Ma thổi đèn - Thiên hạ bá xướng

Thảo luận trong 'Các Thể Loại Khác (Kinh Dị, Trinh Thám..)'

  • ^^! Nếu bạn không gửi link bài viết trên Facebook được, hãy sử dụng link trong khung này để chia sẻ bài viết :
    1. Skye

      Skye Well-Known Member

      Bài viết:
      698
      Được thích:
      5,624
      Chương 11

      Khu vực cấm


      Yến Tử tôi và Tuyền béo là lũ ăn cơm chúa múa tối ngày, mới yên phận chưa được hai ba ngày lại nảy ra đòi thảo nguyên Khắc Luân Tả Kỳ chơi. Nhưng làm sao được, ý chúng tôi quyết, từ lúc nhận được thư là đứng ngồi yên rồi, vả lại chọn ngày chi bằng gặp ngày, vừa khéo sáng sớm hôm sau, dưới hạ du sông Sát Can Cáp ở lâm trường, có chuyến tàu cuối cùng chở gỗ ra vùng bên ngoài, muốn chỉ có bắt chuyến tàu ấy mới được.
      Vì là chơi chứ phải làm việc nghiêm chỉnh, nên bọn tôi cũng ngại đến gặp ông bí thư xin nghỉ phép, bèn thoái thác chuyện này cho Yến Tử làm, điều kiện là bọn tôi hứa lúc ở thảo nguyên về mang cho nàng rất nhiều mon ngon mà chưa ăn bao giờ. Tôi và Tuyền béo đều phải thu dọn hành lý hành liếc gì, bởi căn bản cũng có quái gì đâu, hoàn toàn là lũ giai cấp vô sản kiêm trai nghèo chưa vợ. Hai bọn tôi đội cái mũ da chó lên, rồi khoác cái túi chéo quân dụng rách rưới chạy ra khỏi làng, suốt đêm đường núi, đến sáng sớm mới kịp ra chỗ đoàn xe lửa chuyên dụng vận chuyển gỗ ấy.
      Công việc chuyển gỗ lên các toa xe đều do người trong làng làm giúp từ đêm trước, chúng tôi đến nơi xe lửa bắt đầu nổ máy, tu tu xình xịch phả khói trắng mù mịt rồi. Nhân lúc ông già coi trạm xe để ý, tôi và Tuyền béo lập tức bò lên toa xe cuối cùng, lẳng lặng nằm bên những súc gỗ tròn bó chặt, im thin thít chờ tàu chạy.
      Theo quy định, loại tàu chuyên dụng này chỉ dùng để chở vật liệu gỗ ra ga lớn bên ngoài, cho phép bất cứ người nào quá giang trộm, nếu trước lúc tàu chạy mà bị ông già canh trạm phát , hai thằng chúng tôi có mồm mép mấy thể nào cũng bị lôi xuống, khéo còn bị chụp cho cái mũ chiếm dụng tài sản công mà bắt viết kiểm điểm cũng nên. Vì vậy chuyện này thực tế cũng khá là mạo hiểm, tôi và Tuyền béo chỉ đành nằm bẹp xuống tiềm phục như hai tên đặc vụ, nơm nớp lo sợ bị người ra phát .
      Tuy chúng tôi hết sức cẩn trọng, nhưng rốt cuộc vẫn bị lộ mục tiêu. Hai hôm trước vào núi bẫy hoàng bì tử, tôi hơi chảy nước mũi. Trong làng có vị bác sĩ chân đất được đặt cho biệt hiệu “thầy trộn thuốc”, cũng là tay lang vườn khá mát, người và gia súc bệnh gì cũng trị tuốt. Ông ta kê cho tôi ít thuốc thảo được, uống vào cũng chưa thấy đỡ, lại cứ đúng vào lúc này thể nào nhịn hắt hơi được, tôi vội vàng đưa tay bịt chặt miệng lại, nhưng vẫn bị ông già canh trạm phát ra.
      Ông già canh trạm nghe có động tĩnh, thấy hai thằng bọn tôi leo tàu trộm, liền lập tức thổi còi tuýt tuýt trợn mắt trừng trừng chạy tới, định lôi tôi và Tuyền béo xuồng. Nhưng đúng lúc ấy, cùng với trận đung đưa, đoàn tàu rùng mình khởi động, đầu tàu bắt đầu tăng tốc, chậm rồi nhanh dần, cây cối hai bên đường chạy giật lùi về sau vun vút. Thấy ông già thể đuổi kịp nữa, tôi và Tuyền béo lập tức còn quan tâm xem bị ông lão phát làm sao, toét miệng cười hì hì, cởi mũ da chó xuống, lại còn rất phong độ vẫy vẫy mũ làm động tác cáo biệt với ông, miệng hét lớn: “Tạm biệt nhé, ông Lây tông[16]…”
      Chúng tôi chỉ xe lửa chở hàng cỡ , tốc độ vận hành thể so sánh với xe lửa chính quy được, hơn nữa lại còn vừa lắc vừa xóc rất dữ dội, ngồi toa xe chỉ thấy dưới chân vững, bên tai gió thổi vù vù, bị quăng quật cho phen nghiêng ngả, chẳng còn hơi đâu mà thưởng thức cảnh rừng nguyên thủy cây cao chọc trời hai bên đường.
      Bọn tôi đành khép chặt áo, bịt chặt mũ, rúc vào dưới mấy cây gỗ để chắn gió, dù sao cũng đỡ hơn là đường núi ra bên ngoài, lộ trình quá đỗi xa xôi.
      Dọc đường vất vả, vòng qua ít chỗ quanh co ở đây tạm tôi nhắc đến, chỉ biết là tôi và Tuyền béo phải vất vả như thế chỉ ngày, cuối cùng mới đặt chân lên được thảo nguyên Khắc Luân Tả Kỳ. Nếu coi bản đồ Trung Quốc như hình con gà trống, vậy thảo nguyên này vừa khéo nằm gáy con gà trống ấy, nó là bộ phận của đại thảo nguyên Hulunber, thuộc quản hạt của liên khu Hulunber, nằm sát bên liên khu Hưng An, diện tích rất rộng, có cả rừng, khu chăn nuôi, khu khẩn hoang làm nông nghiệp.
      Thảo nguyên Khắc Luân Tả Kỳ bị lòng sông khô cạn của mấy con sông cổ ngăn cách, giao thông bất tiện, đất rộng người thưa, chúng tôi đến điểm tập trung thanh niên trí thức ở khu khẩn hoang làm nông nghiệp thuộc vùng ngoại vi hỏi thăm địa chỉ của Đinh Tư Điềm, sau đó quá giang lên chiếc xe “lắc lắc” tiện đường vào thảo nguyên. Xe “lắc lắc” là loại công cụ giao thông đặc thù của thảo nguyên, bánh xe rất lớn làm bằng các loại gỗ tạp như gỗ hoa, gỗ du, đường kính phải hơn mét, dân du mục đánh xe cứ phải hô lớn “lắc lắc lắc lắc...” để thúc bọn gia súc kéo xe.
      Đây là lần đầu tiên bọn tôi đến đại thảo nguyên Mông Cổ, ở đấy rồi mới phát ra nơi này khác rất nhiều so với những gì mình tưởng tượng, cái gọi là thảo nguyên ấy, là cỏ lưa tha lưa thưa cắm rễ các cồn cát, phân bố rất đều, mọc thành từng đám từng đám. Mùa thu cỏ lên, mỗi bụi cỏ đều cao phải đến ngang hông, nhìn gần là những đám cỏ trông vừa thưa vừa dài, nhưng từ xa dõi mắt nhìn, thảo nguyên biến thành biển sắc vàng xanh, liên miên bất tuyệt trải dài tít tắp.
      Chúng tôi lắng nghe tiếng ca thê lương của những người dân du mục Mông Cổ, thân thể ngồi càng xe dập dềnh đung đưa theo nhịp lắc của thân xe. Thảo nguyên mùa thu lạnh thấu xương, mây trôi lững lờ, cỏ hoang mọc khắp, gió lạnh phả vào mặt, bầu nhạn bay từng bầy, tiếng kêu u uẩn vang xa mãi. Nghe dân địa phương ở đây , mấy hôm trước thảo nguyên bắt đầu có tuyết rồi, nhưng tuyết vẫn chưa đổ hẳn xuống, chắc rằng mùa đông năm nay đến sớm, giống như ở trong núi chỗ bọn tôi, dân ở đây cũng phải bắt tay làm công tác chuẩn bị ứng phó với mùa đông trước.
      Tuyền béo hồi xưa chưa đến vùng Đông Bắc, cảm thấy trong núi và thảo nguyên đều có tuyết sớm như vậy hết sức khó tin, làu bàu hiểu tại sao khí hậu lại thất thường như thế? Mùa đông đến sớm, đại khái chứng tỏ là mùa xuân cũng còn xa xôi nữa. Tôi bảo với Tuyền béo: “Người xưa đất Hồ tháng Mười có tuyết, đất Hồ chính là chỉ địa bàn của người Hồ ở vùng tái ngoại, tôi thấy chúng ta tiến vào đất Hồ rồi đó...”
      Bọn tôi ngồi xe “lắc lắc” chuyện phiếm về trời cao đất xa, lung tung mãi rồi chủ đề câu chuyện quay về người chiến hữu sắp sửa trùng phùng Đinh Tư Điềm. Hình ảnh năm đó nàng thắt hai bím tóc đuôi sam, đội mũ bộ đội nhảy múa xe lửa, rồi dạy cho du khách các ca khúc cách mạng, từng độ khiến tôi và Tuyền béo cứ ngỡ là tiên nữ trời, cảm thấy quả thực quá xinh đẹp quá tài hoa. Hồi ấy phỏng chừng cũng có chút ý thức về mối tình đầu rồi, nhưng cũng bởi phong khí xã hội mà trực tiếp ra, hoặc giả cũng hoàn toàn nghĩ đến chuyện ấy. Rất lâu sau đó, cùng với năm tháng trôi , tôi mới hiểu được tình cảm ấy.
      Giờ đây khi sắp trùng phùng, tôi cảm thấy nhịp tim mình bắt đầu hơi tăng tốc, liệu có thể khiến tình chiến hữu cách mạng thân thiết của chúng tôi tiến thêm bước nhỉ? Vậy tôi ở lại thảo nguyên thèm về Đại Hưng An Lĩnh nữa. Nghĩ đoạn, tôi bèn thương lượng với Tuyền béo, nhờ cậu ta hỏi hộ Đinh Tư Điềm xem vị trí của tôi trong lòng ấy là như thế nào?
      Tuyền béo lập tức lắc đầu: “Nhất ơi là Nhất, tôi bảo cậu đừng có mà thuần khiết như vậy có được ? Tôi vừa nãy còn tính nhờ cậu hỏi ấy xem trong lòng ấy tôi đây có bao nhiêu phân lượng nữa này. Sao cậu lại nhờ tôi trước như thế.”
      Tôi thầm nhủ thằng nhãi này ngờ cũng có lòng dạ xấu xa thế, liền bảo cậu ta: “Tiên sư cha bố nhà cậu, bình thường tôi đối xử với cậu thế nào? Cậu thử sờ vào cái lương tâm của cậu xem, đồng chí Lenin từng , quên quá khứ có nghĩa là phản bội đấy nhé.”
      Tuyền béo trưng ra cái bộ mặt dày bì bì của cậu ra, đáp trả lại ngay: “Thường ngày cậu đương nhiên là đối xử với tôi rất tốt rồi, cứ như là em ruột thịt vậy, thế nên tôi nghĩ... đến giờ khắc quan trọng, cậu nhất định nghĩ cho tôi trước, có phải vậy , nhỉ? Lẽ nào phải thế ư?” Hai bọn tôi tranh cãi hồi lâu, giằng co mãi ngã ngũ được, cuối cùng đành phải thỏa hiệp, quyết định người này lần lượt thay người kia hỏi Đinh Tư Điềm lần, xem xem đứa nào có hy vọng.
      Vừa thương lượng xong chuyện này, cái xe “lắc lắc” liền dừng lại trước hai cái lều Mông Cổ thảo nguyên. Chỉ thấy Đinh Tư Điềm mặc áo dài Mông Cổ, đầu chít khăn vuông vắt sữa dê, nhìn mà suýt chút nữa tôi nhận ra, cung cách ăn mặc thay đổi quá lớn, nếu nhìn kỹ còn tưởng đấy là người Mông nữa. Đinh Tư Điềm cũng ngờ tôi và Tuyền béo lại đột nhiên đến thăm mình, ngẩn người ra lúc lâu mới định thần lại được, lao tới ôm chặt lấy chúng tôi, xúc động nghẹn ngào thốt được nên lời. Chiến hữu lâu ngày gặp lại, ai nấy đều có vô số điều muốn , nhưng chuyện xưa trong lòng trăm ngàn mối, lại chẳng biết từ đâu.
      Nơi này thuộc về khu cực Bắc của thảo nguyên Khắc Luân Tả Kỳ, chỉ có ba bốn hộ dân du mục, tính cả thanh niên trí thức về đây tham gia lao động sản xuất tổng cộng đến năm sáu chục người. Đinh Tư Điềm ở trong nhà dân du mục tên là “lão Dương Bì”, bình thường ngoài ba người trong nhà lão Dương Bì ra, chẳng còn ai chuyện cùng cả, đột nhiên gặp lại chiến hữu từ thuở trước, khỏi mừng quá rơi cả nước mắt.
      Tôi an ủi Đinh Tư Điềm mấy câu, rồi kể qua loa chuyện tôi và Tuyền béo cũng thể vào bộ đội, rồi liên khu Hưng An tham gia lao động cho nghe. Đinh Tư Điềm khẽ thở dài tiếng, chừng như tiếc thay cho chúng tôi lắm, nhưng ngay sau đó lại phấn chấn tinh thần : “Giờ chúng ta cũng rất tốt mà, các bạn xem cảnh sắc thảo nguyên của chúng ta tráng lệ nhường nào, trời xanh làm chăn đất làm giường, cát vàng trộn cơm lại càng ngon, cuộc sống thảo nguyên là thích hợp để rèn luyện nhất. Các bạn đến rồi ở lại chơi mấy ngày , ngày mai mình dẫn hai bạn cưỡi ngựa.”
      Dân du mục thảo nguyên cực kỳ coi trọng ngựa, tuyệt đối để người ngoài cưỡi lên ngựa của mình. Nếu ngựa bị người khác cưỡi hoặc bị mất, đối với dân du mục đều là những điềm gở tày trời, vả lại ngựa ở đây nhiều, vì vậy tôi nghĩ mình chẳng thể nào có cơ hội cưỡi ngựa được, nên cũng ôm mộng hão huyền ấy lắm. ngờ Đinh Tư Điềm lại cho chúng tôi biết, lão Dương Bì phải là người Mông, ông ta chạy nạn ra đây từ hồi trước giải phóng, song nửa đời người thảo nguyên rồi. Sau giải phóng, ông bèn quyết định ở đây làm dân du mục luôn, song chẳng mấy coi trọng những điều kỵ húy thảo nguyên, quen thân rồi cưỡi ngựa của ông, ông cũng giận.
      Tôi biết đằng sau thái độ lạc quan của Đinh Tư Điềm, quá nửa là bất lực với vận mệnh, cát vàng trộn cơm ăn làm sao mà ngon được? Có điều, tôi cũng nên nhắc đến những chuyện mất hứng ấy, bèn để giới thiệu với nhà ông lão mục dân Dương Bì. Lão Dương Bì sống nửa đời thảo nguyên này, nhưng giọng quê khó đổi, vẫn còn khẩu Tây Bắc rất nặng. Ông bảo chúng tôi đến rất đúng lúc, đêm nay vừa khéo chuẩn bị giết bò mổ dê để chiêu đãi khách phương xa đến, chập tối là dân du mục và thanh niên trí thức ở xung quanh đều đến.
      Tôi và Tuyền béo vừa nghe được tin ấy, liền sướng đến ngậm mồm lại được. Dân du mục thảo nguyên là hiếu khách quá mất, hồi trước mới nghe thôi chứ chưa được tận mắt thấy, giờ bọn tôi phục rồi. Chúng tôi vừa mới đến liền giết trâu mổ dê ngay, là ngại quá mất! Thế này khó nghĩ quá, huống hồ bọn tôi lại đến tay , sớm biết vậy mang ít đặc sản làm quà. Tôi và Tuyền béo đều nghe tiếng món dê tùng xẻo rồi, hôm nay đành phải mặt dày mày dạn khách sáo vậy nhôi. hiểu ở đây mấy giờ họ bắt đầu ăn cơm nhỉ?
      Đinh Tư Điềm đứng bên cạnh cười khúc khích : “Các bạn đừng coi mình là người ngoài, hôm nay giết dê là vì năm nay vùng thảo nguyên này liên tiếp bị mấy lần thiên tai địch họa, nhưng dân du mục đều quên mình bảo vệ tài sản tập thể, để gây ra tổn thất nào, liên khu bọn mình là điển hình tiên tiến. Vì thảo nguyên Nội Mông này gần sát biên giới, theo chế độ quân quản, nên Ủy ban Cách mạng cấp mới phái cán bộ xuống chụp ảnh, đăng báo về điển hình gương mẫu. Người ta giết dê là để chiêu đãi cán bộ, các bạn chẳng qua là đến đúng dịp thôi, bằng mình cũng chẳng có cách nào kiếm được thịt dê tươi mời các bạn ăn đâu.”
      Giờ tôi mới hiểu là chuyện gì, sướng uổng cả công, ra tiệc trùng phùng là để chiêu đãi người khác. Lại khu du mục này là điển hình tiên tiến cái nỗi gì chứ? Có điều người ta muốn làm điển hình, chúng tôi cũng chẳng có tư cách gì để hỏi, dưới gầm trời này có tôi hay có tôi chẳng quan trọng, có bữa thịt dê ăn cũng nên biết thế nào là đủ rồi.
      Trời còn chưa tối, mấy hộ dân du mục gần đấy và các thanh niên trí thức đều lục tục kéo đến, cộng thêm cả bọn tôi và lão Dương Bì, tổng cộng mới có hơn hai chục người. Thanh niên trí thức chiếm nửa. Tuy chúng tôi quen những thanh niên trí thức còn lại, nhưng vừa nhắc đến thân phận thanh niên trí thức, đều là chị em cả, cảm giác cũng khác em kết nghĩa thời xưa mấy. Vận mệnh giống nhau khiến giữa chúng tôi còn khoảng cách, chỉ chốc lát như quen thân. Thảo nguyên buổi hoàng hôn ráng chiều rực rỡ, dõi mắt trải dài ra cả nghìn dặm xa, đây là thời điểm cảnh sắc đẹp nhất trong ngày. bạn thanh niên trí thức tìm vị cán bộ kia mượn máy ảnh, cả bọn tụ lại chụp cùng tấm, rồi vui vẻ đợi đến bữa cơm tối.
      Tôi và Đinh Tư Điềm giúp lão Dương Bì bắt con dê định thịt trong vòng quay ra. Tôi thấy hôm nay chơi vui hết cỡ, lại thấy núi non trùng trùng điệp điệp dưới ánh tà dương đỏ như máu, bèn nảy ra ý xa, liền với lão Dương Bì, ngày mai muốn mượn mấy con ngựa, để Tư Điềm dẫn chúng tôi cưỡi ngụa sâu vào thảo nguyên chơi.
      Lão Dương Bì vừa nghe , lập tức biến sắc. Ông bảo tôi rằng, chỗ ấy được, hết thảo nguyên là cao nguyên hoàng thổ Mông Cổ, cũng là khu vực nối tiếp với đại mạc. Sâu trong thảo nguyên còn có nơi gọi là động Bách Nhãn rất nguy hiểm. Giờ đả phá “tứ cựu”[17], có số chuyện vốn dám , nhưng vì các cậu đều là bạn của Tư Điềm, nên mới dám thẳng với các cậu đấy thôi. Bên trong động Bách Nhãn có con long toàn thân đen kịt, dân du mục hay gia súc đến gần đấy đều bị long vương gia nuốt hết, nhất loạt đều chỉ có có về. Nếu phải năm nay mùa đông đến sớm, dân du mục sợ gia súc đủ cỏ ăn, cũng tuyệt đối đến đồng cỏ gần động Bách Nhãn thế này để chăn nuôi đâu. Cậu thử mà hỏi xem, chẳng ai dám sâu vào thảo nguyên thêm nửa bước nữa đâu, chẳng may làm kinh động đến con long kia sợ rằng cả Trường Sinh Thiên[18] cũng chẳng bảo hộ nổi chúng ta mất.
      Thấy lão Dương Bì như , tôi khỏi lấy làm tức cười, cũng cần phải hoang đường quá mức đến thế chứ, thảo nguyên làm sao lại có rồng được? Mà lại còn là long biết ăn thịt người và gia súc nữa, chuyện này đem dọa trẻ con may ra còn hiệu quả, Hồ Bát Nhất tôi đây mà lại tin sao?
      Lão Dương Bì thấy tôi tin, lại kể chuyện của chính ông. Mấy chục năm trước, ông chăn dê cho “ba ngạn”[19] thảo nguyên nghe truyền thuyết về con long ở phía Bắc đại mạc ấy rồi. Truyền thuyết cực kỳ tà dị, đến nỗi vùng thảo nguyên gần động Bách Nhãn trở thành khu vục cấm được dân du mục địa phương mặc nhận. Gia súc lạc ở phía ấy ai dám tìm, đằng nào dù người hay ngựa, cũng thảy đều về hết cả. bận, có đám người từ khu Đông Bắc đến, khênh theo cái rương cũ kỹ, thoạt nhìn trông như cái quan tài, hiểu là bên trong đấy đựng gì, nhưng đám người này bắt người em của lão Dương Bì, cầm súng ép người đấy phải dẫn đường động Bách Nhãn. Lão Dương Bì len lén theo sau, định tìm cách cứu người em ấy ra, nhưng theo đến gần động Bách Nhãn dám vào trong nữa, đành trơ mắt ra nhìn em trai ruột của mình dẫn đám người ấy vào, từ đó trở thấy trở ra nữa.
      Lão Dương Bì thề thề thốt thốt, bảo rằng lần đó ông còn tận mắt trông thấy con hắc long, sợ đến suýt nữa vãi đái cả ra quần, thực dám tiến lại thêm bước nào nữa. Từ dạo ấy, đêm nào ông cũng mơ thấy ác mộng, cũng luôn hận mình là đồ hèn nhát nhu nhược, mắt thấy em trai ruột mình vào cõi chết mà có dũng khí cứu ra.
      Tôi nghe ông rành mạch ràng, nhìn nét mặt phải bịa tạc, đương nhiên cũng rất thương cho cảnh ngộ của em nhà ông, nhưng bảo đời này có rồng, làm sao mà tôi tin được. Nghĩ đoạn, tôi bèn lắc đầu với lão Dương Bì: “Cái con... rồng gì gì đấy mà bác trông thấy đó, sợ là hoa mắt nhìn nhầm thôi, tôi đoán có lẽ đây là con trăn lớn màu đen cũng nên? Có những con trăn to như thùng nước ấy, đích thực là rất dễ bị tưởng lầm là rồng.”
      Ánh mắt lão Dương Bì nhìn tôi bỗng nhiên trở nên nghiêm trọng, ông chỉ tay lên bầu trời: “ bạn trẻ, cậu nghĩ lão chừng này tuổi đầu rồi đều sống lưng chó chứ phải lưng ngựa chắc? Làm gì mà cả rắn rồng cũng phân biệt được? Có con trăn nào ở trời ? Tôi tận mắt trông thấy con... rồng... rồng thần ấy ở trời, ở trời đấy.”
      Chú thích
      [16] Leighton Stuart nhà truyền giáo người Mỹ, làm đại sứ Mỹ tại Trung Quốc từ 1946 đến 1949. Ông này tuy nổi tiếng ở bản quốc, nhưng ở Trung Quốc lại rất nhiều người biết đến nhờ bài viết “Tạm biệt nhé, ông Lây tông...” của Mao Trạch Đông.
      [17] Tứ cựu gồm có: tư tưởng cũ, văn hóa cũ, phong tục cũ, tập quán cũ.
      [18] Thần linh tối cao của người Mông Cổ.

    2. Skye

      Skye Well-Known Member

      Bài viết:
      698
      Được thích:
      5,624
      Chương 12

      Khắc Luân Tả Kỳ
      dưới bầu trời đêm

      [​IMG]
      huận theo ngón tay chỉ của lão Dương Bì, tôi bất giác ngẩng đầu lên nhìn bầu , tầng mây nặng nề đầu chúng tôi đùn đến tận chân trời. Trong đầu tôi ngừng vang lên câu cuối cùng của ông ta, con “rồng” ấy ở trời.

      xong những lời ấy, lão Dương Bì cũng thêm gì nữa, lẳng lặng sang phía giết dê. Tôi bần thần nhìn lên bầu ngẩn ra mất lúc, trong lòng vẫn nửa tin nửa ngờ những lời ông . Lúc này thảo nguyên bắt đầu nhộn nhịp hẳn lên, mọi người đều hò nhau giúp công giúp sức chuẩn bị cho bữa tiệc tối, tôi cũng tiện hỏi gặng nữa, liền quay lại với đám thanh niên trí thức.

      Việc giết súc sinh ở vùng dân du mục này có rất nhiều cấm kỵ, chẳng hạn giết mổ xong, tuyệt đối được những lời kiểu như “tiếc quá” hay “thà giết còn hơn”, vì khi thốt lên những lời ấy, linh hồn bọn gia súc ở lại tác quái. Hơn nữa, bò hoặc ngựa dùng để cưỡi hay những gia súc giúp người làm việc, những con cái đẻ, cho sữa nhất loạt đều được giết. Ngoài ra, vì thanh niên trí thức đều là người nơi khác đến, dân du mục rất ít khi cho chúng tôi giúp họ giết mổ gia súc, những chuyện lột da xẻ thịt cũng cố gắng để cho thanh niên trí thức lại gần xem.

      Vì vậy khi lũ bò ngựa về chuồng quây bọn thanh niên trí thức chẳng còn việc gì làm nữa, chỉ biết ngồi suông đợi cơm. Màn đêm cuối cùng cũng buông xuống, bầu trời như cái lồng phủ chụp tứ bề. thảo nguyên đống lửa lớn đốt lên trước căn lều, những người dân du mục lần lượt bưng lên những khay lớn đựng đầy các món đậm đà bản sắc của người Mông, làm nguyên bữa tiệc dê. Các món kiểu như dồi tiết dê, nầm dê, chúng tôi đều chưa được ăn lần nào, giờ ngửi thấy mùi hương ngòn ngọt đặc biệt lan tỏa khắp bầu trời đêm, đứa nào đứa nấy đều ngừng nuốt nước bọt ừng ực.

      Tôi và Tuyền béo buổi trưa ăn cơm, thấy bao nhiêu món ngon, ngón tay nhịn được cứ giật tưng tưng. Tuyền béo định thò tay bốc miếng dê tùng xẻo ăn, liền bị lão Dương Bì lấy cái nõ điếu đập cho cái rụt về, ra còn phải mời vị cán bộ ở xa về kia mấy câu với mọi người nữa.

      Cán bộ chuyện cũng ngoài nhai nhai lại mấy lời cũ rích hay trong các buổi mít tinh hội nghị. Tay cán bộ họ Nghê ấy khoảng hơn ba mươi tuổi, gương mặt gầy guộc thêm đôi kính cận dày cộp, mặt mũi trông cũng có dáng cán bộ ra phết, nhưng kỳ thực ra chẳng phải lãnh đạo lãnh điếc gì, mà chỉ là nhân viên văn thư, được cấp phái đến viết bài báo cáo về khu chăn nuôi gương mẫu. Bản thân ta cũng ngờ đến thảo nguyên lại được đãi ngộ cao thế này, mà đám dân du mục bao giờ gặp lãnh đạo đâu, cứ mực gọi ta là “thủ trưởng”, thành thử cũng nửa sướng nửa lo vì được tiếp đãi trọng thể quá, mực cứ đòi mọi người phải gọi mình là “lão Nghê”.

      Người Mông Cổ quan niệm phương Tây là quý nhất, người cao tuổi là được tôn trọng nhất, vậy nên mời lão Nghê ngồi vào vị trí tôn quý nhất ở phía Tây, rồi vị tuổi cao bưng chén sừng bò, hát lên mấy câu chúc mừng. Đinh Tư Điềm sống thảo nguyên hơn nửa năm, học được ít tiếng Mông Cổ, bèn dịch cho chúng tôi nghe, đại ý rằng: rượu đây, là kết tinh của ngũ cốc, người Mông Cổ dâng rượu cho khách là dâng niềm hoan nghênh và kính trọng...

