Chương 41 BAN NHẠC BREMEN Tháp táng trong lăng tẩm của Ma quốc xưa nay đều dựa theo quy mô mà bố trí hay rãnh tuẫn táng, như hình lưỡng long hí châu vậy, trong rãnh có rất nhiều xương thú làm vật tuẫn táng, cho nên người dân vùng Kelamer gọi là Tàng cốt câu. ngờ chúng tôi tới sông băng Long đỉnh thông qua Tàng cốt câu, cuối cùng khi bò ra khỏi mặt đất, lại ở trong Tàng cốt câu khác. Có điều nơi đây ấm áp, tài nguyên phong phú, thảm thực vật rậm rạp, rất hiếm thấy ở vùng núi Kelamer này. Ánh sao lung linh giăng đầy trời, địa hình trong sơn cốc nhấp nhô lồi lõm, sâu trong rừng tùng bách mọc dày, che khuất ánh sao, dưới màn đêm tĩnh mịch, khó trong vùng sơn dã trở nên trong trẻo lạnh mướt đến lạ, chỉ cái hít thở, khí lạnh mát vào tận phổi. Tôi hít thở hai hơi sâu, lúc ấy mới cảm nhận được niềm vui sướng sau khi thoát chết, mấy người còn lại cũng đều phấn khởi vô cùng, bao tâm l căng thẳng, lo âu, khủng hoảng khi chờ đợi cái chết đến gần giờ đây đều tan biến sạch. Nhưng lại có câu thất thường như thời tiết, chẳng ai ngờ, đỉnh sơn cốc chợt có đám mây đen thổi qua, tụ lại chỗ với dòng lưu khí bốc lên, trong nháy mắt mưa lớn liền ập xuống. Vùng núi Côn Luân này, môi ngọn núi đều có bốn mùa, cách mười dặm là trời đất khác biệt, đỉnh núi có tuyết rơi, có khi dưới chân núi mưa đổ, trong khi sườn núi có thể mưa đá, bão giật cùng lúc ấy. Chúng tôi thậm chí còn chưa kịp oán trách ông trời, bị mưa trút ướt sũng. Tôi vuốt nước mưa mặt, quan sát địa hình xung quanh. Sơn cốc này tĩnh mịch thâm u, bao năm nay chẳng có người vãng lai, quá nửa di tích cổ xưa chẳng còn tồn tại, nhưng các đồi đá, khe đá hình thành trong thời kỳ núi lửa hoạt động mạnh mẽ từ xa xưa, sau bao năm ròng rã hứng chịu mưa gió xâm thực, nay vẫn trơ trơ còn đó. Cách chúng tôi xa có cửa hang ăn chênh chếch vào trong vách đá, phía lồi, phía dưới lõm, đúng là chỗ tránh mưa qua đêm lý tưởng. Tôi hô mọi người mau chóng nấp vào hang đó tránh mưa. Vì ngại trong sơn động có thể có thú hoang, Tuyền béo vác súng trường chạy tới trước do thám. Minh Thúc và A Hương cũng lấy tay che đầu, chạy theo phía sau. Tôi để ý thấy Shirley Dương hề sốt sắng, mặc cho nước mưa rơi người, vẫn bước thong thả, dường như hưởng thụ, bèn hỏi nàng nghĩ gì mà chậm rãi thế, sợ ngấm mưa à. Shirley Dương bảo rằng chui trong hang cả ngày trời, khắp người toàn là bùn đất bẩn thỉu, tiếc là giờ có gương, chứ nếu mọi người tự soi mình, chắc chẳng nhận ra nổi bản thân nữa ấy chứ, thà cứ để nước mưa xối vào người lát, chốc nữa vào trong động đốt lửa lên ngay, lo cảm lạnh đâu. Nghe vậy, tôi mới nhận thấy đúng là năm con người chui ra khỏi lòng đất, khắp mình mẩy đều bẩn thỉu, người ra người, ngợm ra ngợm, quả thực giống như lô đồ cổ. Có điều nơi đây tuy khí hậu ấm áp hơn, nếu ngấm mưa lâu vẫn rất dễ bị cảm lạnh, nên tôi vẫn bảo mau vào sơn động tránh mưa cái , đừng đắc ý vì vừa thoát chết, cũng đừng vì sạch nhất thời, ngộ nhỡ lát nữa sướng quá hóa rồ, nhiễm lạnh mà rồi sinh bệnh ra chẳng hay hớm chút nào. Tôi dắt Shirley Dương phía sau ba người còn lại, vừa vào trong động ngửi thấy mùi lưu huỳnh thoang thoảng. Trong động có vài hố màu trắng, xem ra nơi đây trước kia từng có địa nhiệt, tuôn ra mấy suối nước nóng, giờ cạn khô cả rồi, tuy mùi được dễ chịu cho lắm, nhưng cũng lo có thú hoang xuất . Trong sơn cốc có rất nhiều cành lá khô, tôi và Tuyền béo ra cửa hang, chỗ bị mưa ươt, nhặt vừa đống ôm về, chất ở trong hang đốt lửa, lôi mấy con địa quan béo còn thừa ra nướng. Thịt địa quan giống như thịt chuột đồng, có mỡ có nạc có ba chỉ, nướng ăn rất hợp, chưa được bao lâu, sắc thịt chín vàng, mỡ rỏ xuống kêu tanh tách. có gia vị gì khác, cho nên khi ăn vẫn có mùi tanh của đất, nhưng quen rồi lại cảm thấy thơm ngon vô cùng. Lửa mỗi lúc cháy to, ai nấy đều thấy ấm áp, thần kinh căng thẳng lúc nãy mới hoàn toàn được thả lỏng, bao nhiêu mệt mỏi đau rã tích lại từ mấy ngày trước đều xả hết ra, khắp cơ thể từ trong ra ngoài đều cảm thấy rệu rã vô cùng. Tôi gặm nửa cái đùi địa quan , còn chưa nhai hết đống thịt trong mồm, súyt nữa ngủ gật. Tôi ngáp hơi, định nằm xuống ngủ, chợt phát ra Shirley Dương ngồi đối diện nhìn, như có lời muốn . "Sang Mỹ với tôi nhé?" Shirley Dương đề nghị. Việc này Shirley Dương nhiều lần, từ đầu chí cuối tôi vẫn chưa hứa hẹn gì, bởi khi ấy sống chết còn khó lường, hôm nào cũng sống trong thấp thỏm sợ hãi, ngày nào cũng như ngày tận thế, nhưng lúc này khác, chúng tôi thoát khỏi lời nguyền ác mộng, tôi phải cho câu trả lời. Tôi cũng từng nhiều lần tự hỏi lòng mình, đương nhiên tôi muốn Mỹ, nhưng phải vì nước Mỹ tốt đẹp, mà chỉ bởi vì tôi cảm thấy tôi và Shirley Dương thể xa nhau được nữa. Nhưng tôi và Tuyền béo đến tận lúc này vẫn khố rách áo ôm, dẫu có dốc cả đáy hòm ra cũng chẳng gom góp được vài đồng, qua đó rồi sống thế nào đây? Những chiến hữu hy sinh của tôi, đại đa số đều ở những vùng quê nghèo, toàn người già và trẻ , gia quyến của họ về sau lấy ai săn sóc? Đương nhiên, Shirley Dương có thể giải quyết nhiều vấn đề khó khăn về mặt tài chính của chúng tôi mà hề do dự gì, nhưng tự lực cánh sinh mới là nguyên tắc của tôi. Trước nay tôi làm chuyện gì cũng hề chần chừ lúng túng, nhưng lần này thể suy nghĩ cho kỹ được. Vậy là đành bảo Shirley Dương cho tôi chút thời gian để suy nghĩ . Nếu Mỹ, bí thuật phong thủy tôi nghiên cứu nửa đời chẳng có đất dụng võ. Ngay từ khi tôi mới tới khu chợ đồ cổ Phan Gia Viên, tôi muốn đổ cái đấu lớn, phát đại tài, bằng cái ngón tầm long quyết của Mô kim Hiệu úy chẳng phải chỉ là học suông thôi sao? Biết bao lầu rồng điện ngọc chúng ta ra vào như chợ, nhưng lại chẳng lần nào mò được thứ gì đáng đồng tiền bát gạo đem về, điều này hay, nhưng nghe lại dở. giờ việc xuất ngoại ở nước chúng tôi rất hot, nước ngoài xem ra rất thời thượng, ai cũng nghĩ vắt óc để chạy ra nước ngoài, bất kể là nước nào, cho dù là sang những nước ở thế giới thứ ba họ cũng tranh nhau , ai cũng nghĩ cứ ra được nước ngoài trước rồi tính tiếp. Chúng tôi đương nhiên muốn Mỹ, nhưng thời cơ lúc này còn chưa chín muồi cho lắm. Tuyền béo đứng bên cạnh : "Đúng rồi, năm xưa tư lệnh Nhất từng hùng hồn rằng mục tiêu của đời là phải đổ được cái đấu lớn, nhưng đến giờ lời vẫn bên tai, vòng vo tam quốc mãi, đấy là lý tưởng tối cao của chúng tôi, hoàn thành tâm nguyện này, bọn tôi đúng là ăn ngủ cũng ngon." Minh Thúc nghe thấy chúng tôi vậy, dường như thấy lại có kế hoạch lớn gì đó, cuống quýt : "Các chú có lẫn thế hả? Còn chưa thoát khỏi núi Côn Luân, định lên kế hoạch gì vậy? Nhất định phải cho cùng đấy nhé, có thể cung cấp vốn và tất cả các thứ cần dùng. Tuy lần này chúng ta lỗ sạch, nhưng đánh bạc thắng thua là chuyện thường tình mà, tin thực lực của chú Nhất, chúng ta nhất định có vụ làm ăn lớn đấy!" Tôi chịu được bèn với lão: "Thôi bác đừng có té nước theo mưa nữa được hả? Bác thấy ba vị đổ đấu vĩ đại ngồi đây bàn bạc quên mình vì con đường phía trước của ngành đổ đấu đây sao? Đêm nay là đêm ngủ đấy!" Minh Thúc vừa mất vợ, vừa hao binh tổn tướng, lúc này đương nhiên chịu bỏ qua bất kỳ cơ hội kiếm chác nào, đành cười trừ với tôi: " đương nhiên biết chú Nhất là người làm được đại , nhưng mà hảo hán cũng phải có ba trợ thủ, ngoài chú Béo và tiểu thư Shirley Dương ra, cũng có thể giúp chú những chuyện lặt vặt đấy chứ. Chỗ còn có thông tin cực kỳ có giá trị nhé, mọi người nghe đến mộ vua Hami ở Tân Cương chưa? Nghe trong mộ vua Hani có bộ kinh sách bằng vàng ròng, mỗi tờ đều được làm bằng vàng, bên trong lại khảm vô số bảo thạch, đọc mỗi dòng kinh văn là có thể khiến trăm hoa tàn úa lại được hồi sinh, đọc hai dòng kinh văn là có thể khiến cho... " Lão vừa vừa nhắm mắt, lắc lư cái đầu, hết sức say sưa, cứ như sờ tận tay bộ kinh bằng vàng kia rồi ấy. Shirley Dương thấy Minh Thúc làm gián đoạn câu chuyện giữa tôi và , chủ đề càng càng xa, nếu cứ tiếp, có lẽ bàn sang chuyện Thiên Sơn đổ đấu vua Hami cũng nên, đoạn bèn hắng giọng, đưa chú ý của tôi từ câu chuyện của Minh Thúc quay lại chủ đề cũ. : "Lúc ở đỉnh đầu tượng thần Kích Lôi sơn, ràng là muốn làm cái nghề đổ đấu này nữa, muốn cùng tôi sang Mỹ, giờ còn chưa qua ngày, lại chạy làng thế nhỉ. Nhưng tôi chẳng giận làm gì, bởi tôi hiểu bụng dạ của , đường về còn rất dài, sau khi về đến Bắc Kinh, phải cho tôi câu trả lời ràng đấy! Tôi hy vọng những lời tôi khuyên trước đây phải là công cốc... có biết câu chuyện về ban nhạc Bremen nhỉ? Tôi nghĩ câu chuyện này có rất nhiều điểm tương đồng với những trải nghiệm của