn thế, những con gián chút cứ thấy chỗ nào có khe là chui vào, để chúng chui vào tai vào mũi chết, bọn này có thể thông qua màng nhĩ bò thẳng mạch vào trong não người, chúng tôi đành phải ra sức hất những con gián rơi người mình xuống. Lũ gián bò rất nhanh, muốn chạy cũng kịp, đành phải vung đuốc lên xua bọn chúng ra xa, chỉ mong cái lũ khốn kiếp này mau chóng chạy hết. Bốn người hơi định thần lại, dốc hết toàn lực, dùng hết những thứ có thể dùng, cuối cùng lợi dụng mấy ngọn đuốc xua hết lũ gián như dòng nước lũ ấy ra xa khỏi mình. lúc sau, lũ gián trong đường cống ngầm dần dần ít , tôi vươn tay giúp Đinh Tư Điềm và lão Dương Bì hất mấy con gián còn sót lại người xuống, sắc mặt ai nấy tái nhợt, thà để ác quỷ bắt linh hồn , còn hơn là bị lũ gián chôn sống rồi từ từ cắn chết. Tuyền béo với chúng tôi: “Nhân lúc lũ gián tản rồi, chúng ta mau xông ra thôi…” Tuyền béo còn chưa dứt lời, bỗng nghe lão Dương Bì kêu lên tiếng, cả người đột nhiên trầm xuống như bị thứ gì dưới nước kéo ngã lăn. Tôi và Đinh Tư Điềm phát giác có điều ổn, vội vươn tay ra kéo ông lại, nhưng thứ kéo chặt lão Dương Bì kia rất khỏe, tuy tôi chụp được cánh tay ông, nhưng cũng bị luồng sức mạnh khủng khiếp ấy dẫn động, hai chân loạng choạng, suýt chút nữa ngã lăn vào giữa đám bùn đất. Đinh Tư Điềm may mắn như thế, chụp được vạt áo của lão Dương Bì, định ngăn thứ gì đó kia kéo ngược ông già về phía sau, nhưng sức tay có hạn, lại thêm dưới chân trơn tuột đứng vững, vậy là liền ngã oạch. Nhưng vẫn buông tay, liền bị kéo theo ông già vào sâu bên trong đường cống ngầm tối om. Lúc này, Tuyền béo rút ra khẩu Nambu 14, tôi thấy trong bóng tối nhìn mục tiêu, rất dễ ngộ thương người khác, hơn nữa với sức như vậy cái thứ lôi kéo lão Dương Bì và Đinh Tư Điềm cũng thể được. Cùng lúc ấy, trong lòng tôi cũng chợt hiểu ra lai lịch của những bộ xương này, rất có khả năng là khi xảy ra cố, vài người muốn chạy thoát qua đường này nhưng lại gặp phải cái thứ chết người kia, kết quả đều mất mạng trong đường cống tối om. Muốn cứu người thể do dự, bằng chỉ có thể thu xác cho hai người ấy mà thôi, nghĩ đoạn, tôi lập tức rút cây bảo đao Khang Hy, hô lên tiếng với Tuyền béo: “Đừng nổ súng, ném đuốc về phía trước.” Vừa dứt lời, cả người tôi lao bắn như mũi tên. Ngọn đuốc của lão Dương Bì và Đinh Tư Điềm tắt lụi từ lúc bị kéo ngã xuống bùn, làm cách mạng phải tiết kiệm, chúng tôi nỡ dùng đến đèn công binh của người Nga kia, chỉ dùng quần áo và đồ đạc trong phòng ông ta làm thêm mấy cây đuốc thô sơ. Loại đuốc này có lợi cũng có hại, nếu trong đường hầm có trùng độc rắn rết gì đấy, cầm đuốc có thể xua chúng từ xa, hơn nữa còn có thể phán đoán được chất lượng khí có hại với con người hay , nhưng nhược điểm là phạm vi chiếu sáng rất có hạn, chỉ được mấy bước đằng trước, hơi xa chút là chẳng thấy gì nữa. Tôi tay cầm đao, tay giơ đuốc đuổi theo, đành phải bảo Tuyền béo ném cây đuốc trong tay cậu ta ra như ném pháo sáng dò đường, tranh thủ thời gian ngắn ngủi trước khi ngọn đuốc rơi xuống tắt lụi để nhìn tình hình khoảng mười mấy mét phía trước mặt. Tôi vừa cất bước, ngọn đuốc phía sau liền bay vù qua vai, vạch đường parabol thấp trong gian tăm tối, rồi rơi xuống đống nước bùn phía sau tắt ngấm. Nhờ ánh lửa lóe lên trong khoảnh khắc ấy, tôi kịp nhìn thấy chỉ cách mình khoảng vài bước phía trước mặt, đường ống bị vỡ ra cái hố lớn, đường kính khoảng gần mét, bên trong sâu thấy đáy. Từ trong cái hố ấy vươn ra mấy cái chân đốt to tướng có móc màu đen, bên mọc đầy lông cứng cũng