Chương 36 HƯỚNG TÂY BẮC CHẾCH BẮC Chúng tôi chỉ chăm chú xem con cá chết dưới đất mà biết A Hương mất tích tự lúc nào. Chỉ chắc chắn điều là bé hề cầu cứu hay giằng co quẫy đạp gì, bằng thế nào cũng có người nhận ra. Mọi người cùng hết sức lo lắng, ai nấy đều cảm thấy lần này lành ít dữ nhiều, e là A Hương bị lũ quái hút máu vật tế thần kia cuỗm mất rồi. Nhìn lại hàng vết chân thấy dấu máu còn mới, mà chỉ là vết chân của người, chắc chắn là của A Hương, tất cả có chừng mười mấy dấu, đến chỗ xác khô chất đống mờ hẳn. Nếu bé bị con gì đó bắt , chắc cũng chưa quá lâu, lúc này đuổi theo có lẽ vẫn còn cơ hội cứu được. Chúng tôi dám chần chừ chút nào, cuống quýt theo dấu chân băng qua đống xác, thấy bên dưới cũng có dấu chân máu, xem chừng là bé ra phía sau đàn tế. Chúng tôi ba chân bốn cẳng chạy theo hướng đó, vòng qua núi ngọc, thấy giữa dải thủy tinh phía sau núi có cái hang, chẳng biết là thông tới đâu, bóng người mảnh dẻ vụt vào bên trong. Tuy bóng người chỉ thoáng vụt qua, nhưng trông vóc người và màu quần áo, tám chín phần chắc chắn là A Hương. Xung quanh bé dường như có thứ gì khác, bé chảy bao nhiêu máu như thế, rốt cuộc tới đây mình làm gì? Tôi bắt đầu ngờ vực, liền bước chậm lại, song Shirley Dương lại rảo bước chạy lên, đuổi theo A Hương, trong khi Minh Thúc cũng lớn tiếng gọi tên bé. Ban đầu nơi đây toàn mây mù, những chấn động của núi Kích Lôi làm khói đá tan hết, nhưng vì chúng tôi mải tháo chạy, phát ra phía sau đàn tế còn có cái hang. Đến bây giờ, dải thủy tinh phía lại từ từ phả sương mỏng nhàn nhạt, khói đá hư ảo mịt mùng, khí tĩnh mịch kỳ dị bao trùm khiến mọi thứ đều lờ mờ , còn khe núi bên rìa hang nhìn càng thêm sâu hoắm. Trực giác mách bảo tôi, sơn động này phải là nơi bình thường, mạch thủy tinh thưa dần, ánh huỳnh quang mờ nhạt, phảng phất có hơi thở của thần chết. Song tôi thấy Shirley Dương rảo bước chạy vào bên trong nên đắn đo suy nghĩ nhiều, chỉ hơi chần chừ chút rồi cũng giơ đèn pin mắt sói chạy theo vào trong sơn động. Mọi người cùng chạy cả vào, đuổi được mấy bước lại thấy có bóng người, chính là A Hương. bé có vẻ bị mộng du, hoàn toàn biết gì, đôi mắt thất thần nhìn chăm chăm về phía trước, máu từ lỗ mũi ngừng tuôn, cũng chẳng hề có phản ứng trước có mặt của chúng tôi, cứ từng bước sâu vào trong hang động. Tôi đưa tay định kéo A Hương lại, nhưng Minh Thúc vội can :" Chớ! Chớ kinh động đến con bé, chú Nhất! Hình như A Hương mắc phải chứng ly hồn rồi. Cái chứng này bắt buộc phải để tự tỉnh lại, chỉ cần chạm vào là hồn phách nó quay về nữa đâu. Trước đây nó chưa bị thế này bao giờ, hay là bị trúng tà rồi?" Tôi nhất thời dám manh động, nhưng mũi A Hương vẫn ngừng chảy máu. Do mất máu quá nhiều, sắc mặt bé bợt , trông ra vẻ người nữa, nếu cứ tiếp tục mặc kệ, chỉ riêng chảy máu thôi cũng đủ giết chết bé rồi. Shirley Dương :" Những thứ có mùi diêm tiêu phục hồi tri giác cho người bị chứng tâm thần phân lập được đấy", rồi liền lấy Bắc địa huyền chu ra. Đúng lúc đó phát A Hương nắm trong tay mảnh thủy tinh vỡ sắc nhọn, từ từ đưa lên tự đâm vào mắt. Shirley Dương vội bôi ngay Bắc địa huyền chu lên mũi A Hương. bé hắt hơi mạnh, người mềm nhũn ngã lăn ra đất. May mà phát kịp thời, tôi và Shirley Dương vội dìu bé ngồi dậy, để ngửa đầu, ấn chặt lấy xương xoăn ở gốc hai cánh mũi để cầm máu. Nhưng rốt cuộc bé bị làm sao vậy? Vì sao tự mình vào hang động này? Vì sao lại muốn chọc mù mắt mình? Lẽ nào trong động có thứ gì đó khiến bé mất thần trí? Shirley Dương với tôi, chắc chắn A Hương thể tiếp tục nữa đâu, tốt nhất là để bé nghỉ lại ở đây lúc . Tôi gật đầu đồng ý, cứ nghỉ nửa tiếng , được cũng sao, tôi và Tuyền béo dẫu có phải khiêng phải vác cũng đưa bé trở về. A Hương cũng coi như may chán, tôi xin Tuyền béo mấy miếng mai rùa rồi dùng đá giã nhuyễn ra, bảo Shirley Dương đút cho A Hương uống. Mai rùa thiêng giá trị liên thành này chẳng khác nào linh đan diệu dược bổ huyết dưỡng thần. Tuyền béo khỏi xót của, vốn tất cả chẳng có bao nhiêu, A Hương lại vớ bở cả, giờ chỉ còn lại mỗi miếng to bằng lòng bàn tay, nghĩ nghĩ lại, món nợ này chắc hẳn tính cho Minh Thúc, bắt lão phải viết giấy nợ, về là phải trả, đừng hòng chạy làng. Sau đó Tuyền béo ra lôi hai con cá quái dị vừa chết vào, đói mờ mắt rồi cũng chẳng kén cá chọn canh nữa, nghĩ bụng nghi thức giết người cúng tế bỏ hàng bao năm rồi, cái thứ này chắc cũng chẳng hút máu người giống như tổ tiên nó đâu, dùng dao cạo vảy rồi nướng lửa cũng đủ ăn cho đỡ đói. Tôi dùng đèn pin soi xung quanh quan sát địa hình. Sơn động này rất hẹp, cũng sâu lắm, chúng tôi đuổi tới chỗ A Hương gần đến kịch đường rồi, giơ đèn pin mắt sói lên có thể nhìn thấy tít cuối hang. Chỗ đó có bức tường lớn xây bằng đá, chân tường có ba cửa hang rất thấp, còn bờ tường dày nặng khắc totem hình nhãn cầu máu, ánh mắt vô cùng tà ác. Mọi người nhìn thấy con mắt máu, đều quay sang nhìn nhau, im lặng hồi lâu. Cả bản đồ trong cuốn Kinh Thánh mà vị cha cố người Bồ Đào Nha vẽ trộm trong miếu Luân Hồi cũng thấy có nơi này, tất cả các truyền thuyết được ghi chép lại đều đàn tế bên dưới thành Ác La Hải chỉ có con đường duy nhất, vậy phía sau bức tường này là nơi nào? Con mắt máu kia ngụ ý điều gì? Shirley Dương con mắt chảy máu này chắc đối ứng với con mắt nhắm ở trước cửa địa đạo trắng, các totem nhãn cầu muôn hình muôn vẻ ở rất nhiều nơi trong thành Ác La Hải, theo tôi thấy, tất cả các hình nhãn cầu cửa đá đều có tác dụng cảnh báo hoặc phân chia khu vực, song hình mắt nhắm dễ lý giải, còn hình mắt máu lại có thể lý giải rất nhiều cách, khả năng lớn nhất là có tác dụng cảnh cáo, chỉ rằng sau tường này là vùng cấm địa, khu vực bí mật còn quan trọng hơn cả đàn tế. Tôi tới trước bức tường đá ở tận cùng động huyệt để quan sát. Từ ba cửa hang ở phần dưới bức tường có mùi tanh ngấy lùa ra, lấy tay quệt thử, thấy có cả chất gì lầy nhầy, phiến treo những mảnh thủy tinh như hình vảy cá. Dường như sau khi hoạt động tế lễ hoàn thành, những con cá hút máu đều từ trong này chui ra, sau bức tường này có lẽ có nước. Bức tường có các vân đá đều đặn, chứng tỏ trước đây nó từng bị phá ra rồi xây sửa lại, hoặc giả ngay từ đầu vốn là cửa đá chứ phải tường, vì nguyên nhân nào đó bị bít lại. lúc sau, thần trí A Hương hồi phục đôi chút, sắc mặt vẫn trắng bệch đến rợn người, cơ thể hết sức yếu ớt, cũng khó khăn. Shirley Dương hỏi bé vừa nãy xảy ra chuyện gì vậy, có biết mình làm gì ? A Hương thoạt tiên lắc đầu, sau đó như nhớ ra, khi em ở dưới chân cầu, đột nhiên cảm thấy rất sợ, trong đầu chỉ có ý nghĩ là làm sao phải mau chóng rời khỏi đây, vĩnh viễn muốn nhìn thấy những cái xác khô kia nữa, lẩn thẩn thế nào lại tự mình vào đây, thể hiểu nổi vì sao lại làm như vậy. Minh Thúc :" Con tôi mà thấy thứ gì có khí nặng là chảy máu mũi ngay, lần này cũng vậy thôi. Suy cho cùng con bé vẫn còn , có những việc nó biết tốt xấu ra sao, còn chúng ta bôn ba sóng gió nhiều rồi, tất hiểu được lợi hại. Nơi này xem ra tiện ở lâu, mọi người cứ nghe theo lời tôi, ta men theo đường cũ quay trở ra là ổn nhất". Tôi ngẫm nghĩ lát, nếu theo đường cũ, cùng lắm là quay lại được đảo núi lửa nằm giữa lòng hồ. Ở đó tuy có mấy con sông ngầm, song về cơ bản vẫn có thể coi là cùng đường mạt lộ, vả lại dòng sông ngầm chảy gấp, đem theo người bị thương chắc chắn có đường ra, còn phía sau bức tường này tuy có thể có nguy hiểm, nhưng nhất định có cơ hội tìm thấy lối ra, có khi lại liên quan đến Quỷ động, nhổ cỏ phải nhổ tận gốc, kết liễu triệt để, e rằng về sau bao giờ có ngày nào yên thân. Tôi xem kim chỉ Nam đồng hồ đeo tay, bức tường nằm trùng khớp với địa đạo màu trắng chạy theo hướng từ Đông sang Tây mà theo hướng Tây Bắc chếch Bắc. Có được phương vị rồi tôi lập tức hạ quyết tâm, nhưng trước tiên vẫn phải trưng cầu dân ý cái . Shirley Dương , con đường tới đây bị khá nhiều tảng thủy tinh rơi xuống chặn kín, muốn về theo lối cũ đâu có dễ, mìn ống chỉ còn hai thanh, có cho nổ mìn cũng phá nổi đâu. Ngoài ra còn lựa chọn khác, có thể leo lên nổ mìn ống đỉnh hang, khiến nước hồ bên đổ xuống. Sau khi hang ngập nước, ta có thể bơi lên. Có điều chúng ta đều mệt rồi, ngâm mình trong nước lâu e là nguy hiểm đến tính mạng đấy. Minh Thúc nghe vậy bắt đầu do dự, cực lực theo chủ trương phải quay lại hồ ngầm. Lão vốn là người cuồng tín, đương nhiên chịu vào nơi có khí nặng nề. Lão với tôi :" Có lẫn thế chú Nhất, sư huynh của chú chẳng phải bảo lần này chúng ta gặp nước đắc Trung đạo đấy sao? thấy điểm này quả là quá chính xác, phía sau bức tường này có nước hay chúng ta chẳng ai biết được, làm sao có thể bỏ ngoài tai vờ như biết những lời chỉ giáo của cao nhân đây?" Trong bụng tôi thầm chửi lão khọm già Hồng Kông cứ thích cái kiểu trống đánh xuôi kèn thổi ngược, nhưng làm gì được lão đây? Nếu cứ làm theo tôi bỏ mặc lão ở lại người tin vào Chúa trời như Shirley Dương chắc chắn đồng ý, còn nếu mang theo, tuy tinh thần lão ta hồi phục đôi phần, nhưng cái bệnh đa nghi kia chẳng biết tái phát lúc nào. Tôi lại chợt nghĩ, loại người như lão này cũng có nhược điểm, chính là cái mê tín quá mức của lão, sao tôi lợi dụng nhược điểm này khiến lão tin chắc rằng đây chính là con đường duy nhất có thể sống sót? Nghĩ đến đây tôi bèn , gặp nước đắc Trung đạo đương nhiên là sai. Chúng ta dọc đường tới đây, chưa từng rơi vào bước đường cùng, cũng đều nhờ vào nước mà hóa giải được muôn khốn đốn. Song nước trong Kinh Dịch ngũ hành bát quái chắc đều chỉ nước chảy trong hồ, nó cũng ám chỉ phương vị. Theo ngũ hành phương Bắc tượng trưng cho nước, thủy sinh số , thành số sáu, Bắc chính là nước. Điều này ràng thuyết phục được Minh Thúc, bởi lão căn bản thể nào hiểu được. Chính tôi thực ra cũng chẳng hiểu lắm, có điều tôi nghiên cứu bí thuật phong thủy, đương nhiên bao giờ tách khỏi ngũ hành bát quái. Tuy được sâu sắc như Trương Doanh Xuyên, nhưng những nguyên lý tương sinh tương khắc trong ngũ hành tôi cũng đều biết cả, đương nhiên trong đó cũng có số điều là tôi hóng được trong lần chuyện với Trương. Vậy là tôi bốc phét cho Minh Thúc nghe hồi :" Số trong ngũ hành bát quái, thảy xuất xứ từ Hà đồ, Hà đồ là gì vậy? Năm xưa họ Phục Hy làm vua thiên hạ, cũng tức là hồi Phục Hy làm lãnh đạo ấy, ông ta rầu rĩ, ngày nào cũng rầu rĩ. Mọi người nghĩ mà xem, cán bộ lão thành hồi đó làm gì có chuyện tham ô hủ bại như bây giờ, ai cũng đều có trách nhiệm cả, cả ngày nghĩ cho nước cho dân. Có hôm ông ta ngồi dưới cây táo bên bờ sông, suy ngẫm chuyện quốc gia đại ..." Tuyền béo chất lửa nướng cá, nghe tôi đến đây, liền chõ mồm vào :" Nhất ơi là Nhất, cậu kể cái chuyện mà đến tôi còn biết thế à, có phải là có quả táo rơi xuống, rơi trúng đầu ông ta, khiến ông ta nổ đom đóm mắt, rồi ngộ ra đồ hình thái cực bát quái ?" Tôi bảo Tuyền béo biết đừng có xen được ? Để quả táo rơi vào đầu, là Newton, Phục Hy ngồi dưới gốc cây táo rầu rĩ, lo nghĩ cho vận mệnh của thần dân nước ông ta. Thời đại nguyên thủy hồng hoang đó có rất nhiều tai họa, quần