chúng ta." Tôi và Tuyền béo nhìn nhau ngơ nhác, xưa nay nào ai nghe đến "ban nhạc Bán-dế-mèn" nào, Shirley Dương lại rằng cuộc trải nghiệm của chúng tôi cũng giống như ban nhạc ấy chứ? Rốt cuộc nàng định gì nhỉ? Tôi quả thực thể nghĩ ra giữa "Mô kim Hiệu úy" và "ban nhạc Bán-dế-mèn" có mối liên hệ gì? Chẳng lẽ có toán người vừa đổ đấu vừa ca hát? Thế rồi bèn hỏi Shirley Dương xem "ban nhạc Bán-dế-mèn" là thế nào? Shirley Dương : " phải là Bán-dế-mèn, mà là Bờ-rê-men là địa danh của nước Đức. Đây là câu chuyện đồng thoại, có bốn con vật trong chuyện là lừa, chó, mèo và gà, chúng đều cảm thấy áp lực cuộc sống quá lớn, và quyết định lập thành ban nhạc đến Bremen diễn xuất, đồng thời cho rằng ban nhạc của chúng chắc chắn được mọi người nơi đó chào đón, từ đó được sống cuộc sống hạnh phúc. Trong tâm tưởng của chúng, điểm đến cuối cùng của chuyến du lịch chính là Bremen, là chốn lý tưởng của chúng." Tôi và Tuyền béo cùng lúc lắc đầu: "Cách ví von này rất thỏa đáng, sao lại đem chúng tôi so sánh với những con vật trong câu chuyện đồng thoại được chứ?" Shirley Dương : "Các cứ nghe tôi kể hết chuyện nào, ban nhạc Bremen mà chúng lập nên, kỳ thực cho đến cuối cùng cũng chưa tới được Bremen, bởi đường tới Bremen, chúng dùng trí thông minh bắn chết kẻ xấu xa trong căn nhà của người thợ săn, sau đó liền ở lại đó sống cuộc sống hạnh phúc. Tuy ban nhạc Bremen chưa từng tới Bremen, nhưng chặng đường du lịch đó, chúng tìm ra những thứ chúng hy vọng có được, và hoàn thành giá trị tự thân của mình." Tuyền béo vẫn chưa hiểu, nhưng về cơ bản tôi hiểu ý của Shirley Dương định ám chỉ thông qua câu chuyện này. "Ban nhạc Bremen" chưa từng đặt chân tơi Bremen, và những "Mô kim Hiệu úy" chưa từng phát tài thông qua việc trộm mộ, là chúng tôi đây, quả thực có thể là rất giống nhau. Có lẽ chặng đường lãng du, chúng tôi có được rất nhiều thứ qúy báu, giá trị của chúng thậm chí còn vượt hẳn mục tiêu vĩ đại "phát đại tài" kia, đích đến quan trọng, quan trọng là quá trình tới đích, chúng ta thu hoạch được những gì. Nghe xong câu chuyện về ban nhạc Bremen, tôi trầm ngâm hồi lâu, đột nhiên mở miệng hỏi Tuyền béo: "Vì sao chúng ta phải đổ đấu? Ngoài vì cần tiền ra, còn nguyên nhân nào khác ?" Thấy tôi hỏi vậy, Tuyền béo ngây người, nghĩ lúc lâu sau mới trả lời: "Đổ... đổ đấu? Làm vậy là vì... vì ngoài đổ đấu ra, hai ta chẳng thể làm gì khác, chẳng biết làm gì khác!" Sau khi nghe lời này của Tuyền béo, tôi bỗng thấy hụt hẫng, trong lòng rỗng tuyếch, chẳng muốn gì hơn nữa. Những người khác sau khi ăn uống xong, cũng dựa vào vách hang nghỉ ngơi, tôi cứ trằn trọc khó ngủ, cảm giác như bị chạm phải ức trong lòng, đó là nhìn nhận kỹ càng đối với số phận của bản thân. Hoàn cảnh của tôi và Tuyền béo tương tự như nhau, đều xuất thân trong gia đình quân nhân, đều trải qua cướp bóc sạch trơn của mười năm Cách mạng Văn hóa, những năm tháng đó chính là giai đoạn quan trọng nhất hình thành nên thế giới quan, giá trị quan của đời người, quan niệm Cách mạng vô tội, tạo phản có lý hết sức thâm căn cố đế, giáo viên trong trường học đều bị phê phán, đánh đập, việc học về cơ bản bị bỏ bẵng, cần có văn hóa lại có văn hóa, cần có kỹ thuật sản xuất lại chẳng lấy đâu ra kỹ thuật sản xuất. Đây những là nỗi đau của hai chúng tôi, mà còn là nỗi đau chung của cả thời đại. Sau đó hưởng ứng theo lời hô hào "thênh thang trời đất rèn trái tim hồng", chúng tôi tới vùng núi hẻo lánh ở Nội Mông lao động, lao vào thực tế để cảm nhận thế nào là "thênh thang trời đất" kho chạy quanh trăm dặm cũng hề thấy có bóng dáng người nào. Tôi cũng còn coi như may mắn, về quê, lên núi lao động ngốt năm rồi được sung quân, còn Tuyền béo nếu kiên quyết tin vào cái chỉ tiêu về thành phố gì gì ấy, nếu cuốn gói chạy về, chẳng biết cậu ta còn phải ở núi bao nhiêu năm nữa. Nhập ngũ là mơ ước từ của tôi, nhưng tôi sinh ra chẳng gặp thời, đành đêm đêm nằm mơ được tham gia đại chiến thế giới thứ ba. Tôi nhập ngũ thoắt cái mười năm, năm hai mươi chín tuổi mới được làm đại đội trưởng. Bờ cõi dấy lên khói lửa, chính là thời cơ lớn cho tôi kiến công lập nghiệp, nhưng vì nhất thời xốc nổi chiến trường, tiền đồ của tôi bỗng tan thành mây khói. người sống trong quân ngũ mười năm, khi rời khỏi quân đội, chẳng khác nào mất tất cả. Sau khi đất nước cải cách mở cửa, biết bao vật cho đến những giá trị quan hệ mới đều ồ ạt du nhập vào Trung Quốc, tôi thậm chí rất khó thích ứng với chuyển biến này, muốn học cách buôn, nhưng lại phát ra bản thân mình hề có tố chất đấy, dần dà cũng chẳng có lý tưởng hay theo đuổi nào hết, cứ dật dờ qua ngày rồi chờ chết. Cho mãi đến khi tôi và Tuyền béo quen biết Răng Vàng, bắt đầu đời Mô kim Hiệu úy, bấy giờ tôi mới tìm thấy mục tiêu để phấn đấu. Đối với tôi, "Đổ đấu lớn, phát đại tài" có lẽ chỉ là ý nghĩ dùng để tự kỷ ám thị mà thôi, bởi như Tuyền béo , ngoài việc đổ đấu ra, chúng tôi biết làm gì khác. Tôi chỉ hy vọng có thể sống cho có ý nghĩa chút, chứ muốn sống hoài sống phí trong bình thường đến nhạt nhẽo, đến Mỹ rồi, vẫn có thể tiếp tục phấn đấu, tranh thủ kiếm nhiều tiền, khiến cuộc sống của những người cần tôi giúp đỡ nhàng hơn, thoải mái hơn. Tôi chưa bao giờ suy nghĩ kỹ về cuộc đời như lúc này, nhất thời những ý nghĩ dồn dập như sóng triều, tuy nhắm mắt mà hề buồn ngủ, bên tai vẫn văng vẳng nghe thấy tiếng mọi người thở mệt, chẳng lâu sau ai nấy đều lần lượt chìm vào cõi mơ. Tiếng mưa bên ngoài dứt, tôi bỗng nghe thấy có người rón rén ra ngoài. Tôi nằm yên nhúc nhích, khẽ mở mắt ti hí nhìn ra ngoài, thấy đống lửa tắt nửa, Minh Thúc lẳng lặng ra ngoài cửa hang. Tay lão xách túi hành lý của tôi, bên trong có chưa ít thịt còn thừa lại, mất bộ quần áo, mấy viên pin khô... Nếu muốn ra khỏi chốn thâm sơn, ít nhất cũng phải trang bị những thứ này. Tôi lập tức nhảy phắt dậy, tóm chặt lấy cổ tay lão, thấp giọng hỏi: "Nửa đêm canh ba, bác định đâu thế? Đừng có là bác muốn thả buồn nhé, nặng hay cũng cần phải đem theo ba lô làm gì; nếu muốn lên đường về sao bảo tôi câu, tôi còn tiễn bác đoạn chứ!" Hành động của tôi hết sức đột ngột, Minh Thúc sut nữa thót tim ra khỏi cổ: "... ... ... già cả rồi, đâu dám phiền Hiệu úy đại nhân đưa tiễn gì chứ?" Tôi với lão, bác là bậc tiền bối, tôi lẽ nào lại dám đưa tiễn? Rốt cuộc là bác muốn đâu? Minh Thúc giậm chân : "Điều này... quả thực là dài lắm, hết nhẽ... " đoạn, mặt lộ ra vẻ buồn bã, mặt mày ủ rũ khẽ tiếng với tôi: "Thực dám giấu gì chú, lần này có thể sống sót chui ra khỏi lòng đất, thấy giống như giấc mơ, quay lại ngâm về những việc trong quá khứ, cảm thấy đời người sao giống như giấc mộng, vừa đau khổ vừa ngắn ngủi, lần này thập tử nhất sinh, cuối cùng lại lần nữa được làm người, có thể là mọi việc đều nhìn thoáng ra cả rồi. có dự định vào chùa làm lạt ma, tụng kinh niệm Phật, sống đến cuối đời, sám hối những tội nghiệt tạo ra trong kiếp này. Nhưng lại sợ A Hương đau lòng, thế nên để con bé buồn là hơn, bèn dùng hạ sách này, định ra từ biệt. nghĩ có chú Nhất ở đây, chắc chắn con bé A Hương có nơi nương tựa, các chú phải mất công chăm lo cho nữa, già rồi, như chiếc la trước gió, cứ để cho bay theo gió vậy!" Tôi suýt nữa tức điên vì lão, cái trò này nếu lão giở ra lần đầu, có khi tôi tưởng , nhưng tôi quá hiểu cái toan tính của lão rồi. Thằng khọm này thấy tôi hình như sắp đồng ý theo Shirley Dương sang Mỹ, chín phần mười là làm nghề đổ đấu nữa, trước mặt chỉ có con đường là Tàng cốt câu, ra khỏi đây khó, lão định giở trò ve sầu thoát xác, bỏ trốn chạy làng đây, lão còn nợ tôi cả gian đồ cổ, sao có thể để lao chạy thế này được. Vậy là tôi cướp ba lô trong tay lão lại, : "Người xuất gia tứ đại giai , nhưng bác đừng có vội bỏ , lúc trước ở Bắc Kinh giao hẹn sẵn rồi, cả cái giá đồ cổ trong nhà bác, bao gồm cái miếng nhuận ngọc được ngậm trong miệng Dương quý phi để giải khát, đều thuộc về tôi. Gì gì cứ về Bắc Kinh tính xong nợ nần rồi bác muốn đâu , lúc ấy bác làm đạo sĩ cũng được, làm lạt ma cũng xong, chẳng liên quan gì đến tôi hết, nhưng trước đó, chúng ta phải luôn bên nhau, được rời nhau nửa bước."