màu đen. Chính mấy cái chân này kéo Đinh Tư Điềm và lão Dương Bì xuống dưới cái hốc tối tăm đó. Lão Dương Bì bị mất trọng tâm ngã nhào xuống, biết có bị thương tích gì . Ông già vẫn gắng sức vùng vẫy hòng thoát ra, nhưng thể nào vận sức lên được, súng săn bị người đè lên, muốn nổ súng cũng chẳng có cách nào. Đinh Tư Điềm nằm bò ra đất, tay giữ chặt vạt áo lão Dương Bì, nghiến răng nghiến lợi kéo về phía sau, nhưng chẳng ích gì, chính cũng bị vật kia kéo nhanh về phía cái hố ấy. Tôi giẫm lên lũ gián chết nằm đầy dưới đất, mỗi bước chân đều phát ra những tiếng lạo xạo, cả người lao như tên bắn. Bấy giờ mới nhìn , thứ kéo lão Dương Bì kia là con xâu tiền rất lớn. Thể hình của con xâu tiền lớn hơn rết và du diên nhiều, ít chân hơn, nhưng móc câu vừa to vừa dài, con lớn nhất có thể dài đến hơn hai mét. Trong đường ống nước vỡ ra cái hố vừa to vừa sâu, liền bị con xâu tiền cổ đại này coi như sào huyệt, vì nó sợ lửa, nên mới muốn kéo lão Dương Bì xuống sâu bên dưới xử lý. Tôi đuổi theo đến trước, mượn ánh đuốc tay, phát trong cái hố sâu ấy toàn là xương người, sâu bên dưới còn có mấy con gián to đến phát khiếp bò qua bò lại. Tôi nóng lòng cứu người, cũng kịp nhìn cho kỹ, vội vung cây trường đao lên chém xả xuống, ý đồ chặt con xâu tiền lấp ló trong hang này ra làm đôi, giải vây cho lão Dương Bì và Đinh Tư Điềm. ngờ động tác của con xâu tiền cũng cực nhanh, đao của tôi ở , nó kéo được lão Dương Bì đến sát miệng hố. đao này mà chém xuống, chẳng những chặt trúng nó, mà ngược lại còn làm bị thương lão Dương Bì nữa. Tôi thấy tình thế ổn, vội vàng ném luôn ngọn đuốc cầm xuống dưới hố. Nhưng khí bên trong quá ẩm ướt, ngọn đuốc vừa rơi xuống liền tắt phụt ngay. Trong bóng tối, tôi bổ nhào xuống, vươn tay ôm chặt lấy lão Dương Bì, định gắng sức chống ở miệng hố, cho nó kéo xuống nữa. Chẳng ngờ con xâu tiền này sức khỏe vô cùng, cái chân mọc đầy lông đen giật mạnh cái, cả tôi và lão Dương Bì, Đinh Tư Điềm đều lọt nửa người xuống bên dưới rồi. Trong lúc hỗn loạn, Đinh Tư Điềm bật được cái đèn pin công binh đeo trước ngực lên, trong cột sáng lắc qua lắc lại ấy, lão Dương Bì dùng tay chống lên bộ xương người chết. Bộ xương đó bị kẹt cứng trong khe nứt sát vách tường, ông già gắng hết sức lực, cuối cùng phần nào ngăn được đà lao vào bên trong của ba người chúng tôi. Tôi thấy phía trước mặt toàn là những cái chân côn trùng khua động, định vung đao lên chém, khổ nỗi gian quá hẹp nên khó mà giở trò gì được, chỉ đành nhằm vào trong hố mà đâm bừa, mỗi lần đâm trúng thấy tóe ra tia nước vàng. Tôi sợ thứ nước ấy có độc, liền úp mặt vào lưng lão Dương Bì, tay vẫn ngừng đâm. Tuy hầu như phát nào cũng đâm trúng con xâu tiền gớm ghiếc ấy, nhưng đều đủ sâu để gây nên vết thương chí mạng, vả lại cái giống này sống rất dai, cho dù chặt nó làm mấy khúc, nhất thời nó cũng chết ngay được. Đinh Tư Điềm bị kéo ở sau cùng, lúc này bò dậy được, hai tay tóm chặt lấy tôi và lão Dương Bì vận hết sức lực kéo về phía ngược lại. Bả vai và cánh tay của tôi và lão Dương Bì bị cái móc ở chân con xâu tiền móc chặt, lại kẹt cứng ở miệng hố, tay chân đều thể vung lên được, tuy nhất thời cũng có thể cầm cự để bị kéo xuống hố, nhưng tuyệt đối phải là kế lâu dài. Vả lại, chỉ dựa vào sức mình muốn thoát khỏi hoàn cảnh này là điều thể, tôi bỗng cảm thấy có cẳng chân mình được Đinh Tư Điềm ôm chặt, kéo mạnh về phía sau. Nhưng là con , sức đơn lực bạc chẳng thể xoay chuyển nổi tình thế, tôi khỏi cuống lên, lớn tiếng mắng chửi Tuyền béo sao mãi vẫn chạy tới giúp tay. lúc tiến thoái lưỡng nan ấy, chợt nghe phía sau có người hô lớn: “Đừng nôn nóng! Giai cấp bần hạ trung nông các vị chớ có nôn nóng, tôi mang rượu cốc tai đến đây!” Tôi và lão Dương Bì mặt cố sức chống đỡ, mặt dùng đao ngăn những cái chân móc câu bên trong vươn ra, nghe thấy tiếng kêu ấy liền biết ngay là Tuyền béo chạy tới, nhưng cậu ta bảo cốc tai cốc tiếc cái gì chúng tôi hoàn toàn chẳng hiểu. lúc tính mạng nguy cấp thế này chẳng hiểu cậu ta còn muốn giở trò quỷ gì ra nữa. ra Tuyền béo cũng biết súng ống đao thương khó mà giết chết con xâu tiền ấy ngay lập tức được, bèn bật cái đèn công binh buộc trước ngực lên, đồng thời móc trong túi ra chai rượu Tây của người Nga kia để lại, nhét bừa vào mấy viên thuốc, rồi lột cái bít tất ra bịt vào miệng chai, châm lửa vào rồi đưa cho Đinh Tư Điềm. Sau đó, cậu ta xách lưng cả tôi lẫn lão Dương Bì, kéo mạnh giật nửa người bị kéo vào trong hố của hai chúng tôi ra bên ngoài. Con xâu tiền trong hố cũng bị kéo ra đoạn, nó thấy miếng ăn đến miệng rồi còn bị giằng mất, nào chịu nhả ra, định xấn tới kéo hai chúng tôi trở lại. Đúng lúc ấy, khẩu poọc hoọc trong tay Tuyền béo nhả liền hai phát đạn, làm thân nó rụt cả lại. Đinh Tư Điềm nhắm chuẩn cơ hội ấy, liền quăng luôn bình rượu mạnh cháy phừng phừng vào trong hố. Thứ rượu của người Nga đó uống vào miệng thấy nóng bỏng như dao cắt, nồng độ cồn cực cao, cộng với bên trong đó ít chất hóa học lung tung, có thể còn tăng thêm tác dụng cháy, nên vừa ném ra là lập tức bùng lên ngùn ngụt. Cái hố bên dưới đường cống ngầm thành biển lửa, lũ gián và con xâu tiền ở trong bị đốt cho lăn lông lốc, biết có bao nhiêu con vùng vẫy lăn lộn mà chết trong ngọn lửa ấy rồi. Chai cháy mà Tuyền béo vừa làm, hồi chúng tôi đấu tranh vũ trang chống phản động và Hồng vệ binh cũng từng sử dụng qua mấy lần. Có điều, hồi ấy rượu mạnh khó kiếm, đa số đều dùng xăng xe hoặc cồn công nghiệp, thêm vào ít chất dẫn cháy, tùy nơi tùy lúc gặp gì dùng nấy. Loại bom cháy do nhiều loại chất đốt hỗn hợp tạo thành này, xuất sớm nhất vào thời chiến tranh Liên Xô - Phần Lan, và được sử dụng rộng rãi trong Thế chiến thứ Hai, còn được gọi là cốc tai Molotov. Tôi thấy người mình và lão Dương Bì đều ít nhiều sướt sát, bầm tím mấy chỗ, nhưng cũng có gì đáng ngại. Lúc này trong đầu chỉ còn khoảng trống rỗng, cũng chẳng thấy sợ sệt gì nữa. Tôi đưa mắt nhìn cái hố cháy bừng bừng bên dưới, ánh lửa yếu dần, lũ gián chưa bị thiêu chết lại bắt đầu bò ra bò vào chỗ khe nứt, nhìn mà rùng hết cả mình, chẳng ai muốn ở lại đây thêm phút nào nữa. Vậy là bốn người vội dắt díu lẫn nhau tiếp tục tiến lên, bên trong đường cống ngầm bốn bề đều có nguy cơ, chúng tôi lo lại gặp phải nguy hiểm gì khác, bèn xem bản đồ tìm lối ra gần đó có thể thông lên mặt đất. Chỗ này cũng rất gần tòa nhà chính rồi, vậy là cả bọn đều rảo bước chạy nhanh đến đó, cho dù phải vòng hơi xa chút, cũng ai chịu đường tắt trong cái ống cống mỗi lúc nhiều gián với giòi bọ này cả. Ở chỗ rẽ ngoặt trong ống cống có cầu thang sắt gắn vào vách tường, Tuyền béo leo lên trước tiên, đẩy cái nắp xi măng cốt thép bên ra, bên ngoài trời tờ mờ sáng. Sau đó, Đinh Tư Điềm cũng leo thang chui lên, lão Dương Bì thẫn thờ chuẩn bị leo lên sau , tôi thấy ông lão thần sắc ảm đạm, nhưng dường như phải vì phen kinh hoảng vừa nãy. Ông già này bình thường trầm mặc ít bộ dạng lúc nào cũng như tâm trùng trùng, kể cả lúc mọi người vui vẻ, ông cũng chỉ hút thuốc hát mấy bài dân ca buồn thảm của quê nhà. Từ sau khi tiến vào động Bách Nhãn, ông