chúng nhân dân đều sống trong cảnh nước sôi lửa bỏng, vả lại nhận thức của nhân loại về vũ trụ và thế giới tự nhiên bấy giờ hết sức hạn hẹp. Phục Hy liền đứng bên sông cầu khấn, hy vọng có thể có được chỉ thị nào đó từ đấng toàn năng, làm sao để có thể khiến trăm họ tránh được tai nạn mà an cư lạc nghiệp. Bấy giờ dưới sông có con long mã nhảy vọt lên, lưng có cõng bức họa, thế là Phục Hy liền dựa vào bức họa đó vẽ ra bát quái. Cũng có người thứ con long mã cõng lưng là cái mai rùa khổng lồ, hoặc có lẽ bản thân long mã chính là con rùa già, mai của nó có những vằn vết kỳ diệu hình thành cách tự nhiên. Bất kể truyền thuyết thế nào, tóm lại, đó chính là Hà đồ, Phục Hy dựa vào hình dạng trong họa đồ vẽ ra bát quái, đây là nhận thức sớm nhất về vũ trụ của loài người thế giới, đạo trời thảy ở trong đó. Theo ghi chép, đồ hình trong tấm họa đồ con long mã cõng lưng có chấm trắng, sáu chấm đen ở gần đuôi; bảy chấm đen, hai chấm trắng ở gần đầu ... cái nào giống cái nào, trong Hà đồ tổng cộng có năm mươi lăm chấm đen trắng, trắng hai mươi lăm chấm gọi là thiên số, đen ba mươi chấm gọi là địa số. Màu trắng biểu thị dương, toàn là số lẻ: , ba, năm, bảy, chín; màu đen biểu thị , là các số chẵn: hai, bốn, sáu, tám, mười. Đồng thời trong Hà đồ còn coi , hai, ba, bốn, năm là sinh số; sáu, bảy, tám, chín, mười là thành số, giữa chúng có mối quan hệ tương sinh tương khắc, trong năm phương vị mỗi phương vị đều có số lẻ số chẵn, đều lấy hai con số có ý nghĩa tượng trưng phối hợp với nhau, dùng để biểu thị vạn vật trong thế gian đều do dương hỗn hợp mà thành, có ý rằng thái cực xuyên thấu trời đất, nếu phải trời sinh đất thành, ắt là đất sinh trời thành. Cho nên mới phương Bắc là nơi khí dương được sinh ra, sinh số , thành số sáu, gọi là thiên nhất sinh thủy, địa lục thành chi, quy luật của vạn vật tự nhiên đều nằm ở trong đó, cho nên tôi về hướng Bắc, nhất định có thể gặp nước mà đắc Trung đạo là vì thế. Shirley Dương nghe tôi liền buột miệng khen :" ngờ còn biết mấy cái thứ loằng ngòa loằng ngoằng này, trước đây tôi cứ tưởng ngoài xem phong thủy ra, chỉ biết mỗi việc đếm tiền". Tôi thấy ngay cả Shirley Dương cũng khen tôi có học vấn, trong lòng tự nhiên thấy đắc ý, miệng suýt kéo khóa, song vẫn khiêm tốn rằng, thực ra những thứ tôi biết nhiều lắm, chẳng qua thường ngày mọi người cho tôi cơ hội thể thôi, giờ như vậy mọi người yên tâm rồi chứ, mọi lý thuyết nêu ra đời này đều dựa vào thực khách quan, cho nên tôi mới dám phía Bắc chắc chắn là cửa sống. Ngoài ra còn có nguyên nhân rất quan trọng khác, Mô kim Hiệu úy có quy định cổ xưa là: vào cổ mộ mò vàng, ắt phải thắp đèn ở góc Đông Nam, bởi Đông Nam là phương vị của họa và việc, họa tức là tai nạn, việc tức là làm việc, đèn sáng lên, ắt tiềm tai họa, góc Tây Bắc là con đường sống; Tây Bắc, Đông Bắc và Bắc là ba cửa khai, hưu, sinh, trong tám trạm chỉ có ba cửa này là cửa cát môn, điều này ngay cả Tư Mã Thiên cũng từng nhắc tới, ông ta :" Kẻ làm việc đa phần ở Đông Nam, kẻ thu công thường ở Tây Bắc". Cũng như vậy, trong con mắt của những người tinh thông thuật dương phong thủy, từ trước tới nay sinh ở phương Nam mà thu công ở phương Bắc, xét từ góc độ phương vị chiến lược các vùng Bắc, Tây Bắc, Đông Bắc chiếm ưu thế chiến lược tuyệt đối, phương Bắc chủ sinh thủy, thuộc loại hình thế thiện hoạt. bài diễn thuyết ngắn gọn khiến Minh Thúc tâm phục khẩu phục, thấy chắc chắn phải về hướng Bắc, muốn sống thoát khỏi đây, chỉ có con đường đó thôi. Thế là mọi người lại nghỉ ngơi chỉnh đốn lát, rồi chui vào trong cửa hang thấp ở tận cùng sơn động. Trước khi rời khỏi đây, tôi còn ngắm lại đôi mắt rỏ máu tường đá, xem hình con mắt này có liên quan gì đến việc A Hương định dùng mảnh thủy tinh chọc vào mắt mình ? Trong lòng tôi vẫn có chút lo lắng yên, thực ra mấy lời luyên thuyên bảo phương Bắc sinh nước vừa nãy chẳng qua là để tung hỏa mù thôi, bản thân tôi chẳng có niềm tin gì, nhưng cũng chẳng còn đường nào khác, hy vọng rằng cách này có thể khiến chúng tôi sống sót trở về. Vừa thoát khỏi hang động thấp tè, trước mắt đột nhiên rộng mở, hẻm núi hùng vĩ ra, vách đá hai bên phẳng như gọt, tràn ngập tử khí. Địa hình chỉ có thể nhìn thấy lờ mờ ở gần quanh dựa vào ánh sáng yếu ớt phát ra từ dải đá quặng này, còn những nơi cao và xa hơn chỉ rặt màu đen kìn kịt. Chúng tôi tiến về phía trước mấy chục mét phát ra cơ man xương cốt hóa thạch của động vật khổng lồ chồng chất ngổn ngang trong hẻm núi, cái đầu lâu hình tam giác gần chỗ tôi đứng nhất, cũng chỉ hơn căn nhà dân chút xíu. Ở chỗ gần sát rìa sơn cốc, vô số hài cốt hóa thạch dính liền vào nham thạch, chỉ có những thanh xương sống dài chứng tỏ rằng những tảng đá này từng có sống. Tuyền béo cõng A Hương hôn mê bất tỉnh, với chúng tôi :" Chẳng phải bảo người Ma quốc thờ rắn sao? Ở đây có xương cốt của con rắn lớn như thế, tôi thấy chúng ta phải đề phòng hơn, chừng còn có con sống đấy!" Shirley Dương , những xương cốt trong hẻm núi này giống xương rắn, mà giống như xương của cá voi long vương gì đó, ít nhất cũng chết cách đây mấy trăm ngàn vạn năm rồi. Tôi cũng đồng ý với cách nhìn nhận của Shirley Dương, rất đúng, rắn làm sao có khúc xương sườn to như vậy được, trông như cả cái khung tàu ấy. Tất cả các xương cốt ở đây đều là hóa thạch, có xương thời cận đại, cho nên phải lo đâu, có điều chúng ta vẫn chưa biết người thành Ác La Hải làm gì ở trong đây, điểm này cần phải đề phòng đấy. Chúng tôi định qua đó dò đường A Hương đột nhiên với tôi, mé bên phía sau có thứ gì đó khiến em cảm thấy rất nhức đầu. Chúng tôi vội ngoái lại nhìn, rồi bất giác "ồ" lên tiếng đầy kinh ngạc. Chẳng ai ngờ rằng chính ở chỗ chúng tôi chui ra lại có pho tượng khổng lồ màu đen khoét vào trong thân núi tựa như pho Lạc Sơn Đại Phật. Ánh huỳnh quang lấm chấm thân núi ánh lên dáng vóc cao ngút đen tối của pho tượng, tựa như bóng đen bặm trợn, quay lưng về phía chúng tôi. Kỳ lạ nhất là pho tượng cao mấy chục mét này hơi ngả người về phía trước, mặt và hai tay găm vào núi, tư thế giống như cúi mình nhòm vào trong núi, nét tạc đá hề tinh xảo phức tạp, chỉ phô ra dáng vóc đại khái chứ có bất kỳ trang trí hay hoa văn nào khác. Mọi người ai nấy đều có nghi vấn, biết đây có phải là hình tượng chân thực của Đại hắc thiên Kích Lôi sơn ? Đây rốt cuộc là nơi nào?Chúng tôi lập tức phát ra, phía trước và phía sau pho tượng khổng lồ đều có mặt giống nhau, phân biệt đâu là ngực đâu là lưng, mà cũng chỉ có hai cánh tay chứ có chân, ở vị trí tiếp giáp giữa pho tượng và mặt đất có cửa hang cao hơn trượng, bên trong dường như có gian nào đó, trước cửa có mấy cây trụ đá đổ sập. Tuyền béo , chẳng dễ dàng gì giữ được tòa kiến trúc hoàn hảo thế này, chẳng bằng cứ tiến vào xem, tìm ít đồ đáng tiền rồi hẵng lo chuyện quay về, bằng chuyến này lỗ vốn mất. Tôi cũng định vào đó xem sao, cứ mải ngẩng đầu lên nhìn pho tượng, chân giẫm phải vật ngáng đường, suýt ngã. Hóa ra trong hẻm núi này còn có rất nhiều cột trụ bằng đá, dưới chân chúng tôi có cây đổ xuống, quá nửa còn chưa lún sâu vào đất bùn. Shirley Dương quan sát cột đá dưới chân, bỗng nhiên biết đây là đâu rồi, nhưng thẳng ra mà lại bảo với A Hương :" Để chị kiểm tra mắt em được ?"
Chương 37 HANG RẮN Hẻm núi trong lòng đất tựa như tầng cuối cùng của địa ngục, đâu đâu cũng thấy xương cốt lởm chởm của sinh vật thời tiền sử, các cột đổ gãy rải rác so với những bộ xương này đều ít ỏi chẳng nhằm nhò gì, vả lại phần lớn đều vùi vào trong lớp đất màu xám, cho nên lúc mới vào đây chẳng ai phát ra kiến trúc do con người tạo dựng, mãi đến khi A Hương chỉ vào pho tượng thần màu đen khổng lồ ở sau lưng, chúng tôi mới để ý thấy xung quanh còn có rất nhiều cột đá. các cột đá đều có đục lỗ mũi trâu, có cái còn giữ lại được vòng đá to cỡ cổ tay, ngoài ra thứ bắt mắt nhất chính là totem con mắt khắc ở từng khấc cột. Những totem này chúng tôi thấy quá nhiều lần rồi, chẳng có gì mới mẻ cả, và ở đây có nhìn nó lần nữa cũng chẳng cảm thấy gì bất ngờ. Totem con mắt, ngoài hai cái hình dạng hết sức đặc biệt ở hai đầu đàn tế ra, đầu là con mắt nhắm, đầu là con mắt rỏ máu, còn lại đều như nhau cả, con mắt cột đá này thuộc loại tương đối phổ thông, tôi thấy có điểm nào đặc biệt. Nhưng Shirley Dương quan sát hình con mắt những cây cột đá này xong hình như phát có điều gì đó dị thường, cứ đòi phải xem kỹ mắt của A Hương. Để A Hương khỏi căng thẳng, Shirley Dương dùng giọng nhàng xin xỏ, chẳng khác gì lúc chuyện bình thường. A Hương gật đầu đồng ý, nét mặt vẫn hết sức sợ hãi, đại loại cũng cảm thấy khó hiểu, biết kiểm tra mắt nghĩa là thế nào? Chỉ thấy Shirley Dương nín thở, đứng sát vào A Hương, chăm chú nhìn vào đôi mắt của em ấy, kiểu như lục tìm gì đó. Tôi hiểu Shirley Dương, mặc dù chỉ qua loa đại khái, nhưng chắc chắn có vấn đề gì đó chúng tôi chưa ý thức được. Hành động của em A Hương này quả thực cũng rất bất thường, yên lành tự dưng mắc chứng ly hồn, cầm thủy tinh sắc đâm vào mắt mình. Có khi đúng như Minh Thúc , A Hương bị trúng tà rồi, càng có khả năng đôi mắt của em có mối liên hệ nào đó với thành Ác La Hải, liệu đây có phải là Quỷ mẫu phi bên cạnh chúng tôi nhỉ? Tôi đoán già đoán non, tính tính lại, nhưng có vẻ chẳng đúng được điều gì. Thấy Shirley Dương chăm chăm nhìn vào mắt A Hương, tôi và Tuyền béo túm tụm lại xem, nhìn mãi cũng chẳng phát được cái gì khác lạ cả. Cuối cùng Shirley Dương dường như tìm ra đáp án trong mắt A Hương, thoạt tiên nàng bảo A Hương chớ lo lắng, có việc gì xảy ra đâu, sau đó bảo chúng tôi xem con mắt cột đá, tuy trông nó cũng chẳng khác gì những hình vẽ khắc trong thành Ác La Hải, nhưng có chi tiết hết sức độc đáo, đó là hình con mắt ở đây có ngấn tròn màu đỏ hằn lên, bao quanh đồng tử. Shirley Dương bảo chúng tôi nhìn vào mắt của A Hương xem thử, mắt của bé cũng xuất tình trạng tương tự. Lúc này tôi mới để ý đến khác biệt tinh tế mà mình bỏ qua. Nếu quan sát kỹ đồng tử của A Hương nhận ra bên trong quả thực có ngấn máu giống như đường gân đỏ bao quanh con ngươi trắng, cực kỳ mỏng mảnh, nhìn kỹ chắc chắn thấy được. Nếu A Hương chạy vào sơn động, có lẽ chúng tôi cũng phát ra chỗ này. Đôi mắt của A Hương sao mà giống totem nhãn cầu ở đây như thế, vậy là bé cố ý dẫn dụ chúng tôi vào sơn động này hay sao? Có điều, trước mặt A Hương, tôi dám ra những lời này. Shirley Dương biết việc vừa rồi rất dễ khiến mọi người ngờ vực, thế nào cũng nghi ngờ A Hương. vốn chẳng tin vào những chuyện chuyển kiếp, nên giải thích rằng luồng điện sinh học của cơ thể người phát ra từ đôi mắt đại loại chỉ có 7%, cực kỳ yếu, song thể chất của mỗi người khác nhau, khả năng cảm ứng đối với dòng điện sinh học này cũng khác nhau. Đôi mắt của A Hương có thể tiếp nhận được dòng điện từ số vật khác hơn so với người thường, như thế quả thực rất đặc biệt, nhưng thế giới cũng có ít người sở hữu năng lực này. Chính vì thế từ trong tiềm thức A Hương mới bị dẫn đến đây, totem cây cột này chính là chứng cớ xác đáng nhất. Minh