Chương 42 HOÀN THÀNH TÂM NGUYỆN Tôi thấy những người còn lại lúc này đều ngủ lịm , mọi người quả quá mệt, nhất thiết phải kinh động đến họ vì trò khôn vặt này của Minh Thúc. Thế rồi để lão kịp phân bua, tôi giằng lại ba lô, đặt xuống đất rồi nằm gối lên, bảo lão nếu muốn ra cũng được, nhưng cấm đem bất kỳ thứ gì, bởi chúng tôi cũng cần phải dùng, nếu nữa mau chóng tìm lấy chỗ mà nghỉ cho lại sức, đừng có đánh thức mọi người. Lão bất lực, đành quay trở lại, ngồi bệt xuống đất rồi giọng :" Chú Nhất này ... cho thêm câu nữa nhé! đổ cái đấu của vua Hami, tiếc cho ngón nghề Mô kim Hiệu úy! em ta hợp tác , chắc chắn có thể làm lớn được. Chú chớ thấy có tuổi mà coi thường, xưa nay có nhiều lão tướng càng già càng dẻo dai chú ạ, nước Triệu có Liêm Pha thông binh pháp, nhà Hán có Mã Viện vỗ yên muôn nhà..." Tôi bĩu môi, nhắm mắt ngủ, để ý đến lão nữa. Lão tự cảm thấy vô duyên, muốn chuồn cũng chuồn được, khó tránh khỏi ngượng ngùng, cũng đành nằm ra đất ngủ luôn. Giấc ngủ lần này quả giống như câu thơ " giấc mơ mòng trời đất rộng, con hồn phiêu lãng chốn quê xưa", cũng chẳng biết ngủ bao lâu, chỉ biết cuối cùng bị Shirley Dương đánh thức. Sắc trời sáng, thời tiết trong núi biến đổi thất thường, nhân lúc trời cao mây nhạt, cần phải khởi hành rời khỏi sơn cốc này cho nhanh, dải núi lửa trong lòng đất sôi sục lạ thường, mùi khí lưu huỳnh trong sơn cốc đậm đặc hơn nhiều so với ban đêm, tuy khó có thể đoán liệu có nguy hiểm gì xảy ra , nhưng nơi này hẳn thể ở lại lâu. Đồ đạc chúng tôi cũng còn lại gì, chẳng cần phải thu xếp nhiều, Tuyền béo cõng A Hương lên, mọi người bắt đầu khởi hành. Sau khi ra khỏi lòng đất, chiếc đồng hồ chịu nước Citizen hỏng, kim chỉ Nam mặt đồng hồ cũng mất tác dụng, loại đồng hồ đa chức năng này, tuy có thể thích ứng hoàn toàn với môi trường tự nhiên khốc liệt ở nơi hoang dã, nhưng lại có nhược điểm, tức là chỉ có thể chống nước mà chống được hơi. Đồng hồ cơ tinh xảo sợ nhất là hơi nước, hơi nước bốc lên do nhiệt độ cao rất dễ thâm nhập vào trong đồng hồ bịt kín, áp suất bên trong đồng hồ chỉ biến đối chút, khiến các linh kiện chi tiết lỏng ra và rời rạc. Thiết bị định vị thể hoạt động, nhưng may mà hướng của Tàng cốt câu hết sức rệt, chỉ có điều sau khi rời khỏi đó đến vùng núi cao, lại cần phải dựa vào kinh nghiệm sinh tồn ở nơi hoang dã để lần tìm phương hướng. Đoàn người về hướng Tây, ra khỏi sơn cốc, còn phải vòng qua sông băng Long đỉnh mới có thể đến được rãnh tuẫn táng thứ hai, đàn bò Yak có lẽ ở đó đợi chúng tôi. Chúng tôi tuy cố gắng chọn vào những nơi thấp trũng, nhưng chỗ này so với mặt nước biển vẫn rất cao, nhiệt độ cũng mỗi lúc thấp, trong khu rừng cổ rậm rạp bị hai mặt sông băng kẹp giữa, khắp nơi đâu đâu cũng là đá vụn, bên trong cứ như trong dòng sông toàn đá và cây. Giữa những tảng đá lởm chởm cao, thỉnh thoảng lại thấy những bông tuyết liên nở rộ, tươi đẹp trắng ngần, tỏa hương thơm ngát. Thực ra hoa tuyết liên quý hiếm như trong lời đồn đại ở thế gian, có bán đầy ở các chợ gần sông băng, các nhà sư kiêm thầy thuốc bản địa toàn dùng làm dược thảo, chỉ có băng tâm tuyết liên mới là thứ siêu phàm, nhưng cực kỳ hiếm thấy. được nửa ngày đường, những đám mây bầu mỏng dần, ngọn núi tuyết thần bí, trong lúc vô ý, vén tấm mạng che mặt thần bí lên. Chúng tôi ngẩng đầu nhìn lên cao, mấy ngọn núi tuyết lớn vây quanh sông băng Long đỉnh giống như chiếc mũ miện bạc đội đầu thần nữ, tỏa ra ánh sáng chói mắt. Những ngọn núi sừng sững hiên ngang, ngạo nghễ nhìn bầu trời xanh ngắt, dáng dấp uy nghi trác tuyệt. rừng tháp băng lung linh ở sườn núi giống như những viên kim cương khảm quanh ngân miện, đó là thế giới của những áng lưu ly, nếu mây thưa mỏng, chắc chắn thể nào nhìn thấy cảnh sắc mê ly huyền ảo này. Dưới sông băng là rừng đá hình thành bởi vô số tảng đá hình thù kỳ lạ chi chít, kéo dài và nối liền với khu rừng rậm cổ xưa ở nơi đất trũng. Dòng nước tan ra từ sông băng chảy ngầm xuống bên dưới khu rừng, phát ra những tiếng róc rách có nhịp điệu, tựa như ngón tay ngọc ngà của tiên nữ khẽ gảy dây đàn, tuôn chảy những chuỗi thanh dìu dặt, vang động lòng người. Tuy chúng tôi vừa lạnh vừa đói, hít thở cũng khó khăn, nhưng khi chiêm ngưỡng cảnh sắc đẹp như cõi tiên này, cũng thể cảm thán rằng, có thể sống sót mà đến được nơi đây, quả thực là quá hạnh phúc. Đến bìa rừng, mọi người cảm thấy gần kiệt sức, Tuyền béo thở hồng hộc, mặt đỏ bừng, đành phải đặt A Hương xuống, nghỉ lúc e là nhấc nổi chân nữa. A Hương lại càng mệt hơn, thở hổn hển. Tôi biết đây phải mệt, mà là phản ứng thiếu oxy xảy ra do vận động quá độ khi ở cao nguyên, nếu dọc đường , độ cao so với mực nước biển ngừng tăng lên, hơi thở khong bao giờ đều đặn được, thôi đành nghỉ tại chỗ cho đến khi phản ứng cao nguyên giảm bớt vậy, song nếu có bình dưỡng khí e là A Hương thể chịu đựng hơn nữa. Tôi cũng thấy tức ngực, khó chịu, nhìn rừng núi mênh mông rợn ngợp trải dài ra phía xa, chẳng biết phải cuốc bộ bao lâu nữa, trong lòng thấp thỏm, đột nhiên phát ra ở dốc núi phía xa có mấy bóng người. Tôi tưởng ánh sáng bạc hắt ra từ ngọn núi tuyết khiến mình hoa mắt, liền dụi mắt liên hồi để nhìn cho kỹ, đúng rồi, tôi hề nhìn nhầm, đích thực là có người, những người khác cũng đều nhìn thấy, nom vóc dáng và cách ăn vận của họ, chắc chắn là mấy tay cửu vạn người bản địa cùng chúng tôi tới đây. Bốn người họ hề phát ra chúng tôi, hình như lễ bái, cả bốn liên tục dập đầu trước ngọn núi thần tan hết mây khói. Cuối cùng chúng tôi cũng tìm được đàn bò Yak, ai nấy bất giác phấn chấn hẳn lên, cùng dìu dắt nhau, vừa vẫy tay tri hô vừa về phía mấy cửu vạn. Sau khi tới gần, họ cũng phát ra chúng tôi, đều mừng rơn khôn tả, rồi chỉ trỏ về phía núi tuyết, bảo chúng tôi cũng quay lại nhìn xem. Tôi nhìn theo hướng tay của họ, ở chỗ rất cao, có hơn mười con bò Yak hoang to lớn chắc nịch, giống như những tảng đá đen khổng lồ, từ từ chuyển động, bước đến ven trời. Chúng to gấp đôi bò Yak thông thường, là loài động vật hàn đới điển hình, chịu lạnh rất giỏi, số lượng cực kỳ ít ỏi, chỉ lai vãng ở những vùng núi cao hiếm người đặt chân tới, sức sống cực kỳ mãnh liệt, được người bản địa coi là thần linh, là tượng trưng của sức mạnh cát tường vô lượng. Ngày thường con còn khó gặp, lần này lại nhìn thấy cả đàn, có được điềm báo tốt lành này, chẳng trách họ lại phấn khởi đến thế. Đàn bò Yak này, con lớn phải dài tới gần bốn mét, trông hùng dũng uy nghi, cặp sừng to chắc đầy khí thế, mình phủ lớp lông đen vừa dày vừa dài, đám lông ở bụng còn dài chấm đất. Chiếc lưỡi mọc đầy gai cùng với sừng và móng là ba thứ vũ khí đặc hữu của chúng, ngay cả gấu ngựa Tây Tạng và bầy sói cũng đều dám chọc đến. Dường như đàn bò Yak hoang này giẫm lên băng tuyết về phía thung lũng bên kia núi. Nhìn đoàn bò Yak chậm rãi bước ở ven trời, người ta bất giác nảy sinh lòng kính sợ trước thiên nhiên và sống. Cùng tận mắt nhìn thấy từng con bò Yak to lớn mà trầm mặc dần dần biến mất sau sườn núi tuyết, những đám mây ven núi lại lần nữa khép lại, gói ngọn núi bạc vào trong, chúng tôi bỗng thấy hụt hẫng trong lòng, cứ ngây ra nhìn những áng mây, mãi lúc lâu sau mới định thần lại. Do nhiệt độ lòng đất cao vọt lên, tầng mây bao quanh đỉnh núi tuyết bị đẩy ra, ngọn núi mới nguyên hình, có được cơ duyên ngàn năm khó gặp này cần phải rập đầu lễ bái, mấy tay cửu vạn trông coi lều đều tới cầu xin núi thần phù hộ, ngờ lại gặp được thêm đàn bò Yak cát tường, ai nấy đều sung sướng vô cùng. Mấy ngày hôm trước ở sông băng xuất đợt rét ẩm, sau đó tuyết lở, bọn họ hết sức lo ngại, lúc này thấy chúng tôi bình an trở về, ai nấy đều ngừng lắc ống kinh, mở miệng ra là ca tụng ơn đức nhân từ của đức Phật. Còn về cái chết của Xư-chê, bọn họ tuy tiếc thương, nhưng quan niệm về sống và cái chết của dân du mục bản địa hoàn toàn khác chúng tôi, cho rằng có thể chết dưới núi tuyết thần thánh, như vậy công đức được viên mãn, huống hồ ta lại giết được vua sói trắng, hóa thân của ma núi Côn Luân, kiếp sau chắc chắn Xư-chê trở thành hộ pháp Chang-chu của đức Phật ( Chang-chu: tức là con chim ưng, có tiếng kêu như tiếng rồng), mong linh hồn luôn phù hộ cho vùng Kelamer vĩnh viễn phải chịu uy hiếp của bầy sói. Trong lều có đầy đủ trang bị và dược phẩm, tình trạng trầm trọng của A Hương giờ ổn, bé nằm sấp lưng bò Yak thở bình oxy hai ngày, tạm thời có thể coi như còn nguy hiểm. Shirley Dương bảo đưa cả A Hương sang Mỹ, để sau này Minh Thúc khỏi bán bé , ở Mỹ có thể phẫu thuật mắt, để bé về sau có thể sống cuộc sống của người bình thường. Chúng tôi dỡ lều, cưỡi bò Yak lên đường, cuối cùng cũng ra khỏi dải núi lởm chởm cao ngút của dãy Kelamer, trở về đồng cỏ hoang lạnh. Người dân du mục thấy đoàn chúng tôi trở về, liền làm bánh nếp, đun trà bơ, lát sau lục tục dọn cơm cho mọi người dùng bữa. Tuy thịnh soạn như bữa cơm lúc chưa vào núi, nhưng cũng đầy đủ và ngon miệng. Chúng tôi ăn thịt dê xé phay