      Tôi và Tuyền béo đều chẳng hứng thú gì với nội dung của bài ca chúc rượu ấy, chỉ trợn mắt lên nhìn chòng chọc vào cái đùi dê nướng chảy mỡ xèo xèo, trong lòng mong ngóng ông già kia mau hát cho xong, rồi lại đợi lão Nghê nhảm mấy câu cho qua chuyện, là chúng tôi có thể xơi được rồi.

      Lão Nghê theo đứng tập tục địa phương, lấy ngón áp út danh chấm rượu, búng ba cái lên trời, xuống đất, vào đống lửa, rồi lại đưa môi nhấp chút, sau đó mới bắt đầu . Trước tiên đọc mấy câu chỉ thị tối cao, rồi khen ngợi địa thế khu này đẹp, cuối cùng vẫn quên nhắc đến những thanh niên trí thức ở đây, cái gì mà thanh niên trí thức đến thảo nguyên phải ra sức luyện rèn, đồng thời với việc thúc đẩy sản xuất, cùng nông dân và mục dân làm cách mạng, nhất định phải tăng cường học tập chính trị, thường xuyên tổ chức họp kiểm thảo đời sống, kịp thời tổng kết tư tưởng, kịp thời tiến hành phê bình và tự phê bình...

      Lão Nghê ấy cọc cà cọc cạch như bánh xe bò được hai ba chục phút, có lẽ nhiều quá cả ta cũng thấy đói, bấy giờ mới khoát tay để mọi người bắt đầu nhập tiệc. Người Mông Cổ uống rượu như nước lã, tất cả đều dùng bát lớn, người nào tửu lượng kém thấy tình hình kiểu đó cũng sợ vãi cả ra. Lúc này, dân du mục người nào cũng muốn kính rượu thủ trưởng, lão Nghê uống kém, mới được nửa vòng bất tỉnh nhân , phải có người khiêng về lều.

      Trong nhóm thanh niên trí thức cũng có người uống giỏi, dám theo đám dân du mục chơi hết bát này đến bát khác, bèn dứt khoát lấy ít thức ăn, ra đốt đống lửa hơn ở bên cạnh ăn riêng. Dân du mục biết thanh niên trong nội địa tửu lượng kém, ai đuổi theo ép chúng tôi đấu rượu, mà họ cũng thoải mái vì có người ngoài quấy nhiễu. Dân du mục uống nhiều rồi là thích hát hò, ăn được chừng nửa, tiếng đàn đầu ngựa của ai réo rắt vang lên, tiếng đàn như rủ rỉ thầm , lại hùng hậu thê lương, sắc khỏe khoắn vang mãi cả bầu .

      Mười thanh niên trí thức chúng tôi ngồi quanh đống lửa khác bên cạnh, trải nghiệm cuộc sống thảo nguyên, ngực sưởi lửa ấm, lưng chắn gió lạnh, nghe tiếng đán đầu ngựa ai nấy đều ngẩn người bần thần. Tôi định đứng dậy sang phía bên kia xem ai kéo đàn đầu ngựa mà hay thế, nhưng Đinh Tư Điềm ngăn lại, : “ cần xem cũng biết, chắc chắn là tiếng đàn của ông lão Dương Bì rồi, tuy ông ấy là dân miền Tây Bắc đến đây, nhưng chỉ hát được điệu Tần Xoang, điệu Tín Thiên Du[20], mà sống thảo nguyên mấy chục năm, tay đàn đầu ngựa của ông ấy cũng có thần vận lắm. Mình thấy nhất định là Tengri[21] đem hết những sắc đẹp nhất của thảo nguyên Khắc Luân Tả Kỳ tặng cho cây đàn đầu ngựa của ông lão Dương Bì ấy cả rồi.” xong liền đứng dậy, nhảy điệu theo tiếng nhạc.

      Đinh Tư Điềm hồi trước là nòng cốt văn nghệ, nhảy múa hát ca món gì là xuất sắc, lúc nào cũng muốn được gia nhập đoàn văn công quân đội, nhưng vì gia đình có quan hệ với hải ngoại nên được như nguyện. Giờ đây đến thảo nguyên, vũ điệu của người Mông Cổ vừa học giỏi ngay, lúc nhảy còn giống người Mông Cổ hơn cả người Mông Cổ nữa. Vũ điệu của người Mông Cổ rất đẹp, tiết tấu nhanh, chủ yếu là dùng ngôn ngữ cơ thể để ca ngợi vẻ đẹp của thảo nguyên mênh mông, và thể tư thái của hùng ưng bay lượn, tuấn mã tung vó lao .

      Chúng tôi say mê ngắm Đinh Tư Điềm nhảy múa, hoàn toàn quên bẵng mất mình ở đâu, tiếng đàn ngưng lại mà thần hồn vẫn đắm chìm trong ấy, quên mất cả nhớ ra vỗ tay hoan hô. Thường có câu rằng “vạn chẳng thành, rượu trong tay, đời được mấy dịp trăng treo đầu”, thảo nguyên trời cao trăng sáng, trước đống lửa cháy phừng phừng, mọi người hoan ca hoan vũ, nâng chén uống cạn, cả đời này liệu có mấy lần cơ hội thế này đâu chứ? Thanh niên trí thức được phân đến các khu khác nhau, thường ngày rất hiếm có cơ hội gặp mặt nên rất trân trọng dịp tụ hội này, hết người này đến người kia lên biểu diễn tiết mục, nhảy cũng hát.

      Cuối cùng Đinh Tư Điềm kéo tôi và Tuyền béo ra, với cả bọn: “Mọi người hãy hoan nghênh Bát Nhất và Khải Tuyền đến từ liên khu Hưng An nào.” Mấy nam nữ thanh niên trí thức ngồi đó đều vỗ tay cổ vũ rần rần, tôi với Tuyền béo đưa mắt nhìn nhau, thế này hơi khó xử , chỗ chúng tôi tham gia lao động hình như cũng có nhảy cúng thần gì đấy, nhưng ra điệu như thảo nguyên này, hát hò nhảy múa đều nên, thế này phải là làm mất mặt em chúng tôi sao?

      Nhưng tôi xưa nay chưa bao giờ biết đánh trống thu quân là gì, huống hồ lại còn ở trước mặt Đinh Tư Điềm nữa, thoáng nghĩ ngợi giây lát, bèn nảy ra kế. Tôi nháy mắt với Tuyền béo cái, cậu ta lập tức hiểu ý, áp hai tay xuống ra hiệu mọi người hãy yên lặng, rồi với cả bọn: “Mọi người yên lặng chút, chúng ta mời đồng chí Lenin ra chuyện mấy câu nhé.”

      Nhóm thanh niên trí thức lập tức biết bọn tôi định diễn trò gì. Cái thời kỳ văn hóa khô khan này, đảo qua đảo lại cũng chỉ có mấy món vui chơi, người bình thường chẳng có bất cứ hoạt động văn hóa giải trí nào hết, nhưng bất kể là thời địa nào, thanh niên bao giờ cũng có cách riêng của mình. Bấy giờ trong những trò vui phổ biến nhất, chính là mô phỏng theo kiểu chuyện của vĩ nhân trong phim ảnh, tiến hành gia công nghệ thuật với những kinh điển có sẵn. Nhưng riêng phần mô phỏng tương đối khó rồi, phải ai cũng học theo được. Người nào chỉ cần bắt chước được mấy phần, giả bộ được ít khí chất lãnh đạo người thường thể so sánh, lại có nét độc đáo riêng, chắc chắn trở thành thần tượng trong mắt mọi người ngay.

      Hồi đó bọn tôi từng xem trộm rất nhiều phim chiếu nội bộ trong quân khu, tôi băn khoăn biết nên phỏng theo bộ nào. Phim của các nước đồng chí em như Việt Nam và Triều Tiên hợp lắm, bi tráng nghiêm túc có thừa, nhưng lại thiếu tính kịch, ít có đoạn đối thoại nào kinh điển, rất khó thông qua biểu diễn làm người xem hào hứng, tinh thần dâng cao. Phim trong nước cũng ổn, mọi người đều quen thuộc quá rồi, có độ khó cho lắm. Cân nhắc giây lát, tôi và Tuyền béo đều có tính toán, vậy là bèn lấy đạo cụ tại chỗ, nhặt mấy cọng lông dê bãi cỏ dán lên mép làm râu, nhổ nước bọt vào tay quẹt lên đầu, chải lại tóc thành kiểu đầu bồng lên phía trước, cố gắng làm trán mình trông có vẻ gồ lên cao hết cỡ.

      Chúng tôi đứng mặt đối mặt trước đống lửa cháy hừng hực, đám thanh niên trí thức ngồi xem đều kinh ngạc thốt lên: “Giống quá mất, đây chẳng phải là Lenin và Stalin đó sao?” Họ hiểu ra tôi và Tuyền béo định biểu diễn tiết mục gì, liền cười hì hì chăm chú quan sát từng cử động của hai thằng bọn tôi.

      Tôi thấy vậy được, khí đúng, liền quay đầu lại với đám thanh niên trí thức: “Đề nghị các bạn nghiêm túc cho, được cười hì hì hà hà thế, màn biểu diễn này của chúng tôi, là thể lại bầu khí nặng nề trước khi cơn bão cách mạng cuồn cuộn ập đến, các bạn phải phối hợp cho chút, bằng diễn tệ quá là chúng tôi xuống được đâu đấy.”

      Sau đấy tôi và Tuyền béo đứng yên bất động, cố ngưng đọng lại khoảnh khắc trong lịch sử của các bậc vĩ nhân tựa những bức tượng quảng trường Tháng Mười. Kỳ thực vào thời điểm quan trọng này, mình thể bật tiếng lên được, bằng đừng hòng dọa được khán giả. Đinh Tư Điềm lấy ra cây khẩu cầm, tiếng nhạc trầm thấp tiết tấu chậm chạp cất lên, cùng phối hợp tích cực của , những người xung quanh đều lắng xuống, đám thanh niên trí thức im lặng như tờ, bầu khí ồn ã của buổi ca múa vừa nãy bắt đầu thay bằng nặng nề của lịch sử, thời gian tựa hồ như quay lại với đêm trước hôm tấn công vào Cung điện Mùa Đông.

      Tôi biết đến lúc rồi, liền chầm chậm quét ánh mắt về phía mọi người, sau đó nhìn chằm chằm vào Tuyền béo làm bộ thần tình u uẩn hỏi rằng: “Đồng chí Joseph[22], sẵn sàng phát động tấn công vào Cung điện Mùa Đông chưa?” Câu kinh điển này vừa thốt khỏi miệng, chính bản thân tôi cũng cảm thấy mình biến thành đồng chí Lenin trong phim, các khán thính giả bên dưới, hình như cũng biến thành những công nhân ngưỡng vọng Lenin trong phim.

      Tuyền béo ưỡn cái bụng ra, bắt chước bộ tịch của vị thủ trưởng thứ hai, hiền hòa mà thiếu phần uy nghiêm, khiêm nhường nhưng cũng lại quyết đoán, với tôi: “Vladimir Ilych kính mến, sáng sớm ngày mai, cánh cổng lớn ấy bị giai cấp công nhân dũng can trường mở toang ra, vì điều này, chúng ta tiếc trả giá bằng cả máu của chính mình.”

      Tôi nắm tay, căm phẫn sục sôi trào dâng cuồn cuộn: “Bóc lột, áp bức, thống trị, nô dịch, ám sát, bạo lực, đói khát, nghèo nàn nuốt chửng lấy chúng ta... mấy nghìn năm nay, máu của giai cấp công nhân chảy thành sông thành biển, lẽ nào máu của chúng ta vẫn chưa chảy đủ hay sao?”

      Đoạn này cần phải nhanh, nhả chữ ràng chuẩn xác, nhất thiết phải bắn từng chữ ra như đạn pháo, khích động được tâm trạng phẫn nộ của khán giả với kẻ địch, thanh niên trong thời đại này đều có thế giới quan và giá trị quan giống nhau, đám thanh niên trí thức liên tưởng đến vận mệnh của mình, quả nhiên bị cảm nhiễm, ai nấy đều nghiêm sắc mặt. Tôi thấy đến lúc phải đẩy khí lên độ cao trào, bèn : “Nếu thắng lợi cuối cùng vẫn cần đổ máu, vậy hãy để máu của Sa hoàng nhấn chìm Cung điện Mùa Đông...” Tới đây, tôi giơ cao tay phải lên, ra hiệu ngưng lại, thoáng dừng lời giây lát, rồi nắm chặt tay vung xuống, mạnh mẽ kêu lên rằng: “Bởi vì cái chết, thuộc về giai cấp công nhân!”

      Tuyền béo đứng bên cạnh chỉ đợi tôi thốt ra câu cuối cùng này, lập tức giơ cao nắm đấm, hô vang: “Đúng, cái chết thuộc về giai cấp công nhân!” Những thanh niên trí thức xung quanh đều hô vang, “Cái chết thuộc về giai cấp công nhân,” rồi cả bọn vỗ tay hoan hô nhiệt liệt, mực cho đồng chí Lenin xuống, cầu làm thêm màn nữa.

      màn biểu diễn hoàn mỹ, tính toán chuẩn xác đến chút sơ hở, cộng với phối hợp của khán giả, nên càng thêm hoàn hảo. Tôi từng chỉ lần mô phỏng Lenin diễn thuyết, có lẽ tương lai cũng vẫn còn cơ hội chơi trò này, nhưng trong lòng tôi hiểu rất , dù là khí hay tình cảm nội tâm, sau này cũng thể nào đạt được cảnh giới của lần này nữa. Bữa tiệc dưới bầu trời đêm của thảo nguyên Khắc Luân Tả Kỳ, khiến người ta cả đời thể nào quên.

      Lúc tôi bỏ bộ râu giả ra về chỗ ngồi, Đinh Tư Điềm ngạc nhiên : “Bát Nhất, bạn giỏi quá, ngờ bạn còn có tài này nữa, vừa nãy mình còn tưởng bạn là đồng chí Lenin cơ đấy, diễn giống quá mất.” Tôi nghe thế, đương nhiên là đắc ý vô cùng, có điều cũng vẫn giữ được bản sắc khiêm tốn nhún nhường xưa nay, bèn xua xua tay, làm bộ ngượng ngùng theo kiểu văn vần vốn rất thịnh hành thời bấy giờ: “Có gì đâu, thế có đáng gì chứ, sông có ngọn núi, trong sương mờ mờ. Mình chính là ngọn núi ấy, thường thường thấy, thi thoảng mới lộ khỏi màn sương.”