Thúc nghe xong vội , có chuyện gì tốt cả thế, chúng ta mau về hướng Bắc thôi, sớm rút khỏi đây, mặc kệ những thứ ma quỷ ... Lão dở chừng, A Hương bỗng nhiên lên tiếng :" tích gì đâu cha ạ, có đường để đâu, phía sau có rất nhiều rắn độc đuổi đến, chúng ta chết hết thôi, con... con sợ rắn lắm, con muốn bị rắn cắn chết đâu ... hu hu..." vừa nước mắt vừa lã chã rơi xuống. Lời của A Hương khiến mọi người đều giật mình, sao bảo có rắn là có rắn ngay? Nghĩ đến những con rắn đen trong địa đạo trắng ở núi Kích Lôi, tự dưng lạnh cả xương sống. Nếu như gặp đàn rắn ấy trong hẻm núi này chẳng có chỗ nào để mà tránh, chạy thẳng về phía trước cũng ổn, có mỗi hai chân làm sao chạy nhanh bằng lũ rắn đen xuất quỷ nhập thần ấy kia chứ, hai bên vách núi lại sắc phẳng như dao cắt, ngay cả khỉ vượn e cũng chẳng leo được. Từ sơn động phía Đông và các kẽ núi mạch thủy tinh nham thạch vang lại tiếng trườn của bầy rắn, mặt Minh Thúc biến sắc, giật cánh tay tôi liên tục :" Chú Nhất này! Lần này trông chờ vào chú cả đấy, may mà ban đầu nghe lời chú về hướng Bắc, phía Bắc có nước, có nước là có đường sống, chứ vừa nãy mà nghe chú, quay về đường cũ, giờ chắc là nằm trong bụng rắn cả rồi, chúng ta mau chạy về hướng Bắc thôi!". đoạn, liền kéo tôi chạy. Tôi vội kéo tay lão lại :" Đừng có hoảng! Phía trước hoang vu mịt mùng, chạy ra đấy chết là chắc. Tôi thấy trước mắt cứ vào trong pho tượng đen tránh cái , bịt chặt cửa hang chặn lũ rắn lại, rồi nghĩ cách khác thoát thân!" Tiếng trườn của lũ rắn nghe xôn xao như dòng nước thủy triều, chưa thấy bóng dáng chúng đâu, chỉ riêng thanh đủ khiến người ta sợ vỡ mật rồi. chần chừ được nữa, tôi bảo Tuyền béo cõng A Hương, còn mình kéo Minh Thúc, sải bước chạy vào trong cửa hang phía dưới pho tượng đen. Lòng pho tượng bị khoét rỗng, rất tối tăm, chúng tôi dùng đèn pin chầm chậm lia ra xung quanh, thấy có những kiến trúc bằng gỗ và đá phân thành rất nhiều tầng, xem ra có thể leo thẳng lên đầu pho tượng. Bầy rắn đen gần áp sát đến nơi, còn giờ quan sát tình hình trong này nữa, Tuyền béo đặt A Hương xuống đất, cùng tôi và Minh Thúc ra khuân hai phiến đá lớn, chặn cửa hang, sau đó vẫn chưa hết căng thẳng, chân ai cũng mềm nhũn ra. Trước đây tôi và Tuyền béo vẫn hay ra đồng bắt rắn, nhưng loài rắn đen này những số lượng nhiều mà còn di chuyển nhanh như chớp, độc tính lại vô cùng đáng sợ, dính phải là chết ngay. Chúng tôi còn lo lòng pho tượng còn có kẽ hở nào khác, mọi người bàn bạc hồi, cùng nghĩ cứ leo lên phía là hơn vì xét cách tương đối bên an toàn hơn chút. Để tiết kiệm nguồn sáng, cả đoàn chỉ bật chiếc đèn pin và đèn gắn mũ leo núi. Leo lên rồi mới phát ra trong này hề bảo đảm chút nào, vì lòng pho tượng khổng lồ có rất nhiều căn phòng đá rải rác, hình dáng tổng thể gần giống thành Ác La Hải, như tổ ong, tuy kết cấu phức tạp đến vậy. Các gian buồng tựa như hốc đá trong này đến tội nghiệp. Tôi nghĩ đây có lẽ phải nơi dành cho người ở, thực là quá chật hẹp o bế, nếu người sống trong đây, chắc ở được dăm hôm chết vì ngột ngạt. Khắp nơi bụi đất phủ kín, khí bí bách, nếu cả năm người chúng tôi ở lâu nơi chật hẹp thế này, chắc chắn tức ngực vì thiếu oxy. Mãi đến khi leo lên tầng bốn mới cảm thấy có gió mát thổi vào, đường rất tối tăm, chúng tôi cứ lựa men theo dòng khí lạnh mát, được lúc gặp cửa hang rộng chừng mét vuông, chính là lỗ thông gió của phần bụng và chân tượng. Bức tượng gần như đen tuyền nên đứng phía dưới thể nhìn thấy nơi này, nếu có các cây cột đá đổ gãy, thậm chí cũng chẳng dễ dàng gì mà phát ra lối vào ở chân tượng. Tôi nhoài người ra khỏi cửa hang đó, từ cao nhìn xuống, dưới ánh đèn huỳnh quang chập chờn, hàng mấy lớp rắn đen ngoằn ngoèo chuyển động tụ tập cả lại trong khu vực phía dưới tượng thần, con to bằng cỡ cánh tay, con trông như lá liễu, đầu đều có con mắt thịt màu đen. Trong bầy rắn đó, có con nằm cuộn mình lại trông rất biếng nhác, có những con giằng co nhau, phả ra những tiếng xè xè, số lượng mỗi lúc nhiều, nhìn cả đống rắn nhung nhúc, khiến người ta cảm thấy lợm giọng. Shirley Dương thấy vậy liền bảo chúng tôi :" Hành động của những con rắn này rất lạ, hình như chúng bò tới đây phải để tấn công chúng ta, mà như chúng chờ đợi chuyện gì đó phải". Tuyền béo đặt A Hương xuống, thở hổn hển :" Tôi thấy bọn nó đợi ta xuống dưới làm cơm đấy". Đoạn giơ đồng hồ lên xem thời gian, rồi lại :" Đấy, đến bữa rồi mà!". A Hương nghe Tuyền béo mà sợ hết hồn, ngồi mặt đất run lẩy bẩy. Minh Thúc thấy tình hình phía dưới cũng mất hồn mất vía, hỏi tôi giờ phải làm thế nào, chẳng còn gì ăn nữa rồi, nước trong bình gần hết, chẳng thể nào cứ nấp mãi trong pho tượng được, vả lại căn phòng đá này trông mà nổi da gà, ngay cả A Hương cũng rằng chỗ này khiến nó đau đầu, chúng ta lần này lâm vào bước đường cùng rồi, có mọc cánh cũng chẳng bay ra được. Lòng tôi cảm thấy rất bất an, chắc chắn thể thoát ra ngoài được, trong khi kiến trúc trong bụng tượng thần màu đen này lại giống như nơi dành cho con người ở, có trời mới biết nơi đây có thứ gì. Tuy nhiên tình thế lúc này cần phải trấn an tinh thần mọi người , tôi bèn viện lấy cái cớ làm ổn định lòng dân, :" Thực ra chỉ có phương Bắc thuộc hành thủy, trong ngũ hành màu đen cũng tượng trưng cho nước, pho tượng thần khổng lồ này đen tuyền, đương nhiên cũng thuộc hành thủy, cho nên tôi nghĩ mọi người trốn cả vào trong đây, chắc chắn nguy hiểm đến tính mạng đâu!". đến đó, tôi bỗng nhiên nghĩ ra vài biện pháp, liền bảo mọi người :"Vừa nãy dưới chân hẻm núi, chúng ta nhìn thấy lớp kén núi lửa, mặt đất có rất nhiều bọc lớn nổi phồng, có lẽ đó là do ngọn núi trước đây từng phun nham thạch, nhiệt độ cũng cao hơn hẳn so với những chỗ khác. Những dấu vết này chứng tỏ nơi đây có dải núi lửa. Chúng ta phát ra ngọn núi lửa tắt ở lòng hồ, như thế có nghĩa là cả dải núi lửa này đều tắt. Lũ rắn thích những nơi lạnh ẩm, đều bò ra từ sơn động phía Đông, tuyệt đối dám đến gần phía Bắc, vì càng đến gần phía Bắc mùi lưu huỳnh càng đậm đặc. Chỉ cần chúng ta nghĩ cách cắt đuôi chúng, thoát ra được chừng hai dặm là có thể an toàn vượt qua nguy khốn rồi. Tôi thấy có thể dùng vật liệu trong này để nhóm lửa xua chúng đấy". Minh Thúc thấy tôi có rất nhiều chỗ hớ, bèn :" đúng, rắn ở đây đen tuyền cả, xem chừng cũng đều thuộc thủy. đây tuy hiểu Dịch số, song cũng biết thủy khắc hỏa, cho nên tuy lũ rắn thích nơi lạnh ẩm, chúng vẫn dám kéo đến đây, ngoài ra chúng ta gặp nước có đường sống, sao lại dám đốt lửa nhỉ? Làm vậy có khác nào phạm vào điều cấm kỵ trong ngũ hành tương khắc?" Tôi nghĩ bụng thằng khọm Hồng Kông này sao mà đáng ghét thế biết, lại dám gân cổ tranh luận với tôi về nguyên lý tương sinh tương khắc trong ngũ hành, cái lẽ ngũ hành cũng giống như cái bánh xe, thế nào cũng tròn trịa hết, dẫu vô lý đùng đùng ông Nhất đây vẫn cho xuôi được, ông lại chịu thua mày ư? Vậy là lại với lão :" Thiên nhất sinh thủy, địa nhị sinh hỏa, thiên tam sinh mộc, địa tứ sinh kim, thiên ngũ sinh thổ, ngũ vị ngũ hình đều là ngũ hợp, cho nên trong Hà đồ, số dương - số lẻ là mục, số - số chẵn là phi, mà trong đại số thời dương đổi vị, cho nên phi lấy ngũ mà thành. Người đại chỉ biết thủy khắc hỏa, mà biết thủy là mục của hỏa, hỏa là phi của thủy, người thời nay chỉ biết thủy vượng ở phương Bắc, hỏa dấy ở phương Nam, mà biết lẽ hưng suy trong ngũ hành có liên quan tới tinh tuế, bác chỉ biết thủy khắc hỏa, chứ biết nếu hỏa thịnh thủy suy, cũng như vậy, vượng hỏa cũng có thể át suy thủy, điều này chứng tỏ bác chẳng hiểu gì về phép cổ, chúng ta ở đây là vượng thủy, những con rắn kia là suy thủy, cho nên chúng ta vượng thủy có thể mượn hỏa để đẩy lui suy thủy. Song hỏa này thể vượng hơn thủy của ta được, bằng chúng ta gặp nguy hiểm". Minh Thúc nghe xong mắt tròn mắt dẹt, đờ ra lúc rồi mới :" Ôi ... cao ... siêu quá! Thế nên mới hay với A Hương, sau này có lấy chồng phải lấy Mô kim Hiệu úy ... bằng toàn thằng đụt cả!". Shirley Dương bỗng hươ tay, ra hiệu mọi người chớ chuyện nữa, ngoài kia bắt đầu có động tĩnh. Chúng tôi lập tức cảnh giác cao độ. Mọi người rón rén túm tụm cả lại bên cửa hang dõi xem động tĩnh bên dưới. Shirley Dương bảo chúng tôi nhìn xuống lũ rắn phía dưới, mà chỉ lên vách đá phía cao kia. đó chẳng biết từ lúc nào có chuỗi tựa như những ngọn đèn trắng đung đưa, số lượng hề ít. Tuy nhiên khoảng cách quá xa, mạch thủy tinh thưa dần, ánh huỳnh quang lại mờ nhạt u ám, quả thực cũng nhìn . Tôi mạnh tay dụi mắt, vẫn thấy lờ mờ, xem ra lại còn giống như đèn, mà tựa như có vô số người tí hon mặc áo trắng xếp hàng vậy. Rồi đột nhiên bóng trắng trước mắt lay cái, từ dốc đá tương đối trơn nhẵn vách núi có mấy cục to tròn trắng xóa lăn tới tận chân núi. Bầy rắn dưới đất lũ lượt trườn về phía những vật thể màu trắng đó. Chúng tôi cách mặt đất chỉ có mười mấy mét, nên nhìn tương đối . Những khối tròn to kia là những hình cầu dính nhơm nhớp, lũ rắn đen tranh nhau len vào quanh khối cầu, vây chặt lấy, rồi nằm im bất động. Đột nhiên có rất nhiều thứ màu đỏ tươi từ trong vật thể trắng trồi ra, giống như những bông hoa đỏ đột ngột nở xòe, rồi thẫm tối và tan trong chớp mắt. Mọi người càng nhìn càng lạ, tiếp tục chăm chú quan sát tiếp thấy trong khung xương hóa thạch găm vào dải nham thạch có con rắn đen to gấp đôi đồng loại nằm cuộn tròn, chẳng biết là từ kẽ đá nào trườn ra, lưỡi thè lè đỏ sậm. Toàn thân nó phủ kín vảy đen lóng lánh, sắc màu xán lạn, mồm há ngoác ra, rớt dãi ròng ròng chảy xuống. Lập tức tảng đá chỗ đó mọc lên cây nấm độc bé xíu màu đỏ tươi, rồi chớp mắt khô héo, liên tục mọc lên chết , thế mới hay độc tính của con rắn này thuộc loại cùng cực, vượt ra ngoài sức tưởng tượng của con người. Con rắn lớn từ báng xương trườn xuống, luồn vào giữa đám vật thể màu trắng, nuốt từng cái , lũ rắn đen còn lại lẳng lặng cung phụng cạnh bên, dám làm kinh động, chừng như phải đợi đại ca ăn xong mới được phép ăn phần thừa còn lại. Tuyền béo lấy làm lạ hỏi :" Kia là cái gì thế nhỉ? Trứng gà à?". Tôi nhìn lắm, nhưng đoán các vật thể trắng to tròn kia có lẽ là trứng của con vật nào đó, có thể là của loài kiến trắng khổng lồ, dính kèm bên trong nhiều xác côn trùng và động vật. Tôi nhìn lại chỗ có hàng người tí hon màu trắng cao, đoán ra được tình, chắc phải đúng đến chín phần mười rồi, bèn với mọi người :" Hóa ra kia là lũ địa quan , thảo nào bọn rắn đen lại gắng chịu tới chỗ khô nóng này. Quả đúng như lời Tuyền béo , chúng đến để ăn tối, ăn no rồi giải tán thôi, mọi người gắng nhẫn nại đợi cơ hội ! Loài địa quan này bản tính tàn nhẫn giảo hoạt, lại hết sức tham lam, thích dự trữ thức ăn, dù ăn cũng phải cất đồ ăn vào phía sâu trong này, ngờ lại bổ béo cho lũ rắn". Mọi người nghe tôi vậy mới thấy lòng. Lũ rắn mò tới đây vậy là phải vì chúng tôi, chắc cũng phát ra chỗ chúng tôi náu, lát nữa thôi là có thể thoát hiểm rồi. Nhưng A Hương đột nhiên lại mở miệng :" phải đâu, chúng thấy em rồi ... em có thể cảm nhận được điều này". xong cúi đầu im lặng, tỏ ra hết sức ủ rũ, bất lực. Tôi thấy A Hương rất nghiêm túc, cũng biết những việc thế này bé dám đùa cợt đâu, nghĩ đến những dòng rớt dãi đỏ tươi kịch độc chảy ra từ miệng con rắn lớn, trán tôi bắt đầu vã mồ hôi. Tôi lại ngó ra ngoài cửa hang nhìn trộm cái, thấy con rắn to nhất đàn quấn tròn mình hóa thạch cá voi nhìn thẳng về phía cửa hang, ngóng đầu thè lưỡi. Tôi vội co rụt người lại, thôi đúng rồi, con rắn phía dưới kia chắc chắn phát được tồn tại của chúng tôi, chỉ biết vì chúng định phát động tấn công sau khi ăn hết trứng kiến, hay tượng thần này là khu vực cấm nên chúng dám tiến vào. Tôi bảo Tuyền béo ở lại cửa hang theo dõi động tĩnh của lũ rắn; còn tôi, Shirley Dương và Minh Thúc phải tranh thủ thời gian làm vài cây đuốc. Tôi chui vào căn buồng đá bên cạnh cửa hang, giơ đèn pin lên soi, định tìm xem có thứ gì đựng dầu . Tuy trải qua bao nhiêu năm, nhưng dầu mỡ bò Yak và dầu thông của người Tạng cổ vẫn được bảo quản đến tận bây giờ, có lẽ còn có thể cháy tốt. Vừa nãy khi leo lên đây, chúng tôi trông thấy trong này có bát đèn, nơi đây có ánh sáng mặt trời, nếu có đèn nữa quả rất bất bình thường. Mang tâm lý cầu may, tôi cầm đèn pin soi khắp lượt. Phòng đá ba bề bốn bên trống hươ trống hoác, chỉ thấy trong góc có chiếc mặt nạ cổ bằng ngọc có lỗ mắt. Shirley Dương cũng phát ra vật tương tự ở trong căn phòng đá khác. Tôi hỏi Shirley Dương liệu đây có phải mặt nạ của Quỷ mẫu Ma quốc , lẽ nào công trình khổng lồ này là cho Quỷ mẫu ở? Shirley Dương :" đâu! Địa vị của Quỷ mẫu trong Ma quốc rất cao, chắc chắn mụ ta sống trong thần điện của thành Ác La Hải, nơi đó bị phá hủy hoàn toàn rồi. Tôi thấy môi trường ở đây rất kém, bảo là nhà tù cũng chẳng quá đáng đâu, hơn nữa hình con mắt cũng rất đặc biệt, giống y như mắt của A Hương, mắt kiểu này chắc phải là mắt quỷ. Mấy đời Quỷ mẫu mới có người thực nhìn thấy Quỷ động, tôi nghĩ biết liệu nơi đây có phải dùng để ... giam cầm những kẻ có đôi mắt phù hợp cầu ? cột đá phía dưới kia có lỗ mũi trâu và vòng đá, ràng là dụng cụ để hành hình. Những người bị gạt ra có thể đều bị nhốt trong đó cho rắn ăn thịt". Tôi gật đầu :" Nếu như vậy, nơi này quả rất giống nhà lao. Có điều về điểm này, tôi còn có điểm nghi vấn rất lớn nghĩ mãi vẫn chưa thông ...". Vừa đến đây thấy Tuyền béo nhô ra cửa hang rụt cổ vào hỏi rối lên :" Đuốc điếc thế nào rồi? Tôi thấy lũ rắn bắt đầu trườn về phía chúng ta rồi đấy, phải mau đốt lửa lên thôi!". Tuyền béo đợi tôi trả lời, đột nhiên hạ thấp giọng với tôi và Shirley Dương :" Nhìn kìa, trông con ranh kia làm cái trò gì thế?". Tôi quay đầu lại nhìn A Hương. bé đứng ở góc tối, quay lưng về phía chúng tôi, mặt đối diện với bức tường đen, tay chạm lên đó, toàn thân run lẩy bẩy. Đột nhiên bé quay đầu lại nhìn chúng tôi, hai dòng máu đen ngòm chảy dài gò má, tay từ từ đưa lên trỏ vào tường :" Ở đây có người đàn bà!".
Chương 38 THIÊN NHÃN Tượng thần màu đen thực tế là tảng đá khổng lồ cao như núi, ruột khoét rỗng, bên trong có chút ánh sáng nào do cấu tạo từ nham thạch đen tuyền. Shirley Dương giơ đèn pin mắt sói lên, soi ngược về phía thông đạo. Luồng sáng hẹp chiếu đến góc cuối, soi A Hương cúi đầu, mặt nhìn vào vách tường. Trước đó ai để ý đến hành động của A Hương, giờ mới thấy bé đứng im lìm như con ma, hình như lại mắc chứng ly hồn, ai nấy khỏi hết sức lo lắng, đồng thời trong lòng lại có thêm tâm lý cảnh giác. Shirley Dương chưa kịp cất giọng gọi, A Hương xoay người, quay mặt về phía chúng tôi. Tất cả chúng tôi suýt kêu lên thất thanh, chỉ thấy gò má A Hương có hai dòng máu đen tuôn chảy như hai hàng nước mắt, đôi mắt tuy mở to nhưng còn sống. Shirley Dương thấy A Hương chảy máu mắt, vội chạy tới kiểm tra vết thương cho bé. A Hương lại đột nhiên giơ tay chỉ vào bức tường phía sau mình :" Ở kia có người đàn bà, bà ta ở tường ... chỉ ở chỗ đó, mỗi bức tường trong hang đá này đều có người đàn bà". Vừa người vừa lắc lư như sắp ngã. Shirley Dương bước tới dìu A Hương, lau vết máu mặt cho bé, kiểm tra kỹ tình hình vết thương ở vùng mắt nhưng vì trong hang tối om nên nhìn , hỏi có đau bé trả lời là đau, may mà mắt A Hương chưa mù, mọi người biết vậy mới thở phào nhõm. Minh Thúc tìm nhiên liệu ở vách tường kế bên, nghe tiếng liền chạy tới, nhìn A Hương thở dài não nuột, bảo chúng tôi nơi này khí quá nặng, A Hương hễ nhìn thấy thứ gì sạch, mắt và mũi đều chảy máu vô duyên vô cớ, song chảy máu ở tuyến lệ là chuyện vô cùng hi hữu, mấy năm gần đây mới xảy ra hai lần, lần đến căn nhà ma ám đệ nhất Hồng Kông, còn lần nữa là nhìn "đồ cổ" vớt được ở Nam Hải. Hai lần đó do A Hương có những biểu hết sức dị thường cho nên Minh Thúc đắn đo mãi, cuối cùng quyết định nhúng tay vào. Sau này mới biết cả hai việc kia đều liên quan đến vô số án mạng kỳ quái khó hiểu, lão tham gia vào vụ đó, kể cũng là cao số. Bây giờ ở trong lòng pho tượng thần A Hương lại có biểu kỳ dị như vậy, chắc chắn thể ở lâu nơi đây được, tìm cách sớm e là khỏi xảy ra án mạng. Minh Thúc đến đó lại nhớ tới lũ rắn độc kéo đến hàng đàn, nhất là con rắn to nhả dãi rớt đỏ choét kia, cảm thấy quá rùng rợn, cân nhắc chút thấy ràng nơi này tuy khí lấn át, nhưng ít nhất cũng chưa đến nỗi có con quỷ dữ nào từ trong tường nhảy bổ ra đòi mạng, nên lại quay ngoắt lại bảo màu đen vượng thủy, lúc này ắt phải tin vào lời của chú Nhất, thể tin A Hương được, cứ ở lại nơi này là thỏa đáng nhất. Tuyền béo kiểm tra đạn trong súng, nghe thấy Minh Thúc khuyên mọi người mau chóng rời khỏi chỗ này, liền :"Tôi vừa thấy lũ rắn ngoài kia bắt đầu tràn vào trong đây rồi đấy, mặc xác là về hướng Bắc hay hướng Tây, muốn rút phải rút mau lên, còn muốn ở lại phải mau chóng tìm chỗ nào có thể vừa tấn công vừa phòng thủ ấy, cho nó dễ xoay xở, chuyển sang đánh du kích mới thắng được". Tôi :" Giờ mà lao bừa xuống khác nào chui đầu vào chỗ chết. Bất kể là theo hướng nào, chắc chắn đều thoát được, ta có chạy nhanh nữa cũng cắt đuôi được lũ rắn đen kia đâu, cái núi đá này lại chẳng biết có bao nhiêu lỗ hổng, tuy ta bịt kín được lối vào, nhưng biết liệu có đường vào khác hay nữa, có điều ở đây chật hẹp nên lại dễ thủ khó công, chắc có thể chống chọi được lúc". Tôi biết là chuột chạy cùng sào, song trước mắt quả thực còn cách nào khả thi hơn. Shirley Dương cũng công nhận rằng tình hình trước mắt chỉ có thể cố thủ chứ thể tháo chạy, mà cũng chẳng cần bàn đến tốc độ, riêng về địa hình nơi đây thôi, chỗ có thể lui trống hốc trống hoác, chẳng có gì che chắn, nếu bỏ chạy tuyệt đối còn đường sống. Đương nhiên nếu bị vây khốn ở đây chẳng qua cũng chỉ là chết sớm hay muộn thôi, cho nên phải tranh thủ lợi dụng hết số thời gian ngắn ngủi này, xem xem quanh đây có thể tìm thấy thứ nào xua được rắn hay , nhân đó đột phá vòng vây mà thoát ra. Trong lúc bàn bạc kế sách, mọi người cũng ngơi tay mà liên tục chuyển ra mọi thứ có thể bịt các cửa vào, càng làm càng thấy rợn người, bởi lẽ trong này có quá nhiều lỗ hổng, thể nào bịt kín cho hết được. Tiếng rắn trườn phía dưới mỗi lúc gần, mọi người chẳng còn cách nào khác đành tiếp tục rút lên phía , đồng thời nghĩ đủ mọi cách để giảm tốc độ của chúng. Chúng tôi vội vã leo lên, cứ qua được tầng lại đẩy đá phiến ra bịt chặt lối thông xuống dưới, cuối cùng cũng leo tới tầng chóp. Từ nhìn xuống mới thấy địa thế nơi đây hiểm trở đến cùng cực, chỗ chúng tôi đứng là thông đạo hẹp, hai bên đều có ba hang đá thấp . Con đường lên này độc đạo, cùng lộ thiên, phần đầu của pho tượng này chỉ có nửa, phần từ mũi trở lên chẳng là vì lâu năm nên sạt lở, hay làm sao, chỉ biết giờ chẳng còn nữa. Leo lên khỏi thông đạo là có thể thấy các vách đá lởm chởm sắc như dao gọt. Pho tượng khổng lồ vốn cực kỳ cao lớn, nhưng ở trong cái vực sâu dưới lòng đất này lại trở nên bé hết mức. Chúng tôi đứng đỉnh đầu pho tượng trông lại càng giống như những con kiến bé tí xíu. Tôi và Tuyền béo leo ra chỗ lộ thiên nửa đầu pho tượng. Vừa nhìn xuống dưới, Tuyền béo suýt ngất. Những dòng khí u ám trong sơn cốc luân chuyển gây ra thứ thanh thút tha thút thít, trung phảng phất mùi lưu huỳnh quái lạ, tình thế như trong cơn ác mộng khiến người ta sợ run. Tôi cũng dám nhìn tiếp xuống nữa, vội kéo Tuyền béo cùng trở lại tầng dưới. Shirley Dương sắp xếp cho A Hương ở góc, ngồi đống hành lý để nghỉ ngơi, thấy tôi và Tuyền béo xuống, liền hỏi chúng tôi kia có đường rút lui hay . Tôi lắc đầu, có đứng lát đó thôi mà thấy tim đập thình thịch rồi, đừng nghĩ tới chuyện thoát thân làm gì. Tuy nhiên Minh Thúc đứng bên cạnh, để lão khỏi khủng hoảng, tôi cũng thẳng ra, chỉ bảo chỗ chúng ta đứng đây có thể là tận cùng rồi, may mà phần đầu pho tượng hẹp lại, chỉ cần bịt kín đường lên là được, pho tượng này quá cao, phía ngoài lại rất dốc, lũ rắn thể bò từ bên ngoài vào đây đâu. Cũng may là trong hang đá mỗi tầng đều có vài phiến đá đen sì, trông như ván quan tài, cũng chẳng biết dùng để làm gì, cứ tìm mấy miếng vừa vừa đậy lên lối vào, rồi lại khiêng vài khối đè lên, xem ra cũng đủ an toàn. Lũ rắn độc kia tuy hung dữ, nhưng cũng thể nào cắn người qua vách đá được. Sau khi kiểm tra nhiều lần để chắc chắn còn kẽ hở nào nữa, mọi người mới ngồi quây lại bên nhau. Vì mỗi tầng đều có sắp đặt chướng ngại vật, lô lốc rắn độc kia muốn bò lên ít nhất cũng phải mất hai tiếng, và đây có thể cũng chính là những giây phút cuối cùng của chúng tôi, muôn vàn ý nghĩ ào ạt ập tới cứ như những ngọn thủy triều. Pho tượng thần khổng lồ cao mấy chục mét này có tất cả bao nhiêu tầng chúng tôi thể nào đếm nổi nữa, nhưng đứng từ góc độ chiến thuật mà , để chặn đứng tấn công ồ ạt của lũ rắn, tầng cùng này mới là nơi an toàn nhất, vững chãi nhất; còn ở khía cạnh khác, ở đây lại quá chật hẹp rất khó bề xoay xở. Lũ rắn kia khi ồ ạt tiến vào đây, chúng tôi chỉ có hai con đường, là để chúng ăn thịt, hai là nhảy xuống tự sát; cho dù là cách chết nào nữa cũng dễ chịu chút nào. Tôi thực ngờ đến phút chót lại sa vào bước đường cùng cầm chắc cái chết. Từ khi tôi làm cái nghề đổ đấu này đến giờ, tuy có vô số lần trải nghiệm mạo hiểm, song xét toàn diện lần này là gian nan khổ sở nhất, thức ăn nước uống, thiếu thốn đạn dược, vách đá xung quanh dựng đứng, có cách nào leo xuống, hàng vạn con rắn bâu nhâu rình phía dưới, dù cũng le lói nghĩ ra vài khả năng để sống sót, nhưng suy cho cùng chắc chỉ còn nước mọc thêm cánh mới có thể thoát thân. Mà Minh Thúc là loại người nào kia chứ, lúc nãy tôi vừa mới với Shirley Dương mấy lời, tuy hề thẳng là tuyệt đường rút lui, vậy mà lão ta cũng hiểu , cứ lắc đầu cách bất lực lèm bèm xem ra "thiên cơ" vẫn rất đỗi thần diệu, trăm đường tránh khỏi số, ông trời bắt lão Lôi Hiển Minh này phải chết ở núi "Kích Lôi Đại hắc thiên" rồi. Tôi và Tuyền béo bảo Minh Thúc, bác đừng có ủ rũ như thế, khí khái hùng hổ ép chúng tôi lúc ban đầu đâu cả rồi? Lẽ nào bác lại bị tâm thần phân liệt ? Lúc nhát nhát hơn thỏ đế, lúc bạo có khi sẵn sàng chọc chết cả ông giời chỉ vì mạng sống của mình ấy chứ. Bác xem bác sống bao năm rồi, cái chuyện