trước, sau đó là món bánh bao vỏ mỏng thịt nhiều kiểu Tây Tạng, món cơm trộn đường trắng và nho khô, sau cùng mỗi người uống bát sữa chua lớn. bao ngày nay chúng tôi chưa được ăn bữa cơm nào ra hồn, nên ai nấy đều phồng mang trợn mắt ăn ngấu ăn nghiến, cuối cùng no kềnh bụng ngồi xuống cũng khó, vậy mà vẫn luyến tiếc nhìn dân du mục dọn cơm thừa canh cặn, xong xuôi còn hỏi người ta :" Sáng mai mấy giờ dùng bữa ạ?". Đương nhiên, kẻ mở mồm ra hỏi những câu ấy chủ yếu là tôi, Tuyền béo và cả Minh Thúc, Shirley Dương nào có thô tục như thế, A Hương cũng chẳng ăn nhiều, chỉ uống hai bát sữa chua. Đến tối, tôi kể cho Thiết bổng Lạt ma những gì kinh qua trong chuyến vào núi lần này. Lạt ma nghe xong cảm khái :" Cát tường đây mà! Các cuộc kỳ ngộ nhiều đếm xuể, quả thực là thành công rực rỡ. Đây chỉ là số phận của các con, mà cũng là phù hộ của đức Phật, thân này là thứ chứa đựng bể khổ, nó giống như kẻ thù địch của ta, nếu có duyên, dùng thân này vào việc thiện, thời có thể tạo thành căn cơ cát tường ..." Thiết bổng Lạt ma hiểu gì về Mộc trần châu, thế là tôi lại kể qua loa cho thầy nghe. Thực ra ngọc Mộc trần châu chính là Mật phượng hoàng, Mật tông Tây Tạng cũng có thuyết phong thủy, giống như lý thuyết phong thủy ở Trung Nguyên, song cách dùng từ khác xa, cũng giống như vùng núi Kelamer, Mật tông gọi nơi đó là thần cung Phượng hoàng, là đất của chim Phượng hoàng; phong thủy Thanh Ô gọi là Long đỉnh, xương sống của trời đất, là nơi dương hội tụ. Sau khi Ma quốc diệt vong, mật Phượng hoàng được đưa vào vùng Trung Nguyên, các vương công quý tộc biết thuật bói toán thời nhà Chu đốt mai rùa xem bói, đoán được rằng đây là món thần khí tượng trưng cho trường sinh luân hồi, lại nó có nguồn gốc từ vùng đất Phượng hoàng, song làm thế nào để sử dụng được cách chính xác thể nào bói được ra manh mối, chỉ có số ít người nắm được mười sáu chữ quẻ Thiên mới thấy được kỳ bí ảo diệu bên trong. Đồ hình Thập lục tự thất truyền từ lâu, chúng tôi cũng chỉ có thể dựa vào số dự đoán để tưởng tượng ra nội dung trong đó. Từ sau thời Tần Hán, số người thuộc giai cấp có đặc quyền lưu giữ long cốt dị văn chứa Phượng minh Kỳ Sơn, điều này có thể xuất phát từ hướng vọng trường sinh bất tử và mong đến ngày có thể phá giải được bí mật trong đó. Song mật Phượng hoàng kỳ thực là món đồ tế của Ma quốc dùng để cúng Quỷ động, vị trí địa lý của Phượng hoàng thần cung rất đặc biệt, bên trong có hai ao nước, nếu giải thích theo thuật dương phong thủy chính là hai chấm tròn màu đen - trắng trong hình tròn Thái Cực, giữa hình tròn Thái Cực có đường phân chia hai nửa đen trắng, dương; hai bên đen trắng tượng trưng cho thể dương thống nhất, trong bên trắng có chấm tròn đen, và ngược lại, trong bên đen có chấm tròn trắng. Ao nước trong thần cung Phượng hoàng chính là tượng trưng cho hai chấm tròn này, nếu dùng màu sắc tương phản che lên hai điểm này, khi ấy và dương còn dung hòa trong nhau nữa, mà bị chia tách ra rệt. Tôi cho lạt ma xem ký hiệu con mắt sau lưng, nó chuyển từ màu đỏ sang màu đen, chứng tỏ thông đạo giữa gian thực và gian số ảo bị cắt đứt hoàn toàn, coi như thoát được ràng buộc gây chết người của Quỷ động. Song khi chúng tôi rời khỏi đàn tế, lại đúng lúc đuổi theo A Hương, quá vội vã cho nên quên lấy lại mật Phượng hoàng, giờ quay lại là điều thể, đây cũng là điều vô cùng đáng tiếc. Thiết bổng Lạt ma , hóa ra mật Phượng hoàng chính là viên Luân Hồi châu mà áng thơ Chế địch Bảo châu Đại vương nhắc đến. Chế địch Bảo châu chính là viên Luân Hồi châu của vị vua hùng, giống như bảo châu Ma ni có Phật pháp vô biên, có thể khắc chế được Ma quốc. Trời vô biên vô tận, đất vô phép vô tắc, dư độc của Ma quốc đến nay còn chưa tẩy sạch, chư pháp biến ảo, nhân thế vô thường, những gì các con làm có thể coi là thiện quả vô lượng vậy. Lạt ma sau này ông còn phải vòng quanh hồ để hoàn thành tâm nguyện, rồi lại hỏi tôi xem có dự định gì. Tôi tôi tính có khi xuất ngoại, đến đây, lại nghĩ tới việc lạt ma tuổi cao, tâm nguyện của ông là được chết đường vòng quanh hồ chầu bái, đường lên Tây Tạng vạn dặm xa xôi, đời này e rằng chẳng còn cơ hội gặp lại nhau nữa, nghĩ vậy tôi lại thấy hơi cay mắt. Sáng sớm hôm sau, Shirley Dương bàn với Thiết bổng Lạt ma, muốn quyên góp ít tiền cho ngôi chùa gần Kelamer để xây tượng Phật kim thân, cầu phúc cho những người khuất. Tôi biết Shirley Dương tin Chúa chứ tin Phật, làm vậy phần lớn là nghĩ cho chúng tôi, bởi khi đổ đấu tôi và Tuyền béo đều phá hoại rất nhiều môn quy, nếu phải vì mệnh lớn, chắc chết ngỏm từ lâu rồi, vậy nên lấy làm cảm kích vô cùng. Thiết bổng Lạt ma đưa chúng tôi vào trong ngôi chùa gần đó. Chùa này rất , chỉ lối vào ra, xung quanh chất số đống đá khắc kinh, tên là Bạch La Mạn Già, cũng có liên quan đến truyền thuyết của bản địa. Tiền điện thờ tượng Kim cang Bất động của đức Phật hồi tám tuổi, hậu điện có những bức bích họa có từ thời Đường, trước kia nơi đây cũng từng thời vàng son. Trong bích họa có vẽ cung điện của Long vương, tẩm cung của ma nữ La Sát, mật đạo của rồng ma, sơn cốc nơi quỷ dữ náu mình ... Tất cả đều là ma quỷ quái bị Kim cang Bất động trấn phục, hai bên điện đều có tượng thần tầm hương, phụ trách việc dùng nhạc kỳ diệu phát ra từ đàn tỳ bà để cúng dường thần thánh. Theo những gì người bản địa kể lại vì nơi đây hẻo lánh, thưa người, cho nên hương hỏa trong chùa này mới nguội lạnh, trăm ngàn năm trôi qua trong chớp mắt, quy mô giờ chỉ còn lại phần ba so với thời xưa, mà cũng cũ nát hết rồi. Rất lâu về trước, vốn dĩ nơi đây có ba gian Phật điện, còn thờ cúng cả Kim cang Thời luân và Kim cang Thắng lạc nữa. Shirley Dương xem xét xong lập tức quyết định quyên góp khoản tiền để dựng lại ngôi chùa Kim cang Kelamer trở về dáng mạo năm xưa. Thiết bổng Lạt ma bảo Shirley Dương chắc chắn là Lamo ( tiên nữ) cao nguyên tuyết hạ phàm, công đức xây dựng chùa chiền, sau này ắt có phúc báo. Trong kinh Phật người có phúc đẳng đệ nhất thế gian, thảy có bốn loại phúc báo, loại thứ nhất là đại phú, vàng bạc châu báu, của cải điền sản nhiều vô kể; loại thứ hai dáng mạo trang nghiêm đoan chính, thảy có ba mươi hai tướng ... Tôi nghĩ bụng thôi chẳng cần cái phúc báo ba mươi hai tướng làm gì, nếu mọc ra ba mươi hai khuôn mặt , cho dù ngày thay đổi bộ mặt, hơn cả tháng cũng chẳng mặt nào trùng lặp, đến người quen còn chẳng nhận ra ấy chứ. Nhưng e rằng đây chỉ là ví von, Phật đường là chốn trang nghiêm, tuy tôi coi trọng bất kỳ thứ gì, nhưng cũng dám tùy tiện hỏi thất lễ như vậy. Trước khi ra về, Minh Thúc lại đòi ở lại chùa làm lạt ma, tôi và Tuyền béo cho lão phân bua, cứ xách nách lôi về. Tôi đột nhiên có dự cảm mấy tốt lành, bèn hỏi lão :" Các món đồ cổ trong căn nhà ở Bắc Kinh của bác, chắc phải toàn là đồ rởm chứ? Bằng sao bác cứ định chạy làng thế nhỉ? Tôi cho bác biết Hồng Kông sớm muộn gì cũng sáp nhập về với Tổ quốc, bác quên cái mùa xuân ấy , coi như bác ôm quả bom nổ chậm rồi, chạy đâu cũng thoát đâu!". Lão :" Có lẫn thế hả chú, đây làm ăn buôn bán xưa nay đều thà thẳng thắn, bao giờ có cái chuyện chơi hàng lởm đâu, bằng sao ai cũng gọi cách kính cẩn là Minh Thúc cơ chứ? Minh tức là minh bạch ràng, làm gì có chuyện khuất tất, dám nhìn mặt ai? Vừa nãy là đột nhiên nhìn thấu cõi hồng trần, nên mới muốn xuất gia, quyết phải muốn chạy làng tránh nợ đâu!". Tôi và Tuyền béo lập tức cho lão biết, nhìn thấu cõi hồng trần quá tốt, vụ làm ăn này bác lỗ chổng vó lên rồi, vốn dĩ chúng tôi cũng nỡ tịch thu hết đồ của bác, song nếu bác nhìn thấu cõi hồng trần, quyết tâm nhảy ra ngoài tam giới, dính gót trong cõi ngũ hành, những món đồ ngoài thân kia, đương nhiên cũng chẳng dính dáng gì đến bác nữa, chúng tôi cần phải đắn đo, dằn lòng làm gì nữa, vừa khép giúp bác xử lý sạch , giúp bác sớm thành chính quả. đoạn mặc kệ nét mặt khổ sở được lời nào của lão, cứ thế vừa xách vừa xốc, lôi lão quay về.
