Chương 16 Canh cá ão Dương Bì quanh năm chăn dê thả bò thảo nguyên, cũng thường hay gặp phải mãnh thú như lũ sói hay bọn sài lang tấn công ngựa từ phía sau, biết phải ứng phó thế nào, bực mình vừa chưa tìm được cơ hội thu thập con du diên này, ngờ nó lại tự dâng đến cửa. Ông già lập tức huýt lên tiếng, đúng vào khoảnh khắc con du diên bổ tới mông ngựa, con ngựa già liền khom người về phía trước, chân trước chống xuống đất, hai chân sau đạp thẳng vào con độc trùng lao tới. Cú đạp này sức dưới nghìn cân, hất văng con du diên lốm đốm vằn đen ấy lộn mấy vòng trung, rơi bịch xuống đất rồi lăn thêm mấy vòng nữa. Con du diên nếm mùi đau khổ, cũng dám càn quấy nữa, vội lẩn vào trong bụi cỏ trốn mất. Tôi thấy lão Dương Bì xuất ra kỳ chiêu giành được thắng lợi, liền hoan hô tiếng rồi leo xuống khỏi cành cây, cùng Đinh Tư Điềm kéo Tuyền béo vừa ngã bò lăn bò toài dưới đất dậy, phủi những vỏ cây, cỏ rác bám đầy khắp người, bấy giờ mới nhớ ra hai con ngựa chạy tít vào sâu trong rừng mất rồi. tìm được đàn bò, cộng với con ngựa màu mận vừa bị du diên cắn chết, giờ bốn con ngựa chỉ còn mỗi con ngựa già, tổn thất càng lúc càng lớn, lão Dương Bì liên tiếp huýt lên mấy tiếng gọi ngựa, nhưng đợi mãi cũng chẳng thấy động tĩnh gì, chẳng hai con ngựa ấy chạy đâu mất rồi. Đối với khu vực được gọi là động Bách Nhãn này, lão Dương Bì luôn có nỗi sợ tiềm tàng ăn sâu vào tâm thức, nhưng con người có những lúc còn con đường nào để lựa chọn, trách nhiệm để tổn thất bò ngựa của tập thể lại càng lớn hơn nỗi sợ ấy bội phần. Hai năm nay tình thế đấu tranh rất kịch liệt, người ta chụp mũ cho nhau nhiều vô kể, vạn nhất bị chụp cho mấy cái lên đầu cái mạng già của ông coi như xong. Dẫu sao ông già cũng lớn tuổi rồi, trận quần thảo với con du diên vừa nãy khiến tim ông đập nhanh thình thịch, lồng ngực phập phồng khò khà khò khè như cái ống bễ vỡ, thêm vào gánh nặng tâm lý quá lớn, hai mắt ông liền như tối sầm lại. Đinh Tư Điềm thấy thân thể lão Dương Bì loạng choạng cơ hồ muốn đổ gục xuống, vội vàng đỡ ông ngồi dưới gốc cây, xoa xoa lồng ngực giúp hơi thở ông điều hòa trở lại. Nhưng lão Dương Bì vẫn ho lên sù sụ, hơi thở bị nén ngược trở lại mà ngất . Chúng tôi vội vàng cấp cứu, vừa ấn ngực vừa vỗ lưng, khó khăn lắm mới khiến ông ho ra được bãi đờm, cuối cùng cũng hô hấp lại được, nhưng người vẫn mê man thiêm thiếp, gọi thế nào cũng thể dậy nổi. Đinh Tư Điềm đến vùng thảo nguyên này tham gia lao động sản xuất, từ những ngày đầu được cả nhà lão Dương Bì chăm sóc, gần như coi ông già như ông nội của mình, lúc này thấy ông bất tỉnh nhân , làm sao mà lo cuống lên cho đành. khóc thút thít hỏi tôi làm sao bây giờ? Trong làng tôi có bác sĩ chân đất biệt hiệu là “thầy trộn thuốc”, nhiều lần tôi cũng giúp ông ta thăm bệnh cho ngựa cho lừa, vậy nên trong ba đứa tôi, cũng chỉ có tôi là có chút thường thức về y học. Nhưng đối mặt với lão Dương Bì hôn mê bất tỉnh tôi cũng biết phải làm sao, cho dù mau chóng đưa ông về tiểu khu cũng phải mất gần ngày đường, mà tiểu khu còn cách bệnh viện cũng ngày đường nữa, đợi đến khi tìm được bác sĩ chắc người cũng toi đời rồi. ngờ, người nhắc nhở chúng tôi lại là Tuyền béo, cậu ta : “Liệu có phải ông già bị đói nhỉ? Từ sớm bảnh mắt chúng ta vội vội vàng vàng đuổi theo đàn bò, đến giờ mặt trời cũng xuống núi được nửa rồi, mà có hạt cơm miếng nước nào đâu, đừng là người có tuổi như ông ấy, đến như tôi đây còn chẳng chịu được, cũng đói đến hoa cả mắt rồi đây này.” Nghe Tuyền béo nhắc vậy, tôi và Đinh Tư Điềm cũng cảm thấy bụng sôi lên ùng ục, cả ngày nay ăn gì rồi. Từ sáng đến giờ chỉ lo tìm lũ bò về, ai nấy đều sốt ruột cuống cuồng nên cũng chẳng nghĩ ra là phải ăn cơm nữa. Nhất định là lão Dương Bì bị lao lực quá độ, rồi lại ăn uống, vậy nên mới đói quá mà ngất . Lúc chúng tôi chuẩn bị xuất phát, lão Dương Bì lo trong hai ngày tìm được hết cả đàn bò về, vậy nên mang theo ít lương khô, thậm chí còn thồ theo cả cái nồi để đun nước sôi. Vì lo cho con ngựa già, nên ông chỉ buộc cái nồi ấy với vài món đồ vặt vãnh lên người nó, lương khô và các vật dụng khác đều do ba con ngựa còn lại phụ trách. Đen đủi thay, giờ chúng tôi chỉ còn có con ngựa già này, người cũng chẳng có thứ gì có thể ăn được cả. Tuyền béo bảo, hết cách rồi, thôi thịt ngựa ra ăn vậy, bằng chúng ta ra khỏi khu rừng này được đâu. Đinh Tư Điềm vội vàng ngăn lại. thảo nguyên, những con vật từng tham gia quân đội, từng lập công đều thể giết được, chúng đều là bạn của loài người, thà chết đói cũng thể ăn thịt ngựa. Lão Dương Bì tỉnh lại mà biết có người giết ngựa của ông ăn thịt phải chuyện đùa đâu. Ở chốn hoang sơn trời tối rất nhanh, mới hơn bốn giờ chiều, mặt trời xuống núi, lúc này sắc trời bắt đầu sầm sì, sương đêm trong rừng dần nồng nặc hơn, ánh sáng mỗi lúc yếu , quang cảnh xung quanh chẳng khác nào đêm tối. đầu chúng tôi thi thoảng lại có vật thể gì đó bay vù qua, biết là chim hay dơi nữa. Chúng phát ra những tiếng kêu thê thiết, khiến người ta nghe mà thấy tóc gáy đều dựng đứng hết cả lên. Chúng tôi chẳng còn đâu là Đông Tây Nam Bắc nữa, Tuyền béo và Đinh Tư Điềm đều nhìn sang phía tôi, hy vọng tôi đưa ra chủ ý nào đấy, giờ phải tính sao đây? Tôi thoáng do dự giây lát, rồi với họ: “Tuy rằng ngựa quen đường cũ nhưng trong rừng sương mù dày đặc quá, nếu chúng ta cứ cắm đầu cắm cổ bừa, là cả người ngựa đều quá mệt, cả ngày nay ăn uống nghỉ ngơi gì đâu, tiếp tục nữa rất dễ xảy ra chuyện, hai là nếu lại gặp phải bọn độc trùng rắn rết mình trong lùm cỏ hay ác thú như sài lang hổ báo, nhất định cũng chẳng có kết cục tốt đẹp gì. Mao chủ tịch dạy, chúng ta phải cố gắng giảm bớt những hy sinh vô nghĩa và cần thiết, vậy nên tôi thấy rằng giờ chúng ta nên đốt đống lửa ở đây, là để phòng bị lũ độc trùng mãnh thú tấn công, hai là để kiếm thứ gì đấy nấu lên mà ăn, người và ngựa đều nghỉ ngơi lấy lại sức, sáng mai tiếp tục hành động.” Tuyền béo : “Phương án này hay có hay đấy, nhưng chu toàn, các cậu nhìn cái khu rừng này xem, ngoài vỏ cây rễ cỏ ra chỉ có mỗi bùn nhão, đừng là có đồ ăn, đến cả miếng nước sạch còn chẳng thấy nữa là, chúng ta nấu cái của nợ gì đây? Nhưng ăn thực là nổi nữa rồi. Tình trạng này làm tôi nhớ đến bài thơ của các bậc tiền bối cách mạng, cái gì mà trời sắp tối, bụng reo như trống đổ, gạo trong túi còn vài hạt, rau dại đun cùng nước. Năm xưa đội du kích của tướng quân Trần Nghi gian khổ nhường ấy, nhưng dù sao trong túi cũng còn mấy hạt gạo để nấu chung với rau rừng...” Tôi nghe Tuyền béo nhắc đến gạo và rau rừng, bụng lập tức sôi lên ùng ục: “Tuyền béo kia, cậu vậy là có ý gì? Chúng ta rơi vào hoàn cảnh này rồi mà cậu còn dám nhắc đến cháo rau rừng nữa, càng đói càng được nhắc đến việc ăn, bằng còn đói hơn nữa đấy. Nhớ năm xưa, các vị tiền bối cách mạng từng bị đoạn lương ba tháng, chỉ dựa vào ý chí kiên cường để cầm cự, chúng ta có chút thế này mà khắc phục được ư?” Lúc này Đinh Tư Điềm đột nhiên kéo kéo vạt áo tôi, : “Bát Nhất, các bạn nghe thử xem, trong rừng có phải có tiếng nước chảy hay ?” Tôi thầm nhủ, trong cái khu rừng dưới khe núi này lấy đâu ra tiếng nước chảy gì chứ, có lẽ là bụng của ai đấy sôi lên òng ọc, làm Đinh Tư Điềm nghe nhầm thôi? Nhưng tập trung lắng nghe, quả nhiên phía đằng xa có tiếng nước chảy róc rách . Có tiếng nước chảy tức là có dòng nước, cổ họng chúng tôi đều khát khô cả ra, hơn nữa nếu như có con suối , biết đâu bên trong lại có cá, ngoài ra, nếu men theo dòng nước dù trong rừng rậm sương mù mờ mịt này cũng dễ gì bị lạc đường. Chúng tôi chần chừ thêm giây phút nào nữa, trong túi đeo lưng con ngựa già có cái đèn dầu, hồi trước giải phóng loại đèn này được gọi là đèn dầu Tây, nhưng thực ra dầu Tây cũng là dầu hỏa. Ở khu chăn nuôi này có dầu thông, buổi tối đa phần đều thắp sáng bằng đèn dầu hỏa loại này. Tôi cầm đèn trước tìm đường, Tuyền béo nâng lão Dương Bì lên lưng ngựa, cậu ta bên cạnh đỡ, còn Đinh Tư Điềm cầm dây cương dắt, đoàn bốn người lần dò từng bước tiến về phía có tiếng nước chảy róc rách. Chúng tôi xuyên qua những tán lá lòe xòe, đoạn xa lắm, quả nhiên trông thấy đầm nước, vì trời tối mà sương mù lại dày đặc, tầm nhìn xa chưa đến chục mét nên cũng đầm nước này lớn chừng nào. Có điều nghe tiếng nước chảy ở đằng xa vẫn rất lớn, tôi phỏng chừng đầm nước cũng phải loại , đứng tảng đá xanh ven bờ nước giơ đèn lên chiếu, chỉ thấy hoa nước cuồn cuộn, dưới mặt nước có rất nhiều con cá màu đen béo mẫm bị ánh đèn thu hút, lũ lượt kéo nhau bơi đến. Người ở Khắc Luân Tả Kỳ này coi cá như thiên thần, xưa nay bao giờ bắt cá ăn cá, lũ cá sống trong các hồ lớn hồ thảo nguyên này đều rất tự do tự tại, chẳng biết sợ người, chứ giống bọn cá trong nội địa, vừa thấy bóng người lẩn tít xuống đáy hồ rồi. Có điều, chúng tôi chẳng để ý được mấy chuyện này nữa, nơi đây ngoài cá với ngựa ra chẳng thứ gì ăn được cả. thảo nguyên hoang lương này, cá là thần tiên, ngựa là bạn bè, ăn thần tiên hay ăn bạn bè đây? Đối với những thanh niên trí thức từng làm Hồng vệ binh như chúng tôi, đây căn bản đáng là vấn đề để suy nghĩ, cần do dự chọn ngay ăn thịt thần tiên rồi. Tôi và Tuyền béo lập tức xắn tay xắn chân chuẩn bị bắt cá, Đinh Tư Điềm sắp xếp cho lão Dương Bì nằm nghỉ xong, liền buộc con ngựa già lại, nhặt mấy viên đá quây thành bếp lò. Trong rừng đầy những cành khô lá vụn, giơ tay vơ mấy cái là có đống, nhanh nhẹn đốt lên đống lửa, dùng cành cây đỡ cái nồi, đun ít nước sôi rửa nồi cho sạch , sau đó mới đun ít nước nóng cho mọi người uống. Với bọn thanh niên trí thức chưa vợ như tôi với Tuyền béo, nấu cơm đương nhiên là cửa ải khó nhất, tuy ở chốn hoang dã, nhưng thấy Đinh Tư Điềm sắp xếp mọi thứ đâu ra đó, nhìn bóng bận rộn tíu tít, trong lòng tôi hiểu sao lại dâng lên niềm thương cảm. Nhưng cảm xúc ấy nhanh chóng bị cơn đói xua mất tiệt, tôi thương lượng với Tuyền béo chút rồi bắt tay vào việc ngay, cá ở đây sợ người, nên bớt được rất nhiều phiền phức, khỏi phải khuấy cho nước đục ngầu lên như ở Đại Hưng An Lĩnh, mà chỉ cần tìm hai cành cây có chạc, rồi lấy thanh bảo đao Khang Hy của lão Dương Bì vót nhọn làm thành cái xiên cá là xong. Có xiên cá rồi đương nhiên cũng thể xiên bừa xiên bậy xuống nước, mà phải treo cái đèn dầu lên mặt nước, dẫn dụ bọn cá đen béo mẫm ấy đến, tiếp đó phải kiên nhẫn, dựa vào các nhân tố như dòng nước, bong bóng nổi lên, bọt nước để xác định được quy luật di động của lũ cá. Vì đủ ánh sáng, chúng tôi cũng hoàn toàn nắm bắt được hướng bơi của lũ cá, tuy vậy, cũng vẫn đâm được bảy tám con cá đen trong đầm, những con to hơn chút còn lại cuối cùng cũng hiểu ra có nguy hiểm, lập tức bơi tít xuống chỗ nước sâu. Tôi thấy mấy con cá đều khá lớn, thêm người nữa ăn cũng vẫn đủ, nhưng con người ta càng đói càng thèm ăn, nhìn thế nào cũng thấy vẫn ít, vậy là chúng tôi đưa cá cho Đinh Tư Điềm chuẩn bị món ăn, rồi lại lội xuống nước, dùng lại cách cũ, xiên thêm mấy con từ đằng xa bơi tới, bấy giờ mới cảm thấy đu đủ cho bốn người ăn. thực là, số cá chúng tôi bắt được ấy đừng là bốn người ăn, có thêm bốn người nữa cũng vẫn thừa thãi nhiều. Đinh Tư Điềm với chúng tôí, giống cá đen này chỉ cần nướng lửa chút là khô đét lại chẳng ăn được nên lấy đao mổ bụng cá moi nội tạng vứt , đánh vẩy sạch rồi cắt khúc bỏ vào nước sôi, nấu nồi canh cá. Hơi nước sôi ùng ục bốc lên, mùi thơm ngào ngạt trong nồi lan tỏa khắp bốn phía, tuy có gia vị gì cả, nhưng lúc này rồi còn ai để ý xem mặn hay nhạt nữa đâu. Chúng tôi cố nuốt nước bọt đè nén cơn đói xuống, trợn mắt trừng trừng lên nhìn mấy khúc cá trong nồi, nhìn đến nỗi tròng mắt cơ hồ sắp rơi luôn cả vào trong ấy. Tuyền béo thèm đến nước miếng ròng ròng, cu cậu đưa tay áo lên quẹt quẹt mấy cái, rồi bảo với tôi và Đinh Tư Điềm: “Nghe mấy em trong binh đoàn đóng ở hoang mạc phía Bắc ngày ba bữa đều uống canh, họ còn viết bài thơ về canh nữa cơ, trước khi uống canh để tôi ngâm lên cho các cậu nghe nhá... A! Canh, canh, canh, món canh cách mạng! bữa uống canh nhớ cuống cuồng, hai bữa uống canh thèm phát sốt, ba bữa uống canh lòng hốt hoảng...” Cả tôi lẫn Đinh Tư Điềm đều bị bài thơ của Tuyền béo chọc cho bật cười. Đinh Tư Điềm vui vẻ : “Bài thơ ấy bạn lấy đâu ra vậy? Đấy toàn là chuyện xưa xửa xừa xưa rồi, hồi trước vùng phía Bắc ấy rất hoang lương, chỉ có cỏ dại chứ có cây lương thực, về sau người của binh đoàn dần dà đông lên, xây dựng hoang mạc thành kho lương, nghe giờ ở đấy khá lắm rồi, cần phải uống canh cả ngày nữa đâu. Mình có người bạn học làm tiểu đội trưởng bên ấy mà. Phải rồi, các bạn ở liên khu Hưng An ăn uống thế nào?” Tuyền béo , bên chỗ chúng tôi có nhiều món ngon lắm, trời có thịt rồng, dưới đất có thịt lừa chúng tôi đều xơi hết cả rồi, nhưng thấy cũng thường thôi, làm sao ngon bằng nồi canh cá này được, món cá này hấp dẫn quá, chỉ ngửi mùi thôi cũng là hưởng thụ rồi. Đinh Tư Điềm ngạc nhiên hỏi: “Thịt rồng cũng có mà ăn à? Lẽ nào chuyện ông lão Dương Bì là ? đời này có rồng sao?” Tôi bèn cười cười giải thích: “ trời có thịt rồng, dưới đất có thịt lừa là câu ở vùng Hưng An, thịt rồng ấy thực ra chỉ là thịt chim trĩ trong núi. Nó còn có tên tục gọi là phi long, vì mùi vị rất thơm ngon, thuộc hàng cực phẩm trong các món sơn trân, thế nên mới được đặt cho cái mỹ danh là thịt rồng, kỳ thực cũng khác gà rừng bình thường là mấy. Để lần sau mình kiếm hai con mang tới đây cho bạn nếm xem thịt rồng có mùi vị thế nào. Có điều Tuyền béo đúng ra phết, mình cũng cảm thấy nồi canh cá này thơm quá mất, chưa bỏ gia vị gì mà sao thơm thế này nhỉ? Có lẽ mình đói quá cũng nên, gì cả đời này mình cũng chưa bao giờ ngửi được món canh cá nào thơm như thế cả.” Trong lúc chuyện, canh cá cũng gần chín đến nơi, cả mấy người ngửi mùi đều xao xuyến cả cõi lòng, đột nhiên nghe tiếng ho khục khặc, lão Dương Bì tỉnh lại, ngửi thấy mùi canh thơm xộc lên mũi: “Ôi cha, thơm quá ... nấu gì đấy, sao thơm thế?” Chúng tôi quay đầu lại thấy ông già tỉnh, đều thở phào hơi, xem chừng quả nhiên là đói quá nên mới bị hôn mê, ngửi mùi canh cá liền tự tỉnh dậy luôn. Tôi thầm nhủ thể với lão Dương Bì đây là canh cá được, ông già này tuy cũng thuộc giai cấp bần hạ trung nông, nhưng tư tưởng mê tín ăn sâu bén rễ vẫn còn nặng lắm, cái đuôi phong kiến chưa cắt hết, nếu bảo với ông đây là canh cá, chắc chắn là ông già chịu cho chúng tôi uống đâu, chi bằng cứ để ông no nê rồi hẵng , vậy ông muốn gì cũng chẳng được nữa rồi. Nghĩ tới đây, tôi đợi Tuyền béo nếm trước, giật lấy cái muôi trong tay cậu ta, khẳng khái múc đầy muôi canh đưa tới trước mặt lão Dương Bì: “Thanh niên trí thức chúng cháu hưởng ứng lời hiệu triệu lên núi xuống đồng, chính là để học tập giai cấp bần hạ trung nông, cần phải chú ý lắng nghe ý kiến của bần hạ trung nông, mời ông nếm thử trước, rồi bình luận hộ cháu xem món canh này nấu thế nào với ạ.” Lão Dương Bì có lẽ đói quá, cũng có lẽ vì món canh này quá thơm ngon, thấy cái muôi đưa tới tận miệng, bèn hỏi han gì nữa, nhận lấy rồi húp soạt phát hết luôn. Ông già liếm liếm mép, như vẫn chưa thèm, bèn lảo đảo bước đến trước cái nồi, múc hết muôi này đến muôi khác, mà cũng chẳng ngại nóng phỏng mồm, cứ thế húp xì xà xì xụp mạch nguyên nửa nồi, cả thịt cá bên trong cũng vớt lên ăn là nhiều. Tuyền béo thấy vậy cuống lên, cả nồi to tướng này đủ cho tám người ăn, vậy mà mình ông già này xơi hết nửa rồi, ông già khô quắt khô queo này sao mà ăn khỏe kinh người vậy chứ? Tôi và Đinh Tư Điềm đều ngớ người ra, sao lão Dương Bì ăn cứ như trúng tà vậy? Tiếp tục ăn thế này chẳng phải nghẹn chết hay sao? Vậy là chúng tôi vội ngăn lão Dương Bì lại: “Ông có biết trong nồi này là thịt gì ? hỏi sao ăn nhiều thế, đây là thịt cá đen bắt trong đầm nước lên đấy.” Lão Dương Bì ăn quá nhiều, nghẹn đến trợn trừng cả mắt lên, vừa nghe thấy là thịt cá liền giật nảy mình: “Cái gì? Thịt cá đen? Tội lỗi tội lỗi, thần tiên mà cũng dám ăn sao? Ăn vào báo ứng đó... báo ứng đó…” Nhưng vậy, ông dường như thể kiểm soát được cánh tay mình, lại tiếp tục cầm muôi vớt thịt cá lên ăn tiếp. Tôi thấy hai mắt lão Dương Bì đỏ vằn lên sắc máu, so với lúc thường tựa như hai người hoàn toàn khác nhau, người tuyệt đối thể uống ngần ấy canh cá mà vẫn như kẻ chết đói thế được. Ngay lúc ấy, tôi bỗng giật thót mình, dự cảm chẳng lành chợt dâng trào lên, nồi canh cá này thể uống được rồi!
Chương 17 Động Bách Nhãn ão Dương Bì uống thứ canh cá mùi vị thơm ngon ấy xong, người bỗng như biến thành loài ngạ quỷ vừa ở chốn A Tỳ địa ngục bò lên dương gian, chỉ sợ người khác tranh ăn với mình, đẩy tôi và Tuyền béo sang bên, giữ rịt lấy nửa nồi canh cá còn lại, tay lấy muôi múc canh, tay kia chọc thẳng luôn vào nồi canh sôi ùng ục vớt thịt cá lên ăn. Hai tay cứ liên tục bỏ đồ ăn vào miệng như nước chảy mây trôi, tựa hồ như cái miệng ông biến thành hang động đáy, bất kể ăn bao nhiêu cá uống bao nhiêu nước canh cũng đầy được. Nhưng thịt cá canh cá ấy dù sao cũng là vật hữu hình chứ phải khí, lão Dương Bì thực ăn quá nhiêu, bụng trướng phình cả lên, lỗ mũi cũng sắp chảy ra canh cá đến nơi. Tôi, Tuyền béo và Đinh Tư Điềm ngơ ngác nhìn nhau, đều đần thối mặt ra, thấy người ăn khỏe, nhưng ăn khỏe thế này đúng là chưa thấy bao giờ. Tuyền béo nhìn mà cơ mặt cứ giật giật, mực với lão Dương Bì: “Để lại cho cháu ít, cho cháu ít với...” Đinh Tư Điềm lờ mờ cảm thấy có gì ổn, nhưng biết rốt cuộc xảy ra chuyện gì, bám chặt lấy cánh tay tôi lắc mạnh: “Ông... ông... ấy bị sao vậy? Nếu còn ăn nữa e mất mạng đó.” Tôi bị Đinh Tư Điềm lắc mạnh cái, bấy giờ mới sực tỉnh, vừa nãy đúng là bị kiểu ăn như quỷ đói của lão Dương Bì làm cho ngẩn cả người, nồi canh cá này chắc chắn có vấn đề rồi. Lẽ nào thứ cá được dân địa phương coi như thiên thần này thực ăn được? Người nào ăn vào như cuồng ma, ăn mãi cho đến khi nào chết mới thôi? Mắt thấy lão Dương Bì sắp tự nhồi cho mình chết nghẹn đến nơi, tôi kịp nghĩ nhiều, vội bước tới nhắm chặt cổ áo sau của ông già. Da bụng ông to phình lên như cái trống, tựa hồ bất cứ lúc nào cũng có thể nứt toác ra luôn vậy. Tôi lo mình dùng sức mạnh quá tổn thương đến nội tạng của lão Dương Bì, nên chỉ khẽ chụp lấy cổ áo kéo ông về phía sau, rồi bảo Tuyền béo giật lấy cái muôi ông cầm. Lão Dương Bì còn tỉnh táo, trong miệng trong mũi đều ộc đầy nước canh, bị tôi kéo cái liền nằm vật ra đất, miệng sùi bọt trắng, bất tỉnh nhân luôn. Tôi nghĩ cũng may là chỉ ăn canh cá, giờ xoa bụng cho ông già chút để nôn ra, rồi nhà xí phát nữa, chắc cũng có gì nguy hiểm. Nhưng vừa ngẩng mặt lên, phát Tuyền béo cầm cái muôi vừa giật được múc canh cá lên, lại còn lầm bầm thắc mắc với Đinh Tư Điềm: “Lẽ nào canh này ngon thế cơ à? Làm giai cấp bần hạ trung nông ăn dừng lại được, để mình thử xem sao…” Tôi sợ Tuyền béo vào vết xe đổ của lão Dương Bì, vội co chân đạp đổ luôn nồi canh nóng, phần canh cá còn lại đều đổ hết cả ra đất, đoạn bảo với Tuyền béo và Đinh Tư Điềm: “Canh này ăn được, ăn vào biến thành quỷ đói đấy.” Đinh Tư Điềm vừa xoa bụng cho lão Dương Bì vừa : “Đúng đấy, mình thấy ông lão Dương Bì dường như càng ăn càng đói, ràng bụng trương phình lên rồi mà ông ấy vẫn hoàn toàn có cảm giác, càng ăn lại càng thèm ăn, xem chừng dân du mục thảo nguyên Khắc Luân Tả Kỳ xưa nay ăn cá cũng là có nguyên nhân của nó đấy.” Tôi rất hối hận vì để lão Dương Bì uống hớp canh đầu tiên, lúc bấy giờ chúng tôi căn bản thể nào hiểu được bí mật bên trong, chỉ cảm thấy khu rừng sương mù mờ mịt này, cũng như truyền thuyết về con long ở đây vậy, chỗ nào cũng toát lên vẻ kỳ dị đáng sợ, khiến người ta thể lý giải nổi. Rất nhiều năm sau đó, tôi đóng quân ở Lan Châu, mới biết cao nguyên Hoàng Thổ có loại cá đen rất hiếm gặp, loại cá đen này béo mẫm thơm ngon lại rất ít xương, dùng nấu canh mùi vị tuyệt hảo vô cùng, song bất cứ ai chỉ cần nếm miếng, đều biến thành quỷ đói đầu thai, càng ăn càng thấy đói, càng ăn lại càng muốn ăn thêm, ăn đến khi nào vỡ ruột mà chết thôi. Về loại cá đen đáng sợ này có rất nhiều truyền thuyết khác nhau, có thuyết bảo rằng lũ cá ấy là do những người chết đói