lại càng hay thở ngắn than dài, có lúc khó khăn lắm mới lấy lại tinh thần chẳng bao lâu sau lại thẫn thờ cả người ra. Tôi thầm nghĩ, có lẽ tại ông già biết được chân tướng việc năm xưa, ra người em của ông bị người Nhật hại chết, còn ông do quá mê tín mà dám xông lên cứu người, trong lòng mới cứ mãi canh cánh yên. Đặt mình trong hoàn cảnh của lão Dương Bì, tâm trạng này tôi rất hiểu, đặc biệt là cái lò đốt xác ấy rất có thể thiêu đốt thi thể của em trai ông, tức cảnh sinh tình, thử hỏi làm sao mà u uất cho được? Để biểu thị đồng tình, lúc lão Dương Bì bắt đầu leo lên cầu thang sắt, tôi khẽ vỗ lên vai ông, an ủi rằng: “Cháu hiểu tâm trạng của ông lắm, nhưng chuyện của người em đó ông đừng nghĩ nhiều nữa, dù sao cũng là quá khứ rồi, con người phải nghĩ thoáng ra chút, phải nhìn về phía trước mới được.” Lão Dương Bì phỏng chừng thấy tôi còn trẻ mà ra được những lời này, nên rất kinh ngạc, ông vừa leo lên vừa hỏi tôi: “Cậu biết lão nghĩ gì à? Cả đời lão chỉ có người em này thôi, thế nhà cậu có mấy em?” Tôi thầm nhủ, nhà cháu giống các đại gia xã hội chủ nghĩa phổ biến thời bây giờ, chỉ có mỗi đứng trước mặt ông đây thôi, chẳng có chị em gì cả. Có điều, những lời này thể ra được, bèn bảo với lão Dương Bì: “Ông phải nghĩ thế này này, những người chịu khổ toàn thế giới, đều là em giai cấp với chúng ta.” đoạn, tôi cũng leo lên bậc thang sắt, bên ngoài sắc trời hửng sáng. Tuyền béo và Đinh Tư Điềm đều tắt đèn công binh đeo trước ngực , nhưng khi hai người họ và lão Dương Bì đưa mắt nhìn xung quanh, thần sắc người nào người nấy đều rất kỳ lạ. Tôi cũng nhìn theo ánh mắt họ, bất giác sững người ra, nơi này sao trông quen quá vậy? Chú thích [30] Chai cháy, hay còn gọi là chai xăng chống tăng, bom xăng, bom dầu, và được biết tới với cái tên lóng là cocktail Molotov hay bom Molotov là loại vũ khí gây cháy đơn gian có thể được sản xuất hàng loạt với chi phí thấp. Vì chi phí thấp và dễ chế tạo, loại vũ khí này thường được những người biểu tình hoặc những lực lượng nổi dậy sử dụng. Cái tên lóng bom Molotov hay cocktail Molotov xuất lần đầu trong chiến tranh Liên Xô-Phần Lan năm 1939 - 1940, được người Phần Lan dùng để chế giễu Dân ủy Ngoại giao Liên Xô thời ấy là Vyacheslav Mikhailovich Molotov.
Chương 30 Tinh biến hỗ chui từ dưới đường hầm lên nằm ở bên ngoài khu kiến trúc, điểm này thực hơi bất ngờ với chúng tôi. Theo tấm bản đồ chạy trốn của người Nga kia, ở lối ra này lẽ ra phải có vườn thực vật quy mô rất lớn, muốn đến tòa nhà chính của viện nghiên cứu cần phải vòng qua đấy trước, ban đầu chúng tôi muốn vòng, nên mới quyết định thẳng theo đường cống ngầm, lẽ nào thông tin của ông người Nga kia bị sai lạc? Lúc này trời hửng sáng, sương sớm mông lung che phủ bốn phía, trong màn sương khói mỏng ấy, lờ mờ trông thấy trước khoảng rừng phía đối diện có ngọn núi thấp. Vách núi hướng về phía chúng tôi bị khoét nửa, mặt cắt của trái núi bị tàn phá lộ ra vô số sơn động lớn , tựa như quả táo đầy lỗ sâu bị xẻ đôi. Thoạt nhìn có vẻ như tất cả đều là hang động thiên nhiên, tôi đếm kỹ, nhưng áng chừng ít nhất cũng dưới trăm cái cửa động ở đó. Ở lưng chừng quả núi bị khoét ra ấy, có pho tượng thú đá cực kỳ to lớn lộ ra khỏi lớp đất, bốn người chúng tôi đưa mắt nhìn nhau, cuối cùng cũng biết tại sao nơi này lại được gọi là động Bách Nhãn rồi. ra là có ngọn núi đá với hơn trăm cái hang động thiên nhiên trong lòng núi, xem ra những suy đoán trước đây toàn bộ đều sai bét cả. Nhưng điều khiến tôi kinh ngạc chỉ có thế, bố cục của những hang động núi đá kia, cùng với con thú đá dữ tợn ấy, khiến tôi nhớ lại truyền thuyết về Quỷ nha môn mà Yến Tử mới nhắc đến cách đây lâu. Tương truyền, đó là cửa lớn thông đến cõi u minh địa phủ, người nào lỡ bước lạc vào tuyệt có hy vọng sống sót trở về. Nhưng cũng chỉ biết có truyền thuyết như thế, và biết trong núi có nơi nào đấy như thế, nhưng lại chưa ai miêu tả tình hình nơi ấy cách tường tận tỉ mỉ cả. Trong bức di thư của người Nga kia cũng có nhắc đến, rằng quân Nhật đào ra cánh cửa thông xuống địa ngục, ở đây thực và truyền thuyết ấn chứng cho nhau, rất có thể, cái động Bách Nhãn này chính là Quỷ môn quan thông xuống cõi tào Địa phủ. Tuyền béo cũng cảm thấy dốc núi phía bên đó rất quen mắt, chăm chú nhìn hồi lâu rồi mới sực nhớ ra: “Đây chẳng phải là cái Quỷ nha môn cỡ lớn sao? Cái chúng ta thấy ở núi Đoàn Sơn bé hơn nhiều, chắc đây mới là hàng xịn rồi. Mọi người xem, chỗ này liệu có đường thông xuống tào Địa phủ nhỉ? Tôi thấy chuyện này huyền hoặc lắm...” Hơi độc Đinh Tư Điềm trúng phải thuộc loại chất độc ảnh hưởng đến hệ thần kinh, chứ phải ảnh hưởng đến hệ tuần hoàn máu, thời gian phát tác nhanh lắm. Tuy có triệu chứng hâm hẩm sốt, nhưng tinh thần vẫn còn rất tỉnh táo, chỉ thấy ngước nhìn sườn núi chi chít những hang to hố ấy với tôi và Tuyền béo: “ tào Địa phủ? Những hang động chi chít này khiến người ta nhìn mà cảm thấy khó chịu, lẽ nào hai bạn từng thấy ở nơi nào khác rồi sao? Chỗ đó là đâu thế?” Tôi cảm thấy việc đến nước này cũng cần phải giấu giếm làm gì nữa, bèn bảo Tuyền béo kể sơ qua chuyện lúc trước cho . Đinh Tư Điềm và lão Dương Bì nghe xong, sắc mặt đều lộ vẻ kinh hãi, ngước nhìn ngọn núi với ánh mắt sợ sệt. Hang động chôn xác của vu nữ bộ tộc Tiên Ty ấy, ngờ lại có cả truyền thuyết về đường vào chốn tào Địa phủ nữa sao? Chắc chắn bọn người Nhật kia đào ra quá nhiều ác quỷ, nên mới phải xây cái lò đốt xác đầy những phù chú để thiêu đốt ngừng suốt ngày đêm. Tôi thầm nhủ, lại phải tìm cái cớ ổn định lòng quân rồi, nghĩ nghĩ lại, cách tốt nhất cũng chẳng ngoài chiêu bài đấu tranh giai cấp, vậy là bèn với cả bọn: “Những việc mà chúng ta gặp phải ở đây, đích thực là rất kinh khủng, khó mà dùng lẽ thường suy đoán được. Có điều, tôi thấy thế gian này chưa chắc có cái gì gọi là tào Địa phủ đâu. Nếu có chăng nữa, đó cũng là chốn về của đám đế vương khanh tướng tài tử giai nhân, chẳng quan gì đến giai cấp vô sản chúng ta cả, cần phải lo lắng quá về mấy cái sơn động ấy. Vả lại, có thanh bảo đao Khang Hy này trấn áp, mấy con ma quỷ nhãi nhép ấy cũng dám làm bậy gì đâu, chuyện này tôi tin chắc lắm. phải vì thanh đao này là của lão hoàng đế hoàng điếc gì từng sử dụng đâu, mà bởi đại phàm các binh khí từng dùng để chỉ huy ba quân, hoặc sử dụng chiến trường, bản thân đều có mấy phần sát khí, những thứ sạch đều rất úy kỵ.” Lòi tôi khiến lão Dương Bì gật đầu lia lịa, ông già có vẻ rất tin tưởng những lý lẽ này, nhưng Đinh Tư Điềm lại đột nhiên hỏi: “Vậy... vậy chúng ta... chúng ta chết rồi đâu? Thiên quốc? Địa ngục? Hay là cõi hư vô vĩnh hằng?” Tôi bị hỏi cho câu liền cứng họng, chuyện này đúng là xưa nay chưa bao giờ nghĩ tới cả, cuối cùng chỉ đành đáp bừa rằng: “Cái gì mà hư vô với chẳng vĩnh hằng, chúng ta phải sống cho tốt, làm cách mạng đến tận cùng, cho dù có chết cũng thể chết cách hoàn toàn vô giá trị ở cái chỗ quái quỷ này được.” Những lời này khiến Đinh Tư Điềm an tâm phần nào, xong, tôi bảo mọi người nghỉ ngơi tại chỗ lát, rồi đối chiếu lại với bản đồ, liền phát phải tấm bản đồ của ông