sống chết sao bác nhìn thoáng ra được nhỉ? May mà A Hương giống bác. Thôi bác làm gương cho bọn sinh sau đẻ muộn chúng tôi có được ? Bác phải biết là có hàng bao ánh mắt ngưỡng mộ khẩn khoản nhìn bác ấy chứ. Biểu trong đàn tế của Minh Thúc từ lúc trước vẫn khiến tôi và Tuyền béo trong lòng còn tức điên, tuy tình thế khó khăn,song khi có cơ hội, tất lẽ dĩ ngẫu là phải tranh thủ đểu lão ta cho miệng. Nhưng còn chưa đợi hai chúng tôi kịp câu chốt hạ, Shirley Dương ngắt lời, hỏi Minh Thúc :" Thân thế của A Hương rất đáng thương, bác liệu có thể kể cho chúng tôi nghe chuyện của bé ? Trước đây bé sống thế nào? Cả chuyện bác vừa nữa, hồi ở Hồng Kông, A Hương từng hai lần chảy máu mắt ấy, cụ thể là thế nào?" Shirley Dương nhắc tới chuyện đó, tôi cũng cảm thấy hết sức kỳ lạ, liền ngoảnh ra nhìn A Hương, thấy bé gục đầu vào vai Shirley Dương, ngủ mê mệt, chắc là vì mất máu. Sau khi từ hồ phong hóa tiến vào đàn tế, tinh thần của bé luôn trong trạng thái ủ ê u uất, lúc này mọi việc vừa ngưng lại là ngủ luôn. Quả thực bé cũng cần phải nghỉ ngơi cho tốt, nhưng hình như ngay cả trong mơ, bé cũng ngừng run rẩy. Minh Thúc thấy Shirley Dương đả động đến vấn đề đó, thấy khó xử gì, có điều lúc tính mạng của mọi người như ngàn cân treo sợi tóc, lấy đâu tâm trạng kể lể cơ chứ. Tuy nhiên đến cuối cùng lão vẫn kể về quá khứ của A Hương. Trước đây, có người tìm thấy trong văn tự mật của Tây Tạng những ghi chép về phương pháp khai thiên nhãn, tức là đem bé sơ sinh đặt trong môi trường hoàn toàn cách ly với thế giới bên ngoài, để bé nhìn thấy mắt của bất kỳ người hay động vật nào, hạn trong mười năm, nghe đứa trẻ được nuôi dưỡng như vậy có thể nhìn thấy chân thực của "thần linh". Những người tin thuyết này cũng có kiến giải của riêng mình. Họ quan niệm phương pháp cổ xưa thần bí này phải vô căn cứ, bởi từ lâu có nhà khoa học chỉ ra rằng, tất cả các loài động vật có vú, các loài cá, loài chim, loài lưỡng thê, loài bò sát thế giới đều có con mắt thứ ba, nhìn bên ngoài thấy được. Tại vị trí vùng thượng bộ thần kinh của thùy não có tuyến quả thông, ở các loài động vật có xương sống, vị trí này phần lớn nằm ở dưới da phần chóp sọ. Tuyến quả thông hết sức nhạy cảm với những biến đổi của nhiệt lượng ánh sáng và các dòng sóng điện sinh học vi tế, do nằm gần thần kinh thùy não cho nên ở những người có tuyến quả thông phát triển độ nhạy cảm đối với vật xung quanh phải cao gấp mấy lần người bình thường. Tương truyền những người có mắt dương, hoặc được khai thiên nhãn, nếu phải do bẩm sinh cũng là do sống sót sau khi bị bạo bệnh hoặc gặp tai nạn khủng khiếp; thứ nữa chỉ còn nhờ vào phương pháp cổ xưa thần bí này: thông qua tĩnh tâm cao độ trong mười năm để khai thiên nhãn. Bố mẹ đẻ của A Hương rất tin vào thuyết này, vậy là lẳng lặng đem con ruột của mình ra làm thí nghiệm, từ khi mới sinh đem con bé đặt vào trong môi trường cách ly, tất cả những người tiếp cận đều phải đeo loại kính đặc biệt, bằng cách đó họ tránh cho bé nhìn thấy mắt của bất kỳ sinh vật nào. Cho đến khi được gần mười năm, cha mẹ ruột bé chết vì tai nạn, A Hương có người thân nào khác, Minh Thúc lúc đó có rất nhiều tiền, để che giấu những vụ làm ăn phi pháp, lão phải dựng cho mình hình ảnh tốt đẹp với xã hội, nên thường xuyên làm từ thiện; việc nhận nuôi A Hương cũng là trong số các hoạt động đó. ngờ sau đó có mấy lần A Hương cứu cái mạng già của lão, lần nguy hiểm nhất là ở nơi được gọi là "ngôi nhà ma ám đệ nhất Hồng Kông", và lần khác liên quan đến "bình xương người Nam Hải".
Chương 39 Linh hồn khắc đá Minh Thúc kể cho chúng tôi nghe chuyện quá khứ của A Hương, vô tình nhắc tới phương pháp mà bố mẹ ruột bé sử dụng. Bọn họ học được cách này trong các văn tự mật của Tây Tạng, như vậy chắc chắn có liên quan đến Luân Hồi tông. Khi quốc xâm lược Tây Tạng từng cướp rất nhiều văn vật trân quý, kinh văn của Luân Hồi tông có thể bị tuồn ra hải ngoại từ thời đó, cuốn kinh ghi chép về Băng xuyên thủy tinh thi trong tay Minh Thúc cũng có số phận như vậy, chuyện này lấy gì làm lạ. Minh Thúc tuy là kẻ có tâm cơ, song lại biết nguồn cơn của bí mật "con mắt", đến khi kể lại những chuyện này mới nhận ra cuốn thư tịch cổ viết về bí thuật khai thiên nhãn ấy có thể liên quan đến thành Ác La Hải. Cách thức khai thiên nhãn "tĩnh tức" thần bí này rất có khả năng năm xưa được Ma quốc dùng để tuyển chọn Quỷ mẫu, tuy nhiên sau khi Ma quốc diệt vong, tụng thờ phụng con mắt còn dễ thấy đất Tạng nữa. Đúng sai quả thực khó xác định, nhưng có thể phỏng đoán rằng, bí thuật này ít nhất từ vùng Kelamer lưu truyền ra bên ngoài. Tôi cảm thấy hết sức bái phục tinh nhạy của Shirley Dương. Chắc hẳn tóm được manh mối nào đó rồi, sở dĩ vừa nãy hỏi Minh Thúc về quá khứ của A Hương chính là để tìm hiểu bí mật chứa trong bức tượng này từ góc độ khác. Gân máu đồng tử của A Hương dường như đồng nhất với totem con mắt ở đây, giữa chúng hẳn phải có mối liên hệ vi tế nào đó. Ký hiệu con mắt cửa đá, các cột đá trong hẻm núi dưới lòng đất, những căn phòng đá u lạnh lẽo này, và cả chuyện A Hương chỉ vào tường bên trong có người đàn bà nữa... lần hết những đầu mối này, có lẽ biết được chân tướng việc. Mặc dù chúng tôi đồ rằng nơi đây có lẽ được dùng để nhốt và sát hại những bé có quỷ nhãn, nhưng ngay từ đầu tôi có nghi vấn lớn, cho đến tận bây giờ vẫn chưa kịp với Shirley Dương. Đó là nếu như chỉ là muốn giết người, hà tất phải tốn công sức xây dựng công trình đồ sộ như vậy, lẽ nào cũng phải đợi sang thu mới chém tử tù giống như các vương triều ở Trung Nguyên trước đây? Hình như hoàn toàn cần thiết phải làm như thế. Pho tượng khổng lồ này e rằng phải mất ít nhất mấy trăm năm mới hoàn thành, rốt cuộc được dùng để làm gì chứ? Sa vào cảnh cùng đường tuyệt lộ, nhưng tôi vẫn mong việc có cơ xoay chuyển, chỉ cần làm gian nơi đây là nơi nào, có lẽ chúng tôi vẫn có thể tìm ra được con đường sống. Mặc dầu tôi biết trừ phi là xuất kỳ tích, bằng đừng móng có đường thoát thân, song cảm giác ngồi chờ chết quả thực dễ chịu chút nào. Tiếng sột soạt xè xè của lũ rắn độc trườn lên các phiến đá vẳng tới, đầy nửa tiếng nữa chúng ập vào đây thôi. Nơi này chỉ có lối vào, tuy có phiến đá chặn rồi, trong thời gian ngắn chúng thể vào được, nhưng chúng tôi ăn uống gì liệu có thể cầm cự được bao lâu? Mọi người nghe thấy tiếng rắn ở tầng dưới, trong lòng đều khó tránh khỏi hoảng hốt. Minh Thúc chẳng còn tâm trạng nào để kể tiếp chuyện của A Hương nữa. Tôi khuyên lão, ta chặn kín đường vào rồi, lũ rắn độc kia thể leo lên ngay được đâu, bác cứ kể tiếp chuyện A Hương hai lần khóc ra máu thế nào , bé vừa nãy cũng khóc ra máu, liệu có điều gì tương đồng trong đó ? Minh Thúc nghe tôi vậy cảm thấy cũng có lý, bèn kể tiếp, nhưng việc đó cho đến tận giờ vẫn thường xuyên gặp trong ác mộng đó! Hồi xưa kiếm được món tiền lớn, định mua lấy ngôi nhà cho ra hồn, nhắm được ngôi, hoàn cảnh địa điểm đều rất tốt, hình thức cũng cầu kỳ, giá cả lại phải chăng, sắp mua đến nơi rồi, cả nhà cùng tới đó xem lại dắt cả hai thằng con trai và con bé Hương cùng, ngờ con bé vừa thấy ngôi nhà đó, mắt bỗng chảy ra máu. Minh Thúc biết hễ A Hương nhìn thấy nơi nào khí nặng nề là sợ hãi run rẩy, vậy là chần chừ do dự mãi, gác chuyện mua nhà lại mấy hôm, trong mấy ngày đó sai người tìm hiểu nội tình, mới hay chủ nhà là bà góa cực giàu, sống mười mấy năm ở đó, rất ít khi ra khỏi nhà, chung cũng bình an vô , nhưng thời gian trước, bà ta bị đột tử, trong nhà cũng có ai thân thích, mấy con mèo bà ta nuôi cũng tự dưng chết vô duyên vô cớ. Cả người lẫn mèo khi chết đều bị chảy máu thất khiếu, mà lại phải vì trúng độc, nguyên nhân tử vong phía cảnh sát cũng công bố ra ngoài. Còn lần khác, Minh Thúc mua chiếc bình sứ, lòng trắng trong suốt, bóng lanh trơn tru, nền men trắng ánh lên những gợn vàng, hoa văn trang trí là hình tám con thú dưới biển, mặt trong nắp còn có số ấn hoa đặc biệt. Chiếc bình này được ngư dân vớt dưới biển lên, qua tay nhiều người rồi mới lưu lạc tới Hồng Kông, bề mặt bị nước biển ăn mòn tương đối nghiêm trọng, đôi chỗ có san hô bám, vẻ đẹp vốn có của chiếc bình bị che lấp, chẳng còn đáng giá mấy, chỉ là bên trong có rất nhiều mảnh sọ người mà thôi. Dân trong nghề đều biết Minh Thúc chủ yếu buôn bán "cốt cổ", rất thích những loại xác cổ bán chạy, phân vân khôn biết lão có mua những mảnh sọ người này , bèn đem đến cho lão xem. Minh Thúc cũng chưa thấy thứ này bao giờ, cái bình vớt dưới biển lên, đựng đầy xương sọ người để làm gì? Xem ra đây cũng phải là món đồ cách đây mấy trăm năm, gốc gác thế nào, chưa thấy bao giờ nên thể gì chắc chắn, nhưng cũng vì nó giá trị mấy nên trả mấy người đó vài đồng rồi giữ đồ lại. Lão vừa về đến cửa, A Hương nhìn thấy lại chảy máu mắt. Lão nhớ tới chuyện lần trước, đâm ra cũng chẳng dám vào nhà, định mau chóng tìm chỗ nào đó ném cái bình cho xong, nhưng nghĩ nghĩ lại vẫn là thứ phải mất tiền mua, vứt hơi tiếc, thôi bán lại bằng giá cũng được. Vậy là lão tới tiệm đồ cổ của người quen. Chủ tiệm là người rất có kinh nghiệm, vừa thấy lão ôm cái bình sứ bước vào, suýt nữa đánh đuổi, kéo ngay lão ra nơi thanh vắng chôn cái bình , rồi mới bảo: "Ông đem bán cái của nợ này hco tôi, định hại cả nhà tôi hả? Biết đây là cái gì ? Kẻ chịu hình phạt tùng xẻo theo luật Đại Minh, sau khi bị ngàn vạn mũi dao cắt róc, ngay xương cốt cũng được giữ lại. Bọn đồ tể ở Bộ Hình được lệnh giã nát xương ra thành bụi rồi hất , Như vậy tức là sau khi róc sạch thịt, lại còn dùng búa đập nát xương cốt người ta, nghiền ra tro bụi. Các đao phủ ở Bộ Hình phần nhiều nối nghề gia truyền, chỉ truyền cho con trai chứ truyền cho con . Trong nghê có quy định rất bí mật là sau khi hành hình tùng xẻo, đao phủ trộm giữ lại chiếc đầu lâu tử tội, cất vào trong chiếc bình sứ đóng chặt lại, đợt sau khi ông ta chết , con cháu mới vứt bình sứ xuống biển. Vì sao lại làm như vậy? Đao phủ Bộ Hình sao lại thờ đầu lâu của những kẻ tử tội? Những việc này giờ chẳng thể nào khảo chứng được, thậm chí mãi sau khi Dân quốc tiến hành tử hình bằng súng, việc này được truyền ra, mọi người mới biết. Cái bình ông mua này, trong đó chưa đựng bao môi oán hờn của con người sau khi chịu đại hình, hung khí rất nặng, rất dễ gây ra tai họa đẫm máu, ai lại dám bày biện ở trong nhà?" Tôi gật đầu, hiểu rồi, bên trong tượng thần chắc chắn từng có rất nhiều người chết, vả lại chết rất thảm thương. Ngẫm lại, ban nãy A Hương quả thực có những biểu rất kỳ dị, bé bảo mỗi bức tường đá trong lòng pho tượng, từ tầng thứ ba trở , dường như đều găm người phụ nữ. người nếu bị khiếp hãi quá nhiều lần, tinh thần suy sụp, hoặc như vậy dần trở nên trơ dại. Tôi quan sát những bức tường đá màu đen xung quanh, nếu đúng như những gì A Hương , riêng chỗ chúng tôi đứng nay, chẳng biết rốt cuộc có bao nhiêu tử thi bên trong? Tôi chỉ mới nghĩ vậy thôi mà cũng thấy ngạt thở. Tuy nhiên điều khiến tôi cảm thấy kỳ quái nhất là, các hang đá bên trong pho tượng liền nhau, tạo thành thể