trong những năm tháng mất mùa hóa thành, cũng có người bảo giống cá đen này là con rồng cháu rồng, ai ăn vào đều bị nguyền rủa. Về sau khi khoa học ngày phát triển, tôi mới biết rằng, ra trong thịt của loài cá đen này có chất giống như thuốc mê. Con người ta sở dĩ cảm thấy đói khát hay no căng, đều là bởi ở vùng dưới đồi trong đại não có đoạn thần kinh kiểm soát cảm giác này. thành phần nào đó của thịt cá đen vừa khéo lại làm đoạn thần kinh ấy bị tê liệt, khiến người ta lúc nào cũng thấy đói vô cùng, chỉ cần ăn vào là thể khống chế được mình nữa. Từ xưa đến nay, những người chết vì nguyên nhân này thực nhiều vô kể. Lại bấy giờ, ở trong khu rừng rậm gần động Bách Nhãn, chúng tôi phỏng chừng bắt nhầm loại cá đen ấy lên nấu canh, có điều, lúc ấy chúng tôi hề biết nguyên nhân này, chỉ cảm thấy ổn, tuyệt đối được đụng đến món canh cá ấy mà thôi. Lão Dương Bì trướng bụng hôn mê, xem chừng chốc nhát cũng khó lòng tỉnh lại, mà bụng ông già phình trướng cả lên như thế, cũng thể kéo đâu được, chẳng may mà vỡ ruột ra ở chốn hoang vu thầy thuốc này, chúng tôi cũng chỉ đành nhìn ông hồn về nẻo Tây chứ cũng chẳng biết làm sao. Nhìn đống canh cá đổ đầy ra đất và con ngựa già gặm cỏ, ba người tôi, Tuyền béo và Đinh Tư Điềm đều mặt ủ mày chau, cá ở trong cái đầm này quái dị quá, chắc chắn ăn được rồi, nhưng cơn đói thực khó chịu vô cùng. Lúc này, chúng tôi đều khỏi ngưỡng mộ con ngựa già kia, thảo nguyên đâu đâu cũng có cỏ, chỉ cần tùy tiện gặm vài cái là xong, đâu cần phải ăn uống phiền phức như con người. Trước mắt chỉ còn cách đợi lão Dương Bì hồi phục lại rồi tìm thứ khác bỏ bụng thôi vậy. Màn sương trong rừng dần nhạt , loáng thoáng trông thấy trăng sao trời rồi, cũng may là đầm nước này ngoài giống cá thể ăn kia ra cũng có gì nguy hiểm nữa. Xung quanh tĩnh lặng như tờ, ba người chúng tôi ngồi quanh đống lửa, định chuyện phiếm để phân tán chú ý hòng làm dịu phần nào cơn đói hành hạ. Nhưng mới được hai câu, chủ đề lại quay sang chuyện ăn uống, đầu óc chỉ toàn nhớ lại những bữa ăn ngon trong quá khứ. Nhớ năm xưa, ba chúng tôi từng khắp nửa nước Trung Quốc, nào là vịt quay Bắc Kinh, bánh bao “chó thèm” ở Thiên Tân, thịt dê Tây An, mì kéo Lan Châu... chúng tôi cứ thế nhớ lại từng bữa, nhớ lại từng miếng . Ba bọn tôi nhập tâm vào chuyện ăn uống, bỗng nghe sau lưng vang lên tiếng loạt soạt như có chuột, vội vàng quay đầu lại nhìn thử, ra nửa nồi canh cá và thịt cá, đầu cá bị đổ ra đất ấy dụ đến mấy con chuột đồng béo núc ních. Bọn này chắc cũng đói kha khá rồi, cưỡng lại được hấp dẫn của mùi cá thơm ngon, bèn mặc kệ gần đấy có người, có đống lửa, táo tợn xông lên, ôm lấy miếng thịt cá nằm lăn lóc dưới đất ăn say ăn sưa. Lũ chuột này béo mẫm, da mướt lông mượt, còn có tên tục là “giặc mắt to”, thông thường sống dưới các hang động bên dưới thảo nguyên, ở những chỗ khô ráo trong rừng cũng thi thoảng bắt gặp, thể hình béo hơn chuột đồng bình thường nhiều, cũng là thứ mỹ vị ở chốn hoang sơn. Tôi vội vung tay ra hiệu cho Tuyền béo và Đinh Tư Điềm chớ có lên tiếng, rồi tiện tay nhặt khúc cây to cỡ nắm tay, nhằm chuẩn vào con to nhất, lẳng lặng đập xuống. Con “giặc mắt to” vẫn cắm cúi mải ăn, nó cũng giống lão Dương Bì, chỉ lo ăn còn chẳng biết trời trăng gì nữa, hề né tránh, lập tức dính đòn ngay. Tuyền béo cũng nhảy bật lên, vung gậy lên cùng tôi đánh chuột, trong thoáng chốc có bảy tám con nằm lăn quay đơ dưới gậy. Ba bọn tôi cả mừng, vội bắt tay vào nướng chuột lên ăn, mỗi con “giặc mắt to” này đều ngang ngửa với con thỏ con, vừa nướng lên chảy mỡ xèo xèo. Đinh Tư Điềm lại bắt đầu lo lắng: “Ngộ ngỡ thịt chuột này cũng giống cá đen, ăn vào liền biến thành quỷ đói sao?” Tôi bảo với Đinh Tư Điềm: “ thảo nguyên làm gì có truyền thuyết nào cấm ăn giặc mắt to, chẳng phải đến mùa thu là dân du mục hay bắt những con giặc mắt to béo nhất làm thịt ăn à? Mình thấy chắc có vấn đề gì đâu.” Trong lúc chúng tôi chuyện, bên kia Tuyền béo xé bay nửa con chuột nướng vẫn chưa chín hẳn. Tôi với Đinh Tư Điềm vẫn hơi lo lắng, thử nhấp chút, phát giác thấy gì lạ, bấy giờ mới yên tâm ăn thả giàn. Dân du mục thảo nguyên coi thịt chuột nướng như món ăn thường ngày, nhưng ở khu Hưng An Lĩnh, rất nhiều người lại bao giờ ăn thịt chuột. Thời trước giải phóng, những người tìm mạch vàng kỵ nhất chính là thịt chuột, tôi cũng từng nghe ông nội kể, các nghệ nhân đổ đấu cũng ăn chuột, mà gọi chuột là “vợ”, vì nghề của họ toàn đào đất bới hang, chẳng khác gì lũ chuột là mấy, có thể coi như là đồng nghiệp cũng chẳng sai. Vả lại chuột cũng là trong “Ngũ Đại Tiên”[26], những người ngày ngày đều chui rúc dưới hầm, dưới hang lại càng thể đắc tội với lũ chuột được, bằng sơ sẩy chút là bị chôn sống trong hang ngay. Lúc ấy tôi chẳng bao giờ có ý định làm kẻ trộm mộ, nên chẳng hề ngại ngần việc ăn thịt “giặc mắt to”, Đinh Tư Điềm cũng chẳng tin mấy vị tiên chồn, tiên rắn gì gì đấy, nhưng lại tin rằng trời cao có đức hiếu sinh, phàm chuyện gì cũng nên làm quá tuyệt tình. Lấy ví dụ như việc ăn thịt chuột này chẳng hạn, ở quê Đinh Tư Điềm, thời trước giải phóng từng xảy ra nạn đói, bấy giờ rất nhiều chuột, tuy có lương thực để ăn, nhưng chuột hề ít chút nào. Vì sống, mọi người phải bắt chuột ăn, cũng biết ăn hết mấy chục vạn con chuột, cuối cùng mới qua được cơn đói kém ấy. Nhưng con người nơi đó ăn thịt chuột thành thói quen, những lúc lương thực đủ đầy cũng vẫn bắt chuột ăn, chẳng những vậy mà nhà nhà đều ăn, người người đều ăn, kết quả là năm nọ đột nhiên dịch hạch lan tràn, người chết biết bao nhiêu mà kể. Sau trận dịch ấy, cả ngôi làng đều chết tiệt cả, chỉ còn hai người ăn chay là sống sót. Tuyền béo : “Cái gì mà trời cao có đức hiếu sinh chứ? Tôi thấy chuột chính là bọn ‘bốn hại’[27] tiêu diệt hết bọn ấy có dịch diếc gì hết nữa. Nhưng mà các cậu nghe tin gì chưa, có người thế giới này chuột còn nhiều hơn cả người nữa? Xem ra sau khi tiêu diệt sạch chủ nghĩa đế quốc, chủ nghĩa xét lại và bọn phản động, chúng ta phải bắt tay vào diệt chuột thôi.” đoạn, cậu ta đột nhiên vớ lấy khẩu súng săn, cầm ngược đầu, vung báng súng đập xuống con chuột lấp ló nấp trong hang thò đầu ra nhìn trộm chúng tôi. Con “giặc mắt to” ấy bị mùi thơm của canh cá và thịt chuột nướng khiêu khích cho đứng ngồi yên, cứ lấp la lấp ló cái đầu bên trong hang chuột, định tìm cơ hội chui ra vụng ít thịt cá, thoáng thấy có người vung gậy đập xuống, vội vàng rụt vào bên trong né tránh. Tuyền béo vừa ăn no xong, cũng muốn tìm cơ hội vận động cho tiêu bớt nên cú này vận sức rất mạnh, báng súng đập thẳng xuống đất, ngờ đập trúng con “giặc mắt to”, lại khiến tầng đất bên sụt khoảng lớn. Vỏ đất ở đây rất giòn, bên dưới lại có hang động, vừa đập cái thụt luôn xuống. Khu rừng này sở dĩ được gọi là động Bách Nhãn, có lẽ vì bên dưới có rất nhiều hang động hoặc hố sâu, nhưng nhiều năm nay hoàn cảnh tự nhiên và thủy thổ thay đổi, khiến lá cây, cỏ dại phủ kín những hang động này, hình thành nên tầng vỏ đất, vì vậy đến giờ rất khó có thể trực tiếp tìm thấy hang động, hố sâu nào. Tầng vỏ đất này lại bị bọn chuột chuyên đào đất bắt giun ăn khoét cho thủng hàng trăm lỗ, bởi thế Tuyền béo mới chỉ dùng báng súng đập cho cái sụt xuống luôn, cũng có gì là lạ cả. Lúc bấy giờ chúng tôi đều ngờ lại xảy ra chuyện như thế, trong lùm cỏ đột nhiên sụt xuống mảng đất lớn, quả thực là hoàn toàn nằm ngoài dự liệu của mọi người. Điều khiến chúng tôi ngạc nhiên hơn nữa là, bên trong cái hang lớn vừa lộ ra ấy lại chen nhung nhúc những chuột là chuột, Tuyền béo giơ tay lên chỉ: “Ôi cha chả, bà nội bà ngoại của con ơi, sao mà lắm chuột to thế này?” Tôi nhìn theo hướng ngón tay cậu ta, cũng lập tức rùng mình chấn động, sởn hết cả gai ốc lên. Trong cái hang toàn là rễ cây với bùn nhão ấy, ngờ lại có ngọn “núi chuột” to đùng ngã ngửa, vô số con “giặc mắt to” chen chúc lại chỗ, đè chồng lên nhau, ít nhất cũng phải cao hơn người bình thường, vả lại chỉ có “giặc mắt to”, trong lũ chuột chen chúc ấy còn có chuột xám, chuột chó thảo nguyên, và cả rất nhiều con chuột hoang thể nhận ra thuộc chủng loại nào, chút cha chút chít kêu ầm cả lên. Cái hang chuột này thực lớn quá sức tưởng tượng. Bị hang động sụt xuống làm kinh hoảng, đàn chuột như dòng nước lũ vỡ đê trào ra. Vì số lượng quá nhiều, nên đống lửa chúng tôi đốt lên kia cũng bị chúng dập tắt trong tức . Tôi, Tuyền béo và Đinh Tư Điềm vội vàng vung đao, vung gậy xua đuổi vô số con chuột lớn xông tới bên cạnh mình. Lũ chuột bị người xua đập lại càng hỗn loạn hơn, vừa chút cha chút chít vừa chạy tỏa khắp các hướng trong rừng. trong các loài thiên địch của chuột hoang chính là du diên, mà ban đêm lại vừa khéo là thời gian du diên săn mồi. Bị lũ chuột thu hút, chỉ thấy giữa các khe đá, trong lùm cỏ rậm, trong các bụi cây bỗng xuất mấy con du diên lớn màu vàng xanh, xông thẳng vào giữa bầy chuột tháo chạy ra sức ăn uống. Khu rừng vốn tĩnh lặng như cõi chết bỗng nhiên loạn hết cả lên, lúc hỗn loạn lại gặp phải bao nhiêu là thiên địch, nhất thời bọn chuột hoang ấy cũng biết phải chạy lối nào, hết sang bên này rồi lại sang bên kia, vòng vòng lớn trong rừng, nhưng bốn phương tám hướng đều có lũ du diên . Dân du mục thảo nguyên chỉ thường thấy những con du diên dài khoảng hai chục xăng ti mét, con nào dài đến gần mét là vô cùng hiếm thấy. Nhưng ở đây, chúng tôi phát xung quanh còn có những con du diên đốm hoa dài đến hơn hai mét. Độc tính của những con này thậm chí còn mạnh hơn rắn độc, nếu lúc này mà chúng tôi cũng chạy loạn lên ra bên ngoài theo lũ chuột chắc chắn bị bộ hàm đầy chất độc của lũ du diên cắn phải. Bị cắn rồi là hết cứu, vì căn bản kịp làm gì độc phát thân vong mất rồi. Thảm trạng của con ngựa màu mận lúc bị du diên cắn chết, nhớ lại quả thực khiến người ta lạnh hết cả xương sống. Nếu lúc này vẫn còn mấy con ngựa, chúng tôi may ra vẫn có thể đánh liều phen, mạo hiểm cưỡi ngựa xông ra ngoài. Nhưng bên cạnh chỉ còn mỗi con ngựa già, giờ cũng kinh hoảng tột độ, dây cương của nó bị buộc