      Tuyền béo cũng lấy làm ngưỡng mộ vì tôi được các thanh niên trí thức tán thưởng, cậu ta vội vàng với Đinh Tư Điềm: “Vừa nãy mình chỉ toàn diễn mồi cho cậu Nhất này, chẳng kịp hiển lộ phong thái gì hết, hay là để mình độc diễn đoạn Lý Ngọc Hòa, cũng để các bạn thưởng thức tài năng tiềm của mình...” Trước thúc giục tích cực của Tuyền béo, các thanh niên trí thức lại bắt đầu vòng biểu diễn thứ hai.

      Đêm hôm ấy cứ vậy mà trôi qua nửa, trong khí như thế, dù người biết uống rượu ít nhiều cũng phải làm hai ba bát, rượu say người mà người tự say, tôi uống đến mê mê man man, cũng hiểu tan hội lúc nào, càng biết ai vác mình về lều ngủ nữa.

      Gió thổi cả đêm, tôi ngủ chẳng biết trời trăng, lúc tỉnh dậy đầu đau như muốn vỡ tung, nước mũi chảy dầm dề, xem ra vẫn chưa hết cảm. Tôi dụi dụi cặp mắt kèm nhèm nhìn xung quanh, ra tôi và Tuyền béo, thêm cả vị “thủ trưởng” lão Nghê kia đều được xếp chung lều, quần áo giày vớ đều chưa cởi ra, chỉ thấy Tuyền béo gác chân lên bụng lão Nghê ngáy khò khò, còn lão Nghê ngừng lảm nhảm gì đấy. Cả hai vẫn chưa tỉnh, trong lều còn ai khác, tôi đoán những dân du mục và thanh niên trí thức còn lại đều trở về luôn trong đêm rồi.

      Tôi mất hết khái niệm về thời gian, cũng biết mấy giờ, đầu đau như búa bổ, định nằm xuống ngủ nướng thêm chút, nhưng chưa kịp nhắm mắt, bỗng phát giác thanh bên ngoài có gì đó ổn, ầm ầm sầm sập như sấm động. Tiếng sấm ì ùng ấy như cơn thủy triều cuốn từ phía Đông đến căn lều chúng tôi ngủ. Tôi thắc mắc hiểu bên ngoài xảy ra chuyện gì, thấy Đinh Tư Điềm chạy xộc vào, cuống cuồng kêu lên: “Mau chạy ra ngoài, lũ bò nổi điên rồi!”


      Chú thích
      [19] Tiếng Mông Cổ, chỉ người giàu có.
      [20] Dân ca vùng Thiểm Bắc.
      [21] Thần của người Mông Cổ.
      [22] Tên của Stalin.

    3. Skye

      Skye Well-Known Member

      Bài viết:
      698
      Được thích:
      5,624
      Chương 13

      Ruồi trâu

      [​IMG]
      hông cần phải kỹ hơn, gương mặt của Đinh Tư Điềm cho tôi biết, lũ bò bị kinh hoảng lao về phía này. Đàn bò thảo nguyên xưa nay rất hiền lành, nhưng khi bị kinh hãi, cả đàn lao ầm ầm về phía, còn hung mãnh hơn cả ngựa hoang thoát cương. Mấy trăm con bò nổi điên lên cùng xông tới gì cản được, cả xe hơi cũng bị chúng giẫm cho nát bươm thành đống sắt vụn ấy chứ.

      Tôi kịp hỏi han xem tại sao đàn bò lại nổi điên, vội bật người, tung chân đá cho Tuyền béo tỉnh dậy, nhưng “thủ trưởng” lão Nghê đêm qua uống hơi quá, đá thế nào ta cũng dậy nổi. Trong lúc khẩn cấp, tôi và Tuyền béo đành hè nhau khiêng ta lên, cũng may là mặc nguyên quần áo ngủ, đồ đạc cũng chỉ có bộ mặc người, hai bọn tôi vớ vội lấy cái túi rồi theo Đinh Tư Điềm chạy ra khỏi lều.

      Bên ngoài trời sáng bảnh, chỉ thấy phía Đông bụi bay mù trời, tiếng vó nện xuống đất và tiếng kêu bi thảm của lũ bò hòa trộn làm , váng trời dậy đất đổ dồn về phía chúng tôi. Mấy con chó chăn cừu trung thành xông tới đàn bò nổi cơn cuồng loạn sủa váng lên, định hợp lực với chủ nhân ngăn lũ bò điên ấy lại. Nhưng lúc này cả đàn bò đều đỏ hết cả mắt, đà lao điên dại hề giảm , chỉ trong chớp mắt giẫm nát mấy con chó tội nghiệp.

      Tôi sao có thể ngờ được tình thế lại diễn ra như vậy, mắt thấy đàn bò sắp xông thẳng tới chỗ mình, muốn vòng qua bên cạnh để né tránh đà lao của bọn chúng quá muộn, nhưng cứ thế này lập tức bị bọn chúng giẫm nát bấy. Mấy đứa tôi đều tái mặt, bần thần mất thoáng, cả tiếng chuyện cũng bị nhấn chìm trong hỗn loạn. Đinh Tư Điềm kéo lấy cánh tay tôi, ra sức chạy về phía sau căn lều Mông Cổ.

      Tôi hoàn toàn hiểu cặp giò mình thể nào chạy nhanh hơn đàn bò kinh hoảng, cũng có cách nào hỏi Đinh Tư Điềm tại sao lại chạy ra phía đó. Tuy cũng lo lắng sợ quá mà thần trí hoảng loạn chạy lung tung, nhưng rốt cuộc tôi vẫn cùng Tuyền béo khiêng lão Nghê chạy theo, cần ngoảnh đầu lại, chỉ nghe tiếng thôi cũng nhận ra được, đàn bò mỗi lúc đến gần sau lưng. Căn lều chúng tôi vừa ngủ bị giẫm bẹp, trong vòng hơn chục bước chân nữa, nhất định chúng tôi cũng bị giẫm nát.

      lúc tuyệt vọng, tôi bỗng phát chạy thêm mấy bước nữa là đến cái rãnh sông cạn. Cái rãnh này bị phong hóa lâu, hiểu cạn khô nước từ mấy trăm năm rồi, rãnh sông cũng ngày ngày bị đất cát, cỏ loang xâm thực, giờ chỉ sâu hơn mét, rộng hơn nửa mét trông như thể vết nứt thảm cỏ xanh ngắt. Đây cũng là trong rất nhiều vành đai phòng hỏa hoạn thiên nhiên vùng thảo nguyên này. Bấy giờ tôi mới sực hiểu ra ý đồ của Đinh Tư Điềm, dẫn chúng tôi chạy về phía này, là muốn cả bọn nhảy vào trong rãnh sông, hòng tránh khỏi thế lao sầm sập của lũ bò điên kia.

      Tôi và Tuyền béo khiêng “thủ trưởng” lão Nghê cùng với Đinh Tư Điềm dốc hết toàn bộ sức lực bình sinh guồng chân lao hết tốc lực, gần như lăn vào trong rãnh sông khô cạn ấy. Vừa mới lăn xuống, bên tối sầm lại, cát bụi, cỏ rác rơi xuống rào rào, tiếng vó giậm xuống đất nghe mà điếc cả tai, thần hồn run rẩy. Bọn tôi vội vàng bịt chặt hai lỗ tai lại, cũng biết bao lâu sau, đàn bò kêu rống thảm thiết ấy mới xông hết qua cái rãnh.

      “Thủ trưởng” lão Nghê cuối cùng cũng bị quăng quật cho tỉnh lại, ngồi trong cái rãnh cạn nhìn ba chúng tôi, hoang mang biết vừa rồi rốt cuộc xảy ra chuyện gì? Lúc này lão Dương Bì cùng con trai, con dâu cuống cuồng chạy đến, họ lo đuổi theo đàn bò, vừa thấy lão Nghê sao liền thở phào nhõm, lần lượt kéo chúng tôi lên khỏi cái rãnh. Bấy giờ mọi người mới kể ngọn ngành chuyện vừa xảy ra. Nguyên lai là hôm qua gần như tất cả mọi người đều say bét nhè, hiểu lúc sắp ra về có ai ngã dúi dụi làm đổ cả hàng rào quây đàn bò. Đây là đàn bò lớn nhất vùng Khắc Luân Tả Kỳ này, cũng may là có mấy con chó chăn cừu trung thành, quây đàn bò lại để chúng lạc. Lũ bò cứ thế gặm cỏ ở ngoài bãi, đến sáng cũng chưa có chuyện gì xảy ra.

      Buổi sớm, lão Dương Bì vừa tỉnh giấc, phát đàn bò ra khỏi rào quây, chuyện này cũng thường hay xảy ra nên ông ta cùng kinh ngạc lắm, bèn gọi con trai và con dâu ra giúp lùa bò về. Họ vừa vòng ra phía sau đàn bò, bỗng nhiên có bất ngờ xảy ra, hiểu ở đâu lại xuất con ruồi trâu to tướng, đốt cho con bò trong đàn cú đau điếng.

      Lũ bò thường hay ve vẩy đuôi, chủ yếu là để xua bọn ruồi trâu hoặc nhặng trong lùm cỏ. Ruồi trâu là loài côn trùng, kỳ thực cũng phân ra làm hai loại ăn mặn và ăn chay, con đực chỉ hút nhựa từ cỏ cây, con cái lại chuyên hút máu của lũ gia súc, thân màu đen xám, đôi cánh trong suốt. So với bọn ruồi nhặng thông thường, ruồi trâu mới là nỗi khủng khiếp của trâu bò, con ruồi trâu này phỏng chừng tránh được cú quật của cái đuôi, bay lên cắn chặt vào vị trí mẫn cảm của con bò, khiến nó nhảy cẫng lên, làm cả đàn bò còn lại đều hoảng hồn, cuống cuồng nhao lên như con nhặng mất đầu, xông thẳng về phía mấy cái lều Mông Cổ. Cũng may Đinh Tư Điềm phát lũ bò nổi điên, chạy tháo mạng mình mà mạo hiểm xông tới cứu ba người ngủ chúng tôi, bằng giờ chắc cả người lẫn lều đều bị giẫm cho nát bét thành tương thịt rồi.

      Đàn bò mà bị kinh hoảng ai ngăn được, vì thanh thế quá hung mãnh, cả lũ ngựa cũng sợ đến nhũn cả bốn vó, đám đuổi theo sau, chỉ đành để mặc cho chúng chạy như điên thảo nguyên, khi nào sức cùng lực kiệt rồi dừng lại. Lúc ấy, dân du mục mới có thể đuổi theo lùa bò trở về.

      Lão Nghê nghe giải thích ngọn ngành câu chuyện xong, sợ hết cả hồn, cứ rằng nếu có mấy đứa thanh niên trí thức chúng tôi liều mạng giải cứu, sợ rằng ta chết mà cũng hiểu mình chết như thế nào, kích động đến nỗi cứ bắt tay chúng tôi mãi. Có loại thủ trưởng nào mà tôi với Tuyền béo chưa gặp qua đâu chứ? Đương nhiên chúng tôi coi cái tay cán bộ cỏn con này ra gì, nhưng cũng thấy con người ta hiền hòa dễ gần, vả lại cứu người là chuyện tất lẽ dĩ ngẫu phải làm, thế nên cũng cậy công mà tinh tướng gì.

      “Thủ trưởng” lão Nghê với cả đám chúng tôi: “Cả Mao chủ tịch cũng ... ‘hoàn cầu bé , có mấy con ruồi nhặng ngáng trở đường ta[23]’. Tôi thấy thảo nguyên có mấy con ruồi trâu làm loạn cũng chẳng phải chuyện gì lớn, chỉ là phải nhanh chóng đuổi theo bắt lũ bò chạy loạn về mới được, bận này tôi trở về là phải viết báo cáo về khu chăn nuôi gương mẫu của mọi người rồi, cấp còn định hiệu triệu tất cả các khu chăn nuôi, khu trồng rừng khác học theo mọi người ở đây, vì vậy chuyện này ngàn vạn làn thể xảy ra điều gì sơ suất được.” đoạn, ta nhìn sang lão Dương Bì đờ đẫn, hỏi tại sao còn mau đuổi theo lũ bò ấy?

      Gương mặt già nua đầy nếp nhăn của lão Dương Bì cắt còn hột máu, bộ dạng như người mất hồn. Sau khi băng qua cái rãnh, đàn bò chia làm mấy hướng chạy tứ tán trong đấy có nhóm chạy thẳng về phía động Bách Nhãn ở sâu trong thảo nguyên, chạy đâu còn được, chứ hễ nhắc đến cái nơi ấy, là trong lòng lão Dương Bì lại trào dâng lên niềm sợ hãi. Đương nhiên, ông thể nguyên nhân này ra với lão Nghê được.

      Tôi đứng cạnh thoáng nhìn hiểu ngay, cũng biết được nỗi khổ của lão Dương Bì. Tôi vốn chẳng tin ở trong thảo nguyên kia lại có long liếc gì, lập tức bước lên với lão Nghê, “Lũ bò chạy về phía Tây do tôi phụ trách lùa về, trong liên khu chẳng dễ gì mới có khu chăn nuôi gương mẫu, chuyện này biết có thể tạm thời loan tin có được chăng, bằng điển hình tiên tiến của lão Dương Bì thành ra điển hình lạc hậu mất.”

      Lão Nghê gật đầu : “Thanh niên trí thức hướng ấy lùa đàn bò về cũng được, nhưng các cậu phải cẩn thận chút, qua Mạc Bắc là đến đường biên giới rồi, nếu đàn bò chạy sang Ngoại Mông, muốn đòi về phiền phức lắm đấy, đó là kiện mang tính quốc tế, khiến tài sản quốc gia tổn thất to lớn. Trước mắt, tôi cố gắng hết sức mình, tạm thời che giấu kiện này, đợi mọi người quay trở lại, đếm số lượng tổn thất rồi mới báo cáo lên cấp . Trong lúc đàn bò nổi điên chạy loạn giẫm chết ít bê con rồi, tôi thấy chúng ta nhất thiết phải nghĩ cách gì để giảm tổn thất xuống mức thấp nhất mới được.”