người Nga kia sai sót, mà là khác biệt quá lớn của môi trường làm chúng tôi nảy sinh ảo giác. Dù gì tấm bản đồ này cũng chủ yếu là vẽ những đường cống ngầm dưới lòng đất, còn các kiến trúc mặt đất chỉ được đánh dấu bằng các ký hiệu. Cửa cống chỗ chúng tôi chui lên ấy, chính xác là khu nhà kính trồng thực vật, nhưng mái vòm sớm sập xuống từ lâu, xung quanh còn thấy số mảnh lưới sắt rách nát bị cây cối che khuất. Băng qua vạt rừng rậm phía trước, ở dưới sườn núi đầy những hang động lớn kia, có kiến trúc màu xanh xám, đó có lẽ chính là tòa nhà chính của viện nghiên cứu rồi, bên trong chắc có phòng phát điện, phòng y tế, nhà kho, phòng thông tin..., nhưng thoạt nhìn xem chừng quy mô mặt đất hơn trong tưởng tượng của chúng tôi nhiều. Tình hình bên trong tòa nhà thế nào còn chưa , muốn tìm được thuốc giải độc trong ấy đâu phải chuyện là làm được. Càng đến gần mục tiêu, tôi lại càng nắm chắc, mắt thấy sắc xanh giữa hai chân mày Đinh Tư Điềm mỗi lúc đậm hơn, tôi biết giờ cũng chỉ còn cách đánh liều phen thôi vậy. Lúc này sương mù giữa chốn núi đồi rừng rậm chợt dày đặc hơn, tầm nhìn xa giảm dần xuống, tôi nhắm chuẩn phương hướng, rồi vẫy tay với mọi người, đỡ Đinh Tư Điềm vội vã tiến lên phía trước. Lá cây khô và cỏ dại chen chúc dày đặc, quần áo cọ vào phát ra những tiếng lạo xạo, khiến lũ chim trong rừng đều giật mình bay vút lên, phát ra vài tiếng kêu thê thiết. Tôi rút thanh đao ra trước mở đường, chặt bớt những cành khô, hay bụi cỏ mọc quá rậm rạp, mở ra con đường mòn. Sương mù mỗi lúc nhiều, cộng với cỏ dại mọc rất dày, vào sâu bên trong, phạm vi nhìn thấy được rút xuống chỉ còn vài bước chân. Tôi buộc lòng phải chậm bước lại, để đề phòng bị lạc với những người khác. Tôi lo vì sương mù mà mất phương hướng, bỗng xuất dây mây lớn chắn phía trước mặt. Mấy người bọn tôi đành phải dừng lại, dây mây này chính là loại quan đằng mọc đầy gai nhọn, cũng là nơi nương thân của loài trăn vảy gấm. Lúc chúng tôi thoát ra khỏi gian đốt xác, con trăn vảy gấm ấy vẫn bị nhốt trong bụng lò, biết giờ thế nào rồi. Chỉ thấy cây quan đằng cực lớn, to đến mấy người ôm. Đất đai ở vùng động Bách Nhãn cực kỳ hiếm thấy, có thể khiến vạn vật sinh sôi nảy nở, bằng loại dây mây khổng lồ ở phương Nam này cũng thể sinh trưởng được. Đây phỏng chừng cũng là trong những nguyên nhân mà quân đội Nhật Bản chọn nơi này để xây dựng viện nghiên cứu. Cây quan đằng bị đổ vật xuống gãy lìa, nhưng dây mây này thực quá lớn, lại mọc đầy gai nhọn, muốn leo qua cũng phải chuyện dễ dàng. Chúng tôi đưa mắt quan sát mà khỏi thở dài chán nản, đành phải vòng qua chỗ cây cối rậm rạp hơn thôi vậy. Lúc này Tuyền béo chợt nghĩ ra cách, chỉ cần lấy vài bộ quần áo của người Nga kia, phủ lên thân cây che gai nhọn, vậy là có thể leo qua được rồi. Chúng tôi vốn muốn vòng qua hai bên, vì khu vực này cây cối rậm rạp, cành lá đan chen chằng chịt, gần như có chỗ nào đặt chân, kể cả dùng đao chặt cây mở đường cũng; cực kỳ khó khăn mà tốn rất nhiều sức lực. Thấy chủ ý này của Tuyền béo cũng khá hay, hiếm khi cậu ra lại nghĩ ra được sáng kiến hay ho như thế, vậy là cả bọn lập tức tiếp thu ngay. Tôi y phép thi hành, quả nhiên rất dễ dàng bò qua được thân dây mây chắn trước mặt. Vì quần áo nhiều, chúng tôi phải lần lượt trèo qua, tôi và Tuyền béo bò lên trước, sau đó kéo Đinh Tư Điềm và lão Dương Bì lên theo. chuẩn bị leo xuống phía bên kia, lão Dương Bì đột nhiên hụt chân cái, lập tức ngã vồ về phía trước, đầu gối lệch ra khỏi chỗ có phủ quần áo, lập tức bị gai nhọn của quan