chặt vào cành cây, giật mãi dứt ra được, trong lúc hỗn loạn, chỉ đành ngừng tung vó lên đá bay những con chuột và cả du diên lại gần nó ra xa. Tôi nhặt cái đèn dầu dưới đất lên, gọi Tuyền béo và Đinh Tư Điềm đỡ lão Dương Bì hôn mê bất tỉnh chạy vào trong hang chuột vừa lộ ra vì sụt mảng đất lớn. Lúc này hầu hết đàn chuột chạy ra khỏi cái hang lớn ấy, so với khu rừng loạn xà ngầu những tiếng chí chóe cắn giết lẫn nhau, chỉ có cái hang vừa hôi vừa bẩn này là chỗ để náu thân duy nhất. Tuyền béo và Đinh Tư Điềm lập tức hiểu ý tôi, hai người vừa đỡ vừa kéo, lôi lão Dương Bì trương bụng to như cái trống vào trong hang. Tôi vung thanh bảo đao Khang Hy lên, chém đao đứt lìa sợi dây cương buộc con ngựa già. Con ngựa được tự do, liền hí dài tiếng, nhưng lập tức xông ra khỏi vòng vây, mà cứ quanh quanh bên hang chuột, chịu bỏ lại chủ nhân. Tôi vội vung đao chỉ ra phía bên ngoài khu rừng hét lớn: “Tự mày chạy .” Con ngựa già ấy như có linh tính , phỏng chừng nhận ra với độ cao của nó khó lòng chui vào hang chuột được, lại thấy các chủ nhân đều vào trong tránh nạn, nó hí lên tiếng, quay người xông ra phía bên ngoài khu rừng. Tôi thấy con ngựa chạy , liên lập tức chui vào hang chuột, mùi hôi tanh khó tả tức xộc vào lỗ mũi, tôi vội vàng đưa ống tay áo lên bịt chặt miệng lại. Bên trong hang chuột rất sâu, hai bên ẩm thấp và rất chật hẹp, ngờ lại giống như đường hầm ngầm do con người xây dựng, giơ đèn lên soi vào, bên trong sâu hun hút tối om om chẳng nhìn thấy gì cả, trong hang vẫn còn vài con chuột to tướng chưa chạy hết, chốc chốc lại loạt soạt bò qua dưới chân chúng tôi. Bên tai nghe tiếng du diên bò sồn sột và tiếng kêu bi thảm của lũ chuột lan đến gần cửa hang, tôi thầm nhủ lần này coi như vào động Bách Nhãn rồi, giờ có muốn vào cũng xong. Vậy là tôi dám chậm trễ, vội vàng giơ mũi đao chỉ vào bên trong hang động, với Tuyền béo và Đinh Tư Điềm: “Chiến thuật du kích mới là phép mầu giành phần thắng của quân ta, chúng ta cần phải tìm lấy cơ hội chuyển bại thành thắng trong lúc rút lui, giờ lùi vào bên trong trước , cẩn thận dưới chân đấy nhé.” Năm đó, ba người trẻ tuổi chúng tôi, ôm đầy bụng dũng khí sục sôi, mạo hiểm xông vào khu cấm, mới đầu cùng lắm cũng chỉ có chút căng thẳng bất an, ngoài ra cũng chẳng nghĩ ngợi gì nhiều. Nhưng bấy giờ, chúng tôi ai có thể ngờ được, ở cuối cái hang chuột đó, là cơn ác mộng khủng khiếp chờ đợi chúng tôi.
Chương 18 Tranh khắc rồng húng tôi lao vào hang chuột khổng lồ, giơ đèn lên soi chỉ thấy bốn phía xung quanh mình đều là gạch cổ, viên gạch rất lớn, hình dáng như phiến đá, ngay cả mái vòm đỉnh đầu cũng bằng gạch cổ, có điều đường hầm lát gạch cổ này xây rất giản dị, nhiều chỗ đá bị sụt lún hủy hoại. Vì thời gian, cộng với các hang hốc ngóc ngách của lũ chuột hoang cùng rễ cây bên đầm xuống, chỉ riêng đoạn đường hầm trước mắt chúng tôi thôi có trăm ngàn lỗ , hoàn toàn giống đường hầm do con người kiến tạo. Trong bóng tối và hoảng loạn, chúng tôi cũng thể nào phân biệt xem rốt cuộc mình ở đâu nữa. Trong đám rễ cây và bùn đất đỉnh đầu, có vô số sâu bọ và những búi trứng sâu trắng toát, chắc là vừa nãy bọn chuột chồng chất nhau lên là để ăn trứng sâu này đây. Lũ du diên kia tuy hung mãnh lại có chất độc, nhưng giỏi đào đất, thể hình lại quá lớn để chui vào hang chuột. Nhưng lúc này cái hang lớn mà lũ chuột chiếm cứ bị sụt ra lỗ lớn, nên lũ du diên lớn đều ào ào túa ra lùng bắt bọn chuột hoang chạy tán loạn. Để tránh bọn du diên hung hãn ấy, chúng tôi đành phải dần lùi sâu vào trong đường hầm thần bí này, khó khăn nhất là lão Dương Bì vẫn no trướng cả bụng lên, thần trí hoàn toàn mất hết, Tuyền béo muốn cõng cũng thể nào cõng nổi, đành phải cùng Đinh Tư Điềm kéo lê hai cánh tay ông già. Chẳng những thế, vật dụng chiếu sáng chỉ có mỗi ngọn đèn dầu cũ kỹ mờ mịt tôi cầm, căn bản chẳng thể nào chiếu xa quá năm bảy bước, vừa phải lần mò tiến lên, lại vừa phải dùng chân đá văng những con chuột dưới đất, bảo là chạy sâu vào bên trong đường hầm cũng chính xác lắm, phải là “lết” vào bên trong mới đúng. Vừa được vài bước, liền nghe lũ chuột phía sau lại nháo lên chặp, nghĩ hẳn là có du diên chui vào đường hầm này rồi, tôi vội đưa mắt nhìn quanh, thấy phía trước có mấy phiến gạch cổ bị rễ cây chen xuống làm lỏng hết cả ra rồi, chỉ cần thêm chút ngoại lực vào, đoạn đường hầm này chắc chắn sập xuống chứ chẳng nghi. Việc đến nước này chỉ còn cách xuất chiêu mạo hiểm, nếu bị chôn sống ở đây cũng đành chịu vậy thôi. Thế là tôi vội giục Tuyền béo và Đinh Tư Điềm kéo lão Dương Bì nhanh lên, càng nhanh càng tốt, cứ mặc kệ động tĩnh phía sau, rồi tra thanh bảo đao Khang Hy vào vỏ, chĩa chuôi đao lên nhè mấy viên gạch đỉnh đầu mà vừa cậy vừa gõ. Vừa nạy được hai viên gạch xuống, bùn đất và đá vụn bên liền rơi xuống rào rào, tôi dám ở lại lâu, vội vàng nhảy ra xa. Bỗng nghe “ầm ầm” tiếng, ngay sau đó nóc đường hầm sập xuống, đè chết vô số chuột lớn chuột bên dưới. Bọn du diên kia tạm thời vượt qua đây được rồi, tôi đưa tay quẹt mồ hôi trán, rồi xoay nguời đuổi theo bọn Tuyền béo trước được quãng. Tuyền béo thấy phía sau có tiếng đất đá rào rào, liền hỏi tôi có phải chọc cho sập đường hầm rồi . Tôi , đường quay lại coi như bị cắt đứt rồi, chỉ có thể hy vọng ở đầu bên kia có lối ra khác thôi. Trước tình cảnh ấy, ba người chúng tôi ít nhiều gì cũng hơi rối loạn, đường hầm này tối tăm mù mịt lại chẳng thấy tận cùng đâu, cũng chẳng có lối ra nào khác hay . Tuy rằng nơi này có rất nhiều “giặc mắt to” chạy ra chạy vào, nhưng cửa hang bọn “giặc mắt to” chui ra được, chúng tôi lại chui ra được. Phải như bị chôn sống trong cái động chuột hôi thối bẩn thỉu này, cũng khỏi chết quá uất ức rồi. Ông nội tôi thời trước xem phong thủy mưu sinh, từng quen biết vài nghệ nhân hành nghề đổ đấu trộm mộ. Tôi có nghe ông kể, nghề trộm mộ là cái nghề qua lại giữa hai giới Dương, phàm làm nghề này đều là kẻ gan góc cùng mình, nhưng cũng có những việc khiến cho họ cực kỳ khiếp sợ, mà sợ nhất chính là bị chôn sống dưới lòng đất, đó là cái chết bi thảm nhất. Có điều, trong những người làm nghề đổ đấu ấy, có Mô Kim hiệu úy rất giỏi xem tướng đất, có thể “ngoài nhìn hình núi, trong xét mạch đất”, dù là mặt đất hay dưới lòng đất, đều có thể phán đoán ra địa hình địa mạch. Trong mắt của Mô Kim hiệu úy, vũ trụ có cửa lớn đóng mở, núi sông có tính có tình, họ coi núi sông như tồn tại có sinh mạng, “núi là cơ thể, đá là xương cốt, rừng là áo quần, cỏ cây là lông tóc, nước là huyết mạch, sương khói là thần thái, mây mù là khí sắc”, chỉ cần nắm được mệnh mạch của núi sông, cũng nhất định có thể tìm thấy “sinh môn” nơi tuyệt cảnh. Thời đó tôi vẫn chưa hiểu được những bí thuật phong thủy thâm ảo ấy, chỉ nhớ ông nội đại khái từng như thế, trong lòng khỏi thầm ngưỡng mộ Mô Kim hiệu úy. Chuyện trong thiên hạ phúc họa khổ lường, hung cát nan phân, nếu có Mô Kim hiệu úy ở đây, liệu họ có biết được con đường hầm tối đen như mực này thông đến đâu nhỉ? Thậm chí tôi còn có cảm giác, đường hầm lát gạch cổ này rất giống “mộ đạo” trong các câu chuyện về giặc trộm mộ, chừng ở tận cùng con đường này, có cỗ quan tài lớn cũng nên. Tôi vừa nghĩ ngợi lung tung vừa thay cho Đinh Tư Điềm, cùng với Tuyền béo đỡ lão Dương Bì. Đinh Tư Điềm cầm súng săn, giơ đèn dầu soi đường cho cả bọn, ba người lần mò chầm chậm tiến lên phía trước, tôi tình cờ ý nghĩ vừa lên trong đầu ấy ra với họ. Đinh Tư Điềm ngạc nhên : “Hồi trước tham gia hoạt động ‘nối liền’, cũng có nghe bạn kể chuyện phong thủy trộm mộ, lẽ nào tổ tiên nhà bạn làm nghề này ?” đợi tôi trả lời. Tuyền béo lên tiếng đáp thay: “Ông nội cậu Nhất này là đại địa chủ sau khi bị quần chúng cách mạng phát , bị phê đấu phê điếc rồi giẫm đạp be bét nhừ tử ra rồi, lại còn chụp cho cậu ta cái mũ con hiền cháu thảo của giai cấp địa chủ, bằng sao cậu ta lại vào bộ đội chứ. Nhà tớ vừa khéo hoàn toàn trái ngược, thực ra tổ tiên nhà tớ đều là dân quê chân đất ăn xin ăn mày, nghèo như vậy lại còn đủ vinh quang rồi chắc? Nhưng ông già tớ lại có vấn đề lịch sử vẫn chưa làm ràng, đến giờ vẫn chưa xét minh bạch được là phản đối lịch sử hay phản đối tại, kết quả là tớ cũng bị chụp cho cái mũ, là mầm mống của chủ nghĩa xét lại, mới chuyên thôi chứ chưa hồng, thế nên cũng được vào bộ đội. Bạn xem, tớ đây trái tim hồng sáng trong thế này, lẽ nào lại còn như ban ngày hay sao? Tiên sư cha bố, tớ đây có chọc vào ai đâu chứ?” Lời của Tuyền béo chọc đúng vào chỗ đau chung, ba chúng tôi đều thần sắc ảm đạm. Tôi thầm nhủ, mấy chuyện chó chết này có gì hay ho mà nhắc lại chứ, càng nhiều càng khó chịu, phải mau chóng lảng sang chuyện khác mới được, vậy là bèn với Tuyền béo và Đinh Tư Điềm: “Ông nội tôi đúng là có mấy mẫu ruộng bạc màu, nhưng cũng đâu phải địa chủ địa chiếc gì. Mà ông cũng làm nghề trộm mộ, chẳng qua chỉ quen biết với số cao thủ đổ đấu, lại tận mắt trông thấy ‘bánh tông bự’ rồi mà thôi.” Tôi e hai người hiểu tiếng lóng trong nghề, lại giải thích đổ đấu tức là trộm mộ, bánh tông là thi thể bên trong mộ phần. Nghe ông tôi bảo, thường thường vẫn đời có ba trăm sáu mươi nghề, nghề nào cũng có Trạng nguyên, nhưng thực ra các ngành nghề truyền thống có thể tự thành hệ thống của Trung Quốc, tổng cộng chỉ có bảy mươi hai nghề, mỗi nghề đều có lai lịch truyền thừa và tổ sư gia, chẳng hạn như: đồ tể, thợ may, thợ mộc, trộm mộ, cướp đường..., trong đó nghề nào là lợi hại nhất có biết ? Có câu rất chuẩn rằng: “bảy mươi hai nghề, trộm mộ đứng đầu”, vì những tri thức, kỹ thuật, gan dạ, tay nghề mà nghề trộm mộ cần phải có, cùng với nguy hiểm cũng như hồi báo, đều vượt bảy mươi mốt nghề còn lại rất nhiều. Chẳng những vậy, người đời cũng công nhận “đổ đấu trộm mộ, Mô Kim đứng đầu”, vì vậy Mô Kim hiệu úy mới là vua trong các vua ngành nghề truyền thống Trung Quốc. Tuyền béo chẳng hiểu gì nhưng lại cố giả vờ hiểu: “Ồ, vòng vo mãi ra cậu cảm thấy chúng ta vào trong cái mộ cổ chứ gì? Thực ra tôi thấy trộm mộ cũng chẳng có gì đáng sợ, mộ cổ phải là chỗ chôn người chết thôi sao, toàn là đám đế vương khanh tướng tài tử giai nhân của xã hội phong kiến, chẳng phải là bị đánh đổ hết rồi à?” Đinh Tư Điềm cũng : “Đúng thế, các cuộc khởi nghĩa nông dân thời xưa, toàn là đến đào lăng tẩm của đế vương lên trước, điều này cũng thể tinh thần vô úy và khinh miệt của giai cấp nông dân với vương quyền phong kiến, và khí khái quyết tâm thề đội chung trời với giai cấp thống trị.” Có điều, tuy ngoài miệng Đinh Tư Điềm thế, nhưng dù sao cũng là con , dẫu có tham gia Hồng vệ binh, nhưng chung quy cũng thể gan lớn tày trời như tôi và Tuyền béo được. Bởi thế, vẫn chưa thể khắc phục được tâm lý sợ hãi đối với mộ cổ, lại hỏi tôi xem trong những ngôi mộ cổ thường có gì? Lúc mới vào địa đạo này tôi cũng có hơi hoảng, nhưng được đoạn, dần dần thích ứng với hoàn cảnh bức bối, tối tăm trong đường hầm, lòng can đảm cũng tăng lên nhiều, thấy Đinh Tư Điềm hỏi trong mộ thường có gì, liền nửa đùa nửa đáp: “Chắc là giống trong hoàng cung ấy, có rất nhiều tượng điêu khắc, vòi phun nước gì gì đó.” đoạn, lại sực nhớ đến chuyện gặp ma trong ngôi cổ mộ ở sâu trong núi Đại Hưng An Lĩnh, vậy là bèn thêm mắm dặm muối vào cho hai người kia tưởng tượng: “Những điêu khắc ấy toàn là hình các thời xưa, những xinh đẹp yểu điệu, mà còn toàn hở mông mặc quần áo gì, đều khắc từ đá Đại Lý hết, tớ đây tận mắt trông thấy rồi.” Tuyền béo và Đinh Tư Điềm hoàn toàn hiểu mấy chuyện này, cũng biết tôi hay bốc phét, cứ mắt tròn mắt dẹt được gì, tôi lại tiếp tục tán thêm: “Bây giờ phải xác định kỷ luật ràng thôi, lát nữa ngộ nhỡ may đúng là lạc vào mộ cổ chúng ta thể hành bừa bãi theo cảm tính, cho dù trộm mộ cũng được hủy hoại các di tích văn vật, nổ súng vung đao cũng được nhằm vào các tượng lõa thể tường, đặc biệt là cậu đấy Tuyền béo, tuyệt đối được tùy tiện sờ lung tung lên những bức tượng cung nữ lõa thể bằng đá Đại Lý đâu đấy, toàn là bánh tông để bẫy giai cấp vô sản chúng ta cả đó.” Tôi bằng giọng cực kỳ trịnh trọng, dọa cho Tuyền béo sợ lắp ba lắp bắp: “Thề có Mao chủ tịch, tôi tuyệt đối sờ, được rồi, chúng ta chỉ nhìn chứ sờ, đứa nào sờ là con đứa kia... à, đúng, chúng ta cũng là giai cấp vô sản, tại sao chúng ta lại được sờ chứ?” Lúc này Đinh Tư Điềm chợt lên tiếng xen vào: “Đồng chí Lenin, bạn chắc chắn cái hang toàn chuột là chuột này là ngôi mộ cổ chứ?” Tôi nhún vai đáp lời: “Thực ra mình cũng , vừa nãy sợ mọi người căng thẳng nên mới linh tinh mấy câu cho yên tâm thôi, trắng ra, mình thấy chỗ này vừa có thể là mộ cổ lại vừa có khả năng phải là mộ cổ. Đây rốt cuộc là nơi nào chỉ có trời mới hiểu, có quỷ ma mới biết.” Tuyền béo tức tối nghiến răng kèn kẹt: “ ra lúc nãy cậu toàn nhăng cuội thôi hả, cái gì mà vừa có khả năng là, lại vừa có thể phải hả?” Trong lúc chuyện, chúng tôi bất giác tới cuối con đường hầm, chỗ này còn những viên gạch lớn cổ phác, nứt vỡ toang toác ra nữa, mà là hang động thiên nhiên hình vòm. Hang động này cũng lớn lắm, chỉ khoảng hơn trăm mét vuông, vòng xung quanh là những cửa địa đạo, quy mô hình dáng đều tương đồng với đường hầm chúng tôi vừa chui vào. Người đứng ở đây, căn bản thể phân biệt được phương hướng Đông Tây Nam Bắc. Tôi và Tuyền béo đỡ lão Dương Bì lúc lâu, cánh tay hơi tê mỏi, phát ra nơi này ngờ lại có rất nhiều lối rẽ, nhất thời cũng biết phải tính sao, vậy là bèn đặt ông lão xuống trước. Lão Dương Bì mê man, miệng vẫn lắp bắp nhảm, tựa hồ như tiếc thương cho lù bò lũ ngựa. phen chạy loạn vừa nãy, có thể cũng giúp ông tiêu phần nào thức ăn trong bụng rồi. Đinh Tư Điềm lo lắng giơ đèn lên quan sát, rầu rầu : “Thế này như là vào mê cung dưới đất rồi còn gì, có phải chúng ta vào trung tâm của mê cung rồi , tại sao mọi đường hầm đều thông tới đây thế?” Tôi xoa xoa cánh tay tê rần đảo mắt quan sát tứ bề xung quanh, cũng biết đây là nơi nào, nhưng chắc chắn phải mộ cổ, mà cũng phải mê cung dưới lòng đất gì. Các đường hầm xung quanh hang động này tỏa ra khắp phía, tôi đếm thử, tổng cộng có chẵn mười cái, hơn kém. Càng quan sát, chúng tôi lại càng thấy bố cục của hang động này kỳ quái lạ thường, giữa hang có tấm bình phong thiên nhiên bằng đá xanh, trông như bức tường đá. Trong khoảng đất xung quanh tấm bình phong đá ấy, có chôn rất nhiều tảng đá lớn, hình dạng khác nhau, kích cỡ cũng bất đồng, chôn bừa bãi theo quy luật gì hết, khiến chúng tôi chẳng thể nào nhìn ra được điều thâm ảo bên trong. Tuyền béo vừa nhìn cái ở đây chôn đá Đại Lý đấy à? phải có tượng đàn bà con bằng đá sao? Sao lại khắc thành hình củ khoai tây hết thế này? Tôi thèm để ý đến lời của cậu ta, trong lòng ngừng thắc mắc, kẻ nào ăn no rỗi hơi lại chôn nhiều đá tảng ở trong cái hang này làm gì nhỉ? Tôi còn chưa hết ngạc nhiên, Đinh Tư Điềm nén được tò mò, giơ đèn dầu bước lại gần bức tường đá trơn nhẵn quan sát thử, phát ra tấm bình phong bằng đá xanh thiên nhiên ấy có khắc rất nhiều đồ án. Đây có vẻ như là tấm bia đá được chôn nửa dưới đất, vậy là vội vàng gọi tôi và Tuyền béo lại gần xem xét. mặt đá trơn nhẵn có chữ nghĩa gì, nhưng hai mặt đều khắc những hình vẽ rất tinh tế, bị bong tróc hư tổn khá nhiều, màu sắc vốn có cũng mờ tịt đến độ gần như còn gì. Có điều, tình trạng đó cũng ảnh hưởng gì đến việc quan sát hình vẽ khắc mặt đá, chỉ hiềm là nội dung những hình vẽ này thể quá đỗi kỳ lạ dị thường, khiến người ta khó thể nào tin nổi. Tôi chỉ liếc nhìn mấy cái, có cảm giác hơi thở mình trở nên nặng nhọc khó chịu. mặt khắc hình đồi núi trập trùng, thung lũng ở giữa là rừng cây rậm rạp, nhìn đặc điểm địa hình ấy, hình như chính là khu vực động Bách Nhãn chúng tôi đứng đây. Xung quanh khu đồi núi vẽ cái bóng đen hình rồng, trông như thể con rồng đen nhe nanh múa vuốt nuốt lấy người và súc vật quanh đấy. Nghĩ đến đàn bò và lũ chim nhạn dưng mất tích, chúng tôi đều biêt nội dung khắc phiến đá này phải là giả, chẳng qua là, có lẽ người xưa khi điêu khắc nên bức tranh này cũng chỉ biết vùng quanh đây có người và súc vật mất tích cách thần bí, mà hiểu được điều bí bên trong, thành thử hư cấu thành bóng đen hình rồng bầu như vậy. Lúc thảo nguyên, chúng tôi thấy bầy nhạn biến mất trong tầng mây, sau đó liền cảm thấy hai tai ù ù đau nhức, nếu phải mấy con ngựa cảnh giác, sợ rằng giờ đây mười phần đến tám chín là bị cái bóng hình rồng trong tranh ấy nuốt mất rồi. Nhưng lúc ấy bốn người tám con mắt, ràng đều thấy thảo nguyên thoáng đãng mênh mông chẳng có gì cả, tại sao mắt thường lại thấy nó chứ? Cái bóng hình con rồng này rốt cuộc đại biểu cho bí mật gì? Lẽ nào là vong linh của con rồng thời cổ tác tác quái? Người xưa để lại ám thị thần bí thế này, hậu nhân chúng tôi khó mà nắm bắt được chân tướng. Tuyền béo nhìn kiểu cưỡi ngựa xem hoa, chẳng hề cảm thấy những hình khắc cổ xưa bức vách đá này có gì đặc biệt, tùy tiện liếc mấy cái rồi lấy trong túi ra điếu thuốc hiệu Tân Công nhăn nhúm, ngồi xuống bên cạnh lão Dương Bì nghỉ ngơi hút thuốc. Đinh Tư Điềm còn tò mò hơn cả tôi, nhìn những hình vẽ thần bí bức vách, trong lòng chỉ toàn nghi vấn, liền hỏi tôi có suy nghĩ gì? Tôi , đầu tiên tôi tin đời này có rồng cho lắm, tuy thời xưa có rất nhiều kiện nhìn thấy rồng, nhưng đại bộ phận toàn chỉ là những chuyện bịa đặt thành có. Thời tôi học cấp II, còn nhớ có lần xảy ra vụ chấn động suốt thời gian dài, nghe đồn dân trong núi đào giếng, đào được con rồng thoi thóp. Lúc ấy có rất nhiều người vác dao vác kiếm đến cắt thịt rồng, lại còn có lời kể rằng, cắt thịt rồng cũng được, mang về nhà ăn cũng được, nhưng lúc cắt tuyệt được nhắc đến chữ “rồng”, hễ nhắc đến chữ “rồng”, trời lập tức có mây mù sấm chớp, kẻ nào lỡ lời ắt bị sét đánh chết ngay tại chỗ. Lại còn nghe đâu rằng, những người tuổi rắn tuổi rồng đều được đến xem, tóm lại là chuyện gì cũng có hết. Về sau chân tướng được chứng thực, cái gọi là rồng ấy, chẳng qua chỉ là con trăn lớn bị thương lúc người dân kia đào giếng mà thôi. Vách đá lớn có khắc hình rồng này hiểu là di tích từ triều nào đại nào thời xa xưa, xem ra truyền thuyết về long ăn thịt người và gia súc ở vùng phụ cận động Bách Nhãn này của dân du mục tuyệt đối phải là vô căn vô cứ, chó đâu có sủa chỗ người. Chỉ là, tôi cảm thấy đó rất có khả năng là tượng tự nhiên cực kỳ hiếm gặp, thời bấy giờ vẫn chưa được người đời hiểu hết ngọn ngành. Nhưng rốt cuộc là lực lượng gì mới có thể làm cho sinh linh tan biến trong vô hình vô ảnh như vậy? Dựa vào tôi và Đinh Tư Điềm, làm sao có thể tham thấu được huyền cơ trong đó, phân tích bừa bậy mấy câu đều thấy chẳng hợp lý gì cả, vậy là đành bỏ đấy. Đinh Tư Điềm sang phía bên kia bức tường, quan sát hình khắc đó. Nghi vấn trong đầu mỗi lúc lớn hơn, tôi theo ấy sang ngay, mà quay lại chỗ Tuyền béo xin điếu thuốc. Loại thuốc Tân Công rẻ tiền này là do bọn tôi đem con Hoàng tiên bắt được đổi lấy, chất lượng cực kém, mà lại còn nặng, rất dễ sặc. vậy, chúng tôi lại tiếc rẻ nỡ hút luôn, còn trộn thêm nửa lá khô vào sợi thuốc, điếu xẻ thành hai, hút hơi liền cảm thấy thần hồn điên đảo, như thể vừa rơi vào giữa bãi sương mù rộng năm dặm vậy. Tôi rít hai hơi thuốc, cảm thấy đầu óc tỉnh táo hơn nhiều, bèn tới bên cạnh Đinh Tư Điềm, cùng quan sát hình khắc ở mặt bên kia tấm bình phong đá, hy vọng là có nội dung gì đấy hữu dụng chút. Nhưng vừa đứng vững, mới ngước nhìn lên cái, điếu thuốc trộn lá cây tay tôi liền suýt chút nữa rơi xuống đất. Phía bên này, ngờ lại có hình khắc của Hoàng tiên !