Chương 43 TIỀN THÙ LAO Nghĩ đến tình trạng của người bị thương, chúng tôi nấn ná ở Kelamer quá lâu, ba ngày sau, đoàn thám hiểm quốc tế của chúng tôi từ biệt những người du mục bản địa lên đường quay về Bắc Kinh. Vừa về tới thành phố, tôi bảo Tuyền béo gọi Răng Vàng đến ngay, rồi cùng gặp mặt tại nhà Minh Thúc, thu hết toàn bộ số đồ cổ đắt tiền. Đương nhiên việc này tôi để Shirley Dương biết, muốn đưa A Hương bệnh viện kiểm tra vết thương, tôi liền tìm bừa lấy lý do để chuồn trước. Minh Thúc định chạy làng mấy lần đều thoát, đành đưa chúng tôi vào nhà với bộ mặt thảm thê như đưa đám. Thành Bắc Kinh từng được nhắc tới với câu "Ngõ lớn ba ngàn sáu, ngõ chọi lông trâu", sau cải cách mở cửa, việc quy hoạch và cải tạo thành phố dẫn đến giảm bớt về số lượng của các căn tứ hợp viện. Căn nhà của Minh Thúc nằm ở mạn Phụ Thành Môn, có thể coi là khu phố yên tĩnh giữa muôn nhiễu nhương, tuy có hơi cũ nát, song từng tấm ngói, viên gạch đều toát lên vẻ đẹp cổ xưa tàn tạ, ít nhiều còn lưu giữ được bầu khí "chum cá, mái vòm, cây thạch lựu; cụ già, trẻ béo, chó to phì". Tôi càng trông càng cảm thấy khu nhà này hết sức cầu kỳ, khó tránh khỏi nuối tiếc, ngay từ đầu nếu bắt lão đem căn nhà này ra làm phần thù lao, hẳn lão đồng ý ngay, tiếc rằng chúng tôi chỉ đòi đồ cổ và tranh vẽ trong căn nhà. Chẳng bao lâu, Tuyền béo và Răng Vàng mỗi tên vác hai rương da to, hăm hăm hở hở chạy tới tụ tập. Răng Vàng vừa nhìn thấy tôi nhe cái răng vàng chói ra :" Ối giời ơi! Nhất của tôi, nhớ người em quá phải ? Từ khi các Tây Tạng, mí mắt tôi hôm nào cũng giật cục, cứ như trông ngóng Hồng quân Trung ương tới Thiểm Bắc ấy, thôi cuối cùng cũng đợi được các về. Giờ tình hình ở Phan Gia Viên khá lắm, chẳng thể nào làm ăn được gì, độ các ở đây, người em chẳng biết tìm ai bàn bạc ..." Tôi với Răng Vàng :" Chuyến Côn Luân lần này em tôi suýt chết, ngờ căn cứ địa của ta ở đây cũng gặp khó khăn? Nhưng mà thôi, việc này để lúc nào rảnh hẵng , giờ ta xông vào đánh thổ hào phân ruộng đất, lão Minh đem đồ cổ minh khí trong nhà làm thù lao trả chúng ta. Cái ngón giám định giá trị và niên đại đồ cổ,tôi và Tuyền béo còn nông cạn lắm, thế nên phải nhờ ông ra tay, để em tiện đánh nhanh rút nhanh". Răng Vàng :" Hai vị chỉ việc đứng trông thôi, cứ yên tâm, người em thạo mấy ngón đổ đấu, nhưng nếu xét về nhãn lực giám định đồ sứ, đồ ngọc cổ ấy mà, phải phét, ba sáu phố phường, mười phương lăng chạ, chưa có tay nhà nghề nào bì được với tôi đâu!". Tuyền béo bấy giờ hí hửng cười ngoác ngậm nổi miệng, tay túm chặt cổ Minh Thúc, :" Thu dọn bình vàng lọ ngọc, phân ruộng phân đất bận ghê. Bác Minh này, chúng tôi khách khí với bác nữa, biết nhau cả rồi mà. Khi trước bác giơ súng nhằm vào tôi, tôi tiện gì. Giờ phí lời nữa, phiền bác mở cửa mau lên". Minh Thúc đành phải mở cửa căn phòng bày đồ cổ cho chúng tôi vào, bên trong mọi thứ vẫn như cũ, mấy tủ gỗ đàn cổ phác bày la liệt những món đồ cổ, khiến người ta chẳng biết phải bắt đầu xem từ đâu. Trong đây vẫn chẳng khác gì so với lần đầu tiên chúng tôi đến, chỉ có điều thiếu mất con mèo sứ hoa mười ba ria vốn dĩ chẳng đáng bao tiền, chúng tôi cũng chẳng thèm để mắt. Răng Vàng từ đầu chí cuối vẫn chỉ đau đáu, thèm thuồng miếng ngọc hình chim phượng mà Minh Thúc luôn mang trong người, món này rơi vào tay Tuyền béo từ lâu rồi, nhưng lúc này đều phải moi ra hết, để tiện kê vào sổ tính tổng giá trị. Số vốn Mỹ làm ăn lần này của chúng tôi, đều phải trông chờ cả vào đây thôi. Răng Vàng chẳng nhìn lọt mắt thứ gì khác, lần này coi như nắm được miếng phượng ngọc trong tay, liền cảm khái tự đáy lòng :" Nếu bảo nghiền nát ngọc ra ăn là có thể trường sinh bất lão là khoa học, nhưng mà mỹ ngọc có công hiệu dưỡng da, dưỡng sinh là thực thể bàn cãi. Lão Phật gia Từ Hy Thái hậu hàng ngày kiên trì dùng ngọc dưỡng da, năm xưa ái phi của Tùy Dạng Đế là Chu Quý Nhi, dùng ngọc nhuận tóc ở Côn Sơn, chẳng dùng dầu hoa lan mà tóc tai vẫn óng mượt, nữ nhi trong thế gian chẳng ai có thể so bì, nhưng thứ ngọc mà bà ta dùng mới chỉ là ngọc Côn Sơn thôi, còn thua xa miếng ngọc phượng ở đáy biển Đông này. Cổ nhân có câu : Người quân tử vô duyên vô cớ mà để ngọc rời mình. Nhất ạ, theo tôi thấy, miếng ngọc phượng này đừng có bán ra, cứ giữ lại bên mình mà làm vật truyền đời ạ!". Tôi đón lấy miếng ngọc quan sát, tuy có nguồn gốc ràng, là chân phẩm mà bà Dương quý phi từng dùng, nhưng ngay đến tôi còn có thể nhận được ra, miếng ngọc mang phong cách "Hán bát đao" 1 rệt, chứng tỏ niên đại của miếng ngọc còn phải xưa hơn thời Đường, đúng là miếng mỹ ngọc hiếm có đời. Song suy cho cùng miếng ngọc này cũng là đồ đàn bà, chúng tôi giữ nó có tác dụng gì? Chẳng bằng đổ lấy tiền mặt cho xong, song nghĩ lại, sao tặng cho Shirley Dương nhỉ, đây phải là hàng đổ đấu, chắc chắn nàng thích, thế rồi tôi gật đầu đồng ý, bảo Tuyền béo lúc tính nợ, đừng có tính miếng ngọc phượng này vào. Sau đó chúng tôi lại kiểm tra từng món còn lại, kiểm thôi, khi kiểm hàng mới hay thằng cha Minh Thúc này chơi đểu. Cái món đồ cổ này, thời Minh Thanh có rất nhiều đồ phỏng cổ tinh xảo, chính bởi vì nó có giá trị thu tàng, đáng để phẩm bình, để giám biệt giả, như vậy mới có gian cho các người chơi thi triển nhãn lực, tài lực, phách lực. Cái ngón giám biệt giả này, nhập môn dễ, để tinh thông khó, xét từ ý nghĩa nào đó, hấp dẫn của đồ cổ cũng là ở chỗ giả khó lường. Những món trong căn phòng này của Minh Thúc, có ít món trông tưởng là , nhưng quan sát kỹ để giám biệt, tay sờ mũi ngửi, là biết ngay giá trị cao, phần lớn đều chỉ là bày biện lấp chỗ trống. Tuyền béo nổi giận, định bẻ gãy xương sườn Minh Thúc làm mắc áo, lão vội xin tôi tha tội. Trước đây vì sĩ diện nên mới bày biện những món này khắp phòng, những món lão khổ sở sưu tầm cả đời ở Nam Dương phần lớn đem ra trả nợ cho hai thằng quý tử rồi, thực tế lão gần khuynh gia bại sản, bằng cũng đâu đến nỗi phải liều cái mạng già đến Côn Luân. Tuy vậy, những thứ này cũng phải toàn đồ giả, cá biệt cũng có mấy món đáng tiền. Tôi xua tay ra hiệu cho Tuyền béo thôi , đấm lão trận, lão cũng nôn được vàng ra, cứ lọc hàng lởm ra cái , xem xem còn lại những thứ gì. Đoạn liền cùng Răng Vàng và Tuyền béo bắt tay vào việc, dốc hòm, lục tủ, thanh lọc hết toàn bộ số đồ trong đó. Tuyền béo tự cho rằng mình có cái nhìn độc đáo, liền nhặt chiếc bát sứ hình hoa sen đỏ sậm lên :" Răng Vàng, Nhất này! Hai người nhìn xem! Cái này chắc chắn là men Dao Biến. Phía ngoài bát sắc men đỏ sậm như máu, bên trong lại toàn là những men hoa hình sọc, tôi thấy tay Lý hói chuyên buôn bán đồ sứ ở Phan Gia Viên từng cầm món na ná thế này, bảo màu này gọi là màu máu gà hoặc là màu đỏ chu sa, các hình sọc bên trong gọi là tường ngấm mưa, trông giống như những vệt nước mưa xuôi theo bờ tường chảy xuống. Nếu là loại sứ Quân Châu cũng đáng khối tiền đấy". Răng Vàng đón chiếc bát xem xét :" Con mắt của Béo tinh tường, nhưng mà làm gì có nhiều sứ Quân Châu đến thế. Tục ngữ có câu ' Chỉ miếng sứ Quân Châu, có thể đổi lấy muôn trâu ngàn vàng', bao năm làm ăn tôi cũng chưa thấy được món nào hoàn chỉnh, 'sứ Quân Châu độc nhất, men Dao Biến vô song', dưng mà lại có thể thấy được đấy! Trong các màu men màu đỏ như son là nhất, màu xanh như cánh trả, màu tím tựa như đen là thứ phẩm, còn cái men hoa hình sọc bảo là Dao Biến kia gọi là hoa văn giun sục bùn, tức là bề mặt men xuất những vệt men ngoằn ngoèo, dài ngắn khác nhau, chạy theo hướng từ xuống dưới, giống như giun bò trong bùn ấy, rất độc đáo. Đầu tiên phải rằng vật đựng này phải bát, mà là cái rửa bút, màu này là màu đỏ hoa hồng, là hàng phỏng theo sứ Quân Châu sắc tím, phỏng theo màu tím nho sẫm mà đẹp, chung, bất kể là từ hình thức, sắc men, phôi sứ hay độ tròn đều phải hàng , mà chỉ là hàng phỏng cổ cao cấp cuối thời Dân quốc mà thôi, chắc xuất xứ là mạn Tô Châu, bán được nghìn tệ là khá lắm rồi!". Tôi :" Trong đống đồ giả cũng có thứ phỏng tạo tinh xảo, tuy đáng giá tiền bằng thứ đồ , nhưng vẫn còn hơn là loại phế phẩm, có khi đem bán cho Tây, đổi được ngoại hối cũng nên". đoạn liền gói chiếc "bát" rửa bút lại. Trong đống đồ cổ tùm lum, giả lẫn lộn này, có món lọt mắt tôi, đó là chiếc cốc sứ tròn trĩnh đều đặn, sắc men trắng muốt, hình dạng giống như chiếc cốc các lãnh đạo vẫn dùng trong cuộc họp tại Đại lễ đường Nhân dân, có điều kỹ nghệ chếc tác dường như cầu kỳ hơn, cảm giác chất hơn, đương nhiên đặc trưng thời đại rệt của nó mới là điểm thu hút nhất: quai cốc được tạo hình búa và lưỡi liềm, nắp có ký hiệu năm ngôi sao đỏ và nắm đấm, in dòng chữ " Vì nghiệp công nghiệp hóa đất nước", chính diện thân cốc còn chép dòng ngữ lục của chủ tịch Mao " Quán triệt con đường chung và nhiệm vụ chung vào tất cả mọi việc!". Tôi hỏi Minh Thúc: " Chiếc cốc này chắc phải hàng giả chứ, nhưng biết là của vị lãnh đạo nào để lại? Bác lượm lại được từ đâu thế?" Lão cái này đương nhiên phải hàng giả, hai năm trước lão được người bạn ở Đại Lục tặng cho, nghe là hàng độc, giá thấp đâu, là sản vật điển hình của nước cộng hòa, các chú lấy nó rồi, để lại cho vài món trong đống còn lại nhé. Tuyền béo xem xong :" Trước đây trong nhà tôi cũng có bộ, ông già tôi được phát lúc họp. Hồi ấy tôi còn nhớ, bị thằng Nhất dụ dỗ chuồn khỏi nhà lêu lổng, lấy ra làm bia đạn, bẵn vỡ rồi. Cái cốc vỡ thế này mà cũng bán được giá à?" Răng Vàng :" Thời đó, thậm chí là cả giờ, mấy cái cốc phát cho các nhà lãnh đạo dùng cũng đều như nhau cả, song chiếc cốc này chắc chắn giống thế. Các vị nhìn xem chữ lạc khoản cái cốc này , chữ của Trương Tùng Đào nhé, lại còn là Hợp tác xã công nghệ vẽ sứ số thị trấn Cảnh Đức! Chiếc cốc này thường đâu, theo tôi biết, đây chắc chắn là hàng thửa riêng cho hội nghị Lư Sơn của Trung ương, thời bấy giờ đây là nhiệm vụ chính trị trọng đại, phải triệu tập nhiều danh thủ chuyên vẽ sứ ở trấn Cảnh Đức đấy. Số lượng nhiều, được ông Tùng Đào đề khoản lại càng hiếm có, giá trị rất cao là khác, hàng độc đấy, có khi giờ giá chưa quá rệt, nhưng để càng lâu, chiếc cốc này càng đáng tiền". Tôi nhấc chiếc cốc lên ngắm ngắm lại, nếu để trong phòng uống nước, chẳng phải có cảm giác như nhà lãnh đạo hay sao? Tuy đây phải là đồ cổ đúng nghĩa, song bản thân chiếc cốc lại được chế tác rất tinh xảo, kiểu dáng độc đáo, số lượng vô cùng ít ỏi, đáng quý hơn nữa là nó chứng kiến biến chuyển tang thương trong lịch sử và được phủ lên lớp ý nghĩa dày cộp, phù hợp với hai chữ "tinh" và "ít" trong năm chữ "cũ, tinh, ít, đẹp, tốt" dùng để cân đo giá trị của đồ cổ, nếu ghép được thành bộ giá trị có thẻ vượt qua các món minh khí thông thường. Xem ra trong những món đồ chơi của Minh Thúc cũng có số thứ hay hớm, tuy được mẻ lớn như chúng tôi dự tính, song cũng coi như có số thu hoạch bất ngờ. Đại đa số các thứ bày biện trong phòng Minh Thúc đều được lão "đánh trọn gói" từ tay của cánh buôn bán đồ cổ, đem về bày cho ngập mắt. "Đánh trọn gói" tức là mua lô cổ vật cùng lúc, đại đa số đều là hàng phỏng cổ cao cấp, được làm vào khoảng những năm Dân quốc, tuy đáng giá mấy, song cũng đến nỗi rẻ mạt như mấy thứ hàng giả, vả lại trong số những món đồ này vẫn có mấy thứ hàng tốt, đáng đồng tiền. Thế rồi cả ba chúng tôi chấn chỉnh tinh thần, phân loại từng món đồ, qua con mắt giám định của Răng Vàng, nhất loạt những thứ rẻ tiền đều được chất vào góc nhà. Càng sâu vào thanh lọc, đồ cổ giá gỗ càng ít , sắc mặt của Minh Thúc cũng càng khó coi. Bấy giờ Tuyền béo thấy có chiếc ấm tử sa ở chỗ mấy bắt mắt, trông đen trùi trũi, quê cục, bèn thuận tay vứt vào trong góc nhà chất đầy các đồ thứ phẩm. Răng Vàng lúc đó dùng mũi ngửi pho tượng Phật bằng đồng, đột nhiên nhìn thấy chiếc ấm Tuyền béo vừa vứt ra, bỗng há hốc mồm, hai mắt chăm chăm dõi theo hướng rơi của chiếc ấm, bỏ luôn cả pho tượng Phật bằng đồng cầm trong tay, cũng chẳng vì sao thân thủ của lúc này lại nhanh lẹ đến thế, ai ngờ trước lúc chiếc ấm chạm đất, đỡ gọn. Trán Răng Vàng lấm tấm mồ hôi, :" béo ơi là béo, lạy làm cụ đấy, vừa rồi tôi mà đá mắt nhìn, chắc cái ấm này bị đập vỡ rồi". Tuyền béo đáp :" Hớt hơ hớt hải làm cái gì, cái ấm quê bỏ cha bỏ mẹ, lại chẳng còn lớp tử sa trơn bóng nữa, chẳng biết là móc từ cái rãnh mả nào lên, bố ai thèm bỏ tiền mua!". Tôi cũng cảm thấy chiếc ấm chẳng có gì nổi bật, tạo hình cũng thường thường, chỉ có điều trông nó đen cách thái quá, mất cái vẻ nhẵn bóng khi qua tay nhiều người, đây cũng chính là "lớp bám bóng" bề mặt các ấm cổ mà chúng tôi vẫn gọi nôm na, căn bản thể nom ra dược nó giá trị ở điểm nào. Song Răng Vàng rất hiếm khi nhìn lầm, chẳng lẽ đây là món có giá trị ? Răng Vàng khẽ khàng sờ tay lên mặt ấm, dùng mũi hít hai hơi, :" Đừng thấy cái ấm tử sa này bắt mắt mà coi thường nhé, đây là cổ vật thời Minh đấy, kiểu dáng này thuộc loại ấm Cân nang, tất cả ccá ấm tử sa thời Minh mà thời nay chúng ta có thể thấy, bề mặt đều có lớp bám bóng trơn tru gì hết, bởi chín mươi chín phần trăm đều là những minh khí được đổ ra từ mộ cổ. Ấm bị chôn xuống dưới đất lâu năm, dù vốn dĩ trơn nhẵn song cũng bị đất xâm thực, hơn nữa công nghệ thời ấy còn chưa được cải thiện, đất bùn chỉ được lọc qua loa, tạp chất hơi nhiều, cho nên xét về cảm quan ban đầu, ấm thời Minh đẹp bằng ấm thời Thanh, song đây lại là Minh khí theo đúng nghĩa của nó đấy". Tôi, Tuyền béo và Răng Vàng bọc chiếc ấm lại cách thỏa mãn, cuối cùng chọn ra được cả thảy hai mươi mấy món đồ. Sắc trời bất giác tối, nhìn đồng hồ thấy chín giờ tối rồi, mọi người vội kiểm hàng, dĩ nhiên quên cả cơm nước, Tuyền béo bảo lúc đến đây thấy ở đầu ngõ có quán cơm, cả đám tạt vào đó đánh chén bữa rồi hẵng về. Thế rồi chúng tôi khuân đồ, sải bước chạy luôn, vốn định kéo Minh Thúc cùng , song hình như lão còn nuối tiếc mấy món đồ nên cũng vác mặt mo chạy theo. -------------------------------- 1 Kỹ pháp đẽo ngọc điển hình của thời Hán (202-220 TCN).
Thiên Hạ Bá Xướng Ma Thổi Đèn Tập 4 - Thần Cung Côn Luân Chương 44 CON ĐƯỜNG CHUNG, NHIỆM VỤ CHUNG Tôi vừa vừa với Minh Thúc :" ngờ ngay từ đầu bác chơi bọn tôi rồi, đống đồ cổ nhà bác chẳng được mấy món ra hồn. Lần này coi như bọn tôi xui xẻo, chỉ thu mấy thứ này thôi, coi như giảm giá cho bác quá rồi đấy, giờ coi như hai bên đều chẳng nợ nần gì nhau, đợi lát nữa ăn cơm xong ai đường nấy nhé. Việc của A Hương giao cho Shirley Dương chắc chắn vấn đề gì cả, người ta vẫn con như quả bom nổ chậm, tôi thấy bé cũng có ý định về với bác đâu, cho nên sau này bác khỏi cần lo lắng cho bé nữa!". Minh Thúc :" Đấy chú xem, lại khách sáo thế rồi, tuy ta còn chưa bàn xong việc cưới xin, nhưng chuyến này có biết bao ngày sống chết bên nhau, chẳng lẽ vẫn chỉ là xã giao thôi sao? giờ lại muốn Tây Tạng làm lạt ma nữa rồi, về sau em ta dĩ nhiên còn năng qua lại, bữa này chú để mời, em ta vừa ăn vừa bàn việc làm ăn sau này ..." Tôi ngầm thấy bất ổn, lão khọm già Hồng Kông này quyết đeo bám tôi đến cùng đây, giờ tới quán cơm đầu ngõ rồi, tôi thoạt nhìn thấy hóa ra là quán mì trộn, vội đánh lảng , với mọi người :" Bác Minh có hảo ý mời em ta dùng bữa tối nay, nhưng tôi thấy muộn quá rồi, ta cũng đừng chặt chém bác ấy nữa, cứ vào đây cùng nhau ăn bát mì trộn là được. Bác ở Bắc Kinh cũng lâu rồi nhỉ, bác ăn quen các món ăn ở Bắc Kinh chưa?" Vừa nhắc đến ăn, Tuyền béo liền nổi cơn hứng khởi, chẳng đợi Minh Thúc kịp mở miệng trả lời, cậu ta tranh :" Bắc Kinh, chín mươi chín món ăn vặt, ba trăm ba mươi món ăn chính, có thể cách khiêm tốn cho lắm, tôi đây về căn bản ăn tuốt tuồn tuột rồi. Song Tuyền béo đây vẫn ưa món thịt dê nhất, thịt dê nhúng tái ở Đông Lai Thuận, thịt dê xào ở Bạch Khôi, thịt dê nướng ở Khảo Nhục Quý, thịt dê xì dầu ở Nguyệt Thịnh Trai, mùi vị thịt dê "nhúng tái, xào, nướng, tẩm xì dầu" đều có thể gọi là tuyệt đỉnh. Bác Minh muốn mời cơm, chúng ta cũng thể từ chối thịnh tình của bác ấy được, chẳng bằng Khảo Nhục Quý , OK ? Mì trộn quả là ăn chẳng ra gì!". Minh Thúc giờ chắc là nghèo rồi, vừa nghe Tuyền béo bảo muốn Khảo Nhục Quý, vội :" Thịt nướng ta chẳng ăn suốt rồi đấy thôi, ăn đến phát ngán rồi. Mì xào lát vuông, mì trộn và cả món Thủy thu phiến, là ba món đặc sản của Bắc Kinh, từ hồi ở Nam Dương được nghe tên, song đến tận giờ vẫn chưa có cơ hội nếm thử, ta vào ăn !". Vừa , bốn người vừa bước vào trong quán. Quán này lớn, là loại quán mì phổ thông nhất, có thể thấy khắp nơi trong thành Bắc Kinh, bên trong cũng chẳng lấy gì làm sạch cho lắm. Tầm này vẫn lèo tèo vài thực khách, chúng tôi chọn lấy bàn sạch ngồi quây lại, gọi mấy chai bia và rượu Nhị Qua Đầu, chẳng lâu sau nhân viên phục vụ bưng lên cho mỗi người bát mì lớn. Tuyền béo vừa ý cho lắm, cứ oán trách Minh Thúc tiếc tiền. Răng Vàng hôm nay rất hứng khởi, vừa ăn mì vừa tán :" Mì xào lát vuông và Thủy thu phiến đều là món ăn của người Bắc Kinh nghèo, song món mì trộn Bắc Kinh này nghèo ăn theo kiểu của nghèo, giàu ăn theo kiểu của giàu, cái món mì này mà muốn cầu kỳ ấy, phải nom cách ăn, tinh tế lắm đấy. Nhưng tinh hay lại phải xem ở những thứ rau dưa ăn kèm, rau dưa ăn kèm là phải đủ, hai là phải tươi. Có câu:đậu vỏ xanh, hương thung nhọn, rau hẹ luộc qua cắt thành đoạn; ngọn rau cần, lát măng tây, tỏi răng chó phải tách làm đôi; chân giá đỗ, chớ để lại, dưa chuột có gai cắt thành sợi; ăn thấy ngon, làm lần lượt, luộc đậu đũa trộn thêm cà rốt; ớt với dầu mè đậm đủ vừa, chấm cùng mù tạt mới cay xè. Mì trộn Bắc Kinh bát tô, tám đĩa còn lại là rau dưa". Minh Thúc nghe xong, luôn miệng khen hay, nhìn Răng Vàng giơ ngón cái :" Hóa ra thằng em Răng Vàng những nhãn lực tốt, mà còn hiểu cả đạo ẩm thực nữa, buột miệng ra lời nào lời nấy đều có bài bản, đúng là toàn tài! Nghe chú em vậy, thiết nghĩ vua chúa cũng chỉ có thể ăn đến độ ấy là cùng, cái món mì trộn này hay đấy!". Lão mượn lời tiếp với tôi :" có suy nghĩ này rất hay, cái đầu buôn bán của , tinh khôn, am tường của chú Răng Vàng, lại có cả thần dũng của chú Béo, cộng thêm bí thuật phân kim định huyệt của chú Nhất nữa, dường như mỗi người chúng ta đều có cái tài hết sức độc đáo, em ta mà có thể tập hợp lại với nhau cùng phát triển, có thể là nhóm bạn vàng đấy, chỉ cần ta bằng lòng làm, chắc chắn có cơ hội, dẫu là núi vàng biển bạc, e cũng chẳng khó kiếm đâu. Con người ta chỉ sống có lần, cỏ cây cũng chỉ qua thu, có ai muốn sống giàu sang phú quý đâu kia chứ, giờ mà lao vào làm, còn đợi đến bao giờ?" Răng Vàng nghe thấy những lời có cánh của lão, tránh khỏi xao lòng, bèn hỏi tôi rằng :" Nhất này, người em đây cũng có ý đó, nay quả thực còn cách nào làm ăn ở Phan Gia Viên nữa, hàng giả ngày nhiều, hàng ngày hiếm, chỉ trông chờ vào việc buôn bán để kiếm bát cơm ấy mà, sớm muộn cũng chết đói. Tuy tôi có nhãn lực, nhưng chỉ dựa vào đôi mắt liệu thu mua được mấy món đồ xịn? Nghe ở vùng núi mạn Hồ Nam, Hồ Bắc có rất nhiều cổ mộ, chẳng thà ta nhân cơ hội đánh vài lố lớn, từ giờ đến chết đỡ phải lo chuyện cơm áo". Ý tôi quyết, song vẫn phải nghe xem cách nghĩ của Tuyền béo thế nào, bèn hỏi :" Lời của bác Minh và Răng Vàng cậu dều nghe cả rồi chứ, toàn những lời gan ruột đấy, ý cậu sau này thế nào, cho mọi người biết cái nhỉ?" Tuyền béo dốc chai bia lên nốc hai hụm, cách khí khái :" Lẽ ra tôi cam tâm cúi đầu làm ngựa chú nhi đồng, tức là tôi sinh ra là để phục vụ nhân dân, đến đâu cũng chỉ làm thằng đàn em, cả đời này toàn làm tay chân cho thằng khác sai bảo, song em đến thế, hôm nay tôi cũng xin có mấy lời tự đáy lòng thế này. Tôi bảo Răng Vàng với bác Minh ạ, phải tôi phê phán hai vị đâu, nhưng hai vị khốn nạn bỏ mẹ, bản thân hai vị hề ngốc, nhưng vấn đề là hai vị cũng đừng có coi thằng khác đều ngu cả. Nếu chúng ta cùng nhau đổ đấu, riêng hai vị ấy mà, vị có tật hay lên hen, vị già cả nhưng toàn chơi đểu, mẹ kiếp, đào mồ bới đất, lăn lê bò toài ... mấy việc nặng nhọc ấy rồi lại chẳng vào tay tôi với cậu Nhất? Tôi cho hai vị biết, thích đổ đấu hai vị bắt tay nhau mà đổ, chẳng ai ngăn cản các vị, cái trò đổ đấu ấy em tôi chơi chán rồi, nay mai thằng béo tôi Mỹ làm giàu thôi!". Lời của Tuyền béo quá thẳng thắn, quá bất ngờ, khiến Minh Thúc và Răng Vàng được câu nào. Răng Vàng thần người ra lúc lâu, rồi mới hỏi tôi :" Nhất, chuyện ... chuyện này là sao? Hai quyết định Mỹ cùng Shirley Dương sao? Nhưng nhưng nhưng ... nước Mỹ có gì hay ho cơ chứ, tuy văn minh vật chất của Mỹ phát triển, song cũng chẳng có gì sất, các nơi khác, tôi riêng Bắc Kinh của ta thôi, trăng sáng ở Thiên Đàn, gió ở Trường Thành, sư tử đá ở cầu Lư Câu, tùng bách ở Đàm Trích Tự, rồi nào Đông Đơn, Tây Đơn, Cổ Lâu, Di Hòa Viên với năm đàn tám miếu, rồi nào Vương Phủ Tỉnh, Lưu Ly Xưởng, Phan Gia Viên, dẫu Mỹ kia có to lớn hơn nữa, nhưng liệu có được những nơi này ? Vĩnh viễn cũng thể có được, vả lại sao nỡ lòng nào bỏ lại những người thân, người bạn bè chí cốt lâu năm này được?" Răng Vàng càng , tôi nghe càng xúc động, lần này động lòng . Tuy Răng Vàng là tay gian thương, song ta khác với Minh Thúc. , tôi và Tuyền béo có những trải nghiệm giống nhau. Năm xưa những thanh niên trí thức lao động, bất kể có quen biết nhau hay , chỉ cần nhắc mình từng làm thanh niên trí thức, quan hệ đôi bên vô hình trung được kéo lại gần nhau hơn, và có cảm giác thân thuộc, thông cảm cho nhau. Vừa nãy Tuyền béo đánh đồng Răng Vàng vào với Minh Thúc, quả thực có hơi quá, tuy Răng Vàng mong dựa vào chúng tôi để phát tài, song quả cũng nỡ chia tay chúng tôi. Tôi bèn :" Răng Vàng à, vẫn quê hương là nơi chôn rau cắt rốn, tôi cũng nỡ xa Trung Quốc, nỡ rời xa mảnh đất thấm đẫm máu và nước mắt của đồng đội, càng nỡ xa người thân và bè bạn. Song khi ở Tây Tạng, tôi mới phát ra rằng tôi và Tuyền béo ngoài việc đổ đấu ra chẳng biết làm gì khác, cách tư duy của chúng tôi theo kịp tiến bộ của xã hội, điều này chỉ có thể là bi đát. Hơn nữa, nhiều nơi, thấy nhiều món đồ thần bí trong cổ mộ, tôi có cảm nhận rằng, có những thứ cứ để chúng vĩnh viễn ở lại trong lòng đất tốt hơn". Từ xưa tới nay, đại đa số Mô kim Hiệu úy sau khi giải nghệ, đều lựa chọn nương tựa cửa chùa, làm bạn với đèn với Phật, sống nốt quãng đời còn lại. Bởi những việc kinh qua trong đời, cho đến tận cùng họ đều có chung cảm ngộ: đổi mạng lấy tiền đáng. Minh khí trong mộ đều là những vật chết chóc, chỉ vì thế nhân có lòng tham muốn chiếm hữu nó, nên mới khiến nó có giá trị, đem mạng sống của mình đặt vào những thứ đồ nằm sâu trong lòng đất quả đáng, vàng bạc đá quý tuy quý , song thể quý bằng mạng sống của mình được. Ngoài ra, điều quan trọng nhất là, những món đồ đáng tiền đều là căn nguyên của mọi tội ác, minh khí trong cổ mộ cơ hồ món nào cũng đều giá cao ngất ngưởng, nếu có thể khai quật thành công ngôi cổ mộ, liền được phát tài lớn. Bất kể động cơ thế nào, kiếm tiền để mình tiêu cũng được, dùng để cứu giúp những người khó khăn, nghèo khổ cũng được, nhưng những món minh khí kia dù sao cũng lưu truyền trong xã hội, từ đó dẫn đến vô số đấu đá, chém giết lẫn nhau. Tất cả mọi tội nghiệt tạo ra bởi minh khí, nếu xét về căn nguyên, e rằng đều quy kết cho Mô kim Hiệu úy, những kẻ bới chúng lên. Tôi với Răng Vàng :" Cứ bảo đời người có lúc khổ lúc sướng, nhưng thử trông cuộc đời ảm đạm của chúng ta xem, quá gập ghềnh khúc khuỷu, đắng cay trải, tội vạ cũng từng, thế mà tận hôm nay cũng mới chỉ ngoi lên làm hộ cá thể, chẳng nên cơm nên cháo gì, cứ như bị đào thải, sống ở bên rìa xã hội ấy. Tôi nghĩ chúng ta thể đặt hết mạng sống lẫn hy vọng về sau vào việc đổ đấu được, nếu như thế, con đường phía trước chỉ ngày hẹp lại. Chúng tôi quyết cúi đầu trước số phận, cho nên tôi và Tuyền béo phải Mỹ, làm lại từ đầu ở môi trường mới, học những kiến thức mới, quán triệt con đường chung và nhiệm vụ chung vào tất cả mọi việc, để tạo dựng nên cuộc sống khác với tại". Tuyền béo lấy làm lạ hỏi :" Con đường chung, nhiệm vụ chung cái gì? Tôi nhớ là chúng ta chưa từng đặt ra kế hoạch này, cậu đừng có tự ý đưa ra nhé!". Tôi :" Tôi nhìn thấy cái cốc uống trà của hội nghị Lư Sơn nên mới nghĩ ra thôi, con đường chung của chúng ta về sau là phát tài, nhiệm vụ chung của chúng ta chính là kiếm tiền. Nghe khu người Hoa ở Mỹ có nơi gọi là 'tiểu Đài Bắc', đợi sau này em ta kiếm được nhiều tiền rồi, ta xây dựng ở bên Mỹ khu 'tiểu Bắc Kinh', cho bọn người Mỹ chết ngất luôn!". Răng Vàng nước mắt nhạt nhòa :" Vẫn chỉ có Nhất là người làm được đại , mục tiêu hoành tráng này tôi chưa bao giờ dám nghĩ tới, vậy chẳng thà đưa luôn người em này cùng sang xây dựng tiểu Bắc Kinh? em ta sau này đổi hết khẩu vị của bọn Mỹ , cả ngày ăn bánh bao, uống Nhị Qua Đầu, đậu phụ thối chấm với ớt dầu..." Tuyền béo tiếp lời :" Hợp Đức Môn hút hai hơi thuốc, làng chài ca hát suốt đêm thâu. Từ lâu có ba hình ảnh điển hình mang đậm dấu ấn Bắc Kinh, đó là : kinh kịch, kẹo hồ lô bọc đường và tứ hợp viện. Tuyền béo tôi mà phát tài mẹ kiếp, tôi cắm đầy que kẹo hồ lô lên tòa nhà cao tầng của đế quốc". đoạn cả ba cùng cười ha hả, dường như giờ phút này đứng nóc nhà của tòa cao ốc bên Mỹ, thu gọn vào tầm mắt tất cả cảnh đẹp của đường phố Manhattan. Cười thôi hồi, bầu khí mới dịu lại, tôi hỏi Răng Vàng lời vừa rồi là đùa phải , hay chẳng lẽ muốn Mỹ cùng chúng tôi . Ông bố Răng vàng khỏe, bố mẹ tôi đều dưỡng lão ở trong khu an dưỡng dành cho cán bộ hưu trí, nhà Tuyền béo lại chẳng còn ai, thế nên Răng Vàng thể bỏ nhà bỏ cửa là như chúng tôi được, vả lại là tới nước Mỹ xa cách ngàn trùng kia. Răng Vàng trịnh trọng :" Vừa nãy tôi khuyên hai đừng Mỹ, là vì nỡ xa hai đấy ạ! Hai cao chạy xa bay rồi, bỏ mình tôi ở lại Phan Gia Viên còn thú vị gì nữa? Tôi cũng , tôi coi như nhìn thấy thấu đáo rồi, công việc buôn bán ở Phan Gia Viên dẫu có làm thêm mười năm nữa, cũng vẫn như tại mà thôi, trong lòng tôi từ lâu muốn ra nước ngoài đãi vàng rồi. Cổ vật mà ông cha ta để lại có vô số món độc nhất vô nhị bị tuồn ra nước ngoài, nếu tôi Mỹ mà có thể phát tài ấy, việc đầu tiên tôi làm là thu mua mấy món đồ , đây là tâm nguyện cả đời của tôi; thứ đến là đón ông già nhà tôi qua đó, cho ông cụ hưởng phúc bên Tây. Nhưng tôi đâu có họ hàng nào ở nước ngoài, thế nên muốn xuất ngoại còn khó hơn lên trời, Nhất xem liệu có thể ngọt với Shirley Dương mấy câu được , cho tôi theo với. Nghe Hợp chủng Quốc Hoa Kỳ những nền