      Đinh Tư Điềm dắt ba con ngựa ra, thấy lão Nghê vậy bèn lên tiếng: “ lo nghĩ quá rồi, đàn bò chạy vào hoang mạc đâu, cùng lắm là làm vòng thảo nguyên thôi, vả lại dù chạy thế nào lũ bò cũng kết bầy kết đoàn, sói ở vùng Khắc Luân Tả Kỳ này nhiều, vài con sói thảo nguyên dám động đến cả đàn bò đông đảo đâu. Chắc là có chuyện gì ngoài ý muốn nữa, chúng tôi nhất định hoàn thành nhiệm vụ, lùa đàn bò về đây thiếu con nào.”

      Tôi thấy dắt ra ba con ngựa, bèn hỏi Đinh Tư Điềm: “Chẳng lẽ bạn cũng muốn đuổi theo đàn bò với chúng tôi? Nghe chỗ đó rất nguy hiểm, tốt nhất là bạn đừng hơn.” Đinh Tư Điềm quật cường : “Tuy các bạn được tiếng là dám lên trời hái trăng sao, dám xuống biển bắt cá kình, nhưng các bạn còn chưa cưỡi ngựa bao giờ, biết cưỡi ngựa làm sao lùa bò về được? Với lại, mình là thanh niên trí thức đến khu chăn nuôi này tham gia lao động sản xuất, xảy ra chuyện ở đây mình cũng có phần trách nhiệm, vì vậy mình đương nhiên phải rồi.” đoạn, lại vác ra mấy bộ yên cương, tôi và Tuyền béo đều biết cưỡi ngựa, đành phải thuận tình để Đinh Tư Điềm dẫn đầu.

      Lúc này, lão Dương Bì cũng ngập ngừng bước tới. Vì khu chăn nuôi của ông, đến cả ba thanh niên trí thức cũng có thể mạo hiểm đến gần động Bách Nhãn, chuyện tới nước này rồi, giữ lại bộ xương già phỏng còn ích gì? Vả lại, nguyên nhân chủ yếu nhất là, ngộ nhỡ tìm được bò về, mà mấy thanh niên trí thức chúng tôi lại gặp chuyện, ông càng biết ăn thế nào. Cuối cùng ông già cũng hạ quyết tâm, để con trai và con dâu lùa lũ bò chạy theo mấy hướng khác, sau đó ở nhà chăm sóc cho “thủ trưởng” và tu bổ lại mấy hàng rào quây gia súc, còn ông cùng ba chúng tôi về hướng động Bách Nhãn tìm lũ bò kia về.

      Chúng tôi dám qua loa đại khái, liền vào căn lều chưa bị lũ bò giẫm nát, tìm số vật dụng cần thiết mang theo, sau đó cả bọn vội chia nhau xuất phát. Người mới cưỡi ngựa lần đầu đúng là cần quá trình để làm quen, có điều tôi và Tuyền béo bẩm sinh vốn có năng lực thích ứng rất mạnh với những thứ kiểu này, thêm cả Đinh Tư Điềm và lão Dương Bì chỉ dẫn, mới được vài dặm, bọn tôi nắm được yếu lĩnh cơ bản rồi.

      Cưỡi ngựa quan trọng nhất là thể cậy khỏe, lúc ngựa chạy nhanh, đầu gối và phần bên trong đùi phải khép chặt vào hông ngựa, thân thể nghiêng về phía trước, giữ ở trạng thái như chạm mà lại như chạm với yên ngựa, rồi nhấp nhô theo nhịp chạy của bốn vó, tuyệt đối được để thân thể cứng đờ ra. Bốn chúng tôi giục ngựa chạy nhanh thảo nguyên, cảm giác tựa như cưỡi gió phi hành biển cỏ mênh mang, tôi và Tuyền béo đều lấy làm thích thú, thầm nhủ lần này đúng là ghiền quá mất. Chỉ riêng được phen cưỡi ngựa thế này, cũng uổng công vất vả lùa đàn bò về rồi.

      Lũ bò nổi điên chạy dừng lại, vả lại, vừa nãy tình hình hỗn loạn mất lúc, nhất thời thể đuổi kịp chúng nó được. Cũng may là dọc đường dấu vết rất rệt, phải lo bị mất dấu. Lão Dương Bì lo tôi và Tuyền béo ham vui quá đà, lại giày cưỡi ngựa, chẳng may ngã xuống phải chuyện đùa, nên chỉ cho bọn tôi phóng thỏa thích đoạn, rồi từ từ giảm dần tốc độ xuống.

      Tôi bèn tranh thủ cơ hội này hỏi lão Dương Bì, cái tên động Bách Nhãn kỳ quái, biết tên ấy từ đâu ra? Lão Dương Bì bảo rằng ông cũng lắm, chỉ nghe là ở gần đấy có rất nhiều hang hố, cửa hang to bất bình thường, hình như đều là những nguồn nước cạn khô. Nơi ấy mặt đất đầy những hang hố kiểu như thế, có lẽ chính vì nhiều hang quá, nên mới gọi là “động Bách Nhãn”. Vì có quá nhiều người và gia súc mất tích ở đấy, nhiều năm nay ai dám lại gần khu đó nữa, nên cũng có đúng là vậy .

      Lão Dương Bì thủy chung vẫn luôn hãi sợ con hắc long xuất ở vùng phụ cận động Bách Nhãn, tôi đoán phỏng chừng kiện người em trai mất tích năm xưa, phủ lên tâm trí ông bóng đen, khiến nút thắt trong lòng thể tháo gỡ. Tôi biết nên khuyên giải ông thế nào, đành an ủi rằng đời này chẳng có rồng riếc gì cả, đó chỉ là tô tem do người xưa sáng tạo ra mà thôi.

      tới đây, tôi bỗng nhớ đến cuốn tàn thư Thập lục tự dương phong thủy bí thuật gia truyền, trong đó hình như có rất nhiều chương nhắc đến “rồng”. Cuốn sách rách rưới này là tài sản duy nhất còn lại của gia đình, xưa nay tôi vẫn luôn mang theo người, nhưng đến lúc bây giờ cũng chưa từng đọc kỹ lần nào. Vậy là tôi liền móc quyển sách ra, ngồi lưng ngựa lật qua lật lại mấy lượt, quả nhiên có đoạn về “Tầm long quyết”, trong đó viết rằng: “Núi sông nhấp nhô trùng điệp, thế ấy gọi là ‘long’, địa thế kéo dài liên miên, ngưng kết cũng thành ‘long’.” Xem ra rồng (long) cũng là hình ảnh tượng trưng cho thế núi, trong sách này có đoạn nào rằng rồng là vật sống.

      Tuyền béo xưa nay rất thuận mắt với cuốn sách cũ kỹ ấy, thấy tôi lấy nó ra làm bằng, lập tức móc máy: “Sao cậu vẫn vứt mẹ nó cái thứ sách dị đoan xằng bậy ấy nhỉ? Cái loại sách nhăng cuội này là độc hại lắm đấy nhé, cậu xem nhiều trúng độc đó, đồng chí của tôi ơi! Mà cậu lại còn lấy ra cho người khác đọc nữa chứ, định truyền cái thú vui thấp hèn ấy cho giai cấp nông dân và chiến hữu cách mạng phỏng?”

      Tôi liền phản bác ngay: “Cậu biết cái đếch gì, lăng nhăng, thú vui thấp hèn có tội, huống hồ xưa nay tôi luôn đọc nó bằng nhãn quang phê phán...” dở dang, lão Dương Bì đột nhiên ghìm cương ngựa, bảo ba đứa thanh niên trí thức bọn tôi, hết trảng cỏ này là đến động Bách Nhãn rồi, ông dám thề với Trường Sinh Thiên là nhìn thấy con long ở đó, tình cảnh khủng khiếp ấy có chết cũng thể nào quên được.

      Lúc ấy vầng hồng treo lơ lửng bầu bao la, chúng tôi cưỡi lưng ngựa, tay khum lại che nắng dõi mắt nhìn về hướng Tây, thảo nguyên vắng lặng, cỏ vàng trải ngút tầm mắt, khung cảnh hoang lương xơ xác, tận cùng của biển cỏ mênh mông dập dềnh nổi sóng ấy, có khoảng đồi nhấp nhô, thoạt trông tựa như mấy hòn đảo lẻ loi giữa biển. Nơi ấy chính là động Bách Nhãn mà lão Dương Bì mỗi lần nghe đến đều biến sắc, xem ra đàn bò chạy về hướng ấy. Chuyến này tìm được bò về; mọi người cũng khó ăn khó , phỏng chừng dù là long đàm hổ huyệt, chúng tôi cũng phải xông pha xâm nhập phen thôi vậy.

      Lão Dương Bì có mang theo thanh đao Mông Cổ, đó thực ra là thanh Khang Hy bảo đao, năm xưa được nhà vua ngự tứ ban cho vị vương gia Mông Cổ. Về sau khi phong trào đả phá “tứ cựu” lên cao, hậu nhân của vị vương gia ấy nhờ lão Dương Bì len lén vứt thanh đao . Ông già này biết đó là thanh bảo đao, khi ấy tinh thần giác ngộ cũng dâng cao lắm, cảm thấy vứt tiếc quá, bèn giữ lại giấu trong nhà. Gia đình ông thuộc thành phần thấp, ai chú ý đến, vì vậy thanh đao ấy vẫn còn giữ được đến giờ. Lão Dương Bì cảm thấy Khang Hy bảo đao có thể kỵ tà đuổi ma, bèn mang theo bên mình.

      Có lẽ, đối với lão Dương Bì, ra chuyến này là dự định sống trở về nữa, nên vẻ mặt ông vô cùng bi tráng. Bấy giờ, khi sắp đến gần động Bách Nhãn, ông già đột nhiên rút đao đánh “choang” tiếng, miệng hát lên khúc Tần xoang để tăng lòng can đảm cho đám thanh niên trí thức bọn tôi và cả cho chính mình, vừa hát ông vừa thúc ngựa tiến lên. Chỉ nghe cái giọng như chuông rè của ông vang vang rằng: “Triệu Tử Long a…” Câu hát Tần xoang thoát ra khỏi miệng, chí khí sục sôi, đồng thời cũng toát lên bi phẫn khó tả thành lời.

      Chúng tôi bị giọng hát rung động đất trời của ông lão Dương Bì làm sởn hết cả gai ốc, tuy cũng chưa từng nghe Tần xoang bao giờ, nhưng cả ba đều cảm thấy giọng chuông rè của ông đúng là giọng Tần xoang chính cống. Lúc này, đích thực cũng cần hát mấy câu về vị hùng gan dạ cùng mình Triệu Tử Long ấy để cổ vũ cho mọi người, tôi định vỗ tay hoan hô ông lại đột nhiên im bặt, hai mắt nhìn chằm chằm xuống vết chân của đàn bò dưới mặt đường. ra sau khi chạy tới đây, lũ bò đột nhiên chuyển hướng, lao thẳng về phía động Bách Nhãn nữa. Lão Dương Bì lập tức cả mừng, rối rít cảm tạ Trường Sinh Thiên để mấy ông mấy bà bò này chạy vào động Bách Nhãn. Nhưng chúng tôi chẳng kịp mừng lâu, bốn người lần theo dấu tích được vài dặm nữa bỗng nhiên dấu chân của hơn trăm con bò lại dưng biến mất. Bao nhiêu dấu chân bò hỗn loạn đều dừng lại ở cùng chỗ, lẽ nào cả đàn bò ấy đều bốc hơi mất rồi sao? Mấy người chúng tôi đều trợn mắt há hốc mồm ra, hay là bị vòi rồng cuốn mất rồi? Nhưng bốn phía xung quanh hoàn toàn hề có dấu vết của gió lốc, rốt cuộc là ở đây xảy ra chuyện gì?


      Chú thích
      [23] Câu đầu tiên trong bài tứ Cùng đồng chí Quách Mạt Nhược viết theo điệu Mãn Giang Hồng của Mao Trạch Đông.

    4. Skye

      Skye Well-Known Member

      Bài viết:
      698
      Được thích:
      5,624
      Chương 14

      Mất tích

      [​IMG]
      ại thảo nguyên phủ lớp cỏ vàng, tựa như mặt biển màu xanh vàng cuồn cuộn sóng nhấp nhô. Cỏ gần như cao bằng nhau, nhưng cồn đất bên dưới lại nhấp nhô bằng phẳng, địa hình cao thấp đan xen. Ở đại đa số các khu vực thảo nguyên, độ chênh lệch giữa điểm cao và điểm thấp đều lớn lắm, nhìn từ xa hoặc từ cao rất khó phân biệt. thảo nguyên cũng có núi nham thạch hoặc núi sa thổ, vì nơi đây trời cao đất rộng nên nhìn từ xa chỉ thấy trời đất liền lạc, nhấp nhô liên miên, chỉ khi đến gần sát, mới có thể cảm nhận được độ dốc lớn thế nào.

      Dấu tích của đàn bò chạy loạn biến mất con dốc, chúng tôi vội vàng dẫn ngựa sục sạo kỹ càng, liền phát vết chân tán loạn đám cỏ, xung quanh còn có dấu vết cỏ bị gặm, chứng tỏ rằng lũ bò sau khi chạy đến đây bình tĩnh lại, còn kinh hoảng nữa, thậm chí còn dừng lại đây gặm cỏ.

      Nhưng kỳ quái điều là, cả đàn bò lớn như thế lại dưng biến mất. Cho dù lũ bò có gặp phải cả đàn sói tấn công, ít ra cũng phải có dấu vết như dấu chân hay gì đó chứ? Xét cho cùng bốn chúng tôi cũng đuổi theo sát ngay phía sau, trong khoảng thời gian ngắn ngủi như vậy, lực lượng nào có thể khiến cả đàn bò biến mất được chứ? Tôi ngồi lưng ngựa hỏi Đinh Tư Điềm: “ thảo nguyên này có vòi rồng ? Hay là cuồng phong cuốn cả đàn bò mất rồi?”

      Đinh Tư Điềm đáp: “Nghe ở Ngoại Mông thi thoảng cũng có vòi rồng, còn thảo nguyên này cực kỳ hiếm gặp. Vả lại, vòi rồng có thể cuốn cả trăm con bò phải lớn đến chừng nào chứ? Nếu có vòi rồng , hôm nay trời trong thế này, nếu có chúng ta thấy từ tít đằng xa kia rồi, thêm điều nữa là cỏ ở xung quanh đây làm gì có vết tích bị gió quật đâu?” đoạn, liền quay sang hỏi lão Dương Bì, dù sao lão Dương Bì cũng từng sống thảo nguyên này mấy chục năm, kinh nghiệm phong phú hơn đám thanh niên trí thức chúng tôi nhiều lắm.