thống nhất, phải xây bằng cách ghép đá phiến thành từng tầng, bên trong tường thể nào có thi thể người chết được, mà các mặt tường đen sì như mực, chẳng hề thấy có hình dáng của người nào. Tôi càng nghĩ càng thấy cổ quái, bèn thò tay ra sờ vào vách tường sau lưng. Nếu như trong đây có người phụ nữ bị xử tử, liệu ta được cất ở đâu trong này? Tôi vừa sờ lập tức cảm thấy mặt tường có rất nhiều vết đục đẽo nông, tựa như vết khắc loại ký hiệu nào đó. Đá ở đây đều màu đen, nếu chỉ nhìn bằng mắt, hoặc cố ý tìm kiếm, căn bản chẳng thể nào phát ra tường có các vết đục đẽo loằng ngoằng này. Tôi lập tức thông báo phát mới cho mọi người biết, xem chừng các vách tường ở đây quả thực có vấn đề. Minh Thúc nghe tôi thế lập tức phấn chấn tinh thần, vội hỏi tường liệu có khắc bản đồ thông đạo bí mật nào ? Tôi trả lời, lúc này cần phải tỉnh táo và có lý trí chứ. Đứng đỉnh đầu pho tượng như chóp tòa tháp cao tầng, diện tích chật hẹp, tiến thoái lưỡng nan, lấy đâu ra thông đạo bí mật nào mà tẩu thoát được? Nhưng các ký hiệu khắc tường có khả năng chuyển tải thông tin nào đó liên quan đến việc đuổi rắn cũng nên. Chúng tôi biết khả năng này hề lớn, mà dẫu có vậy nữa cũng chưa chắc dễ hiểu được, nhưng dù sao cũng có thêm mấy phần hy vọng được sống sót. Để cho những vết chạm khắc tường đen ra, Shirley Dương vun ít tro bụi trăng trắng ở xung quanh, bôi lên tường. Các đường nét màu trắng dần dần lên, rất ngay ngắn, nguệch ngoạc, chỉ là số hình phác kỳ dị; đôi chỗ vết khác bị mài mòn, hết sức mờ nhạt, duy nhất còn hình có thể nhận ra được, là hình người phụ nữ đứng khắc tường, dường như những ký hiệu những bức tường này đều ro phụ nữ khắc ra. Vết khắc bức tường này mờ quá, chúng tôi đành tìm bức tường khác kiểm tra xem sao. mỗi bức tường xem ra đều có các ký hiệu và hình vẽ tương tự. Dựa vào thủ pháp cũng như độ đậm nhạt, có thể thấy ràng hình khác phải do người tạo ra, có vẻ cũng cùng thời kỳ, nhưng nội dung ghi chép phần lớn tương đồng, khác biệt rất ít, khắc khắc lại cùng việc. Sauk hi xem xét bốn năm bức tường trong hang đá, cuối cùng mọi người cùng nhìn ra được hết nội dung đó. Có thể rằng, các bức khắc đá nơi đây là do những người phụ nữ khác nhau khắc nên, chứng cứ liên quan quả thực có gì, đều chỉ là chúng tôi suy đoán chủ quan cả mà thôi. Bọn họ có lẽ chính là những có "quỷ nhãn". Bị cầm tù ở đây, mỗi người đều khắc lên tường việc có ấn tượng sâu sắc nhất đối với họ lúc còn sống để làm dấu tìm lại mình ở kiếp sau. Rồi họ tự chọc thủng đôi mắt, lấy máu chảy từ mắt ra bôi lên những ký hiệu, hình vẽ mà mình khắc. Sau khi nốt chặng đường làm kiếp người trong hang động này, thi thể các thủng hai mắt đều bị trói lên cột đá trong sơn cốc, đợi đến khi lũ rắn ập tới ăn thịt họ trở thành vật tế của tôn giáo. Shirley Dương như đắn đo điều gì đó, tay sờ lên vách tường có khắc linh hồn của những người con bất hạnh. Minh Thúc thấy bức khắc đá tường chỉ ghi chép về tàn nhẫn đẫm máu của bọn thống trị tôn giáo thời cổ đại mà hề có bất kỳ thông tin nào giúp chúng tôi thoát nạn rầu rĩ, bồn chồn lại lại trong hang đá. Shirley Dương bỗng nhiên thốt lên tiếng 'ấy", rồi : "Lạ ! Trong số nét chạm khắc chưa ký hiệu đặc biết... rất lẩn khuất, ký hiệu này giống như là... " Tôi định hỏi Shirley Dương xem rốt cuộc phát ra điều gì, Tuyền béo đột nhiên kêu lớn: " xong rồi! Mau chạy lên thôi, các phiến đá ngăn được lũ rắn độc!" Tôi nghe cậu ta kêu liền quay ra nhìn, thấy mấy tấm đá lớn chặn ở lối vào đột nhiên sụt xuống. Con rắn lớn cầm đầu phun ra chất dịch màu đỏ, vừa rơi xuống là thấy những đám nấm độc màu đỏ héo rất nhanh mọc lên liền, sau khi héo, thứ nấm độc này ăn mòn đá cực nhanh. biết bắt đầu từ lúc nào, những tảnh đá kia bị mủn vỡ cả ra, lô lốc rắn độc lũ lượt trườn lên. con rắn đen tương đối cong mình lại bắn vụt tới với tốc độ nhanh nhất, giống như tia chớp đen chém vụt xuống. Tuyền béo nhanh tay nhanh mắt, nhìn thế xông xáo cua con rắn ngay từ , vung tay phang xẻng công binh ra. Chiếc xẻn thép cứng chắc đón đầu đập thẳng, vang lên thứ tiếng như đập vào mạt sắt, xương đầu con rắn lập tức vỡ vụn, cái mắt thịt đen ở đỉnh đầu cũng nát bét, chất độc màu đen bắn tóe ra. Tuyền béo vội lùi lại phía sau tránh, nước đen bắn xuống đất làm bốc lên những làn khói độc. Mọi người mắt cắt còn giọt máu. Lũ rắn đen ồ ạt tuôn lên càng lúc càng nhiều, tuy biết phía cũng là nơi cùng đường tuyệt lộ, song nước đến chân, chúng tôi cũng đành phải rút lên . Đột nhiên tôi phát ra Shirley Dương vẫn chăm chú nhìn ký hiệu tường, trông thần cả mặt, hề biết xung quanh có việc gì đột ngột xảy ra. Tôi cuống quýt chạy qua kéo tay , vừa lôi vừa chạy. Shirley Dương bị tôi đánh động mới sực định thần, vừa chạy vừa : "Đó là lời nguyền rủa, là lời nguyền rủa thành Ác La Hải của những ... "
Chương 40 CHẾT VÌ ĐÔI MẮT Tôi kéo tay Shirley Dương chạy, song nàng vẫn lưu luyến chịu rời những ký hiệu vách tường, đó là lời nguyền rủa ác độc của những kẻ tử vì đạo dành cho thành Ác La Hải. Tôi với Shirley Dương, lúc này làm gì có giờ mà để ý đến những thứ đó, chậm nửa bước thôi là bị lũ rắn cắn chết ngay, muốn gì đợi khi leo lên kia rồi hẵng . Tranh thủ thời gian ngắn ngủi lúc lũ rắn tranh nhau trườn vào, tôi và mọi người phía sau chạy ngay lên tầng chóp. Ở cao gió lạnh thổi thốc vào mặt, còn đường nào rút lui nữa. Tuyền béo gồng mình, dốc hết sức nạy tảng đá vách tường tụt xuống, vần về phía cửa lên. Trong chớp mắt, đúng lúc tảng đá sắp bịt chặt cửa hang, hai con rắn đen bắn vọt như hai mũi tên bật khỏi cung, lớp vảy đen cứng chắc xé khí, phát ra tiếng "vút vút" nghe vừa trầm vừa thanh. Loài rắn đen này chỉ ngắn mẩu, cực kỳ mạnh mẽ, với sức bật của cơ thể, nó có thể bay xa hàng mấy mét trung, trông ghê gớm vô cùng. Đèn chiếu lóe lên cái, con rắn độc bay tới trước mặt. Phần đỉnh đầu pho tượng chật hẹp, năm người tản ra xung quanh, tôi lo nếu nổ súng ngộ sát quân mình, vả lại nếu thể cùng lúc bắn chết hai con rắn bằng phát súng, để cho hai con quái xà nhanh như chớp này có cơ hội, mấy người chúng tôi chắc chắn gặp thương vong. Trong tình hình khẩn cấp, đành phải giơ cái ba lô dưới đất lên làm lá chắn, chặn ở trước mặt, miệng hai con rắn cùng lúc đớp vào ba lô, tôi đợi cho chúng kịp nhả mồm rơi xuống, liền từ cao quăng luôn ba lô . Chiếc ba lô treo hai con rắn đen rơi thẳng vào bóng đen, mãi mâu sau, mới nghe thấy tiếng chạm đất vẳng lên. Tuyền béo lúc này đẩy được tảng đá chặn kín lối vào, thấy tôi vứt ba lô xuống dưới, cuống quýt giậm tay giậm chân: "Ôi giời ôi Nhất ơi, ba lô của cậu còn cái quái gì đâu, sao vứt? Lại vứt ba lô của tôi là sao? Giờ hay ho rồi, ít mai rùa, dược phẩm cấp cứu, bình ô xy, mặt nạ phòng độc, lại còn cả nửa con cá chưa ăn hết, giờ toi cả rồi... Nhưng nếu chúng ta còn xuống đó được, có khi còn cơ hộ lượm lại cũng lên." đoạn liền bảo tôi giúp cậu ta đẩy tất cả các tảng đá có thể đẩy được ở xung quanh, đem chất ở lối vào. Dù chỉ chống chọi được mấy phút cũng là tốt rồi, cứ nghĩ đến cái lũ rắn độc hung hãn kia, là thấy chân mềm oặt cả , loài rắn đen có thể giết người trong nháy mắt này chính là uy hiếp lớn nhất mà chúng tôi từng gặp trong đời. Tuy tạm thời chặn được khí thế hung hăng của lũ rắn, song hoàn cảnh của chúng tôi chưa hề có biến chuyển, vẫn đứng ở nơi cao ngút hiểm trở, dẫn là kẻ gan hùm gan sói cũng thể thấy kinh hãi. Tuyền béo đành chỉ chăm chăm nhìn xuống chân, dám ngẩng đầu lên . Shirley Dương ngây nhìn những bức tường đổ xung quanh. A Hương tỉnh dậy sau cơn ngủ mê, cũng nhắm chặt mắt, vì sợ độ cao hay là sợ nhìn thấy pho tượng khổng lồ chất chứa lời ai oán của những kẻ tử đạo. Minh Thúc mặt như đưa đám, quỳ mặt đất, nhắm chặt mắt, mồm lẩm bẩm niệm kinh: "Nam mô đại từ đại bi cứu khổ cứu nạn Quan Thế Bồ Tát... " Shirley Dương ngây ra lúc, rồi quay lại bảo tôi rằng phát ra hai ký hiệu nhãn cầu rạn nứt nhiều bức tường đá ở tầng dưới. Người Ma quốc sùng bái đôi mắt, trong tất cả các totem của họ, dẫu có con mắt máu nữa, đó cũng đều là hình thức giải thoát linh hồn nhờ dòng máu chảy ra từ đôi mắt, tuyệt đối thể có nhãn cầu bị rạn nứt, bởi nó tượng trưng cho hủy diệt và kiệt quệ sức mạnh. Có lẽ cũng giống như với hệ thống thần quyền của các tôn giáo khác thế giới, ở mạt kỳ của chính quyền tôn giáo, con người dưới ách thống trị thần quyền bắt đầu nghi ngờ tín ngưỡng họ hằng đeo đuổi, cảm thấy nghu thức kết liễu sinh mạng kia có bất kỳ giá trị gì. Tuy nhiên tôn giáo vẫn chiếm địa vị thống trị tuyệt đối, xuất ý chí cá nhân trong hoàn cảnh này thực hết sức thương. Những phụ nữ bị số phận đẩy vào bước đường cùng kia, trước khi chết lén khắc lên đá các ký hiệu nguyền rủa, vì nét khắc đều màu đen nên hề bị phát , càng về sau, người khắc lời nguyền trước khi chết càng nhiều. Thành Ác La Hải dưới hồ phong hóa ràng bị hủy diệt bởi trận sụt lở đất quy mô lớn, trong khi ký hiệu nhãn cầu rạn nứt này lại được ngầm khắc trong lòng tượng thần Đại hắc thiên Kích Lôi sơn, vị thần khống chế sức mạnh của tất cả các loại khoáng thạch. Điều này chỉ là trùng hợp ngẫu nhiên thôi sao? Hay chính là ứng nghiệm của những lời nguyền rủa? Vương quốc thần quyền cổ xưa này bắt nguồn từ sùng bái đôi mắt, e rằng cuối cùng cũng bị hủy diệt bởi đôi mắt. Tôi , vừa nãy toàn nghĩ những điều này à? Lắm lúc tôi cũng chẳng biết là khôn hay dại, tính mạng của chúng ta là chỉ còn mười mấy phút nữa thôi, thế mà còn nghĩ đến những điều này để làm gì cơ chứ. Cho dù lời nguyền ứng nghiệm, với thống trị thần quyền ở thành Ác La Hải, gieo gió ắt gặt bão, bọn chúng hoành hành ở miền Bắc đất Tạng bao nhiêu năm, di hại thậm chí còn kéo dài đến tận ngày nay, cho nên thành này bị hủy diệt bởi thiên thai hay nhân họa gì cũng đâu có lạ. Song giờ tôi chỉ mong sao có trận động đất nữa, trước khi chết cũng có thể lôi lũ rắn độc xuống làm đệm lót lưng, chết cùng chết cả cho sướng. Shirley Dương : "Vâng, có là nghĩ thoáng được như thế thôi. Vậy tôi hỏi , nếu chúng ta chẳng thể sống được bao lâu nữa, liệu có lời nào muốn với tôi ?" Tôi quan sát ba người còn lại, bắt đầu cảm thấy xuất của họ hơi thừa, đành phải với Shirley Dương rằng: " trong trường hợp này tôi còn được gì chứ? Điều tôi cam tâm nhất là ý chí của tôi sắt đá, chống lại được quyến rũ của đô la và người đẹp, để thu phục rồi đấy. Vốn dĩ cũng chẳng sao cả, sau khi tôi từ Thiểm Tây về, định làm cái nghề Mô kim này nữa rồi, sau này có thể chung sống hòa thuận với nhân dân Mỹ, nghiên cứu cổ phiếu tiền tệ gì đó, rồi bon chen trở thành ông trùm tiền tệ ở phố Wall, giao du với đủ những loại người từ đại gia dầu khí, xã hội đên cho tới thầy tu, chuột cống chuột chù chơi tuốt... " Shirley Dương : "Càng càng chẳng ra đâu vào đâu, chắc thành thói quen mất rồi, thôi tôi cứ với chuyện thành Ác La Hải vậy!" Tự dưng hạ thấp giọng xuống với tôi, "Totem nhãn cầu trong thành Ác La Hải, phần lớn là số lẻ, song con mắt rạn nứt vách tường ở đây đều là đôi, tôi có cảm giác, rạn nứt ở đây chính là ám thỉ Đại hắc thiên Kích Lôi