đằng chọc vào toét cả thịt ra. Đầu gối là nơi tập trung nhiều dây thần kinh, cảm giác bị gai đâm vào thế nào chắc hẳn cần phải cũng biết, ông già đau đớn kêu lên “ối chao” tiếng, hít hà thôi. Lúc ông già bị trượt chân, tôi vươn tay ra định kéo lại, nhưng đúng vào khoảnh khắc đó, tôi dường như dám tin vào mắt mình nữa. lưng lão Dương Bì đeo cái bao, bên trong đựng các thứ linh tinh chúng tôi lấy được trong gian phòng của nhà khoa học người Nga kia. Cái bao này vốn do Tuyền béo phụ trách, nhưng vì cậu ta và tôi phải leo lên thân cây mây trước, nên tạm thời để ông già đeo hộ. Lúc tôi vươn tay ra chụp lấy ông, chợt thấy trong cái bao ấy ngờ lại thò ra hai cánh tay mọc đầy lông trắng, ánh mắt tôi vừa lướt qua, cánh tay đó liền “soạt” tiếng rụt vào bên trong. Lúc bấy giờ, sương mù mờ mờ mịt mịt, ánh sáng ảm đạm, tuyệt đối phải vì ánh sáng chiếu vào làm mắt tôi bị hoa. Đôi bàn tay trắng ởn mọc đầy lông đó, giống hệt như thứ tôi thấy ở cửa tòa nhà có cái lò đốt xác. Lần đó, chỉ thấy ô cửa kính lóa lên cái bóng trắng, căn bản dám nhìn kỹ lại, nhưng có thể chắc chắn rằng tôi thấy đôi tay như thế. giờ, tuy có sương mù, nhưng dù sao vẫn là ban ngày ban mặt, hơn nữa trong cái bao đó liệu có bao nhiêu gian, sao có thể thò ra hai cánh tay được chứ? Lẽ nào thực có bóng ma cứ bám theo chúng tôi đến tận chỗ này? Từ lúc chúng tôi đặt chân đến đây tới giờ xảy ra rất nhiều chuyện khó hiểu, chẳng hạn như ở trong tòa nhà có lò đốt xác bị khóa trái cửa lại; cửa lò đốt xác đóng chặt bỗng mở chốt, thả ra con trăn vảy gấm suýt chút nữa làm cả bọn mất mạng, lại còn khiến Đinh Tư Điềm trúng độc, tính mạng như chỉ mành treo chuông; lúc ở trong đường cống ngầm, tôi ràng trông thấy sau lưng có cái bóng đen mờ mờ; còn trong gian phòng của người Nga kia, xương cốt còn sót lại của cỗ cương thi bị chúng tôi đốt cháy hiểu sao lại xuất bàn; cả bọn cũng suýt chút nữa bị hút mất hồn trong cùng giấc mộng; tất cả những chuyện ấy, đều chứng tỏ rằng có vong hồn định dồn chúng tôi vào chỗ chết, từ đầu chí cuối vẫn bám sát sau lưng chúng tôi, nhưng chúng tôi lại thể nào tìm thấy nó. Ngay từ lúc ban đầu, là địch ở trong tối, ta ở ngoài sáng, tình thế cực kỳ bị động. Tôi có nằm mơ cũng thể ngờ rằng, cái thứ muốn hại chết chúng tôi ấy, phải theo sau lưng chúng tôi, mà còn gần hơn, nó mình nấp người nào đó ở đây. Nếu phải lão Dương Bì vô ý trượt ngã cái, sợ rằng tôi thể nào phát ra được bí mật này. chậm, nhưng việc lúc ấy diễn ra rất nhanh, tôi thấy cái bao đeo lưng lão Dương Bì có bóng trắng lấp loáng, liền lập tức túm lấy cánh tay ông già, khẽ kêu lên: “Mau ném cái bao !” Có lẽ tại đầu gối đau quá, lão Dương Bì hiểu tôi muốn gì, chỉ đau đớn nghiến chặt răng, thốt được nên lời. Tôi thầm nghĩ chuyện này hai câu cũng khó mà cho ràng được, vả lại lão Dương Bì bị gai đâm vào đầu gối, chẳng thương tích ra sao, đành kéo ông lên trước rồi sau. Nhưng mình tôi thể kéo được ông lên, vừa dồn sức giậm chân cái, lớp quần áo phủ dưới chân liền trượt , thêm nữa, cảnh tượng vừa thấy khiến tôi xúc động rất lớn, dùng cách thịnh hành thời bấy giờ là: “ chạm đến tận linh hồn rồi!”, vậy nên cả tôi cũng trượt luôn xuống khỏi sợi quan đằng khổng lồ ấy theo lão Dương Bì. Bấy giờ, Tuyền béo và Đinh Tư Điềm đều vươn tay ra, định kéo tôi và lão Dương Bì lại. Nhưng bốn người đều tập trung sang bên, khiến trọng tâm của đám quần áo trải dưới chân bị lệch, rách toạc cái, cả bốn cùng ngã lăn bổ nhào xuống dưới. Cũng may, dây mây quan đằng này cũng cao lắm, bên dưới lại có lớp cành cây