văn minh vật chất phát triển cao độ, mà văn hóa cũng phong phú vô cùng, ngay cả bọn có chút tài vặt sang bên đó cũng có đất dụng võ, xem với cái tài của tôi liệu có ..." Tôi nghĩ bụng đông người cũng vui, tôi và Tuyền béo sang đó sống đỡ đơn điệu, song suy cho cùng Shirley Dương cũng đâu phải buôn người, tạm thời đành phải nhận lời Răng Vàng, về đỡ cho xem sao. Thế rồi tôi, Tuyền béo và Răng Vàng bắt đầu lên kế hoạch, làm sao phải nhanh chóng bán được hết số hàng có trong tay, cả ba cùng góp tiền vào tổng cộng liệu có được bao nhiêu, đến Mỹ rồi đâu xem biểu diễn thoát y vũ... Ba người chuyện trò sôi nổi, vô hình trung đẩy Minh Thúc ngồi dạt sang bên, cơ hồ như lão hề tồn tại. Tuy nhiên bản thân lão thể quên mất tồn tại của mình được, lão :" Có lẫn thế, các chú tưởng ở bên Mỹ dễ kiếm chác thế à? Mà cũng phải lại, báu vật bị tuồn sang Mỹ quả thực ít, nghe chiếc bình Thanh hoa thuần hóa Thiên Uyên đời nhà Nguyên, món đồ sứ Trung Quốc đắt nhất thế giới, nằm trong tay nhà sưu tập đồ cổ ở Los Angeles, lại còn Đại Ngọc sơn thời Càn Long, giờ cũng ở nước Mỹ, món nào cũng có giá cắt cổ. Chẳng thà tôi cùng các vị, ta cùng nghĩ cách đổi lấy chiếc bình đó lại, sau này đủ vốn rồi, còn có thể tiếp tục công việc buôn bán xác cổ, buôn bán thứ ấy mới là cách kiếm tiền nhanh nhất". Tôi với lão :" Bác muốn Mỹ là việc của bác, chúng tôi có quyền ngăn cản. Nhưng niệm tình chúng ta cùng cộng , đều lòng vòng dưới Quỷ môn quan ở Côn Luân rồi mới về đây, tôi phải khuyên bác câu thế này, bác có tuổi rồi, đến Mỹ rồi buôn bán chút đồ cổ, đủ cho bản thân dưỡng lão là được rồi, đừng có nghĩ đến chuyện xây dựng lại nghiệp buôn bán bánh tông như xưa làm gì. Chuyến Côn Luân lần này bác vẫn chưa rút ra được bài học gì sao? Cho dù có vận chuyển được Băng xuyên thủy tinh thi về, ừ kiếm được tiền đấy, nhưng vợ mất đằng vợ, con nuôi cũng chẳng sống cùng bác nữa, còn lại hai thằng phá gia chi tử, vụ làm ăn này là lỗ hay lãi bản thân bác biết tính sao? Tử thi có được giá hơn nữa, cũng chẳng thể nào bằng người sống". xong những lời này, kể như tôi tận tình tận nghĩa với Minh Thúc lắm rồi, thấy ăn uống no nê, liền từ biệt lão, rồi cùng Tuyền béo, Răng Vàng khuân đồ về phủ.
Thiên Hạ Bá Xướng Ma Thổi Đèn Tập 4 - Thần Cung Côn Luân Chương 45 RỬA TAY GÁC KIẾM Tuy quyết định Mỹ, song cũng thể là ngay được, trước khi xuất ngoại còn có rất nhiều việc phải xử lý. Nhà Răng Vàng ở Bắc Kinh, thời gian này và Tuyền béo khắp nơi bán đồ cổ, tôi về Phúc Kiến thăm nhà, sau đó lại thăm nom người nhà của mấy đồng đội hy sinh, đồng thời cũng cùng với Tuyền béo Nội Mông, nơi chúng tôi từng tham gia lao động chuyến, ngót nghét cũng phải mất hơn hai tháng mới xong xuôi được tất cả công việc. Khi quay về Bắc Kinh là tháng rét nhất mùa đông, cách ngày chúng tôi xuất ngoại chỉ còn mấy hôm nữa, mọi việc trước mắt đều chuẩn bị hoàn tất, liên tục ngày nào cũng bận bù khú chia tay với người quen. Hôm nay Shirley Dương cùng tôi dạo phố, ngắm cảnh mùa đông ở Bắc Kinh, sau rồi tôi dẫn chơi công viên Bắc Hải. Gió Tây Bắc thổi suốt đêm khiến mặt đất rất sạch ráo, mùa đông cuối năm 1983 này dường như đặc biệt lạnh, khí như đóng băng lại, hít thở cũng cảm tháy trong phổi như có bụi băng, đau tức cả phế quản, đến sáng nay gió bớt nhiều, song bầu trời u ám, nhìn thấy mặt trời ở nơi nao, có lẽ trước khi trời tối, đổ trận tuyết lớn. Công viên Bắc Hải nằm ở góc Tây Bắc của Cố Cung, có hơn ngàn năm lịch sử, từng là vườn cấm địa của hoàng gia, trải qua năm triều đại Liêu, Kim, Nguyên, Minh, Thanh. dạo ven hồ, ngắm nhìn đảo Quỳnh tháp Trắng trong vẻ se sắt tiêu điều, tôi cảm thấy mùa đông nơi đây chẳng có chỗ nào có thể du ngoạn, nhưng sắp rời xa đất nước đến nơi rồi, cũng chẳng biết ngày tháng năm nào mới có thể quay lại Bắc Kinh, thành thử bỗng dưng cảm thấy quyến luyến tường Hồng tháp Trắng nơi này, cũng chẳng quá bận tâm tới khí trời giá lạnh. Shirley Dương lại rất hứng khởi, nàng đón A Hương sang Mỹ sắp xếp ổn thỏa trước rồi, giáo sư Trần được chữa bệnh tâm thần ở Mỹ cũng hồi phục khá lên trông thấy. Lúc này trông thấy mặt hồ đóng băng có rất nhiều người trượt băng, có mấy người trượt băng lão luyện mùa đông năm nào cũng đến đây, họ lướt giày trượt, chốc chốc lại trình diễn các động tác đẹp mắt, lúc như chuồn chuồn điểm nước, lúc lại giống như én bỡn rặng cây, tôi và Shirley Dương liền đứng lại ngắm. Shirley Dương bảo tôi :" Ở đây nhộn nhịp nhỉ, cái thú trượt băng trong khu rừng cổ kính mùa đông, e là chỉ mỗi Bắc Kinh mới có!". Tôi ứng tiếng đáp :" Đương nhiên rồi, dẫu tứ hải ngũ hồ, cũng chẳng thú vị bằng trượt băng ở Bắc Hải mà". Shirley Dương hỏi tôi :" có vẻ lưu luyến Bắc Kinh nhỉ, hay là hối hận Mỹ cùng tôi rồi? Tôi biết việc này hơi làm khó , song tôi rất lo lại đổ đấu, nếu trông cả ngày ở Mỹ, tôi chẳng thể nào yên tâm được". Tôi :" Quân tử nhất ngôn, tôi hạ quyết tâm Mỹ, đương nhiên hối hận. Tuy nhiên tôi quả thực nỡ xa Trung Quốc, đợi sau khi tôi quán triệt con đường chung và nhiệm vụ chung xong, tôi vẫn có thể đưa quay lại đây chơi". Vừa , tôi vừa rút chiếc bùa Mô kim trong túi ra cho Shirley Dương xem :" xem cái này mà xem, tôi và Tuyền béo đều dỡ bùa xuống rồi, coi như là rửa tay gác kiếm, đời này làm nghề đổ đấu nữa, trừ phi là chán sống, sau này chúng ta làm gì đó ổn định hơn". Mô kim Hiệu úy đều phải đeo bùa Mô kim, nó tương đương với thẻ công tác, xét từ góc độ nào đó, nó còn tượng trưng cho vận may, khi đeo chiếc bùa lên cổ bắt buộc vĩnh viễn được dỡ xuống, bởi vì khi dỡ xuống, ngầm ám chỉ đến đứt gãy của vận may, nếu sau đó đeo lên cũng được sư tổ phù hộ cho nữa. Chỉ có khi nào quyết định chấm dứt làm nghề này mới dỡ bùa, cũng giống như việc rửa tay gác kiếm của hội lục lâm, rất hiếm người sau khi dỡ bùa lại tiếp tục quay về nghiệp cũ. Liễu Trần trưởng lão năm xưa là ngoại lệ, để hiệp trợ Gà Gô, ông ngoại Shirley Dương, Liễu Trần trưởng lão sau khi dỡ bùa lại xuống núi, để rồi cuối cùng chết trong hang chứa báu vật Tây Hạ ở thành Hắc Thủy". Shirley Dương thấy tôi dỡ bùa Mô kim xuống từ trước, tỏ ra cảm động vô cùng, với tôi :"Từ xưa tới giờ có biết bao cổ mộ bị khoét sạch, những ngôi còn sót lại, quá bán đều nằm ở những nơi có vị trí đặc thù, trong đó chứa quá nhiều hung hiểm, thế nên tôi từ đầu chí cuối vẫn lo đổ đấu. Giờ cuối cùng cũng chịu dỡ bùa Mô kim, thế là tốt quá rồi, sau khi đến Mỹ, tôi cũng lo lại giấu tôi lẻn đổ đấu nữa". Tôi với Shirley Dương :" quán triệt con đường chung và nhiệm vụ chung đến cùng, tôi quay lại. Tôi nghe ở Mỹ mặt nào cũng tốt, nhưng thói quen ăn uống và tác phong sinh hoạt lại dễ để người ta chấp nhận chút nào. Tôi nghe người Mỹ ăn uống rất đơn điệu, làm cơm rất tinh tế, hai lát bánh mì cứng như đá, ở giữa lại kẹp hai lát cà chua và lát thịt bò chín tái, thêm nữa lại cắt vụn rau sống ra ăn thẳng, thế mà gọi là bữa cơm à? Bữa cơm tôi ăn ở mặt trận Vân Nam còn ngon hơn, chắc chúng ta phải ngày nào cũng ăn cái thứ này chứ? Tôi thấy người Mỹ thực hiểu, thậm chí biết thế nào là ẩm thực, chẳng trách nước Mỹ nhiều tiền như vậy, chắc là toàn do bóp mồm bóp miệng mà ra". Shirley Dương :" Ai bắt cả ngày phải ăn hamburger, quán ăn Trung Quốc ở Mỹ đầy nhé, muốn ăn ngày nào chúng ta cũng đến đó ăn. Mà tác phong sinh hoạt nghĩa là sao?" Tôi :" Cái này mà cũng biết à? Cái câu 'I love you' gì đấy ở Trung Quốc có khi cả đời chẳng được mấy lần, nhưng mà nghe đôi vợ chồng Mỹ sống với nhau, nếu ngày 'I love you' có lần, có nghĩa là vợ chồng phản bội nhau, lập tức ly dị hoặc ly thân, sáng trưa chiều đều phải lần mới đủ, tốt nhất là lúc thức dậy và lúc ngủ đều phải thêm hai lần, cho dù lần mười lần cũng chẳng ai chê là nhiều, có khi gọi điện thoại đường dài chỉ để mỗi câu ấy, lải nhải mãi mà vẫn chán, đúng là kỳ lạ! Tôi nghĩ lời đồn này chắc là , bởi tôi còn nghe , có lính người Mỹ bị trọng thương chiến trường, lúc hấp hối sắp chết còn phải dặn dò đồng đội chuyển đến người vợ câu này ..." Tôi giả vờ bộ dạng hấp hối, thở nặng nhọc rồi :" Trung úy ... hãy hứa... giúp tôi chuyển lời với vợ tôi ... rằng tôi ... tôi ấy!". đoạn tôi lăn ra cười nắc nẻ. Shirley Dương cũng phì cười vì tôi, song lại :" là chẳng đứng đắn gì, việc ấy có gì mà khiến cười cợt thế nhỉ, câu này những có thể với người và bạn đời, còn có thể với bố mẹ và con cái. người, phải cho người ta biết người ta quan trọng với mình như thế nào, điều này rất bình thường, và cũng rất cần thiết. Sau này cũng phải câu này mười lần mỗi ngày đấy!". THIÊN "MA THỔI ĐÈN" HOÀN.