sơn, còn hai con mắt lần lượt ám chỉ hai vụ tai nạn lớn xảy ra ở thành Ác La Hải nguyền rủa. Nơi đây quả thực từng xảy ra tai họa thảm khốc, nhưng đó là tai họa đầu tiên hay tai họa thứ hai chẳng thể nào biết được." Shirley Dương hề lo lắng đến sống còn của chúng tôi, trực giác nhạy bén của dường như phát giác ra số biến đổi lạ lùng xuất trong làn khí, có le tình hình có biến chuyển. Đôi mắt của A Hương chính là nhân tố mấu chốt, từ sau khi đôi mắt bé phát ra những lời oán nguyền giấu trong pho tượng - là phát , chứ thực ra phải bảo rằng đôi mắt của bé làm sống dậy những ký ức bi thảm của pho tượng khổng lồ này mới đúng. Từ lúc đó trở , bầu khí nới đây mới trở nên mỗi lúc kỳ quái, có khi vụ tai nạn thứ hai sắp xảy ra cũng nên, có thoát ta khỏi đây được , phải xem xem liệu có nắm bắt được cơ hội lần này hay . Tôi biết Shirley Dương mang trong mình dòng máu rất đặc biệt, dường như có cảm giác hết sức vi tế đối với những việc sắp sửa diễn ra, nàng nhận thấy chúng tôi còn hy vọng sống sót, lòng tôi cũng thấy hy vọng theo, huống hồ tôi cũng là người kiên trì đến cùng. Vậy là tôi lại đứng dậy quan sát địa hình xung quanh nhiều lần, nhưng quan sát xong, lại càng lạnh toát đến cùng cực trong lòng, bất chấp có bản lĩnh cao siêu đến mấy, nếu mọc được cánh, chắc chắn còn đường để thoát. Vừa mới trút bỏ được lời nguyền như cơn ác mộng trong Quỷ động, ai đời tránh được vỏ dưa lại dính ngay vỏ dừa, số phận của chúng tôi sao lại đen đủi đến thế cơ chứ? Sao thể giống như câu thơ " khi thoát khỏi lưỡi câu, cá bơi mất, chẳng bao giờ về"? Phần dưới chân pho tượng thần hơi chếch về phía núi Kích Lôi sơn, nửa đầu pho tượng dựa vào vách núi dốc đứng, hai cánh tay cong gấp găm vào lòng núi, pho tượng trở nên rất so với toàn bộ vách núi dựng đứng. Lúc này chúng tôi đến tầng cùng, nhìn xuống thấy mặt đất cũng xô lệch, chẳng biết pho tượng này là do cố ý tạo ra hình dạng như vậy, hay do thiết kế sai sót khiến nó nghiêng vẹo cả . Tôi cũng chẳng còn tâm trí đâu ngẫm nghĩ về nhưng điều này nữa, quay ra nhìn mấy người còn lại, ai nấy đều chán nản, nghĩ bụng lần này chết chắc rồi, những dẫu chết cũng khom lưng uốn gối, liền với mọi người: "Hỡi các đồng chí! đáng tiếc, chúng ta lại thể chờ đến ngày thắng lợi, song mưu tại nhân, thành tại thiên, sống chết có số cả rồi, chúng ta cũng dốc hết sức mình, nhưng cuối cùng vẫn thiếu chứ may mắn, tôi thấy lần này chết chết, chấp nhận số phận thôi. Bây giờ cá nhân tôi tỏ thái độ trước, lát nữa lũ rắn độc bò lên, tôi trực tiếp nhảy xuống dưới, quyết chần chừ, tôi thà thịt nát xương tan, chứ nhất quyết thể để lỹ rắn xơi tái được, cho nên đến lúc đó mọi người đừng ai ngăn tôi!" Tuyền béo sợ nhất là chết nhảy từ cao xuống, những lời này chắc chắn thể được ra trực tiếp từ mồm cậu ta, nghe tôi bảo định nhảy từ độ cao mấy chục mét xuống, liền bất chấp bất trách : "Này tư lệnh Nhất, nếu lâm nguy mà nao núng ấy, cậu vẫn kém tôi bậc đấy nhé, rắn rết còn chưa xuất , mà cậu sợ xanh mắt thế rồi, cậu tưởng nhảy xuống kia là dũng cảm lắm à? Đúng là cái dũng của bọn thất phu, sao cậu hiểu được điều này nhỉ? Cậu nhảy xuống người cậu nát bét, cậu tưởng lũ rắn tha cho cậu á? Còn lâu ấy, chúng vẫn đớp loạn xạ lên xác cậu, rồi nuốt cậu vào bụng như thường thôi, đằng nào cậu cũng bị rắn cắn, sao lại cứ phải tỏ ra mình có thể nhảu được xuống dưới kia? Tôi thấy chúng ta cứ ngồi cả lại ở đây, trưng mấy tấm thân hôi rình này ra, lũ rắn có xông đến, con nào thích căn cứ để nó cắn, như thế mới thể được khí phách, cốt cách, nguyên tắc của Mô kim Hiệu úy chúng ta." Tôi và Tuyền béo đôi co vài câu. Ba người còn lại tưởng rằng chúng tôi còn lo lắng cho cái chết sắp đến nữa. Thực ra chỉ có bản thân chúng tôi hiểu , thể ra như vậy là bởi trong lòng trống rông, còn chỗ bấu víu nữa rồi. Tôi cảm nhận được tâm trạng tuyệt vọng khuôn mặt mỗi người mỗi lúc nét. Minh Thúc đột nhiên kinh hãi thốt lên: "Thôi chết rồi! Những tảng đá này toi rồi... Hồ đại nhân! Mau nghĩ cách gì !" Tuy mọi người đều biết chuyện này sớm muộn gì cung xảy ra, song ai tránh khỏi nặng lòng. mảng tường vỡ được đẩy ra bịt chặt lối lên xuất cái bóng màu đỏ sậm rất lớn, giống như vũng máu bẩn từ trong lòng đá thấm ra. Trong bầy rắn đen phía dưới có con to nhất, rớt dãi nó nhả ra rất độc, khi tiếp xúc với khí lập tức biến thành thứ kiểu như nấm độc, nom hình dạng giống như loài nấm đỏ, sau mấy giây khô héo, biến thành nhúm tro màu đỏ sẫm đen, gần giống như axit sunfuric, có thể ăn mòn, làm thủng lỗ lớn tường đá. Tuyền béo với tôi: "Nhất này, cậu mà muốn nhảy lầu phải tranh thủ lúc này !" Tôi chửi mấy câu, mẹ kiếp sao rớt dãi của con rắn kia nhiều thế hả trời? Rồi với Tuyền béo: "Có chết cũng phải chém mấy con xuống làm đệm lót lưng chứ!" đoạn, tôi, Tuyền béo và Shirley Dương đều chĩa lòng súng về chỗ lũ rắn vừa đột nhập, mấy phát đạn cuối cùng lên nòng, dẫu chết cũng phải hạ sát con rắn đầu đàn . Tiếng sột soạt phát ra từ lũ rắn bỗng dưng im bặt. Có lẽ chúng tản ra trước để có khoang trống, đợi sau khi ván đá sụp xuống, ồ ạt xông lên như nước thủy triều. Hơi thở của chúng tôi cũng trở nên gấp gáp theo, mắt vằn tia đỏ căng ra nhìn chằm chằm vào lối lên. Cả người lẫn rắn đều giống như những mũi tên bị kéo căng dây cung, lăm lăm trong thế tấn công, Giây phút này im ắng đến lạ thường, sơn cốc dưới lòng đất lạnh căm căm, ngùn ngụt mùi lưu huỳnh, cả gian dường như đông kết lại. căng thẳng những tràn ngập bầu khí, mà khiến cả thời gian dường như cũng trôi chậm lại. trong lúc tất thảy tựa như ngưng nghỉ này, chuỗi thanh kỳ quái "rắc rắc rắc" đột ngột vang lên. thanh đó thoạt đầu còn , mấy giây sau dội lên dày đặc. Chúng tôi đứng đỉnh đầu pho tượng, cảm giác cả vòm trời đất đều bị thứ thanh này bao bọc, tập trung của mọi người lập tức bị phân tán, chẳng ai biết rốt cuộc xảy ra chuyện gì, song đều nghe thấy như có gì rất đỗi quen thuộc Tình cảnh của chúng tôi thảm hại lắm rồi, dẫu có việc gì xảy ra bây giờ nữa tình thế cũng chẳng thế nào xấu hơn được. A Hương nãy giờ sợ chết khiếp đột nhiên mở miệng : "Ngọn núi kia... ngọn núi kia lung lay!" Dưới ánh đèn pin, tôi thấy vài viên đá cuội đỉnh đầu pho tượng rung ring, vội giơ đèn pin mắt soi chĩa thẳng cột sáng về phía vách đá dốc đứng phía pho tượng khổng lồ. Cùng với những thanh vang dội phát ra trong lòng núi, bề mặt mạch thủy tinh xuất vô số kẽ nứt kéo dài, từ lòng núi như có vô số con rồng giơ nanh vuốt, quẫy mình thoát ra. Minh Thúc : "Thôi toi rồi, toi rồi... vốn dĩ ở nơi phía Bắc, màu đen, có khi còn gặp nước đắc Trung đạo, giờ núi này sập xuống, chúng ta... có mà hạ thổ xuống phủ có." Tôi nghĩ bụng: "Thôi rồi, xem chừng cuối cùng chúng ta chết vì núi lở, chứ phải chết trong miệng rắn, tuy là cũng chết cả thôi, song như vậy coi như ông trời còn đoái thương chúng ta chán, so với việc bị rắn cắn để rồi thi thể đen ngòm chết như thế này còn sướng hơn nhiều." Những tiếng đứt gãy lớn diễn ra trong lòng núi tức thời lại biến thành từng đợt sấm nổ đùng đục, mọi người ai nấy hồn phiêu phách lạc, cơ hồ như năng lượng trong mạch khoáng thủy tinh ở Kích Lôi sơn chất chứa quá lâu, lúc này được xả ra cho bằng hết. Shirley Dương vội với mọi người: "... phải là núi lở đâu, nước ở hồ dưới lòng đất sắp xối lên đấy! Mọi người phải mau chóng tìm lánh vào chỗ nào có thể cố định được cơ thể ấy, bám chắc vào! Chớ có lỏng tay!" Tiếng sấm nổ trong lòng núi dội vang khắp nơi, giọng của Shirley Dương dường như bị chìm nghỉm, Shirley Dương phải đến lần thứ hai tôi mới nghe , sau đó lập tức hiểu ngay nước mà là từ đâu đến. Quan sát địa hình nơi đây, thấy khoảnh hồ thẳng phía đàn tế cách pho tượng này xa, có thể chúng tôi ở lại trong đàn tế quá lâu, trận rung của mạch thủy tinh dữ dội và kéo dài khiến rất nhiều thủy tinh rơi gãy, lớp đá còn lại chẳng thể nào chịu được áp lực của hồ nước, tuy vẫn có thể chống đỡ được trong khoảng thời gian nhất định, song vỏ núi xuất những vết rạn nứt hình mai rùa, địa hình sơn cốc lại quá thấp, nước hồ ở cao chảy về phía Đông chảy xối vào nơi này, sau đó xảy ra tượng khủng khiếp, nước hồ chảy dốc ngược theo hướng Tây Bắc, toàn bộ nước chứa trong hồ giống như cột nước cao áp, bắn vọt ra từ các khe đá nứt vỡ. Mọi người lập tức dựa chặt lưng vào bức tường đổ bên mình. Minh Thúc nép bên người tôi, vẫn quên hỏi: "Nếu nước hồ xối ra chúng ra chết đúng rồi? Gặp nước đắc Trung đạo mà." Tôi chửi lão: "Nước nước cái quái gì, cho dù nước trong hồ có nhiều hơn nữa, cũng thể nhấn chìm sơn cốc này được, chúng ta bị nước xối , cũng có khác gì nhảy từ cao này xuống." Trong tiếng sấm nổ dồn dập, lũ rắn ở tầng dưới phá được phiến đá bịt lối lên, những tảng đá mủn nát như bùn, con rắn đen bắn vọt lên trung, nhảy ra trước tiên. Tuyền béo tay bám chặt bức tường, tay còn lại gương súng lên, tì vào vai, bắn tay. Tiếng súng vừa vang lên, con mắt thịt đỉnh đầu con rắn bị bắn thủng. Con rắn chết rơi xuống, lũ rắn đen phía dưới hơi hỗn loạn, thế tấn công chững lại. Tôi cũng giương khẩu M1911 nhằm vào lỗ hổng mặt đất bắn hai phát, song mỗi người còn lại chỉ còn lại mười mấy viên đạn, với cục diện này, nhiều nhặn lắm chỉ có thể duy trì được hai phút mà thôi. Mùi lưu huỳnh trong khí chẳng biết xộc lên từ lúc nào bắt đầu nồng nặc, chắc chắn là do núi Kích Lôi sơn rung chuyển, khiến cho phần đáy của sơn cốc xảy ra phản ứng dây chuyền, dải dung nham chưa hoàn toàn chết hẳn cũng lại phập phồng sống lại. Lũ rắn độc sợ nhất thứ mùi này, cho nên đều gắng thục mạng trườn ra phía ngoài. Tuy chúng tôi nổ súng bắn chết vài con, song những con còn lại vẫn chen chúc trườn đạp lên nhau, tức khắc lại ùn ùn xối lên . Đúng lúc chúng tôi còn cách nào khống chế được lũ rắn, đột nhiên tiếng sấm nổ trong Kích Lôi sơn lặng ngắt , toàn bộ quả núi và mặt đất dưới kia vẫn tiếp tục rung . Dải sơn cốc khổng lồ tối om dưới lòng đất chìm trong cái yên tĩnh chết choc, ngay cả lũ rắn độc dường như cũng cảm nhận được sắp sửa có chuyện gì đó xảy ra, nhất thời quên rằng phải tiếp tục bò lên. Mọi sinh vật, kể cả năm người chúng tôi đều rơi vào trong nỗi khủng hoảng miên man vô tận. tĩnh mịch ngắn ngủi nhưng dường như lại kéo dài dằng dặc này diễn ra ước chừng khoảng mấy giây, ngay sau đó là ba tiếng đá nổ rung trời. Trong lòng Kích Lôi sơn bắn phọt ra ba cột nước lớn, hai cột nước phun từ chỗ gần ngực pho tượng, cột nước còn lại phun thẳng vào sơn cốc dưới lòng đất. Ba dòng nước giống như ba con rồng bạc khổng lồ, đường kính đều to cỡ bụng pho tượng, cuốn theo đá vụn từ vỏ núi và những làn hơi bốc ngụt trời xối đến. Pho tượng thần màu đen vốn dĩ đầu nặng chân , tuy cao lớn nhưng bên trong lại rỗng, thành thử dòng nước vừa xối ra liền bắt đầu lung lay. Hai cánh tay cắm vào lòng núi của pho tượng dần dần tách ra khỏi vỏ núi. Đối mặt với các biến đổi này của tự nhiên, sức người trở nên vô cùng bé , chúng tôi cùng gắng bám chặt vào bức tường đổ trong cơn rung chuyển dữ dội. Tôi hoàn toàn ngờ rằng chuyến Tây Tạng lần này cuối cùng