và cỏ dại khá dày đỡ lấy, nên cũng đến nỗi sứt đầu chảy máu. Cả bọn ngã cú , đà rơi xuống cũng chút nào, vừa khéo dưới đoạn dây mây ấy có cái cây khô đổ vật ra, gốc cây rất lớn, vừa khô vừa mục, bộ rễ chằng chịt đan nhau tạo thành cái hang cây, bên trong trong . Tuyền béo lăn tròn trong bãi cỏ, rồi lại đập vào khúc cây mục phía hang cây; thân thể chúng tôi cũng theo đó rơi thêm nấc nữa, ngã bịch xuống dưới đáy hang. Dưới hang cây đều là gỗ mục, nếu phải tiếp đất gián tiếp, rất có thể chúng tôi gãy sụn lưng rồi. Tôi có cảm giác xương cốt khắp người mình đều như lìa ra vậy. Chỉ nghe Tuyền béo bên cạnh cũng rên rỉ đau đớn, tôi định gắng sức bò dậy xem tình hình cả bọn thế nào, lúc này bỗng thấy đầu có tiếng ầm ầm nổi lên, ra đoạn quan đằng khô héo phía bên bị chúng tôi giẫm đạp hồi, cũng gãy lìa luôn xuống, bịt chặt cả cửa hang. Trong thoáng chốc, hang cây tối om như mực. Trong bóng tối, tôi vội gọi tên mấy người đồng hành, Tuyền béo và Đinh Tư Điềm lần lượt lên tiếng hồi đáp, tuy cú ngã , nhưng thanh niên xương cốt dẻo dai nên cũng có chuyện gì lớn, chẳng qua cũng chỉ đau đến toát hết cả mồ hôi lạnh ra mà thôi. Tôi thấy hai người sao cũng yên tâm phần nào, liền bảo họ bật đèn công binh đeo bên mình lên, thử xem lão Dương Bì có bị rơi vào trong cái hang này hay ? Sao mãi chẳng nghe thấy động tĩnh gì của ông lão? Bốn bề quanh cái hang cây có khe hở nào, bên dưới ước chừng rộng khoảng bảy tám mét vuông, diện tích cũng khá , tôi nôn nóng muốn tìm lão Dương Bì, bèn đợi đèn sáng, cố nhịn cảm giác đau đớn khắp toàn thân lần mò tìm kiếm xung quanh mình. Đột nhiên tay rờ phải thứ gì đó dinh dính, hình như là máu tươi, tôi lại càng cuống cuồng lo lắng, vội giục Tuyền béo và Đinh Tư Điềm mau bật đèn lên. Khổ nỗi hai cái đèn công binh ấy chắc bị va đập nhiều quá, nên tiếp xúc tốt, vỗ thế nào cũng chịu sáng lên. Tuyền béo lục trong túi được nửa cây nến, đành lấy ra dùng tạm trước. Tuyền béo vừa quẹt que diêm, đột nhiên có trận gió lùa qua, tựa hồ như ai đấy thổi ra làn hơi lạnh, lập tức khiến que diêm tắt ngấm. Chúng tôi vừa nãy nhận thấy bên trong hang cây này bốn bề đều bị bít kín mít, khí lưu thông, gió ở đâu mà làm tắt diêm chứ? Tuyền béo vội vàng quẹt thêm que nữa, ánh lửa còn chưa kịp lóe lên, lại có trận phong khác thổi nó tắt phụt. Tuyền béo tức tối ngoác miệng ra chửi đổng: “Tiên sư đứa nào chán sống rồi mà cứ thổi hơi lạnh vào ông mày thế hả?” Đinh Tư Điềm định giúp cậu ta đốt lửa lên, nhưng cũng thành công. Xung quanh tối như hũ nút, tôi càng lúc càng thấy thấp thỏm yên, định rút thanh đao sau lưng ra, nhưng vừa vòng tay ra liền thấy trống , chẳng lúc ngã xuống, thanh đao ấy văng đâu mất rồi nữa. Đúng lúc này, phía trước tôi đột nhiên sáng bừng lên đôi mắt màu xanh lục, tựa như hai đốm lửa ma trơi. Vừa trông thấy đôi mắt ấy, toàn thân tôi lập tức lạnh buốt, run bắn lên, ngồi dưới đất vội vàng chống tay giật vài bước, áp lưng sát vào rễ cây. Đôi mắt như đốm lửa ma ấy cũng lướt tới như hình với bóng, ánh mắt màu bích lục ngập tràn hơi thở chết chóc, toát lên thứ sức mạnh kỳ dị như thể câu hồn nhiếp phách người ta. Cảm giác này dường như rất quen thuộc, trải qua lần tuyệt đối khó thể nào quên. Hình như tôi thấy đôi mắt ấy chỉ lần, lần trước là trong gian phòng của người Nga, à đúng... chỉ hai lần, trong ngôi miếu Hoàng đại tiên ở Đại Hưng An Lĩnh cũng từng gặp rồi, đây chính là đôi mắt của Hoàng tiên , đôi mắt của con Hoàng tiên bị Tuyền béo đem đổi lấy kẹo hoa quả, rốt cuộc bị người ta lột da mà chết thảm ấy.