Thiên Hạ Bá Xướng Mộ Hoàng Bì Tử (Hang Mộ Chồn Vàng) Chương 19 Dẫn hồn kê hông đạo ngầm dưới lòng đất bị vô số chuột hoang chiếm lĩnh này, nối liền với huyệt động giống như gian đại sảnh ngầm, bên trong chôn rất nhiều tảng đá lớn, xung quanh còn có rất nhiều thông đạo tương tự nhau, tôi có nằm mơ cũng thể nào ngờ được, bức tường đá ở huyệt động này, lại khắc hình Hoàng tiên giống hệt như trong miếu thờ hoàng bì tử kia. Chúng tôi chú ý đến hình khắc ở mặt bên này ngay từ lúc mới phát ra tấm bình phong thiên nhiên bằng đá xanh, có điều niên đại của những nét khắc này quá lâu, bị bong tróc lu mờ rất nhiều, nếu lấy tay áo lau sạch bụi đất bám bên khó lòng mà nhận ra được. Tôi đứng ngay sát phía trước bức bình phong đá ấy, mượn ánh đèn mờ mờ u ám, vừa ngước lên cái chú ý ngay đến gương mặt chồn lông vàng kỳ dị tà ác kia. Hình vẽ thân thể đàn bà, đầu hoàng bì tử này, khiến người ta thoạt nhìn liền dâng lên thứ cảm giác khó chịu đè nén. Vì quá bất ngờ, suýt chút nữa tôi đánh rơi điếu thuốc tay xuống đất, vội vàng bấm ngón tay giữ chặt đầu mẩu thuốc, đưa lên miệng rít mạnh hơi, hòng làm cho tâm trạng kinh ngạc pha bất ngờ của mình từ từ bình ổn lại. Sợi thuốc lá pha lẫn với lá cây khô, rít vào hơi rồi phả khói ra, hệt như ống bễ lúc vừa đốt lò than, làm Đinh Tư Điềm đứng bên cạnh ho sù sụ. vung tay xua khói thuốc: “Lẽ nào bạn thể hút bớt chút à? Trẻ như vậy nghiện thuốc lá, sau này hối tiếc cũng quá muộn màng rồi.” Tôi cảm thấy Đinh Tư Điềm khắp người toàn là ưu điểm, duy chỉ có khuyết điểm , ấy chính là thể chấp nhận người khác hút thuốc. Năm đó, khi thấy tôi và Tuyền béo hút thuốc, suốt ngày kể kể lại chuyện đồng chí Lenin cai thuốc thế nào. Thời trẻ, đồng chí Lenin rất khó khăn, vả lại còn nghiện thuốc lá nặng nữa, có lần mẹ Lenin : “Vladimir Ilych thân mến, lẽ nào con thể hút bớt chút sao?” Quả hổ danh là mẹ của vĩ nhân, lời ra cũng khác hẳn người thường, bà trực tiếp bảo, con có thể hút thuốc nữa được ? Mà chỉ , có thể hút bớt chút được ? đúng là lời triết ngôn vĩ đại, vừa dịu dàng lương thiện, lại vừa biểu thị mình luôn ủng hộ đối phương, hổ là phụ nữ trong phụ nữ. Sau khi nghe câu đầy tình cảm sâu đậm ấy của mẹ, đồng chí Lenin bao giờ hút thuốc nữa. Lúc này Đinh Tư Điềm lại lôi chuyện ấy ra, khuyên tôi nên noi gương theo bậc vĩ nhân mà cai thuốc . Nhưng tâm tư của tôi đều để cả lên bức họa Hoàng tiên kia rồi, căn bản chẳng hề để ý đến lời , hai mắt cứ nhìn dính chằm chằm vào hình khắc tường đá, lẩm bẩm nửa tự giễu mình, nửa trả lời Đinh Tư Điềm cách ứng phó: “Ừm... phải chỉ là cai thuốc lá thôi sao? Mình cảm thấy cai thuốc chẳng khó khăn gì cả, khoảng nửa năm nay mình cai hơn trăm lần rồi...” Đinh Tư Điềm thấy tôi trả lời lơ đễnh, mà chỉ tập trung toàn bộ tinh thần vào bức tường đá, bèn cũng nhìn theo ánh mắt tôi. Hình khắc bức tường cực kỳ phức tạp lằng nhằng, hình tượng tà ác dị của Hoàng tiên chỉ là nhân vật trong số đó. Đinh Tư Điềm nhìn gương mặt chồn lông vàng đáng ghét ấy, cũng giật thót mình, vội đưa tay lên bịt miệng, suýt chút nữa kêu lên thành tiếng. Người đàn bà đầu chồn lông vàng ấy, hình thái cử chỉ hết sức kỳ dị, tựa hồ như lẩm bẩm niệm chú thi triển tà thuật gì đó, phía trước mặt nó có cái rương lớn chạm trổ hoa văn cổ kính, nắp rương nửa mở nửa đóng. Chính giữa mặt tường đá bên này, có người đàn bà nằm thẳng đờ, người nữ này đầu đeo mặt nạ, mặc áo nhiều lớp rất hoa mỹ, trông tư thế nằm hết sức cứng nhắc, tựa như cái xác được dày công trang điểm. Bên dưới cái xác và Hoàng tiên , có con chim lông dài trông nửa như con gà nửa như con trĩ, nâng bóng người mơ hồ bay lên . Tôi tham gia lao động ở vùng núi Đông Bắc nửa năm nay, tuy ở chốn hoang vu, nhưng cũng được biết rất nhiều tập tục thần bí vẫn còn tồn giữ của những người dân thuộc tầng đáy xã hội cũ. Quan sát con chim cổ quái ấy hồi, tôi bỗng phát giác hình thái này rất giống con “dẫn hồn kê” trong truyền thuyết của dân vùng Đại Hưng An Lĩnh. Tương truyền rằng, người chết rồi hóa thành ma, ma thuộc về đất, tinh khí thuộc về trời, xác thịt thuộc về đất, máu thuộc về nước, mạch thuộc về đầm, tiếng thuộc về sấm, động tác thuộc về gió, mắt thuộc về nhật nguyệt, xương cốt thuộc về cây cối, gân thuộc về núi, răng thuộc về đá, mỡ thuộc về sương, lông tóc thuộc về cỏ, khí thở hóa thành vong linh, quy về chốn u minh. Con người sống được là nhờ hơi thở dứt, khi người chết ngừng thở, hơi thở lập tức chìm vào đại địa mênh mang. Theo quan niệm của dân vùng đó, nếu trong nhà có người qua đời, phải lập tức giết ngay con gà trống, rồi lấy máu gà bôi khắp thi thể. Tương truyền hồn của gà trống có thể mang vong linh hồn phách của người chết bay lên, bị rơi vào luân hồi thụ kiếp, ở làng nơi tôi đến lao động, cũng có tục “nhảy đại thần”, là loại hình Shaman, còn có cả “thần bà”, “thần hán” chuyên phụ trách việc làm “dẫn hồn kê” cho người chết. Trong vận động cách mạng, những người này đều dính phốt, ở đại hội phê đấu, bọn họ khai nhận tội trạng, tôi mới biết được có những tục này. Lúc này, Tuyền béo thấy tôi và Đinh Tư Điềm cứ trố mắt ra xem mãi, liền cũng nhổm đít đứng dậy lại xem cho vui. Ba bọn tôi thấy nội dung khắc bức bình phong bằng đá xanh thiên nhiên này kỳ quái hoang đường, thực khó mà xét ra được lẽ bí ảo sâu xa bên trong, đành dựa vào những gì mắt thấy mà suy đoán. Dường như nội dung khắc đây là diễn tả Hoàng tiên thi triển tà thuật, lợi dụng loại pháp môn kiểu như “dẫn hồn kê” để cứu vong linh của người nữ đeo mặt nạ này lên khỏi chốn tào Địa phủ, ý đồ phục sinh cho ta. Còn cái rương kia, đại khái chính là ngọn nguồn của tà thuật. Điều này hoàn toàn khác hẳn với suy đoán lúc trước của tôi, xem ra cái động Bách Nhãn được bao vây bởi vô số truyền thuyết ly kỳ này tuyệt chẳng phải nơi giấu báu vật của bọn trộm mộ Nê Hội kia. Bọn họ tốn bao công sức đào lấy cái rương trong Mộ Hoàng Bì Tử rồi lại vận chuyển đến tận sâu trong thảo nguyên này, lẽ nào là muốn chiêu hồn gọi dậy kẻ chết từ trăm ngàn năm trước? Nghĩ tới đây, tôi khỏi giật mình đánh thót cái, cũng càng lúc càng thêm hiếu kỳ. Nom bức bình phong đá thiên nhiên này cũng có niên đại rất lâu đời rồi, chắc hẳn cái xác nữ đeo mặt nạ kia phải là cổ nhân chứ chẳng sai, ta rốt cuộc là người như thế nào? Giờ ở đâu rồi? Sau khi bọn tặc phỉ Nê Hội tới đây, rốt cuộc xảy ra chuyện gì? Liệu có liên quan đến truyền thuyết người và súc vật mất tích xung quanh động Bách Nhãn này ? Còn nữa... những suy nghĩ cứ liên tiếp nổi lên rồi lại chìm xuống trong đầu tôi, nhưng càng dằn vặt suy tư lại càng chẳng thấy có đầu mối nào cả. Tuyền béo bất thần vỗ đùi đánh đét cái: “Êu Nhất, tôi bảo này, vừa sực nhớ ra chuyện, cậu xem mấy viên đá chôn ở đây thấy giống cái gì ? Càng nhìn tôi lại càng thấy quen mắt, hình như chúng ta thấy ở đâu rồi ấy nhỉ?” Tôi tập trung chú ý vào cái rương của Hoàng tiên , suy đoán hiểu bên trong ấy đựng thứ ly kỳ cổ quái gì đây, mới nghĩ được nửa bỗng dưng bị lời Tuyền béo làm đứt mạch, liền thuận thế hướng ánh mắt về phía mấy tảng đá lớn chôn dưới đất, bỗng nhiên nhớ ra rất nhiều hộ ở vùng núi sâu Đại Hưng An Lĩnh, phàm là nhà cũ, trong góc nhà đều có đặt tảng đá hình tròn thế này. Có nhà dùng đất bùn chôn lấp nửa, có nhà cứ thế để nguyên. Đám thanh niên trí thức chúng tôi lúc mới đến đều chẳng thể hiểu nổi tại sao lại vác đá để trong nhà, cảm thấy việc làm này chẳng có ý nghĩa gì, về sau khi quen thân với dân làng, thăm dò nhiều lần mới biết được, ra những tảng đá này đều có từ thời trước giải phóng, hồi xưa mọi người đều dùng cách này để kỵ tà xua ma. Sách cổ có ghi rằng: “Chôn đá bốn góc, trong nhà có ma quỷ”, những tảng đá này đều dùng để trấn ma quỷ cả. Ở vùng Đông Bắc, truyền thuyết về cương thi, ma treo cổ tác oai tác quái rất nhiều, để được bình yên, những người sống giữa vùng hoang sơn dã lãnh dần dần hình thành nên tập tục này, còn cụ thể bắt nguồn từ niên đại nào giờ cũng thể khảo chứng được. Tôi và Tuyền béo nhớ đến chuyện ấy, khỏi hoài nghi trong hang động chôn rất nhiều đá thế này, chính là dùng để trấn áp những loài quỷ mị. Đồng thời, câu chuyện của chúng tôi cũng khiến Đinh Tư Điềm hơi căng thẳng, : “Đừng mấy chuyện ấy nữa, mình thấy sống lưng lạnh buốt cả rồi đây này. Thế bây giờ chúng ta tính sao đây? thể quay lại được nữa rồi, chỗ này tổng cộng có mười thông đạo, còn lại chín cái, rốt cuộc là lối nào mới ra ngoài được đây nhỉ?” Tôi phát lá gan của Đinh Tư Điềm đúng là nhiều, có lẽ vì tổn thất về bò và ngựa quá lớn, khiến thể vững lòng được nữa. Tôi đoán, tâm trạng của cũng khác lão Dương Bì là mấy, khu chăn nuôi xảy ra cố tất phải gánh vác trách nhiệm, mà cách duy nhất để giảm phần trách nhiệm này chính là tìm lại lũ bò và ngựa mất. Nhưng đàn bò mất tích và lũ ngựa kinh hoảng tháo chạy, vừa khéo lại chạy đúng vào khu vực mà dân du mục quanh đây đều coi là “cấm khu”, những truyền thuyết kinh khủng về động Bách Nhãn từ lâu thấm sâu vào cốt tủy của người bản địa, tiến lên hay thoái lui, quả thực là lựa chọn vô cùng khó khăn. Nhưng ở thời đại đặc biệt này, nỗi lo sợ rốt cuộc cũng mạnh mẽ bằng cảm giác trách nhiệm đè nặng trong lòng, nếu đứng ở góc độ của và lão Dương Bì mà suy nghĩ chút, áp lực tâm lý bọn họ phải chịu đựng nhất định là rất lớn, chắc hẳn trong đầu cũng ngừng đấu tranh tư tưởng kịch liệt lắm. Đinh Tư Điềm của ngày xưa như vậy, bấy giờ vẫn còn là thiếu niên, ý chí bốc đồng lắm. Có lần chúng tôi đến vùng nọ, khéo gặp dịp thầy giáo ở đấy dẫn cả đám học sinh cấp II đào mộ, chủ ngôi mộ ấy là danh nhân cuối thời nhà Thanh, thi thể bị kéo ra, treo ngược lên cành cây thị chúng, để quần chúng cách mạng nhìn thấy gương mặt xấu xa của đảng bảo hoàng lớn nhất trong lịch sử. Tôi và bọn Đinh Tư Điềm, Tuyền béo nghe tin liền cả đêm đến nơi tham quan, đêm hôm ấy trăng lu gió lớn, đám người vẫn hưng phấn sục sôi nhìn cái xác cổ treo ngược cành. Bấy giờ, cũng thấy có nửa phần sợ hãi gì cả. Tôi định thần lại, với Đinh Tư Điềm và Tuyền béo: “Cái huyệt động này phải là chỗ nên ở lâu, chúng ta xem tình trạng ông lão Dương Bì thế nào trước , rồi mau chóng nghĩ cách ra khỏi đây.” đoạn, chúng tôi bước lại gần chỗ lão Dương Bì, bụng ông vẫn trướng phình lên chưa tiêu hết. Thuở bấy giờ, chúng tôi đều có thường thức về y học, biết vận động của ổ bụng và ruột chủ yếu do thần kinh thực vật chi phối, đồng thời cũng chịu ảnh hưởng bởi vận động của mạch máu trong ruột. Sau khi ăn uống quá độ, rất dễ xảy ra tượng ruột trướng, huyết quản nở to, vì vậy vận chuyển của máu trong ruột cũng chịu ảnh hưởng nhất định. Cách duy nhất chúng tôi có thể làm là đỡ ông