mình lại chết vì nước. Khi bị dòng nước xối tới, pho tượng khổng lồ này ắt đổ xuống hẻm núi dưới kia, chúng tôi chắc chắn chết, nhưng lúc này ngoài việc cố gắng neo chặt thân thể mình cả bọn đều còn biết phải làm thế nào khác nữa. Lũ rắn độc cung khiếp hãi trước rung chuyển của pho tượng, hoặc giả chúng cũng giống như chúng tôi, khó có thể hành động trong cơn rung chuyển như động đất này. Nhưng mọi người đều lo cho sống còn của mình, chẳng hơi đâu mà để ý đến lũ rắn nữa, dẫu có bị rắn cắn cũng chẳng dám lỏng tay. Đột nhiên chẳng biết ai đó bỗng hét lên: "Đổ rồi!" Pho tượng quả nhiên rung nữa, mà đổ dần về phía núi Kích Lôi ở đối diện với tốc độ chậm chạp lạ thường. Tôi cảm giác tim gan phèo phổi của mình cũng dần dần đảo lộn theo pho tượng. Bỗng tôi phát A Hương đổi trọng tâm đúng, vả lại bé chỉ có cánh tay có thể sử dụng, cho nên lăn từ bên rìa bức tường thấp xuống, tôi cũng chẳng có cách nào buông tay, mà chỉ vươn tay ra đủ dài để với tới bé, vậy là đành phải đưa chân ra chặn lại. A Hương cũng nhanh nhẹn, liền ôm chặt lấy chân tôi, bấy giờ mới từ từ trôi xuống. Lúc này pho tượng thần nghiêng theo góc độ hết sức quái chiêu lại dừng đột ngột, tiếp tục đổ về phía trước nữa, hình như bị mắc vào chỗ nào đó vách núi. Tôi nhân cơ hội này túm lấy A Hương, rồi nhìn xuống phía dưới pho tượng, bất chợt cảm thấy váng cả đầu. Pho tượng vốn dĩ đứng song song với sơn cốc mà hơi lệch tý, lúc này phần gáy đổ nghiêng vừa vặn chống lên vách đá phía Đông. vách đá có rất nhiều hóa thạch của sinh vật cổ lộ ra ngoài, dưới sức nặng của pho tượng, đá tảng nứt vỡ rơi xuống rầm rầm. Pho tượng những tiếp tục phải hứng chịu tấn công dữ dội của dòng nước ngầm, lại còn gánh cả sức nặng đổ nghiêng của chính nó, lung lay như sắp sụp, bất cứ lúc nào cũng có khả năng đổ sập xuống theo vách đá dốc đứng. Tình thế nguy hiểm vô cùng, tôi nóng bừng cả người, mồ hơi vã ra như tắm, vả lại khí trở nên ô trọc, xung quanh sương khói mù mịt ẩm ướt... đúng, phải là sương khói, mà là hơi nước, dung nham trong lòng đất bùng lên, nước hồ xối xuống, bị đun sôi sục, nếu lỡ rơi xuống đó mẹ kiếp, có khác quái gì con lợn luộc, giở giở lại cái là chín ngay. Shirley Dương giơ ngón tay lên chỉ: "Mọi người nhìn kìa! Đầu kia là gì vậy?" Tôi nhìn theo hương ngón tay , tuy hơi nước mờ mịt khắp nơi, nhưng ở khoảng cách rất gần nên có thể nhìn thấy thấp thoáng phía bên kia có cái bóng trắng vắt ngang giữa hai vách đá dốc đứng trong sơn cốc. Sơn cốc này vốn dĩ đen ngòm, nhưng những dòng dung nham từ kẽ nứt vách đá bên dưới chảy ra sáng bừng sắc đỏ sậm hắt lên. Tôi gắng sức mở to mắt nhìn cho , nhưng càng cố nhìn càng mờ, như như đó là cây cầu trắng bắc vách núi. Tuy điều này rất khó xảy ra, nhưng thôi mặc kệ hết , lũ rắn bị hơi nóng hun cho sắp điên hết cả, trong chốc lát thôi bò lên khắp đỉnh đầu pho tượng, mặc kệ đầu kia là thứ gì, cứ leo qua đó rồi hẵng tính, bằng chỉ lát nữa thôi, chết vì rắn cắn cũng chết vì bị luộc chín. Chúng tôi vịn vào bức tường đổ gãy đỉnh đầu pho tượng, lần tới phía trước quan sát. Hóa ra ở chỗ tiếp giáp giữa đầu và vai pho tượng với vách đá có bộ xương sống hóa thạch khổng lồ, cột sống dài và hai đầu xương lồng ngực uốn cong găm vào vách núi, ở giữa có đốt xương dài lủng lẳng giữa chừng . Pho tượng đè lên khiến vách đá ngừng sụt xuống, trông chừng sắp đổ, tôi vội vẫy mọi người mau chóng leo lên phía bộ xương hóa thạch, rồi đẩy luôn Shirley Dương và Minh Thúc lên trước. Tay A Hương bị trọng thương mà bắt bé leo lên bộ xương lửng lơ giữa trời là điều thể, buộc phải có người cõng mới được. Tuyền béo lại sợ độ cao, nếu để cậu ta cõng A Hương, có khi cả hai người cùng rớt xuống dưới, thôi tôi đành cõng bé, đồng tời dùng dây thắt nút khóa chặt lại vậy. Sau khi chuẩn bị xong, tôi liền thúc Tuyền béo leo mau lên. Tuyền béo quay lại thấy lũ rắn độc ùn ùn lao ra, phía dưới lại có dòng nước sôi sùng sục, chết kiểu nào cũng lấy làm dễ chịu, đành hạ quyết tâm, nghiến răng nhắm mắt bám vào bộ xương hóa thạch leo lên. Tôi cõng A Hương leo lên sau cùng, quay đầu lại quan sát lượt, con rắn lớn lòng thong dãi đỏ đè lên những con khác để trườn lên tầng chóp. ra bầy rắn chần chừ dám đùn lên là bởi chúng đều muốn tránh hơi nước nóng bốc ngùn ngụt ở dưới, cuối cùng con rắn đầu đàn cũng tranh bò lên trước. Tôi giơ súng bóp cò đắn đo, bắn hết năm phát đạn còn lại, trong tình thế hỗn loạn cũng chẳng có giờ để ý xem bắn trúng hay , tiện tay ném luôn súng rồi leo lên khung xương hóa thạch trắng ởn. Vừa leo lên tôi có cảm giác bộ xương này hề chắc chắn, phía dưới những con sóng nước nóng cuộn chảy, vừa leo thân hình vừa lắc lư run rẩy, dường như chỉ hơi dùng sức chút, bộ xương có thể rã tan bất cứ lúc nào. Năm người cùng bò lên lúc quả thực có hơi quá nhiều, nhưng quá muộn, thể nào bò lên lần lượt từng người nữa. Tôi đành bảo A Hương nhắm mắt, đừng nhìn xuống dưới, ngay bản thân tôi cũng cảm thấy hoa mắt, đành nghiến răng lại, nghĩ bất cứ điều gì nữa, cứ cắm đầu cắm cổ bò tới. Bộ xương hóa thạch khổng lồ hình như găm vào trong khe núi chạy vắt ngang. Tôi thấy chỗ này rất quen, có vẻ như chính là nơi chúng tôi nhìn thấy bầy địa quan trắng xuất rồi biến mất, ý nghĩ này chỉ thoáng vụt qua trong đầu. Tuyền béo ở phía dưới di chuyển chậm chạp, tôi ở phía sau lại dám đẩy, nhưng làn hơi nóng bốc lên ngùn ngụt cùng bộ xương hóa thạch lỏng lẻo dường như vượt qua ngưỡng chịu đựng tâm lý của mọi người. lúc hơi nước bắt đầu yếu đần, nước hồ chắc chảy xuống gần hết, mồm miệng tôi khô rát, đầu óc cũng mụ mị, hoàn toàn ở trong trạng thái quán tính của ý thức, cứ thế bò theo từng đốt bộ xương khổng lồ. Bỗng nhiên nghe thấy tiếng súng nổ vang phía trước, tôi sực tỉnh khỏi cơn hoang mang, ngẩng đầu nhìn. Shirley Dương giương súng bắn những cái bóng trắng. ra lúc chúng tôi sắp dịch chuyển về phía kẽ núi vắt ngang, bọn địa quan chui ra khỏi hang, lũ lượt tới gặm bộ xương hóa thạch, có lẽ chúng lo bầy rắn bò qua. Tiếng sung khiến bầy địa quan rối loạn, khá nhiều con rớt từ vách đá xuống, những con còn lại chết cũng chuồn hết vào hang đá mất tăm mất tích. Shirley Dương và Minh Thúc lần lượt leo vào trong kẽ nứt tương đối an toàn vách đá, Tuyền béo còn cách đó quãng, tôi bị kẹt phía sau cậu ta, muốn nhanh cũng nhanh được. Bỗng dưng sau lưng tôi vang "rầm" tiếng, pho tượng khổng lồ cuối cùng cũng đổ sập, làm bắn lên vô số bọt nước bỏng giãy, bộ xương hóa thạch cũng súyt chút nữa là bung ra. Chợt thấy Shirley Dương đứng đối diện liên tục vẫy tay ra hiệu cho chúng tôi. Tôi quay đầu lại nhìn, giật mình kinh hãi súyt lỏng tay ngã xuống. Con rắn lớn máu me đầy mình từ trong đống đổ nát bò lên bộ xương hóa thạch, ngoài ra còn có mấy con rắn đen nữa, nhưng con rắn to kia dường như bị điên, nó cắn chết mấy con đứng chặn trước mặt, hất xuống dưới, trường lên nhanh như cơn lốc màu đen. Shirley Dương định nổ súng tiếp ứng, nhưng góc đứng thuận, thể bắn trúng nó được. Tôi thể réo giục Tuyền béo, song cậu ta lại run lẩy bẩy, bò chậm hơn rùa. Con rắn sắp bò tới nơi. Tôi thấy khẩu súng giắt sau thắt lưng Tuyền béo, liền rút luôn ra. Súng ống lên sẵn đạn, tôi định xoay người lại bắn, song vì lưng lại cõng A Hương, động đậy rất dễ mất trọng tâm, đành tay víu chặt thắt lưng của Tuyền béo, cõng A Hương đeo mình lủng lẳng giữa lưng chừng , tay còn lại bóp cò nổ súng, bắn liền mấy phát. Con rắn sắp bò tới nơi bị đạn bắn trúng bụng, cái đuôi quấn vào khung xương rời ra, trượt rơi xuống hẻm núi. Cánh tay túm Tuyền béo vừa tê vừa mỏi, tôi vội quăng súng , dùng hai tay giữ chặt sợi thắt lưng của Tuyền béo. Tuyền béo bị sức nặng của tôi và A Hương kéo xuống, súyt sùi bọt mép, đột nhiên hiểu lấy đâu ra sức lực vô cùng, cứ như vậy lôi hai người treo lủng lẳng, từng bước leo lên rìa đá. Shirley Dương ở phía đối diện cũng kịp thời tiếp ứng. Tôi cõng A Hương leo lên rìa núi, rồi nằm sấp bên cạnh Tuyền béo, ngoài thở hồng hộc, chẳng thể nhúc nhích động đậy gì nữa. Còn A Hương bị hơi nóng hun cho oặt oẹo cả ra. Nằm lúc lâu, Tuyền béo mới lật người, nhả ra câu: "Đây là xương hóa thạch của con gì thế... Mẹ kiếp, rắn chắc quá cơ!" Khắp người tôi rệu rã, từng đốt xương đau nhưng nhức, lúc lâu sau mới hồi lại, vừa rồi quả là nguy hiểm quá, ngờ có thể sống sót mà rời khỏi pho tượng thần. Minh Thúc : "Tuy chúng ta tránh được cả kiếp nạn thủy hỏa rồi, nhưng giờ lại gặp kiếp nạn thổ này, vách đá này dưới cách nhau quá xa, mà ta có phải là khỉ đâu, chôn chân ở đây cũng có khác nào chờ chết?" Tôi : " hẳn, sau khi nhìn thấy bầy địa quan , tôi dã nghĩ ngay tới cách thoát thân, chỉ có điều chúng ta lúc đó thể mọc cánh bay sang đây được, thê nên tôi cũng dập tắt ý nghĩ ấy luôn. Nhưng cuối cùng lại gặp nước và sống sót, vớ vẩn thế nào lại đến được nơi đây, chỗ này chắc chắn có đường trở về đấy. Bọn địa quan ưa nơi ấm áp, sợ lạnh, giỏi đào hang, bất kể là đất hay đá đều thể ngăn được chúng, vả lại bọn này chỉ hoạt đồng ở dưới đất, phạm vi của chúng phần nhiều là ở những khu vực có nhiều suối nước nóng, hang là để vận chuyển thức ăn nên thường đào rất rộng. Tuyền béo chui vào cũng chẳng vấn đề gì, chúng ta có thể thoát ra theo đường ấy." Minh Thúc nghe vậy cả mừng: "Vừa nãy tuy thấy ở đây có số hang động, nhưng bên trong lại chia thành hàng ngàn hàng vạn hang ốc, cứ như mê cung ấy, dẫu có kim chỉ Nam, vào trong đó thế nào cũng bị lệch hướng, thể thoát ra được, lẽ nào chú Nhất lại có thể tìm được đường ra?" Tôi còn chưa kịp đáp, nghe Tuyền béo cướp lời: "Ở những chốn thâm sơn cùng cốc mà bọn tôi ngày xưa phải cải tạo ấy, có biết bao nhiêu hang hốc do bọn địa quan này đào ra. Vì hàng của bọn chúng rộng nên lũ chó săn thích nhất là chui vào bắt địa quan ăn cho đỡ thèm, mấy năm gần đây chắc là bắt xơi hết rồi. Những hang này đều được đào từ ngoài vào trong, loài động vật này có thói quen như vậy, bác cứ nhìn cái vết móng tay tam giác vách hang là có thể đoán được hướng của hang, nhưng mặc kệ , càng chú đến phương hướng lại càng dễ lạc đường ấy chứ." có đường thoát rồi, mọi người đều chần chừ thêm, liền chui vào trong "hang quan " giống như mê cung, dần dần dốc lên cao, giữa đường có đói tóm mấy con địa quan ăn thịt, lần mò trong hang độ chừng nửa ngày, cuối cùng cũng chui ra khỏi mê cung dưới lòng đất. Bên ngoài ánh sao lấp lánh, là giữa đêm, chúng tôi nhận thấy nơi đây nằm trong sơn cốc, địa thế cao lắm. Xa xa bóng núi mông lung, tiếng suối rừng thê lương quá độ, giữa những vách núi dốc đứng chỉ có dải trời vắt qua như sợi chỉ, tựa như sơn cốc dưới lòng đất được chuyển lên này vậy. Địa hình ở đây chật hẹp hơn, oi bức hơn, nhưng lại khiến người ta có cảm giác như từng bắt gặp nơi tương tự ở đâu đó rồi. mặt đất rải rác những bộ xương thú hoang trắng ởn. Mọi người nhìn xung quanh, còn phán đoán xem đây là chỗ nào, tôi đột nhiên sực nghĩ ra, đây chính là trong hai rãnh tuẫn táng, là Tàng cốt câu thứ hai, chúng tôi chỉ cần thẳng mạch về phía Tây, là có thể tập hợp với đoàn bò Yak ở lều rồi.