      Lão Dương Bì gì, ông nhảy xuống ngựa, sờ mó vết chân bò dưới đất, quan sát tỉ mỉ lúc lâu, cuối cùng chán nản ngồi phịch xuống đất, nước mắt đầm đìa chảy vòng quanh gương mặt già nua. Xem ra hơn hai trăm con bò chắc chắn bị con “ long” thảo nguyên nuốt mất rồi. Lão Dương Bì vừa khóc vừa đấm ngực giậm chân: “Trường Sinh Thiên ơi hỡi, sao lại trừng phạt kẻ du mục mệnh khổ này như thế?” Mấy chục năm trước, người em ruột thịt của ông đến gần nơi này liền mất tích, giờ cả đàn bò chạy đến đây cũng thấy tăm hơi. Mà lũ bò này đều là tài sản của tập thể, nếu tối qua uống say khướt, mà bỏ công gia cố lại hàng rào quây đàn bò, cũng đâu đến nông nỗi này, trách nhiệm thực quá lớn. Hơn nữa, cấp mà tra xuống cũng chẳng biết giải thích thế nào, rằng đàn bò bị rồng nuốt mất rồi, đến cọng lông cũng chẳng còn, thử hỏi có ai tin đây?

      Đinh Tư Điềm cũng lo cuống lên, nước mắt lã chã tuôn rơi. Nhìn bề ngoài có vẻ mạnh mẽ, nhưng thực ra nội tâm rất nhạy cảm, vô cùng mỏng manh, chẳng khác nào những bình thường khác. Đòn giáng lớn nhường này, thực thể nào trụ vững nổi. Tôi và Tuyền béo thấy vậy mà cũng lấy làm lo lắng cho hai người. Tôi vội tung mình xuống ngựa, bước đến khuyên lão Dương Bì: “Cháu thấy việc đến nước này, tìm được đàn bò về chúng ta xong đâu. Giờ có lo mấy cũng vô dụng, chúng ta phải mau chóng tìm khắp xung quanh xem sao, dù phải lật tung cả cái thảo nguyên này lên cũng phải tìm cho bằng được bọn chúng.” Tôi chẳng tin vào mấy cái truyền thuyết long nuốt người nuốt gia súc gì cả, mà kể cả có trường hợp là thảo nguyên này thực loài mãnh thú gì đấy ngoại hình giống như con rồng náu, nó cũng thể hơi nuốt chửng hết bao nhiêu là bò như thế được, dạ dày quái gì mà to thế? Mà kể cả là như thế, chẳng lẽ nuốt rồi nhè xương ra chắc? Tìm được xương bò ít nhiều cũng có cái mà ăn . Cái thời buổi này, người ta chụp mũ cho nhau nhiều lắm, nếu chẳng may tìm được lũ bò về, đám người ở chỉ cần tùy tiện chụp cho ông lão Dương Bì và Đinh Tư Điềm cái mũ vậy là đủ chết cũng đền hết tội rồi. Có những chuyện dù sợ mấy cũng tránh được, gặp thời khắc quan trọng chỉ có thể nghiến răng mà chống đỡ đến cùng, có thời gian khóc lóc chi bằng mau mau đứng dậy mà tìm lũ bò về còn hơn.

      Tuyền béo cũng khuyên rằng: “Tư Điềm đừng khóc, trong ấn tượng của mình, bạn đâu phải là chỉ biết khóc lóc nước mắt nước mũi chảy đầm đìa, dám gánh vác điều gì. Nhớ năm xưa chúng ta chẳng phải đều là hồng vệ binh đảo khắp năm châu phong lôi khởi, lật tung bốn biển nước mây hờn, quét sạch mọi ngưu quỷ xà thần đó hay sao? Bạn cũng từng rằng tương lai muốn làm chiến sĩ văn công giải phóng có trí tuệ và viễn kiến trác việt, có tư duy lý luận sâu sắc cùng tinh thần chiến đấu quật cường cơ mà, bạn đừng có bắt chước cái cậu Hồ Bát Nhất suốt ngày kêu gào rằng thú vui thấp kém là có tội, đừng bao giờ quên, cái chết thuộc về giai cấp công nhân.”

      Đinh Tư Điềm nghe Tuyền béo thế cũng phải bật cười trong nước mắt, dụi dụi mấy giọt lệ nhòa mặt rồi gật đầu : “Đúng vậy, cái chết thuộc về giai cấp công nhân.” và lão Dương Bì, già trẻ được tôi và Tuyền béo khuyên giải, cuối cùng cũng nhận định được tình hình, đời này người có thể cứu vãn vận mệnh của mình, chỉ có chính mình mà thôi, oán trời đất căn bản chẳng có ý nghĩa gì hết. Giờ còn cách nào khác, muốn tìm bò về chỉ còn cách tự mình tiếp tục tìm, khóc lóc kêu gào ở đây cũng thể khiến lũ bò tự tìm đường về được.

      Thực ra, tôi vẫn còn suy nghĩ chưa ra với cả bọn. Hôm qua lão Dương Bì kể rằng mấy chục năm trước, em trai ông bị người ta ép phải dẫn đường đến động Bách Nhãn. Ông có đó là nhóm thổ phỉ ở vùng núi, còn khiêng theo cái rương rất lớn, từ lúc ấy tôi có cảm giác chuyện này hết sức ly kỳ rồi. Thời gian xảy ra việc này rất khớp với thời gian trong câu chuyện của thím Tư, chừng đó lại chính là bọn phỉ Nê Hội, mang các thứ đào được trong núi đến thảo nguyên. Động cơ tại sao chúng lại chọn thảo nguyên tôi đoán được, nhưng trong cái rương của Hoàng đại tiên kia mười phần có đến tám phần chính là vàng bạc châu báu rất có giá trị. Nếu tìm được đàn bò, vạn nhất lại tìm được vàng bạc, có lẽ cũng có thể giúp Đinh Tư Điềm và lão Dương Bì lấy công chuộc tội.

      nghe quá nhiều truyền thuyết về mạch vàng ở vùng Hưng An Lĩnh, nên ý tưởng động Bách Nhãn chính là kho giấu vàng của bọn thổ phỉ bám rễ trong đầu tôi, hình thành nên ấn tượng chủ quan, mọi suy đoán tưởng tượng về sau, tất cả đều dựa tiền đề này. Tôi phỏng đoán rằng những người bị mất tích kia, rất có khả năng đều bị lũ thổ phỉ canh giữ kho tàng giết người diệt khẩu cả, rồi cuối cùng bọn Nê Hội ấy xuất mâu thuẫn nội bộ, vì tranh đoạt vàng bạc và các báu vật trong mộ cổ, đánh nhau đến chết tiệt hết cả, chắc chắn là thế rồi. Thời ấy kiến thức tôi còn nông cạn, chuyện gì cũng nghĩ sâu xa, lại còn rất vừa lòng với suy đoán ấy, cảm thấy mười phần chắc đến tám chín là như thế.

      Ở mé bên cái dốc mọc đầy cỏ này là khe núi, men theo đường mòn xuống chính là nơi đồi đất nhấp nhô mà mọi người nơi đây đều hãi sợ - động Bách Nhãn, chúng tôi tạm thời vẫn chưa nản lòng, lại nhảy lên lưng ngựa xung quanh tiếp tục sục tìm dấu vết.

      Lúc này trời quá ngọ, chúng tôi cũng vừa mới lên lưng ngựa chưa được bao lâu, lũ ngựa bỗng đột nhiên tỏ ra cực kỳ bất an, ngừng kêu lên “Hí hí, hí hí”, bầu khí xung quanh phảng phất như tồn tại vật gì đó dị thường, mới khiến chúng nôn nao hoảng hốt như thế. Tôi lo con ngựa chồm lên hất văng mình xuống, liền vội vàng tay ghì chặt cương, tay kia nắm chặt lấy vòng sắt yên ngựa, nhưng ngựa chồm lên, mà chỉ đảo vòng vòng chỗ. Tôi liếc thấy ba con ngựa kia cũng hệt như thế, vội kêu lên gọi lão Dương Bì: “Ông ơi, bọn ngựa này bị sao thế?”

      Lão Dương Bì vội ghì cương ngựa, giữ chặt con ngựa kinh hoảng luống cuống lại, cho chúng tôi biết, lũ ngựa thảo nguyên này đều có linh tính, nhạy cảm hơn trực giác của con người nhiều lắm, nhất định là chúng cảm thấy gần đây có thứ gì đó rất đáng sợ, mà con người lại cảm thấy được. Con ngựa lão Dương Bì cưỡi là con ngựa trong quân giải ngũ, cao hơn ngựa Mông Cổ bình thường cái đầu. Con ngựa này tuy già, nhưng tố chất tâm lý ổn định hơn ngựa thường rất nhiều, có nó dẫn đầu, ba con ngựa khác nhất thời cũng chưa đến nỗi rối loạn cả lên.

      Tâm tình lũ ngựa dần ổn định trở lại, bọn tôi bèn thừa cơ đưa mắt nhìn khắp bốn bề, định quan sát thử xem thảo nguyên này rốt cuộc có gì lạ, chừng lại liên quan đến hơn trăm con bò bị mất tích cũng nên. Nhất thời dây thần kinh của bốn người đều căng ra như dây cung kéo đầy. Để phòng bị bầy sói thảo nguyên, lão Dương Bì còn mang theo khẩu súng săn kiểu cũ, ông già có cây bảo đao Khang Hy phòng thân, liền hỏi Tuyền béo: “Ê cậu béo, có biết bắn súng thế?”

      Tuyền béo bĩu môi khinh khỉnh : “Để ông trúng rồi đấy, hồi bé cháu đây cũng từng bắn thử vài phát thôi.” Sau đó cậu ta đón lấy khẩu súng săn trong tay lão Dương Bì xem thử, đoạn cười khổ : “Súng kiểu này cháu chưa bắn bao giờ, đây là súng săn ạ? Cháu thấy chắc chẳng mạnh hơn súng điểu[24] năm xưa của Nghĩa Hòa đoàn đánh quỷ Tây là mấy đâu.” Dân du mục cũng có súng săn loại mới, nhưng lão Dương Bì chỉ có mỗi cây súng kiểu cũ kỹ này, vì lũ lang sói thảo nguyên Khắc Luân Tả Kỳ cũng nhiều, thi thoảng mới nhìn thấy con ở tít đằng xa, bắn phát súng chẳng qua chỉ để dọa khiếp cho nó chạy . Nhưng loại súng đường kính nòng xíu này thực ra lại có lịch sử rất huy hoàng. Nó xuất đầu tiên là ở Thiên Tân, chuyên dùng để bắn vịt trời, cấu tạo giản tiện dễ sử dụng, năm đó quân Thái Bình Thiên Quốc phạt Bắc, đánh đến Thiên Tân, chỉ cần công hạ Thiên Tân, kinh thành của Đại Thanh thể giữ được, vào thời điểm sống còn ấy, tri huyện Thiên Tân Tạ Tử Tranh tập hợp dân săn vịt trời lại thành đội “hỏa thương”, sử dụng chiến thuật sắp hàng nổ súng phòng ngự, xưng là “quân Áp Bài”, cuối cùng chính nhờ vào đạo quân này mà đẩy lui được quân Thái Bình. Vì lẽ ấy, vào cuối thời Thanh, đầu Dân Quốc, dân gian phỏng theo kiểu súng này mà chế tạo lượng lớn, đến thời Hồng quân trường chinh cũng vẫn còn người sử dụng. Nhưng dù lợi hại đến mấy nó cũng là vũ khí từ hơn nửa thế kỷ trước rồi giờ lẽ ra phải thành đồ cổ, mang vào bày trong viện bảo tàng mới đúng.

      Nhưng giờ chẳng còn thời gian đâu mà tranh luận xem khẩu súng săn này có khả năng sát thương hay , có khí giới phòng thân dù sao cũng hơn hai tay , bốn người chúng tôi cố gắng sát vào nhau, trải tầm mắt ra theo hình nan quạt quan sát thảo nguyên. Bốn con ngựa vẫn khẽ hí lên “hi hí hi hí”, tôi tập trung tinh thần nhìn về phía trước, tầm nhìn thảo nguyên rất rộng, trời mênh mang, thảm cỏ trải dài tít tắp, mọi thứ đều thu trọn vào tầm mắt, nhưng ngoài những cơn gió phất qua bụi cỏ, xung quanh còn gì khác, cũng phát giác ra bất cứ động tĩnh nào dị thường.

      Càng yên tĩnh lại càng chắc chắn, cả bò lớn đột nhiên biến mất thảo nguyên, hơn nữa còn biến mất cách hoàn toàn triệt để như vậy, tôi lờ mờ cảm thấy dường như có thứ sức mạnh thần bí, tuyệt đối phải thứ sức người có thể đối kháng lại được lẩn khuất đâu đây. Nhìn lũ ngựa bất an như vậy, có lẽ luồng sức mạnh đáng sợ mà thần bí đó tiếp cận chúng tôi, nhưng chúng tôi thậm chí còn biết nó ở hướng nào, phương nào nữa. Tôi ngừng tự hỏi mình nên làm thế nào? Đánh hay chạy? Nghĩ nghĩ lại, trước mắt chỉ còn mỗi cách lấy tịnh chế động thôi vậy.

      Trăm ngàn dòng suy nghĩ cuồn cuộn trong tâm trí đột nhiên bị tiếng nhạn kêu bi thiết trung làm ngắt đoạn, tôi nghe thấy tiếng nhạn kêu, liền bất giác cùng ba người còn lại ngẩng đầu nhìn lên. Chỉ thấy đàn nhạn bay thành hình chữ “V” lướt qua phía đầu, mùa thu nhạn kết thành bầy di trú là cảnh hết sức thường gặp thảo nguyên, chúng tôi vốn cũng để ý lắm, nhưng phía trước tuyến đường bay của bầy nhạn này vừa khéo lại có quầng mây đen u ám. Đám mây này dày lạ thường, trông khá giống đám mây hình nấm hình thành khi nổ bom nguyên tử, có điều kích cỡ hơn nhiều, màu sắc cũng khác, rất hay gặp thảo nguyên, nhìn kỹ cũng dễ gì để ý thấy. Đám mây buông rủ từ bầu cao vút xuống, loại mây này gọi là “móc trời”, những mục dân có kinh nghiệm trông thấy nó, liền biết ngay là sắp có mưa tuyết đổ xuống.