dậy rồi mát xa phần bụng. Thần trí lão Dương Bì cũng ít nhiều khôi phục được chút. Điều khiến ông canh cánh yên nhất là mấy con ngựa, ba con ngựa còn lại đều lần lượt chạy cả vào trong khu rừng phía động Bách Nhãn rồi, mất ngựa muốn về mục trường cũng rất khó khăn. Tôi chỉ biết an ủi ông, nhất định nhanh chóng tìm lại được lũ ngựa. Thấy lão Dương Bì đỡ, tôi bèn cùng Tuyền béo, Đinh Tư Điềm thương lượng xem nên lối nào. Xung quanh huyệt động này có mười thông đạo, cấu tạo gần như giống hệt nhau. Chúng tôi vào đây qua đường hầm sụt, đường ấy còn nữa, những đường hầm khác có lối ra hay cũng chưa biết, nhưng huyệt động này có lẽ phải mộ cổ, xây dựng kiên cố lắm, khả năng tìm được lối ra có lẽ là khá lớn. Tôi nghĩ, chỗ này có những vật tượng trưng để trấn hồn, phản phách, mà dường như đâu đâu cũng có liên can đến vong hồn, quỷ hồn, vậy mười đường hầm này, rất có khả năng đại biểu cho thập đạo chốn tào. Ở bên trong thể phân biệt được đâu là Đông Tây Nam Bắc, đành chọn bừa cái mà vậy. Tuyền béo hỏi: “Cái cậu Nhất này lại bậy phải ? Đừng có đoán bừa đấy nhé, dựa vào cái gì mà cậu bảo phủ có mười đạo? Sao phải chín đạo hay mười đạo?” Tôi : “Còn nhớ ông tổ nhà tôi hồi xưa có tấm ‘ phủ thủy lục đồ’. ấy vẽ chốn gian có đúng mười đạo, còn tại sao phải chín hay mười , nghe là vì thời Đường thiên hạ chia ra làm mười đạo, gian và dương gian đối xứng, vì vậy dưới cõi cũng có mười đạo. Có điều, mười đường hầm này có phải đúng vậy tôi cũng chắc, tư tưởng của người xưa chúng ta làm sao lĩnh hội được hết? Đằng nào nếu muốn biến bị động thành chủ động, cũng phải tự mình vào đó mà xem xem nếu may mắn biết đâu lại gặp chỗ đường hầm sập xuống mà leo ra ngoài được.” Tuyền béo ngẫm nghĩ thấy tôi cũng rất có lý, lúc này cả bọn cũng nghỉ ngơi hòm hòm, vậy là tôi lại cùng Tuyền béo đỡ lão Dương Bì, đánh dấu vào cửa đường hầm chúng tôi qua lúc tới đây, rồi tùy tiện chọn bừa lối chui vào. Dưới lòng đất rất ẩm ướt, làm chúng tôi đều thấy đau đầu, lũ chuột chạy thành đàn thành đội lại càng đáng ghét hơn, dọc lối trong những kẽ gạch, đều có rất nhiều hang chuột, chắc rằng cũng có thể thông lên mặt đất, nhưng chỉ có lũ chuột mới lối ấy được mà thôi. Mới được đoạn ngắn, đường hầm bị sạt lở bít kín lối , chúng tôi đành quay đầu trở lại, chọn thông đạo khác, cuối cùng cũng phát có giếng trời thông lên bên , nhưng rất chật hẹp, chỉ chui lọt người. Tôi men theo những bậc thang đá dốc đứng lần mò lên , liền nhận ra cửa lối thông này bị tảng đá màu xám bít chặt, đưa tay sờ thử, hóa ra phiến đá xám ấy lại là khối xi măng lớn, bên còn đánh đai sắt. Kỳ quái nhất là bề mặt tấm xi măng lại có dãy số viết bằng chữ Latin, giống như dạng phiên hiệu gì đó, tôi nôn nóng muốn thoát ra khỏi chốn địa huyệt ẩm ướt này, nên cũng để ý xem những số hiệu ấy mang hàm nghĩa gì, vội vàng ngậm cái đèn dầu nơi miệng, đưa cánh tay dồn sức đẩy mạnh. Tấm xi măng nặng nề bị đẩy ra khe , gió lạnh mặt đất luồn vào, nhưng tôi dồn hết cả sức lực bình sinh ra rồi mà tấm xi măng vẫn chịu nhúc nhích thêm chút nào nữa. Tôi leo xuống dưới, kể lại tình hình bên cho hai người còn lại, Tuyền béo và Đinh Tư Điềm đều lấy làm ngạc nhiên: “Cậu nhìn lầm đấy chứ? Động Bách Nhãn này là di tích cổ, tuy biết là để làm gì, nhưng sao lại có tấm xi măng rồi lại còn có cả phiên hiệu phiên hiếc gì nữa?” Có điều, chữ số của người Tây rốt cuộc được truyền nhập vào Trung Quốc từ thời nào chúng tôi cũng lắm, mà cũng định khảo chứng thêm về vấn đề này, ai nấy đều chỉ muốn mau chóng thoát thân. Trong ba chúng tôi Tuyền béo khỏe nhất, tôi làm gì được tấm xi măng che bên kia, đành để cậu ta lên thử phen. Tuyền béo cởi bỏ áo ngoài và mũ, xắn tay áo leo lên, chỉ nghe cậu ta vận khí dồn sức, vừa lầm bầm chửi bới vừa đẩy tấm xi măng, gân cốt nổi lên cuồn cuộn, sức lực vận hết cả ra, miệng hét lớn: “Mở...” cuối cùng đẩy được tấm xi măng sang bên, ánh sao ảm đạm bên ngoài lập tức rưới xuống. Chúng tôi thở hắt ra hơi, trong lòng khỏi trào lên cảm giác như được tái sinh. Tuyền béo bò lên trước, tôi và Đinh Tư Điềm ở bên dưới đẩy lão Dương Bì lên cho cậu ta đỡ lôi ra ngoài, sau đó cũng trèo lên theo. Chỉ thấy bên ngoài ánh trăng mờ mịt, rừng cây trập trùng, xem ra chúng tôi vẫn ở trong khu rừng bên động Bách Nhãn, nơi này thấy có du diên và chuột hoang, xung quanh tĩnh mịch như tờ. Nhân lúc tôi và Tuyền béo đưa mắt nhìn quanh để nhận phương hướng, Đinh Tư Điềm giơ ngọn đèn dầu lên tò mò quan sát cái nắp bằng xi măng kia: “Ủa... phía này ngoài số hiệu ra còn có chữ nữa... Bộ đội cấp nước[28] B3916...” Chú thích [28] Thời thế chiến thứ Hai, quân Nhật lập nên cơ quan quân bí mật chuyên nghiên cứu và chuẩn bị chiến tranh vi khuẩn, bên dưới có số đơn vị độc lập, vì lý do bảo mật, nên trong đối nội và đối ngoại nhất loạt đều gọi bằng giả danh, như bộ đội phòng dịch, bộ đội cấp nước.
Thiên Hạ Bá Xướng Mộ Hoàng Bì Tử (Hang Mộ Chồn Vàng) Chương 20 Quái lâu inh Tư Điềm giơ ngọn đèn dầu gần hết nhiên liệu, mượn ánh sáng từ ngọn lửa leo lét như hạt đậu, cố gắng đọc hàng chữ mờ mờ lưu lại nắp xi măng: “Bộ đội cấp nước? 3916? Đây là ý gì nhỉ? Hay là công trình của quân đội?” Tôi và Tuyền béo nghe thế, liền quỳ xuống xem cái nắp bằng xi măng. Đây là tấm xi măng dẹt, dường như được làm ra với mục đích đậy kín miệng hố này, nhưng đậy khít chặt, nếu dùng xà beng ở bên nậy có thể dễ dàng mở ra được. Hai mặt của tấm xi măng đều có số hiệu, ràng là vật liệu của công trình kiến trúc nào đó rồi. Từ thời Tần, để tiện cho việc giám sát quản lý, có quy định phải khắc họ tên người thợ lên gạch ngói, nhưng nhìn ngang nhìn dọc thế nào tấm xi măng này cũng chẳng hề giống cổ vật, cái gì mà “bộ đội cấp nước” chứ? Lẽ nào đây là đồ quân dụng? 3916 là phiên hiệu của đội quân ấy ư? Tôi thầm nhủ, lẽ nào có đội quân tiến hành đào bới trong cái huyệt động chôn đầy đá trấn tà trấn quỷ ấy? Nghĩ đoạn tôi đưa mắt nhìn Tuyền béo và Đinh Tư Điềm, hai người bọn họ cũng đều lấy làm nghi hoặc, đoán ra được thứ này dùng để làm gì. Tôi với bọn họ: “Tạm thời đừng nghĩ đến phiên hiệu tấm xi măng này nữa, bí mật giấu bên trong động Bách Nhãn thực quá nhiều, dẫu ba người chúng ta mỗi người mọc thêm cái đầu, sáu cái đầu gộp lại nghĩ vỡ óc ra cũng hiểu nổi đâu. Đằng nào cũng hiểu được thôi khỏi cần tốn công nghĩ làm gì cho mệt, tôi thấy trong rừng này bốn bề đều là nguy cơ, vạn nhất lại gặp phải bọn độc trùng du diên du diếc phiền phức lắm. Nhưng địa hình trong rừng lại phức tạp vô cùng, chúng ta mất ngựa, lại phải vác theo lão Dương Bì, lần mò trong đêm là điều thể rồi, giờ chỉ còn cách tìm chỗ nào đấy tương đối an toàn cho qua đêm nay rồi tính tiếp thôi vậy.” Đinh Tư Điềm nhìn bầu trời ánh sao mờ mịt, lo lắng với tôi: “Mình cảm thấy đêm nay rất dài, chúng ta đến cả cái đồng hồ cũng có, cũng biết giờ là mấy giờ rồi, còn phải đợi bao lâu nữa trời mới sáng đây. đoạn, liền tắt đèn , trong rừng ít nhiều vẫn còn ánh sao leo lét, định tiết kiệm chút dầu cuối cùng này để dùng cho trường hợp khẩn cấp. Tôi cũng ngẩng đầu lên nhìn bầu , ánh trăng sao tuy ảm đạm lu mờ, nhưng may là mấy ngôi sao chủ yếu vẫn có thể lờ mờ nhận ra được. Trước tiên tôi tìm cán gáo của chòm sao Bắc Đẩu để xác định phương hướng, sau đó tìm được Tam Tinh[29] lập lòe ở phía Đông. Ban đêm ở vùng Đông Bắc đều dựa vào vị trí của Tam Tinh để đoán thời gian. Nhìn vị trí lúc này của ba ngôi sao ấy, tôi đoán giờ mới khoảng chừng mười giờ tối. Ở chốn hoang sơn dã lãnh trời tối rất sớm, đêm đen thay thế ban ngày được sáu bảy tiếng đồng hồ rồi mà vẫn chưa đến nửa đêm. Tuyền béo cũng biết cách quan sát Tam Tinh suy đoán thời gian, cậu ta gập ngón tay tính toán, thấy ít nhất cũng phải bảy tiếng nữa trời mới sáng được. Lâu như vậy, ở đâu mới có thể an toàn đây? Ngẫm nghĩ lúc, cậu ta bèn đề nghị chi bằng trở lại cái hang động lúc nãy cho qua đêm, đến khi trời sáng mới tìm đường rời khỏi đây. Nhưng ba bọn tôi vừa nghĩ đến đàn chuột đông đúc, rồi hoàn cảnh ẩm thấp hôi ám, những khối đá trấn ma, và cả nguy cơ có thể sụp lở bất cứ lúc nào trong hang động ấy, lại còn cả bức bích họa khắc hình Hoàng tiên toát lên đầy tà khí đó nữa, liền lập tức dập tắt ý định đó ngay. Tôi thấy bên cạnh có cây cổ thụ lớn, bèn quyết định trèo lên quan sát địa hình xung quanh, rồi mới tính toán. Nghĩ đoạn, tôi bước đến dưới gốc cây, dùng cả tay lẫn chân, bám vào thân cây leo lên . Lúc này sương mù trong rừng tan, tôi đứng chỗ chạc ba, hai tay ôm lấy tán cây chìa ra, cúi đầu nhìn xuống dưới. Ở vị trí này nhìn được mặt Đinh Tư Điềm và Tuyền béo rồi, tôi vẫy vẫy tay với họ, rồi cũng chẳng buồn để ý xem hai người kia có thấy hay , ngẩng đầu quan sát địa hình xung quanh. Mây đen che kín cả vầng nguyệt, bầu chỉ có mấy ngôi sao leo lét, nhìn hồi lâu cũng chỉ thấy quanh đấy toàn cây cối mịt mờ, chẳng có chốn nào khả dĩ dung thân. Trong tình cảnh tối tăm mù mịt thế này, con người bao giờ cũng cố gắng trợn to mắt ra cách vô thức, muốn nhìn cho hơn chút, nhưng trợn cay cả mắt rồi mà cũng chẳng thấy gì hết. Tôi ôm thân cây, đưa tay dụi dụi mắt, rồi lại ngoẹo cổ nhìn sang hướng khác. Đúng lúc ấy, tầng mây trời trôi , ánh trăng lành lạnh như nước chiếu qua áng mây đen mỏng mảnh. Nhân khoảnh khắc ngắn ngủi có ánh trăng mông lung ấy, tôi phát ra ở đằng sau mình, cùng lắm chỉ cách mấy gốc cây, sừng sững cái bóng mơ hồ, tựa hồ như tòa kiến trúc. Tất cả phòng ốc đều có ánh đèn, tử khí trầm trầm, vì vậy cũng chỉ nhìn thấy đường nét mờ mờ của công trình kiến trúc mà thôi. căng mắt ra muốn nhìn cho hơn, mây lại che mất ánh trăng, chỗ nào hơi xa chút lại biến thành đám đen kịt mờ mờ, cả đường nét cũng chẳng thấy gì nữa. Vì trước đó phát tấm xi măng có khắc phiên hiệu của đơn vị bộ đội, nên lúc này tôi cũng quá ngạc nhiên khi phát ra dãy phòng ốc, có điều thực cũng ngờ là nó lại ở gần chúng tôi đến thế. Tôi vốn muốn đợi thêm lúc nữa, đợi lúc ánh trăng lộ ra rồi nhìn cho hơn, nhưng Tuyền béo và Đinh Tư Điềm ở bên dưới lo tôi sẩy chân ngã, cứ cuống quýt giục xuống. Vậy là tôi bèn bám vào thân cây tuột xuống, thuật lại những gì nhìn thấy đó cho hai người kia nghe: Ở phía bên kia có công trình trông từa tựa như phòng ốc, nhưng bên trong đèn đuốc, có động tĩnh gì cả. Nếu đúng là có phòng ốc, dù bên trong có người, chì ít nhất cũng có bốn bức tường với cái mái, chừng còn kiếm được cái gì ăn, dù gì cũng tốt hơn ở trong rừng vừa tối tăm vừa lạnh lẽo. Cuối cùng, ba chúng tôi đều nhất trí đến đó đợi tới khi trời sáng. Tôi chỉ phương hướng, rồi ba người cùng khênh lão Dương Bì chầm chậm qua đó, được lúc, tôi bỗng phát giác ra phía sau có người theo mình, nhưng ngoảnh đầu lại chẳng thấy có động tĩnh gì hết. Tôi đoán chắc là mình nghe nhầm, nên cũng để chuyện này trong lòng, lại dẫn cả bọn băng qua bãi cỏ hoang mọc cao ngang đầu gối, ngay phía trước mặt là tòa nhà cao ba tầng. Tòa nhà này nhìn bề ngoài hết sức bình tường, nhưng toát lên vẻ kỳ dị khó tả, hình thức giống Trung Quốc cũng giống của người Tây, cửa sổ đều bằng kính, vẫn còn khá nguyên vẹn, tuyệt đối là kiến trúc cận đại. Tuyền béo bám vào cửa sổ chồm người lên xem hồi lâu, bên trong có chút ánh sáng nào, rốt cuộc cũng chẳng nhìn được gì hết, chỉ là tất cả các cửa sổ đều dán giấy niêm phong, bên có số ký hiệu và chữ tiếng Nhật kỳ quái. Đinh Tư Điềm với tôi: “Tòa nhà này giống nhà kiểu Tây, cũng phải nhà kiểu Trung Quốc đại, trong ấn tượng của mình, chỉ có người Nhật mới xây nhà theo phong cách kỳ cục này thôi, người Liên Xô chắc chắn thể tới vùng này xây nhà được, đây phỏng chừng có lẽ là doanh trại của bộ đội cấp nước gì đó chăng?” Thời kháng chiến, khu vực này từng nằm trong phạm vi khống chế của quân Nhật, rất có khả năng đây là trại lính hay kiến trúc gì đó tương tự. Thời kỳ đó, người Nhật chuyên bắt chước Âu Mỹ, rất sính ngoại, cảm thấy Âu Mỹ cái gì cũng tốt, đến cả nhà cửa cũng ít nhiều hấp thu chút đặc điểm phong cách kiến trúc của người Tây, nếu đúng là thế , tòa nhà này ít nhất cũng bỏ hoang phế hai chục năm nay rồi. Tôi gật gật đầu gì, trong lòng thầm nhủ, ra chỗ này bị bọn Nhật chiếm đóng, liệu bọn phỉ Nê Hội kia có phải là Hán gian nhỉ? Đào được đồ tốt mang đến đây để hiếu kính cho bọn quỷ Nhật? biết trong tòa nhà này có giấu bí mật gì hay ? Có điều, mấy chuyện này chỉ suy đoán thôi thể chắc chắn được, có chuyện gì để tới khi trời sáng rồi tính sau vậy. Nghĩ đoạn, tôi gọi Tuyền béo cõng lão Dương Bì lên, men theo vách tường tìm cửa ra vào. Tòa nhà trước mắt chúng tôi khác gì các nhà dân cư kiểu cũ bình thường, chỉ có ba tầng, nhìn từ bên ngoài mỗi tầng có khoảng hai mươi cửa sổ, toàn bộ đều đóng chặt, bên trong tĩnh lặng như tờ. Tuyền béo : “Chỗ này khá đấy, chúng ta vào trong rồi đóng chặt cửa lại, thứ quái quỷ gì cũng đừng hòng vào được, cứ đợi đến khi trời sáng rồi hãy cũng muộn.” Chúng tôi đều biết tập tính của bọn du diên sống ở quanh đây là “ban ngày ngủ, ban đêm săn mồi, ngửi mùi tanh liền động”, chỉ cần đợi đến lúc trời sáng mới ra khỏi rừng phải lo lắng gì nữa. Thấy tòa nhà này chắc chắn nguyên vẹn, tôi, Tuyền béo và Đinh Tư Điềm đều cảm thấy đây là nơi rất tốt để náu mình, cửa cũng khóa, chỉ khép hờ. Đây là loại cửa hai cánh chung bản lề, cửa có bốn ô kính hình vuông, nhưng trước cửa lại hề có biển báo hay chỉ dẫn nào. Để cả bọn thêm vững dạ, tôi giơ chân đạp hai cánh cửa bật mở. Vì nhiều năm mở ra đóng vào, bản lề cửa đều gỉ sét hết, phát ra những tiếng kẽo ca kẽo kẹt khó nghe vô cùng. Bên trong cũng bao năm có người lại, khắp nơi đâu đâu cũng toàn bụi, các góc nhà đầy muội tro, khí ô trọc, lan tỏa khắp gian thứ mùi ẩm mốc. Tuy cũng là nơi u ám mốc meo, nhưng so với cái hang động ẩm thấp tanh hôi kia, nơi này cũng tốt hơn nhiều lắm rồi. Tôi với Tuyền béo mỗi người xốc cánh tay lão Dương Bì, cất bước thẳng vào hành lang sau cánh cửa. Bên trong tòa nhà quả thực quá tồi, Đinh Tư Điềm tuy nỡ lãng phí thêm dầu đốt đèn nữa, song cũng đành phải thắp lên chiếu sáng, vừa vừa quan sát kết cấu trong nhà. Chỉ thấy bên trong cánh cửa có lắp cái gương lớn, làm hành lang vốn khá rộng rãi bị chắn mất hơn nửa, trước gương có cửa sắt, cửa sắt buông xuống, cần đóng mở cửa đặt phía bên ngoài, từ bên trong thể đóng mở được, trông giống như nhà ngục. Nhìn cấu tạo của cửa sắt, có lẽ là loại đóng mở bằng van khí, cần điện cũng điều khiển được. Có những trang bị kiểu này, chứng tỏ tòa nhà nhất định từng là công trình bí mật được canh giữ chặt chẽ. Tường bên trong nhà đều được sơn màu xám trắng, nền đất láng xi măng, điều kỳ lạ duy nhất là, tất cả các cánh cửa ở đây đều bị bít kín bằng gạch đá, ngoài hành lang ra, còn bất cứ phòng nào nữa. Ba người chúng tôi đều rất lấy làm lạ, xây nhà lên phải để cho người ở hay sao? Nhìn từ bên ngoài tòa nhà này chẳng có gì đáng chú ý, sao tất cả các cửa phòng bên trong đều bị lấy đá bít kín thế này? Chúng tôi tới chỗ cầu thang, phát cầu thang bị bít lại. Phỏng chừng gian trong tòa nhà này chỉ có hành lang và cầu thang, cửa sổ bên ngoài đều chỉ là làm cho có vậy thôi. Chúng tôi bất giác dừng lại trước bậc cầu thang, sao bước tiếp được nữa, kiến trúc trông như tòa nhà mà lại giống tòa nhà này khiến người ta khó lòng tưởng tượng, thậm chí tôi còn nghi ngờ hiểu đây có phải trại lính do người Nhật xây nên nữa hay ? Ai lại ăn no rỗi hơi xây tòa nhà có phòng ốc gì thế này. Đây ràng là cục xi măng sắt thép chẳng có tác dụng gì cả. Đinh Tư Điềm đột nhiên hỏi: “Phải rồi, đồng chí Lenin ơi, mình nhớ bạn và Tuyền béo từng , ở chỗ các bạn tham gia lao động sản xuất ấy, có phong tục đặt đá trong nhà để trấn... trấn... ma quỷ phải ? Chỗ này... chỗ này... phòng nào cũng chất đầy những gạch đá, liệu… liệu có phải...” Tôi và Tuyền béo cố ý nhại cái điệu lắp bắp của Đinh Tư Điềm, cười cười bảo: “Bạn… bạn... bạn... xem... sợ đến lắp rồi kìa. Đó toàn là những phong tục mê tín cổ lỗ sĩ, sao lại coi là được. Vả lại, trong nhà chôn đá trấn ma, là để người ta có thể yên tâm mà sống trong căn nhà ấy. Nhưng mỗi phòng trong tòa nhà này chất kín đặc gạch đá, đừng là người ở, đến con giặc mắt to cũng chui vào được, lẽ nào mấy người đó đều sống ở hành lang chắc? Làm gì có kiểu đá trấn tà trấn ma gì thế chứ? Làm thế này chi bằng dỡ mẹ nó cả tòa nhà xuống cho xong.” Đinh Tư Điềm giận dỗi : “Các bạn đừng nhại mình nữa có được , mình lo lắng mà, có lẽ tòa nhà này thể dỡ được, bằng xảy ra chuyện gì đó rất khủng khiếp, chỉ có thể dùng gạch đá chất đầy bịt kín các gian phòng lại...” Tôi nghĩ bụng trí tưởng tượng của Đinh Tư Điềm phong phú quá , phải “chủng ngừa” cho nàng mũi mới được, cứ nghi thần nghi quỷ thế này nhất định thể cầm cự qua được đêm nay. Nghĩ đoạn, tôi bèn tiện tay rút ra cuổn sách Đỏ, dõng dạc với : “Chúng ta theo vầng hồng tiến lên phía trước, nếu có kẻ thù giai cấp gì đấy muốn mượn xác hoàn hồn, đấu tố cho chúng nó trận.” Tuyền béo cũng chõ mồm vào: “Đúng thế, chỉ đấu tố cho chúng nó trận, mà còn giẫm đạp nghìn vạn phát nữa, cho vĩnh viễn thể ngóc đầu dậy..., nhưng mà phải lại, tôi cũng cảm thấy tòa nhà này đúng là được ổn cho lắm, cứ như cái quan tài bằng xi măng cốt thép ấy.” Tôi thấy đến cả Tuyền béo giờ cũng còn vững dạ nữa, e rằng tòa nhà cũng có chút tà môn , có trời mới biết là xây lên làm quỷ gì. Kỳ thực, trong lòng tôi cũng rất run, nhưng người có thể ngã chứ thể diện thể mất, phải tìm cách xuống nước mới được, nghĩ đoạn bèn nắm chặt cuốn sách Đỏ : “Chúng ta tuy chẳng hề sợ hãi bọn đế quốc xét lại và phản động hung hăng càn quấy, nhưng nơi này bốn phía thông gió, cửa rả đều bít kín mít, gian chật hẹp bức bối, có khác nào đường hầm lúc nhúc chuột đồng ngoài kia, tôi thấy chi bằng chúng ta ra bên ngoài qua đêm mới là thượng sách.” Những người còn lại đều tỏ ý tán đồng, ra cũng chẳng ai muốn ở lại trong cái cục xi măng trông như hộp chứa hài cốt hôi hám này thêm nữa, vậy là cả bọn liền quay ngược trở lại chỗ cánh cửa. Nhìn thấy hai ô cửa sổ cánh cửa tôi mới nghĩ, chắc cả tòa nhà này chỉ có ô cửa sổ cửa lớn là , từ bên ngoài nhìn vào chỉ thấy vùng tối om om, từ bên trong nhìn ra cũng thấy tối đen như mực nốt. Tôi đưa tay định đẩy cửa, bỗng tràng những tiếng “bình, bình, bình” từ bên ngoài vẳng vào, như thể có người gõ cửa, tiếng động lớn lắm, nhưng vang lên giữa đêm thanh vắng khiến người ta kinh tâm động phách. Tôi giật nảy mình, cánh tay giơ ra đẩy cửa rụt ngay về. Khu động Bách Nhãn này hiếm dấu chân người, cả bốn chúng tôi đều ở đây, thế ai gõ cửa ngoài kia nhỉ? Có điều, tiềm thức với tôi rằng, điều này tuyệt đối thể, hai cánh cửa này đâu có khóa, chỉ đẩy khẽ cái là mở ra rồi, ai muốn vào đây căn bản cần phải gõ cửa, trừ phi đó phải là người? Nghĩ tới đây, trán tôi bắt đầu thấy mồ hôi ròng ròng chảy xuống, xem chừng có những chuyện tin cũng được mất rồi. Vừa nghĩ, tôi vừa bất giác lùi lại mấy bước. Ba người ngơ ngác nhìn nhau, đều dám lên tiếng. Tiếng gõ cửa bên ngoài ngưng lại chút, tựa hồ đợi hồi đáp, rồi lại vang lên ba tiếng “bình, bình, bình”, tiếng sau liền với tiếng trước, như thể cố ý giày vò dây thần kinh căng thẳng như dây đàn của chúng tôi. Tuyền béo sợ hãi giật thót cả người, nhưng tính cách cậu ta là bao giờ để lộ ra mình sợ hãi, ngờ lại lấy hết can đảm, cất tiếng gắt gỏng quát lên: “Ai đấy? Đừng có mà gõ nữa, trong này có ai đâu!” Tiếng gõ bên ngoài lập tức im bặt, chúng tôi ở trong nhà đều dỏng tai lên lắng nghe, khoảnh khắc ấy dường như cả khí cũng đông đặc lại, tĩnh lặng đến độ dù chỉ sợi tóc rơi xuống cũng có thể nghe thấy rất ràng. Nhưng bầu khí tĩnh lặng ấy chỉ kéo dài được chưa đến ba giây, tiếng gõ cửa “bình, bình, bình” lại vang lên lần nữa. Dây thần kinh của tôi nảy bật lên, bỗng sực nhớ ra hồi canh lâm trường, cũng từng gặp phải chuyện nửa đêm ma gõ cửa thế này, lần đó chắc chắn là do lũ hoàng bì tử giở trò. Nghĩ tới chuyện ấy, tôi lập tức thấy sợ nữa, máu xông lên não, liền rút phăng cây bảo đao Khang Hy ra, xông lên trước, định giơ chân đạp bay cửa ra, thử xem xem rốt cuộc là cái thứ mẹ gì giở trò. Chú thích [29] Ba ngôi sao sáng nhất của chòm Thợ Săn.