      Lúc chúng tôi ngẩng mặt lên nhìn, bầy nhạn vừa khéo cắt qua đám mây ấy, vì hình chữ “V” đó rất dài, nên ngoài rìa vẫn còn mấy con nhạn lớn chưa đến gần với đám mây. Cùng với tiếng nhạn kêu bi thảm vang lên trong mây, mấy con nhạn cuối cùng vội vàng tản ra bay ngược về phía sau bỏ chạy, chúng tôi thấy tình cảnh ấy, liền lập tức giật thót mình. “Mẹ ơi, trong mây có thứ gì đó!” Lão Dương Bì ôm đầu kinh hãi hét lên, “Trường Sinh Thiên ơi, con long ấy núp ở trong đám mây!”

      cao dường như có cơn gió mạnh thổi qua đám mây dày đặc trong chốc lát rách te tua, trời xanh ánh hồng hết sức rệt, trong đám mây ấy là vùng trống , chẳng có gì hết. Lũ nhạn bay tán loạn bỏ trốn vẫn ở đằng xa kêu lên ai oán, những con vừa bay vào quầng mây khi nãy đều tựa như bốc hơi trong mây, chẳng còn dù chỉ cọng lông.

      Bọn tôi trợn tròn mắt há hốc miệng, nếu phải tận mắt chứng kiến, liệu có ai tin nổi tình cảnh đáng sợ vừa xảy ra chứ? Lúc này, ánh dương cao dường như tối sầm lại trong sát na, nhưng trong mắt chúng tôi, cao vẫn là trời xanh mây trắng, có bất cứ thứ gì nên có, nhưng ngay sau đó, lũ ngựa lại trở nên kinh hoảng. Chúng tôi muốn ghìm chúng lại, đều kéo mạnh cương về phía sau, bọn ngựa biết chủ nhân phát lệnh tung vó bỏ chạy, chỉ đành bồn chồn quanh quẩn tại chỗ, nhưng có ghìm cương thế nào chúng cũng chịu dừng lại.

      lúc biết tiến thoái thế nào, tôi đột nhiên có cảm giác màng nhĩ căng phồng, trong lòng lập tức biết ngay có chuyện chẳng lành, thứ ở trời kia xông tới chỗ chúng tôi rồi. Lão Dương Bì cũng lập tức phản ứng, vung roi ngựa lên, quất chập vào mông mấy con ngựa, cả bọn đều biết chạy là xong, liền vội vàng thúc ngựa: “Chạy mau, chạy mau!”

      Bốn con ngựa cuối cùng cũng được giải thoát, mang theo chúng tôi xông ra phía sau con dốc. Cưỡi ngựa sợ nhất là xuống dốc, rất dễ bị trượt chân trước, nhưng lúc này chẳng ai nghĩ ngợi đến những việc ấy nữa, cần người thúc giục, lũ ngựa con nào con nấy đều ra sức chạy thục mạng, bên tai chỉ nghe tiếng gió thổi vù vù vù vù.

      Bọn ngựa chỉ chọn chỗ địa thế thấp trũng mà chạy, bốn vó tung bay giữa những đồi cỏ nhấp nhô chập chùng. Chúng tôi đều biết cảm giác của loài ngựa đối với nguy hiểm nhạy bén hơn con người nhiều, cần phải hỏi lý do, cứ thế rạp người yên cương, để mặc cho chúng đưa mình chạy trốn là được. Dù cuống cuồng bỏ trốn, tôi cũng quên ngoảnh đầu lại nhìn phía sau, chỉ thấy từng trận gió thu khiến thảo nguyên cuộn lên tầng tầng lớp lớp sóng cỏ, trời cao mây thoáng, sau lưng chúng tôi căn bản chẳng có thứ gì.

      Chạy mạch khoảng chừng hai ba dặm đường, bốn con ngựa bấy giờ mới thả bước chầm chậm lại, đồng thời cũng dần bình tĩnh lại khỏi cơn kinh hoảng, xem ra thoát hiểm rồi. Chúng tôi ghìm cương cho ngựa dừng lại, ngoảnh đầu nhìn xung quanh, ai được vừa nãy rốt cuộc gặp phải thứ gì? Nhưng lũ bò mất tích có lẽ giống như bầy nhạn hoang bay vào đám mây vừa nãy, bị thứ vô hình vô ảnh nào đó nuốt mất rồi.

      Tôi hỏi lão Dương Bì xem lần trước ông bảo từng gặp rồng thảo nguyên mấy chục năm trước, biết tình cảnh có giống vừa nãy hay ? Nét mặt lão Dương Bì hoang mang ngỡ ngàng, bảo rằng tình hình lần trước hoàn toàn phải thế này. Lần ấy buổi hoàng hôn, nhìn thấy bầu con ác long hung dữ khủng khiếp, toàn thân đen kịt, cơ hồ như bóng ma đáng sợ vô ngần, chứ phải giữa thanh thiên bạch nhật bao nhiêu sinh linh bảo biến mất là biến mất luôn như vừa nãy, chuyện này đúng là hết sức kỳ quái.

      Mấy người đều nhao nhao bàn luận vài câu, song đều vô kế khả thi, chẳng ai ra được nguyên do hợp lẽ. Bố mẹ Đinh Tư Điềm đều là cán bộ quản lý trong viện bảo tàng, từ được tiếp xúc rất nhiều, trong mấy người chúng tôi là người có kiến thức rộng nhất, nhưng đến cả cũng chưa từng nghe đến tượng này bao giờ. chỉ rằng, những tượng tự nhiên khủng khiếp đáng sợ thế giới này rất nhiều, nhân loại chẳng qua chỉ nhìn thế giới qua con mắt của vật bé, làm sao có thể hiểu được hết những điều thâm ảo kỳ bí bên trong. Nhưng bất luận là dùng nhãn quang của chủ nghĩa duy vật hay chủ nghĩa duy tâm, hoặc chủ nghĩa phê phán để nhìn tượng này, lũ bò kia của chúng tôi, quá nửa là vĩnh viễn thể nào tìm về lại được nữa rồi.

      Đinh Tư Điềm cảm thán trước vận mệnh trớ trêu, tôi đột nhiên phát khe núi chỗ xa lắm cỏ hoang tiêu điều, tựa hồ như chốn ra vào của loài hồn dã quỷ, thầm nhủ lúc nãy chỉ lo bỏ chạy tháo mạng, hiểu chạy đến đâu đây? Tôi vội vàng nhắc lão Dương Bì quan sát lại địa hình, xem rốt cuộc đây là đâu? Lão Dương Bì định thần lại, xoay đầu ngựa đảo vòng xung quanh, thần sắc lập tức trở nên căng thẳng, ông già ngước nhìn về phía khe núi kia thở dài , chắc chắn là đời trước tạo nghiệt rồi, sao chúng ta chạy đâu chạy, lại xông thẳng vào động Bách Nhãn thế này?


      Chú thích
      [24] loại súng trường.

    5. Skye

      Skye Well-Known Member

      Bài viết:
      698
      Được thích:
      5,624
      Con du diên[25]

      [​IMG]
      ầu trời thảo nguyên phảng phất như tồn tại bóng u linh vô hình vô ảnh, tuy bằng mắt thường chúng tôi thể nhận ra nó, nhưng lũ chim nhạn và đàn bò bị bầu trời nuốt mất, cùng với mấy con ngựa kinh hoảng bất an, đều biểu thị rằng, ở đâu đó quanh đây, thực vật đáng sợ mà con người thể nhận biết. Trong tình trạng chưa ràng chân tướng này, chúng tôi bị buộc phải lựa chọn cách né tránh.

      Mới đầu cũng ai chú ý đến, con ngựa già từng phục vụ trong quân đội mà lão Dương Bì cưỡi lại dẫn chúng tôi chạy vào khu vực động Bách Nhãn được coi là ác mộng của dân du mục thảo nguyên này. Vùng đồi núi được gọi là động Bách Nhãn này, nằm ở nơi giáp ranh giữa thảo nguyên và hoang mạc, phía Đông là biển cỏ mênh mang, thêm về phía Tây là sa mạc Mông Cổ trải dài vô tận, ở giữa bị vùng đồi núi trập trùng ngăn cách, hình thành nên dải thực vật hoang mạc hóa thảo nguyên điển hình.

      Khe núi trước mắt chúng tôi cỏ dại mọc um tùm, cây cối đan xen, nếu nhìn từ cao xuống, nơi này có lẽ trông giống như cái hố bẫy khổng lồ màu xanh đen vậy. Lúc bấy giờ thời tiết tuy nắng ráo, nhưng vì địa thế thấp trũng, gió thổi vào được, chỉ thấy giữa đám cỏ mọc cao ngang thắt lưng vấn vít màn sương mờ mịt, bên trong còn thoảng bốc lên mùi xú uế. Lão Dương Bì chỉ vào sâu trong khe núi, với chúng tôi, vị trí chính xác của động Bách Nhãn thực tế là ở trong rừng cây bụi dưới khe núi, năm đó người em của ông chính là bị lũ thổ phỉ ép phải bước lên con đường có lối về này.

      Tôi hỏi lão Dương Bì xem mấy chục năm trước ông tận mắt trông thấy con long đó ở đâu? Có phải bầu của khe núi này? Lão Dương Bì , lúc đó thấy có nhiều sương mù thế này, trong khe núi là khu rừng rậm, nhưng giờ hiểu vì sao lại có khói sương bốc lên mờ mịt như vậy, sâu bên trong đám cỏ cây ấy, sương mù dày đặc đến độ cơ hồ thể tan hết được, chỗ lần trước ông lão trông thấy rồng bị sương mù phủ kín mất cả rồi.

      Chúng tôi ngồi lưng ngựa căng mắt nhìn về phía khu rừng, chỉ thấy càng vào sâu bên trong sương mù càng dày đặc hơn. Trong tình hình ấy, nếu trong ấy thực có che giấu điều gì đó, mò vào sát bên căn bản thể nào thấy được. Lão Dương Bì thúc giục chúng tôi, nhân lúc còn có thể được mau chóng rời khỏi đây, dừng lại chỗ quái quỷ này lâu quá, nếu xảy ra chuyện gì ngoài mong đợi, sợ rằng có muốn cũng kịp nữa mất. Tình hình này chắc là tìm được đàn bò rồi, trở về muốn đánh muốn phạt gì cũng đành nhận vậy thôi, dù sao cũng còn đỡ hơn là ở lại đây mà mất nốt cả tính mạng.

      Tuy tôi và Tuyền béo đều kìm nổi ý nghĩ muốn vào rừng xem rốt cuộc có thứ gì, nhưng nghĩ đến an toàn của Đinh Tư Điềm và lão Dương Bì, đành phải gạt ý đồ ấy sang bên, lập tức quay đầu ngựa rời khỏi nơi này. Lão Dương Bì lại càng muốn ở lại đây thêm giây phút nào nữa, ông tính chọn đường tắt qua đồi cỏ, ngờ dưới chân dốc lại có rất nhiều hang chuột, bình thường cửa hang đều bị cỏ hoang phủ kín, thể nhìn ra được. Điều dân du mục sợ nhất, chính là chân ngựa bị lọt xuống hang chuột, như vậy rất dễ khiến con ngựa bị gãy chân.

      Con ngựa màu mận mà Đinh Tư Điềm cưỡi vừa khéo lại giẫm đúng vào cái hang chuột như thế, cửa hang toàn là đất cát và rễ cỏ, thể trọng của bản thân con ngựa rồi, lại xuống dốc, vừa giẫm lên hang chuột chân ngựa liền thụt ngay xuống đó. Con ngựa lập tức ngả sang bên, chỉ nghe tiếng hí thảm thiết, xương chân trước của nó gãy lìa ra rồi.

      Cũng may là Đinh Tư Điềm người, bị con ngựa mất trọng tâm hất cú, chỉ lăn mấy vòng bụi cỏ chứ bị thương. Mặc dù vậy, cũng tái hết cả mặt vì kinh hãi, thân hình bé như , nếu chẳng may bị con ngựa ngã đè lên người ít nhất cũng bị thương nặng chứ chẳng chơi.

      Chúng tôi thấy bạn mình ngã ngựa đều kinh hãi vô cùng, lập tức ghìm cương dừng bước, biết Đinh Tư Điềm chỉ ngã lấm lem mặt mũi mới yên tâm phần nào. Tôi vừa định tung mình xuống ngựa, lại liếc thấy trong cái hang chuột vừa bị con ngựa màu mận giẫm sụt đó, có con chuột xám trắng chạy vọt ra. Cặp mắt cái đầu hình tam giác của con chuột hoang lánh lên những tia nhìn sợ hãi, chắc là nó nhắm mắt ngủ khi trong hang, bỗng nhiên bị vó ngựa giẫm xuống làm cho kinh hoảng, lúc chạy ra cũng hoàn toàn chẳng để ý phương hướng gì, “vù” tiếng lướt qua bên người Đinh Tư Điềm.

      Đinh Tư Điềm ngã từ lưng ngựa xuống, vẫn chưa hết hoảng hồn, bỗng nhiên lại thấy con chuột to tướng lông lá chạy vọt qua trước mắt, con chuột ấy to đùng ngã ngửa, phải gần bằng con mèo con rồi, mà lại gần sát sàn sạt, cơ hồ như lông chuột cọ cả lên má, làm sợ quá hét lên tiếng, vội vàng rụt đầu né tránh.

      Theo những gì tôi biết về , Đinh Tư Điềm nhát gan, trong đám nữ thanh niên trí thức, có thể coi như là nhân vật xuất sắc nổi bật được rồi. Nhưng vừa nãy việc xảy ra quá bất ngờ, tiếng thét của cũng coi như là xuất sắc lắm, cả con chuột hoang to đùng kia cũng sợ thót cả mình, toàn thân co rúm lại nhảy bật tung cú lên cao. Con chuột còn chưa kịp rơi xuống, đám cỏ sau lưng Đinh Tư Điềm bỗng lao xao chập, từ bên trong thò ra con “du diên đốm đen” dài đến mức chỉ thấy đầu thấy đuôi, con du diên ấy hình dáng như con rết lớn, toàn thân màu vàng sậm ánh lên sắc xanh lục, chắc tại sống lâu quá nên khắp người toàn là những đốm đen lấm chấm những móc câu ở mép vô cùng sắc bén, phát đớp trúng ngay con chuột , lỗ móc câu tức bơm chất độc vào trong cơ thể con mồi. Con chuột kia thậm chí còn kịp giãy giụa mất mạng rồi.

      Con du diên này có lẽ bình thường đều nấp trong lùm cỏ rình mồi, Đinh Tư Điềm ngã ngựa lăn xuống ngay bên cạnh, nó định chui ra cắn người, con chuột đen đủi kia lao ngay lên trước, thành thử lại cứu được mạng cho Đinh Tư Điềm, bằng con du diên kia lẳng lặng mà tợp cho cú rồi. Tất cả việc ấy chỉ diễn ra trong nháy mắt, đến bấy giờ tôi, Tuyền béo và lão Dương Bì mới kịp phản ứng, thoạt đầu nhìn con quái vật ấy có nhiều chân thế, còn ngỡ là con rết lớn, nhưng nhìn kỹ lại, thấy nó ít chân hơn rết nhiều, chỉ có khoảng chục cặp chân là cùng, nhưng độ dài của chân kinh người, còn dài hơn cả chiều ngang cơ thể nó nữa. Đặc biệt là cặp chân cuối cùng, dài khủng khiếp, bấy giờ chúng tôi mới biết đấy là con du diên, vội đồng thanh hét lên thúc ngựa phóng tới cứu Đinh Tư Điềm.

      Con du diên hơi nuốt chửng luôn con chuột kia rồi. Con chuột ấy tuy to, nhưng đâu thể nào nhét đầy được cái dạ dày nó, hai cái râu rung rung lên, nó lại xoay đầu sang phía Đinh Tư Điềm chực cắn. Song Đinh Tư Điềm dẫu sao cũng từng làm Hồng vệ binh, cũng từng trải mấy năm khắp đất nước rèn luyện, lúc này đối mặt với nguy cơ, tuy rằng trong lòng hết sức hoảng loạn, song tay chân vẫn hoạt động được. thấy con du diên há miệng giương càng lên chuẩn bị đớp mình, vội vàng chống tay xuống đất, lăn người ra ngoài né tránh.

      Lúc này ba người chúng tôi kịp bổ tới tiếp ứng, con du diên bò hẳn ra khỏi lùm cỏ, toàn thân nó dài khoảng hơn mét, nanh vuốt khua loạn lên. Nó cậy mình có chất độc, nên bò rất nhanh, đối mặt với người ngựa mà hề sợ hãi, dán sát vào mặt cỏ phát ra những tiếng “soạt soạt soạt soạt...”, rồi lại nhao về phía Đinh Tư Điềm lần nữa.

      Tuyền béo ngồi lưng ngựa giương súng định bắn, nhưng đúng vào giờ phút quan trọng này cái thứ vũ khí già rụng răng đó lại tịt ngòi, súng nổ, nhưng ngựa vọt qua mất, mang theo đám bụi vàng vọt xuống dưới dốc, Tuyền béo lúc ấy mới kịp ghìm cương ngựa lại. Tôi thấy con du diên kia hành động quá nhanh, bò vun vút mặt cỏ, bèn nghĩ để ngựa giẫm chết nó mới là thượng sách, vậy là liền giục ngựa phóng lên, rồi bất ngờ giật mạnh dây cương, ý đồ để móng ngựa chồm lên giẫm cho con du diên ấy nát bét bẹt ra.

      Nhưng tôi quá nôn nóng cứu người mà quên mất mình dốc, con ngựa đương đà lao xuống bỗng dưng cất cả hai chân trước lên, hai chân sau tức mất trọng tâm, lúc vó ngựa đập xuống thể giẫm trúng con du diên như mong muốn của tôi, mà ngược lại còn loạng choạng phóng thẳng xuống dốc. Tôi kịp ghìm lại, vậy là cả nguời lẫn ngựa liền thuận đà cứ thế lao tiếp.

      Tôi ngoảnh đầu lại nhìn, chỉ thấy lão Dương Bì kinh nghiệm dạn dày thúc ngựa chạy nhanh dốc, ông già biết dốc rất có thể còn những hang chuột khác, mà ở địa hình này, đòn trúng là cứu được Đinh Tư Điềm, muốn giật ngựa quay lại cũng quá muộn. Vì vậy, ông chậm hơn tôi và Tuyền béo nửa bước, rút cây bảo đao Khang Hy ra khỏi vỏ, vầng tịch dương đỏ ối như lửa hắt lên ánh hào quang lưỡi đao sắc bén.

      chậm, lúc ấy việc diễn ra rất nhanh, mắt thấy con du diên sắp bổ nhào lên người Đinh Tư Điềm đến nơi, chỉ thấy thanh đao trong tay lão Dương Bì lóe lên cái, lưỡi đao chém vào đôi chân con quái vật. Loài du diên này có loại thân có đốm hoa lớn, con nào sống lâu, vỏ ngoài dần trở nên cứng rắn, chỉ có những cặp chân xíu ăn nhập gì với thân thể kia là hay gãy lìa ra, nhưng gãy rồi lại có thể mọc lại được. đao của lão Dương Bì chặt xuống, liền cắt xoạt luôn ba cái chân dài của con du diên đại tướng.

      Con du diên đau đớn lăn lộn mấy vòng đám cỏ, cuối cùng cũng cắn được Đinh Tư Điềm, nhưng ngay sau đó nó cuộn người, lướt như con gió trong lùm cỏ, rồi lao vọt lên , nhằm thẳng về phía lão Dương Bì. Ông già thấy đao vừa nãy chặt được con quái nay ra làm hai đoạn, đối phương ngược lại còn ngóc đầu bật lại cũng lấy làm kinh hãi. Cũng may, tuy ông tuổi tác cao, nhưng cuộc sống du mục quanh năm khiến thân thể ông vẫn còn rất linh hoạt, vội vàng cúi rạp người sát lưng ngựa né tránh. Con du diên mang theo trận gió tanh tưởi lướt vù qua lưng.

      Loài du diên này tập tính rất đặc biệt, ban ngày bao giờ gặp, đến sau buổi hoàng hôn mới bò ra, ngửi thấy mùi tanh là liền nhao tới. thảo nguyên, thứ du diên có đốm hoa màu đen là độc tính mạnh nhất, cắn chết trâu bò dê ngựa cũng là chuyện thường. Chỉ thấy con du diên kia cắn trượt lão Dương Bì, rơi ra phía sau lưng ông, nhưng cũng quay lại mà tiện đà bò thẳng lên người con ngựa màu mận vừa ngã gãy chân kia. Con ngựa cọ quậy gì được, thấy con du diên to tướng bò lên người mình, cũng biết nếu để nó cắn phải phen này chết chắc, định lật người dùng trọng lượng cơ thể đè chết con trùng độc, nhưng chưa kịp hành động bị quai hàm của đối phương găm vào cơ thể, chỉ trong khoảnh khắc, hai mắt xanh lè, chết cứng đờ ra bãi cỏ.

      Du diên tuy có chất độc giết được bò ngựa, nhưng vì da bò da ngựa quá dày nên bình thường chúng chỉ ăn các loài thú , có những con du diên lớn đôi khi cũng ăn cả người. Dân du mục coi ngựa như mạng, lão Dương Bì thấy con ngựa màu mận ấy chết, đương nhiên vô cùng bi phẫn, chỉ thương cho con ngựa, mà chủ yếu là lo lắng lần này để chết khá nhiều cả bò lẫn ngựa, lúc về biết ăn với lãnh đạo tiểu khu thế nào. Nhưng liền ngay sau đó, ông lại phát thấy con du diên to tướng màu xanh vàng lốm đốm đen cắn chết người xong lại tiếp tục bổ về phía Đinh Tư Điềm.

      Trong lúc khẩn bách ấy, ông già cũng chẳng kịp đau buồn cho con ngựa nữa, vội vàng đưa tay cho Đinh Tư Điềm, kéo lên ngựa, hai người cùng cưỡi con ngựa già. Hai chân lão Dương Bì giậm mạnh xuống bàn đạp, con ngựa liền lập tức chở hai người nhảy chồm xuống dốc.

      Tôi và Tuyền béo vừa quay đầu ngựa, chuẩn bị quành ngược về, bỗng thấy lão Dương Bì và Đinh Tư Điềm chạy đến bên cạnh mình, lùm cỏ sau lưng vang lên những tiếng loạt sà loạt soạt, con du diên dài hơn mét kia đuổi sát phía sau. Tôi thấy con du diên có vẻ rất hung mãnh, trong chớp mắt độc chết cả con ngựa Mông Cổ, cũng dám đánh liều phóng ngựa lên giẫm chết nó nữa, vội đánh tay ra hiệu, cùng Tuyền béo quay đầu ngựa. Cả bọn thúc ngựa phóng vào rừng, tính lợi dụng tốc độ để cắt đuôi con du diên theo sát chịu buông tha kia.

      Nhưng vừa vào rừng là tôi lập tức thấy hối hận, càng vào sâu trong khe núi cây cối càng rậm rạp um tùm, phóng ngựa thảo nguyên rộng rãi thoáng đãng, có chướng ngại vật đúng là chuyện rất thích thú, nhưng cưỡi ngựa ở chỗ có cây là hoa hết cả mắt. Ngựa vù vù giữa các tán cây, mắt thấy vô số cây cối hình thù quái dị lướt qua bên cạnh như bay, cảm giác như bất cứ lúc nào cũng có thể va chạm với các thân cây vậy.

      Chạy chưa được bao xa, quần áo người tôi bị cành cây móc rách mất mấy miếng, cái mũ da chó cũng chẳng hiểu rơi ở đâu mất rồi. Đằng trước cây cối mọc lan tràn nghiêng ngả, che kín cả ánh mặt trời, cứ chạy thế này nữa sợ rằng bọn tôi lạc nhau mới là lạ. Tôi vội vàng ghìm chặt cương ngựa, nhưng chỉ những con ngựa được huấn luyện rồi mới có thể bảo dừng là dừng ngay, con ngựa này của tôi cũng nghe lời lắm, chẳng những dừng mà ngược lại còn lao nhanh hơn, chèn cho Tuyền béo cưỡi ngựa chạy bên cạnh chệch cả đường.

      Con ngựa của Tuyền béo lao về phía gốc cây, thân cây này có cành lớn mọc chìa ra rất thấp, vừa khéo chắn ngay phía trước mặt cậu ta. Tuyền béo thấy vậy, vội giở ra chiêu náu mình bên lưng ngựa, chiêu này cậu ta từng thấy dân du mục thảo nguyên biểu diễn, nhưng chưa thực hành bao giờ. Cậu ta rút chân khỏi bàn đạp, thân thể vụng về nghiêng nghiêng lưng ngựa, cuộn lại ngả xuống bên hông ngựa, tuy rằng trông rất khó coi, nhưng vừa khéo cũng tránh được cành cây mọc chìa ra ấy.

      Tuyền béo lấy làm đắc ý với biểu của mình, chỉ sợ những người khác thấy mình giở chiêu này, vội kêu lớn cho cả mấy chúng tôi chú ý sang phía ấy. Nhưng chiêu náu mình lưng ngựa này của cậu ta mới chỉ được đến mức vẽ hổ thành chó, mà lại còn chỉ vẽ được có nửa, Tuyền béo ục à ục ịch, muốn lật người trở lại liền gặp khó khăn. Lúc này con ngựa của cậu ta sắp sửa chạy vào giữa hai thân cây, thân ngựa phóng qua giữa hai cây ấy vấn đề gì, nhưng bên cạnh lại cộng thêm Tuyền béo chắc chắn là thể qua nổi. Tuyền béo thấy mình sắp đập vào thân cây, muốn tránh cũng kịp, lại thể khiến con ngựa dừng lại, bèn dứt khoát nhắm tịt mắt thả mình rơi xuống đất, lăn vào đám cỏ dại. Còn con ngựa chẳng thèm quay đầu, chạy mạch vào trong rừng.

      Tôi mải xem Tuyền béo làm trò, cũng bị cành cây to tướng thúc cho cú bay khỏi lưng ngựa, may mà quần áo mặc người cũng dày dặn, xương sườn mới gãy, với lại hai tay tôi cũng kịp ôm lấy cành cây treo mình lơ lửng . Con ngựa bên dưới cũng nổi cơn chạy mạch, lao vút vào màn sương mù dày đặc trong rừng sâu trong chốc lát biến mất tăm mất tích, chỉ để lại tràng những tiếng vó ngựa gõ lên mặt đất.

      Tôi ôm chặt cành cây đeo lơ lửng giữa trung, tới trời, dưới chạm đất, mạng sườn vẫn còn ngâm ngẩm đau, vừa định buông tay rơi xuống bỗng nghe thấy trong lùm cỏ dưới chân vang lên mấy tiếng “xoạt xoạt xoạt”. Con du diên to tướng bị lão Dương Bì chặt mất ba cái chân kia chui ra, nhe nanh múa vuốt ngẩng cao đầu, nhảy bật lên nhằm vào chân tôi mà đớp. Tôi thấy tình thế bất ổn, vội vàng vận lực vào hông, lật người bò lên cành cây.

      Lão Dương Bì thạo thuật cưỡi ngựa, tuy ông và Đinh Tư Điềm hai người ngựa, mà đấy lại còn là con ngựa giải ngũ, nhưng chạy trong rừng vẫn nhanh hơn hai bọn tôi nhiều lắm. Sau khi vào rừng, hai người bọn họ bỏ lại tôi và Tuyền béo quãng xa, Đinh Tư Điềm ngoảnh lại thấy tôi và Tuyền béo đều văng ra khỏi ngựa, liền lập tức thông báo với lão Dương Bì. Họ thúc ngựa quay lại, vừa kịp lúc trông thấy tôi né tránh đòn tấn công của con du diên.

      Con du diên di chuyển giữa gốc cây ngọn cỏ nhanh như điện chớp, đợi con ngựa lão Dương Bì tiến lên, nó vòng ra phía sau lưng họ, dựng đứng người lên nhe hai cái càng nhọn hoắt cắm vào mông con ngựa già. Tôi nằm bò cành cây nhìn thấy mồn , vội kêu lên kinh hãi, thầm nhủ tiếc thay cho con ngựa già rất hiểu ý người ấy, cuối cùng ngờ lại chết thảm vì chất độc của con du diên gớm ghiếc.


      Chú thích
      [25]Động vật có đốt, giống con rết, màu nâu đỏ.

    6. ^^! Nếu bạn không gửi link bài viết trên Facebook được, hãy sử dụng link trong khung này để chia sẻ bài viết :